Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Chính trị – Xã hội Luật Pháp bảo vệ ai? dân hay chính quyền (RFA) —Nông nghiệp sẽ có nhiều thay đổi (RFA) —“Xuân Này Con Không Về” và Nhạc sĩ Nhật Ngân (RFA) —Phòng Tư pháp cấp huyện được chứng thực giấy tờ, văn bản song ngữ (PL) –Điều trị bốn ca nghi nhiễm não mô cầu (PL) —Bệnh nhiễm não mô cầu lan nhanh (TNO) “Xã hội đen” được giao quản lý đầm ông Vươn? (TN) – Theo thông tin từ người dân xung quanh, ngay sau khi ông Đoàn Văn Vươn bị bắt, nhiều tay anh chị giang hồ đã đứng ra tiếp quản khu đầm –Vụ thu hồi đất ở Tiên Lãng – Hải Phòng: Có bàn tay của giang hồ? (NLĐ) theo nền “văn minh” hiện nay nên gọi “quần chúng tự phát” cho nó phù hợp. —Vụ cưỡng chế tại Hải Phòng: Nhiều tay giang hồ có mặt tại khu đầm - Pháp luật TPHCM/BM —Cưỡng chế ở Hải Phòng: Phẫn nộ việc gia đình ông Vươn không có quà… - - (GDVN/ BM) – ‘Người tử tù còn được quà Tết, vậy mà, chính quyền địa phương lấy lý do hộ ông Vươn không có hộ khẩu để không thăm hỏi, hỗ trợ Tết, có phải chăng…?’. —Ông Đoàn Văn Vươn từng được bồi thường TP – Câu chuyện sau vụ cưỡng chế thu hồi diện tích ao, đầm ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng có thêm những diễn biến mới. —Ai phá nhà ông Vươn? (TT) —Lập đoàn thanh tra đất đai ở Tiên Lãng SGTT.VN – Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên – môi trường) cho biết Bộ Tài nguyên – môi trường đã quyết định lập đoàn thanh tra, kiểm tra để làm rõ các vấn đề liên quan vụ cưỡng chế đất đai ở Tiên Lãng. Vụ rút ruột, pha chế xăng dầu: Không để “chìm xuồng”! (TN) -Quyền lợi của người tiêu dùng bị bỏ qua khi mà việc xử lý trách nhiệm vụ rút ruột, pha chế xăng dầu vẫn chưa có tiến triển đáng kể. Cải cách hành dân (TN) —Bao giờ hết “chạy dự án”?! (TVN) —Bệnh viện quá tải nặng sau kì nghỉ Tết (VNN) —Việt Nam: Đừng lỡ nhịp phục hồi của kinh tế thế giới (VEF) Nguyễn Cao Kỳ thoát chết, đồng bọn bỏ mạng (VTC News) – Đáng lẽ hôm ấy Nguyễn Cao Kỳ phải lái máy bay ra Bắc thả dù, nhưng ông đã khéo léo đùn cho phi đội khác. —Phát hiện dấu hiệu cổ sóng thần tại tỉnh Nghệ An – Vietnam Plus /BM Bị cách chức nếu không kiểm soát được TNGT (RFA) —-Phó vụ trưởng Bộ Tài chính bị truy nã vì tội lừa đảo (RFA) –Cán bộ ngân hàng “đốt” 45 tỷ đồng vào cá độ (Tienphong) —Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ công du Việt Nam, Nam Triều Tiên, Campuchia (VOA) –Thăm nhà cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (BBC) – tin cũ Tết 2009 đăng lại Đà Nẵng bắt đầu siết nhập cư tại 2 quận trung tâm (TP) —Ngày mai 1-2: Hà Nội đổi giờ học, giờ làm (TP) —Quốc gia biển phải có công dân biển (SGTT) —Sửa luật để giao đất nông nghiệp lâu dài (TT) Những người trẻ dưới mái ấm YP SGTT Xuân 2012 – Những nhóm thiện nguyện hướng tới cộng đồng hiện nay đang phát triển tư duy không nhanh, nhưng là những hình mẫu mới để bù sớt những cái ác, những vụ lợi bất chấp đạo lý đang hoành hành… Tuyển công nhân lương 4-7 triệu đồng/tháng (TT) Kinh tế Tháp điện gió Việt Nam xuất qua Mỹ bị vạ lây vì dính đến Trung Quốc (RFI) —Bắt vụ vận chuyển 10 kg vàng lậu (PL) —Tuần này, NHNN sẽ hút về hơn 80.000 tỉ đồng từ NHTM (PL) —40 triệu thẻ chỉ để rút tiền mặt (NLĐ) Vietnam Plus /BM – Giá thực phẩm tại Hà Nội tiếp tục tăng từ 15-20% Kinh tế Việt Nam có nhiều dấu hiệu tích cực cho 2012 (RFA) –Thủy sản Việt Nam đối mặt nhiều cảnh báo (RFA) –Lạc quan thị trường chứng khoán 2012 (RFA) —-Bộ trưởng Vương Đình Huệ: Chứng khoán sẽ phát triển (TT) –Lãi suất huy động có thể còn 10%/năm (TT) Văn hóa – Giáo dục Cử hàng ngàn giảng viên sang Malaysia tu nghiệp (RFA) –Đưa đại học vào nề nếp (TP) –Nhiều học sinh thiếu kỹ năng tiêu tiền (TP) Kiến trúc Sài Gòn xưa qua lời kể SGTT.VN – Có mặt ở Việt Nam từ cả trăm năm, nên người Pháp nghiên cứu khí hậu, môi trường, thông hiểu nắng – gió – mưa nên khi xây dựng họ đã đưa ra hình thái kiến trúc tối ưu dành cho xứ nhiệt đới… Thế giới Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton Hoa Kỳ: Hội Đồng Bảo An phải can thiệp vì bạo động leo thang ở Syria (VOA) -Ngoại trưởng Clinton nói Hoa kỳ mạnh mẽ lên án những cuộc tấn công tàn bạo của chính phủ Syria làm hàng trăm thường dân thiệt mạng Binh sĩ Syria giành lại quyền kiểm soát một số vùng ngoại ô Damascus (VOA) —Syria quy lỗi cho ‘khủng bố’ về vụ nổ ống dẫn khí đốt (VOA) —Thủ tướng Putin kêu gọi xây dựng một nền kinh tế mới (VOA) —Na Uy kết án hai người âm mưu khủng bố (VOA) Trung Quốc phản đối Nhật Bản đặt tên các đảo tranh chấp (VOA) —Liệu dân chủ hóa có thể diễn ra ở Trung Quốc ? (RFI) —Giới chức Tây Tạng lưu vong lên án bạo lực nhắm vào người biểu tình (VOA) —Trung Quốc quyết ‘chống lưng’ Triều Tiên - Báo Đất Việt/BM —Triều Tiên sắp tập trận lớn chưa từng có (DV) Thượng đỉnh châu Âu: Bruxelles kêu gọi thúc đẩy tăng trưởng (RFI) —Hungary: Dư luận xôn xao về tin đồn tổng thống “đạo văn” (RFI) —ĐCS Cuba thông qua các cải cách quan trọng (RFI) –Úc tăng cường phòng thủ mạn bắc (TN) —Năm 2060, dân số Nhật Bản sẽ giảm 1/3 (DV) Hội nghị thượng đỉnh an toàn hạt nhân sẽ diễn ra tại Nam Hàn (RFA) –Miến Điện cam kết dân chủ hóa đất nước (RFA) —Indonesia hiện đại hóa quân đội (RFA) —Liên Đoàn Arab cố gắng tìm giải pháp cho Syria (RFA) —-Kết quả thăm dò cho thấy ông Romney sẽ thắng lớn ở Florida (VOA) –Trung Quốc thất bại trong vụ kháng cáo tại WTO (VOA) Công dân Mỹ ở Ai Cập đến Sứ quán Mỹ trú ẩn (VOA) —Lãnh đạo EU chấp nhận kế hoạch cứu nguy lớn hơn (VOA) –Rét bất thường ở Đông Âu, ít nhất 24 người chết (TP) Trung Quốc đưa hàng nghìn cảnh sát tới Tân Cương SGTT.VN – 8.000 cảnh sát sẽ được điều động tới tuần tra các khu vực nông thôn ở khu tự trị Tân Cương, Tây Bắc Trung Quốc, do lo ngại về chủ nghĩa cực đoan tôn giáo tại khu tự trị có nhiều người Hồi giáo sinh sống này. Biển Hoa Đông căng thẳng (TT) Thiếu úy công an bị đánh khi làm nhiệm vụ (PL) —Không trả được hàng, chém người giữa chợ (PL) —-Đánh người sau đám cưới (PL) —Bị nghi trộm, vác dao chém đứt tai anh họ (PL) —Tưởng công an là đồng phạm! (PL) –Nổ súng bắt đá gà, một người dính đạn (NLĐ) Khai trừ đảng Phó chánh văn phòng Sở GTVT (TP) —Mang súng, ma túy dạo phố (TP) —Vừa ra tù, lại gây họa cho gia đình (TP) –Một công an viên bị đánh trọng thương (TP) Quán thoát y (TT) Cảnh thác loạn tại quán Mai Trinh II, Q.Bình Tân, TP.HCM – Ảnh chụp từ video clip Điều tra nhanh các vụ nổ có tính chất khủng bố (TT) –Thêm 2 cơ sở bị tước giấy phép do xăng dỏm (TT) Tàu Trung Quốc lại giở trò khiêu khích bao vây Đảo vào sáng mồng một Tết Lính Việt (Dân Luận) – Sáng mồng một Tết Nhâm Thìn, tàu Trung Quốc lại giở trò khiêu khích bao vây đảo ở khoảng cách 08 hải lý (15 km), lại phải căng người ra trực chiến. Có lúc, chúng lao xuồng đến rất gần mép đảo. Anh em ta cảnh giác sẵn sàng chiến đấu nhưng bình tĩnh không mắc mưu khiêu khích của địch (ngày Tết còn giở trò dọa dẫm tấn công nhau thì điếu thể nào gọi là bạn). * * * Đến mãi chiều, tình hình mới tạm yên, mới quay lại ăn Tết. So với trước Tết Dương lịch, tinh thần anh em không còn được như trước nữa, bởi tác động của vụ ông Vươn Tiên Lãng và mấy vụ các ông bà lãnh đạo luôn luôn không ngừng nâng con nhét cháu kế cận chiếm chức giành ngôi.“Chiến đấu để làm gì, hy sinh cho ai?” là câu nhiều anh em nhắc đi nhắc lại nhiều lần, “thời trai trẻ đi bộ đội, tuổi vững vàng thì hết mình khai hoang lẫn biển để đến vãn niên bị cướp sạch, phá sạch”, “thời ông Vươn đi bộ đội bảo vệ tổ quốc, thằng Hiền chủ tịch, thằng Thoại phó chủ tịch chúng nó ở đâu?”, “điếu mịa, chịu khó chịu khổ để chúng nó cướp phá tài sản, sắp xếp con cháu đè đầu cưỡi cổ mình như Triều Tiên ấy” … và còn rất nhiều những câu anh em nói ra với vẻ ưu tư có, chán nản có, bất bình có. Cán bộ chính trị quán triệt “không được bàn tán lung tung, việc quốc gia đại sự đã có nhà nước lo”và cảnh báo “ca ngợi bọn Vươn, Quý có ngày chết vì vạ miệng đấy”. Anh em vặc lại “thế bây giờ căng thế này có phải đại sự không, có thấy thằng lãnh đạo nào lên tiếng chia sẻ khó khăn, nguy hiểm, động viên anh em không?”, “thích thú cùng nhau xem và ca ngợi những nhân vật trong Thủy Hử, thế thì tại sao lại không thể cùng nhau thích thú bình luận về chuyện cựu chiến binh Tiên Lãng tổ chức dân ta bắn gục quân mình một cách vô cùng ngoạn mục!”. Ngày Tết nơi chiến tuyến xa gia đình, cán bộ chỉ huy cũng có vẻ thông cảm hơn, ngày thường mà nói văng mạng công khai thế chắc là ăn kỷ luật. Được anh em động viên, yêu cầu, lại có hơi men rượu Tết, làm mấy vần thơ tặng anh Quý, anh Vươn: Vũ khí thô sơ giữ đồng khoang Lực yếu thế cô vẫn đùng đoàng Công an, bộ đội phơi bụng trắng Anh hùng Tiên Lãng đất Vinh Quang * * * Sớm muộn gì thì xung đột Việt – Trung cũng sẽ xảy ra, qui mô nếu mà không to thì cũng không thể nhỏ. Trong tình thế như giờ mà không ổn định được lòng dân, không kiên quyết trừng trị quan tham lại nhũng cố ý làm xằng, quyết tâm chối tội, trắng trợn cướp của giết dân thì lấy ai bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ đây? Đại loạn đến nơi rồi. Lính Việt http://danluan.org/node/11481 Người trí thức đưa đất nước đi lên Nguyễn Quang Duy – Hoa Kỳ luôn giữ vai trò cường quốc số một thế giới là nhờ đã đặt giá trị của con người đúng mức. Nhất là giá trị những người trí thức. Về lý thuyết Hoa Kỳ có cả một trường phái kinh tế học ra đời vào những năm 1980, chứng minh được tăng trưởng và phát triển quốc gia tùy thuộc vào tri thức (new growth theory). Dựa vào lý thuyết và thực tiễn chứng minh được, người theo trường phái này hướng đến những chính sách xây dựng môi trường phát huy và tận dụng những tài sản trí tuệ nhân lọai. Họ cổ vũ việc các quốc gia muốn phát triển cần tôn trọng nhân quyền, dân chủ, tự do và khuyến khích một thế giới tự do trên mạng tòan cầu. Việt Nam Tồn Tại Trong Suy Thóai – Chết Lâm Sàng Gần đây diễn đàn BBC mở ra một cuộc tranh luận về vai trò của những người trí thức trong hòan cảnh Việt Nam hiện nay. Một hòan cảnh mà ông Nguyễn Phú Trọng phải công khai bàn đến việc chỉnh đốn đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tránh sụp đổ. Còn ông Lê Khả Phiêu diễn tả “Đảng tồn tại trong suy thoái”. Đảng Cộng sản lại là đảng cầm quyền vì thế đất nước cũng luôn trong cùng một tình trạng: tồn tại trong suy thóai. Theo cách nói của Giáo Sư Ngô Bảo Châu là Việt Nam đang chết lâm sàng. Trí Thức Ta – Trí Thức Nô Lệ Mồng một Tết, trên diễn đàn BBC nhà văn Võ thị Hào lập luận lịch sử Việt Nam là lịch sử của những người nô lệ. Ngày nay đại đa số người làm việc bằng trí óc chỉ vì miếng ăn ngon. Họ vẫn là những người nô lệ. Bà Hào cho rằng trí thức như bộ não của xã hội. Nếu xã hội không có trí thức thì cũng như con người không có bộ não. Nói theo kiểu của nhà văn Phạm thị Hòai thì độ cao trí tuệ của người trí thức Việt Nam chỉ tính từ cái cổ trở xuống. Đó chính là lý do Việt Nam vẫn thua xa các nước trong vùng. Thợ Văn, Thợ Báo, Thợ Vẽ, Thợ Thơ, Thợ Dạy, Thợ Nhạc … Cũng ngày đầu năm được nhà văn Phạm thị Hòai phỏng vấn, nhà báo Lê Phú Khải diễn tả trí thức Việt Nam ra hình hài “người” hơn. Ông Khải cho biết: “Theo tôi thì ở Việt Nam, trừ một số ít trí thức có tư duy độc lập còn thì không có đội ngũ trí thức đúng với tên gọi, đúng với nội hàm của nó. Cái gọi là tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa là những người do Đảng đào tạo nên để làm công chức cho Đảng. Vì thế Đảng nói gì họ nghe nấy, Đảng bảo sao họ làm vậy, vậy thôi.” Những công chức của “Đảng” bao gồm nhà văn, nhà báo, giáo sư, họa sỹ, nhạc sỹ … nghĩ cho cùng chỉ là thợ viết văn, thợ viết báo, thợ dạy, thơ vẽ, thợ viết nhạc, thợ làm thơ … không hơn không kém. Việt Nam chỉ là một cơ xưởng “sáng tác”. Họ sáng tác theo mệnh lệnh của “Đảng” và nhằm phục vụ “Đảng”. Lẽ đương nhiên khi làm người, ai cũng muốn vươn lên, nhưng chính cái hệ thống của “Đảng” đã không tạo cơ hội hay cho phép họ trở thành người trí thức. Khi đảng Cộng sản không còn tư tưởng để bám víu, không còn quyền lực để ban hành mệnh lệnh, tầng lớp công chức “Đảng” trở nên tê liệt, ù lỳ, thiếu khả năng “sáng tác” và trở thành gánh nặng xã hội. Xã hội lâm vào tình trạng chết lâm sàng. Trí Thức Tây – Những Con Người Tự Do Trong khi những người thuộc thế hệ trước hết sức bi quan, được báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần phỏng vấn Giáo sư Ngô Bảo Châu cho biết “vẫn đầy niềm tin tương lai”. Được hỏi về vai trò của trí thức ông Bảo Châu cho biết: “Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.” Cách suy nghĩ của Giáo sư Bảo Châu là cách suy nghĩ của một người được đào tạo và làm việc trong môi trường Khoa Học thực nghiệm Tóan Tây Phương. Tạm gọi là Trí Thức Tây. Phương cách giáo dục thực nghiệm của Tây Phương đào tạo những con người biết suy nghĩ, tự tìm và tự giải quyết vấn đề một cách thuần lý. Từ đó, xã hội đánh giá sự đóng góp của cá nhân qua những thành quả có thể đo lường được. Những công trình được phổ biến trên các tạp chí các diễn đàn chuyên môn. Những bằng sáng chế được quốc tế công nhận. Những sản phẩm cả tinh thần lẫn vật chất nhằm phục vụ cho nhân quần xã hội. Từ phương cách giáo dục thực nghiệm những người làm chuyên môn đều tích cực tranh luận trên các lãnh vực chuyên môn nhằm tìm ra sự thực hay phát hiện những điều mới mẻ. Kiến thức của họ truyền đạt, chuyển hóa, tích lũy và biến thành kiến thức chung của nhân lọai. Ảnh hưởng và uy tín của họ phát xuất từ khả năng chuyên môn mà họ truyền đạt và đóng góp cho xã hội. Trường hợp của Giáo sư Bảo Châu là cụ thể và rõ ràng nhất. Vì làm việc trong một môi trường xã hội hòan tòan tự do và những đóng góp đều được xã hội tôn trọng đúng mức, những người làm chuyên môn Tây Phương thường rất ít tham gia vào những cuộc tranh luận về chính trị hay chính sách. Nói đúng ra họ ít có cơ hội để cất tiếng phê phán chính sách của các chính phủ do dân chúng bầu ra. Những Con Số Biết Nói Theo thống kê, trong 5 năm 2006-2010, số bằng sáng chế được quốc tế công nhận đứng đầu là Mỹ với 1.000.900 bằng, đứng thứ 2 là Nhật Bản 197.075 bằng. Trong khi ấy Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế, thấp hơn nhiều so với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á. Điều oái oan là riêng tại Hoa Kỳ ước tính có khoảng hơn 280 nhà phát minh người Mỹ gốc Việt được cấp bằng sáng chế, chỉ riêng Tiến sỹ Đoàn Trung đóng góp 72 bằng. Có thể vì nhận ra điều này giáo sư Ngô Bảo Châu quyết định về Việt Nam mỗi năm 3 tháng điều hành Viện Toán Cao Cấp. Giáo sư Bảo Châu cho biết: “hiện nay tỷ lệ giảng viên toán có trình độ tiến sỹ chỉ là một con số rất nhỏ, quan trọng hơn tỷ lệ giảng viên toán có các công trình nghiên cứu khoa học theo chuẩn quốc tế nào đó lại là một con số vô cùng nhỏ.” Thực trạng khoa học nêu trên là do đảng Cộng sản luôn tự cao tự đại cho rằng họ là đỉnh cao của trí tuệ lòai người, do phương cách điều hành “hồng hơn chuyên”, và nhất là do thiếu hẳn một môi trường tự do cho sáng tạo. Hành Động Theo Cừu Ở Tây Phương người khoa bản khi được thụ phong giáo sư đòi hỏi phải có ý kiến về các chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến chuyên ngành và đến xã hội. Họ thường là tiếng nói của Viện Đại Học họ đang làm và phải sẵn sàng để nhận lãnh vai trò cố vấn cho chính phủ khi được mời. Trong khi ấy giáo sư Châu lại cho rằng người trí thức “không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.” và xác nhận “Nói đến chuyện thay đổi chính sách là tôi lại băn khoăn. Hình như cái mà ta làm cho đến nay là thấy cái gì chưa ổn thì ta sửa lại, sắp xếp lại, mà ít để ý đến sự vận động tự nhiên của cuộc sống.” Giáo sư Bảo Châu đã nhận ra cái hệ thống mà giáo sư đang phục vụ, vận động phản tự nhiên, nói theo từ chính trị là “phản động”. Đương nhiên ông phải biết thực trạng Việt Nam không có một môi trường sinh họat tự do. Đảng Cộng sản luôn ôm đồm lãnh đạo mọi thứ. Buồn thay giáo sư Châu lại cho rằng những người trí thức như ông không có vai trò để đưa ra một hướng đi cụ thể nhằm xây dựng một xã hội, một nền khoa học tự do cho Việt Nam. Ông đơn thuần làm khoa học. Giáo sư còn cho biết “những khó khăn mang tính chất hành chính thì vẫn muôn hình vạn vẻ, nhưng tôi hi vọng giai đoạn này cũng sẽ chóng kết thúc để năng lượng được dồn vào những việc thật sự bổ ích là làm khoa học.” Ngừơi viết cũng chưa bao giờ thấy các giáo sư tại Úc than phiền như trên. Tại Úc, người khoa bản đều biết tự trọng không luồn lách qua nhưng thủ tục nhiêu khê cho được việc. Ngược lại họ là những người luôn công khai đóng góp những phương cách để tháo gỡ những bế tắc hành chánh khi có chuyện xẩy ra. Với họ đây cũng chính là những đóng góp thực sự cho sự thăng tiến xã hội. Mặc dù cho rằng người trí thức “không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.”, Giáo sư Châu quan niệm: “… cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng.” Xã hội chết lâm sàng cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam tồn tại trong suy thóai. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi có nhận xét như sau: “Giáo sư Ngô Bảo Châu cũng đã nói đến cái phần sau là nếu không có phản biện thì xã hội chết lâm sàng. Nhưng trách nhiệm của cái xã hội chết lâm sàng ấy không đặt vào vai của trí thức thì đặt vào vai ai”. Người trí thức làm việc bằng lý và được đào tạo để làm sáng tỏ vấn đề nên khi họ phê phán hay tranh luận dễ thuyết phục người nghe. Vì thế công việc phê phán chính yếu là công việc của người trí thức. Mâu thuẫn trong lời nói dễ dẫn đến mâu thuẫn trong hành động. Trước đây giáo sư Châu cho rằng “…bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do.” Thế nhưng nếu người tự do khi sống giữa những người nô lệ lại không có tiếng nói hướng dẫn người nô lệ đứng lên đòi quyền tự do, thì có khác chăng người tự do sống giữa đàn cừu lại hành động theo cừu. Theo cách nói ông bà ta “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Những Câu Hỏi Cho Giáo Sư Bảo Châu Ở Tây Phương trong vai trò giáo sư và giám đốc Viện Toán Cao Cấp, Giáo sư Bảo Châu phải trả lời những câu hỏi về các chính sách của chính phủ, có ảnh hưởng đến Viện ông điều hành và đến chuyên ngành Tóan Học. Nhất là khi Viện Tóan Cao Cấp vừa được thành lập với kinh phí 650 tỷ đồng hơn 30 triệu Mỹ Kim. Tiến sỹ Vũ Duy Mẫn (United Nation New York) có một số câu hỏi như sau: Liệu toán học có phải là ngành cần đầu tư phát triển nhất ở Việt Nam? Khoa học xã hội, nông nghiệp hay môi trường có xứng đáng được ưu tiên phát triển hơn và mang lại nhiều lợi ích trực tiếp hơn cho đất nước ? Việt Nam là nước đang phát triển, còn rất nghèo, có nền toán học chưa tiên tiến. Vậy tại sao lại “hào phóng” đầu tư nghiên cứu toán cao cấp để có thể người được hưởng lợi nhiều chưa chắc đã là Việt Nam? Mục tiêu phấn đấu “đến năm 2020 toán học Việt Nam có thứ hạng thứ 40 trên thế giới” có ý nghĩa gì? và thực chất có đáng để đầu tư hay không? Nhiệm vụ cụ thể và đòi hỏi trách nhiệm giải trình của Viện trước chính phủ là gì? Các câu hỏi nêu trên xuất phát từ bài “Giáo Sư Ngô Bảo Châu tiết lộ ‘bí mật’ của Viện Toán cao cấp” đăng trên báo Giáo duc Việt Nam. Các câu hỏi nêu trên dễ dẫn đến kết luận nhà nước cộng sản đưa tiền thuế của dân cho Viện chỉ để xây dựng một tháp ngà tóan học tại Việt Nam đánh bóng cho đảng Cộng sản. Sống và làm việc tại các quốc gia Tây Phương mọi việc đều minh bạch, nếu Giáo Sư muốn giữ gìn uy tín, Giáo Sư hay ai đó trong Viện phải trả lời rõ ràng các câu hỏi nêu trên. Giáo Sư Bảo Châu Nên ở Phương Tây Cũng vì Việt Nam chưa có một môi trường sinh họat tự do nên tuyệt đại đa số những chuyên gia được đào tạo và làm việc chuyên môn tại Tây Phương đều ngao ngán khi nghĩ đến việc về nước phục vụ dù chỉ là ngắn hạn. Một số rất nhỏ trở về, nhưng lại trở ra với những nỗi thất vọng tràn trề. Những người này thường quan niệm đơn giản không muốn tham gia chính trị, phi chính trị thậm chí không muốn biểu lộ quan điểm chính trị. Thế nhưng khi về Việt Nam họ mới nhận ra chính trị do “Đảng” lãnh đạo bao trùm mọi vấn đề. Người viết trân quý tâm và tài của Giáo sư Bảo Châu. Nhưng qua những việc kể trên và phương cách Giáo sư Bảo Châu giải quyết và ngụy biện, người viết tin rằng giáo sư đã chọn sai đường khi trở lại Việt Nam. Nếu ông ở Hoa Kỳ hay Pháp ông sẽ dành thời giờ qúy báu đóng góp cho khoa học cho nhân lọai thay vì về Việt Nam làm việc. Làm như thế ông được cả nhà cầm quyền cộng sản lẫn dân chúng tôn trọng và lắng nghe hơn. Trí Thức Cổ Hủ – Trùm Chăn Trả lời góp ý của Blogger Bọ Lập (Nguyễn Quang Lập), Giáo sư Ngô Bảo Châu cho biết định nghĩa về trí thức của ông là “ hơi cổ hủ ” giống như trí thức “trùm chăn”. Cũng theo ông vai trò lên tiếng không phải của riêng người trí thức mà là của người nông dân, của người doanh nhân, của mọi người. Điều ông nhận xét hòan tòan đúng trong một môi trường tự do. Ở đó mọi người đều được huấn luyện, có cơ hội, có tự do và bình đẳng như nhau. Tại Việt Nam khác xa người nông dân, người doanh nhân, … thậm chí mọi người mất đi cái quyền được nói. Họ sợ nói khác “Đảng” sẽ bị khép cho các từ “phản động chống Đảng”. Cũng ngày mồng một Tết Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ đưa tin: “Ông Dư Kiệt, Phó Hội trưởng Hội Văn bút Độc lập Trung Quốc, mới đây đã sang Hoa Kỳ tị nạn, cho biết tại một cuộc họp báo ở Washington rằng ông đã bị nhà cầm quyền Trung Quốc tra tấn một cách tàn nhẫn và đe dọa chôn sống.” Thân phận của người trí thức Việt Nam cũng không khác mấy, thậm chí còn tệ hại hơn thân phận của người trí thức Trung Hoa. Vì thế chỉ một thiểu số người có học hàm khôn khéo và can đảm cất tiếng nói. Những người trí thức này được xã hội lắng nghe hơn. Đừng nghĩ rằng họ muốn độc quyền phản biện mà ngược lại họ ao ước thêm người cùng cất tiếng nói, để họ có thể nói mạnh hơn mà lại ít nguy hiểm hơn. Quan sát kỹ tình hình sẽ dễ dàng nhận ra điều này. Bởi thế thay vì về Việt Nam xây dựng một tháp ngà tóan học để đánh bóng cho đảng Cộng sản, không ít người kỳ vọng Giáo sư Châu nên cân bằng nỗ lực để xây dựng một môi trường xã hội và khoa học tự do. Trên báo Sinh viên Việt Nam số Tết, được đăng lại trên blog cá nhân của Giáo sư Bảo Châu, khi được Lê Ngọc Sơn hỏi “Trí thức cần gì nhất, theo Giáo sư?” ông đã trả lời “Tự do”. Không phải chỉ riêng người trí thức cần nhất là tự do, mà mọi người Việt Nam đang cần nhất hai chữ Tự Do. Thế nên khi Giáo Sư Bảo Châu phát biểu tạo ra không ít dư luận đối nghịch là một chuyện bình thường. Điều bất bình thường là nếu Giáo sư Châu không nhận ra vấn đề và tiếp tục tự mâu thuẫn chính mình. Trí Thức Dấn Thân Trái với quan niệm trí thức cổ hũ, Tiến sĩ Jean-Francois Sabouret, một học giả của Pháp chuyên nghiên cứu về các vấn đề châu Á, cũng được BBC phỏng vấn về vai trò của trí thức trong quá trình biến đổi xã hội, ông cho rằng: “người trí thức “không có sự lựa chọn nào khác” ngoài dấn thân và tiếp tục dũng cảm lên tiếng vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và nhân loại, dù là họ ở Pháp, ở Việt Nam hay ở bất cứ đâu.” Ông còn nhận xét “Những người trí thức Việt Nam phải tranh đấu thôi. Họ phải đoàn kết lại. Họ phải xuất bản những tạp chí, những trang web mà tại đó họ phải phản biện, phải có đầu óc phê phán. Đương nhiên điều đó là không đơn giản. Nhưng người ta chỉ có thể bắt bớ một, hay một vài người thôi, chứ làm sao có thể bắt bớ cả một dân tộc được? Điều đó là không thể!” Được đài BBC phỏng vấn về ý kiến nói trên, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện cho biết hiện nay đang là lúc Việt Nam “hơn bao giờ hết” cần đến tiếng nói phản biện xã hội của giới trí thức để giúp cho xã hội chuyển biến “ngày một tốt đẹp.” Ông Diện cho rằng trí thức hiện nay cần phải có hai yếu tố: “Thứ nhất là tinh thần tự nguyện. Tự nguyện tức là tự gánh vác lấy. Không chờ là mình phải có chức vụ; không chờ mình được sai bảo hay phân công thì mới lên tiếng. Và thứ hai, ngoài vấn đề tự nguyện, thì phải có sự dấn thân. Tức là phải tham gia vào việc phản biện xã hội, để cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn lên.” Nô Lệ Tư Tưởng Đầu năm 2006, trên diễn đàn BBC ông Nguyễn Trung cho rằng đang là “thời cơ vàng” để đảng Cộng sản đổi mới. Ông tự đặt câu hỏi “kẻ thù đối với vai trò lãnh đạo của Đảng ta là ai?” Người viết đã góp ý như sau “kẻ thù của đảng Cộng sản chính là chủ nghĩa Mác – Lê”. Cái khó nhất để làm người tự do là phải lột bỏ tư tưởng nô lệ. Chính việc ông Mác đề cao đấu tranh giai cấp và lấy mục tiêu xã hội cộng sản làm tiêu chí cho mọi suy nghĩ và hành động, mà ngày nay đảng Cộng sản mới phải lâm vào tình trạng tồn tại trong suy thóai. Nói theo Giáo sư Bảo Châu là “chết lâm sàng”. Không nhận ra thân phận nô lệ tư tưởng, đảng Cộng sản lại công khai cho rằng tự phê bình và phê bình là đủ để họ trở nên trong sạch hơn và sáng suốt hơn. Lẽ ra họ phải mở rộng phê phán giữa lý thuyết với thực tiễn thì mới dứt bỏ được tư tưởng nô lệ. Không nhận đúng bệnh thì thuốc uống chỉ rút ngắn ngày tàn. Đầu năm nay sống ở hai thế giới khác nhau một cộng sản một tự do, ông Nguyễn Trung và người viết, khi nghĩ về đất nước lại cùng chung những ước mơ (1) Con người tự do; (2) Thể chế chính trị dân chủ; (3) Đất nước có hòa bình ổn định; và (4) Tất cả dựa trên căn bản của một nền giáo dục chân chính. Cùng những ước mơ thế nhưng giữa hai người lại có hai hướng giải quyết khác nhau. Ông Trung kêu gọi khép lại quá khứ. Trong khi người viết lại tin rằng vai trò của người trí thức không những chỉ để tìm ra sự thật hiện tại. Người trí thức Việt Nam còn phải truy tìm, làm sáng tỏ và phổ biến những sự thực lịch sử. Có xây dựng được một lịch sử khách quan trung thực thì vết thương dân tộc mới có cơ may khép lại để chúng ta cùng hướng đến tương lai. Trí Thức Chống “Đảng” Nhà báo Lê Phú Khải còn cho biết cá nhân ông không cần sự lãnh đạo của “Đảng” vì thế đã từ chối vào “Đảng”. Vì Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm dưới sự lãnh đạo toàn diện, triệt để và trực tiếp của “Đảng”. Sự phủ nhận độc quyền lãnh đạo của “Đảng” đồng nghĩa với chống lại nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc chống “Đảng”, chống nhà nước cộng sản ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống cả tinh thần lẫn vật chất. Thậm chí còn ảnh hưởng đến đời con đời cháu người chống “Đảng”. Bởi thế theo người viết những người trí thức dứt khóat không chấp nhận sự lãnh đạo của đảng Cộng sản thật hiếm, thật đáng quý, thật đáng trân trọng. Khi Giáo Sư Trung Hoa Lên Tiếng Cũng lại ngày đầu xuân trong khi giới trí thức Việt Nam đang tranh luận về vai trò của trí thức thì hàng trăm dân Hồng Kông đã tụ tập biểu tình bày tỏ sự phẫn nộ về lời phát ngôn của một giáo sư lục địa gọi họ là con hoang, là đồ chó. Phát xuất từ những va chạm ngôn ngữ, tập quán, pháp lý và văn hóa giữa dân Hồng Kông và dân Lục Địa ngày một gia tăng, Giáo sư Khổng Khánh Đông đã chính thức lên Đài Truyền Hình Trung Ương (V1CN) dùng những ngôn ngữ thô tục nói trên. Điều cần nói là giáo sư Khổng Khánh Đông, đang dạy môn Trung Văn tại Viện đại học Bắc Kinh, ông là cháu đời thứ 73 của Khổng Tử. Khổng Học lại là một môn học đang được nhà cầm quyền Bắc Kinh công khai tài trợ. Các Viện Khổng Học đang mọc lên như nấm để truyền bá Khổng Học theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và mang sắc thái Trung Hoa Cộng sản. Cũng may nền Khổng Học nói trên này vẫn còn rất phôi thai tại Việt Nam vì văn hóa Việt Nam không thể chấp nhận các nhà khoa bản ăn thô nói tục như ông Khổng Khánh Đông. Người viết tự tin không mấy người Việt xem ông ta là người trí thức. Tạm Kết Đầu Xuân Nhâm Thìn rõ ràng các trí thức Việt Nam đang nhập cuộc dấn thân. Họ bao gồm cả những trí thức từ Phương Tây trở về hay những người đã được đào tạo trong hệ thống cộng sản trước đây. Qua cuộc tranh luận về vai trò trí thức chúng ta có thể thấy được sự khác biệt giữa trí thức theo “Đảng” và trí thức chống “Đảng”, giữa trí thức Ta và trí thức Tây, giữa trí thức cổ hủ và trí thức dấn thân. Thật ra còn nhiều lọai trí thức khác. Tìm hiểu, phê phán nhưng tôn trọng lẫn nhau đó chính là điểm son của những người trí thức Việt Nam. Qua đó chúng ta có thể thấy rõ trách nhiệm của người trí thức ngày nay và tương lai có những ưu tiên khác nhau. Người trí thức hôm nay cần nhận vai trò dấn thân xây dựng môi trường tự do để Việt Nam không chết lâm sàng. Người trí thức mai sau lãnh trách nhiệm xây dựng và phát triển quốc gia. Người trí thức Việt Nam như những cánh én báo một mùa xuân về cho dân tộc. Người trí thức đưa đất nước đi lên. Melbourne, Úc Đại Lợi 29/1/2012 Nguyễn Quang Duy gửi Dân Làm Báo danlambaovn.blogspot.com 29000 tiến sĩ đến 2020? Nguyễn Văn Tuấn – Trước đây, có chỉ tiêu đào tạo 20,000 tiến sĩ trong thời gian 2010-2020. Nay lại có thêm chỉ tiêu 29,000 tiến sĩ cho các đại học đến năm 2020. Giáo dục Việt Nam ta lúc nào cũng chạy theo những con số! Nhưng đằng sau những con số đó là những giả định quá lạc quan. Giả định quá lạc quan cũng có nghĩa là những chỉ tiêu đó có thể lại là một giấc mơ đầy lãng mạn. Lượng: khó Ngày 17/6/2010, Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ Tiến sĩ cho các trường ĐH-CĐ giai đoạn 2010-2020”. Đề án này có tổng kinh phí khoảng 700 triệu USD, trong đó khoảng 10,000 tiến sĩ sẽ được đào tạo ở nước ngoài, 3000 đào tạo trong nước. Tôi đã từng phát biểu rằng chỉ tiêu này rất khó thực hiện, vì cơ sở vật chất, vì số nghiên cứu sinh, và thậm chí kinh phí còn quá thấp. Tháng 12/2011 vừa qua, Bộ GD&ĐT trình bày kế hoạch phát triển nguồn nhân lực mới về đào tạo giảng viên đại học. Theo kế hoạch này, VN sẽ đào tạo đủ 29,000 giảng viên là tiến sĩ ở các trường đại học vào năm 2020. Tôi nghĩ chỉ tiêu này càng khó thực hiện. Trong cuốn sách “Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội nhập”, tôi có trình bày thống kê cho thấy hiện nay con số giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ còn thấp. Theo số liệu 2008, trong số 38,217 giảng viên đại học ở Việt Nam, 44% có bằng cử nhân, 40% thạc sĩ, và 15% (tức 5643 người) có bằng tiến sĩ. Để có 29,000 tiến sĩ đến năm 2020, các đại học VN phải có thêm 23,000 ngàn tiến sĩ. Hai mươi ba ngàn tiến sĩ trong vòng 8 năm. Tức là mỗi năm phải đào tạo hay tuyển mộ gần 3000 tiến sĩ! Rất hiếm có nước đang phát triển nào có thể làm một bước nhảy vọt như thế. Ngay cả Thái Lan, hiện nay cũng chỉ có 14,000 tiến sĩ trong các đại học. Nếu như theo những gì Bộ GD&ĐT tin tưởng, thì 8 năm nữa, các đại học VN sẽ có nhiều giảng viên với trình độ tiến sĩ hơn Thái Lan! Phẩm: càng khó hơn Những nhận xét trên là về phần lượng, còn phần phẩm lại càng có nhiều điều đáng bàn hơn. Chắc chắn một số lớn tiến sĩ sẽ được đào tạo trong nước. Nhưng với tình trạng nghiên cứu khoa học còn nhiều bất cập và hạn chế hiện nay, vấn đề chất lượng là điều rất đáng quan tâm. Theo tôi, có 3 vấn đề lớn trong việc đào tạo tiến sĩ (hay nghiên cứu sinh nói chung) ở trong nước: đó là thiếu người hướng dẫn có kinh nghiệm, đề tài thiếu cái mới, thiếu chuẩn mực cho một luận án tiến sĩ. Vì những vấn đề như thế, các luận án tiến sĩ từ VN không được đánh giá cao. Trong cuốn “Việt Nam từ năm 2011” (Nxb Tri Thức 2011) Gs Trần Văn Thọ viết và tôi rất đồng ý: “Những vấn đề lớn của Việt Nam là hiểu chưa đúng về chuẩn mực của luận án tiến sĩ nói riêng và trình độ của người được cấp bằng tiến sĩ nói chung, cơ chế đào tạo quá lỏng lẻo, tiêu chuẩn của giáo sư hướng dẫn không được quy định nghiêm túc, chưa xác lập được cơ chế đánh giá khách quan về luận án tiến sĩ và suy nghĩ sai về ý nghĩa của văn bằng này.” (Trang 286). Đào tạo tiến sĩ một cách nghiêm chỉnh rất khó. Ngoài vấn đề ý tưởng nghiên cứu khoa học, cơ sở vật chất, đến thầy cô đều phải rất sẵn sàng. Tôi cũng có dịp đọc nhiều đề cương và luận án tiến sĩ y khoa trong nước, và cảm nhận chung là chưa thấy một đề cương hay luận án nào thật sự xứng đáng với 8 tiêu chuẩn của một luận án tiến sĩ. Những nghiên cứu (mà thực chất là làm kiểm kê lâm sàng – clinical audit, hoặc cao hơn chút là làm thống kê đếm số) vừa đơn giản, vừa tủn mủn, và “me too”. Vậy mà những dữ liệu như thế cũng biến thành luận án tiến sĩ! Khi tôi cho vài nghiên cứu sinh xem một luận án tiến sĩ y khoa ở viện Garvan, thì ngay cả các em ấy cũng thấy luận án của họ có nhiều vấn đề. Xin trích một nhận xét khác của anh Trần Văn Thọ: “Cách suy nghĩ về việc chọn đề tài ở Việt Nam chỉ làm cho luận án thiếu tính học thuật và phần lớn thiếu tính độc sáng. Nội dung, trình độ của luận án do đó còn rất xa mới đạt tiêu chuẩn tối thiểu của thế giới, và người được cấp bằng trong trường hợp đó khó có thể thảo luận khoa học với chuyên gia nước ngoài trong cùng ngành” (trang 287). Thật là đáng buồn cho nền học thuật nước nhà. Nhưng tại sao cứ chạy theo chỉ tiêu? Tôi thật không hiểu nổi. Tại sao chúng ta không dần dần tạo ra một thực lực (critical mass) khoa học trước, tạo ra những điều kiện cần và đủ để đào tạo tiến sĩ, mà cứ mãi mê chạy theo những chỉ tiêu và con số? Trong khoa học, không có con đường nào để “đi tắt đón đầu” cả. Cứ nhìn sang Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, hay gần hơn là Thái Lan thì sẽ dễ thấy rằng họ phải tiêu ra một thời gian dài để có được một thực lực khoa học như ngày hôm nay. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến tuỳ bút Đi tìm cái tôi đã mất của Nhà văn Nguyễn Khải (2006), trong đó ông viết: “Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu, bất chấp các công dân của họ bằng lòng hay không bằng lòng. Và họ lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là lòng người không thuận thì mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để lại một dấu vết tích cực nào.” Câu đó vẫn còn tính thời sự, và rất đáng để chúng ta suy nghĩ về định hướng giáo dục theo chỉ tiêu và con số. Tôi vẫn nghĩ giấc mơ 29 ngàn tiến sĩ vẫn là một giấc mơ đầy lãng mạn. Nguyễn Văn Tuấn http://nguyenvantuan.net/education/3-edu/1423-29000-tien-si-den-2020-

Chính trị – Xã hội
“Xã hội đen” được giao quản lý đầm ông Vươn? (TN) – Theo thông tin từ người dân xung quanh, ngay sau khi ông Đoàn Văn Vươn bị bắt, nhiều tay anh chị giang hồ đã đứng ra tiếp quản khu đầm  –Vụ thu hồi đất ở Tiên Lãng – Hải Phòng: Có bàn tay của giang hồ? (NLĐ) theo nền “văn minh” hiện nay nên gọi “quần chúng tự phát” cho nó phù hợp.  —Vụ cưỡng chế tại Hải Phòng: Nhiều tay giang hồ có mặt tại khu đầm - Pháp luật TPHCM/BM  —Cưỡng chế ở Hải Phòng: Phẫn nộ việc gia đình ông Vươn không có quà… - (GDVN/ BM) – ‘Người tử tù còn được quà Tết, vậy mà, chính quyền địa phương lấy lý do hộ ông Vươn không có hộ khẩu để không thăm hỏi, hỗ trợ Tết, có phải chăng…?’.  —Ông Đoàn Văn Vươn từng được bồi thường   TP – Câu chuyện sau vụ cưỡng chế thu hồi diện tích ao, đầm ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng có thêm những diễn biến mới.   —Ai phá nhà ông Vươn? (TT)  —Lập đoàn thanh tra đất đai ở Tiên Lãng   SGTT.VN – Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên – môi trường) cho biết Bộ Tài nguyên – môi trường đã quyết định lập đoàn thanh tra, kiểm tra để làm rõ các vấn đề liên quan vụ cưỡng chế đất đai ở Tiên Lãng.
Vụ rút ruột, pha chế xăng dầu: Không để “chìm xuồng”! (TN) -Quyền lợi của người tiêu dùng bị bỏ qua khi mà việc xử lý trách nhiệm vụ rút ruột, pha chế xăng dầu vẫn chưa có tiến triển đáng kể.
Nguyễn Cao Kỳ thoát chết, đồng bọn bỏ mạng   (VTC News) – Đáng lẽ hôm ấy Nguyễn Cao Kỳ phải lái máy bay ra Bắc thả dù, nhưng ông đã khéo léo đùn cho phi đội khác.  —Phát hiện dấu hiệu cổ sóng thần tại tỉnh Nghệ An – Vietnam Plus /BM
Đà Nẵng bắt đầu siết nhập cư tại 2 quận trung tâm (TP)  —Ngày mai 1-2: Hà Nội đổi giờ học, giờ làm (TP)  —Quốc gia biển phải có công dân biển  (SGTT)  —Sửa luật để giao đất nông nghiệp lâu dài  (TT)
Những người trẻ dưới mái ấm YP   SGTT Xuân 2012 – Những nhóm thiện nguyện hướng tới cộng đồng hiện nay đang phát triển tư duy không nhanh, nhưng là những hình mẫu mới để bù sớt những cái ác, những vụ lợi bất chấp đạo lý đang hoành hành…
Kinh tế
Văn hóa – Giáo dục
Kiến trúc Sài Gòn xưa qua lời kể   SGTT.VN – Có mặt ở Việt Nam từ cả trăm năm, nên người Pháp nghiên cứu khí hậu, môi trường, thông hiểu nắng – gió – mưa nên khi xây dựng họ đã đưa ra hình thái kiến trúc tối ưu dành cho xứ nhiệt đới…
Thế giới
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
   Hoa Kỳ: Hội Đồng Bảo An phải can thiệp vì bạo động leo thang ở Syria (VOA) -Ngoại trưởng Clinton nói Hoa kỳ mạnh mẽ lên án những cuộc tấn công tàn bạo của chính phủ Syria làm hàng trăm thường dân thiệt mạng
Trung Quốc đưa hàng nghìn cảnh sát tới Tân Cương   SGTT.VN – 8.000 cảnh sát sẽ được điều động tới tuần tra các khu vực nông thôn ở khu tự trị Tân Cương, Tây Bắc Trung Quốc, do lo ngại về chủ nghĩa cực đoan tôn giáo tại khu tự trị có nhiều người Hồi giáo sinh sống này.


Cảnh thác loạn tại quán Mai Trinh II, Q.Bình Tân, TP.HCM – Ảnh chụp từ video clip

 

Tàu Trung Quốc lại giở trò khiêu khích bao vây Đảo vào sáng mồng một Tết

Lính Việt (Dân Luận) – Sáng mồng một Tết Nhâm Thìn, tàu Trung Quốc lại giở trò khiêu khích bao vây đảo ở khoảng cách 08 hải lý (15 km), lại phải căng người ra trực chiến. Có lúc, chúng lao xuồng đến rất gần mép đảo. Anh em ta cảnh giác sẵn sàng chiến đấu nhưng bình tĩnh không mắc mưu khiêu khích của địch (ngày Tết còn giở trò dọa dẫm tấn công nhau thì điếu thể nào gọi là bạn).
* * *
Đến mãi chiều, tình hình mới tạm yên, mới quay lại ăn Tết. So với trước Tết Dương lịch, tinh thần anh em không còn được như trước nữa, bởi tác động của vụ ông Vươn Tiên Lãng và mấy vụ các ông bà lãnh đạo luôn luôn không ngừng nâng con nhét cháu kế cận chiếm chức giành ngôi.“Chiến đấu để làm gì, hy sinh cho ai?” là câu nhiều anh em nhắc đi nhắc lại nhiều lần, “thời trai trẻ đi bộ đội, tuổi vững vàng thì hết mình khai hoang lẫn biển để đến vãn niên bị cướp sạch, phá sạch”, “thời ông Vươn đi bộ đội bảo vệ tổ quốc, thằng Hiền chủ tịch, thằng Thoại phó chủ tịch chúng nó ở đâu?”, “điếu mịa, chịu khó chịu khổ để chúng nó cướp phá tài sản, sắp xếp con cháu đè đầu cưỡi cổ mình như Triều Tiên ấy” … và còn rất nhiều những câu anh em nói ra với vẻ ưu tư có, chán nản có, bất bình có.
Cán bộ chính trị quán triệt “không được bàn tán lung tung, việc quốc gia đại sự đã có nhà nước lo”và cảnh báo “ca ngợi bọn Vươn, Quý có ngày chết vì vạ miệng đấy”. Anh em vặc lại “thế bây giờ căng thế này có phải đại sự không, có thấy thằng lãnh đạo nào lên tiếng chia sẻ khó khăn, nguy hiểm, động viên anh em không?”, “thích thú cùng nhau xem và ca ngợi những nhân vật trong Thủy Hử, thế thì tại sao lại không thể cùng nhau thích thú bình luận về chuyện cựu chiến binh Tiên Lãng tổ chức dân ta bắn gục quân mình một cách vô cùng ngoạn mục!”. Ngày Tết nơi chiến tuyến xa gia đình, cán bộ chỉ huy cũng có vẻ thông cảm hơn, ngày thường mà nói văng mạng công khai thế chắc là ăn kỷ luật.
Được anh em động viên, yêu cầu, lại có hơi men rượu Tết, làm mấy vần thơ tặng anh Quý, anh Vươn:
Vũ khí thô sơ giữ đồng khoang
Lực yếu thế cô vẫn đùng đoàng
Công an, bộ đội phơi bụng trắng
Anh hùng Tiên Lãng đất Vinh Quang

* * *
Sớm muộn gì thì xung đột Việt – Trung cũng sẽ xảy ra, qui mô nếu mà không to thì cũng không thể nhỏ. Trong tình thế như giờ mà không ổn định được lòng dân, không kiên quyết trừng trị quan tham lại nhũng cố ý làm xằng, quyết tâm chối tội, trắng trợn cướp của giết dân thì lấy ai bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ đây? Đại loạn đến nơi rồi.
Lính Việt
http://danluan.org/node/11481

 

Người trí thức đưa đất nước đi lên

Nguyễn Quang Duy – Hoa Kỳ luôn giữ vai trò cường quốc số một thế giới là nhờ đã đặt giá trị của con người đúng mức. Nhất là giá trị những người trí thức. Về lý thuyết Hoa Kỳ có cả một trường phái kinh tế học ra đời vào những năm 1980, chứng minh được tăng trưởng và phát triển quốc gia tùy thuộc vào tri thức (new growth theory).
Dựa vào lý thuyết và thực tiễn chứng minh được, người theo trường phái này hướng đến những chính sách xây dựng môi trường phát huy và tận dụng những tài sản trí tuệ nhân lọai. Họ cổ vũ việc các quốc gia muốn phát triển cần tôn trọng nhân quyền, dân chủ, tự do và khuyến khích một thế giới tự do trên mạng tòan cầu.
Việt Nam Tồn Tại Trong Suy Thóai – Chết Lâm Sàng 
Gần đây diễn đàn BBC mở ra một cuộc tranh luận về vai trò của những người trí thức trong hòan cảnh Việt Nam hiện nay. Một hòan cảnh mà ông Nguyễn Phú Trọng phải công khai bàn đến việc chỉnh đốn đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tránh sụp đổ. Còn ông Lê Khả Phiêu diễn tả “Đảng tồn tại trong suy thoái”.
Đảng Cộng sản lại là đảng cầm quyền vì thế đất nước cũng luôn trong cùng một tình trạng: tồn tại trong suy thóai. Theo cách nói của Giáo Sư Ngô Bảo Châu là Việt Nam đang chết lâm sàng.
Trí Thức Ta – Trí Thức Nô Lệ 
Mồng một Tết, trên diễn đàn BBC nhà văn Võ thị Hào lập luận lịch sử Việt Nam là lịch sử của những người nô lệ. Ngày nay đại đa số người làm việc bằng trí óc chỉ vì miếng ăn ngon. Họ vẫn là những người nô lệ.
Bà Hào cho rằng trí thức như bộ não của xã hội. Nếu xã hội không có trí thức thì cũng như con người không có bộ não. Nói theo kiểu của nhà văn Phạm thị Hòai thì độ cao trí tuệ của người trí thức Việt Nam chỉ tính từ cái cổ trở xuống. Đó chính là lý do Việt Nam vẫn thua xa các nước trong vùng.
Thợ Văn, Thợ Báo, Thợ Vẽ, Thợ Thơ, Thợ Dạy, Thợ Nhạc … 
Cũng ngày đầu năm được nhà văn Phạm thị Hòai phỏng vấn, nhà báo Lê Phú Khải diễn tả trí thức Việt Nam ra hình hài “người” hơn. Ông Khải cho biết: “Theo tôi thì ở Việt Nam, trừ một số ít trí thức có tư duy độc lập còn thì không có đội ngũ trí thức đúng với tên gọi, đúng với nội hàm của nó. Cái gọi là tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa là những người do Đảng đào tạo nên để làm công chức cho Đảng. Vì thế Đảng nói gì họ nghe nấy, Đảng bảo sao họ làm vậy, vậy thôi.” 
Những công chức của “Đảng” bao gồm nhà văn, nhà báo, giáo sư, họa sỹ, nhạc sỹ … nghĩ cho cùng chỉ là thợ viết văn, thợ viết báo, thợ dạy, thơ vẽ, thợ viết nhạc, thợ làm thơ … không hơn không kém. Việt Nam chỉ là một cơ xưởng “sáng tác”. Họ sáng tác theo mệnh lệnh của “Đảng” và nhằm phục vụ “Đảng”. Lẽ đương nhiên khi làm người, ai cũng muốn vươn lên, nhưng chính cái hệ thống của “Đảng” đã không tạo cơ hội hay cho phép họ trở thành người trí thức.
Khi đảng Cộng sản không còn tư tưởng để bám víu, không còn quyền lực để ban hành mệnh lệnh, tầng lớp công chức “Đảng” trở nên tê liệt, ù lỳ, thiếu khả năng “sáng tác” và trở thành gánh nặng xã hội. Xã hội lâm vào tình trạng chết lâm sàng.
Trí Thức Tây – Những Con Người Tự Do 
Trong khi những người thuộc thế hệ trước hết sức bi quan, được báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần phỏng vấn Giáo sư Ngô Bảo Châu cho biết “vẫn đầy niềm tin tương lai”.
Được hỏi về vai trò của trí thức ông Bảo Châu cho biết: “Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.” Cách suy nghĩ của Giáo sư Bảo Châu là cách suy nghĩ của một người được đào tạo và làm việc trong môi trường Khoa Học thực nghiệm Tóan Tây Phương. Tạm gọi là Trí Thức Tây.
Phương cách giáo dục thực nghiệm của Tây Phương đào tạo những con người biết suy nghĩ, tự tìm và tự giải quyết vấn đề một cách thuần lý. Từ đó, xã hội đánh giá sự đóng góp của cá nhân qua những thành quả có thể đo lường được. Những công trình được phổ biến trên các tạp chí các diễn đàn chuyên môn. Những bằng sáng chế được quốc tế công nhận. Những sản phẩm cả tinh thần lẫn vật chất nhằm phục vụ cho nhân quần xã hội.
Từ phương cách giáo dục thực nghiệm những người làm chuyên môn đều tích cực tranh luận trên các lãnh vực chuyên môn nhằm tìm ra sự thực hay phát hiện những điều mới mẻ. Kiến thức của họ truyền đạt, chuyển hóa, tích lũy và biến thành kiến thức chung của nhân lọai. Ảnh hưởng và uy tín của họ phát xuất từ khả năng chuyên môn mà họ truyền đạt và đóng góp cho xã hội. Trường hợp của Giáo sư Bảo Châu là cụ thể và rõ ràng nhất.
Vì làm việc trong một môi trường xã hội hòan tòan tự do và những đóng góp đều được xã hội tôn trọng đúng mức, những người làm chuyên môn Tây Phương thường rất ít tham gia vào những cuộc tranh luận về chính trị hay chính sách. Nói đúng ra họ ít có cơ hội để cất tiếng phê phán chính sách của các chính phủ do dân chúng bầu ra.
Những Con Số Biết Nói 
Theo thống kê, trong 5 năm 2006-2010, số bằng sáng chế được quốc tế công nhận đứng đầu là Mỹ với 1.000.900 bằng, đứng thứ 2 là Nhật Bản 197.075 bằng. Trong khi ấy Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế, thấp hơn nhiều so với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Điều oái oan là riêng tại Hoa Kỳ ước tính có khoảng hơn 280 nhà phát minh người Mỹ gốc Việt được cấp bằng sáng chế, chỉ riêng Tiến sỹ Đoàn Trung đóng góp 72 bằng.
Có thể vì nhận ra điều này giáo sư Ngô Bảo Châu quyết định về Việt Nam mỗi năm 3 tháng điều hành Viện Toán Cao Cấp. Giáo sư Bảo Châu cho biết: “hiện nay tỷ lệ giảng viên toán có trình độ tiến sỹ chỉ là một con số rất nhỏ, quan trọng hơn tỷ lệ giảng viên toán có các công trình nghiên cứu khoa học theo chuẩn quốc tế nào đó lại là một con số vô cùng nhỏ.” 
Thực trạng khoa học nêu trên là do đảng Cộng sản luôn tự cao tự đại cho rằng họ là đỉnh cao của trí tuệ lòai người, do phương cách điều hành “hồng hơn chuyên”, và nhất là do thiếu hẳn một môi trường tự do cho sáng tạo.
Hành Động Theo Cừu 
Ở Tây Phương người khoa bản khi được thụ phong giáo sư đòi hỏi phải có ý kiến về các chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến chuyên ngành và đến xã hội. Họ thường là tiếng nói của Viện Đại Học họ đang làm và phải sẵn sàng để nhận lãnh vai trò cố vấn cho chính phủ khi được mời.
Trong khi ấy giáo sư Châu lại cho rằng người trí thức “không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.” và xác nhận “Nói đến chuyện thay đổi chính sách là tôi lại băn khoăn. Hình như cái mà ta làm cho đến nay là thấy cái gì chưa ổn thì ta sửa lại, sắp xếp lại, mà ít để ý đến sự vận động tự nhiên của cuộc sống.” 
Giáo sư Bảo Châu đã nhận ra cái hệ thống mà giáo sư đang phục vụ, vận động phản tự nhiên, nói theo từ chính trị là “phản động”. Đương nhiên ông phải biết thực trạng Việt Nam không có một môi trường sinh họat tự do. Đảng Cộng sản luôn ôm đồm lãnh đạo mọi thứ. Buồn thay giáo sư Châu lại cho rằng những người trí thức như ông không có vai trò để đưa ra một hướng đi cụ thể nhằm xây dựng một xã hội, một nền khoa học tự do cho Việt Nam. Ông đơn thuần làm khoa học.
Giáo sư còn cho biết “những khó khăn mang tính chất hành chính thì vẫn muôn hình vạn vẻ, nhưng tôi hi vọng giai đoạn này cũng sẽ chóng kết thúc để năng lượng được dồn vào những việc thật sự bổ ích là làm khoa học.” 
Ngừơi viết cũng chưa bao giờ thấy các giáo sư tại Úc than phiền như trên. Tại Úc, người khoa bản đều biết tự trọng không luồn lách qua nhưng thủ tục nhiêu khê cho được việc. Ngược lại họ là những người luôn công khai đóng góp những phương cách để tháo gỡ những bế tắc hành chánh khi có chuyện xẩy ra. Với họ đây cũng chính là những đóng góp thực sự cho sự thăng tiến xã hội.
Mặc dù cho rằng người trí thức “không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.”, Giáo sư Châu quan niệm: “… cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng.” Xã hội chết lâm sàng cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam tồn tại trong suy thóai.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi có nhận xét như sau: “Giáo sư Ngô Bảo Châu cũng đã nói đến cái phần sau là nếu không có phản biện thì xã hội chết lâm sàng. Nhưng trách nhiệm của cái xã hội chết lâm sàng ấy không đặt vào vai của trí thức thì đặt vào vai ai”. Người trí thức làm việc bằng lý và được đào tạo để làm sáng tỏ vấn đề nên khi họ phê phán hay tranh luận dễ thuyết phục người nghe. Vì thế công việc phê phán chính yếu là công việc của người trí thức.
Mâu thuẫn trong lời nói dễ dẫn đến mâu thuẫn trong hành động. Trước đây giáo sư Châu cho rằng “…bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do.” Thế nhưng nếu người tự do khi sống giữa những người nô lệ lại không có tiếng nói hướng dẫn người nô lệ đứng lên đòi quyền tự do, thì có khác chăng người tự do sống giữa đàn cừu lại hành động theo cừu. Theo cách nói ông bà ta “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. 
Những Câu Hỏi Cho Giáo Sư Bảo Châu 
Ở Tây Phương trong vai trò giáo sư và giám đốc Viện Toán Cao Cấp, Giáo sư Bảo Châu phải trả lời những câu hỏi về các chính sách của chính phủ, có ảnh hưởng đến Viện ông điều hành và đến chuyên ngành Tóan Học. Nhất là khi Viện Tóan Cao Cấp vừa được thành lập với kinh phí 650 tỷ đồng hơn 30 triệu Mỹ Kim.
Tiến sỹ Vũ Duy Mẫn (United Nation New York) có một số câu hỏi như sau: Liệu toán học có phải là ngành cần đầu tư phát triển nhất ở Việt Nam? Khoa học xã hội, nông nghiệp hay môi trường có xứng đáng được ưu tiên phát triển hơn và mang lại nhiều lợi ích trực tiếp hơn cho đất nước ? Việt Nam là nước đang phát triển, còn rất nghèo, có nền toán học chưa tiên tiến. Vậy tại sao lại “hào phóng” đầu tư nghiên cứu toán cao cấp để có thể người được hưởng lợi nhiều chưa chắc đã là Việt Nam? Mục tiêu phấn đấu “đến năm 2020 toán học Việt Nam có thứ hạng thứ 40 trên thế giới” có ý nghĩa gì? và thực chất có đáng để đầu tư hay không? Nhiệm vụ cụ thể và đòi hỏi trách nhiệm giải trình của Viện trước chính phủ là gì?
Các câu hỏi nêu trên xuất phát từ bài “Giáo Sư Ngô Bảo Châu tiết lộ ‘bí mật’ của Viện Toán cao cấp” đăng trên báo Giáo duc Việt Nam. Các câu hỏi nêu trên dễ dẫn đến kết luận nhà nước cộng sản đưa tiền thuế của dân cho Viện chỉ để xây dựng một tháp ngà tóan học tại Việt Nam đánh bóng cho đảng Cộng sản.
Sống và làm việc tại các quốc gia Tây Phương mọi việc đều minh bạch, nếu Giáo Sư muốn giữ gìn uy tín, Giáo Sư hay ai đó trong Viện phải trả lời rõ ràng các câu hỏi nêu trên.
Giáo Sư Bảo Châu Nên ở Phương Tây 
Cũng vì Việt Nam chưa có một môi trường sinh họat tự do nên tuyệt đại đa số những chuyên gia được đào tạo và làm việc chuyên môn tại Tây Phương đều ngao ngán khi nghĩ đến việc về nước phục vụ dù chỉ là ngắn hạn. Một số rất nhỏ trở về, nhưng lại trở ra với những nỗi thất vọng tràn trề. Những người này thường quan niệm đơn giản không muốn tham gia chính trị, phi chính trị thậm chí không muốn biểu lộ quan điểm chính trị. Thế nhưng khi về Việt Nam họ mới nhận ra chính trị do “Đảng” lãnh đạo bao trùm mọi vấn đề.
Người viết trân quý tâm và tài của Giáo sư Bảo Châu. Nhưng qua những việc kể trên và phương cách Giáo sư Bảo Châu giải quyết và ngụy biện, người viết tin rằng giáo sư đã chọn sai đường khi trở lại Việt Nam. Nếu ông ở Hoa Kỳ hay Pháp ông sẽ dành thời giờ qúy báu đóng góp cho khoa học cho nhân lọai thay vì về Việt Nam làm việc. Làm như thế ông được cả nhà cầm quyền cộng sản lẫn dân chúng tôn trọng và lắng nghe hơn.
Trí Thức Cổ Hủ – Trùm Chăn 
Trả lời góp ý của Blogger Bọ Lập (Nguyễn Quang Lập), Giáo sư Ngô Bảo Châu cho biết định nghĩa về trí thức của ông là “ hơi cổ hủ ” giống như trí thức “trùm chăn”.
Cũng theo ông vai trò lên tiếng không phải của riêng người trí thức mà là của người nông dân, của người doanh nhân, của mọi người. Điều ông nhận xét hòan tòan đúng trong một môi trường tự do. Ở đó mọi người đều được huấn luyện, có cơ hội, có tự do và bình đẳng như nhau. Tại Việt Nam khác xa người nông dân, người doanh nhân, … thậm chí mọi người mất đi cái quyền được nói. Họ sợ nói khác “Đảng” sẽ bị khép cho các từ “phản động chống Đảng”.
Cũng ngày mồng một Tết Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ đưa tin: “Ông Dư Kiệt, Phó Hội trưởng Hội Văn bút Độc lập Trung Quốc, mới đây đã sang Hoa Kỳ tị nạn, cho biết tại một cuộc họp báo ở Washington rằng ông đã bị nhà cầm quyền Trung Quốc tra tấn một cách tàn nhẫn và đe dọa chôn sống. Thân phận của người trí thức Việt Nam cũng không khác mấy, thậm chí còn tệ hại hơn thân phận của người trí thức Trung Hoa.
Vì thế chỉ một thiểu số người có học hàm khôn khéo và can đảm cất tiếng nói. Những người trí thức này được xã hội lắng nghe hơn. Đừng nghĩ rằng họ muốn độc quyền phản biện mà ngược lại họ ao ước thêm người cùng cất tiếng nói, để họ có thể nói mạnh hơn mà lại ít nguy hiểm hơn. Quan sát kỹ tình hình sẽ dễ dàng nhận ra điều này.
Bởi thế thay vì về Việt Nam xây dựng một tháp ngà tóan học để đánh bóng cho đảng Cộng sản, không ít người kỳ vọng Giáo sư Châu nên cân bằng nỗ lực để xây dựng một môi trường xã hội và khoa học tự do.
Trên báo Sinh viên Việt Nam số Tết, được đăng lại trên blog cá nhân của Giáo sư Bảo Châu, khi được Lê Ngọc Sơn hỏi “Trí thức cần gì nhất, theo Giáo sư?” ông đã trả lời “Tự do”. Không phải chỉ riêng người trí thức cần nhất là tự do, mà mọi người Việt Nam đang cần nhất hai chữ Tự Do. Thế nên khi Giáo Sư Bảo Châu phát biểu tạo ra không ít dư luận đối nghịch là một chuyện bình thường.
Điều bất bình thường là nếu Giáo sư Châu không nhận ra vấn đề và tiếp tục tự mâu thuẫn chính mình.
Trí Thức Dấn Thân 
Trái với quan niệm trí thức cổ hũ, Tiến sĩ Jean-Francois Sabouret, một học giả của Pháp chuyên nghiên cứu về các vấn đề châu Á, cũng được BBC phỏng vấn về vai trò của trí thức trong quá trình biến đổi xã hội, ông cho rằng: “người trí thức “không có sự lựa chọn nào khác” ngoài dấn thân và tiếp tục dũng cảm lên tiếng vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và nhân loại, dù là họ ở Pháp, ở Việt Nam hay ở bất cứ đâu.” 
Ông còn nhận xét “Những người trí thức Việt Nam phải tranh đấu thôi. Họ phải đoàn kết lại. Họ phải xuất bản những tạp chí, những trang web mà tại đó họ phải phản biện, phải có đầu óc phê phán. Đương nhiên điều đó là không đơn giản. Nhưng người ta chỉ có thể bắt bớ một, hay một vài người thôi, chứ làm sao có thể bắt bớ cả một dân tộc được? Điều đó là không thể!” 
Được đài BBC phỏng vấn về ý kiến nói trên, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện cho biết hiện nay đang là lúc Việt Nam “hơn bao giờ hết” cần đến tiếng nói phản biện xã hội của giới trí thức để giúp cho xã hội chuyển biến “ngày một tốt đẹp.”
Ông Diện cho rằng trí thức hiện nay cần phải có hai yếu tố: “Thứ nhất là tinh thần tự nguyện. Tự nguyện tức là tự gánh vác lấy. Không chờ là mình phải có chức vụ; không chờ mình được sai bảo hay phân công thì mới lên tiếng. Và thứ hai, ngoài vấn đề tự nguyện, thì phải có sự dấn thân. Tức là phải tham gia vào việc phản biện xã hội, để cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn lên.” 
Nô Lệ Tư Tưởng 
Đầu năm 2006, trên diễn đàn BBC ông Nguyễn Trung cho rằng đang là “thời cơ vàng” để đảng Cộng sản đổi mới. Ông tự đặt câu hỏi “kẻ thù đối với vai trò lãnh đạo của Đảng ta là ai?” Người viết đã góp ý như sau “kẻ thù của đảng Cộng sản chính là chủ nghĩa Mác – Lê”.
Cái khó nhất để làm người tự do là phải lột bỏ tư tưởng nô lệ. Chính việc ông Mác đề cao đấu tranh giai cấp và lấy mục tiêu xã hội cộng sản làm tiêu chí cho mọi suy nghĩ và hành động, mà ngày nay đảng Cộng sản mới phải lâm vào tình trạng tồn tại trong suy thóai. Nói theo Giáo sư Bảo Châu là “chết lâm sàng”.
Không nhận ra thân phận nô lệ tư tưởng, đảng Cộng sản lại công khai cho rằng tự phê bình và phê bình là đủ để họ trở nên trong sạch hơn và sáng suốt hơn. Lẽ ra họ phải mở rộng phê phán giữa lý thuyết với thực tiễn thì mới dứt bỏ được tư tưởng nô lệ. Không nhận đúng bệnh thì thuốc uống chỉ rút ngắn ngày tàn.
Đầu năm nay sống ở hai thế giới khác nhau một cộng sản một tự do, ông Nguyễn Trung và người viết, khi nghĩ về đất nước lại cùng chung những ước mơ (1) Con người tự do; (2) Thể chế chính trị dân chủ; (3) Đất nước có hòa bình ổn định; và (4) Tất cả dựa trên căn bản của một nền giáo dục chân chính.
Cùng những ước mơ thế nhưng giữa hai người lại có hai hướng giải quyết khác nhau. Ông Trung kêu gọi khép lại quá khứ. Trong khi người viết lại tin rằng vai trò của người trí thức không những chỉ để tìm ra sự thật hiện tại. Người trí thức Việt Nam còn phải truy tìm, làm sáng tỏ và phổ biến những sự thực lịch sử. Có xây dựng được một lịch sử khách quan trung thực thì vết thương dân tộc mới có cơ may khép lại để chúng ta cùng hướng đến tương lai.
Trí Thức Chống “Đảng” 
Nhà báo Lê Phú Khải còn cho biết cá nhân ông không cần sự lãnh đạo của “Đảng” vì thế đã từ chối vào “Đảng”. Vì Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm dưới sự lãnh đạo toàn diện, triệt để và trực tiếp của “Đảng”. Sự phủ nhận độc quyền lãnh đạo của “Đảng” đồng nghĩa với chống lại nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc chống “Đảng”, chống nhà nước cộng sản ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống cả tinh thần lẫn vật chất. Thậm chí còn ảnh hưởng đến đời con đời cháu người chống “Đảng”. Bởi thế theo người viết những người trí thức dứt khóat không chấp nhận sự lãnh đạo của đảng Cộng sản thật hiếm, thật đáng quý, thật đáng trân trọng.
Khi Giáo Sư Trung Hoa Lên Tiếng 
Cũng lại ngày đầu xuân trong khi giới trí thức Việt Nam đang tranh luận về vai trò của trí thức thì hàng trăm dân Hồng Kông đã tụ tập biểu tình bày tỏ sự phẫn nộ về lời phát ngôn của một giáo sư lục địa gọi họ là con hoang, là đồ chó. Phát xuất từ những va chạm ngôn ngữ, tập quán, pháp lý và văn hóa giữa dân Hồng Kông và dân Lục Địa ngày một gia tăng, Giáo sư Khổng Khánh Đông đã chính thức lên Đài Truyền Hình Trung Ương (V1CN) dùng những ngôn ngữ thô tục nói trên.
Điều cần nói là giáo sư Khổng Khánh Đông, đang dạy môn Trung Văn tại Viện đại học Bắc Kinh, ông là cháu đời thứ 73 của Khổng Tử. Khổng Học lại là một môn học đang được nhà cầm quyền Bắc Kinh công khai tài trợ. Các Viện Khổng Học đang mọc lên như nấm để truyền bá Khổng Học theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và mang sắc thái Trung Hoa Cộng sản.
Cũng may nền Khổng Học nói trên này vẫn còn rất phôi thai tại Việt Nam vì văn hóa Việt Nam không thể chấp nhận các nhà khoa bản ăn thô nói tục như ông Khổng Khánh Đông. Người viết tự tin không mấy người Việt xem ông ta là người trí thức.
Tạm Kết 
Đầu Xuân Nhâm Thìn rõ ràng các trí thức Việt Nam đang nhập cuộc dấn thân. Họ bao gồm cả những trí thức từ Phương Tây trở về hay những người đã được đào tạo trong hệ thống cộng sản trước đây. Qua cuộc tranh luận về vai trò trí thức chúng ta có thể thấy được sự khác biệt giữa trí thức theo “Đảng” và trí thức chống “Đảng”, giữa trí thức Ta và trí thức Tây, giữa trí thức cổ hủ và trí thức dấn thân. Thật ra còn nhiều lọai trí thức khác. Tìm hiểu, phê phán nhưng tôn trọng lẫn nhau đó chính là điểm son của những người trí thức Việt Nam.
Qua đó chúng ta có thể thấy rõ trách nhiệm của người trí thức ngày nay và tương lai có những ưu tiên khác nhau. Người trí thức hôm nay cần nhận vai trò dấn thân xây dựng môi trường tự do để Việt Nam không chết lâm sàng. Người trí thức mai sau lãnh trách nhiệm xây dựng và phát triển quốc gia.
Người trí thức Việt Nam như những cánh én báo một mùa xuân về cho dân tộc. Người trí thức đưa đất nước đi lên.
Melbourne, Úc Đại Lợi 
29/1/2012
gửi Dân Làm Báo

 

29000 tiến sĩ đến 2020?

Nguyễn Văn Tuấn – Trước đây, có chỉ tiêu đào tạo 20,000 tiến sĩ trong thời gian 2010-2020. Nay lại có thêm chỉ tiêu 29,000 tiến sĩ cho các đại học đến năm 2020. Giáo dục Việt Nam ta lúc nào cũng chạy theo những con số! Nhưng đằng sau những con số đó là những giả định quá lạc quan. Giả định quá lạc quan cũng có nghĩa là những chỉ tiêu đó có thể lại là một giấc mơ đầy lãng mạn.
Lượng: khó Ngày 17/6/2010, Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ Tiến sĩ cho các trường ĐH-CĐ giai đoạn 2010-2020”. Đề án này có tổng kinh phí khoảng 700 triệu USD, trong đó khoảng 10,000 tiến sĩ sẽ được đào tạo ở nước ngoài, 3000 đào tạo trong nước. Tôi đã từng phát biểu rằng chỉ tiêu này rất khó thực hiện, vì cơ sở vật chất, vì số nghiên cứu sinh, và thậm chí kinh phí còn quá thấp.
Tháng 12/2011 vừa qua, Bộ GD&ĐT trình bày kế hoạch phát triển nguồn nhân lực mới về đào tạo giảng viên đại học. Theo kế hoạch này, VN sẽ đào tạo đủ 29,000 giảng viên là tiến sĩ ở các trường đại học vào năm 2020. Tôi nghĩ chỉ tiêu này càng khó thực hiện.
Trong cuốn sách “Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội nhập”, tôi có trình bày thống kê cho thấy hiện nay con số giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ còn thấp. Theo số liệu 2008, trong số 38,217 giảng viên đại học ở Việt Nam, 44% có bằng cử nhân, 40% thạc sĩ, và 15% (tức 5643 người) có bằng tiến sĩ. Để có 29,000 tiến sĩ đến năm 2020, các đại học VN phải có thêm 23,000 ngàn tiến sĩ.
Hai mươi ba ngàn tiến sĩ trong vòng 8 năm. Tức là mỗi năm phải đào tạo hay tuyển mộ gần 3000 tiến sĩ! Rất hiếm có nước đang phát triển nào có thể làm một bước nhảy vọt như thế. Ngay cả Thái Lan, hiện nay cũng chỉ có 14,000 tiến sĩ trong các đại học. Nếu như theo những gì Bộ GD&ĐT tin tưởng, thì 8 năm nữa, các đại học VN sẽ có nhiều giảng viên với trình độ tiến sĩ hơn Thái Lan!
Phẩm: càng khó hơn
Những nhận xét trên là về phần lượng, còn phần phẩm lại càng có nhiều điều đáng bàn hơn. Chắc chắn một số lớn tiến sĩ sẽ được đào tạo trong nước. Nhưng với tình trạng nghiên cứu khoa học còn nhiều bất cập và hạn chế hiện nay, vấn đề chất lượng là điều rất đáng quan tâm. Theo tôi, có 3 vấn đề lớn trong việc đào tạo tiến sĩ (hay nghiên cứu sinh nói chung) ở trong nước: đó là thiếu người hướng dẫn có kinh nghiệm, đề tài thiếu cái mới, thiếu chuẩn mực cho một luận án tiến sĩ. Vì những vấn đề như thế, các luận án tiến sĩ từ VN không được đánh giá cao. Trong cuốn “Việt Nam từ năm 2011” (Nxb Tri Thức 2011) Gs Trần Văn Thọ viết và tôi rất đồng ý: “Những vấn đề lớn của Việt Nam là hiểu chưa đúng về chuẩn mực của luận án tiến sĩ nói riêng và trình độ của người được cấp bằng tiến sĩ nói chung, cơ chế đào tạo quá lỏng lẻo, tiêu chuẩn của giáo sư hướng dẫn không được quy định nghiêm túc, chưa xác lập được cơ chế đánh giá khách quan về luận án tiến sĩ và suy nghĩ sai về ý nghĩa của văn bằng này.” (Trang 286).
Đào tạo tiến sĩ một cách nghiêm chỉnh rất khó. Ngoài vấn đề ý tưởng nghiên cứu khoa học, cơ sở vật chất, đến thầy cô đều phải rất sẵn sàng. Tôi cũng có dịp đọc nhiều đề cương và luận án tiến sĩ y khoa trong nước, và cảm nhận chung là chưa thấy một đề cương hay luận án nào thật sự xứng đáng với 8 tiêu chuẩn của một luận án tiến sĩ. Những nghiên cứu (mà thực chất là làm kiểm kê lâm sàng – clinical audit, hoặc cao hơn chút là làm thống kê đếm số) vừa đơn giản, vừa tủn mủn, và “me too”. Vậy mà những dữ liệu như thế cũng biến thành luận án tiến sĩ! Khi tôi cho vài nghiên cứu sinh xem một luận án tiến sĩ y khoa ở viện Garvan, thì ngay cả các em ấy cũng thấy luận án của họ có nhiều vấn đề.
Xin trích một nhận xét khác của anh Trần Văn Thọ: “Cách suy nghĩ về việc chọn đề tài ở Việt Nam chỉ làm cho luận án thiếu tính học thuật và phần lớn thiếu tính độc sáng. Nội dung, trình độ của luận án do đó còn rất xa mới đạt tiêu chuẩn tối thiểu của thế giới, và người được cấp bằng trong trường hợp đó khó có thể thảo luận khoa học với chuyên gia nước ngoài trong cùng ngành” (trang 287). Thật là đáng buồn cho nền học thuật nước nhà.
Nhưng tại sao cứ chạy theo chỉ tiêu? Tôi thật không hiểu nổi. Tại sao chúng ta không dần dần tạo ra một thực lực (critical mass) khoa học trước, tạo ra những điều kiện cần và đủ để đào tạo tiến sĩ, mà cứ mãi mê chạy theo những chỉ tiêu và con số? Trong khoa học, không có con đường nào để “đi tắt đón đầu” cả. Cứ nhìn sang Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, hay gần hơn là Thái Lan thì sẽ dễ thấy rằng họ phải tiêu ra một thời gian dài để có được một thực lực khoa học như ngày hôm nay. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến tuỳ bút Đi tìm cái tôi đã mất của Nhà văn Nguyễn Khải (2006), trong đó ông viết: “Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu, bất chấp các công dân của họ bằng lòng hay không bằng lòng. Và họ lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là lòng người không thuận thì mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để lại một dấu vết tích cực nào.”
Câu đó vẫn còn tính thời sự, và rất đáng để chúng ta suy nghĩ về định hướng giáo dục theo chỉ tiêu và con số. Tôi vẫn nghĩ giấc mơ 29 ngàn tiến sĩ vẫn là một giấc mơ đầy lãng mạn.
Nguyễn Văn Tuấn
http://nguyenvantuan.net/education/3-edu/1423-29000-tien-si-den-2020-

Trâu người

Đào Tuấn Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), vua Lý Thái Tông cày Tịch điền ở cửa Bố Hải. Bấy giờ, các quan tả hữu có người can rằng. “Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?”. Vua nói: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo?” Nói xong vua đẩy cày…Đây là đoạn được chép trong Việt sử ký về chuyện các vị vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam mặc áo nông dân cày tịch điền đầu năm. Một lần vua cày quả là hơn ngàn chiếu dụ. Mùng 7 tết Nhâm Thìn, chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng sắn quần cởi áo đi đường cày đầu tiên trong lễ Tịch điền ở Đọi Sơn, Nam Hà và  tái  khẳng  định: “Dù bất cứ hoàn cảnh nào, nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn là cơ sở vững chắc, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”.
Nhưng, thậm chí từ ngày mùng 6 Tết, ở một nơi nào đó, không cần trống rong cờ mở, không cần cờ phướn, lễ hội, thậm chí không cả trâu bò, những người nông dân đang kéo cày thay trâu, như lời bài hát truyền thống của ngành nông nghiệp về một thời “đôi vai xưa kéo cày thay trâu”, tưởng đã mãi là dĩ vãng.
Báo Tiền Phong mô tả cha con nông dân 47 tuổi Phạm Văn Kháng bừa khoảng ruộng nhỏ bằng cách buộc thừng vòng qua… bụng và dùng tay trần để kéo bừa. “Nhà tôi không có trâu. Mà trong làng cũng chẳng còn ai nuôi trâu, bò để mượn. Khoảnh ruộng thì nhỏ, thuê máy bừa vừa tốn tiền, vừa hỏng bờ, nên hai bố con làm cho tiện”- người nông dân này nói.
Những chàng trai không có máy cày và những cô con gái cũng đang ra sức kéo chiếc bừa trên ruộng cạn- có lẽ là hình ảnh manh mún điển hình của nền nông nghiệp. Và sự khốn khổ của người nông dân.
Vậy mà chính những bàn tay trần nông dân đó đã làm nên một năm mà người đứng đầu Chính phủ đã thốt lên “Nông nghiệp đã đại thắng”. Sản lượng lúa cả năm ước đạt 42 triệu tấn quy thóc. Trong khi nền kinh tế nhập siêu thì nông nghiệp tạo nguồn ngoại tệ nhờ xuất siêu. Xuất khẩu gạo năm 2011 đạt tới 7,3 triệu tấn với kim ngạch hơn 3,5 tỷ USD. Nông nghiệp, năm thứ 4 liên tiếp là điểm tựa cho cả nền kinh tế, hoặc nói không hề ngoa như TS Lê Đăng Doanh “Nông dân đã cứu đất nước 1 lần nữa”.
Báo Nông nghiệp, dẫn các nguồn Đại học Haward, Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội và Viện Chính sách và Chiến lược PTNT nhận định, với 1.000 đồng kích cầu nông nghiệp sẽ kích thích sản xuất 1.622 đồng và 1% GDP = 1 triệu việc làm mới- những con số cao nhất so với việc kích cầu vào những lĩnh vực khác. Không chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho toàn xã hội mà còn góp phần hạn chế đà lạm phát, nhập siêu.
Nhưng hình ảnh những người nông dân kéo cày thay trâu, lặp đi lặp lại suốt hàng chục năm và hoàn toàn không phải là cá biệt, cũng là hình ảnh tiêu biểu cho thấy “chiến thắng của nông nghiệp” là quá nhọc nhằn khi mồ hôi của nông dân đang phải bán quá rẻ.
Tỉ trọng đầu tư cho nông nghiệp trong tổng vốn đầu tư xã hội những năm qua vừa ít vừa đang ngày càng thấp đi. Nếu như 10 năm trước, năm 2000, đầu tư cho nông nghiệp là 13,85% , thì đến năm 2005 tỷ trọng này là 7,50%, năm 2008 hạ xuống còn 6,45% và 2009, đầu tư cho nông nghiệp chỉ còn 6,26% tổng đầu tư cho xã hội. Trong năm 2011, tổng vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp cũng chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn thê thảm hơn. Trong 10 năm qua, đầu tư FDI vào nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 2,3% FDI cả nước.
Riêng đối với nông dân, từ 1-1 năm nay, phần diện tích vượt hạn điền bắt đầu chịu mức thuế suất mới.
Nông dân cần những vị vua mặc áo nâu cày tịch điền đầu năm. Nhưng nông dân cũng cần những chính sách mang tính chất cởi trói và nông nghiệp cần những con số thực tế, để chí ít, số lãi 30% không phải là lãi ảo, hoặc đơn giản hơn, để những chàng trai, cô gái không phải cày thay trâu.
Một lần vua cầm cày hơn ngàn lần khuyến dụ. Nhưng chỉ cầm cày để quay camera thôi thì chưa đủ.

Vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng): Báo Đối ngoại VEN đã “vào cuộc” từ năm 2008

Đôi lời: Một bất ngờ khi độc giả phát hiện và cho biết loạt phóng sự từ năm 2008. Không cầm được nước mắt khi thấy tấm hình Đoàn Văn Vươn áo quần xốc xếch đứng bên khu đầm nuôi tôm từ dạo đó.
Nhiều dấu hỏi muốn gửi tới những người cầm quyền từng hoàn toàn dựa vào nông dân để cướp được chính quyền.
Nhưng bữa nay chỉ xin hỏi 3 cơ quan quản lý báo chí (Ban Tuyên giáo, Bộ 4T, Bộ Công an), các vị thường soi xét những bài viết, tờ báo đưa tin “không lợi” cho đảng, nhà nước, cả cá nhân người lãnh đạo, rồi đưa ra hình thức kỷ luật, phạt, bỏ tù.  Thế nhưng có (dám/muốn) phạt những tờ báo to quyền, lắm tiền nhưng chỉ lớn giọng lúc đầu khi người dân phạm luật, còn tới lúc vỡ chuyện hé lộ tội trạng của người trong chính quyền thì im re, thậm chí còn lờ đi cả văn bản chỉ đạo của Thủ tướng? Đó là các báo Nhân dân, Công an nhân dân, Công an TP Hồ Chí Minh, v.v..? Và đặc biệt là  có khen thưởng những nhà báo, tờ báo đã dũng cảm, công phu cảnh báo sớm và vạch trần tội trạng người trong chính quyền từ nhiều năm trước, trong một vụ việc “nhạy cảm” hiếm có kiểu này?
Giá như từ ngày đó các vị được đọc bài này, hoặc đọc mà không bỏ qua, thì (biết đâu) đâu có tấn thảm kịch cho đại gia đình Đoàn Văn Vươn và cả 6 chiến sĩ bộ đội, công an, đâu có cái hậu quả rất có thể mang tới nguy cơ khó tưởng tượng cho chế độ như ngày hôm nay.
Vietnam Economic News (VEN)

Vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng):

Báo Đối ngoại VEN đã “vào cuộc” từ năm 2008

Cập nhật lúc:  10:10 17/01/2012
(VEN) – Những ngày gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến vụ việc diễn ra ở huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày 5/1/2012. Vụ việc chống lại người thi hành công vụ lực lượng cưỡng chế thuộc khu vực Cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng diễn ra làm 6 cán bộ, chiến sĩ công an, bộ đội bị thương.

Đã có nhiều luồng thông tin khác nhau về sự việc nhưng chủ yếu là những thông tin diễn ra sau ngày 5/1 hoặc một số vấn đề ngay trước đó mà chưa có dịp tiếp cận với những gì đã có từ nhiều năm trước – khi Cống Rộc còn là “nỗi kinh hoàng” của người dân Tiên Lãng.
Dẫu vậy, bằng nhiều nguồn khác nhau, bản chất của sự việc dần được nêu ra tường tận.
.
Báo đối ngoại Vietnam Economic News (VEN) (Bộ Công Thương) ngay từ năm 2008, báo đã có loạt bài phóng sự “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển”. Trên cơ sở đơn thư khiếu nại khẩn thiết của người dân, Tòa soạn đã cử phóng viên về “ba chung” tại Cống Rộc và nghiêm túc nghiên cứu hồ sơ, thực hiện chặt chẽ các quy trình trước khi cho đăng trên ấn phẩm Kinh tế Việt Nam, sau đó đăng lại trên trang điện tử http://www.ven.vn – thuộc Báo Đối ngoại Vietnam Economic News.
.
Tổng Biên tập Báo Đối ngoại VEN – cho biết: “Dù đã gần 4 năm, nhưng vẫn nhớ rất rõ vì đã phải xem xét kỹ càng hồ sơ vụ việc tới từng chi tiết trước khi duyệt đăng những bài này”.
.
Đúng ra, loạt phóng sự này ban đầu gồm 6 kỳ. Tuy nhiên, do là tuần báo và theo đề nghị của Ban biên tập nên sau đó tác giả loạt phóng sự này đã rút thành 3 kỳ.
.
Để có tài liệu và hình ảnh cho loạt phóng sự, phóng viên đã phải nhiều lần tới Vinh Quang cùng sống, ăn, ngủ những người dân giữa đầm nuôi tôm (khu vực mới bị cưỡng chế). Trong lần nghỉ lại giữa đầm tôm này, phóng viên đã có lúc phải cùng người dân thức trắng đêm do muỗi và mưa to bất ngờ ập đến. Cũng trong các chuyến công tác, phóng viên không ít lần phải giấu đi những giọt nước mắt khi nghe câu chuyện về quá trình lấn biển của ông Vươn cũng như chứng kiến tận mắt nỗi vất vả, khó khăn của những người dân nơi đây.
.
Thể theo nguyện vọng của đông đảo bạn đọc và nhằm cung cấp thêm thông tin liên quan đến “sự kiện 5/1/2012” ở Hải Phòng, Tòa soạn xin đăng tải lại 3 kỳ “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển” đã xuất bản trên ấn phẩm Kinh tế Việt Nam số 30 (ra ngày 22/7/2008), số 31 (ra ngày 29/7/2008), số 32 (ra ngày 5/8/2008) trên trang tin điện tử http://www.ven.vn./. 
.
Ngày 5/1/2012, khi hơn 100 cảnh sát, bộ đội cưỡng chế, thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, một số người đã gài mìn tự chế trong vườn, cầm súng hoa cải chống lại. Bốn cảnh sát và hai cán bộ huyện đội bị thương. Ngày 10/1, 4 bị can gồm: Đoàn Văn Quý (46 tuổi), Đoàn Văn Vươn (49 tuổi), Đoàn Văn Sịnh (55 tuổi) và Đoàn Văn Vệ (38 tuổi) bị khởi tố, bắt tạm giam về tội giết người. Phạm Thị Báu (tức Hiền, vợ ông Quý) và Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn) bị khởi tố về tội chống người thi hành công vụ, song được tại ngoại và cho áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú.
.
Chí Trung
——————–

Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển

Cập nhật lúc:  09:40 22/07/2008
(VEN) – Ôm theo gần 2kg đơn thư, tài liệu cầu cứu của những người dân ven biển huyện Tiên Lãng, chúng tôi đến Hải Phòng đúng ngày trời đổ mưa lớn đầu mùa. Vượt qua những quãng đường đất đá dưới cơn mưa tầm tã, cuối cùng chúng tôi cũng đã đến và biết được câu chuyện cảm động của những người “mở đất” và việc một số cá nhân ở huyện Tiên Lãng đang bất chấp quy định của pháp luật và đạo lý, muốn biến hàng trăm ha đất cùng hàng chục tỷ đồng của những người dân nơi đây thành việc của… “biển”.
Kỳ I: Người mang tên Vươn và hàng trăm ha đất ở Tiên Lãng đã “vươn” ra biển như thế nào?
.
Theo tài liệu của UBND huyện Tiên Lãng, thì hơn 100ha đất bồi thuộc khu vực bãi triều ven biển (ngoài đê) thuộc khu vực cống Rộc (xã Vinh Quang, Tiên Lãng) trước đây là nơi “đầu sóng ngọn gió”, mênh mông nước biển, thường xuyên đe dọa đến sự an nguy của những người dân địa phương. Mặc dù ở đây có một con đê chắn sóng quốc gia, nhưng do phía ngoài đê trống trải nên mỗi lần gió Nam mạnh cũng làm đê sạt lở, chưa nói khi mùa bão lũ đến. Người dân nơi này không ít lần chứng kiến cảnh vỡ đê và thường đi sơ tán mỗi khi nghe tin bão về.
.
Ông Mai Công Chính – 82 tuổi, nguyên cán bộ Sở Thuỷ sản Hải Phòng – kể: “Đã bao nhiêu năm gia đình tôi ở đây nên biết rất rõ nỗi cơ cực do sóng biển đe dọa. Trước đây phía Nam cống Rộc này rất đáng sợ. Chỗ nhà tôi từng bị nước biển tràn vào và chịu cảnh ngập lụt không biết bao nhiêu lần”. Còn ông Phạm Văn Danh – 79 tuổi, nguyên Bí thư Đảng uỷ xã Vinh Quang, nguyên Thường vụ huyện uỷ Tiên Lãng – thì cho biết: “Cống Rộc khi trước kinh hãi lắm, nước biển mênh mông. Không ai dám nghĩ có ngày ở đó được yên ổn chứ nói gì đến việc bỏ công sức ra đầu tư để sản xuất đâu”. Ông Danh còn kể: Khi nghe tin anh Vươn tuyên bố nhận làm ở khu cống Rộc, ông Đinh Quang Hiên – người nhiều năm đầu tư khai thác vùng ven biển ở Tiền Hải (Thái Bình) và phía Bắc xã Vinh Quang – thách đố: “Nếu thằng Vươn làm thành công tôi sẽ mất với nó một chiếc xe máy đẹp”. Đó là câu chuyện diễn ra cách nay đã hơn 15 năm.
.
Còn ngày nay, đứng trên đê quốc gia nhìn ra biển, bất cứ ai cũng có thể nhận ra những đầm nuôi trồng thuỷ sản đã được hình thành vững chắc, ổn định với diện tích rộng hàng trăm ha. Ông Chính bảo: “Nhờ có việc đầu tư công sức và hàng chục tỷ đồng của anh Vươn và những hộ dân nên tuyến đê biển này đã thực sự an toàn, người dân trong vùng được yên tâm sinh sống”. Còn để chỉnh trị vùng ven biển này, ông Chính khẳng định: “Quá trình anh Vươn làm ở đây, những con đê bảo vệ cũng vỡ nhiều lần. Có khi đắp sáng, chiều vỡ, đắp tối thì sáng hôm sau vỡ. Việc làm bấy giờ của anh ấy ví như con dã tràng xe cát. Bây giờ không thể nào nói hết công lao của anh ấy”. Ông Danh tiếp lời: “Nhiều người gàn lắm. Tôi cũng ngăn cản. Không ai ngờ là anh ấy làm được đâu. Anh Vươn như đi cải tạo 6-7 năm trời. Cả gia đình anh ấy cũng lao đao, khổ theo. Ngay đứa con gái đầu lòng của anh ấy cũng chết ở ngoài đó”… Những người dân ở Tiên Lãng vẫn kể cho nhau nghe câu chuyện này mỗi khi nhớ về quá trình lấn biển ở vùng cống Rộc. Còn với “người trong cuộc” Đoàn Văn Vươn thì sao?
.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Bắc Hưng (Tiên Lãng), định mệnh đã gắn cuộc đời của ông với biển khơi, như chính cái tên “Vươn” cùng bao khát vọng chinh phục biển – điều mà cha ông – một cán bộ đảng lâu năm – mong muốn. Sau khi rời quân ngũ năm 1986, chàng thanh niên Đoàn Văn Vươn trở về địa phương với quyết tâm tìm cách chế ngự thiên nhiên, biến nỗi kinh hoàng của biển khơi thành tiềm năng phục vụ con người.
.
Ông Đoàn Văn Vươn bên đầm nuôi trồng thuỷ sản ở Vinh Quang (Tiên Lãng)
.
Đã không ít người hồ nghi và coi việc làm của Vươn khi ấy chỉ là sự ngông cuồng của tuổi trẻ. Ông Vươn kể: “Sau khi nghiên cứu địa hình, tôi cho rằng nếu làm được, thì khu vực ấy (cống Rộc) không những sẽ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội lớn. Do đó, tôi đã lập luận chứng kinh tế kỹ thuật và huy động mọi nguồn lực để tiến hành cắt dòng chảy, từng bước khoanh vùng đắp đập ngăn nước”.
.
Hơn nửa năm trời, người ta chứng kiến hơn 750 nhân công cùng 13 tàu, xe cơ giới ngày đêm vật lộn với sóng biển ở cống Rộc. Ước tính đã có trên 23.000m3 đất đá được chuyển từ Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) và trong vùng đổ xuống biển. Từ năm 1994-1998 hàng ngàn cây giống đã được ông bỏ công sức chuyển từ đất liền ra trồng, nhưng tất cả đều bị sóng biển cuốn trôi. Không nản chí, ông tiếp tục nghiên cứu và từng bước kiên trì để tạo nên hàng rào chắn sóng bằng hàng chục tấn đất đá, cùng khoảng 140 tấn xi măng để xây kè và hàng nghìn cây bần, vẹt. Để rồi, máu cùng nước mắt có ngày được đền công: dòng chảy phía ngoài cống Rộc chuyển hướng, chân đê từ chỗ sâu 1,65m (cốt âm) được nâng lên cốt dương và hàng chục ha đất bồi cùng 60ha rừng vẹt ngăn sóng hình thành. Thành công từ việc trồng rừng chắn sóng của ông Vươn còn được các chuyên gia Nhật Bản đến tìm hiểu, nghiên cứu.
.
Nam cống Rộc được chế ngự đã giúp cho hàng trăm ha đất ven biển ở Tiên Lãng được bồi đắp mạnh hơn, tuyến đê biển được đẩy lùi vào hàng chục nghìn mét và trở nên vững chãi. Cảm khái trước tâm huyết và công sức của con người dũng cảm dám đối đầu với thiên nhiên, tết năm 1994, người con cao tuổi nhất bấy giờ của làng Chùa (Vinh Quang) đã đem pháo ra cống Rộc đốt và nói: “Việc làm của anh Vươn đã làm thay đổi cuộc sống của người dân Vinh Quang. Con cháu chúng tôi sẽ phải ghi nhớ công ơn này. Và nếu được, tôi đề nghị phải đắp tượng anh Vươn”.
.
Tuy nhiên, để biến ước mơ thành hiện thực, ông Vươn đã phải chấp nhận chuyển cả gia đình đến sống chung với bão lũ; và để có vốn, ông đã phải bán những tài sản có giá trị của gia đình, vay lãi ngân hàng, huy động người thân vào công việc lấn biển và việc ông mất đi cô con gái đầu lòng cho biển cống Rộc.
Sự nỗ lực góp phần chỉnh trị dòng chảy, giữ an toàn cho tuyến đê biển và tạo nên những đầm nuôi trồng thuỷ sản như hiện nay của ông Vươn là cả một quãng thời gian dài với bao công sức, tiền của. Những ngày đầu năm 2008, ông vẫn tiếp tục đầu tư hơn 100 triệu đồng để kè đá cho đầm tôm. Cùng với ông Vươn, ở Tiên Lãng hiện còn nhiều hộ gia đình đang sử dụng đất bồi ven biển để nuôi trồng thuỷ sản, trong đó có không ít những người như ông Vươn. Điều muốn nói ở đây là họ đã và đang đối mặt với những thách thức mới, không những từ biển mà còn từ những việc làm không tuân thủ pháp luật, thiếu tình người của một số người có trách nhiệm ở Tiên Lãng./.
.
Đón đọc kỳ II: Những việc làm ngẫu hứng khiến lòng người nổi sóng
.
Chí Trung
——————-

Cống Rộc đang “độc” vì ai?

Cập nhật lúc:  09:46 29/07/2008
VEN) – Là người có công trong việc mở mang diện tích đất bồi ven biển và có luận chứng kinh tế, hồ sơ về thuỷ lợi, nên ngày 4/10/1993, UBND huyện Tiên Lãng đã có Quyết định số 447/QĐ-UB giao 21ha bãi bồi ven biển thuộc xã Vinh Quang (cống Rộc) cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng vào mục đích nuôi trồng và khai thác thuỷ sản.
Kỳ II: Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển
.
.
Ngày 1/12/2007, ông Vươn nhận được Thông báo số 225/TB-UBND của UBND huyện Tiên Lãng về việc dừng đầu tư vùng nuôi trồng thuỷ sản với lý do thời hạn giao đất ghi 14 năm đã hết. Tiếp đó, ngày 23/4/2008 UBND huyện Tiên Lãng lại có Quyết định số 460/QĐ-UB về việc thu hồi và yêu cầu phải bàn giao lại toàn bộ 21ha đất đang sử dụng cùng các công trình có trên đất cho xã Vinh Quang quản lý trong thời gian… 15 ngày.
.
Điều đáng nói là, theo đề án và luận chứng kinh tế kỹ thuật mà ông Vươn cung cấp thì thời gian ông đăng ký nhận đầu tư 21ha đất bồi là 30 năm. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật thì, đối với loại đất bãi triều ven biển và đất mặt nước ven biển (ngoài đê) là đối tượng được khuyến khích đầu tư sử dụng và được Nhà nước hỗ trợ. Nội dung này được thể hiện khá rõ trong Luật Đất đai, Quyết định số 327-CT, ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tại Quyết định số 567/QĐ-UB, ngày 22/4/1992 của UBND TP. Hải Phòng. Cụ thể, tại khoản 1, Điều 67 Luật Đất đai năm 2003 ghi “Thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trường hợp đất được Nhà nước giao, cho thuê trước ngày 15/10/1993 thì thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày 15/10/1993”. Tại điểm 3, mục I, Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT, ngày 13/4/2005 của Bộ Tài nguyên – Môi trường cũng đã hướng dẫn cụ thể về điều này.
.
Chưa cần dẫn chiếu các văn bản khác cũng có thể thấy Quyết định 460/QĐ-UB, ngày 23/4/2008 của UBND huyện Tiên Lãng là trái với tinh thần của pháp luật hiện hành về thời hạn giao đất. Chưa hết, tại Điều II quyết định này, UBND huyện Tiên Lãng còn giao Phòng Tài nguyên và Môi trường và UBND xã Vinh Quang làm thủ tục thu hồi đất cùng toàn bộ công trình có trên đất, mà không bồi thường gì (!). Điều này là không đúng với quy định. Bởi, tại Điều 9 Quyết định số 327-CT ghi “Đối với các dự án sử dụng bãi bồi, đất trống ven biển, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có quy mô khoảng 700ha, ngang mức dân một xã, mỗi hộ gia đình được giao một số đất để nuôi tôm, cua, rau câu và 700m2 đất để làm vườn. Nhà nước đầu tư hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng theo nguyên tắc hoàn vốn bằng khấu hao. Việc xây dựng công trình nội đồng, nuôi trồng thuỷ sản do hộ gia đình đầu tư bằng vốn tự có hoặc vay vốn ngân hàng. Các bãi bồi, mặt nước nhỏ dưới 700ha do địa phương đầu tư hoặc giao cho các hộ tự làm”. Căn cứ vào nội dung của quyết định này thì gia đình ông Vươn thuộc diện được ưu tiên, tạo điều kiện để quản lý, sử dụng và còn được Nhà nước hỗ trợ trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng đối với diện tích đất trên.
Đơn thư, tài liệu do người dân cung cấp
.
Trong khi “Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp, công ty cổ phần, công ty và các hộ tư nhân, kể cả liên doanh giữa công ty hoặc tư nhân với nước ngoài đầu tư vào việc trồng trọt, chăn nuôi ở vùng đất mới” (Điều 11, Mục B Quyết định 327-CT) và tại khoản 3, Điều 67 Luật Đất đai quy định “Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng…”, nhưng UBND huyện Tiên Lãng lại không xem xét tới những điều này của Luật Đất đai và Quyết định 327-CT. Qua tìm hiểu, được biết, kể từ khi được giao đất vào năm 1993 đến nay, gia đình ông Vươn luôn chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về quản lý và sử dụng đất. Thậm chí, ông còn bỏ khá nhiều công sức, tiền của để củng cố đê kè, góp phần tích cực cải tạo vùng đất bồi hiệu quả và giữ yên cho cả vùng. Mặt khác, ông Vươn còn được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Liên chi hội Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ huyện Tiên Lãng từ năm 1993 đến nay và ông đã có nhiều đơn xin được tiếp tục giao 21ha trên để sản xuất, nhưng không được giải quyết. Vậy nguyên nhân và động cơ nào khiến UBND huyện Tiên Lãng ban hành Quyết định 460/QĐ-UB?
.
Trước quyết định “ngẫu hứng” này, ông Vươn tiếp tục khiếu nại, nhưng tất cả vẫn bị rơi vào quên lãng. Ông Vươn phẫn uất: “Tôi đã bỏ bao tâm huyết, tiền bạc vào đây, chấp nhận để cả gia đình cơ cực để lo làm ăn, góp phần giữ đất, giữ quê. Thậm chí, con gái tôi cũng chết vì khu cống Rộc này, vậy mà… Nhưng ở đây còn nhiều người khác cũng đang khổ sở, như ông Luân, ông Trong, ông Tin, ông Đọc, ông Tiêu….”. Còn những người dân ở Vinh Quang thì lại bất bình và bức xúc cho ông. Đối với nguyên Uỷ viên thường vụ Huyện uỷ Tiên Lãng Phạm Văn Danh thì: “Khi anh Vươn trình dự án lên UBND huyện năm 1993, huyện cho rằng hão huyền. Vậy mà làm được, góp phần làm bồi nhanh cho cả khu vực”. Ông Danh bức xúc tuyên bố: “Nếu theo quyết định của Chủ tịch huyện (Quyết định 460/QĐ-UB) là cướp trắng của người ta”.
.
Sự phẫn nộ về những quyết định và việc làm kỳ quặc được phát ra từ UBND huyện Tiên Lãng sẽ còn được đề cập trong bài viết tiếp sau. Ở đây chỉ nói lên một thực tế là niềm tin của người dân nơi đây đối với chính quyền địa phương đang bị phai nhạt dần vì một số vụ việc va chạm giữa dân và các cơ quan chính quyền địa phương đã diễn ra từ nhiều năm nay. Trong thời gian có mặt ở Hải Phòng, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến nỗi bức xúc và tiếp nhận một khối lượng lớn đơn thư, tài liệu do người dân cung cấp xung quanh những quyết định liên quan đến vấn đề đất đai do UBND huyện Tiên Lãng ban hành./.
.
Kỳ cuối: Hàng trăm hécta đất cùng nhiều tỷ đồng của dân có phải là việc của… biển?
.
Liêu Chí Trung
———-

Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển

Cập nhật lúc:  10:00 05/08/2008
(VEN) – Như đã đề cập, cùng với gia đình ông Vươn, chúng tôi còn nhận được đơn thư và phán ánh của hơn 20 hộ gia đình nuôi trồng thủy sản ở huyện Tiên Lãng.
Kỳ cuối: Hàng trăm hécta đất cùng nhiều tỷ đồng của dân có phải là việc của… biển?
Lá đơn tập thể của hơn 20 hộ gia đình ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng.
Trong lá đơn dài 11 trang của ông Vũ Văn Luân (xóm 9, xã Hùng Thắng, Tiên Lãng) gửi các cơ quan chức năng, có đoạn viết: “Căn cứ vào Quyết định số 471 ngày 2/8/1999 và căn cứ vào Quyết định giao đất số 415 ngày 10/3/2000, chúng tôi khẳng định UBND huyện Tiên Lãng giao đất trái pháp luật”. Cùng với việc phân tích về những việc làm “chẳng giống ai” của chính quyền địa phương, ông Luân cho biết, gia đình ông đã làm nhiều đơn thư và được các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương yêu cầu UBND huyện Tiên Lãng giải quyết dứt điểm vụ việc theo đúng pháp luật, nhưng đã hơn 2 năm vẫn không có hồi âm. Chung cảnh ngộ với hộ ông Vươn, ông Luân, còn có gia đình các ông Lương Văn Trong, Hoàng Văn Tin, Nguyễn Văn Tiêu, Nguyễn Thế Đọc… cũng đang chịu nỗi cơ cực vì “bão tố” không đến từ biển. Xin lưu ý, từ tháng 1/1992 đến trước ngày 15/10/1993 – trước khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực – UBND huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục giao đất nuôi trồng thủy sản cho 18 hộ với tổng diện tích trên 370ha.
.
Ngày 2/6/2008, chúng tôi tìm đến UBND huyện Tiên Lãng để tìm câu trả lời của những người có trách nhiệm. Trước những bức xúc của các hộ gia đình đang nuôi trồng thủy sản ở xã Vinh Quang, ông Ngô Văn Khánh – Chánh văn phòng UBND huyện Tiên Lãng – khẳng định “Những đầm đến bây giờ hết hạn, chúng tôi sẽ thu hồi để giao cho địa phương, cho xã quản lý, để đỡ gây nên phức tạp. Hơn nữa, quản lý của huyện thực tế cũng không thường xuyên, trực tiếp”. Giải thích về việc tại sao huyện lại không giao cho hộ ông Vươn và những hộ khác thời gian 20 năm như quy định của pháp luật mà chỉ là 12 đến 15 năm, ông Khánh trả lời bằng cách… chuyển đề tài, rồi lấy lý do bận việc và giới thiệu chúng tôi đến gặp lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, vì “đó là nơi trực tiếp quản lý tài liệu, giấy tờ”.
.
Vẫn với những thắc mắc trên, chúng tôi nhận được giải thích từ Phó phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Tiên Lãng – Phạm Văn Trống: “Trong quyết định có ghi thời hạn giao đất, nên khi hết thời hạn thì Nhà nước thu hồi theo Điều 38, Điều 45 của Luật Đất đai”. Nhưng khi đối chiếu với Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác, chúng tôi không tìm thấy quy định nào phù hợp hoặc liên quan đối với trường hợp này. Khi được hỏi: “Vì sao các hộ gia đình ông Vươn, ông Trong, ông Tin…, dù chấp hành tốt các quy định, được giao đất trước ngày 15/10/1993 và đã có đơn xin tiếp tục được giao đất nhiều lần lại không được chấp nhận. Trong khi, tại Báo cáo số 68/BC-UBND ngày 25/12/2006 (sau khi có Kế hoạch 58/KH-UB) lại có 18 hộ ở Vinh Quang được huyện giao mới 67,45ha đất với thời hạn… 20 năm?”. Ông Trống “giải thích” rằng: “Đối với 18 hộ ở Vinh Quang, anh em tôi có ra quyết định giao, cho thuê đất. Đến thời điểm này quyết định vẫn chưa thực hiện và anh em tôi cũng đang báo cáo để xem xét lại việc giao đất năm 2005”.
.
Xin nói thêm, một trong những “căn cứ” để thu hồi đất của các hộ nói trên là Kế hoạch số 58/KH-UB, được UBND huyện này ban hành vào ngày 1/12/2004. Chưa nhắc tới nội dung, ngay từ khi ra đời văn bản này đã có vấn đề. Theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Luật Đất đai năm 2003 thì “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp”. Tuy nhiên, Kế hoạch 58/KH-UB của UBND huyện Tiên Lãng lại không được gửi cho UBND TP. Hải Phòng, nhưng vẫn được dùng làm cơ sở để ban hành hàng loạt các quyết định quy hoạch, giao và thu hồi đất (!). Chưa hết, trong phần thu hồi đất, Kế hoạch 58 ghi “Không được đền bù tiền đất và công trình xây dựng đã đầu tư trên diện tích thu hồi”. Điều này có nghĩa, những hộ gia đình được giao đất trước ngày 15/10/1993 ở Vinh Quang sẽ bị thu hồi mà không được bồi thường. Như vậy là trái với quy định của Điều 41, Điều 42 Luật Đất đai.
.
Về quyết định thu hồi đối với diện tích đất giao cho các hộ (từ 12 đến 15 năm) trước ngày 15/10/1993, trái với quy định tại Điều 67, Luật Đất đai và các văn bản pháp luật, ông Trống cho rằng “tùy từng địa phương, người ta giao cho bao nhiêu, quyết định thời hạn là bao nhiêu, mà không cứ phải 20 năm”.
.
Chưa kể, theo “quan điểm” mà “Kế hoạch 58” đưa ra thì huyện Tiên Lãng chủ trương sẽ xé nhỏ hàng trăm ha đất mà các hộ gia đình đang được giao sử dụng ổn định để cho đấu thầu theo các lô, có diện tích từ 1-5ha/lô. Nghe qua, tưởng hay, nhưng điều này là vô cùng nguy hiểm. Bởi, diện tích đất trên không giống như nền trụ sở UBND huyện Tiên Lãng, mà là đất bồi ven biển – mới được hình thành hơn 10 năm gần đây, nền đất còn nhiều biến động. Càng phi thực tế hơn khi những nền đất này để hình thành nên những đầm nuôi trồng thủy sản ven biển – vốn cần quy hoạch chắc chắn, có thời gian đầu tư lâu dài ổn định. Điều này còn mâu thuẫn với mong muốn “hình thành một vùng nuôi trồng thủy sản bền vững, hiệu quả theo hướng công nghiệp” như các văn bản mà chính quyền huyện Tiên Lãng dùng để báo cáo với cấp trên và làm cơ sở để quy hoạch phát triển.
.
Cũng cần nói thêm, thời gian qua UBND huyện Tiên Lãng đã giao hàng trăm ha đất cho Công ty Việt Mỹ và hàng chục ha cho Tổng đội thanh niên xung phong với thời hạn từ 27 đến 40 năm, cùng với mục đích nuôi trồng thủy sản, nhưng vẫn chưa sử dụng có hiệu quả. Trong khi đó, các hộ gia đình như ông Vươn, ông Luân, ông Tin, ông Đọc… không những đã có công trong việc đầu tư, khai khẩn, đang làm ăn ổn định và mong muốn được tiếp tục nhận giao đất để sản xuất theo đúng quy định của pháp luật thì lại bị từ chối theo cái “lý” của UBND huyện Tiên Lãng (?!)
.
Xin chuyển những vấn đề này tới các cơ quan có thẩm quyền với mong muốn những băn khoăn của người dân sẽ sớm được làm rõ./.
.
Chí Trung
.