Tình hình và xu hướng chính trị tại Việt Nam hiện nay
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái) và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
|
Theo dõi tình hình chính trị Việt Nam, hầu như giới quan sát, từ người
Việt đến người ngoại quốc, đều đi đến kết luận giống nhau: Chưa bao giờ
Việt Nam yếu như hiện nay.
Tuy nhiên, nói đến cái yếu của Việt Nam, phần lớn đều tập trung vào quan hệ đối ngoại, chủ yếu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có thể nói, ở châu Á, không có nước nào bị Trung Quốc “ăn hiếp” nhiều như Việt Nam. Với Nhật Bản hay Philippines, họ chỉ dòm ngó một hai hòn đảo; với Việt Nam, họ dòm ngó cả chùm đảo và cả một vùng biển mênh mông. Với các nước khác, lâu lâu họ đưa tàu đánh cá hay tàu hải giám lượn qua lượn lại vài vòng thị uy; với Việt Nam, họ tung tàu đánh cá và tàu hải giám ào ạt như vào chỗ không người, hơn nữa, còn bắt bớ, thậm chí, hãm hại cả ngư dân Việt Nam. Cũng có thể nói, trước sự đe dọa của Trung Quốc, không có nước nào có phản ứng nhu nhược như Việt Nam. Nhật Bản dám dọa đánh chìm tàu Trung Quốc, Philippines đem Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế, còn Việt Nam? Ngay cả một lời lên án, họ cũng không dám nói; và khi, trước áp lực của dân chúng, phải nói, thì chỉ nói một cách… thì thầm. Vừa lên án vừa run lẩy bẩy.
Tuy nhiên, cái yếu của Việt Nam còn thể hiện ở nhiều lãnh vực khác nữa. Phân tích những cái yếu ấy, chúng ta dễ thấy xu hướng phát triển của tình hình chính trị tại Việt Nam hiện nay.
Trước hết là lãnh đạo yếu.
Nói đến lãnh đạo chủ yếu là nói đến đảng Cộng sản, và nói đến “yếu” là nói đến tương quan quyền lực với các thiết chế khác. Công thức phân quyền ở Việt Nam, ai cũng biết, là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý”. Suốt hơn nửa thế kỷ, hầu như mọi quyền lực đều nằm trong tay đảng. Còn nhà nước, như chính lời thú nhận của Phạm Văn Đồng, người làm Thủ tướng lâu nhất ở Việt Nam (1955-1987), với những người quen: Chưa có ai làm Thủ tướng lâu mà bất lực như ông. Ông không những bị lép vế trước Lê Duẩn, Tổng Bí thư, mà còn bị lép vế cả trước Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng. Là Thủ tướng, Phạm Văn Đồng hoàn toàn không có quyền hạn gì trong việc chọn lựa, bổ nhiệm hoặc cách chức các Bộ trưởng hay Thứ trưởng, thậm chí, các giám đốc Sở ở địa phương. Quyền lực tập trung hết trong tay giới lãnh đạo đảng, chủ yếu là Tổng Bí thư. Tuy nhiên, sau Lê Duẩn, rõ ràng quyền lực của Tổng Bí thư cứ giảm dần. Quyền lực của các Tổng Bí thư kế tiếp Lê Duẩn, từ Trường Chinh (14/7/1986-18/12/1986) đến Nguyễn Văn Linh (1986-1991) và Đỗ Mười (1991-1997), không thể so sánh được với Lê Duẩn. Tuy nhiên, dù vậy, họ vẫn giống như những ông vua. Yếu thế, nhưng vẫn là vua. Chỉ từ Lê Khả Phiêu (1997-2001) trở đi, quyền lực của Tổng Bí thư mới bắt đầu mờ nhạt. Hơn nữa, càng lúc càng mờ nhạt. Nông Đức Mạnh (2001-2011) mờ nhạt hơn Lê Khả Phiêu. Đến nay, mờ nhạt nhất là Nguyễn Phú Trọng, người được lên làm Tổng Bí thư từ ngày 19 tháng 1 năm 2011.
Vai trò mờ nhạt của Nguyễn Phú Trọng thể hiện rõ nhất là qua hai lần thua cuộc trước Nguyễn Tấn Dũng. Lần thứ nhất, ở hội nghị Trung ương 6 vào tháng 10 năm 2012, khi Nguyễn Phú Trọng liên kết với Trương Tấn Sang tấn công Nguyễn Tấn Dũng - người được gọi là “đồng chí X” -, nhưng cuối cùng, cả hai đều thất bại. Lần thứ hai, mới đây, ở hội nghị Trung ương 7 vào đầu tháng 5/2013, Nguyễn Phú Trọng lại thất bại trước Nguyễn Tấn Dũng lần nữa khi đề nghị đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị nhưng bị Trung ương đảng bác bỏ. Thế vào đó, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân được bầu. Cả hai đều là người của Nguyễn Tấn Dũng.
Có thể nói, trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, chưa bao giờ có một Tổng Bí thư nào lại thua cuộc một cách thê thảm và nhục nhã đến như vậy.
Nhưng việc Tổng Bí thư và cùng với ông, cả cái Đảng do ông lãnh đạo yếu thế và việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chứng tỏ quyền lực mạnh mẽ của mình như vậy có làm cho chính phủ mạnh hơn không?
Không.
Thủ tướng mạnh. Nhưng chính phủ vẫn yếu. Nguyễn Tấn Dũng mạnh đủ để thoát các đòn tấn công hiểm hóc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nhà nước Trương Tấn Sang, nhưng chính phủ do ông cầm đầu, trên nguyên tắc, vẫn phải được lãnh đạo bởi đảng. Các chính sách lớn vẫn do đảng quyết định.
Như vậy, ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý: Người có chức năng lãnh đạo thì yếu; còn người mạnh lại không thể lãnh đạo. Hậu quả là ở Việt Nam hiện nay, giới cầm quyền, từ đảng đến chính phủ, chỉ quản lý (management) chứ không hề có lãnh đạo (leadership). Sự khác biệt căn bản giữa quản lý và lãnh đạo là với quản lý, người ta chỉ làm theo mệnh lệnh và chỉ nhắm tới những mục tiêu ngắn hạn; nhưng khi không có lãnh đạo, người ta vừa không có tầm nhìn xa lại vừa không có mệnh lệnh cụ thể để thực hiện. Một nền quản lý thiếu lãnh đạo bao giờ cũng vừa thiển cận vừa lúng túng, vá víu và đầy mâu thuẫn. Chúng ta có thể thấy rõ những điều đó qua các chính sách và cung cách làm việc của nhà cầm quyền Việt Nam những năm gần đây. Rõ nhất là qua cuộc thảo luận về thay đổi Hiến pháp do chính họ đề xướng. Thoạt đầu, bảo không có vùng cấm trong thảo luận; sau, lại lên án kịch liệt những người kiến nghị. Thoạt đầu, hứa hẹn như một sự thay đổi lớn lao; sau, cứ thu hẹp dần lại. Thoạt đầu, định thay đổi cả tên nước; sau, lại loại bỏ ý định ấy, v.v.. Nhưng nguy hiểm nhất là thái độ lúng ta lúng túng của họ trong việc đấu tranh với Trung Quốc để bảo vệ độc lập và chủ quyền lãnh thổ. Ngoài vài lời thề nguyền là sẽ không bán nước, cho đến nay, vẫn không có ai trong giới lãnh đạo phác họa được một chiến lược rõ ràng, chưa nói đến việc có hiệu quả hay không. Một chút rõ ràng cũng không có.
Đảng lãnh đạo yếu, chính phủ cũng yếu, hậu quả tất nhiên là đất nước yếu theo. Tất cả những sự nhu nhược được đề cập ở phần đầu bài viết này đều là hậu quả của hai cái yếu ấy. Ngư dân Việt Nam đi đánh cá ngoài biển cả bị “tàu lạ” đâm chìm, bắt bớ hay giết chết, không có ai can thiệp. Dân chúng hàng ngày phải ăn uống hoặc tiêu dùng những thứ độc hại được nhập cảng chính thức hay qua các con đường không chính thức không hề được ai bảo vệ. Kinh tế ngày càng kiệt quệ, gánh nặng nợ nần trên đầu người càng ngày càng chồng chất, không có ai quan tâm. Những người có lòng với đất nước đứng lên chống lại Trung Quốc bị đối xử như tội phạm. Mở các trang báo ngoại quốc, mỗi khi thấy tin tức về Việt Nam, đoán mười lần đến chín lần đúng: tin xấu. Nếu không phải tham nhũng thì là trấn áp.
Đảng yếu, chính phủ cũng yếu. Vậy thì ai mạnh?
Thứ nhất, các phe phái mạnh.
Thật ra, đảng Cộng sản lúc nào cũng có nạn phe phái. Trong hồi ký của mình, Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Ban chấp hành Trung ương đảng và Tổng biên tập báo Nhân Dân, giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, kể, lúc Hồ Chí Minh còn sống và ngay cả trước mặt Hồ Chí Minh, các thành viên trong Bộ Chính trị cũng không thèm nói chuyện với nhau. Hồ Chí Minh khuyên mấy cũng không được. Nhưng, dù vậy, những sự xung khắc ấy chỉ dừng lại ở phạm vi cá nhân. Không có phe hay nhóm nào dám công khai chống lại phe Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Thành ra, Lê Duẩn và dưới bóng Lê Duẩn, Lê Đức Thọ tha hồ tác oai tác quái. Sau này, các phe phái nổi lên rõ hơn, nhưng không có lúc nào các phe phái lại tấn công nhau một cách công khai như bây giờ. Trước, nếu tranh chấp, hầu như chỉ dừng lại trong phạm vi mấy người trong Bộ Chính trị với nhau; bây giờ, chúng bày ra trước Trung ương đảng gồm cả gần 200 người; hơn nữa, còn tràn ra cả trước quần chúng, dù được ngụy trang dưới mật danh “đồng chí X”.
Thứ hai, vai trò của các nhóm lợi ích. Cần nói ngay, ở nước nào cũng có các nhóm lợi ích luôn tìm cách ảnh hưởng đến các chính sách của nhà nước. Ở các quốc gia dân chủ, các nhóm lợi ích ấy có thể là các nhà tài phiệt, các công đoàn, các tổ chức xã hội dân sự, các hội nghề nghiệp, v.v.. Các nhóm lợi ích ấy thường hoạt động công khai, một cách trực tiếp, dưới hình thức kiến nghị hoặc thậm chí, đình công và biểu tình, hoặc qua trung gian các cơ quan lobby chính thức, chuyên đi ngả tắt. Ở Việt Nam, trước đây, ngay cả sự hiện diện của cái gọi là “nhóm lợi ích” như thế cũng không thể có, thậm chí, không thể tưởng tượng được. Thế nhưng gần đây, các nhóm lợi ích ấy lại phát triển rất mạnh và khuynh đảo cả tình hình chính trị Việt Nam.
Theo Trần Kinh Nghị, chiến thắng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Nguyễn Phú Trọng trong hai kỳ hội nghị 6 và 7 của Trung ương đảng vừa qua chính là chiến thắng của nhóm lợi ích đối với nhóm bảo thủ. Mới đây, trong bài “Đổi luật chơi trong đảng”, nhà bình luận chính trị Ngô Nhân Dụng cũng có quan niệm tương tự khi cho lý do chính khiến Nguyễn Tấn Dũng chiến thắng liên tiếp là nhờ biết sử dụng một thứ luật chơi mới: dựa trên tiền.
Thường, để cai trị, người ta sử dụng một trong hai, hoặc cả hai yếu tố: quyền và tiền. Quyền để khai thác lòng sợ hãi; tiền để kích thích lòng tham. Trước, người ta chỉ dùng quyền; bây giờ, người ta dùng cả quyền lẫn tiền. Theo Ngô Nhân Dụng:
“Từ khi làm thủ tướng năm 2006, […] Nguyễn Tấn Dũng tập trung quyền điều động các xí nghiệp quốc doanh vào phủ thủ tướng, thay vì chia quyền cho các “bộ chủ quản” theo lối cũ. Từ đó, người đóng vai thủ tướng tạo cơ hội kiếm tiền cho tay chân của mình; phân phát cơ hội kiếm tiền để mua lòng trung thành của đồng đảng. Các ủy viên Trung Ương Ðảng được chia chỗ trong Hội Ðồng Quản Trị của các doanh nghiệp nhà nước. Các chương trình kinh tế đều nhằm tạo cơ hội kiếm tiền cho những thủ túc chứng tỏ lòng trung thành. Khi người dân Việt Nam nhận thấy cả guồng máy cai trị là một mạng lưới tham nhũng chằng chịt liên kết với nhau, người cầm đầu mạng lưới đó là ông thủ tướng.”
Như vậy, cái mà Trần Kinh Nghị gọi là nhóm lợi ích ấy chủ yếu là những kẻ vừa có quyền vừa có tiền. Sức mạnh của Nguyễn Tấn Dũng so với Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang chính là sức mạnh của nhóm lợi ích vừa có quyền vừa có tiền ấy.
Sự thao túng của nhóm lợi ích ấy dẫn đến hai hệ quả:
Thứ nhất, nó tạo ra một vẻ dân chủ giả, thường được gọi là dân chủ trong nội bộ đảng (intra-Party democracy). Bộ Chính trị đề nghị kỷ luật Thủ tướng, Trung ương đảng bác bỏ: Bộ Chính trị chịu thua. Tổng Bí thư đích thân đề cử Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị, Trung ương đảng bác bỏ: Tổng Bí thư chịu thua. Giới quan sát chính trị quốc tế, ở xa, dễ ngỡ đó là dân chủ. Nhưng không phải. Một là, thứ dân chủ nội bộ ấy không biến thành dân chủ xã hội (social democracy). Hai là, nó chỉ là cuộc đấu đá quyền lực trong nội bộ. Chứ không phải là dân chủ.
Thứ hai, sự thắng thế của các nhóm lợi ích vừa có quyền vừa có tiền ấy biến đảng Cộng sản thành một đám mafia không những khuynh loát chính trị mà còn vét kiệt hết tài nguyên của đất nước và tài sản của dân chúng, ngay cả của những người dân chưa ra đời (với số nợ khổng lồ nó tạo ra!).
Điều đáng chú ý là tất cả các hiện tượng trên, từ chuyện đảng và chính phủ yếu đến chuyện phe phái và các nhóm lợi ích mạnh đều cũng xuất hiện ở Trung Quốc. Trong bài “The end of the CCP’s resilient authoritarianism? A tripartite assessment of shifting power in China” đăng trên tạp chí The China Quarterly năm 2012, Cheng Li cũng phân tích các hiện tượng tương tự tại Trung Quốc. Chỉ có hai sự khác biệt lớn. Thứ nhất, ở mức độ: Cũng yếu, nhưng cái yếu của đảng và chính phủ Việt Nam ở mức trầm trọng hơn hẳn ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc, quyền hạn của Chủ tịch đảng chưa bao giờ bị thách thức một cách nghiêm trọng như ở Việt Nam. Quyền lực của Tập Cận Bình cũng như của Hồ Cẩm Đào chưa bao giờ lớn bằng Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình nhưng dù sao vẫn nghiêng trời lệch đất; cả Trung ương đảng cũng không dám chống lại. Thứ hai, theo Cheng Li, nhiều nhà phân tích chiến lược tin tưởng: đảng Cộng sản Trung Quốc có thể yếu và càng ngày càng yếu, nhưng đất nước Trung Quốc thì vẫn mạnh.
Còn Việt Nam?
Chính cái mạnh không cưỡng nổi của Trung Quốc là một tai họa cho Việt Nam. Việt Nam càng yếu, cái họa ấy càng lớn.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Đối thoại Shangri La: Việt Nam tố cáo những hành động biểu hiện sức mạnh đơn phương trong vùng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn đề dẫn cho hội nghị an ninh khu vực - Đối thoại Shangri-La tại Singapore ngày 31/05/2013. (REUTERS/Edgar Su)
RFI
Hôm nay, 31/05/2013, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đọc diễn văn đề dẫn cho hội nghị an ninh khu vực - Đối thoại Shangri -La, được tổ chức tại Singapore. Chủ đề chính của bài diễn văn đề dẫn là “Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á – Thái Bình Dương.''
Sau khi khẳng định là Việt Nam tin tưởng vào tương lai tươi sáng của khu vực, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảnh báo, với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự, nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực, cũng tiềm ẩn những rủi ro tiêu cực cần phải phòng ngừa.
Ông Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, nhìn lại toàn cảnh khu vực trong những năm qua, “chúng ta cũng không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh". Theo thủ tướng Việt Nam, những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến phức tạp.
Tuy không nói rõ tên Trung Quốc, nhưng thủ tướng Việt Nam tố cáo: “Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”.
Về cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực, thủ tướng Việt Nam nhận định, các nước trong vùng không phản đối sự can dự chiến lược của các nước ngoài, nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Ông khẳng định, các nước trong khu vực coi trọng vai trò của Trung Quốc và Mỹ và ủng hộ hành động của hai cường quốc này nếu như chiến luợc và việc làm của Washington và Bắc Kinh tuân thủ pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia.
Cụ thể về hồ sơ Biển Đông, thủ tướng Việt Nam kêu gọi “ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin, chiến lược và trước hết là thực hiện nghiêm túc Tuyên bố chung về ứng xử của các bên tại Biển Đông – DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử COC “.
Cũng vào dịp này, ông Nguyễn Tấn Dũng chính thức tuyên bố “Việt Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự”.
Hôm nay, 31/05/2013, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đọc diễn văn đề dẫn cho hội nghị an ninh khu vực - Đối thoại Shangri -La, được tổ chức tại Singapore. Chủ đề chính của bài diễn văn đề dẫn là “Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á – Thái Bình Dương.''
Sau khi khẳng định là Việt Nam tin tưởng vào tương lai tươi sáng của khu vực, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảnh báo, với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự, nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực, cũng tiềm ẩn những rủi ro tiêu cực cần phải phòng ngừa.
Ông Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, nhìn lại toàn cảnh khu vực trong những năm qua, “chúng ta cũng không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh". Theo thủ tướng Việt Nam, những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến phức tạp.
Tuy không nói rõ tên Trung Quốc, nhưng thủ tướng Việt Nam tố cáo: “Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”.
Về cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực, thủ tướng Việt Nam nhận định, các nước trong vùng không phản đối sự can dự chiến lược của các nước ngoài, nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Ông khẳng định, các nước trong khu vực coi trọng vai trò của Trung Quốc và Mỹ và ủng hộ hành động của hai cường quốc này nếu như chiến luợc và việc làm của Washington và Bắc Kinh tuân thủ pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia.
Cụ thể về hồ sơ Biển Đông, thủ tướng Việt Nam kêu gọi “ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin, chiến lược và trước hết là thực hiện nghiêm túc Tuyên bố chung về ứng xử của các bên tại Biển Đông – DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử COC “.
Cũng vào dịp này, ông Nguyễn Tấn Dũng chính thức tuyên bố “Việt Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự”.
Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại Shangri La
Blogger Đông A: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật tạo ra những hình ảnh trái chiều trong mắt tôi. Bài phát biểu của ông khai mạc Đối thoại Shangri La
tạo cho tôi ấn tượng giống như hồi ông phát biểu về Hoàng Sa, Trường
Sa trước Quốc Hội. Mỗi khi ông phát biểu, đánh giá về ông lại phức tạp
và khó khăn hơn. Nếu so sánh những phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng với những nhân vật nguyên thủ khác, như ông Nguyễn Phú Trọng, có
thể thấy một tầm tư duy và chiến lược vượt trội của ông Nguyễn Tấn
Dũng. Dẫu biết rằng các phát biểu của nguyên thủ chưa chắc đã do chính
tay các nguyên thủ chấp bút, nhất là trong bối cảnh chính trị Việt Nam,
có khi bị duyệt lên duyệt xuống qua tay nhiều người, nhưng rõ ràng các
phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng vượt xa các phát biểu của ông Nguyễn
Phú Trọng. Điểm khác biệt đó chỉ có thể giải thích được bằng sự khác
biệt giữa ông Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng, bất kể các phát biểu
có phải do chính các ông chấp bút hay không.
Vậy ông Nguyễn Tấn Dũng thực sự là con người như thế nào? Có nên nghi ngờ giữa lời nói và hành động của ông không? Tôi nghĩ vấn đề mấu chốt là ông Nguyễn Tấn Dũng cần phải lấy lại niềm tin từ dân chúng. Rõ ràng khi nhậm chức Thủ tướng dân chúng vẫn tràn đầy niềm tin ở ông, nhưng càng ngày niềm tin càng mất dần. Và niềm tin chỉ có thể vực dậy bằng hành động, không phải bằng lời nói. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có muốn có "lòng tin chiến lược" từ dân chúng không?
Tôi nghĩ ông Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật chính trị thú vị, đa chiều, đa ảnh, rất đáng để quan sát và xem ông ứng xử các tình thế chính trị như thế nào. Nhưng vị thế vừa là người quan sát, vừa là dân chúng của chúng ta cần phải như thế nào? Ít nhất cần phải tẩy sạch định kiến và những đường nhăn cũ trong tư duy.
Hỏi về tài liệu gốc:
Các nguồn tin trên mạng đều dẫn chiếu câu nói "Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng, nếu tôi không chống được tham nhũng tôi xin từ chức ngay" về bài phát biểu khi nhậm chức Thủ tướng của ông Nguyễn Tấn Dũng năm 2006. Tôi tra google nhưng không tìm thấy tài liệu gốc. Có bạn đọc nào có tài liệu gốc không? Liệu chúng ta có bị xỏ mũi vào một câu phát ngôn không có thật?
Đông A
http://www.youtube.com/watch?v=8I-7U_55Sjw&feature=player_embedded
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng |
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu khai mạc Đối thoại Shangri-La 2013
Chiều tối nay, 31/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu dẫn đề khai mạc Đối thoại Shangri-La 2013 tại Singapore. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng.
Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á
Thưa Ngài Thủ tướng Lý Hiển Long,
Thưa Tiến sĩ Giôn Chip - man,
Thưa Quý vị và các bạn,
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn ngài Lý Hiển Long, Thủ tướng nước chủ nhà Singapore, Tiến sĩ Giôn Chip-man và Ban Tổ chức Đối thoại Shangri-La 12 đã mời tôi dự và phát biểu khai mạc diễn đàn quan trọng này. Sau 12 năm kể từ khi ra đời, Đối thoại Shangri-La thực sự đã trở thành một trong những diễn đàn đối thoại về hợp tác an ninh thực chất và hữu ích nhất ở khu vực. Tôi tin rằng sự có mặt của đông đảo các quan chức Chính phủ, các nhà lãnh đạo quân đội, các học giả có uy tín và toàn thể Quý vị tại đây thể hiện sự quan tâm, nỗ lực cùng nhau gìn giữ hòa bình và an ninh cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong một thế giới đầy biến động.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu dẫn đề Đối thoại Shangri-la
Thưa Quý vị và các bạn,
Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.
Trong thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung vốn là chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình. Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương. Đó cũng là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ với quý vị và các bạn tại diễn đàn hôm nay.
Trước hết, Việt Nam chúng tôi có niềm tin sâu sắc vào tương lai tươi sáng trong hợp tác phát triển của khu vực, nhưng với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự - nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực cũng tiềm ẩn những rủi ro tiêu cực mà chúng ta cần phải cùng nhau chủ động ngăn ngừa.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và là nơi tập trung ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và nhiều nền kinh tế mới nổi. Xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc, đa lĩnh vực đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng thể hiện là xu thế chủ đạo. Điều này là cơ hội hết sức lạc quan cho tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, nhìn lại bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua, chúng ta cũng không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh.
Cạnh tranh và can dự vốn là điều bình thường trong quá trình hợp tác và phát triển. Nhưng nếu sự cạnh tranh và can dự đó mang những toan tính chỉ cho riêng mình, bất bình đẳng, trái với luật pháp quốc tế, thiếu minh bạch thì không thể củng cố lòng tin chiến lược, dễ dẫn tới chia rẽ, nghi kỵ và nguy cơ kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển.
Những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.
Tôi muốn lưu ý thêm rằng lưu thông trên biển chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa ngày càng lớn. Theo nhiều dự báo, sẽ có trên 3/4 khối lượng hàng hóa thương mại toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển và 2/3 số đó đi qua Biển Đông. Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường.
Trong khi đó, các nguy cơ xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, ly khai, bạo loạn, khủng bố, an ninh mạng… vẫn hiện hữu. Những thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, nước biển dâng; dịch bệnh; nguồn nước và lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn, hạ nguồn của các con sông chung… ngày càng trở nên gay gắt.
Có thể nhận thấy những thách thức và nguy cơ xung đột là không thể xem thường. Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.
Thứ hai, để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.
Trong lịch sử thế giới, nhiều dân tộc đã phải gánh chịu những mất mát không gì bù đắp được khi là nạn nhân của tham vọng cường quyền, của xung đột, chiến tranh. Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng tin chiến lược.
Mỗi quốc gia luôn phải là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa bình và an ninh chung. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cao hơn là có lòng tin chiến lược vào nhau. Các nước lớn có vai trò và có thể đóng góp nhiều hơn, đồng thời có trách nhiệm lớn hơn trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Mặt khác, tiếng nói đúng đắn cũng như sáng kiến hữu ích không phụ thuộc là của nước lớn hay nước nhỏ. Nguyên tắc hợp tác, đối thoại bình đẳng, cởi mở trong ASEAN, các diễn đàn do ASEAN khởi xướng và ngay Đối thoại Shangri-La của chúng ta cũng được hình thành và duy trì trên cơ sở tư duy đó.
Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Ngài Xu-xi-lô Bam-bang Dút-đô-dô-nô, Tổng thống nước Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, tại diễn đàn này năm ngoái là các nước vừa và nhỏ có thể gắn kết cùng các nước lớn vào một cấu trúc bền vững ở khu vực. Tôi cũng đồng tình với ý kiến của Ngài Thủ tướng Sinh-ga-po Lý Hiển Long trong bài phát biểu tại Bắc Kinh tháng 9/2012 cho rằng sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ đóng góp tích cực cho lợi ích chung của khu vực. Chúng ta đều hiểu rằng Châu Á - Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước trong và ngoài khu vực cùng hợp tác và chia sẻ lợi ích. Tương lai của Châu Á - Thái Bình Dương đã và sẽ tiếp tục được tạo dựng bởi vai trò và sự tương tác của tất cả các quốc gia trong khu vực và cả thế giới, nhất là các nước lớn và chắc chắn trong đó không thể thiếu vai trò của ASEAN.
Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. Điều quan trọng là sự kỳ vọng đó cần được củng cố bằng lòng tin chiến lược và lòng tin chiến lược cần được thể hiện thông qua những hành động cụ thể mang tính xây dựng của các quốc gia này.
Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm là, các cơ chế hợp tác hiện có trong khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… cũng như Đối thoại Shangri-La đã tạo ra nhiều cơ hội để đẩy mạnh hợp tác an ninh đa phương và tìm giải pháp cho những thách thức đang đặt ra. Nhưng có thể nói rằng, vẫn còn thiếu – hay ít nhất là chưa đủ - lòng tin chiến lược trong việc thực thi các cơ chế đó. Điều quan trọng trước hết là phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau trước các thử thách, các tác động và trong tăng cường hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, các tầng nấc, cả song phương và đa phương. Một khi có đủ lòng tin chiến lược, hiệu quả thực thi của các cơ chế hiện có sẽ được nâng lên và chúng ta có thể đẩy nhanh, mở rộng hợp tác, đi đến giải pháp về mọi vấn đề, cho dù là nhạy cảm và khó khăn nhất.
Thứ ba, nói đến hòa bình, ổn định, hợp tác, thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta không thể không nói đến một ASEAN đồng thuận, đoàn kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.
Khó có thể hình dung được một Đông Nam Á chia rẽ, xung đột trong Chiến tranh Lạnh lại có thể trở thành một cộng đồng các quốc gia thống nhất trong đa dạng và đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang định hình ở khu vực như ASEAN ngày nay. Sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN năm 1995 đánh dấu thời kỳ phát triển mới của ASEAN, tiến tới hình thành một ngôi nhà chung của tất cả các quốc gia Đông Nam Á đúng với tên gọi của mình. Thành công của ASEAN là thành quả của cả quá trình kiên trì xây dựng lòng tin và văn hóa đối thoại, hợp tác cũng như ý thức trách nhiệm chia sẻ vận mệnh chung giữa các nước Đông Nam Á.
ASEAN tự hào là một hình mẫu của nguyên tắc đồng thuận và lòng tin vào nhau trong các quyết định của mình. Đó là nền tảng tạo sự bình đẳng giữa các thành viên cho dù là một Indonesia với dân số gần 1/4 tỷ người và một Brunei với dân số chưa đến nửa triệu người. Đó cũng là cơ sở để các nước ngoài khu vực gửi gắm lòng tin vào ASEAN với tư cách là “người trung gian thực tâm” trong vai trò dẫn dắt nhiều cơ chế hợp tác khu vực.
Với tư duy cùng chia sẻ lợi ích, không phải “kẻ được – người mất”, việc mở rộng Cấp cao Đông Á (EAS) mời Nga và Hoa Kỳ tham gia, tiến trình ADMM+ đã được hiện thực hóa tại Việt Nam năm 2010 và thành công của EAS, ARF, ADMM+ những năm tiếp theo đã củng cố hơn nữa nền tảng cho một cấu trúc khu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm, đem lại niềm tin vào tiến trình hợp tác an ninh đa phương của khu vực này.
Tôi cũng muốn đề cập trường hợp của Mi-an-ma như một ví dụ sinh động về kết quả của việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho Mi-an-ma mà cho cả khu vực chúng ta.
Đã có những bài học sâu sắc về giá trị nền tảng của nguyên tắc đồng thuận, thống nhất của ASEAN trong việc duy trì quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với các nước đối tác và phát huy vai trò chủ động của ASEAN trong những vấn đề chiến lược của khu vực. ASEAN chỉ mạnh và phát huy được vai trò của mình khi là một khối đoàn kết thống nhất. Một ASEAN thiếu thống nhất sẽ tự đánh mất vị thế và không có lợi cho bất cứ một ai, kể cả các nước ASEAN và các nước đối tác. Chúng ta cần một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn. Trách nhiệm của chúng ta là nhân thêm niềm tin trong giải quyết các vấn đề, trong tăng cường hợp tác cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia khác và của cả khu vực.
Việt Nam cùng các nước ASEAN luôn mong muốn các nước - đặc biệt là các nước lớn, ủng hộ vai trò trung tâm, nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng ASEAN.
Trở lại vấn đề Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau vượt qua một chặng đường khá dài và cũng không ít khó khăn để ra được Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Phnôm-pênh năm 2002. Nhân kỷ niệm 10 năm ký và thực hiện DOC, các bên đã thống nhất nỗ lực tiến tới Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Chúng tôi cho rằng, ASEAN và các nước đối tác có thể cùng nhau xây dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu vực. Làm được như vậy sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và tạo điều kiện để giải quyết các tranh chấp, mà còn khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong việc gìn giữ hòa bình, tăng cường hợp tác, phát triển của thế giới đương đại.
Đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức khác – trong đó có an ninh nguồn nước trên các dòng sông chung, bằng việc xây dựng lòng tin chiến lược, tăng cường hợp tác, hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chung, tôi tin rằng chúng ta cũng sẽ đạt được những thành công, đóng góp thiết thực vào hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực.
Thưa Quý vị và các bạn,
Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ quyền của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt về lợi ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Chúng ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Chúng tôi mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ một khi nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi được cam kết và nghiêm túc thực hiện.
Nhân diễn đàn quan trọng này, tôi trân trọng thông báo, Việt Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.
Những năm qua, việc duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao đã tạo điều kiện cho Việt Nam tăng ngân sách quốc phòng ở mức hợp lý. Việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam chỉ nhằm tự vệ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, không nhằm vào bất cứ quốc gia nào.
Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Một lần nữa, Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.
Thưa Quý vị và các bạn,
Hòa bình, hợp tác và phát triển là lợi ích, là nguyện vọng tha thiết, là tương lai chung của các quốc gia, các dân tộc. Trên tinh thần cởi mở của Đối thoại Shangri-La, tôi kêu gọi tất cả chúng ta bằng những hành động cụ thể hãy cùng chung tay xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì một Châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, hợp tác, thịnh vượng.
Xin cảm ơn Quý vị và các bạn./.
(Chinhphu.vn)
Chiều tối nay, 31/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu dẫn đề khai mạc Đối thoại Shangri-La 2013 tại Singapore. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng.
Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á
Thưa Ngài Thủ tướng Lý Hiển Long,
Thưa Tiến sĩ Giôn Chip - man,
Thưa Quý vị và các bạn,
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn ngài Lý Hiển Long, Thủ tướng nước chủ nhà Singapore, Tiến sĩ Giôn Chip-man và Ban Tổ chức Đối thoại Shangri-La 12 đã mời tôi dự và phát biểu khai mạc diễn đàn quan trọng này. Sau 12 năm kể từ khi ra đời, Đối thoại Shangri-La thực sự đã trở thành một trong những diễn đàn đối thoại về hợp tác an ninh thực chất và hữu ích nhất ở khu vực. Tôi tin rằng sự có mặt của đông đảo các quan chức Chính phủ, các nhà lãnh đạo quân đội, các học giả có uy tín và toàn thể Quý vị tại đây thể hiện sự quan tâm, nỗ lực cùng nhau gìn giữ hòa bình và an ninh cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong một thế giới đầy biến động.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu dẫn đề Đối thoại Shangri-la
Thưa Quý vị và các bạn,
Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.
Trong thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung vốn là chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình. Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương. Đó cũng là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ với quý vị và các bạn tại diễn đàn hôm nay.
Trước hết, Việt Nam chúng tôi có niềm tin sâu sắc vào tương lai tươi sáng trong hợp tác phát triển của khu vực, nhưng với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự - nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực cũng tiềm ẩn những rủi ro tiêu cực mà chúng ta cần phải cùng nhau chủ động ngăn ngừa.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và là nơi tập trung ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và nhiều nền kinh tế mới nổi. Xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc, đa lĩnh vực đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng thể hiện là xu thế chủ đạo. Điều này là cơ hội hết sức lạc quan cho tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, nhìn lại bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua, chúng ta cũng không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh.
Cạnh tranh và can dự vốn là điều bình thường trong quá trình hợp tác và phát triển. Nhưng nếu sự cạnh tranh và can dự đó mang những toan tính chỉ cho riêng mình, bất bình đẳng, trái với luật pháp quốc tế, thiếu minh bạch thì không thể củng cố lòng tin chiến lược, dễ dẫn tới chia rẽ, nghi kỵ và nguy cơ kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển.
Những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.
Tôi muốn lưu ý thêm rằng lưu thông trên biển chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa ngày càng lớn. Theo nhiều dự báo, sẽ có trên 3/4 khối lượng hàng hóa thương mại toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển và 2/3 số đó đi qua Biển Đông. Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường.
Trong khi đó, các nguy cơ xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, ly khai, bạo loạn, khủng bố, an ninh mạng… vẫn hiện hữu. Những thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, nước biển dâng; dịch bệnh; nguồn nước và lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn, hạ nguồn của các con sông chung… ngày càng trở nên gay gắt.
Có thể nhận thấy những thách thức và nguy cơ xung đột là không thể xem thường. Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.
Thứ hai, để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.
Trong lịch sử thế giới, nhiều dân tộc đã phải gánh chịu những mất mát không gì bù đắp được khi là nạn nhân của tham vọng cường quyền, của xung đột, chiến tranh. Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng tin chiến lược.
Mỗi quốc gia luôn phải là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa bình và an ninh chung. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cao hơn là có lòng tin chiến lược vào nhau. Các nước lớn có vai trò và có thể đóng góp nhiều hơn, đồng thời có trách nhiệm lớn hơn trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Mặt khác, tiếng nói đúng đắn cũng như sáng kiến hữu ích không phụ thuộc là của nước lớn hay nước nhỏ. Nguyên tắc hợp tác, đối thoại bình đẳng, cởi mở trong ASEAN, các diễn đàn do ASEAN khởi xướng và ngay Đối thoại Shangri-La của chúng ta cũng được hình thành và duy trì trên cơ sở tư duy đó.
Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Ngài Xu-xi-lô Bam-bang Dút-đô-dô-nô, Tổng thống nước Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, tại diễn đàn này năm ngoái là các nước vừa và nhỏ có thể gắn kết cùng các nước lớn vào một cấu trúc bền vững ở khu vực. Tôi cũng đồng tình với ý kiến của Ngài Thủ tướng Sinh-ga-po Lý Hiển Long trong bài phát biểu tại Bắc Kinh tháng 9/2012 cho rằng sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ đóng góp tích cực cho lợi ích chung của khu vực. Chúng ta đều hiểu rằng Châu Á - Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước trong và ngoài khu vực cùng hợp tác và chia sẻ lợi ích. Tương lai của Châu Á - Thái Bình Dương đã và sẽ tiếp tục được tạo dựng bởi vai trò và sự tương tác của tất cả các quốc gia trong khu vực và cả thế giới, nhất là các nước lớn và chắc chắn trong đó không thể thiếu vai trò của ASEAN.
Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. Điều quan trọng là sự kỳ vọng đó cần được củng cố bằng lòng tin chiến lược và lòng tin chiến lược cần được thể hiện thông qua những hành động cụ thể mang tính xây dựng của các quốc gia này.
Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm là, các cơ chế hợp tác hiện có trong khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… cũng như Đối thoại Shangri-La đã tạo ra nhiều cơ hội để đẩy mạnh hợp tác an ninh đa phương và tìm giải pháp cho những thách thức đang đặt ra. Nhưng có thể nói rằng, vẫn còn thiếu – hay ít nhất là chưa đủ - lòng tin chiến lược trong việc thực thi các cơ chế đó. Điều quan trọng trước hết là phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau trước các thử thách, các tác động và trong tăng cường hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, các tầng nấc, cả song phương và đa phương. Một khi có đủ lòng tin chiến lược, hiệu quả thực thi của các cơ chế hiện có sẽ được nâng lên và chúng ta có thể đẩy nhanh, mở rộng hợp tác, đi đến giải pháp về mọi vấn đề, cho dù là nhạy cảm và khó khăn nhất.
Thứ ba, nói đến hòa bình, ổn định, hợp tác, thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta không thể không nói đến một ASEAN đồng thuận, đoàn kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.
Khó có thể hình dung được một Đông Nam Á chia rẽ, xung đột trong Chiến tranh Lạnh lại có thể trở thành một cộng đồng các quốc gia thống nhất trong đa dạng và đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang định hình ở khu vực như ASEAN ngày nay. Sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN năm 1995 đánh dấu thời kỳ phát triển mới của ASEAN, tiến tới hình thành một ngôi nhà chung của tất cả các quốc gia Đông Nam Á đúng với tên gọi của mình. Thành công của ASEAN là thành quả của cả quá trình kiên trì xây dựng lòng tin và văn hóa đối thoại, hợp tác cũng như ý thức trách nhiệm chia sẻ vận mệnh chung giữa các nước Đông Nam Á.
ASEAN tự hào là một hình mẫu của nguyên tắc đồng thuận và lòng tin vào nhau trong các quyết định của mình. Đó là nền tảng tạo sự bình đẳng giữa các thành viên cho dù là một Indonesia với dân số gần 1/4 tỷ người và một Brunei với dân số chưa đến nửa triệu người. Đó cũng là cơ sở để các nước ngoài khu vực gửi gắm lòng tin vào ASEAN với tư cách là “người trung gian thực tâm” trong vai trò dẫn dắt nhiều cơ chế hợp tác khu vực.
Với tư duy cùng chia sẻ lợi ích, không phải “kẻ được – người mất”, việc mở rộng Cấp cao Đông Á (EAS) mời Nga và Hoa Kỳ tham gia, tiến trình ADMM+ đã được hiện thực hóa tại Việt Nam năm 2010 và thành công của EAS, ARF, ADMM+ những năm tiếp theo đã củng cố hơn nữa nền tảng cho một cấu trúc khu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm, đem lại niềm tin vào tiến trình hợp tác an ninh đa phương của khu vực này.
Tôi cũng muốn đề cập trường hợp của Mi-an-ma như một ví dụ sinh động về kết quả của việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho Mi-an-ma mà cho cả khu vực chúng ta.
Đã có những bài học sâu sắc về giá trị nền tảng của nguyên tắc đồng thuận, thống nhất của ASEAN trong việc duy trì quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với các nước đối tác và phát huy vai trò chủ động của ASEAN trong những vấn đề chiến lược của khu vực. ASEAN chỉ mạnh và phát huy được vai trò của mình khi là một khối đoàn kết thống nhất. Một ASEAN thiếu thống nhất sẽ tự đánh mất vị thế và không có lợi cho bất cứ một ai, kể cả các nước ASEAN và các nước đối tác. Chúng ta cần một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn. Trách nhiệm của chúng ta là nhân thêm niềm tin trong giải quyết các vấn đề, trong tăng cường hợp tác cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia khác và của cả khu vực.
Việt Nam cùng các nước ASEAN luôn mong muốn các nước - đặc biệt là các nước lớn, ủng hộ vai trò trung tâm, nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng ASEAN.
Trở lại vấn đề Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau vượt qua một chặng đường khá dài và cũng không ít khó khăn để ra được Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Phnôm-pênh năm 2002. Nhân kỷ niệm 10 năm ký và thực hiện DOC, các bên đã thống nhất nỗ lực tiến tới Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Chúng tôi cho rằng, ASEAN và các nước đối tác có thể cùng nhau xây dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu vực. Làm được như vậy sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và tạo điều kiện để giải quyết các tranh chấp, mà còn khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong việc gìn giữ hòa bình, tăng cường hợp tác, phát triển của thế giới đương đại.
Đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức khác – trong đó có an ninh nguồn nước trên các dòng sông chung, bằng việc xây dựng lòng tin chiến lược, tăng cường hợp tác, hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chung, tôi tin rằng chúng ta cũng sẽ đạt được những thành công, đóng góp thiết thực vào hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực.
Thưa Quý vị và các bạn,
Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ quyền của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt về lợi ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Chúng ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Chúng tôi mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ một khi nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi được cam kết và nghiêm túc thực hiện.
Nhân diễn đàn quan trọng này, tôi trân trọng thông báo, Việt Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.
Những năm qua, việc duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao đã tạo điều kiện cho Việt Nam tăng ngân sách quốc phòng ở mức hợp lý. Việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam chỉ nhằm tự vệ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, không nhằm vào bất cứ quốc gia nào.
Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Một lần nữa, Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.
Thưa Quý vị và các bạn,
Hòa bình, hợp tác và phát triển là lợi ích, là nguyện vọng tha thiết, là tương lai chung của các quốc gia, các dân tộc. Trên tinh thần cởi mở của Đối thoại Shangri-La, tôi kêu gọi tất cả chúng ta bằng những hành động cụ thể hãy cùng chung tay xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì một Châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, hợp tác, thịnh vượng.
Xin cảm ơn Quý vị và các bạn./.
(Chinhphu.vn)
Thủ tướng và...Đĩ
Thùy Linh blog - Bao giờ ở VN đuổi kịp Thailand về kinh tế? Bao nhiêu
năm nữa thì có nền chính trị vui vẻ (lời GS Tuấn) như thế này? Chắc lúc
đó các blogger có thể tự lấy phiếu thăm dò các chính trị gia mà không
còn bị coi là "lợi dụng tự do dân chủ" như Trương Duy Nhất vừa bị bắt
theo điều 258... Còn hiện tại, ở Việt Nam, đĩ điếm chân thành hơn vô vàn
chính khách. Nếu so sánh như họa sỹ Chai về bà thủ tướng Thailand thì e
rằng xúc phạm chị em đang hành nghề bán thân nuôi miệng một cách chân
chính...
Hôm nọ, ngồi nói chuyện với một em nghiên cứu sinh Việt Nam ở Bangkok,
và em đưa ra một nhận xét hay. Em nói rằng báo chí Việt Nam có xu hướng
tô vẽ sinh hoạt chính trị ở Thái Lan hỗn loạn, nhưng trong thực tế thì
hoàn toàn không phải như vậy. Chính trị ở đây phong phú hơn nhiều so với
Việt Nam. Tôi thấy em này nói đúng, và cá nhân tôi cho rằng sinh hoạt
chính trị ở đây cũng có vẻ dân chủ hơn VN.
Câu chuyện một hoạ sĩ chuyên vẽ tranh biếm hoạ so sánh bà Yingluck với
đĩ điếm, và bà Yingluck kiện ông hoạ sĩ cho thấy tính dân chủ và thượng
tôn pháp luật ở đây. Họa sĩ Somchai Katanyutanan (gọt tắt là Chai) là
một cây biếm hoạ danh tiếng của Thái Lan. Chai từng là hoạ sĩ vẽ tranh
mô tả hoạt động của hoàng gia. Có lẽ nói không quá đáng rằng Chai, cũng
như bao nhiêu người Thái khác, rất sùng kính hoàng gia. Những người này
thường không ưa bà đương kim thủ tướng Yingluck Shinawatra và người anh
của bà là Thaksin Shinawatra. Trong một entry trên facebook, Chai viết
rằng: "Hãy hiểu rằng những con điếm không phải là những phụ nữ xấu; họ
chỉ bán thân, nhưng có một phụ nữ xấu đi lang thang cố tình bán đứng xứ
sở.”
Những dòng chữ trên kèm theo bức hình của bà Yingluck đang phát biểu
trong một hội nghị dân chủ ở Mông Cổ vào ngày 29/4/2013. Trong hội nghị
đó, bà Yingluck có một bài phát biểu, trong đó bà nói về tình hình đấu
tranh cho dân chủ ở Thái Lan, về cuộc lật đổ chính quyền được dân cử năm
2006 mà ông anh của bà nay phải lưu vong; bà nhắc đến sự kiện đàn áp
người biểu tình năm 2010. Bà nói thẳng rằng trong vụ đàn áp đó, nhiều
người vô tội đã bị các tay súng bắn tỉa sát hại, các lãnh đạo phong trào
dân chủ bị bỏ tù cho đến ngày nay. Nhưng cuối cùng thì dân chủ cũng
chiến thắng, vì khi tổ chức bầu cử nghiêm chỉnh thì bà được đắc cử lớn.
Bài diễn văn nói chung có thể nói là hay, nhưng không xuất sắc. Nhưng
những phát biểu của bà làm cho không ít người Thái nổi giận vì họ cho
rằng bà nói xấu Thái Lan, rằng bà đang “bán” nước! Mới đây có tin tặc
còn hack trang web của thủ tướng và treo hình bà làm trò đùa.
Những thành phần elite trong xã hội bắt đầu phản ứng với những phát biểu
đó. Thật ra, thời gian gần đây bà Yingluck đã làm mất cảm tình của
không ít người từng ủng hộ bà. Còn những người trong tầng lớp trung lưu
và elite thì không ưa bà từ lâu. Do đó, khi có dịp, những người này bắt
đầu phản ứng mạnh. Cách ví von bà Yingluck với đĩ điếm là một phản ứng
có thể nói là quá cảm tính, và vượt qua những phép lịch sự trong chính
trị; nó trở thành xúc phạm. Hàng loạt tổ chức đấu tranh cho nữ quyền lên
tiếng. Một nữ giáo sư của Đại học Chiangmai viết một bài luận dài lên
lớp ông Chai về nữ quyền và đạo đức, bà nói rằng ông Chai vẫn có tư duy
kì thị và xem thường nữ. Bà giáo sư cho biết bà cũng không ưa và chưa
từng bầu cho thủ tướng Yingluck, nhưng bà tôn trọng quyền phát biểu của
thủ tướng. Một người cháu gái của bà Yingluck cũng viết một bài ngắn nói
rằng ông Chai vẫn sống trong thế kỉ 19, vẫn sống trong cái ao tù trọng
nam khinh nữ. Có một bà từng là bộ trưởng trong chính quyền cũ (trước
Yingluck) rất giận, đến nổi bà đặt hẳn một vòng hoa đám tang có ghi tên
ông Chai và đem đến tận nơi ông làm việc để... tặng. Phần lớn những
người lên tiếng chỉ trích Chai cho rằng ông chẳng những xúc phạm bà
Yingluck mà còn xúc phạm toàn thể phụ nữ Thái Lan. Nói chung, đọc những
phản ứng này tôi thấy báo chí ở đây có vẻ như là những diễn đàn tranh
luận nghiêm chỉnh. Thoạt đầu, bà Yingluck có vẻ thản nhiên với “tấn
công” đầy cảm tính và cá nhân tính của Chai.
Bạn tôi cho biết bà tỏ ra là người có bản lĩnh, cười cợt trước những tấn
công như thế trong quá khứ. Bà chẳng quan tâm đến những tấn công như
thế. Nhưng chẳng hiểu sao sáng nay đọc báo tôi thấy luật sư của bà đã
nộp đơn kiện hoạ sĩ Chai vì tội xúc phạm danh dự. Theo luật sư của bà
Yingluck thì bà sẵn sàng lắng nghe ý kiến và tiếp thu chỉ trích, nhưng
phải là những câu chữ “phải đạo”, chứ không phải những câu chữ hạ cấp và
xúc phạm như ông hoạ sĩ Chai. Do đó, bà quyết định khởi kiện như là một
bài học cho những ai phát biểu thiếu tính văn hoá trên các diễn đàn
công cộng. Tôi nghĩ kết cục của vụ kiện này chắc sẽ hấp dẫn lắm. Dù chỉ
mới ở đây một tuần, nhưng có dịp trao đổi với bạn bè và theo dõi truyền
thông, tôi thấy sinh hoạt chính trị ở Thái Lan có vẻ rất sống động. Ở
một mức độ nào đó, họ có một nền tự do ngôn luận hơn Việt Nam. Các đại
biểu quốc hội Thái lan phát biểu có khi cũng nhăng nhít, nhưng họ tranh
luận rất hào hứng trên tivi.
Điều làm tôi phải so sánh với Việt Nam là các đại biểu ở đây họ rất gần
dân, họ thật sự quan tâm đến phúc lợi của những người họ đại diện, chứ
không phải hành xử như là những ông bà quan trên như ở nước ta. Do đó,
tôi rất đồng tình với nhận xét của em nghiên cứu sinh rằng sinh hoạt
chính trị Thái Lan không hề hỗn loạn như báo chí VN mô tả, mà thật ra là
một nền chính trị rất sinh động và... vui.
GS. Nguyễn Văn Tuấn
(buudoan.com)
Trần Vinh Dự - Quốc hội cần được kỹ trị hóa
31.05.2013
Tại phiên họp thứ 18 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) vừa qua,
thực trạng yếu kém của nền kinh tế hiện nay lại được các thành viên đem
ra mổ xẻ.Tại phiên họp này, không khí cấp bách của thời cuộc có thể
được cảm nhận rõ qua các phát biểu quan trọng.
“Tình hình như thế này là nguy lắm rồi” là nhận định của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan. “Tình hình này có thể nói kinh tế đang hết sức khó khăn, khó khăn hơn rất nhiều so với nhận định của Chính phủ và Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4” là nhận định của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. “Năm 2012 đã tưởng là đáy của khó khăn, nhưng năm 2013 lại nhận định là còn khó khăn hơn năm 2012” là nhận định của Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý.
“Bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản và 65% số còn lại báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào” là nhận định của Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Xuân Cường. “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%” và “lạm phát quá tốt chính do điều hành dở” là nhận định của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Tính cấp bách của thời cuộc đã được các đại biểu cảm nhận rất rõ. Tuy nhiên, kết thúc phiên họp thứ 18, UBTVQH không đưa ra được bất cứ giải pháp nào. Các ý kiến chỉ dừng lại ở mức “nên chăng”.
Quốc hội và nền kinh tế
Quốc hội có 3 chức năng chính: chức năng lập pháp, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, và chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Liên quan đến nền kinh tế, Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp bằng cách soạn thảo, sửa đổi và thông qua hiến pháp, luật, và các nghị quyết. Với chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước, và quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Với chức năng giám sát, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc thực hiện các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Với chức năng quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội, Quốc hội thực hiện việc này bằng nhiều cách, trong đó quan trọng nhất là hàng năm Quốc hội thống nhất các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và giao các chỉ tiêu này cho Chính phủ thực hiện. Các chỉ tiêu này được xây dựng ít nhiều dựa trên các báo cáo của Chính phủ. Các chỉ tiêu này thường cũng không mang tính bắt buộc và chỉ có giá trị tham chiếu. Chính phủ không được “thưởng” khi thực hiện tốt các chỉ tiêu này và cũng không bị “phạt” nếu không đạt.
Các chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra cho Chính phủ thực hiện nhiều khi cũng không đi sát với thực tế. Thí dụ trong 03 năm trở lại đây, các chỉ tiêu bản lề của Quốc hội đề ra như tăng trưởng GDP hàng năm, tốc độ tăng giá tiêu dùng, nhập siêu tính bằng % của xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu, và tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đều bị trệch khá xa so với thực tế đạt được.
Có những thời điểm, các chỉ số đề ra ở “trên trời” so với thực tế (xem bảng). Thí dụ tăng GDP theo chỉ tiêu của năm 2011 là từ 7% đến 7,5% nhưng thực tế đạt được chỉ có 5,89%. Chỉ tiêu lạm phát của năm này là 7% nhưng thực tế lên tới 18,58%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được đặt chỉ tiêu là 40% nhưng thực tế chỉ có 34,6%.
Cũng có những thời điểm và hạng mục, chỉ tiêu của Quốc hội lại quá khiêm tốn. Thí dụ tăng trưởng xuất khẩu theo chỉ tiêu của năm 2010 và 2011 là 6% và 10% trong khi thực tế đạt được là 25,5% và 33%. Tương tự, nhập siêu theo chỉ tiêu đề ra cho năm 2011 và 2012 là 18% và 11%-12% nhưng thực tế đạt được lại tốt hơn rất nhiều (chỉ có 9,9% năm 2011 và thậm chí không có thâm hụt trong năm 2012).
Việc các chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra vênh quá lớn so với thực tế đạt được
có thể đổ lỗi cho Chính phủ. Thí dụ, chỉ tiêu tăng CPI của Quốc hội
năm 2012 là 10% trong khi thực tế tăng CPI của năm 2012 là 6,81%. Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng lạm phát khoảng 7-8% là được,
còn 6,81% cũng là tốt, nhưng là "tốt quá" nên ảnh hưởng đến tăng
trưởng. Theo ông, Chính phủ "điều hành như vậy là dở, nếu CPI trên 7%
thì bây giờ tăng trưởng không thấp thế, cái này là do điều hành"
Thế nhưng nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, khi phần lớn các chỉ số kinh tế bản lề mà Quốc hội đề ra bị lệch so với thực tế, và lệch liên tục trong nhiều năm, thì nó cũng phản ánh việc Quốc hội có thực sự hiểu nền kinh tế của đất nước hay không. Thí dụ, chỉ tiêu tăng GDP của Quốc hội trong hai năm 2011 và 2012 đều ở “trên trời”.
Chỉ tiêu lạm phát cho hai năm 2010 và 2011 cũng lãng mạn hơn nhiều so với thực tế đạt được.
Khó có thể phân định rạch ròi lý do dẫn đến việc chỉ tiêu và thực tế đạt được vênh nhau một cách dữ dội là do lỗi điều hành của Chính phủ hay do Quốc hội không thực sự bám sát thực trạng kinh tế đất nước. Nếu thực sự Quốc hội không hiểu biết đủ sâu sắc về thực trạng kinh tế đất nước, thì Quốc hội khó có thể thực hiện tốt chức năng giám sát của mình.
Gần đây chức năng giám sát của Quốc hội được đẩy mạnh với việc tổ chức các phiên chất vấn công khai và sắp tới là bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn. Công bằng mà nói, việc chất vấn và trả lời chất vấn đang ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, dù nhiều quan sát viên cho rằng các chất vấn “ngô nghê, dài dòng, “mớm bóng” hay những câu chất vấn thì ít mà xin xỏ thì nhiều” của các đại biểu Quốc hội đã ít đi đáng kể, không phải đại biểu nào cũng thực sự có hiểu biết sâu sắc về nền kinh tế.
Đối với chức năng lập pháp cũng vậy. Dù Hiến pháp đã quy định Quốc hội có nhiệm vụ làm luật, nhưng việc soạn thảo các dự luật đều do các cơ quan khác, chủ yếu trong ngành hành pháp, thực hiện. Dù sau đó đại biểu Quốc hội có đóng góp, sửa đổi và biểu quyết các dự luật, trong đa số các trường hợp, luật được áp dụng vẫn giữ phần lớn tinh thần cơ bản của dự thảo ban đầu. Do đó, cho đến nay nhiệm vụ thực tế của các nhà lập pháp Việt Nam chủ yếu vẫn là thông qua các dự luật do người khác soạn thảo thay vì chính họ phải làm ra. Việc này dẫn đến thực trạng là các cơ quan hành pháp được giao nhiệm vụ soạn thảo dự thảo luật trở thành những người “vừa đá bóng vừa thổi còi” – dù muốn hay không.
Nên kỹ trị hóa Quốc hội
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước, Quốc hội hiển nhiên là bộ máy tập trung sức mạnh trí tuệ và ý chí chính trị của toàn dân. Vì thế, việc Quốc hội chưa thể hiện hết được tầm vóc trong việc thực hiện các chức năng hiến định của mình rõ ràng là việc không thể chấp nhận được, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn có những bước ngoặt lịch sử.
Và điều này có những lý do riêng. Trong số nhiều lý do, có hai lý do rất quan trọng. Thứ nhất là tỷ lệ các đại biểu kiêm nhiệm vẫn còn quá lớn. Các đại biểu kiêm nhiệm không thể thực hiện tốt chức năng của đại biểu Quốc hội trong khi vẫn là các quan chức cao cấp trong bộ máy hành pháp và phải dành chủ yếu thời gian của mình cho công tác điều hành hàng ngày.
Lý do thứ hai quan trọng không kém là cho dù các đại biểu Quốc hội không phải là đại biểu kiêm nhiệm thì họ cũng không có nguồn lực để thực hiện vai trò đại biểu Quốc hội. Theo thông tin chính thức từ website của Trung tâm Bồi dưỡng Đại biểu Dân cử, thuộc Ban Công tác Đại biểu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hiện nay các đại biểu chỉ được hưởng một số chế độ đãi ngộ cơ bản như lương, phụ cấp. Ngoài ra, ngay cả thư ký giúp việc cho đại biểu cũng không có. Trang web này viết rõ rằng “phấn đấu trong tương lai mỗi đại biểu đều có 01 thư ký giúp việc riêng”.
Không có đội ngũ cố vấn, chuyên gia, chuyên viên phân tích, nhân viên văn phòng để giúp đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình, các đại biểu dù giỏi đến đâu cũng không thể thực hiện tốt chức năng đại biểu. Chưa nói đến những việc phức tạp như soạn thảo các dự luật – điều mà lẽ ra thuộc về chức năng của các đại biểu Quốc hội, mà chỉ đơn giản là việc nắm tình hình thực tế, nghiên cứu và tiêu hóa hết các thông tin về tình hình kinh tế xã hội để có những hiểu biết căn bản khi đi họp Quốc hội cũng là việc mà các đại biểu Quốc hội không thể làm được một mình.
Thế nên không lạ, và cũng không thể trách được, là các đại biểu Quốc hội Việt Nam không làm luật mà chỉ thông qua luật do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo. Cũng không lạ và không thể trách được là Quốc hội vẫn đặt ra các chỉ tiêu kinh tế - xã hội nhiều khi xa rời thực tế, và công tác giám sát – chất vấn nhiều khi vẫn lộ rõ vẻ “ngô nghê” – theo cách nói của một số nhà quan sát.
Đáng lẽ ra, các đại biểu phải có một ngân sách hoạt động đủ lớn để có một văn phòng riêng của mình, có thể thuê một đội ngũ chuyên gia, chuyên viên, và nhân viên hỗ trợ. Bộ máy này phải đủ hiệu quả để hỗ trợ đắc lực cho các đại biểu trong việc chủ động soạn thảo và đề xuất các luật mới hoặc sửa đổi các luật cũ, phải biến các đại biểu trở thành các nhà chính trị uyên bác và hiểu biết sâu sắc và sâu rộng về thực tế đất nước. Nó cũng phải biến các đại biểu trở thành những nhà phê bình sắc sảo, với các phân tích sắc bén để có thể thực hiện được chức năng giám sát.
Nói cách khác, bộ máy của Quốc hội cần phải được kỹ trị hóa. Bên cạnh việc giảm dần tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm, việc kỹ trị hóa này còn bắt đầu từ hai việc rất cụ thể. Thứ nhất là tăng ngân sách hoạt động cho các đại biểu một cách thực sự có ý nghĩa để mỗi đại biểu có thể có được một bộ máy giúp việc riêng cho mình thực sự mạnh. Thứ hai, tăng trách nhiệm báo cáo trước dân của các đại biểu để họ có trách nhiệm sử dụng ngân sách này một cách hiệu quả phục vụ công tác đại biểu Quốc hội một cách đúng nghĩa.
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
“Tình hình như thế này là nguy lắm rồi” là nhận định của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan. “Tình hình này có thể nói kinh tế đang hết sức khó khăn, khó khăn hơn rất nhiều so với nhận định của Chính phủ và Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4” là nhận định của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. “Năm 2012 đã tưởng là đáy của khó khăn, nhưng năm 2013 lại nhận định là còn khó khăn hơn năm 2012” là nhận định của Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý.
“Bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản và 65% số còn lại báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào” là nhận định của Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Xuân Cường. “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%” và “lạm phát quá tốt chính do điều hành dở” là nhận định của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Tính cấp bách của thời cuộc đã được các đại biểu cảm nhận rất rõ. Tuy nhiên, kết thúc phiên họp thứ 18, UBTVQH không đưa ra được bất cứ giải pháp nào. Các ý kiến chỉ dừng lại ở mức “nên chăng”.
Quốc hội và nền kinh tế
Quốc hội có 3 chức năng chính: chức năng lập pháp, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, và chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Liên quan đến nền kinh tế, Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp bằng cách soạn thảo, sửa đổi và thông qua hiến pháp, luật, và các nghị quyết. Với chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước, và quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Với chức năng giám sát, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc thực hiện các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Với chức năng quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội, Quốc hội thực hiện việc này bằng nhiều cách, trong đó quan trọng nhất là hàng năm Quốc hội thống nhất các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và giao các chỉ tiêu này cho Chính phủ thực hiện. Các chỉ tiêu này được xây dựng ít nhiều dựa trên các báo cáo của Chính phủ. Các chỉ tiêu này thường cũng không mang tính bắt buộc và chỉ có giá trị tham chiếu. Chính phủ không được “thưởng” khi thực hiện tốt các chỉ tiêu này và cũng không bị “phạt” nếu không đạt.
Các chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra cho Chính phủ thực hiện nhiều khi cũng không đi sát với thực tế. Thí dụ trong 03 năm trở lại đây, các chỉ tiêu bản lề của Quốc hội đề ra như tăng trưởng GDP hàng năm, tốc độ tăng giá tiêu dùng, nhập siêu tính bằng % của xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu, và tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đều bị trệch khá xa so với thực tế đạt được.
Có những thời điểm, các chỉ số đề ra ở “trên trời” so với thực tế (xem bảng). Thí dụ tăng GDP theo chỉ tiêu của năm 2011 là từ 7% đến 7,5% nhưng thực tế đạt được chỉ có 5,89%. Chỉ tiêu lạm phát của năm này là 7% nhưng thực tế lên tới 18,58%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được đặt chỉ tiêu là 40% nhưng thực tế chỉ có 34,6%.
Cũng có những thời điểm và hạng mục, chỉ tiêu của Quốc hội lại quá khiêm tốn. Thí dụ tăng trưởng xuất khẩu theo chỉ tiêu của năm 2010 và 2011 là 6% và 10% trong khi thực tế đạt được là 25,5% và 33%. Tương tự, nhập siêu theo chỉ tiêu đề ra cho năm 2011 và 2012 là 18% và 11%-12% nhưng thực tế đạt được lại tốt hơn rất nhiều (chỉ có 9,9% năm 2011 và thậm chí không có thâm hụt trong năm 2012).
2010 | 2011 | 2012 | |||||||
Chỉ tiêu | Thực tế | Chỉ tiêu | Thực tế | Chỉ tiêu | Thực tế | ||||
Tăng trưởng GDP của năm | 6.50% | 6,78% | 7%-7,5% | 5,89% | 6%-6.5% | 5.03% | |||
CPI | 7% | 11,75% | 7% | 18,58% | 10% | 6,81% | |||
Bội chi ngân sách | 6,2% | 5,6% | 5,3% | 4,9% | 4,8% | 4,8% | |||
Nhập siêu (% của xuất khẩu) | 17,3% | 18% | 9,9% | 11% - 12% | - | ||||
Tăng trưởng xuất khẩu | 6% | 25,5% | 10% | 33% | 13% | 18,3% | |||
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (% GDP) | 41% | 41,9% | 40% | 34,6% | 33,5% | 33,5% | |||
Thế nhưng nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, khi phần lớn các chỉ số kinh tế bản lề mà Quốc hội đề ra bị lệch so với thực tế, và lệch liên tục trong nhiều năm, thì nó cũng phản ánh việc Quốc hội có thực sự hiểu nền kinh tế của đất nước hay không. Thí dụ, chỉ tiêu tăng GDP của Quốc hội trong hai năm 2011 và 2012 đều ở “trên trời”.
Chỉ tiêu lạm phát cho hai năm 2010 và 2011 cũng lãng mạn hơn nhiều so với thực tế đạt được.
Khó có thể phân định rạch ròi lý do dẫn đến việc chỉ tiêu và thực tế đạt được vênh nhau một cách dữ dội là do lỗi điều hành của Chính phủ hay do Quốc hội không thực sự bám sát thực trạng kinh tế đất nước. Nếu thực sự Quốc hội không hiểu biết đủ sâu sắc về thực trạng kinh tế đất nước, thì Quốc hội khó có thể thực hiện tốt chức năng giám sát của mình.
Gần đây chức năng giám sát của Quốc hội được đẩy mạnh với việc tổ chức các phiên chất vấn công khai và sắp tới là bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn. Công bằng mà nói, việc chất vấn và trả lời chất vấn đang ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, dù nhiều quan sát viên cho rằng các chất vấn “ngô nghê, dài dòng, “mớm bóng” hay những câu chất vấn thì ít mà xin xỏ thì nhiều” của các đại biểu Quốc hội đã ít đi đáng kể, không phải đại biểu nào cũng thực sự có hiểu biết sâu sắc về nền kinh tế.
Đối với chức năng lập pháp cũng vậy. Dù Hiến pháp đã quy định Quốc hội có nhiệm vụ làm luật, nhưng việc soạn thảo các dự luật đều do các cơ quan khác, chủ yếu trong ngành hành pháp, thực hiện. Dù sau đó đại biểu Quốc hội có đóng góp, sửa đổi và biểu quyết các dự luật, trong đa số các trường hợp, luật được áp dụng vẫn giữ phần lớn tinh thần cơ bản của dự thảo ban đầu. Do đó, cho đến nay nhiệm vụ thực tế của các nhà lập pháp Việt Nam chủ yếu vẫn là thông qua các dự luật do người khác soạn thảo thay vì chính họ phải làm ra. Việc này dẫn đến thực trạng là các cơ quan hành pháp được giao nhiệm vụ soạn thảo dự thảo luật trở thành những người “vừa đá bóng vừa thổi còi” – dù muốn hay không.
Nên kỹ trị hóa Quốc hội
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước, Quốc hội hiển nhiên là bộ máy tập trung sức mạnh trí tuệ và ý chí chính trị của toàn dân. Vì thế, việc Quốc hội chưa thể hiện hết được tầm vóc trong việc thực hiện các chức năng hiến định của mình rõ ràng là việc không thể chấp nhận được, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn có những bước ngoặt lịch sử.
Và điều này có những lý do riêng. Trong số nhiều lý do, có hai lý do rất quan trọng. Thứ nhất là tỷ lệ các đại biểu kiêm nhiệm vẫn còn quá lớn. Các đại biểu kiêm nhiệm không thể thực hiện tốt chức năng của đại biểu Quốc hội trong khi vẫn là các quan chức cao cấp trong bộ máy hành pháp và phải dành chủ yếu thời gian của mình cho công tác điều hành hàng ngày.
Lý do thứ hai quan trọng không kém là cho dù các đại biểu Quốc hội không phải là đại biểu kiêm nhiệm thì họ cũng không có nguồn lực để thực hiện vai trò đại biểu Quốc hội. Theo thông tin chính thức từ website của Trung tâm Bồi dưỡng Đại biểu Dân cử, thuộc Ban Công tác Đại biểu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hiện nay các đại biểu chỉ được hưởng một số chế độ đãi ngộ cơ bản như lương, phụ cấp. Ngoài ra, ngay cả thư ký giúp việc cho đại biểu cũng không có. Trang web này viết rõ rằng “phấn đấu trong tương lai mỗi đại biểu đều có 01 thư ký giúp việc riêng”.
Không có đội ngũ cố vấn, chuyên gia, chuyên viên phân tích, nhân viên văn phòng để giúp đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình, các đại biểu dù giỏi đến đâu cũng không thể thực hiện tốt chức năng đại biểu. Chưa nói đến những việc phức tạp như soạn thảo các dự luật – điều mà lẽ ra thuộc về chức năng của các đại biểu Quốc hội, mà chỉ đơn giản là việc nắm tình hình thực tế, nghiên cứu và tiêu hóa hết các thông tin về tình hình kinh tế xã hội để có những hiểu biết căn bản khi đi họp Quốc hội cũng là việc mà các đại biểu Quốc hội không thể làm được một mình.
Thế nên không lạ, và cũng không thể trách được, là các đại biểu Quốc hội Việt Nam không làm luật mà chỉ thông qua luật do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo. Cũng không lạ và không thể trách được là Quốc hội vẫn đặt ra các chỉ tiêu kinh tế - xã hội nhiều khi xa rời thực tế, và công tác giám sát – chất vấn nhiều khi vẫn lộ rõ vẻ “ngô nghê” – theo cách nói của một số nhà quan sát.
Đáng lẽ ra, các đại biểu phải có một ngân sách hoạt động đủ lớn để có một văn phòng riêng của mình, có thể thuê một đội ngũ chuyên gia, chuyên viên, và nhân viên hỗ trợ. Bộ máy này phải đủ hiệu quả để hỗ trợ đắc lực cho các đại biểu trong việc chủ động soạn thảo và đề xuất các luật mới hoặc sửa đổi các luật cũ, phải biến các đại biểu trở thành các nhà chính trị uyên bác và hiểu biết sâu sắc và sâu rộng về thực tế đất nước. Nó cũng phải biến các đại biểu trở thành những nhà phê bình sắc sảo, với các phân tích sắc bén để có thể thực hiện được chức năng giám sát.
Nói cách khác, bộ máy của Quốc hội cần phải được kỹ trị hóa. Bên cạnh việc giảm dần tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm, việc kỹ trị hóa này còn bắt đầu từ hai việc rất cụ thể. Thứ nhất là tăng ngân sách hoạt động cho các đại biểu một cách thực sự có ý nghĩa để mỗi đại biểu có thể có được một bộ máy giúp việc riêng cho mình thực sự mạnh. Thứ hai, tăng trách nhiệm báo cáo trước dân của các đại biểu để họ có trách nhiệm sử dụng ngân sách này một cách hiệu quả phục vụ công tác đại biểu Quốc hội một cách đúng nghĩa.
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Phạm Chí Dũng - Vì sao Quốc hội 'siết' Luật Biểu tình?
Nhiều cuộc biểu tình lớn đã nổ ra tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thời gian qua |
Trong hàng ngũ lãnh đạo kế thừa lớp cách mạng tiền bối, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng có thể là một nhân tố biết phát ra sáng kiến vào những
thời điểm cần kíp và đòi hỏi tính “quyết liệt”.
Từ thời điểm ý tưởng cần có Luật Biểu tình được người đứng đầu cơ quan hành pháp cao nhất chính thức phát ra vào tháng 11/2011, một năm rưỡi đã lặng trôi với tinh thần đóng kín từ những người đứng đầu cơ quan lập pháp “của dân, do dân và vì dân”.
Chỉ vài ngày sau khi khai mạc kỳ họp thứ 5 của Quốc hội, người thay mặt cho Ủy ban Pháp luật của cơ quan dân cử tối cao này là ông Phan Trung Lý đã lập tức “bác” khá nhiều đề xuất từ phía Chính phủ.
Những đề xuất trên nằm trong 7 nhóm vấn đề của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và thuộc về những chủ đề bị coi là “nhạy cảm” như Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Đất đai…
Và như thể tạm thời, “xã hội chủ nghĩa” vẫn giữ nguyên hàm ý “quá độ” khi Quốc hội xem xét việc đổi tên nước.
Nhưng trong suốt chiều dài con sóng phản ứng của người dân về chủ quyền biển đảo, Ủy ban TVQH vẫn đều đặn thông qua nhiều đạo luật. Chỉ ngắn gọn là không một luật nào mang tính can dự vào “Mười sáu chữ vàng”.
Kỳ họp tháng 5-6/2013 cũng “ngắn gọn” như thế .
“Tại một kỳ họp quốc hội chỉ có thể thông qua từ 10-13 luật. Trong khi đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ được thông qua vào cuối năm 2013 nên năm 2014 sẽ phải sửa đổi, bổ sung nhiều luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật phục vụ cho việc tái cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh” - Ủy ban TVQH phác ra lý do như vậy, lồng trong một báo cáo mang tính định hướng của ông Phan Trung Lý.
Lý do trên nhằm “không tán thành với đề xuất của Chính phủ đưa Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu ý dân”.
“Hố phân cách” giữa Quốc hội và Chính phủ, hay nói cách khác là giữa nhóm lãnh đạo của hai cơ quan lập pháp và hành pháp dường như đã trở nên sâu sắc và lạ lẫm chưa từng có.
Hiện tượng này lại như đồng nhất với bầu không khí đầy suy tư cùng bất ngờ của Hội nghị trung ương 7 của Đảng, cũng diễn ra vào tháng 5/2013 và trước kỳ họp quốc hội, kèm theo kết quả nhân sự không thể ích lợi hơn cho những người theo chủ thuyết “lợi ích”.
Luật Biểu tình được chính thức nêu ra trong phiên họp Quốc hội hồi tháng 11/2011
Gần đây, ấn tượng nhất có lẽ là đề xuất đưa Luật Biểu tình vào chương trình năm sau của đại biểu quốc hội thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung.
Ông Chung hiện là Giám đốc Công an TP Hà Nội. Và Hà Nội lại là trung tâm của nhiều cuộc biểu tình tự phát chống “các thế lực thù địch” - hiểu theo nghĩa nào cũng được.
Nghĩa là nếu cả công an cũng đồng thuận với Luật Biểu tình, điều gì sẽ diễn ra?
Tất nhiên, hiện tượng hiếm hoi trên có thể biến thành một dấu hỏi lớn, nhất là về điều cần được coi là “lòng chân thành chính trị” - cụm từ mà các nhà nhân quyền và giới phân tích chính trị phương Tây dành để biểu tả về tổng thống Thein Sein của Myanmar - đối với những người mang sắc phục ở Việt Nam.
Nhưng dù là thế nào, tư tưởng cũng đang diễn biến sang hành động.
Một năm rưỡi sau năm 2011, đã xuất hiện những nhân vật khác.
Không chỉ ông Nguyễn Đức Chung, mà như lời trần thuật của luật sư và cũng là đại biểu quốc hội Trương Trọng Nghĩa thì “Tôi cũng trao đổi với nhiều vị công an và họ cũng mong có Luật Biểu tình”.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa cho rằng xây dựng Luật Biểu tình là để “trả nợ” nhân dân nhưng cũng giúp cho nhà nước, bởi quản lý vấn đề biểu tình như hiện nay là không thích hợp.
Nhưng điều có vẻ rất khó hiểu là trong khi Chính phủ - cơ quan phải chịu trách nhiệm trực tiếp và mệt mỏi nhất về việc giải quyết khiếu kiện và biểu tình đông người - đã đồng thuận với phương án cần có Luật biểu tình và Luật trưng cầu ý dân, thì Ủy ban TVQH lại không chấp thuận, dù Quốc hội chính là cơ quan thể hiện quyền lực và quyền lợi cao nhất của người dân.
Sau khi xảy ra bất đồng chưa có tiền lệ trên, trong cuộc họp báo thường kỳ cuối tháng 5/2013, chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam đã phát đi thông điệp “Chính phủ giữ nguyên quan điểm góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”, tức bao gồm cả vấn đề xem xét đưa raLuật Biểu tình.
Nhưng những người của Ủy ban TVQH, sau Hội nghị trung ương 7 của Đảng với những động thái “nội bộ” nhưng lại được quá nhiều người dân vỉa hè biết đến, dường như vẫn cố gắng bảo lưu quan điểm bất đồng thuận với Chính phủ về một số vấn đề “nhạy cảm”.
Vậy những người của Chính phủ và đại đa số đại biểu quốc hội sẽ làm thế nào để biến hứa hẹn thành hành động - một loại hành động vì lợi ích của dân chúng chứ không phải thiên lệch cho những nhóm lợi ích đã dày vò quá tàn nhẫn nền kinh tế và dân sinh ở Việt Nam?
Liệu trong thời gian còn lại của kỳ họp quốc hội lần này sẽ xuất hiện thêm những khuôn mặt đại biểu, hoặc cũ hoặc mới, với những đề nghị ủng hộ các đề xuất có vẻ hợp lòng dân của Chính phủ?
Một “gương mặt mới” của Chính phủ và những người thuộc về nó có thể là cần thiết và “lâm thời”, với điều kiện những gì thủ cựu cần được đưa vào bảo tàng.
Bài học nhãn tiền về hòa hợp và hòa giải đã có sẵn ngay trong khu vực Đông Nam Á.
Chỉ bị ngăn trở với Việt Nam bởi chưa đầy một trăm cây số đường biên giới Trung Quốc, nền dân chủ Myanmar đã lột xác kỳ diệu chỉ trong vòng hai năm.
Những gì mà Thein Sein và giai cấp của ông đã làm được, dù không tránh khỏi động cơ và động lực của tư tưởng lợi ích nhóm và chủ nghĩa thân hữu, vẫn đã mở ra một lối thoát khả dĩ cho những chính khách khôn ngoan, nếu so với triển vọng phải sống lưu vong hoặc mất trắng.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, đang sống ở Sài Gòn.
Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
Từ thời điểm ý tưởng cần có Luật Biểu tình được người đứng đầu cơ quan hành pháp cao nhất chính thức phát ra vào tháng 11/2011, một năm rưỡi đã lặng trôi với tinh thần đóng kín từ những người đứng đầu cơ quan lập pháp “của dân, do dân và vì dân”.
Chỉ vài ngày sau khi khai mạc kỳ họp thứ 5 của Quốc hội, người thay mặt cho Ủy ban Pháp luật của cơ quan dân cử tối cao này là ông Phan Trung Lý đã lập tức “bác” khá nhiều đề xuất từ phía Chính phủ.
Những đề xuất trên nằm trong 7 nhóm vấn đề của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và thuộc về những chủ đề bị coi là “nhạy cảm” như Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Đất đai…
Chính phủ trình, quốc hội bác?
Cho dù biểu tình là một thứ quyền đã được hiến định trong Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhưng 38 năm từ ngày thống nhất đất nước, vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào thực thi Hiến pháp về Luật Biểu tình theo đúng tinh thần cộng hòa như ở nhiều nước phát triển trên thế giới.Và như thể tạm thời, “xã hội chủ nghĩa” vẫn giữ nguyên hàm ý “quá độ” khi Quốc hội xem xét việc đổi tên nước.
Trong suốt chiều dài con sóng phản ứng của người dân về chủ quyền biển đảo, Ủy ban TVQH vẫn đều đặn thông qua nhiều đạo luật. Chỉ ngắn gọn là không một luật nào mang tính can dự vào “Mười sáu chữ vàng”.Thực trạng hổng luật cũng là một trong những nguyên do chủ yếu khiến các cuộc biểu tình chống Trung Quốc can thiệp đã rơi vào tâm thế “vi hiến” và bị chính quyền cùng công an trấn dẹp thẳng tay.
Nhưng trong suốt chiều dài con sóng phản ứng của người dân về chủ quyền biển đảo, Ủy ban TVQH vẫn đều đặn thông qua nhiều đạo luật. Chỉ ngắn gọn là không một luật nào mang tính can dự vào “Mười sáu chữ vàng”.
Kỳ họp tháng 5-6/2013 cũng “ngắn gọn” như thế .
“Tại một kỳ họp quốc hội chỉ có thể thông qua từ 10-13 luật. Trong khi đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ được thông qua vào cuối năm 2013 nên năm 2014 sẽ phải sửa đổi, bổ sung nhiều luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật phục vụ cho việc tái cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh” - Ủy ban TVQH phác ra lý do như vậy, lồng trong một báo cáo mang tính định hướng của ông Phan Trung Lý.
Lý do trên nhằm “không tán thành với đề xuất của Chính phủ đưa Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu ý dân”.
“Hố phân cách” giữa Quốc hội và Chính phủ, hay nói cách khác là giữa nhóm lãnh đạo của hai cơ quan lập pháp và hành pháp dường như đã trở nên sâu sắc và lạ lẫm chưa từng có.
Hiện tượng này lại như đồng nhất với bầu không khí đầy suy tư cùng bất ngờ của Hội nghị trung ương 7 của Đảng, cũng diễn ra vào tháng 5/2013 và trước kỳ họp quốc hội, kèm theo kết quả nhân sự không thể ích lợi hơn cho những người theo chủ thuyết “lợi ích”.
'Dân biểu đề xuất, quốc hội bác'
Luật Biểu tình được chính thức nêu ra trong phiên họp Quốc hội hồi tháng 11/2011
Gần đây, ấn tượng nhất có lẽ là đề xuất đưa Luật Biểu tình vào chương trình năm sau của đại biểu quốc hội thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung.
Ông Chung hiện là Giám đốc Công an TP Hà Nội. Và Hà Nội lại là trung tâm của nhiều cuộc biểu tình tự phát chống “các thế lực thù địch” - hiểu theo nghĩa nào cũng được.
Nghĩa là nếu cả công an cũng đồng thuận với Luật Biểu tình, điều gì sẽ diễn ra?
Tất nhiên, hiện tượng hiếm hoi trên có thể biến thành một dấu hỏi lớn, nhất là về điều cần được coi là “lòng chân thành chính trị” - cụm từ mà các nhà nhân quyền và giới phân tích chính trị phương Tây dành để biểu tả về tổng thống Thein Sein của Myanmar - đối với những người mang sắc phục ở Việt Nam.
Nhưng dù là thế nào, tư tưởng cũng đang diễn biến sang hành động.
Một năm rưỡi sau năm 2011, đã xuất hiện những nhân vật khác.
Không chỉ ông Nguyễn Đức Chung, mà như lời trần thuật của luật sư và cũng là đại biểu quốc hội Trương Trọng Nghĩa thì “Tôi cũng trao đổi với nhiều vị công an và họ cũng mong có Luật Biểu tình”.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa cho rằng xây dựng Luật Biểu tình là để “trả nợ” nhân dân nhưng cũng giúp cho nhà nước, bởi quản lý vấn đề biểu tình như hiện nay là không thích hợp.
"“Hố phân cách” giữa Quốc hội và Chính phủ, hay nói cách khác là giữa nhóm lãnh đạo của hai cơ quan lập pháp và hành pháp dường như đã trở nên sâu sắc và lạ lẫm chưa từng có."
Nhưng điều có vẻ rất khó hiểu là trong khi Chính phủ - cơ quan phải chịu trách nhiệm trực tiếp và mệt mỏi nhất về việc giải quyết khiếu kiện và biểu tình đông người - đã đồng thuận với phương án cần có Luật biểu tình và Luật trưng cầu ý dân, thì Ủy ban TVQH lại không chấp thuận, dù Quốc hội chính là cơ quan thể hiện quyền lực và quyền lợi cao nhất của người dân.
Sau khi xảy ra bất đồng chưa có tiền lệ trên, trong cuộc họp báo thường kỳ cuối tháng 5/2013, chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam đã phát đi thông điệp “Chính phủ giữ nguyên quan điểm góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”, tức bao gồm cả vấn đề xem xét đưa raLuật Biểu tình.
Nhưng những người của Ủy ban TVQH, sau Hội nghị trung ương 7 của Đảng với những động thái “nội bộ” nhưng lại được quá nhiều người dân vỉa hè biết đến, dường như vẫn cố gắng bảo lưu quan điểm bất đồng thuận với Chính phủ về một số vấn đề “nhạy cảm”.
Vận mệnh quốc gia?
Không thể mô tả khác hơn, đời sống nhân dân đang lặn hụp trong nỗi bất an ngập ngụa rủi ro nhưng vẫn chưa thấy đáy. Giờ đây, tất cả chỉ còn biết ngóng trông vào một tinh thần “đồng nguyên” nào đó giữa những chính khách cao nhất, hầu mong có thể xoay chuyển vận mệnh quốc gia.Vậy những người của Chính phủ và đại đa số đại biểu quốc hội sẽ làm thế nào để biến hứa hẹn thành hành động - một loại hành động vì lợi ích của dân chúng chứ không phải thiên lệch cho những nhóm lợi ích đã dày vò quá tàn nhẫn nền kinh tế và dân sinh ở Việt Nam?
Liệu trong thời gian còn lại của kỳ họp quốc hội lần này sẽ xuất hiện thêm những khuôn mặt đại biểu, hoặc cũ hoặc mới, với những đề nghị ủng hộ các đề xuất có vẻ hợp lòng dân của Chính phủ?
Một “gương mặt mới” của Chính phủ và những người thuộc về nó có thể là cần thiết và “lâm thời”, với điều kiện những gì thủ cựu cần được đưa vào bảo tàng.
Bài học nhãn tiền về hòa hợp và hòa giải đã có sẵn ngay trong khu vực Đông Nam Á.
Chỉ bị ngăn trở với Việt Nam bởi chưa đầy một trăm cây số đường biên giới Trung Quốc, nền dân chủ Myanmar đã lột xác kỳ diệu chỉ trong vòng hai năm.
Những gì mà Thein Sein và giai cấp của ông đã làm được, dù không tránh khỏi động cơ và động lực của tư tưởng lợi ích nhóm và chủ nghĩa thân hữu, vẫn đã mở ra một lối thoát khả dĩ cho những chính khách khôn ngoan, nếu so với triển vọng phải sống lưu vong hoặc mất trắng.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, đang sống ở Sài Gòn.
Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
Hiến pháp: Năm nội dung cần được giải trình thêm
Đã có nhiều ý kiến đã được tiếp thu, có những điều khoản được đề nghị
với hai, ba phương án, nhưng nhìn chung Dự thảo Hiến pháp phiên bản ngày
17.5.2013 chưa đáp ứng được mong đợi.
Ngày 21.5.2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã trình bày
trước Quốc hội Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân, và bản dự thảo mới.
Đã có nhiều ý kiến đã được tiếp thu, có những điều khoản được đề nghị
với hai, ba phương án, nhưng nhìn chung Dự thảo Hiến pháp phiên bản ngày
17.5.2013 chưa đáp ứng được mong đợi. Một số nội dung quan trọng, cho
dù không thuộc diện "nhạy cảm", vẫn được giữ như trong phiên bản tháng
12.2012 và cần được giải trình thêm. Xin dẫn ra đây năm vấn đề.
1. Nhiều góp ý, phân tích rất sắc sảo bởi những người trong cuộc có
trọng trách, về Chương IX, Chính quyền địa phương, cho rằng khó chấp
nhận cách viết trong phiên bản 12.2012, lẫn hai phương án đề ra trong
phiên bản 05.2013, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều "cải tiến" chưa được
tổng kết một cách nghiêm túc (như việc bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện
chẳng hạn).
Cán bộ ở cơ sở thường nói với nhau: ở trên giống như ông Trời, tỉnh như
mái nhà, huyện như các máng xối và xã là các cái lu hứng tất cả những
quy định của cấp trên. Nhận xét này rất sát thực tế cần được ghi nhận để
nhìn ra các hệ lụy tiềm tàng nếu những quy định về chính quyền địa
phương (Chương IX) mờ mờ ảo ảo như trong dự thảo.
2. UBDTSĐHP bổ sung vào Điều 2 khoản 3, cụm từ kiểm soát: Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Rất nhiều ý kiến xác đáng cho rằng không thể có chuyện kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước khi mà Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
và nêu câu hỏi không rõ Quốc hội chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước
nào trong dự thảo Hiến pháp?
Chúng ta hãy chờ nghe giải trình của UBDTSĐHP.
Sẽ toàn diện và tốt hơn nhiều nếu Đảng quyết trên cơ sở ý kiến ban đầu
của mình và sau khi lắng nghe kết quả bàn bạc giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
3. Nhiều ý kiến cũng yêu cầu Dự thảo cần quy định rõ trong Hiến pháp
việc giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước và Đảng (Điều 4)
sẽ được thực hiện bằng cơ chế nào.
Việc lấy phiếu tín nhiệm 49 vị được Quốc hội bầu và phê chuẩn là một
bước tiến trong tiến trình dân chủ hóa đời sống chính trị và xã hội nước
ta mà đáng lý ra đã phải được thực hiện từ nhiều năm rồi theo quy định
của Điều 84 khoản 7 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001).
Mặc dù biết rằng đối tượng lấy phiếu tín nhiệm được xác định như thế,
nhưng vẫn có một cái gì đó làm cho cử tri cảm nhận như một điều chưa
được trọn vẹn. Có lẽ vì người có trách nhiệm cao nhất trong trọng trách
lãnh đạo Nhà nước và xã hội lại đứng ngoài sự kiện.
Tại sao dự thảo Hiến pháp không quy định một điều khoản theo đó Quốc hội
thể hiện mức độ tín nhiệm đối với vị này bằng lá phiếu của đại biểu
Quốc hội, như là một phương thức thể hiện sự giám sát của nhân dân đối
với Đảng? Thiết nghĩ UBDTSĐHP nên xem xét kiến nghị này.
4. Vị trí và vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội và một Quốc hội có
thực chất tương xứng với chức năng và nhiệm vụ đã được góp ý khá nhiều.
Không thể nói "cơ bản ý kiến nhân dân tán thành với quy định về Quốc hội
như Dự thảo đã công bố" để không giải trình đầy đủ về hai vấn đề trên.
Từ chỗ là cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp của Quốc hội
hiện nay, theo thiết kế của UBDTSĐHP 1992, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ
trở thành một cơ quan thường trực của Quốc hội, với rất nhiều quyền hạn
hiến định, kể cả lãnh đạo Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của
Quốc hội.
Không thể viện dẫn lý do "trong điều kiện Quốc hội không hoạt động
thường xuyên" để rồi trao một số thẩm quyền của Quốc hội cho Ủy ban
thường vụ Quốc hội, bởi lẽ viện dẫn này có nguy cơ dẫn đến tiếm quyền và
truất quyền.
Một hai chục người trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể thay thế
500 đại biểu Quốc hội mà cử tri bầu ra và yêu cầu họ làm việc thực chất,
có trí tuệ và trách nhiệm.
5. Về Chương X, tại nhiều diễn dàn, nhiều ý kiến đã được phát biểu không
thể rõ ràng hơn: hoặc là thành lập Hội đồng Hiến pháp đúng nghĩa để bảo
đảm sự tôn trọng Hiến pháp bởi mọi tổ chức và cá nhân, hoặc là không
thành lập chứ không thể lập lờ lập ra "cái gọi là Hội đồng Hiến pháp"
như UBDTSĐHP đề xuất.
Tương tự, Hội đồng bầu cử quốc gia ở các nước được thành lập là vì ở đó
có nhiều đảng phái chính trị tham gia bầu cử. Ở Việt Nam, trong chế độ
chính trị được quy định tại Chương I, lập ra Hội đồng bầu cử quốc gia có
thực sự cần thiết không, ngoài một thông điệp nào đó, nếu có, cần nói
rõ.
GS-TSKH Nguyễn Ngọc Trân
(Tuần VN)
Hãy bảo vệ ngư dân!
Ngay sau khi đơn phương công bố lệnh cấm đánh bắt cá tại biển Đông trong
mùa đánh bắt cá năm nay, Trung Quốc xua hơn 30 tàu cá lớn, có cả tàu
hải giám thậm chí khu trục đi kèm, tiến về phía Nam; tổ chức tập trận
hải quân nhằm gửi thông điệp đe dọa các nước có tranh chấp chủ quyền và
khoe sức mạnh với các cường quốc khác. Tất cả chỉ nhằm phục vụ cho mưu
đồ độc chiếm biển Đông của Trung Quốc.
Việt Nam luôn chủ trương giải quyết tranh chấp bằng giải pháp hòa bình,
đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp
lý để khẳng định chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam
cũng đã kiên trì thực hiện các biện pháp ngoại giao cần thiết khi có
tranh chấp trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế.
Thế nhưng, Trung Quốc thì ngược lại. Họ chẳng đưa ra được chứng cứ lịch
sử và pháp lý nào làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền phần lớn biển Đông
thể hiện qua "đường lưỡi bò" quanh co, quái đản; phớt lờ tuyên bố ứng xử
của các bên trên biển Đông (DOC); né tránh đàm phán về Bộ Quy tắc ứng
xử biển Đông (COC) và bất chấp Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm
1982. Đáng chú ý là từ khi Việt Nam thông qua Luật Biển năm 2012, các va
chạm trên biển với phía Trung Quốc ngày càng nhiều, nghiêm trọng và
thái độ của phía Trung Quốc cũng ngày càng ngang ngược.
Vấn đề lúc này là làm sao bên cạnh các biện pháp ngoại giao, cơ quan
chức năng của ta cần bảo vệ được ngư dân ngay trên vùng biển Tổ quốc. Đó
là mấu chốt của tinh thần bảo vệ chủ quyền.
Chúng ta có Luật Biển, có các lực lượng thực thi pháp luật trên biển.
Đòi hỏi lúc này là phải hành động bản lĩnh mới giữ được chủ quyền, mới
tạo niềm tin đối với hàng triệu ngư dân quyết chí ra khơi bám biển, giữ
gìn chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Để làm được điều đó, chính phủ cần tiếp tục đầu tư hỗ trợ vốn cho ngư
dân đóng tàu thuyền công suất cao, hình thành các đội tàu lớn, xây dựng
các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá ở các đảo và quần đảo. Mặt khác, cần
phát huy tối đa hiệu quả truyền thông ra thế giới để tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế.
Mềm rắn nắn buông, cần phải biết cái gót Achilles của đối phương. Nếu
bảo vệ được ngư dân trên thực địa, có nghĩa là chúng ta khẳng định bằng
hành động việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền lãnh hải, toàn bộ
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Cao Tuấn
(Người Lao động)
Ngư dân bị vây ráp giữa Biển Đông, ép giá trên bờ
Ngư dân Nguyễn Văn Thương cho biết tàu vừa bị mất 10 tấm lưới do bị tàu Trung Quốc truy đuổi trái phép. |
Liên tiếp bị uy hiếp
Anh Phạm Thanh (42 tuổi, phường An Hải Bắc, Sơn Trà - Đà Nẵng), thuyền trưởng tàu cá QNg 90397 kể, sau hành trình gần 100 hải lý ra khơi, chuẩn bị thả mẻ lưới đầu tiên thì xuất hiện tàu sắt màu xám ghi chữ Trung Quốc đèn đuốc sáng choang ập tới uy hiếp, xua đuổi. Gần đó, còn 3 tàu sắt khác đứng thành hàng chờ sẵn. Thuyền trưởng vội rồ máy chạy quanh tránh những cú đâm trực diện. Sau gần 6 tiếng đồng hồ, rạng sáng hôm sau, chiếc tàu cá mới thoát vòng nguy hiểm.
Cập âu thuyền Cảng cá Thọ Quang, thuyền trưởng Thanh cùng bạn tàu tháo vội đầu máy gần 500CV lên đà (xưởng) sửa chữa. Máy tàu hoạt động hết công suất suýt cháy, cũng may vào đến bờ mới hỏng. Cả tàu nhìn nhau ngao ngán, mất toi trên 100 triệu đồng để sửa chữa.
Anh Nguyễn Đình Tư (quê Đức Phổ, Quảng Ngãi), ngư dân trên tàu nói, mấy tuần gần đây, Trung Quốc ra lệnh “cấm biển”, ngang nhiên trấn áp xua đuổi ngư dân Việt ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, có lúc chỉ cách bờ Đà Nẵng dăm chục hải lý.
" Trung Quốc bịt đường ra biển, ép giá trên bờ chẳng khác nào vừa đánh “tiền tuyến” lại phá “hậu phương” khiến đời sống ngư dân thêm bấp bênh, khốn đốn
Thuyền trưởng Phạm Thanh "
Tàu cá ĐNa 90442 vừa mất 10 tấm lưới trị giá 60 triệu đồng vì bị “tàu trắng” của Trung Quốc vây ráp. Thuyền trưởng Nguyễn Cư (phường Nại Hiên Đông, Sơn Trà - Đà Nẵng) kể lại vừa thả lưới thì phát hiện chiếc tàu sắt trắng, số hiệu 949 in chữ “China” cùng đội 16 chiếc tàu khác vây lại.
Ông Cư nổ máy chạy, nhưng tàu Trung Quốc chiếu pha đèn chặn đường, uy hiếp. Cứ vậy, suốt từ 4 giờ sáng đến 4 giờ chiều hôm sau. Thấy nhiên liệu cạn dần, anh Cư đành ra lệnh cắt bỏ 10 tấm lưới còn lại mới thoát kịp vào bờ. Chưa đầy một năm, tàu cá này đã 3 lần mất lưới do bị tàu phía Trung Quốc uy hiếp. Cuối năm 2012, tàu mất 30 tấm lưới khi hành nghề lưới cản gần đảo Bạch Long Vĩ.
Sáng 28/5, đang đánh bắt cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý, tàu cá QB 93768 TS của thuyền trưởng Lê Văn Kiến (29 tuổi, trú thôn Tân Mỹ, xã Quảng Phúc, Quảng Trạch - Quảng Bình) bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 788 bắt, áp tải về phía Trung Quốc.
Sau 4 tiếng đồng hồ, tàu cá này mới được tàu Trung Quốc thả, chạy vào bờ. Thống kê sơ bộ từ Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Quảng Ngãi, từ đầu năm đến nay, đơn vị tiếp nhận hơn 100 trường hợp tàu thuyền của ngư dân địa phương báo cáo về việc bị tàu Trung Quốc cản trở, uy hiếp khi đang đánh bắt hải sản trên biển.
Ngư dân miền Trung đoàn kết bám biển. Ảnh: H.D. |
Ép giá trên bờ
Cập bờ Đà Nẵng đã 2 ngày, tàu cá QNg 94191 vẫn chưa dám “xả hàng” vì giá quá bèo. Theo thuyền trưởng Trương Trung (38 tuổi, trú Đức Phổ, Quảng Ngãi), tàu đánh bắt được 15 tấn đủ loại cá, mực. Bình thường, loại cá rác giá 6-8 ngàn đồng/kg, nhưng hai tháng gần đây, thương lái ép giá xuống chỉ còn một nửa.
Mực giá chỉ ở mức 100-120 ngàn đồng/kg (loại mực ống, tươi ngon), còn lại từ 20-60 ngàn đồng/kg. Liên hệ đủ các đầu nậu quen mà giá hải sản bán buôn vẫn không nhích lên được. Theo các chủ tàu, cánh đầu nậu liên kết với nhau để ép giá ngư dân.
Anh Trần Văn Hùng (trú Quy Nhơn, Bình Định), thuyền viên tàu QNg 94191, cho biết, gần đây, thương lái Trung Quốc kéo đến cảng cá nhiều hơn, nhưng không trực tiếp ra mặt mà núp đằng sau các đầu nậu địa phương để ép giá. Thay vì bán cho các công ty, nhà máy chế biến, đầu nậu được tư thương Trung Quốc ứng tiền, trả tiền “tươi”, nên nhiều chủ tàu đành nhắm mắt chấp nhận giá thấp.
Đầu nậu Nguyễn Th. (Nại Hiên Đông - Đà Nẵng) có tiếng ở Cảng cá Thọ Quang cho biết, mình làm “trung gian”, chỉ thu gom, ướp đông rồi có đơn vị vận chuyển đến đầu mối khác.
Giá bị ép là do đầu mối thương lái Trung Quốc. Cánh đầu nậu cho hay, thương lái Trung Quốc khá kín kẽ trong làm ăn và ít khi lộ diện. “Mỗi thời điểm, họ yêu cầu thu gom hết từng loại hải sản khác nhau, khi thì mực, khi thì cá ngừ, lúc cá thu. Nhưng thường cứ loại nào đang vào mùa thì yêu cầu thu gom, để ép giá”, đầu nậu Th. nói.
Anh Hoàng Văn Bình (nhà đường Khúc Hạo, Nại Hiên Đông - Đà Nẵng), hiện chuyên thu gom hải sản phân phối các quán nhậu, nhà hàng tại Đà Nẵng kể: “Trước mình hay thu gom hải sản cho thương lái Trung Quốc. Nhưng sau 2 vụ bị lật kèo mất gần 200 triệu đồng, mình tởn đến già. Cánh thương lái Trung Quốc nhiều thủ đoạn, khi được lòng tin của các đầu nậu thì thường ăn cú đậm để chạy làng.
Nguyễn Huy
( Tiền Phong )
Doanh nghiệp châu Âu tại Trung Quốc : Bi quan kỷ lục
Hội chợ triển lãm xe hơi tháng 04/2013 tại Thượng Hải . Các tập đoàn xe hơi Đức nằm trong số 29% doanh nghiệp châu Âu lạc quan. (REUTERS/Aly Song)
Theo một công trình nghiên cứu được
công bố hôm qua 30/05/2013, chỉ có hơn một phần tư các doanh nghiệp
châu Âu đang làm ăn tại Trung Quốc cho rằng viễn tượng sắp tới là tốt
đẹp cho họ, tại nền kinh tế thứ nhì thế giới.
Phòng Thương mại Liên hiệp châu Âu tại Trung Quốc sau khi khảo sát trên 500 thành viên đã tiết lộ, chỉ có 29% doanh nghiệp châu Âu có cơ sở kinh doanh tại nước này là tỏ ra lạc quan về cơ hội làm ra lợi nhuận, so với năm ngoái là 34%. Đây là tỉ lệ tin cậy thấp nhất kể từ năm 2004 đến nay.
Chủ tịch Phòng Thương mại Liên hiệp châu Âu tại Trung Quốc, ông David Cucino khẳng định : « Kết quả tài chính đi xuống và hy vọng kiếm được lợi tức đang ở mức thấp nhất ».
Theo công trình nghiên cứu được tiến hành hồi tháng Ba, có 64% doanh nghiệp được khảo sát làm ra được lợi nhuận trong năm 2012, trong khi năm trước đó tỉ lệ này là 73%. Giá lao động tăng tại Trung Quốc là yếu tố chủ chốt của tình trạng lợi tức giảm xuống.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Trung Quốc đang chậm lại cũng là một nguyên nhân – theo Tổng thư ký Phòng Thương mại Liên hiệp châu Âu tại Trung Quốc, ông Adam Dunnett. Trong cuộc họp báo, ông Dunnett phân tích : « Các con số do Tổng cục Thống kê Trung Quốc đưa ra cho thấy con đường còn rất dài. Tôi nghĩ rằng một số người đã ngạc nhiên khi nhận ra rằng việc phục hồi kinh tế không thể diễn ra nhanh hơn ».
Cũng theo nghiên cứu trên, các doanh nghiệp châu Âu còn phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ và tình trạng nền kinh tế thế giới đang chững lại.
Hơn nữa, theo ông David Cucino, Bắc Kinh còn áp đặt các hạn chế trong việc thâm nhập thị trường Trung Quốc đối với các công ty ngoại quốc, và đưa ra khung quy định đôi khi mang tính phân biệt đối xử, dẫn đến việc các doanh nghiệp nước ngoài bị lỗ lã 17,5 tỉ euro trong năm ngoái.
Hôm thứ Tư 29/5, Quỹ Tiền tệ Quốc tế thông báo hạ mức dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2013 từ 8% xuống còn 7,75%. Năm ngoái, tăng trưởng Trung Quốc là 7,8%, đây là tỉ lệ thấp nhất trong vòng 13 năm qua.
Mới đây, các chuyên gia kết luận rằng tăng trưởng của Trung Quốc tiếp tục chậm lại, sau khi Bắc Kinh loan báo đầu tư đang chựng lại trong tháng Tư.
Thụy My (RFI)
Phòng Thương mại Liên hiệp châu Âu tại Trung Quốc sau khi khảo sát trên 500 thành viên đã tiết lộ, chỉ có 29% doanh nghiệp châu Âu có cơ sở kinh doanh tại nước này là tỏ ra lạc quan về cơ hội làm ra lợi nhuận, so với năm ngoái là 34%. Đây là tỉ lệ tin cậy thấp nhất kể từ năm 2004 đến nay.
Chủ tịch Phòng Thương mại Liên hiệp châu Âu tại Trung Quốc, ông David Cucino khẳng định : « Kết quả tài chính đi xuống và hy vọng kiếm được lợi tức đang ở mức thấp nhất ».
Theo công trình nghiên cứu được tiến hành hồi tháng Ba, có 64% doanh nghiệp được khảo sát làm ra được lợi nhuận trong năm 2012, trong khi năm trước đó tỉ lệ này là 73%. Giá lao động tăng tại Trung Quốc là yếu tố chủ chốt của tình trạng lợi tức giảm xuống.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Trung Quốc đang chậm lại cũng là một nguyên nhân – theo Tổng thư ký Phòng Thương mại Liên hiệp châu Âu tại Trung Quốc, ông Adam Dunnett. Trong cuộc họp báo, ông Dunnett phân tích : « Các con số do Tổng cục Thống kê Trung Quốc đưa ra cho thấy con đường còn rất dài. Tôi nghĩ rằng một số người đã ngạc nhiên khi nhận ra rằng việc phục hồi kinh tế không thể diễn ra nhanh hơn ».
Cũng theo nghiên cứu trên, các doanh nghiệp châu Âu còn phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ và tình trạng nền kinh tế thế giới đang chững lại.
Hơn nữa, theo ông David Cucino, Bắc Kinh còn áp đặt các hạn chế trong việc thâm nhập thị trường Trung Quốc đối với các công ty ngoại quốc, và đưa ra khung quy định đôi khi mang tính phân biệt đối xử, dẫn đến việc các doanh nghiệp nước ngoài bị lỗ lã 17,5 tỉ euro trong năm ngoái.
Hôm thứ Tư 29/5, Quỹ Tiền tệ Quốc tế thông báo hạ mức dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2013 từ 8% xuống còn 7,75%. Năm ngoái, tăng trưởng Trung Quốc là 7,8%, đây là tỉ lệ thấp nhất trong vòng 13 năm qua.
Mới đây, các chuyên gia kết luận rằng tăng trưởng của Trung Quốc tiếp tục chậm lại, sau khi Bắc Kinh loan báo đầu tư đang chựng lại trong tháng Tư.
Thụy My (RFI)
Thủy điện Trung Quốc : nhà nước giàu nhưng dân trắng tay
Chính quyền Trung Quốc từng công nhận tháng 05/2011 là đập Tam Hiệp gây ra nhiều vấn đề cho môi trường chung quanh. Ảnh chup con đập từ vệ tinh (Getty Images)
Một thập kỷ sau ngày khánh thành đập Tam Hiệp, Bắc Kinh phát triển một
mạng lưới 50 đập thủy điện khổng lồ trên toàn quốc. Nhu cầu năng lượng
không giới hạn này của Trung Quốc gây thiệt hại nặng cho các nước
láng giềng và … nhân dân Trung Quốc.
Tam Hiệp, đập thủy điện lớn nhất thế giới xây trên sông Dương tử đã chôn vùi hàng trăm thành phố, làng mạc và hơn 1,2 triệu dân phải di tản đi nơi khác. Bất chấp lời ta thán của dân gian và làn sóng phản đối của giới bảo vệ môi trường, Bắc Kinh vẫn tiến hành một chính sách thủy điện đầy tham vọng với hơn 50 dự án trong kế hoạch năm năm 2011-2015.
Nhu cầu năng lượng không giới hạn của Trung Quốc là động lực thúc đẩy Bắc Kinh bất chấp mọi hệ quả cho con người và môi trường. Chỉ riêng trên sông Dương tử, 29 đề án đang và sẽ được thực hiện.
Đập Tam Hiệp với năng suất tương đương với 12 lò hạt nhân là mô hình cho các đập kế tiếp. Được xem là giải pháp điều chỉnh lưu lượng sông Dương tử, bảo vệ dân cư thường xuyên là nạn nhân của lũ lụt, đập Tam Hiệp đã gây ra những hệ quả tai hại mà giới bảo vệ môi trường đã cảnh báo trước. Cụ thể là vào năm 2011, lưu lượng sông Dương tử xuống đến mức thấp kỷ lục được ghi nhận từ 50 năm qua. Chính quyền Trung Quốc phải thừa nhận « có nhiều vấn đề khẩn cấp » do đập Tam Hiệp gây ra : một là cho môi trường thiên nhiên và hai là chính sách tái định cư cho dân bị di dời chổ ở.Trong khi đó thì mưa lũ đã đổ xuống các thành phố ở hạ nguồn giết chết hàng trăm người.
Số phận của hàng triệu dân phải di dời cũng rất bi thảm. Một nạn nhân 69 tuổi than thở với AFP là chính quyền cấp cho ông mảnh đất ở một nơi xa xôi không ai muốn đến, không làm ăn gì được. Nói chung là những người bị trưng thu đất đai chỉ nhận được món tiền bồi thường không xứng đáng.
Nạn nhân thứ ba là tình trạng lưu thông trên sông Dương tử . Con đường huyết mạch nối liền Trùng Khánh ra biển bị gián đoạn vì đập thủy điện. Tàu thuyền phải chờ cả tuần để qua đập khiến cho phần lớn thương vụ trên sông bị mất khách hàng.
Do quản lý kém, đập thủy điện biến thành nơi tích tụ hàng triệu tấn rác không kể đất đá trên núi tràn xuống và phân người. Từ khi có đập thủy điện lượng cá trên sông giảm đi một cách nhanh chóng.
Trên thượng nguồn, giữa Tứ Xuyên và Vân Nam, hồ Khê Lạc Độ, một đập thủy điện khác vừa được xây dựng xong, đang trong tiến trình tích nước kể từ ngày 04/05/2013 và dự trù sẽ phát điện từ tháng 6. Khê Lạc Độ, cao 285,5 mét, được xem là đập lớn nhất thế giới nếu tính theo lượng nước xã. Giữa tháng 5, bộ môi trường cũng đã bật đèn xanh cho xây một đập khổng lồ khác, cao 314 mét, trên sông Đại độ.
Trên sông Nộ giang ở Vân Nam, chính quyền Trung Quốc cho phép xây một loạt 5 đập thủy điện trên tổng số 13 đề án bất chấp hệ quả cho sinh thái. Trước cuộc tranh đấu mãnh liệt của dân chúng địa phương và giới bảo vệ môi trường , năm 2004, chính phủ Ôn Gia Bảo phải hủy bỏ một dự án để xoa dịu công luận Trung Quốc. Vấn đề là sông Nộ giang chảy sang láng giềng Miến Điện và Thái Lan với tên gọi Salween.
Nhu cầu phát triển thủy điện của Trung Quốc đe dọa đời sống của các lân bang. Tháng ba năm nay, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã chỉ trích ba dự án xây đập trên dòng sông Bramapoutre phát nguyên từ Tây Tạng và chảy xuống Ấn Độ. Nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Cam Bốt, Miến Điện, Việt Nam đã bị lòng tham của Trung Quốc biến thành nạn nhân mà tương lai kinh tế và nông nghiệp tùy thuộc vào ý muốn của Bắc Kinh.
Theo nhận định của nhà bảo vệ môi trường Đới Thanh, cán bộ chính quyền địa phương và giới doanh nghiệp móc ngoặc với nhau để thủ lợi. Đối với những kẻ này thì môi trường và cuộc sống của nhân dân không có ý nghĩa gì.
Tú Anh (RFI)
Tam Hiệp, đập thủy điện lớn nhất thế giới xây trên sông Dương tử đã chôn vùi hàng trăm thành phố, làng mạc và hơn 1,2 triệu dân phải di tản đi nơi khác. Bất chấp lời ta thán của dân gian và làn sóng phản đối của giới bảo vệ môi trường, Bắc Kinh vẫn tiến hành một chính sách thủy điện đầy tham vọng với hơn 50 dự án trong kế hoạch năm năm 2011-2015.
Nhu cầu năng lượng không giới hạn của Trung Quốc là động lực thúc đẩy Bắc Kinh bất chấp mọi hệ quả cho con người và môi trường. Chỉ riêng trên sông Dương tử, 29 đề án đang và sẽ được thực hiện.
Đập Tam Hiệp với năng suất tương đương với 12 lò hạt nhân là mô hình cho các đập kế tiếp. Được xem là giải pháp điều chỉnh lưu lượng sông Dương tử, bảo vệ dân cư thường xuyên là nạn nhân của lũ lụt, đập Tam Hiệp đã gây ra những hệ quả tai hại mà giới bảo vệ môi trường đã cảnh báo trước. Cụ thể là vào năm 2011, lưu lượng sông Dương tử xuống đến mức thấp kỷ lục được ghi nhận từ 50 năm qua. Chính quyền Trung Quốc phải thừa nhận « có nhiều vấn đề khẩn cấp » do đập Tam Hiệp gây ra : một là cho môi trường thiên nhiên và hai là chính sách tái định cư cho dân bị di dời chổ ở.Trong khi đó thì mưa lũ đã đổ xuống các thành phố ở hạ nguồn giết chết hàng trăm người.
Số phận của hàng triệu dân phải di dời cũng rất bi thảm. Một nạn nhân 69 tuổi than thở với AFP là chính quyền cấp cho ông mảnh đất ở một nơi xa xôi không ai muốn đến, không làm ăn gì được. Nói chung là những người bị trưng thu đất đai chỉ nhận được món tiền bồi thường không xứng đáng.
Nạn nhân thứ ba là tình trạng lưu thông trên sông Dương tử . Con đường huyết mạch nối liền Trùng Khánh ra biển bị gián đoạn vì đập thủy điện. Tàu thuyền phải chờ cả tuần để qua đập khiến cho phần lớn thương vụ trên sông bị mất khách hàng.
Do quản lý kém, đập thủy điện biến thành nơi tích tụ hàng triệu tấn rác không kể đất đá trên núi tràn xuống và phân người. Từ khi có đập thủy điện lượng cá trên sông giảm đi một cách nhanh chóng.
Trên thượng nguồn, giữa Tứ Xuyên và Vân Nam, hồ Khê Lạc Độ, một đập thủy điện khác vừa được xây dựng xong, đang trong tiến trình tích nước kể từ ngày 04/05/2013 và dự trù sẽ phát điện từ tháng 6. Khê Lạc Độ, cao 285,5 mét, được xem là đập lớn nhất thế giới nếu tính theo lượng nước xã. Giữa tháng 5, bộ môi trường cũng đã bật đèn xanh cho xây một đập khổng lồ khác, cao 314 mét, trên sông Đại độ.
Trên sông Nộ giang ở Vân Nam, chính quyền Trung Quốc cho phép xây một loạt 5 đập thủy điện trên tổng số 13 đề án bất chấp hệ quả cho sinh thái. Trước cuộc tranh đấu mãnh liệt của dân chúng địa phương và giới bảo vệ môi trường , năm 2004, chính phủ Ôn Gia Bảo phải hủy bỏ một dự án để xoa dịu công luận Trung Quốc. Vấn đề là sông Nộ giang chảy sang láng giềng Miến Điện và Thái Lan với tên gọi Salween.
Nhu cầu phát triển thủy điện của Trung Quốc đe dọa đời sống của các lân bang. Tháng ba năm nay, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã chỉ trích ba dự án xây đập trên dòng sông Bramapoutre phát nguyên từ Tây Tạng và chảy xuống Ấn Độ. Nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Cam Bốt, Miến Điện, Việt Nam đã bị lòng tham của Trung Quốc biến thành nạn nhân mà tương lai kinh tế và nông nghiệp tùy thuộc vào ý muốn của Bắc Kinh.
Theo nhận định của nhà bảo vệ môi trường Đới Thanh, cán bộ chính quyền địa phương và giới doanh nghiệp móc ngoặc với nhau để thủ lợi. Đối với những kẻ này thì môi trường và cuộc sống của nhân dân không có ý nghĩa gì.
Tú Anh (RFI)
Vụ Liberty Reserve rửa tiền: Ngân hàng liên quan tới đâu?
Nếu ngân hàng ở Việt Nam ký hợp đồng ủy thác, thanh toán với Công ty Liberty Reserve thì đã liên quan đến rửa tiền
Thông tin các cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra vụ rửa tiền liên
quan đến Công ty Liberty Reserve (LR) khiến dư luận quan tâm 4 ngân
hàng (NH) tại Việt Nam (Vietcombank, Vietinbank, DongA Bank, ACB) có
dính dáng với công ty này hay không.
Cơ quan tư pháp Mỹ công bố những sai phạm của Liberty Reserve. Ảnh: REUTERS |
Vô tình chuyển tiền gián tiếp
Theo các chuyên gia tài chính, LR là một trang mạng chuyên về chuyển
tiền, hoán đổi tiền thật sang từng đơn vị có ký hiệu “LR” để giao dịch,
thường được gọi là tiền ảo. Để chuyển tiền, cá nhân, tổ chức phải có tài
khoản tại NH rồi chuyển tiền đến tài khoản của LR mở tại NH thứ 2. Sau
đó, LR sẽ ra lệnh cho NH thứ 2 chuyển tiền đến tài khoản của người nhận
mở tại NH thứ 3. Do đó, nếu NH rà soát thì sẽ truy tìm được các giao
dịch chuyển khoản có liên quan đến LR hay không.
Giám đốc công ty kiều hối của một NH tại TPHCM cho biết hầu hết các tổ
chức chuyển tiền qua mạng hoạt động bất hợp pháp mà điển hình là LR -
chuyên chuyển tiền để biến tiền “bẩn” thành tiền sạch. Vì thế, không một
doanh nghiệp nào tại Việt Nam bạo gan ký hợp đồng làm ăn với các tổ
chức chuyển tiền qua mạng. Thông thường, các tổ chức này mở tài khoản
tại một NH để chuyển tiền đến các NH khác. Do đó, nếu LR ra lệnh cho một
NH nước ngoài chuyển tiền đến NH ở Việt Nam và NH này không ký hợp đồng
với LR thì không có liên quan.
Bởi NH nhận tiền đã có quan hệ đại lý NH với NH nước ngoài nên việc
chuyển và nhận tiền là giao dịch hợp pháp. Tuy nhiên, do NH chuyển tiền
có thể không biết hoạt động của LR là rửa tiền nên họ vẫn thực hiện giao
dịch như các khách hàng bình thường, điều này đã vô tình chuyển tiền
gián tiếp cho đối tượng vi phạm pháp luật.
Nhiều người thắc mắc liệu từ Việt Nam có thế chuyển tiền qua mạng để làm
sạch tiền? Một số chuyên gia NH cho rằng việc này rất khó xảy ra. Khi
khách hàng yêu cầu chuyển tiền ra nước ngoài, NH phải xem xét mục đích
chuyển tiền có hợp pháp mới thực hiện giao dịch. Trường hợp cá nhân dùng
thẻ tín dụng Visa, Master Card… để rửa tiền cũng không dễ vì các tổ
chức thẻ quốc tế sẽ ngăn chặn ngay nếu địa chỉ nhận tiền là tổ chức hoạt
động bất hợp pháp.
Các ngân hàng nói không liên quan
Theo các NH và một số công ty kiều hối, để thực hiện dịch vụ chuyển
“tiền tươi thóc thật”, họ phải tìm hiểu kỹ các đối tác về cơ sở pháp lý,
được chính phủ của quốc gia sở tại cấp phép hoạt động... rồi mới ký
hợp đồng làm đại lý NH hoặc đại lý chuyển tiền, nếu không sẽ bị pháp
luật “sờ gáy”.
Liên quan vụ rửa tiền của LR, ông Nguyễn Thanh Toại, Phó Tổng Giám đốc
NH Á Châu (ACB), cho biết ACB không ký hợp đồng hợp tác với LR. Tuy
nhiên, sau khi rà soát mọi giao dịch, NH này phát hiện có một khách hàng
liên quan đến LR mở tài khoản tại chi nhánh Hải Dương.
Trong khi đó, ông Lê Trí Thông, Phó Tổng giám đốc NH Đông Á (DongA
Bank), khẳng định DongA Bank không có quan hệ hợp tác với LR. DongA Bank
hiện có quan hệ hợp tác với nhiều đối tác chuyển tiền và NH đại lý có
uy tín trên thế giới, hoạt động tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về
phòng chống rửa tiền quốc tế.
Theo ông Đào Minh Tuấn, Phó Tổng giám đốc Vietcombank, NH này không có
dính dáng gì đến LR. Vietcombank có ký hợp đồng với 3 công ty chuyển
tiền của Mỹ là MoneyGram, TNMonex và Uniteller. Các công ty này đều có
giấy phép hoạt động, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chuyển tiền;
có tài khoản mở tại NH nước ngoài và có quan hệ NH đại lý với
Vietcombank. Khi một khách hàng chuyển tiền cho người thân ở Việt Nam
thông qua 3 công ty trên, Vietcombank sẽ đứng ra chi trả tiền cho người
nhận.
Có liên quan nếu ký hợp đồng với LR
Ông
Nguyễn Văn Ngọc, Cục trưởng Cục Phòng chống rửa tiền (NH Nhà nước), cho
rằng nếu xác định được NH có ký hợp đồng ủy thác, thanh toán với LR thì
NH đó liên quan đến rửa tiền.
Theo
ông Ngọc, trước khi trang mạng LR bị đánh sập vào ngày 26-5, NH Nhà nước
đã phối hợp với Bộ Công an tập hợp thông tin để tìm hiểu, nghiên cứu
các phương án phòng chống rửa tiền qua LR. Thời gian tới, NH Nhà nước sẽ
công bố thông tin khuyến cáo các NH thương mại, người dân về mức độ rủi
ro đối với phương thức thanh toán qua mạng, nhất là các yếu tố liên
quan đến tính hợp pháp của chủ trang mạng, quy định của pháp luật khi
thực hiện thanh toán bằng internet…
|
Chủ Libertyreserve.com.vn kêu oan
Ngày
31-5, trang web www.libertyreserve.com.vn không còn hoạt động mà chỉ
xuất hiện một số thông báo từ ban quản trị. Theo đó, ban quản trị
Libertyreserve.com.vn cho rằng website này không đại diện cho bất kỳ
trang web nào khác, kể cả Libertyreserve.com dù cả hai có tên miền tương
tự nhau. Theo chủ website này, họ chỉ hoạt động mua bán LR (tiền ảo do
Libertyreserve phát hành) như một số trang web exchange (mua bán tiền
ảo) khác ở Việt Nam và người mua LR hầu hết để dùng vào việc mua những
món hàng online (thẻ điện thoại, thẻ game...) tại các trang web bán hàng
trực tuyến chấp nhận thanh toán bằng LR ngay tại Việt Nam.
“Các
website exchange, trong đó có www.libertyreserve.com.vn đều là nạn nhân
của Libertyreserve.com vì đã thu mua lại LR từ những người kiếm tiền
online nhưng hệ thống LR đã bị đóng cửa nên cũng bị thiệt hại” - chủ
Libertyreserve.com.vn khẳng định.
V.Vinh
|
Đám cưới cho hai… hồn ma chấn động Hà Nội
Hai gia đình bàn nhau sắm lễ vật cho đám cưới người âm. Họ tìm mua một
hình nộm đàn ông, một hình nộm đàn bà cùng nhiều đồ vật tượng trưng cho
đám cưới như khăn áo, mũ mão... Hai gia đình cùng lên tổ chức hôn lễ cho
vợ chồng “thần giữ của”. Lễ cưới tiến hành thu hút rất đông người hiếu
kỳ đến ngó nghiêng chỉ trỏ.
Sự việc xảy ra tại gò đất có tên Núi Bạch Tuyết thuộc địa bàn thôn Linh
Thượng (xã Vân Côn, Hoài Đức, Hà Nội), nơi bao đời này lưu truyền lời
đồn là kho báu, từng chôn sống trinh nữ làm thần giữ của.
Đánh chết rắn, bị “thần linh” bắt vạ
Giải thích về cái tên núi Bạch Tuyết, các cao niên trong thôn cho biết,
theo truyền thuyết, trước kia ở ngọn núi này có một cái hang có tới 3
cửa. Thời phong kiến, giặc ngoại xâm đô hộ vơ vét cơ man nào là vàng
bạc, châu báu. Đến khi thua trận phải rút về nước, chúng không thể mang
hết của cải, đành cất giấu một phần vào "hang 3 cửa".
Gò đất nơi diễn ra đám cưới “người âm” |
Để trấn yểm không cho ai xâm phạm, chúng chôn sống theo một thiếu nữ còn
trinh trắng, làm "thần giữ của" cho hang. Thiếu nữ xấu số đó tên là
Bạch Tuyết Hoa, ngọn núi sau đó cũng mang tên của nữ thần giữ của.
Cũng theo các cao niên, núi Bạch Tuyết ngày nay đã không còn nguyên
trạng, chỉ còn tồn tại một khối đá do bốn tảng đá lớn ghép lại. Với hình
thù đó, người trong thôn quen gọi là quán Bạch Tuyết. Tuy nhiên, dù chỉ
lớn hơn hòn "giả sơn" trang trí các khuôn viên một chút, quán Bạch
Tuyết vẫn ẩn chứa nhiều truyền thuyết liêu trai không rõ thực hư.
Một phụ nữ ngụ thôn Linh Thượng, có thâm niên hàng chục năm bán nước chè
cạnh quán Bạch Tuyết, vẫn còn rùng mình khi kể lại chuyện nữ thần giữ
của "bắt mạng" người sống làm chồng. Chàng trai được chọn đó mới tròn 18
tuổi, nổi tiếng đẹp trai, tính tình lại rất hiền lành. Vào khoảng 12h
trưa một ngày tháng 8/1997, chàng trai cùng một số bạn bè lên quán chơi.
Tình cờ nhìn thấy một con rắn hổ mang to bằng cổ tay bò từ trong núi
ra, chàng trai phản xạ nhanh, dùng một cây gỗ lớn đánh chết con rắn.
Sau sự việc, trở về nhà, chàng trai bắt đầu có những biểu hiện kỳ lạ.
Cậu liên tục nói với mọi người: “Bạch Tuyết chọn tôi làm chồng, tôi sắp
phải về cùng Bạch Tuyết”. Trông cậu lúc đó như người mất hồn, đôi mắt đờ
đẫn không còn sinh khí. Người nhà không ai hiểu đã có chuyện gì xảy ra.
Biết chuyện cậu giết rắn, lại tưởng con em mình sợ quá nên mới như thế.
Ai ngờ vài hôm sau, chàng trai tự tử. Mọi người bấy giờ mới giật mình,
hiểu câu "Bạch Tuyết chọn tôi làm chồng" như là điềm báo chàng trai sẽ
chết.
Hành động lạ của chàng trai nhất quyết đòi… chết
Mang câu chuyện ly kỳ tới gặp gia đình chàng thanh niên, được người cha
khẳng định là có thật. Gia đình ông có bảy người con, chàng trai là con
út. Từ bé, cậu đã hiền lành ngoan ngoãn, chăm chỉ làm việc, hay giúp đỡ
mọi người. Không chỉ thế, cậu còn rất khôi ngô, trở thành niềm tự hào
của cả gia đình.
Nhớ lại biến cố khủng khiếp, người cha cho biết: "Buổi trưa hôm đó, đi
chơi về, nó bỗng bảo tôi: “Bố ơi, con sắp lấy cô Bạch Tuyết làm vợ rồi”.
Trông con như người mất hồn, gia đình rất lo lắng. Sau biết chuyện nó
đánh rắn trên núi, người nhà bèn bảo nhau phải mời “thầy” về xem con có
phạm phải thánh thần nào không để làm lễ giải hạn".
Bấy giờ, một ông “thầy” sau khi xem đã phán: Trong tháng 8 âm lịch này
phải giữ chàng trai trong nhà, nếu qua được ngày 30 là thoát, bằng không
sẽ mất mạng, phải giữ con ở nhà. Gia đình nghe thế thì vội vàng cắt cử
người luân phiên theo chàng trai như hình với bóng.
Không chỉ cấm cản, không cho chàng trai ra ngoài, người nhà sắm một mâm
lễ to, lên núi Bạch Tuyết, cầu xin nữ thần giữ của tha cho con mình. Sau
buổi lễ, chàng trai có vẻ linh lợi trở lại. Nghĩ rằng mọi sự đã ổn
thỏa, người nhà cũng lơi dần canh gác.
Đến ngày 1/9 âm lịch, trong thôn có một đám cưới. Người làng với nhau
không thể từ chối, cha mẹ chàng trai đành phải đi dự. Trước đó, họ đã
cẩn thận gọi vài bạn bè của chàng trai đến nhờ trông hộ.
Lâu không được gặp nhau, những người bạn tổ chức ăn uống, hát hò vui vẻ.
Mải vui chơi, các bạn cũng không để ý chàng trai đã biến mất lúc nào.
Khoảng 17h, bố mẹ trở về, không thấy con đâu. Mọi người bèn hốt hoảng
tủa đi tìm. Khi mở cửa phòng chàng trai, cha mẹ đổ sụp khi thấy con mình
đã lủng lẳng trên xà nhà.
Hô nhau đưa người xấu số xuống, thân thể cậu không một vết thương, khuôn
mặt vẫn hồng hào như người đang nằm ngủ. Ngày còn sống, cậu chưa bao
giờ chụp hình nên không có ảnh để lại. Thấy khuôn mặt đã chết vẫn như
đang sống, người nhà đành chụp lại để có ảnh thờ. Tuy nhiên chỉ dùng mấy
ngày làm lễ, sau đó, cha mẹ không đủ can đảm nhìn lại tấm ảnh đó trên
ban thờ.
"Ngày đó, chúng tôi rất băn khoăn bởi thời hạn cuối tháng đã qua, sao
con tôi vẫn bị "bắt". Tuy nhiên, khi lên làm lễ trên núi Bạch Tuyết, một
“ông thầy” đã giải thích: Tháng 8 âm lịch đó là tháng thiếu, chỉ có 29
ngày. Vì thế, tuy là ngày 1/9 âm lịch nhưng thực chất lại là ngày cuối
cùng của tháng 8.
Nghe thế, chúng tôi đành an ủi, thôi thì số phận đã an bài", người cha chàng trai giải thích.
Sau đó, bát nhang thờ chàng trai được đưa lên nhà một người anh ở gần
núi, với ý nghĩa để "vợ chồng thần giữ của" được gần nhau.
Cả làng tổ chức đám cưới "âm"
Bẵng đi hơn chục năm, câu chuyện nữ thần "bắt mạng" người sống làm chồng
tưởng đã vùi chôn vào dĩ vãng. Nhưng đến khoảng năm 2009, người dân
sống bên núi Bạch Tuyết lại chứng kiến chuyện ly kỳ, lời đồn "ma bắt
chồng" lại dậy sóng.
Một phụ nữ sinh sống cách chân núi khoảng hơn 100m bỗng gặp chuyện dị
thường. Biết đây là vùng núi thiêng, mỗi ngày rằm, mồng Một, chị đều
sang thắp hương, trước đó đều không xảy ra chuyện gì.
Tuy nhiên đến một ngày tháng 10/2009, khi đến làm lễ, chị bỗng thấy
người ớn lạnh. "Tôi còn nhớ rõ đó là ngày 10/10. Tôi vẫn nhìn thấy mọi
người nhưng hành động và lời nói thì không sao kiểm soát được. Cứ như có
người nào đó điều khiển, tôi không nhớ nổi mình vừa làm gì", người phụ
nữ kể lại.
Một số người chứng kiến hôm đó cho biết, thiếu phụ múa may quay cuồng,
luôn miệng tự nhân: Ta là Bạch Tuyết Hoa. Thấy lạ quá, nhiều người xúm
lại trêu: “Thế Bạch Tuyết Hoa cần gì?”.
Lúc đó, thiếu phụ như nổi giận, phán: “Ta và chồng ta lấy nhau mà chưa
có lễ cưới, chưa được sự chấp thuận của gia đình. Nếu không làm lễ cưới,
sẽ giáng họa xuống cả làng”. Tuy khá sợ hãi trước những lời nói, hành
động khác thường nhưng người dân vẫn không tin lắm, nghĩ rằng thiếu phụ
lẩn thẩn.
Được gia đình đưa về nhà, trong 10 ngày liền, thiếu phụ liên tục có hiện
tượng lạ, người lả đi, sùi bọt mép. Chị cứ luôn miệng đòi hỏi phải có
lễ vật đám cưới cho vợ chồng "thần giữ của". Người nhà cực chẳng đã phải
tìm đến nhà chàng trai tự tử hỏi, mới ngã ngửa biết, dù tin con mình bị
nữ thần "cưới" làm chồng nhưng gia đình chưa làm lễ lạt gì.
Sau đó, hai gia đình bàn nhau sắm lễ vật cho đám cưới người âm. Họ tìm
mua một hình nộm đàn ông, một hình nộm đàn bà cùng nhiều đồ vật tượng
trưng cho đám cưới như khăn áo, mũ mãng... Hai gia đình cùng lên tổ chức
hôn lễ cho vợ chồng thần giữ của. Lễ cưới tiến hành thu hút rất đông
người dân trong vùng đến dự. Ngay sau đó, thiếu phụ trở lại bình thường,
không còn hiện tượng bị "nhập" nữa.
Trao đối về những câu chuyện kỳ quái, ông Nguyễn Sỹ Tiến, cán bộ văn hóa
xã Vân Côn cho biết, những người tự nhiên bị bệnh, nói nhăng nói cuội
không phải là hiếm trong cuộc sống. Còn việc núi chôn vàng, yểm thần giữ
của chỉ là truyền thuyết trong dân gian. Những việc làm sặc mùi mê tín
dị đoan này cần bị bài trừ, dẹp bỏ.
(Xa lộ pháp luật)
Thủ tướng Việt Nam tìm kiếm sự đoàn kết trong khu vực khi Trung Quốc thúc đẩy các khiếu nại lãnh hải
(Reuters) - SINGAPORE - Thủ tướng Việt Nam kêu gọi đoàn kết giữa các
nước Đông Nam Á khi Trung Quốc khẳng định các khiếu nại của mình vào khu
vực giàu năng lượng ở Biển Đông, cảnh báo rằng bất kỳ cuộc xung đột nào
cũng có thể làm gián đoạn thương mại và nền kinh tế toàn cầu.
Căng thẳng về tranh chấp lãnh thổ trong thập kỷ qua giữa sáu nước khiếu
nại ở châu Á đã tăng lên trong những tuần gần đây sau khi các tàu Trung
Quốc kéo về gần một tàu Philippines bị mắc cạn trên một bãi san hô vào
năm 1999 để đánh dấu lãnh thổ của mình.
"Đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý,
những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính
trị cường quyền.", ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố trong một bài phát biểu
hôm thứ Sáu tại Đối thoại Shangri-La, một diễn đàn an ninh khu vực tổ
chức hàng năm ở Singapore.
"Một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng
hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả
thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường", ông nói trong bài phát
biểu dịch từ tiếng Việt.
Trung Quốc tuyên bố hầu hết Biển Đông là lãnh thổ của mình. Khi hiển thị
tầm vươn đến "biển xanh" ngày ngày càng xa hơn của hải quân nước
này,Trung quốc trực tiếp chống lại Philippines và Việt Nam và Mỹ tập
trung hơn sự chú ý của mình đến châu Á.
Brunei, Đài Loan và Malaysia cũng khiếu nại các phần của Biển Đông, nơi
các vùng biển là quan yếu đến dòng chảy của hàng hóa quốc tế và năng
lượng, các đáy biển được cho là chứa đựng nhiều mỏ dầu và khí tự nhiên.
Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đang tham dự diễn đàn ba ngày do
Viện Quốc tế Nghiên cứu Chiến lược (IISS) tổ chức, với "trục chuyển"
hướng về châu Á của Mỹ, công cuộc xây dựng quân đội trong khu vực và vấn
đề biển Đông ưu tiên trong chương trình nghị sự.
Nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có sự "tin tưởng về chiến lược", ông
Dũng cho biết Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) phải đoàn kết và
mạnh mẽ, mà không cần đến nước nằo bất kỳ trong 10 thành viên "lbuộc
phải ựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong
mối quan hệ với các nước lớn."
ASEAN đã bàn thảo với Trung Quốc về một mã ứng xử để giảm bớt căng thẳng
nhưng Bắc Kinh cho biết họ sẽ chỉ đàm phán "khi thời điểm chín muồi".
Các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN dự kiến nhóm họp tại Thái Lan vào tháng
Tám để hình thành trước một vị trí về quy tắc ứng xử trước khi gặp gỡ
các quan chức Trung Quốc tại Bắc Kinh.
Việt Nam sẽ không là một đồng minh quân sự với bất cứ ai hoặc cho phép
bất kỳ quốc gia nào thiết lập căn cứ quân sự trên đất đai của mình. Ông
cho biết thêm, việc hiện đại hóa lực lượng của mình là "chỉ để tự vệ và
bảo vệ lợi ích hợp pháp của chúng tôi".
"Sự Quyết đoán có tính cơ hội"
Christian Le Miere, một thành viên cao cấp tại IISS cho biết, phản ứng
của Trung Quốc đối với hành động của các đối thủ tranh chấp của mình có
thể là một phần của một chiến lược đàm phán rất lâu dài.
Trong một cuộc họp báo, Le Miere nói. "Tôi muốn gọi đấy là một hình thức
của sự quyết đoán có tính cơ hội khi mà Trung Quốc thường nhận thức
được những hành động này sẽ xảy ra và sau đó sẽ sử dụng chúng như một
biện minh cho các phản ứng quá hung hăng của mình,"
"Những gì chúng ta tiếp tục thấy là Trung Quốc đang cố gắng để thay đổi
các sự kiện trên vùng biển, cố gắng xây dựng một hồ sơ pháp lý mạnh hơn ,
áp dụng môi trường pháp lý ấy cho lợi ích riêng của mình ở bất cứ nơi
nào có thể và tiếp tục các đòi hỏi tối đa của mình bởi vì trong tương
lai những đòi hỏi ấy sẽ mang đến cho Trung Quốc một vị trí đàm phán mạnh
hơn".
Trong tuần này, Trung tâm Chính sách Quốc phòng, một tổ chức tham mưu
cho quân đội của Trung Quốc cho biết Trục chuyển đến Châu Á của Mỹ đã
"phá vỡ" sự yên tĩnh tương đối của Biển Đông.
Theo Dịch vụ Tin Trung Quốc, bản báo cáo cho biết, dù chưa tồn tại các
điều kiện cho một cuộc đụng độ vũ trang quy mô lớn, nhưng cuộc tranh
chấp đang trở thành bình thường và dài hạn ... việc giải quyết không
hiệu quả có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng ".
Washington cho biết ,họ đang tập trung chú ý hơn về an ninh, kinh tế và
ngoại giao tại châu Á để tham gia vào khu vực đang phát triển nhanh này,
khiền làm gia tăng mối nghi ngờ của Trung Quốc rằng Hoa Kỳ đang tìm
cách giới hạn sức mạnh kinh tế và quân sự của mình.
John O'Callaghan - Yahoo News
Lê Quốc Tuấn chuyễn dịch Việt Ngữ
(X-cafe)
Nguyễn Minh Tuấn - Giới hạn của các quyền cơ bản
Vấn đề giới hạn bằng cách thức nào và đến đâu đối với các quyền cơ bản
là vấn đề phức tạp bậc nhất của khoa học Luật hiến pháp. Ở Việt Nam, chủ
đề này dường như vẫn còn bỏ ngỏ, ít được bàn thảo, quan tâm. Bài viết
dưới đây chia sẻ một số thông tin căn bản về phương thức giới hạn các
quyền cơ bản ở CHLB Đức.
Điều 15 Khoản 2 dự thảo sửa đổi Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng.” Đây là một qui định rất mới, một
bước tiến mới của dự thảo Hiến pháp, vì lần đầu tiên trong Hiến pháp có
một qui định về giới hạn các quyền cơ bản. Tuy nhiên có thể dễ dàng thấy
ngay hạn chế của qui định này là không định lượng rõ mức độ giới hạn ra
sao đối với các quyền cơ bản và bỏ mặc cho công quyền tự đo lường và
quyết định.
Từ nội dung của Luật cơ bản (Hiến pháp) và thực tiễn xét xử ở CHLB Đức,
các phương thức giới hạn quyền cơ bản có thể được tóm lược như sau:
1. Giới hạn hiến định
Giới hạn hiến định là việc giới hạn trực tiếp bởi những câu chữ trong Hiến pháp.
Ví dụ Điều 8 Khoản 2 Hiến pháp Đức cho phép công dân Đức có “quyền biểu
tình một cách ôn hòa và không vũ khí.” Như vậy qui định này loại trừ
việc biểu tình có vũ trang hoặc không ôn hòa.
Hoặc Điều 2 khoản 1 Hiến pháp Đức đã giới hạn quyền phát triển tính cách
của mỗi người bằng qui định: “Mỗi người ai cũng có quyền phát triển
tính cách riêng của mình trong phạm vi mà người đó không xâm phạm đến
quyền tự do của những người khác, không vi phạm trật tự hợp hiến hay
luân lý đạo đức.”
2. Giới hạn bởi luật
Không phải với tất cả các quyền con người, quyền công dân đều áp dụng
một nguyên tắc chung trong Hiến pháp là những quyền này “chỉ có thể bị
giới hạn bằng luật”. Trong Hiến pháp Đức, giới hạn bởi luật chỉ được áp
dụng đối với một số quyền cơ bản.
Chẳng hạn, Điều 8 Hiến pháp Đức qui định: “Đối với những trường hợp biểu
tình ở ngoài trời quyền này có thể bị hạn chế bởi một đạo luật.” Trên
cơ sở này, Nghị viện Đức có quyền ban hành một đạo luật về biểu tình để
xác lập một số giới hạn hợp hiến về biểu tình ở ngoài trời. Hay về các
quyền tự do của con người tại Điều 2 Khoản 2 Câu 3, Hiến pháp Đức qui
định: “Chỉ dựa trên cơ sở của một đạo luật (Gesetz), nhà nước mới có thể
hạn chế những quyền này.”
Ngoài ra, cũng có trường hợp Hiến pháp xác định rõ điều kiện cụ thể giới
hạn bởi luật. Ví dụ về các quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự
do báo chí, tự do nghệ thuật và tự do khoa học, Điều 5 Khoản 2 Hiến pháp
Đức qui định những quyền này chỉ có thể bị hạn chế bởi một đạo luật vì
mục đích bảo vệ thanh thiếu niên hoặc bảo vệ danh dự cá nhân. Hoặc Điều 6
Khoản 3 cũng có qui định những điều kiện tương tự: “Chỉ dựa trên cơ sở
căn cứ của một đạo luật cụ thể, trẻ em được tách khỏi gia đình mà không
theo nguyện vọng của cha mẹ hoặc người giám hộ, nếu cha mẹ hay người
giám hộ không thực hiện trách nhiệm của họ hoặc khi trẻ em bị ngược
đãi.”
3. Giới hạn gắn với trật tự hiến pháp
Hiến pháp trong nhiều trường hợp có thể không qui định cụ thể giới hạn
đối với một số quyền cơ bản. Hay nói cách khác, tại những điều khoản
này, Hiến pháp không trực tiếp đưa ra một giới hạn cụ thể nào. Ví dụ,
Điều 4 Khoản 1 Hiến pháp qui định ngắn gọn rằng: “Tự do về tín ngưỡng,
nhận thức và tự do theo một tôn giáo hoặc tự do theo một thế giới quan
nào đó là bất khả xâm phạm.” hay Điều 5 khoản 3 qui định: “Nghệ thuật và
khoa học, nghiên cứu và giảng dạy đều được tự do.” Không đưa ra giới
hạn trực tiếp tại điều luật đó, nhưng hoàn toàn sai lầm nếu hiểu rằng
những quyền này là vô hạn và bất cứ ai cũng có thể lợi dụng những quyền
này để xâm hại lợi ích chung hay lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác.
Từ đây cũng phát sinh một câu hỏi: Vậy khi các quyền này xung đột nhau thì ở Đức họ giải quyết như thế nào?
Vậy khi các quyền này xung đột nhau thì ở Đức họ giải quyết như thế nào?
Trong một vụ việc thực tế khi có xung đột giữa các quyền cơ bản, Tòa án
hiến pháp liên bang Đức thường dựa trên sự cân nhắc giữa các lợi ích,
thứ bậc ưu tiên giữa các quyền cơ bản để đưa ra phán quyết.
Vụ án hiến pháp Mephisto nổi tiếng ở Đức là một ví dụ. Diễn biến vụ án
như sau: Trong cuốn tiểu thuyết Mephisto, tác giả Klaus Mann đã mô tả
nhân vật Hoefgen (một nhân vật làm nghề diễn viên trong thời kỳ đế chế
thứ ba do Gustaf Gründgens1 thủ vai), với ý ám chỉ những người làm nghề
này (như Gustaf Gründgens) là kẻ cơ hội, thấp kém, hèn hạ. Giải quyết
trường hợp này Tòa án hiến pháp liên bang đã khẳng định: Ở đây có sự
xung đột giữa quyền tự do ngôn luận, tự do thể hiện các ý tưởng nghệ
thuật được qui định ở Điều 5 khoản 1, khoản 3 xung đột với phẩm giá và
tự do phát triển cá tính được bảo vệ ở Điều 1 và Điều 2 Hiến pháp. Tòa
án Hiến pháp đã đồng ý rằng quyền lợi của Gustaf Gründgens phải được ưu
tiên bảo vệ vì nó liên quan đến nhân phẩm của con người – giá trị cao
nhất của Hiến pháp. Hệ quả là cuốn tiểu thuyết Mephisto đã bị cấm xuất
bản.2
Hay một ví dụ khác: Vào năm 1969, một nhóm người đã dùng vũ lực tấn công
bất ngờ vào căn cứ quân sự ở làng Lebach. Nhóm này đã giết chết bốn
người lính và lấy đi nhiều vũ khí ở đây. Sau đó, những kẻ phạm tội này
đã bị bắt và bị xét xử. Một đồng phạm trong số họ tên là B bị kết án 6
năm tù giam. Ngay trước thời điểm B chuẩn bị ra tù năm 1975, kênh truyền
hình quốc gia ZDF đã cho phát một bộ phim tài liệu về vụ việc này và
nêu tên tất cả những người có liên quan trong đó có B. B đã phát đơn
kiện kênh truyền hình ZDF vì cho rằng việc nêu đích danh tên của B trên
truyền hình là đã xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm của B, được bảo vệ tại
Điều 1 khoản 1 Hiến pháp.3 Kênh truyền hình ZDF phản bác lại và cũng
viện dẫn Điều 5 Khoản 1 Hiến pháp về quyền tự do thông tin4 để bảo vệ
mình. Thẩm phán Tòa án hiến pháp đã dựa trên nguyên tắc cân nhắc lợi ích
các bên và phán xét rằng: Vấn đề đặt ra là B chuẩn bị ra tù và khi phát
sóng chương trình này kênh ZDF đã nêu đích danh tên của B. Việc làm này
sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đối với việc tái hòa nhập cộng đồng của B.
Vì vậy, việc làm của kênh ZDF đã xâm phạm đến nhân phẩm của B, một giá
trị cao nhất của Hiến pháp được qui định tại Điều 1 Khoản 1 Câu 1 của
Hiến pháp. Theo Tòa án hiến pháp liên bang, trường hợp này nhân phẩm con
người phải được coi trọng hơn quyền tự do thông tin. Hệ quả là kênh
truyền hình ZDF phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại cho B.5
4. Các nguyên tắc giới hạn cụ thể khác
Để đảm bảo nguyên tắc công bằng và bảo vệ tối đa những quyền con người,
quyền công dân, Hiến pháp Đức đã qui định các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc nghiêm cấm lập pháp cá biệt
Xuất phát từ nguyên tắc nghiêm cấm hành xử không công bằng, Hiến pháp
Đức tại Điều 19 Khoản 1 Câu 1 qui định: “Nếu một quyền cơ bản nào trong
Hiến pháp này bị giới hạn bởi một đạo luật hoặc trên cơ sở một đạo luật
nào cụ thể, thì đạo luật đó phải được áp dụng chung và không là ngoại lệ
dành riêng cho một trường hợp cá biệt nào.”Như vậy, với qui định này
thì một đạo luật do Quốc hội ban hành không được giới hạn quyền của một
nhóm người cụ thể. Đạo luật phải được áp dụng chung, có hiệu lực đối với
tất cả mọi người, không phải đối với một cá nhân hay một nhóm người để
cưỡng bức họ hoặc tạo đặc quyền cho nhóm này, loại bỏ nhóm khác.
- Nguyên tắc nghiêm cấm việc giới hạn làm mất đi bản chất của quyền
Điều 19 khoản 2 Hiến pháp Đức qui định: “Trong mọi trường hợp, việc giới
hạn một quyền cơ bản nào đó không được làm mất đi bản chất của quyền
đó.” Khi ban hành một đạo luật nhằm hạn chế quyền của công dân, Quốc hội
buộc phải tuân thủ đúng những qui định về thẩm quyền, trình tự thủ tục,
hình thức. Chính những ràng buộc phức tạp, khắt khe về mặt thủ tục,
cùng với việc Hiến pháp trao cho Tòa án hiến pháp liên bang quyền tuyên
bố một đạo luật là vi hiến nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản tại Điều
100 khoản 1 sẽ góp phần hạn chế những đạo luật vi hiến hoặc làm mất đi
bản chất của các quyền cơ bản.
- Nguyên tắc nghiêm cấm công quyền can thiệp vượt quá giới hạn
Bất cứ sự can thiệp nào từ phía nhà nước cũng phải đảm bảo tính phù hợp
giữa mục đích và phương tiện lựa chọn để đạt được mục đích có phù hợp,
có cần thiếtvà có tương xứng không.
Chẳng hạn một cậu bé X ăn trộm một quả táo trong siêu thị và đang chuẩn
bị bỏ chạy. Một cảnh sát quan sát được hành vi ăn trộm đó của X và đã
dùng súng để bắn vào chân của cậu bé. Việc bắn thẳng vào cậu bé là một
hành vi không tương xứng với mức độ phạm tội của cậu bé. Ở đây phải cân
nhắc giữa hai lợi ích: quyền được sống của cậu bé (Điều 2 khoản 2 Hiến
pháp) và ngăn chặn việc ăn trộm một quả táo.
Một ví dụ khác: Điều 15 Khoản 7 Câu 1 Luật săn bắn ở Đức (BjagdG) yêu
cầu tất cả những người săn bắn chim ưng (falconer) phải chứng minh kiến
thức về vũ khí để được cấp bằng săn bắn. Những người đi săn cho rằng qui
định này là vô lý, tạo ra một giới hạn đi ngược lại quyền được tự do
hành động theo Điều 2 Khoản 1 Hiến pháp. Tòa án hiến pháp liên bang phán
quyết rằng: Mục đích yêu cầu cấp bằng cho những người săn chim ưng thì
phải yêu cầu họ có hiểu biết về loài chim ưng và nghề săn bắn chim ưng,
chứ không phải là kiến thức về vũ khí. Qui định phải chứng minh kiến
thức về vũ khí không phù hợp với mục đích của đạo luật. Do vậy, Tòa án
đã kết luận qui định này là vi hiến và cần phải bãi bỏ. (Xem: Phán quyết
BverfGE 55, 159 Falknerjagdschein).
Từ những qui định về hạn chế của quyền cơ bản ở Hiến pháp Đức đã cho
thấy: các quyền cơ bản không phải là vô hạn, chúng cần phải được giới
hạn, một mặt để những quyền này không phải là “bánh vẽ” hay những lời
hứa suông, mặt khác chúng có tác dụng,hiệu lực trực tiếp, xác lập ranh
giới ràng buộc trách nhiệm của cơ quan công quyền.
Tóm lại, cấu trúc các quyền cơ bản và các giới hạn các quyền cơ bản ở
Đức cho ta thấy lô-gích rất rõ rằng: Thứ nhất, Hiến pháp sinh ra có chức
năng để hạn chế quyền lực nhà nước và ràng buộc trách nhiệm của nhà
nước. Do vậy không thể tồn tại cách qui định theo kiểu nhà nước ban ơn,
hoặc cách qui định trao quyền quá lớn, phạm vi quyết định quá rộng cho
nhà nước. Thứ hai, đối với người dân, các quyền cơ bản cần được mở rộng
tới mức được áp dụng trực tiếp, ràng buộc công quyền và tất cả những gì
mà luật không cấm, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác,
thì bất cứ cứ ai cũng đều được phép làm.
TS. Nguyễn Minh Tuấn
____________________
1 Gustaf Gründgens (1899-1963) là một trong những diễn viên tài ba và có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ thứ 20 của Đức.
2 Xem phán quyết: BverfGE 30, 173 (Mephisto-Urteil).
3 Điều 1 Khoản 1 Hiến pháp Đức qui định rằng nhân phẩm của con người là bất khả xâm phạm (unantastbar).
4 Điều 5 Khoản 1 Hiến pháp Đức qui định rằng mọi công dân đều có quyền
tự do thể hiện suy nghĩ của mình bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh, có
quyền mở rộng và phổ biến nó từ các nguồn có thể truy cập phổ thông
không bị hạn chế hay ngăn cấm (ungehindert).
5 Xem phán quyết: BverfGE 35, 202 (Lebach)
Nguyễn Quang A: "Việt Nam đang thế này mà vào Hội Đồng Nhân Quyền là rất hổ thẹn cho Liên Hiệp Quốc"
VRNs (31.05.2013) – Sài Gòn – Vấn đề quan trọng của nhà cầm quyền cộng
sản VN hiện nay là cải thiện tình hình nhân quyền để có thể được ứng cử
vào Hội đồng Nhân quyền LHQ và gia nhập vào Hiệp định mậu dịch tự do
xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thế nhưng, nhân quyền tại VN không những
được cải thiện mà còn vi phạm nặng nề hơn thể hiện qua phiên tòa sơ thẩm
của hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vào ngày
16.05.2013 vừa qua, tại tòa án tỉnh Long An.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, bản án rất nặng 8 năm tù giam và 3 năm quản
chế cho Nguyên Kha và, 6 năm tù giam và 3 năm quản chế cho Phương Uyên
nhằm mục đích đe dọa và ngăn cản những tiếng nói đấu tranh ôn hòa của
các bạn trẻ trong nước, thì điều này sẽ không có kết quả và sẽ không bao
giờ có kết quả.
Xin mời Quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa phóng viên VRNs với Tiến sĩ Nguyễn Quang A.
VRNs: Thưa Ông, Ông đánh giá như thế nào về kết quả bản án dành cho
Phương Uyên và Nguyên Kha với bối cảnh VN trong thời gian đàm phán gia
nhập vào Hiệp định Mậu dịch Tự do Xuyên Thái Bình Dương (TPP), cũng như
ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016?
Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng không chỉ có vụ Phương Uyên và Nguyên
Kha mà còn rất nhiều vụ khác nữa, kể cả vụ ở Nghệ An [phiên tòa Phúc
Thẩm các anh TNCG và TL diễn ra vào ngày 23.05.2013]. Có thể nói rằng,
tình trạng nhân quyền ở Việt Nam bị sa sút rất lớn. Nhất là việc bắt bớ,
giam cầm những Bloggers và những người đấu tranh ôn hòa. Đây là một sự
vi phạm nhân quyền rất nghiêm trọng trong thời gian vừa qua. Điều này
hoàn toàn đi ngược lại với nhu cầu của VN là muốn gia nhập vào Hội đồng
Nhân quyền LHQ (HĐNQ LHQ). Nếu LHQ để VN vào HĐNQ thì đây là một sự hổ
thẹn cho HĐNQ LHQ. Và đối với việc VN đang đàm phán TPP, người ta đang
đặt vấn đề nhân quyền là một vấn đề rất quan trọng, tuy nhiên có thể vấn
đề kinh tế khi đàm phán người ta nói thế, nhưng người ta lại không đặt
nặng lắm về vấn đề nhân quyền. Tôi chỉ mong tôi sai, là khi VN đàm phán
thì người ta luôn luôn đưa ra một cái gì đấy để mặc cả, [ví dụ như: nhà
cầm quyền] sẽ thả những người này, người này, người này và vấn đề đổi
lại là cái này, cái kia, cái nọ…chẳng hạn như thế. Tôi chỉ hy vọng là
tôi sai. Nếu mà đúng như thế thì đây là một mưu tính hết sức là bỉ ổi.
VRNs: Thưa Ông, Thượng nghị sĩ Mỹ thuộc đảng Dân chủ ông Ben Cardin
nhấn mạnh đến tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề Nhân Quyền sẽ đặt trọng tâm
ưu tiên trong quá trình đàm phán TPP, tại các nước như Việt Nam và
Malaysia. Vậy nhà cầm quyền cộng sản VN xử án tù rất nặng cho hai sinh
viên này nhằm mục đích gì?
Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng, có lẽ phải hỏi chính họ [nhà cầm
quyền] mới biết được các mục đích đó là cái gì. Nhưng đối với những
người dân như tôi, thì tôi nghĩ có lẽ mục đích đầu tiên của họ là để đe
dọa, để tiếp tục ngăn cản những tiếng nói của các bạn trẻ. Nhưng mà tôi
nghĩ, cách làm của họ không khôn ngoan và nó như là đổ thêm dầu vào lửa.
Chúng ta thấy ngay được là sau khi phiên tòa [sơ thẩm của Phương Uyên
và Nguyên Kha kết thúc] đã có sự phản đối hết sức quyết liệt của giới
trẻ và người dân. Và như thế, họ [nhà cầm quyền] hoàn toàn [đi] ngược
lại với ý định [của họ]. Nếu như chúng ta giả định là họ [nhà cầm quyền]
muốn [dùng bản án của Phương Uyên và Nguyên Kha] để đàn áp, đe dọa thì
điều này không có kết quả và sẽ không bao giờ có kết quả.
VRNs: Thưa Ông, Ông có nghĩ rằng kết quả phiên tòa này sẽ là bằng
chứng để cộng đồng quốc tế từ chối VN ngồi vào ghế nhân quyền LHQ và Mỹ
từ chối VN tham gia hiệp ước TPP không?
Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng, vào HĐNQ LHQ chắc là khó, bởi vì các
nước EU gồm mấy chục nước, Mỹ và một số nước khác nữa đã lên tiếng rất
mạnh. Tôi không hiểu Hội đồng tổ chức của HĐNQ là cơ cấu gồm những cái
nào thì không rõ. Như tôi đã nói, nếu để VN đang ở trong tình trạng như
thế này mà vào HĐNQ là một sự rất hổ thẹn cho HĐNQ LHQ. Còn về Hiệp định
TPP, tôi nghĩ rằng, họ không có ảnh hưởng lớn lắm đến chuyện VN tham
gia vào Hiệp định này, bởi vì đó là vấn đề kinh tế, nó sẽ lấn át tất cả
các lợi ích khác. Chúng ta chỉ nhìn sơ qua thấy báo cáo về tự do Tôn
giáo của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa rồi rất là nhẹ nhàng. Cũng có nói cái này,
cái kia nhưng mà khá là nhẹ nhàng so với các Tổ chức Phi Chính phủ, các
Tổ chức Nhân quyền lên tiếng. Và trong TPP thì nó còn có nhiều thứ,
nhiều các lợi ích khác nó ảnh hưởng đến việc tham gia hay không. Tất
nhiên, như bên Quốc hội Mỹ thì họ có những ý kiến của họ, hoặc là ý kiến
của một số Dân biểu, hoặc Thượng nghị sĩ của họ, nhưng mà Hành pháp ở
Mỹ thì họ lại có những cái lợi ích khác và nhiều khi nó cũng không phải
hoàn toàn là đồng nhất với nhau.
VNRs: Xin cám ơn Ts Nguyễn Quang A!
Huyền Trang, VRN
(Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam)
Ông Dương Trung Quốc kêu gọi tạm hoãn việc sửa đổi Hiến pháp
Nhà sử học Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội đơn vị Đồng Nai hôm 27/5
kêu gọi tạm hoãn việc sửa đổi Hiến pháp cho đến khi phục hồi những quyền
cơ bản của công dân như quyền trưng cầu dân ý, quyền tự do hội họp và
biểu tình, quyền lập hội.
Sửa đổi Hiến Pháp: một trò đùa lãng phí thời gian và tiền bạc
Quốc hội Việt Nam dành trọn ngày 27/5 cho các cuộc thảo luận ở tổ, phát
biểu dài 15 phút của đại biểu Dương Trung Quốc được báo chí đưa lên
mạng, thể hiện quan điểm là người dân chưa có công cụ để thực hiện quyền
phúc quyết Hiến pháp.
Vietnam Net ghi nhận ý kiến của sử gia Dương Trung Quốc khá đầy đủ, vị
đại biểu tỏ ra thất vọng qua nhận định “vẫn chưa có cơ sở nào để khẳng
định là đã tập hợp tất cả ý kiến nhân dân. Đại biểu Dương Trung Quốc,
cũng là một thành viên Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp, đã ghi
nhận một sự thật trần trụi: bản dự thảo lần thứ ba về Hiến pháp thể hiện
sự tiếp nhận tinh thần cởi mở, ý kiến đa chiều. Nhưng đến dự thảo cuối
cùng tất cả các vấn đề mà ông Quốc gọi là nhạy cảm nhất, được xã hội
quan tâm nhất đã trở lại như dự thảo ban đầu. Tuy ông Quốc không nói ra
nhưng sự trở lại mức xuất phát bao gồm không bỏ điều 4 Hiến pháp, không
ban hành Luật về Đảng Cộng sản, không đổi tên Nước, không bỏ qui định
thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế.
Nhà sử học Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội đơn vị Đồng Nai Courtesy Vietnamnet |
Trả lời chúng tôi vào tối 29/5, GSTS Nguyễn Thế Hùng hiện sống và làm
việc ở Đà Nẵng nhận định về sự kiện 26 triệu lượt ý kiến và 28.000 cuộc
hội nghị hội thảo để góp ý sửa đổi Hiến pháp và cuối cùng là những con
số không vĩ đại, đối với những vấn đề mà xã hội mong muốn cải cách nhiều
nhất.
“ Đó là một trò đùa lãng phí thời gian và tiền bạc của người dân của đất
nước rất nhiều và tưởng rằng thế giới này người ta không biết. Rất là
buồn nhưng phải cười…”
Theo Vietnam Net và Tiền Phong Online, Đại biểu Dương Trung Quốc nhấn
mạnh rằng, sửa đổi hay soạn thảo Hiến pháp là cả một cơ hội lịch sử, bởi
nó sẽ chi phối hay điều chỉnh xã hội ít nhất trong vài chục năm. Không
thể sửa Hiến pháp vì những cái trước mắt mà phải thông qua việc sửa đổi
Hiến pháp có giá trị lâu dài.
Đại biểu Dương Trung Quốc tự nhận là ý kiến của ông hơi trái chiều, theo
đó có thể cần hoãn việc sửa đổi Hiến pháp, đồng thời sớm hồi phục một
số quyền cơ bản của công dân vốn bị treo trong các Hiến pháp từ 1946 cho
tới nay. Sau đó có thể sửa đổi Hiến pháp một cách căn cơ. Về những vấn
đề đòi hỏi bức xúc của xã hội bây giờ, ông Quốc cho là có thể điều
chỉnh bằng một số văn bản luật.
Độc giả báo mạng VietnamNet có rất nhiều phản hồi để tán dương và ủng hộ
quan điểm của Đại biểu Dương Trung Quốc, cũng như mong Quốc hội có thật
nhiều những Đại biểu có tinh thần trách nhiệm với nhân dân như sử gia
Dương Trung Quốc.
GSTS Nguyễn Thế Hùng từ Đà Nẵng nhận định:
“ Ý kiến của nhà sử học Dương Trung Quốc rất đáng ghi nhận…Tôi thấy là
có rất nhiều nhà trí thức cũng như người dân, người tâm huyết người ta
đều muốn như thế. Ở Việt Nam những quyền căn bản của công dân không được
thực hiện, chưa thực sự tự do nên quyền phúc quyết chưa thể hiện từ
ngay trong tâm người ta, có thể người ta phải chịu áp lực nào đó thì
phúc quyết cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đã gọi là Hiến pháp thuộc về toàn
dân thì phải được người dân phúc quyết, không thể nói người dân không
phúc quyết mà lại có Hiến pháp của toàn dân, lúc đó chúng ta trở về là
một trong những Nhà nước phong kiến.”
Ý kiến nhân dân hay nhân danh nhân dân
Theo lời Đại biểu Dương Trung Quốc được VietnamNet trích thuật, vấn đề
quan trọng nhất là phải giải quyết tình trạng mà ông gọi là “treo” Hiến
pháp. Theo đó, những quyền để thực hiện quyền phúc quyết của người dân
bị treo suốt 68 năm qua, hiến pháp 1946 và các Hiến pháp sau này đều có
nói tới nhưng không có luật để thi hành. Đó là ba quyền căn bản, thứ
nhất tự do hội họp và biểu tình. Thứ hai là quyền lập hội, người dân
phải có cơ hội và diễn đàn thể hiện quyền của mình. Thứ ba là quyền được
trưng cầu dân ý, không có những công cụ này thì người dân thể hiện ý
nguyện của mình ở diễn đàn nào, định lượng thế nào? Đại biểu Dương Trung
Quốc nhấn mạnh, Nhà nước Việt Nam lúc nào cũng nói đến chuyện ý kiến
nhân dân, nhưng toàn là chuyện nhân danh nhân dân mà thôi.
Tiền Phong Online ngày 29/5 trích lời đại biểu Trần Thị Quốc Khánh đơn
vị Hà Nội nói rằng, người dân rất mong muốn được phúc quyết bản Hiến
pháp của mình. Vị nữ đại biểu nhấn mạnh, cần sớm xây dựng Luật biểu tình
để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động này. Bà Khánh mong muốn Luật
biểu tình được đưa ra trong nhiệm kỳ này và nhấn mạnh, nếu cứ để lại
không biết đến bao giờ mới được đưa ra.
VnEconomy ngày 25/5 trích lời đại biểu Trương Trọng Nghĩa nói rằng,
quyền biểu tình có ở cả 4 bản Hiến pháp từ 1946 đến 1992. Nếu tính từ
1992 đến nay đã hơn 20 năm mà vẫn chưa ra được Luật biểu tình.
Chúng tôi phỏng vấn TS Nguyễn Đình Lộc nguyên Bộ trưởng Tư pháp về vấn
đề người dân không có công cụ để thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp.
TS Nguyễn Đình Lộc tỏ ra có óc trào phúng sâu sắc khi ông đẩy trách
nhiệm cho Quốc hội.
“Đó là quyền của Quốc hội, ai có thể làm điều ấy được. Biểu tình hay
không thì phải có luật chứ…Bởi vì mấy chục năm nay tư duy của mình chưa
đạt đến, kỳ này ý kiến nhân dân nhất là qua quá trình soạn thảo thì
nhiều đại biểu nhiều người cũng có ý kiến rồi, những chuyện ấy không
phải là xa lạ gì. Bây giờ chưa có luật biểu tình thì ra luật biểu tình,
không ai cấm ra luật biểu tình, luật trưng cầu dân ý. Tôi nghĩ nếu Quốc
hội biểu quyết thì Bộ Chính trị không ngăn cấm chuyện ấy…Quốc hội kỳ này
hơi hiền …”
VnEconomy ngày 27/5 trong mục Nhật ký nghị trường đã ghi nhận một câu
chuyện, nếu mô phỏng cách diễn tả của GSTS Nguyễn Thế Hùng thì đây cũng
là một chuyện buồn mà phải cười. Theo đó, tại phiên thảo luận tổ của
đoàn đại biểu TP.HCM tại Quốc hội ngày 27/5, Đại biểu Trần Du Lịch, Tiến
sĩ kinh tế đã lên tiếng xin lỗi tập thể đại biểu, do việc ông được chọn
làm thành viên ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp, đã cố gắng thiết
kế một số cải cách liên quan đến qui định về chính quyền địa phương và
điều 59 về quản lý ngân sách. Nhưng dự thảo Hiến pháp lần mới nhất này
đã không đưa một chữ nào cả, nên tác giả tự thấy phải xin lỗi các đại
biểu. Cải cách theo đề xuất của đại biểu Trần Du Lịch có thể giúp tách
biệt ngân sách quốc gia, ngân sách địa phương để chấm dứt hoàn toàn cơ
chế xin-cho như hiện nay.
Trong cuộc phỏng vấn của Gia Minh Đài Á Châu Tự Do, Luật gia Lê Hiếu
Đằng nguyên Phó chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc TP.HCM nhận định rằng,
do phạm quá nhiều sai lầm, mất lòng dân, nên tập đoàn cai trị Việt Nam
đang sợ mất chế độ mất Đảng. Ông nói:
“ Theo suy nghĩ của tôi thì chúng ta không mong gì có thay đổi ở một Nhà
nước toàn trị cả, vì bây giờ chính quyền đang gắn liền với các tập đoàn
lợi ích; do đó chúng ta không mong gì có sự thay đổi căn bản cả. Nếu có
thay đổi chỉ là râu ria thôi, còn căn bản thì không.”
Nếu như Hiến pháp của một quốc gia là đạo luật mẹ của hệ thống pháp
luật, thì những cải cách mà đại biểu TS Trần Du Lịch đề xuất bị loại bỏ
hoàn toàn trong dự thảo Hiến pháp, có thể có liên quan tới những chính
sách hiện hành. Trong dịp trả lời chúng tôi về vấn đề Việt Nam quá chậm
trong cải cách ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế, chuyên gia kinh tế TS Lê
Đăng Doanh nhận định:
“Điều rất quan trọng là việc cải cách thể chế và sửa đổi lại các chính
sách mà hiện nay hướng đến tìm kiếm lợi nhuận bằng cách thu hồi đất của
nông dân, bằng khai khoáng bằng đốn rừng …v..v…tất cả những chính sách
đó hiện nay chưa có sự thay đổi cần thiết.”
Ý kiến của Đại biểu Dương Trung Quốc được cho là chuyện hiếm thấy tại
Quốc hội Việt Nam, mặc dù trong giới trí thức, tư duy đổi mới dân chủ
không còn là điều xa lạ. Các chuyên gia nghiên cứu chính trị cho rằng:
trong chế độ một đảng cai trị toàn dân, Đảng Cộng sản đứng trên cả Nhà
nước, Chính phủ và Quốc hội, thì cải cách dân chủ dù chỉ trong chừng mực
cũng vẫn là quá xa xỉ.
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-05-30
Ông Nguyễn Bá Thanh đã cười được sau khi rớt vào BCT
Bức ảnh đậm chất báo chí, thời sự, chính trị! Một khoảng khắc "tuyệt vời" bên hành lang Quốc hội. |
Tân cử nhân sẽ làm gì?
Mối quan tâm lớn nhất của nhiều sinh viên trong nước hiện nay là công ăn
việc làm khi tốt nghiệp ra trường. Các bạn đang nhìn vào thực trạng của
nhiều người đi trước khi học xong ra không thể kiếm được việc làm, rồi
phải chấp nhận bất cứ loại công việc gì kiếm tiền nuôi thân. Lý do vì
sao lại có tình trạng đó?
Chương trình đào tạo có vấn đề
Theo nhiều chuyên gia giáo dục thì có vô số yếu tố liên quan đến công
tác đào tạo. Tất cả được thể hiện qua một chương trình đào tạo được soạn
thảo ra một cách công phu với phương hướng cụ thể.
Các trường đại học hiện nay chưa có những kết quả khảo sát thực tế,
không tìm hiểu các môn học trong chương trình đào tạo đại học có phù hợp
với đòi hỏi của xã hội hay không? Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mộng Giao,
hiệu phó trường đại học Hùng Vương cũng thừa nhận có những bất cập giáo
trình trong đại học Việt Nam:
“Phần lỗi của nhà trường đào tạo các em chưa được trình độ, chưa được
tốt trong một số ngành, bản thân các thầy trình độ bị hạn chế cho nên
khi dạy dỗ các em chưa được tốt và còn hệ thống chương trình của mình
chưa phải là tốt. Cho nên các em bị hạn chế về mặt trình độ.
Trong thời đại hội nhập này, đáng lẽ ra sinh viên phải được học tiếng
Anh nhiều hơn, học một cách thành thạo, rất tiếc bậc đại học dù nhà
trường có dạy ngoại ngữ, nhưng họ để mặc cho các em học ở những trung
tâm, chứ họ không dạy, họ dạy với cái rình độ rất thấp, cho nên sinh
viên khi ra trường không biết được ngoại ngữ, trong cái thời đại hội
nhập này cũng là 1 cái khó khăn cho các em.”
Một hội chợ việc làm tại Cần Thơ, ảnh chụp trước đây. File photo |
Lý thuyết thiếu thực hành
Sinh viên Việt Nam đang phải chịu những áp lực từ việc học nặng lý
thuyết, thiếu thực hành, thiếu trang bị kỹ năng, cố gắng chạy theo bằng
cấp, nên sau khi ra trường xin việc làm họ đã không đáp ứng được yêu cầu
của các nhà tuyển dụng, dẫn đến khi ra trường không có việc hoặc có
việc nhưng không bền vững. Sinh viên Nguyễn thị Phượng hiện học năm cuối
đại học Tài chính- Kế toán nói về điều này như sau:
“Sinh viên học ở nhà trường chủ yếu kiến thức, không có thực tế, nên
giữa kiến thức và thực tế rất là xa, nên không có đạt được theo yêu cầu
của người tuyển dụng.”
Bạn Nguyên đang học năm cuối trường công nghệ thông tin chia sẻ với chúng tôi:
“Ngành em học là công nghệ thông tin, tin học ứng dụng. Ở trường cái gì
cũng dạy hết, nhưng không có chuyên sâu, có điều do quy chế - quy định
số môn học nên buộc các thầy phải dạy theo. Em thấy có vài môn học mà nó
không liên quan gì ngành hết đó mà cũng bắt học, học cho có tín chỉ ở
trên của bộ giáo dục đưa xuống.”
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Mộng Giao cho chúng tôi biết trong tâm trạng bức xúc:
“Chương trình học đại học ở Việt Nam bất hợp lý, các em học ở Việt Nam
khá vất vả hơn học ở các trường đại học ở nước ngoài, kiến thức thu lượm
được không nhiều bằng các em đang được học ở các trường nước ngoài.
Các em chỉ biết một mớ lý thuyết mà lý thuyết đó quá lạc hậu, thầy giáo
dạy trình độ còn hạn chế, nhiều lúc dạy những môn trong ứng dụng như
kinh tế, chính trị… dạy những lý thuyết quá là cũ cho nên không áp dụng
được trong thực tiễn, không áp dụng được. Thì chúng ta phải có cách nào
thay đổi đi, nhưng muốn thay đổi không phải dể. Chắc chắn, chương trình
giáo dục đại học Việt Nam phải đổi mới rất nhiều và khi đổi mới như vậy
thì việc đầu tiên phải nâng cao trình độ giảng dạy của các giảng viên,
nếu tình trạng trình độ các giảng viên bây giờ khó lòng đào tạo ra trò
giỏi được.”
Nỗi lo của sinh viên
Số sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chính quy, dân
lập trong cả nước ngày càng nhiều, nhưng đa số ra trường không được làm
đúng chuyên ngành, phải làm các công việc không cần bằng cấp, như công
nhân, phục vụ nhà hàng, phụ hồ để có đồng lương tồn tại qua ngày. Bạn
Nguyễn Thị Phượng trong tâm trạng lo lắng cũng không biết sau khi ra
trường có được việc làm hay không đã cho chúng tôi biết:
“Tìm việc làm bây giờ khó, phải quen thì mới tìm được việc làm, không
quen thì khó để tìm việc làm, bây giờ sinh viên ra trường quá nhiều,
công việc thì không đáp ứng được số lượng sinh viên ra trường, kinh tế
thì trong tình trạng suy thoái, doanh nghiệp trong cơn khủng hoảng thì
sinh viên khó khăn tìm việc làm. Sinh viên ra trường tự tìm việc làm nhà
trường không hổ trợ, tình trạng sinh viên ra trường không có được việc
làm và làm trái ngành rất là nhiều. Ra trường nếu không làm đúng chuyên
ngành thì phụ việc, làm công nhân hoặc này kia.”
Giáo dục đại học là cái lõi của việc tăng trưởng phát triển kinh tế - xã
hội, và rất nhiều yếu tố quan trọng khác để phát triển cho một quốc
gia. Giáo dục Việt Nam đang hiện hữu những bất cập mà hình ảnh đó đã thể
hiện qua xã hội Việt Nam ngày nay.
Sinh viên đã và đang cố gắng vượt qua những khó khăn với mong muốn cầm
tấm bằng tốt nghiệp đại học để có được một công việc, một nghề nghiệp ổn
định và một tương lai tốt đẹp cho bản thân. Nhưng, hiện nay Việt Nam
đang đối diện với nhiều bất cập trong xã hội, và đang đối phó với một
nền kinh tế tệ hại, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Câu hỏi vẫn
còn đó: sau những năm tháng học đại học, tương lai của các tân cử nhân
sẽ ra sao?
An Nhiên, thông tín viên RFA
2013-05-31
Lại 1 người tử vong tại cơ quan công an
Hình minh họa |
Chiều 30-5, trung tá Nguyễn Mạnh Hùng - chánh văn phòng Công an tỉnh
Vĩnh Long - cho biết ông vừa nhận được tin anh Nguyễn Văn Đức (32 tuổi,
ngụ khóm 3, P.5, TP Vĩnh Long) đã tử vong tại Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an TP Vĩnh Long.
Ông Hùng cho hay trong quá trình làm việc, anh Đức tự té và bị chấn thương ở đầu. Hiện Công an tỉnh Vĩnh Long đang làm rõ nguyên nhân.
Trước đó, vợ anh Đức cho biết ngày 28-5, Công an TP Vĩnh Long đến nhà
đọc lệnh bắt tạm giam anh Đức vì cho rằng anh có liên quan đến một vụ
cướp giật tài sản và hôm sau công an phường báo tin anh Đức đã chết.
(Tuổi trẻ)
40 chủ hàng đòi cảnh sát Hải Dương đền 2 tấn bạch tuộc
TTO - Ngày 31-5, gần chục hộ dân đại diện cho 40 chủ hàng làm nghề khai thác, kinh doanh bạch tuộc tại huyện Cần Giờ, TP.HCM đã đến Phòng Cảnh sát môi trường (Công an tỉnh Hải Dương) đòi bồi thường lô hàng hơn 2 tấn bạch tuộc bị giữ sai quy định, dẫn tới hư hại.Lô hàng hơn 2 tấn bạch tuộc đã chảy nước, bốc mùi hôi thối vẫn đang được lưu giữ tại bãi xe |
Ông Nguyễn Trung Hải - trú tại huyện Cần Giờ, đại diện cho các chủ hàng trên - cho biết toàn bộ số bạch tuộc này là do người dân ở huyện Cần Giờ đánh bắt tự nhiên và gom lại, chuyển lên TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh tiêu thụ. 23g ngày 27-5, các chủ hàng nhận được thông báo xe hàng bị cảnh sát môi trường Hải Dương tạm giữ tại thị xã Chí Linh vì không có giấy kiểm dịch.
Ngay trong sáng 28-5, gần chục hộ dân đã bay từ TP.HCM ra Bắc để giải quyết và cho rằng công an giữ lô hàng là không đúng các quy định của pháp luật. Cơ quan chức năng cũng không có biện pháp bảo quản khiến toàn bộ lô hàng hơn 2 tấn bạch tuộc bị hư hỏng, bốc mùi hôi thối, không thể tiêu thụ được nữa.
Theo ông Hải: “Từ ba năm nay chúng tôi vẫn vận chuyển bạch tuộc ra miền Bắc và một số lần bị kiểm tra nhưng chưa lần nào bị bắt giữ. Theo thông tư số 32/2012 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy sản không phải kiểm dịch nếu không xuất xứ từ vùng có dịch. Đến nay tại TP.HCM chưa có nơi nào công bố bạch tuộc có dịch nên Công an Hải Dương không thể giữ hàng của chúng tôi với lý do không có giấy kiểm dịch”.
Ông Nguyễn Quang Hưng, lái xe tải được thuê chở lô hàng bạch tuộc trên, cho biết khi đang chở hàng từ sân bay Nội Bài đi Móng Cái, qua thị xã Chí Linh (Hải Dương) thì bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe. Sau khi kiểm tra giấy tờ xe đầy đủ, không vi phạm giao thông, cảnh sát giao thông đã giao xe hàng cho Phòng Cảnh sát môi trường với lý do hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và không có giấy kiểm dịch.
Cảnh sát môi trường yêu cầu ông Hưng đưa xe về bãi của Công ty TNHH Trường Giang tại quận Ngô Quyền, TP Hải Dương. Tại đây ông Hưng yêu cầu cơ quan công an lập biên bản tạm giữ xe, hiện trạng hàng hóa nhưng đại diện Phòng cảnh sát môi trường tỉnh Hải Dương không đồng ý.
Cũng theo ông Hưng, đến khoảng 4g ngày 28-5, khi lô hàng bắt đầu có biểu hiện hư hỏng vì không được bảo quản thì Phòng cảnh sát môi trường yêu cầu ông Hưng nhận lại xe và ký vào biên bản nhận xe, nhận hàng. “Lúc đó tôi chỉ ký nhận xe và ghi rõ không thừa nhận nội dung trong biên bản vì công an giữ xe, giữ hàng mà không lập biên bản. Tôi thấy hàng đã chảy nước, bắt đầu bị hỏng nên cũng không nhận hàng và gọi điện cho chủ hàng ra giải quyết” - ông Hưng nói.
Thượng tá Nguyễn Trọng Thái, phó trưởng Phòng cảnh sát môi trường Công an tỉnh Hải Dương, cho biết cơ quan chức năng không tiến hành tạm giữ lô hàng này mà chỉ đưa về bãi đỗ để xác minh, tìm hiểu rõ nguồn gốc vì lô hàng không có giấy kiểm dịch và không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Về căn cứ mà các chủ hàng nêu ra rằng bạch tuộc không xuất xứ từ vùng có dịch nên không cần phải có giấy kiểm dịch, ông Thái trả lời: “Chúng tôi căn cứ vào các thông tư phối hợp của Bộ Công an kiểm tra hàng lậu nên vẫn phải kiểm tra lô hàng này. Hôm nay (31-5), chúng tôi đã có cuộc họp liên ngành về việc này, Chi cục Thủy sản tỉnh đã có văn bản khẳng định lô hàng này phải có giấy kiểm dịch”.
Về trách nhiệm của công an khi để lô hàng bị hỏng, ông Thái cho biết sau khi kiểm tra lô hàng trong khoảng hai giờ, đến 1g15 ngày 28-5, công an đã có văn bản trả xe và giao hàng cho chủ xe quản lý. “Việc lái xe nói 4g mới trả là việc của họ, chúng tôi đã có văn bản trả rồi. Vì vậy trách nhiệm quản lý hàng là của lái xe” - ông Thái nói.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của Tuổi Trẻ, đến 10g ngày 28-5, bãi gửi xe của Công ty TNHH Trường Giang mới nhận được thông báo của Phòng cảnh sát môi trường về việc trả xe. Đến chiều 31-5, lô hàng hơn 2 tấn bạch tuộc vẫn đang được lưu giữ tại bãi xe và đã bốc mùi hôi thối. Phòng cảnh sát môi trường vẫn chưa đưa ra cách giải quyết cuối cùng về yêu cầu bồi thường thiệt hại của các chủ hàng.
THÂN HOÀNG
( Tuổi Trẻ )
Các cô gái Việt được giải cứu ở Malaysia (phần 2)
Một công nhân đang làm việc tại quán ăn từng giúp đỡ nhiều người Việt khi trốn chạy. RFA PHOTO |
Tiếp theo loạt bài về các nạn nhân buôn người, thông tín viên Tường An
tiếp tục tường thuật về trường hợp của những công ty môi giới trá hình,
gạt gẫm những phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa đi xuất khẩu lao động để bán
vào các động mãi dâm ở Malaysia.
Mạng lưới buôn người tinh vi
Mạng lưới buôn người ở Đông Nam Á ngày càng phát triển, từ những cửa
hàng bar hoăc karaoke trá hình, họ đi chiêu dụ các cô gái ở Việt Nam.
Nhiều công ty xuất khẩu lao động là bộ phận của mạng lưới buôn người
tinh vi này. Họ cho người về vùng nông thôn để tuyển phụ nữ với danh
nghĩa là đi xuất khẩu lao động, với lời lẽ ngon ngọt, họ hứa hẹn một
công việc nhẹ nhàng nhưng mau làm giàu ở xứ lạ.
Đó là trường hợp của cô Nhàn, quê ở Thanh Hoá, Cô bị gạt sang Mã Lai để
xuất khẩu lao động, làm hãng dệt may, nhưng qua đến nơi thì bị đưa vào
làm ở một quán bar và bị ép phải bán dâm ròng rã 1 tháng trời. Một lần,
nhân dịp chủ sơ hở, cô chạy trốn ra ngoài, ban ngày cô trốn trong bụi
rậm, đêm moi thức ăn từ các thùng rác để sống qua ngày. Sau 3 ngày lẫn
trốn tình cờ cô gặp được một người Việt Nam tên Thanh, anh Thanh là
thành viên của Lao Động Việt, một tổ chức giúp đỡ cho người lao động.
Anh Thanh kể lại cuộc gặp gỡ đêm đó bên bìa rừng của một thành phố nhỏ ở
Mã Lai như sau:
“Em tên là Thanh, em là thành viên của Lao Động Việt, nửa đêm em đi làm
về thì em thấy cô đang ngồi bên vệ đường run rẩy, quần áo thì chỉ có một
mảnh để che thân. Cô run quá, em dừng xe lại hỏi, cô kể lại hoàn cảnh
cô bị bán sang bên này, chủ nó bắt nhốt lại, hà hiếp, bắt đi làm quán
bar, đi làm tiền. Sau đó cô chạy trốn ra được, không có chỗ nương tựa,
cô hoảng sợ quá rồi, gặp em mà cô vẫn run rẩy. Em giải thích cho cô và
đưa cô đến một cái quán nhờ ông ấy giúp cho làm một thời gian.”
Và sau đây là câu chuyện của Nhàn, bắt đầu từ những ngày còn ở quê nhà Thanh Hoá:
“Lúc em ở Việt Nam, bọn em ở quê. Có bà tên là Hà của Công ty Xung Công
lên tuyển sang bên này làm máy đệt, bà nói chuyện rất ngọt. Họ bảo sang
bên này thì lương cao hơn, ở quê tụi em thì chỉ có khoảng 1 triệu đồng
Việt Nam mỗi tháng. Người ta bảo sang bên này làm tốt lắm, lương 6-7
triệu tiền Việt mình là ít. Thế là em mới nghe, em không hỏi rõ ràng. Em
mới lên làm hộ chiếu, em được tuyển nhanh lắm, em làm hộ chiếu, làm thủ
tục chỉ độ chục ngày sau là đi thôi.
Họ bảo là ký giấy để đi sang Mã Lai này thôi, sang cái chỗ mình làm thôi
chứ còn em chả cam đoan gì cả. Chủ yếu là nó lừa bán mình thôi chị, nó
nói ngọt lắm chị, nó nói đi sang đây em không phải khổ như ở nhà.”
Một cơn ác mộng
Người của công ty môi giới Xung Công đưa Nhàn vào một quán mà cô cũng
không biết tên là gì, họ nói đợi 1 tuần rồi công ty sẽ sắp xếp việc
nhưng sau 1 tuần thì thì chủ quán đưa người đến đánh bài trong đêm, rồi
bắt cô tiếp khách Tàu, không tiếp khách thì họ đánh đập. Họ nhốt cô
trong ngôi nhà đó hơn 1 tháng, ban ngày thì nhốt trong nhà, ban đêm bắt
tiếp khách. Cô Nhàn kể tiếp:
“Đi cùng với công ty môi giới đưa sang thì tưởng họ đưa mình về công ty
làm, ai ngờ đâu họ lại đưa vào bán quán bia. Chủ yếu là nó lừa mình thôi
chị. Nếu mà việc xứng đáng thì mình làm được, nhưng mà họ lại bảo mình
làm những việc không xứng đáng. Họ bảo đưa đi quán bia tiếp khác này nọ,
em không muốn, không phải việc của mình. Nếu mà tiếp bia không thì
không sao, cứ người này cầm tay với người kia lôi, tối thì bắt đi này nọ
thì làm sao mà mình làm được. Nó vớ được mình thì khác gì lợn vào rừng,
nó bắt nó thịt luôn đó chị.”
Các công nhân đang rửa chén tại quán ăn từng giúp đỡ nhiều người Việt khi trốn chạy. RFA PHOTO.
Ban ngày cô phải bán nước trong quán, ban đêm cô bị ép ngủ với khách,
tuy nhiên cô không được trả tiền, họ chỉ nuôi ăn. Cô không biết một chữ
tiếng Mã nên dù uất hận, cô cũng không biết cách nào cãi lại ngoài những
giọt nước mắt tủi nhục:
“Nó đưa vào nhốt trong nhà khổ sở lắm, nhưng mà tiền nong không có. Nó
lợi dụng mình đủ điều nhưng tiền thì không có. Nếu mà cãi nó thì nó dọa
mình nhưng mà mình thì không biết cãi. Cãi thì không biết cãi đâu chị.
Cãi thì không cãi được, nói thì không nói được, ngậm đắng nuốt cay không
nói gì được. Lúc nghĩ nước mắt tràn trụa ra.”
Một hôm, chủ quên đóng cửa thì cô vùng vẫy tìm cách chạy thoát ra ngoài,
cô chạy qua băng qua một quả đồi mà cô cũng không biết mình đang ở đâu.
Ngày trốn trong bụi rậm, đêm cô lần ra ven đường nhặt thức ăn dư thừa
trong thùng rác, trên đường phố. Đêm thứ 3, đang ngồi bên vệ đường thì
cô gặp anh Thanh, thành viên của Lao Động Việt như đã nói ở trên. Chưa
hết run sợ, cô Nhàn kể tiếp:
“Lúc đấy nó bắt mình uống bia uống rượu vào nó cưỡng hiếp mình. Mình một
thân một mình, con gái, không thể chấp nhận được chị, nó giật chân tay
em bầm tím hết cả. Chân tay người đàn ông mà bóp vào mình thì còn cái gì
nữa hả chị? Nó bắt em ngủ với nó, em run quá, em mới bỏ chạy. Em chạy
ra ngoài, em sợ quá, run quá nên em bỏ chạy nằm trốn trong bụi rậm. Em
sợ nó bắt được, em nghĩ nó mà bắt được chắc nó giết luôn mình. Không có
gì để ăn nên em phải xin ăn, chả lẽ chết đói. Người ta thấy em tội
nghiệp, tiếng thì em không biết, người ta bảo thôi thì ở đây rửa bát cho
tao, họ chỉ vào cái bát thì em biết là họ kêu rửa bát. Nếu mà làm quán
thì em làm, em vẫn sợ lắm, gái quê mình biết gì đâu, lang thang, lết
thếch.”
Nghe tình cảnh của Nhàn, anh Thanh dẫn cô vào một quán quen để xin cho
cô rửa bát. Sau 1 tháng bị hành hạ từ tinh thần đến thể xác, thoát khỏi
cảnh địa ngục mà cô Nhàn vẫn chưa thoát khỏi nỗi kinh hoàng, cô vẫn còn
run sợ trước người lạ và không tin ai được nữa. Anh Thanh phải xin vào
cùng rửa chén với cô để cô yên tâm. Sau hơn một tháng trời rửa chén, anh
Thanh và cô Nhàn đã dành dụm đủ tiền để mua vé máy bay trở về Việt Nam.
Anh Thanh cũng đã giúp cô các thủ thục cần thiết để trở về xum họp với
gia đình:
“Trong khi vào làm quán đó thì cô vẫn sợ cho nên em cũng vào đó làm để
tạo cho cô ấy một niềm tin, đồng thời cũng rửa chén bát cho ông chủ để
kiếm tiền mua vé cho cô ấy về. Em làm chỗ ấy hơn một tháng cũng kiếm
được 600 Ringgit và cô ấy cũng làm được lương của cô ấy nữa, sau đó em
giúp cô ấy làm thủ tục cho cô ấy về nước.”
Dù chỉ là một nạn nhân của sự lừa gạt, cô Nhàn vẫn xấu hổ không dám liên
lạc với gia đình trong suốt thời gian còn ở Mã lai. Với cô niềm mơ ước
đổi đời đã hoàn toàn trở thành một cơn ác mộng. Cô Nhàn chia sẻ suy tư
của mình cho những ai còn mơ ước một cuộc đổi đời bằng con đường xuất
khẩu lao động:
“Em nói thật em lạy, em về rồi em không bao giờ dám sang Mã Lai làm gì
nữa. Em có gia đình và có con rồi, qua đây tiền chẳng gửi về được mà lại
tiền mất, tật mang. Phải nói là những người Việt Nam sang đây đều khổ
chứ không phải ai cũng được như ai cả. Em chỉ muốn một mình em khổ chứ
em không muốn lây cho ai khổ theo em nữa.”
Theo bộ Công an, từ năm 2007 đến 2011 đã có gần 2.600 vụ buôn người với
gần 5.800 nạn nhân. Tuy nhiên theo các tổ chức quốc tế thì con số này
cao hơn nhiều, có thể trên 400.000 nạn nhân kể từ năm 1990. Theo Trung
tướng Phạm Quý Ngọ, thứ trưởng bộ Công an Việt Nam tội phạm buôn bán
người sử dụng công nghệ cao diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh
vi. Bộ Công an đã có chương trình quốc gia phòng chống tội phạm buôn
người giai đoạn 2011 - 2015. Chiến lược này thể hiện rõ những bước tiến
mạnh mẽ của cơ quan chức năng trong cuộc chiến chống buôn người.
Tuy nhiên,, ông Michael Benge, đã từng 11 năm là nhân viên bộ ngoại giao
tại Việt Nam và là nhà nghiên cứu Đông Nam Á, trong một bài viết có
tên: “Cộng sản Việt Nam, kẻ buôn người lỗi lạc” đã nói rằng: “Việt Nam
đang nắm giữ danh hiệu đầy quang vinh: ‘Quốc gia vi phạm Nhân quyền tồi
tệ nhất Đông Nam Á’, theo lời điều trần trước Ủy Ban đối ngoại của Quốc
hội Hoa kỳ. Các công ty xuất khẩu lao động có liên quan đến chính quyền
là những nhà cung cấp chính về nam, nữ và trẻ em cho các thị trường
cưỡng bức lao động và buôn bán tình dục, trong khi các quan chức chính
quyền kiếm lợi từ việc lại quả.”
Tường An, thông tín viên RFA
2013-05-31
Ủy ban Bảo vệ Ký giả Quốc tế lên án vụ bắt ông Trương Duy Nhất
Tổ chức phi chính phủ bảo vệ quyền tự do báo chí trên thế giới hôm 30/5
đã lên án vụ bắt giữ cựu nhà báo Trương Duy Nhất và kêu gọi Hà Nội thả
ông ngay lập tức.
Ông Nhất bị bắt hôm 26/5 và giới hữu trách nói ông ‘lạm dụng các quyền
tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân theo điều luật 258 của Bộ Luật Hình sự Việt Nam’.
Trả lời Hoài Hương của VOA Việt Ngữ, ông Bob Dietz, Điều phối viên đặc
trách khu vực châu Á của CPJ, nói rằng vụ bắt giữ ông Nhất là bằng chứng
mới nhất cho thấy Việt Nam tiếp tục tìm cách đàn áp những tiếng nói chỉ
trích.
“Vụ bắt giữ mới nhất này, đối với chúng tôi, là thêm một trường hợp khác
nữa nhà cầm quyền Việt Nam đã viện những luật lệ mù mờ để quy tội chống
phá nhà nước hầu bịt miệng những người dám chỉ trích chính phủ. Những
người bị bắt mới đây không bị buộc tội nào cụ thể, những cáo buộc cho
rằng họ xâm phạm các lợi ích nhà nước đã được chính quyền dùng như một
tấm mền để ập lên đầu giới chỉ trích hầu đàn áp truyền thông tự do. Điều
mà chúng ta chứng kiến ở Việt Nam, là những nhà tù hết chỗ chứa vì đầy
các nhà báo và blogger vô tội.”
Theo một cuộc điều tra của CPJ, với 14 nhà báo hiện bị cầm tù, Việt Nam
là quốc gia tống giam nhiều ký giả đứng hàng thứ 6 trên thế giới.
Thêm một trường hợp khác nữa nhà cầm quyền Việt Nam đã viện những luật
lệ mù mờ để quy tội chống phá nhà nước hầu bịt miệng những người dám chỉ
trích chính phủ.
Ông Dietz nói Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng đàn áp quyền tự do báo chí và tự do internet của công dân.
“Trên thực tế, chúng ta thấy thái độ ngày càng cứng rắn hơn ở Việt Nam
hiện nay, và với thời gian, càng ngày chính quyền Việt Nam càng kháng cự
mạnh hơn. Ủy Ban chúng tôi sẽ tiếp tục yêu cầu chính quyền các nước
khác trên khắp thế giới, và tại thời điểm này, cả Liên Hiệp Quốc nữa, để
giải quyết tình hình hạn chế nghiêm trọng giới truyền thông và quyền tự
do ngôn luận, để tìm cách lật ngược xu hướng đó.”
Không chỉ có CPJ mà nhiều tổ chức thúc đẩy quyền tự do báo chí khác trên
thế giới như Tổ chức Ký giả Không biên giới đều cho rằng Việt Nam không
khoan dung với những tiếng nói bất đồng ôn hòa trên mạng của các nhà
báo cũng như giới blogger.
Tuy nhiên, Việt Nam nhiều lần khẳng định không tống giam các nhà bất đồng chính kiến, mà chỉ bỏ tù những ai vi phạm pháp luật.
Hoài Hương -VOA
31.05.2013
Hà Nội sẽ thu phí đường bộ xe máy mức cao nhất
(quả này ngân sách tăng được 1 mớ nhể!!!)
Cụ thể đối với loại xe máy
có dung tích xylanh đến 100cm3 là 100.000 đồng/năm, đối với loại xe máy
có dung tích xylanh trên 100cm3 là 150.000 đồng/năm.
Xe máy có dung tích xylanh đến 100cm3 là 100.000 đồng/năm |
Đối với phương án thứ hai, UBND TP đề xuất mức thu là 10% (bằng mức thu tối thiểu Chính phủ quy định).
Công an đến từng nhà
Trước đó, công an thành phố
Hà Nội đã tổ chức in và cấp phát mẫu “Giấy khai đăng ký sang tên, di
chuyển xe”. Cảnh sát khu vực trực tiếp đến từng hộ gia đình nắm tình
hình số người có nhu cầu đăng ký sang tên, di chuyển xe; giúp họ khai
theo mẫu, sau đó cảnh sát khu vực mang về công an phường làm xác nhận
rồi trực tiếp mang đến nhà trả cho nhân dân.
Công an đến nhà dân vào ban đêm để hướng dẫn và giúp kê khai giấy sang tên, đổi chủ xe |
Cảnh sát khu vực P.Thành
Công, Q.Ba Đình được huy động đến tận nhà dân vào ban đêm để hướng dẫn
và giúp kê khai giấy sang tên, đổi chủ xe. Sau khi kê khai xong, cảnh
sát khu vực sẽ thu về phường kiểm tra, xác nhận và đem đến nhà trả cho
dân.
Công an P.Ngô Thì Nhậm,
Q.Hai Bà Trưng tổ chức “gom” Chi cục thuế quận, kho bạc, cảnh sát giao
thông vào một chỗ để người dân đỡ đi lại nhiều lần.
Sau 15 ngày thực hiện Thông
tư 12 của Bộ Công an về chuyển đổi xe chính chủ, công an Hà Nội đã tiếp
nhận 7.403 hồ sơ đăng ký sang tên, di chuyển xe ô tô, tăng 98%.
Công an thành phố cũng đã
tiếp nhận 1.473 hồ sơ sang tên, di chuyển xe mô tô, xe máy, tăng 88,6%.
Trong đó sang tên trong thành phố là 939 xe, chuyển đến 149 xe, chuyển
đi 385 xe.
Hà Nội hiện có 4 điểm đăng
ký sang tên ô tô và 29 điểm đăng ký xe máy. Thời gian từ nay đến cuối
năm, cảnh sát khu vực sẽ tiếp tục xuống nhà dân phát tờ khai sang tên
đổi chủ xe.
Công an thành phố sẽ tiếp
tục phối hợp với các ngành để việc sang tên đổi chủ xe của người dân
được thực hiện đạt kết quả cao. Đối với các huyện ngoại thành, trưởng
công an các huyện sẽ báo cáo chủ tịch huyện chỉ đạo chi cục thuế, kho
bạc nhà nước cùng cấp phối hợp lực lượng công an xuống từng xã, thị trấn
trên địa bàn làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe cho nhân dân.
Tất cả những động thái này cho thấy Hà Nội quyết tâm làm nghiêm việc thu phí.
Bích Ngọc (Tổng hợp Thanh niên, VOV)
Nguyễn Khoa Điềm - Lễ khao lễ thế lính Hoàng Sa
Theo Wikipedia, lễ khao lề thế lính là một lễ hội được nhân dân huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi duy trì hàng trăm năm nay. Thời gian đầu khi mới thành lập Đội Hoàng Sa, cứ hàng năm người của đảo Lý Sơn lại được tuyển mộ vào đội này làm binh, phu đi khai thác và bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa. Việc này gọi là “thế lính”. Lễ khao lề thế lính là một lễ hội độc đáo với truyền thống uống nước nhớ nguồn nhằm ghi nhớ công ơn người xưa hay nhóm An Vĩnh thuộc hải đội Hoàng Sa đã ra đi tìm kiếm sản vật và cắm mốc biên giới hải phận mà không trở về. Lễ Khao lề thế lính (KLTL) Hoàng Sa vừa được Bộ VHTTDL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Tế sống những người ngày xưa đi Hoàng Sa
Lý Sơn có lễ khao lề thế lính
Bốn mươi năm rồi, Hoàng Sa mất
Những người lính chìm trong biển
Những người vợ tóc trắng
Những hải trình bỏ quên
Quần Đảo nằm trong tay kẻ khác
Chúng ta làm lễ cho ai ?
Xa thẳm trùng dương không tiếng trả lời …
Tháng 4.2013
Tác giả gửi Quê Choa
- ( Theo Quê Choa )