Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Tin thứ Hai, 26-08-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
112 tỷ đồng đầu tư xây dựng trường học trên đảo Sinh Tồn (VOV). = >
Trong 10 năm qua, Việt Nam đầu tư cho vũ khí nào nhiều nhất? (SOHA). - Nào cùng Vịt Cồ học làm tàu ngầm! (Trần Hùng).
- CLB BÓNG ĐÁ NO-U FC RA SÂN LẦN THỨ 77 – 25/08/2013 (Thành). - NÓI VỚI CON VỀ HOÀNG SA (Phương Bích).
Biển Đông: Sự thực đằng sau sự nhún nhường của Trung Quốc (VnM).
Mỹ kêu gọi giải pháp hòa bình cho tranh chấp trên Biển Đông (VOV).
Biển Đông, Hoa Đông, Viễn Đông đang ngày càng phức tạp (Infonet).
Ba nước lớn châu Á đua nhau đóng tàu sân bay (TQ).
Láng giềng ở Đông Bắc Á (ĐBND).
Mỹ xoay trục sang Châu Á, Bắc Kinh – Washington chạy đua vũ trang (RFI).
Nhật « nghênh tiếp » các chiến đấu cơ Nga trên biển Nhật Bản (RFI).
- Hồ Bạch Thảo: Xét về phương diện lịch sử, nghĩ về một thế ứng xử ngoại giao hiện nay của đất nước (VHNA).
Tường thuật buổi Cafe 258 của Mạng lưới blogger Việt Nam (Tuyên bố 258).  - Buổi họp mặt của Mạng lưới Blogger Việt Nam tại Hà Nội (DLB). - Buổi họp mặt của Mạng lưới Blogger Việt Nam tại Sài Gòn. - Các bạn an ninh, mật vụ, các bạn nghĩ gì? (Phương Bích).
MS Phạm Ngọc Thạch bị dồn vào thế cùng (RFA). - Sinh viên Đỗ Thị Minh Hạnh bị hành hạ trong tù (Chúa Cứu Thế).  - Thơ TS Trần Nhơn – Công lý Việt Nam (DL). - Lê Thiên: Cảm nhận về bản thảo soạn phẩm “Nguyễn Chí Thiện – Trái Tim Hồng” của Trần Phong Vũ (ĐCV).
Chùm ảnh đón Phương Uyên ra khỏi nhà tù nhỏ (Bùi Hằng).  - MẬT VỤ- ANH LÀ AI?   - KHỦNG BỐ VÀ … CHỐNG KHỦNG BỐ.
Hỏi đáp: Trả lời nghiêm túc “phản hồi của thanh niên nghiêm túc (Jonathan London). “Bạn đã chia sẻ ‘Ai vi phạm pháp luật thì pháp luật sờ gáy thôi ạ. Bất kỳ một quốc gia có pháp luật nào cũng thế chứ không riêng Việt Nam’. Đúng thế, ở Liên Xô dưới thời Stalin là như vậy. Ở Kampuchea dưới thời Pol Pot cũng vậy. Có nghĩa là pháp luật của nước nào cũng như nhau? Ở Hàn Quốc việc thanh niên bày tò chính kiến của mình một cách ôn hòa là chuyện bình thường. Ở Bắc Triêu Tiên việc thanh niên bày tỏ chính kiến của mình có kết quả là cả 3 thế hệ trong nhà sẽ được đi lao động khổ sai cả đời cũng là bình thường. Vậy bạn nghĩ sao?
2<-  Trong tầm tay của chủ tịch nước (VOA). Nhà báo Bùi Tín: “Ông có quyền cân nhắc từng trường hợp, thêm tên từng người trong danh sách… để tiến dần đến mục đích cuối cùng là trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm và chính trị tại Việt Nam, theo gương Miến Điện”. Chỉ còn vài ngày nữa là câu hỏi lớn sẽ được trả lời, rằng liệu sẽ lại có một cú “vỡ òa” lớn gấp nhiều lần nữa hay không, với Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, v.v.. trong danh sách đặc xá đặc biệt? Rồi kế đến sẽ là Lê Quốc Quân, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất được trở về theo những cách khác nhau?  Ít ra thì cũng đã có một số thông tin cho thấy có khả năng xảy ra cú “vỡ òa” này.
- Huỳnh Phan: Ai sai lầm, lệch lạc: Lê Hiếu Đằng hay Linh Nghĩa? (BS).
- Cánh Cò: Bọn vịn Đảng mà đứng (Blog RFA).  - Lê Diễn Đức: Chuyện ông Lê Hiếu Đằng và những điều phải nói. “”Nhưng dù cho đảng của những người bỏ đảng ấy không lập ra được vì lý do nào đó thì tiếng hô hào của họ cũng giúp đánh tan được phần nào nỗi sợ hãi đang bao trùm, cũng là góp tiếp những bước đi cho sự hình thành xã hội dân sự”.
- Nguyễn Ngọc Già: Việt Nam không còn con đường nào khác (RFA).
- Nguyễn Thành An: Phản hồi bài viết “Nhiều sai lầm, lệch lạc trong bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằng” của Linh Nghĩa, trên báo Công an nhân dân (BS).
- Nguyễn Đại: Kính gửi bạn Đức (báo QĐND) (Huỳnh Ngọc Chênh).
- Nhà văn Vân Thảo: ĐẢNG VIÊN THỨ THIỆT VÀ ĐẢNG VIÊN DỞM (Thùy Linh). “Nhưng cái chú ý là càng ngày càng có nhiều những đảng viên lão thành, trong sáng như bác đang vỡ mộng… Liệu những đảng viên như thế này có dám chuyển hẳn sang một đảng phái khác như ông Lê Hiếu Đằng đã đưa ra bàn thảo hay không? Đã tới lúc mỗi người, dù già hay trẻ, đều phải tự lựa chọn cho mình một thái độ sống, một con đường, một lối đi rành rọt, chứ không thể u u minh minh được nữa…”.
Một vài suy gẫm từ bài báo của Song Chi – Trở ngại của người Việt nằm ngay trong chính mình (FB Hoàng Ngọc Diệp). - Một vài ý trao đổi với anh Hoàng Ngọc Diệp (FB Song Chi). “Điều quan trọng là phải đấu tranh làm sao để đảng cộng sản buộc phải xem hiện tượng thành lập đảng phái chính trị khác là bình thường, buộc phải để cho các đảng phái chính trị khác công khai hoạt động. Đó là điều mà trước hết chúng ta đang hướng đến và sau đó là còn rất nhiều việc khác phái làm trên con đường dài đấu tranh vì tự do dân chủ cho VN“.
- Đỗ Thành Công: Kinh nghiệm thành lập Đảng (ĐCV).
Đừng biến mình thành con rối cho những kẻ cơ hội giật dây (CAND). Phó GS-TS Nguyễn Lê Ninh – Ủy viên BCH Liên hiệp các Hội KH&KT TP Hồ Chí Minh – giảng viên ĐH Bách khoa – ĐH Quốc gia TP HCM: Ông Lê Hiếu Đằng đã có tư tưởng lệch lạc, không khác chi hành động phản bội lại niềm tin của Đảng, Nhà nước và người dân“.
- GS-TS Hoàng Chí Bảo: Trọng sự thật và chân lý để hành động có trách nhiệm (QĐND). Bài thứ 9 trong chiến dịch phản kích ông Lê Hiếu Đằng, lần này có điểm danh thêm ông Hồ Ngọc Nhuận. - Khi nhà “khoa học”Đông La ngữa mặt phun nước bọt:”VỀ CHUYỆN LÊ HIẾU ĐẰNG KÊU GỌI LẬP ĐẢNG LƯU MANH?”  (NLG).
- Và đây, báo đảng nơi ông Lê Hiếu Đằng trú ngụ, sau khi được BS nhắc nhở bữa kia, sớm nay đã vào cuộc với bài của TS Hoàng Văn Lễ: Thư gửi anh Lê Hiếu Đằng – “Đằng ấy… đằng mình”!!! Đây cũng là bài thứ 10 của hệ thống báo “quốc doanh”. Đặc biệt hơn, tờ SGGP còn hứa hẹn sẽ có nhiều bài nữa:Bắt đầu từ số báo hôm nay 26-8, Báo SGGP xin trân trọng giới thiệu những ý kiến tâm huyết trên”.  Như vậy, lần này xem chừng sẽ không thua mấy  không khí “tranh luận” của đợt góp ý sửa đổi Hiến pháp. Thực ra, đây cũng là tín hiệu đáng mừng cho hệ thống tuyên truyền của đảng, vì dù cho họ vẫn chơi trò “cả vú lấp miệng em”, tranh luận theo kiểu của kẻ điếc, nhưng cũng đã chịu “tranh luận”, không còn giấu nhẹm được nữa trước sức ép rất mạnh từ mạng tự do.
Tiếp chủ đề “bỏ đảng”, “đa đảng”, phần 7. Như đã hẹn ở lần trước, phần này nói về cơ sở thực tế của những khả năng khác nhau có thể xảy ra mà giới cầm quyền cần phải dự liệu.
Trước hết, trở lại kinh nghiệm gần nhất cho việc đoán định tình hình, thì tuyên bố của ông Lê Hiếu Đằng xem ra đã đạt đủ cả 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Đó là:
31- Bước tiến ngoạn mục của Kiến nghị 72 nhân đợt “góp ý” sửa đổi Hiến pháp mà trong đó điểm đột phá mạnh nhất là vào Điều 4. Như đã từng nói, đó là một bàn đạp vững vàng cho mọi cuộc đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền kế tiếp. Từ nay, không những sự tồn tại độc tôn của ĐCSVN không còn có thể mặc nhiên là điều húy kỵ cấm bàn đến và không được bác bỏ nữa, mà người ta còn có thể bàn tới cả sự cần thiết ra đời những chính đảng khác, lôi bộ máy tuyên truyền của đảng phải vào cuộc dù là theo bất cứ cách nào.
Thêm nữa, trong suốt nửa năm qua, mọi tầng lớp nhân dân đã được thỏa sức tham gia, chủ yếu qua mạng tự do, vào một cuộc tập dượt dân chủ và học hỏi kiến thức về Hiến pháp – Pháp luật sôi động chưa từng thấy.  
Từ đó, đã hình thành nên những khối quần chúng đông đảo, có sự gắn kết của những thành phần xã hội rất khác nhau, cùng có chung một tiếng nói. Những cọ sát, thể nghiệm, thử thách cần thiết để dần hình thành nên một xã hội dân sự lành mạnh đã diễn ra, thông qua mạng xã hội, vượt qua cản ngại của thực tế quyền lập hội, hội họp, biểu tình vẫn chưa được công nhận theo như quy định của Hiến pháp trong suốt 68 năm qua.    
2- Thực trạng ê chề trong quan hệ với Trung Quốc, áp lực đoàn kết ASEAN, bị Philippines “qua mặt” trong khẳng định và bảo vệ chủ quyền, sức ép của Mỹ, Phương Tây về nhân quyền, nhu cầu rất lớn gia nhập TPP, tránh bị thất bại bẽ mặt sau khi tuyên bố ứng cử nhiệm kỳ 2014-2016 vào Hội đồng nhân quyền LHQ đã buộc chính quyền khó có thể gia tăng trấn áp như trước, ít ra là trong 1 năm tới. Quan trọng nữa là bên trong nội bộ đảng, tương quan lực lượng giữa phái bảo thủ với những người cấp tiến cũng thay đổi theo.
3- Thế nhưng, thất bại thấy rõ của ĐCSVN trong nỗ lực vô vọng chống tham nhũng để “chỉnh đốn” nội bộ, giữa lúc liên tiếp những động thái đi đầu trong các cuộc đấu tranh dân chủ của nhiều cựu quan chức, đảng viên trung cao cấp, nhân sĩ, trí thức dẫn tới nhu cầu cần phải có những bước đi mạnh dạn hơn trước đòi hỏi của đông đảo người dân. Thời gian không còn chờ đợi nữa, với những người có ảnh hưởng nhất định tới giới lãnh đạo đương thời, ít nhiều đã giành được niềm tin trong nhân dân, song khá đông trong số họ tuổi đã cao. Phía sau họ còn là rất nhiều đảng viên trẻ tuổi hơn, trông đợi có ngọn cờ đi đầu dẫn dắt, vượt qua nỗi sợ hãi, mặc cảm.
Tuy nhiên, như phát pháo hiệu, cú “gây sốc” của ông Lê Hiếu Đằng nhắc nhở mọi người bắt đầu một thời kỳ mới, cùng suy nghĩ, bàn luận, chớ ảo tưởng hay đòi hỏi khắt khe phải có ngay một cái gì đó, bài bản, rõ ràng, dứt khoát, …
Vậy thử nhìn vào trong hàng ngũ hơn 3 triệu đảng viên hiện nay, những ai đang mong muốn có một sự thay đổi mạnh mẽ, suy nghĩ, hành động của họ ra sao, để trả lời cho những khả năng khác nhau có thể xảy ra. Có 3 thành phần chính:
1- Có lẽ đông đảo nhất vẫn là những đảng viên “vô sừng vô sẹo”, không có hoặc còn quyền hành lợi lộc gì trong bộ máy nhà nước, đoàn thể “quốc doanh”, cùng phải chịu đựng những bất công như mọi người dân, nhưng điều kiện tiếp cận thông tin, kiến thức trong đó có những quyền tự do dân chủ, đa đảng v.v.. vẫn hạn chế. Tóm lại là “dân trí” thấp. Họ sẽ là lực lượng ủng hộ mạnh nhất cho một “ngọn cờ” nào đó trong hàng ngũ của đảng có uy tín, khéo léo tranh thủ lòng dân, tỏ ra muốn cải cách nhưng vẫn “kiên định lập trường” cộng sản. Ngược lại, nếu “ngọn cờ” đó thể hiện, hoặc bị cho là muốn rũ bỏ chủ thuyết, “lật nhào thần tượng” lãnh tụ HCM, hay đơn giản chỉ “thiếu gương mẫu” trong những nguyên tắc đảng, trong đời sống hàng ngày là dễ dàng bị lực lượng này dìm xuống bùn đen. Lực lượng “bất mãn” nhưng bị hạn chế hiểu biết này lại chính là chỗ dựa vững cho phái bảo thủ trong đảng khi cần.
Họ cũng là những nhân tố sẵn sàng hưởng ứng nhiệt thành một khi có “ngọn cờ” giương lên trong số cựu quan chức cấp cao có chút uy tín đòi thành lập một đảng “Mác-xít chân chính”, hay “Đảng Bác Hồ”. Với họ, đó là lối thoát tinh thần khả dĩ nhất.
2- Trong số các cựu cán bộ, đảng viên bậc trung trở lên, giới trí thức, văn nghệ … ít nhiều có tư tưởng tiến bộ. Đây là lực lượng mà giới bảo thủ trong đảng ngại nhất, vì họ có ảnh hưởng nhiều trong xã hội, đóng góp quan trọng trong mở mang dân trí.
Tuy nhiên, lực lượng này có không ít điểm yếu … (Mời theo dõi tiếp phần sau).
4Vì sao càng học tập tấm gương Bác Hồ, đạo đức càng yếu kém? (Trần Kinh Nghị).  - LENIN CÓ PHẢI LÀ “LÃNH TỤ ĐÁNG KÍNH” CỦA VIỆT NAM HAY KHÔNG ? (TSYG).
HẺM BUÔN CHUYỆN (KỲ 111) : Dương gian sao, âm phủ vậy ! (Nhật Tuấn).“Tao là người duy vật biện chứng, 50 năm đi theo đảng, lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam. Sao mày dám nói làm hàng mã bộ kinh điển Mác Lênin toàn tập hả ?
 Thông báo của nhà báo Phạm Chí Dũng – 2 (BS). Về việc tiền gửi từ “người lạ”. 
- Không biết có liên quan gì tới chuyện virus xâm nhập máy tính của nhà báo Phạm Chí Dũng hay không, mà báo Đại đoàn kết sáng nay có bài “Internet không thể là nơi ‘nuôi nấm độc’“; hiện mới có bản báo giấy do VTV điểm, chưa có trên mạng. À, đây rồi, bài đã được giới thiệu trước ngay trên ĐĐK, dạo nhạc cho Nghị định 72 có hiệu lực từ 1/9/2013. Trong lúc TBT Đinh Đức Lập đang liên tục bị tố cáo nhiều tiêu cực, khiến cả Hội Nhà báo cũng vào cuộc, thì những bài như thế này, hay các bài chống đa nguyên đa đảng sẽ là cái “phao cứu sinh” rất tốt. 
Hồ sơ Dân oan Tuần 20 (Chúa Cứu Thế).
Về thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp (ĐBND).
Cần sửa cơ chế để thực hiện chính quyền đô thị (TN).  - Cần nới “chiếc áo” cơ chế (NLĐ).
- Phỏng vấn ông Ngô Minh Giang, nguyên Vụ trưởng Vụ An ninh, Ban Nội chính Trung ương: Chống tham nhũng không thể vội vàng (KT).
Cấm không được ‘rờ’ đến Thống đốc Bình! (QLB). – Thơ Võ Trung Hiếu: Viết dọc đường (Quê choa).
- Cụ bà Lê Hiền Đức trả lời báo nước ngoài - Tạp chí  “Carnets Du Viet Nam”: Tình hình tham nhũng tại Việt Nam rất trầm trọng và ngày trầm trọng hơn (Tễu).
Về tham nhũng và lạm quyền: Quan chức nhận hối lộ (hết) (Phan Ba). “Quan chức tham nhũng, doanh nhân vô lương tâm và băng đảng tội phạm – ba thế lực này ngày nay cộng tác mật thiết với nhau. Trong thời gian này, đó là cái nguy hiểm nhất trong xã hội của chúng tôi“.
Tự do tàn phá rừng để “làm giàu” (tiếp theo) (Chu Mộng Long).
- Phỏng vấn TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư pháp: Quyết chặn văn bản hành dân (NLĐ).
- Tô Văn Trường: Loạn thủy điện nhỏ (Boxitvn). - Cần có giải pháp kiên quyết với dự án thủy điện Sông Nam – Sông Bắc (ND).
5Khen thưởng vụ tố cáo Trưởng Trạm Y tế: “Chưa có tiền lệ, nên không biết làm sao” (PNTP).
Vụ ‘quan tài diễu phố’ ở Vĩnh Phúc sắp được xét xử (TP). =>
- Minh Diện: MỘT VỤ ÁN BỊ BẺ CONG (Bùi Văn Bồng).
Chuyện ở K bây giờ mới kể: Thảm sát & hành quyết tập thể?! (Trần Hùng).
Cuộc chiến không cần súng đạn  (DLB).
Hôm nay 25 tháng 8  Sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Tân Châu). - ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VIẾT VỀ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN (Tễu). - “NON, PAS DU TOUT” – KHÔNG HỐI TIẾC !? (TNM). - Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nỗi đau đáu Trường Sa (VnM).  - Ngày sinh nhật bình dị tại nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp (LĐ).  - Sức khỏe của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn ổn định (LĐ).  - Ngôi nhà thời thơ ấu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (VNE).
Ngoại trưởng Nhật thăm nhà máy nguyên tử Chernobyl (RFI).
Kết thúc ngày thứ tư của vụ xử Bạc Hy Lai (VOA).  - Bạc Hy Lai thóa mạ Vương Lập Quân (BBC). - Bạc Hy Lai tố Vương Lập Quân nói láo (RFI). - Bạc Hy Lai tố Vương Lập Quân dối trá (NLĐ).  - Vụ đối đầu bước ngoặt trong phiên xử Bạc Hy Lai (VNN).  - Những nhân vật, mốc thời gian then chốt trong vụ Bạc Hy Lai (VNN).  - Sướng như tù nhân Bạc Hy Lai (TQ).
Bắt giam nhà báo và blogger, Trung Quốc gia tăng trấn áp internet (RFI).
Phó Nguyên soái Triều Tiên: “Hòa bình quý giá hơn tất cả” (TT).  - Seoul loan báo danh sách người đăng ký gặp thân nhân ở miền Bắc (VOA). - Kim Jong Un đã có chuyến thị sát chiến hạm mới của CHDCND Triều Tiên (Kichbu).
Bạo động tôn giáo lại xảy ra ở Miến Điện (RFI). - Xung đột tôn giáo tái bùng phát ở miền Bắc Myanmar (VOV).  - Bất ngờ Myanmar (NLĐ).
Nga: Putin cấm tưởng niệm Mùa Xuân Praha ? (RFI).

Hạ tầng hàng không hiện có: Quá lãng phí sao còn mở thêm sân bay? (LĐ). Sáng nay VTV – Điểm báo kinh tế cũng đã đem ra mổ xẻ câu chuyện này.
- Tiếp bài “Lò gạch, khoáng sản tàn phá ruộng đồng”: Lợi dụng chủ trương, đua nhau xâu xé (TP). - Khai thác khoáng sản vẫn ‘tranh tối, tranh sáng’ (TP).
- Dự án cầu đường Bình Triệu 2: Quy hoạch lạc hậu, cần giảm quy mô? (SGTT).
KINH TẾ 
Thương hiệu và câu chuyện niềm tin (DĐDN).
Những sự kiện kinh tế nổi bật trong tuần (TBNH).
Lãi suất cho vay có thể giảm thêm không? (ĐBND).
Nhà bán cho dân, giấy “bán”… ngân hàng (NLĐ).  - Cho người nước ngoài mua nhà: Nhìn ra thế giới (TQ).
- Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời: Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng giá trị gia tăng (VOV).  - Yên tâm với “cánh đồng liên kết” (NLĐ).
6Doanh nghiệp kiếm tiền tỷ nhờ công ty liên kết (VNE).< - Kỳ công cà phê chồn (NLĐ). - Le Point: Việt Nam, ông hoàng mới trong ngành cà phê (RFI).
VASEP vẫn nhắm xuất khẩu tôm cao hơn năm 2012 (TBKTSG).
Xóa nợ cho Hy Lạp có thể gây ‘hiệu ứng Domino’ (Tin tức).
IMF: Chính sách nới lỏng tiền tệ vẫn cần được duy trì (NLĐ).
Chuyển động phức tạp của kinh tế toàn cầu (ND).

Du lịch chui? (TN).
- Trò chuyện giữa các doanh nghiệp dẫn đầu và sinh viên Tây Đô: “Hãy chuẩn bị và chứng tỏ thực lực” (SGTT).
VĂN HÓA-THỂ THAO
Phát lộ thêm tàu cổ vật (NLĐ).  - Tìm thấy nhiều chén, dĩa cổ dưới đáy biển (TN).  - Theo chân ngư dân tìm cổ vật ngàn năm (KP).
Sohaniim: Kate lễ tục truyền thống của đồng bào Chăm (Chăm Ahier) (Gulpataom).
Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam (NCLS).
Đêm nghệ thuật tôn vinh Lưu Quang Vũ-Xuân Quỳnh (TTXVN).
Bỏ phí phim tiền tỉ (NLĐ).
- Vũ Duy Chu: HÀ NỘI TIẾU LÂM TRUYỀN KỲ – KÌ 153: SAO LẠI PẰNG PẰNG THƠ VÀO MẶT NHAU THẾ? (Trần Mỹ Giống). - ĐÊM CANH GÀ CHỐNG CHUỘT: CHÙM THƠ LÊ HUY TẬP. - TIẾN SĨ VŨ HUY TRÁC và Giang Nam Lão Phố Thi Tập.
- Dương Kỳ Anh: VỀ 2 CÂU THƠ CỦA LÊ THÁI SƠN (Nguyễn Trọng Tạo).
ĐINH CƯỜNG – Để nhớ Âu Như Thủy. người họa sĩ nằm chết trên Đèo Cả (Du Tử Lê).
7CLB Yêu Thơ – 14    –   13   –     12  (Bùi Văn Bồng).
Kỳ nhân du lịch xứ Huế (GD&TĐ). Cụ Diều đang ngồi đợi khách trên cầu ngói Thanh Toàn =>
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9: “Tôi xin lỗi” (TT).  - Đàm Vĩnh Hưng “phản pháo” lại Nguyễn Ánh 9 (VNN).
Nguyễn Ngọc Tư: ‘Chừng mực của nỗi cô đơn’ (TTVH).
- Làng biểu diễn Việt: Thời của… biến thái? (SK&ĐS).
Hoàng Nhất Phương – The Wolverine – Người Sói (DL).

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Đổi mới dạy và học (NLĐ).  - Xác định khoa học giáo dục là quốc sách hàng đầu (TTXVN).
Đầu tư hơn 35 tỷ đồng cho Viện Toán của GS Châu (Zing).  - GS Ngô Bảo Châu: ‘Kết quả khoa học không tính bằng doanh số’ (VNE).
- Xét tuyển nguyện vọng bổ sung: Thí sinh bị nhiều trường “níu chân” (PNTP).
8<- Gặp lão sinh viên U80 vẫn tới giảng đường đại học (DV).
Chọn người hay tuyển tấm bằng? (DT).
CẶP LỒNG DÙNG ĐỂ ĐỰNG CƠM (Mai Thanh Hải).
Chửi nhau trên mạng, “xử” nhau trước cổng trường (VNN).
Tàn giấc mơ tàu bay, tiêu giấc mơ tàu ngầm (LĐ).
- TUYỂN SINH ĐH, CĐ 2013: Cẩn trọng với xét tuyển bổ sung (PLTP).
- Từ năm học 2014 – 2015 tại TP.HCM: Có thể 100% học sinh lớp 9 phải thi tuyển vào lớp 10 công lập (SGTT).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Bấn loạn vì xét nghiệm mỗi nơi, mỗi kiểu (LĐ).  - Chờ tiền hỗ trợ trị bệnh (NLĐ).
Xuất hiện tình trạng mạo danh Thanh tra Bộ Y tế (QĐND). - Hai bác sĩ đánh nhau phải nhập viện vì không được… phát biểu (NĐT). 
Điều tra về ‘nô lệ’ trẻ em ở Việt Nam (BBC).  - Anh truy băng ‘buôn nô lệ Việt Nam’ (BBC).
Nồi cháo TTH thứ 24 (Thành). Bán máu (FB Trần Trung Đạo). “Ðứa con út đang đau/ Chờ mẹ về chưa tới/ Qua đời trong cơn đói/ Thiếu cả một vòng tay/ Khi bà về tới nơi/ Thì con mình đã chết/ Bà ôm con lạnh ngắt/ Ðứng hát như người say“.
914 ngư dân biến mất bí ẩn (NLĐ).
“Người rừng” hồ hởi tự tay chuyển gạch xây nhà (DV).  - ‘Người rừng’ khiêng cột nhà dựng chỗ ở mới (VNE).  - Cha con “người rừng” quấn quýt (NLĐ). =>
Con tạo trớ trêu (NLĐ).
Tác động xấu của biến đổi khí hậu tại Đông Nam Á (RFA).
Cháy rừng ở Yosemite đe dọa San Francisco (VOA).
Ấn Độ bắt toàn bộ 5 nghi phạm vụ hiếp dâm ở Mumbai (VOV).  - Ấn Độ: Năm nghi phạm hiếp dâm đều bị bắt (BBC).  - Bắt được nghi can thứ 5 vụ hãm hiếp tập thể ở Mumbai (VOA).

- Về vụ “bắt Chủ tịch HĐQT THPT dân lập Phương Nam”: Bà Yến đã thực hiện hành vi lừa đảo ra sao? (DV).
QUỐC TẾ
Hoa Kỳ tăng sức ép ngoại giao và quân sự lên Syria (RFI).  - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ: Quân đội sẵn sàng tấn công Syria.  - LHQ thanh sát nơi tấn công bằng vũ khí hóa học ở Damascus vào thứ Hai (VOA).  - Syria ‘bật đèn xanh’ cho LHQ tới điều tra vũ khí hóa học (Tin tức).   - Mỹ và phương Tây đang lên kế hoạch can thiệp vào Xy-ri? (QĐND).  -Phương Tây và Mỹ mượn cớ ‘vũ khí hóa học’ can thiệp quân sự vào Syria? (TN).  - Bộ trưởng Hagel: Mỹ chuẩn bị cho hành động đối với Syria (VOA).  - Iran cảnh báo Mỹ sẽ ‘lãnh đủ’ nếu can thiệp vào Syria (TN).  - Syria: 400 tấn vũ khí đã đến tay phe nổi dậy? (VOV).  - Mỹ, Anh cảnh báo Syria (BBC).  - Đa số dân Mỹ phản đối can thiệp vào Syria.  - “Giới hạn đỏ” và những câu hỏi lớn về Syria (Tin tức).  - 3600 người Syria được chữa trị vì nhiễm chất độc làm tê liệt thần kinh (VOA).
Biên giới Gaza-Ai Cập được mở lại giữa lúc Huynh đệ Hồi Giáo đổi chiến thuật (VOA).  - Hoãn vụ xử thủ lãnh Huynh đệ Hồi giáo Ai Cập (VOA).  - Ai Cập hoãn phiên tòa xử ông Mubarak (VOV). - Ai Cập hoãn xử các thủ lãnh Huynh đệ Hồi giáo và cựu Tổng thống Mubarak (RFI).
10Ấn Độ và Pakistan lại đọ súng ở khu vực Kashmir (TTXVN).  - Pakistan thả các ngư dân Ấn Ðộ bất chấp căng thẳng (VOA).
<- Phụ nữ nhắc lại cuộc Tuần hành năm 1963 tại Washington (VOA).  - Các diễn giả tập trung kêu gọi ủng hộ những vấn đề xã hội (VOA).
Tạp chí Đức cáo buộc an ninh Mỹ theo dõi Liên Hợp Quốc (VOV).
Công ty Đức bị tố cáo đưa hối lộ để giành hợp đồng tại Hy Lạp (RFI).

* RFA: + Sáng 25-8-2013; + Tối 25-8-2013

* RFI: 25-8-2013
* VTV: + Cuộc sống thường ngày – 25/08/2013;  + Toàn cảnh thế giới – 25/08/2013;  + Dân hỏi Bộ trưởng trả lời – 25/08/2013;  + Công nghệ – Đời sống: Khuyến khích các giải pháp công nghệ phòng chống thiên tai;  + Trái tim cho em – 24/08/2013;  + Khoảnh khắc cuối tuần – 25/08/2013;  + Mỗi tuần một chuyện: Đối thoại với đạo diễn Charlie Nguyễn;  + Thời sự 12h – 25/08/2013;  + Thời sự 19h – 25/08/2013.

1992. Trọng sự thật và chân lý để hành động có trách nhiệm

Quân đội nhân dân
Làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”
Chủ Nhật, 25/08/2013, 22:49 (GMT+7)
QĐND - Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng chính trị đang thực thi trọng trách của một đảng lãnh đạo và cầm quyền duy nhất ở Việt Nam. Hơn một phần tư thế kỷ qua, kể từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, Đảng là người khởi xướng đường lối đổi mới và lãnh đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới theo cương lĩnh và chiến lược mà Đảng đã vạch ra. Toàn thể dân tộc Việt Nam, các tầng lớp nhân dân ở trong nước cũng như đồng bào ta đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài, với ý thức dân tộc, tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước đều đồng tâm nhất trí với đường lối của Đảng, chủ động, tích cực tham gia công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo.

Ý Đảng – Lòng dân – Phép nước đã thống nhất và hòa quyện làm một, tạo thành sức mạnh thúc đẩy đổi mới, làm nên sức sống của đổi mới, thành tựu phát triển đất nước như hiện nay. Đổi mới là sự gặp gỡ tất yếu và tự nhiên giữa những hối thúc của đời sống thực tiễn với những sáng kiến, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân từ cơ sở, cùng với quyết sách đúng đắn, kịp thời của Đảng. Công cuộc đổi mới của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đáp ứng kịp thời những mong đợi của quần chúng nhân dân và nhận được sự ủng hộ, cổ vũ của đông đảo bạn bè, đối tác trên thế giới. Nhân dân ủng hộ đổi mới, tin tưởng vào Đảng của mình bởi chính những trải nghiệm trực tiếp từ thực tiễn đã đem lại cho người dân câu trả lời: Đảng vì dân, nên dân tin Đảng, theo Đảng. Đảng làm tất cả vì cuộc sống của dân, nên dân cũng làm tất cả để xây dựng và bảo vệ Đảng của mình. Đổi mới là động lực mạnh mẽ nhất của phát triển và đổi mới cũng chứng thực tin cậy nhất về sự đoàn kết, đồng thuận không gì phá vỡ nổi giữa dân với Đảng, giữa Đảng với dân. Thực tiễn ấy cũng minh chứng cho bước tiến và thành tựu dân chủ ở Việt Nam. Giá trị đích thực của dân chủ chỉ có thể tìm thấy trong cuộc sống của dân, vị thế của dân, niềm tin và hành động của dân với chủ thể cầm quyền được dân ủy quyền, với chính thể mà dân xây dựng. Sự thật lịch sử này phải được tôn trọng.
Nhờ đổi mới với những quyết sách chiến lược của Đảng, qua cương lĩnh, chiến lược, đường lối đã và đang thực thi mà đất nước đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đã mở cửa và hội nhập quốc tế để phát triển, để xây dựng nền tảng của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cũng nhờ có đổi mới mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua thử thách hiểm nghèo khi xảy ra biến động chính trị đầy kịch tính ở Liên Xô và Đông Âu hơn 20 năm trước…
Đổi mới đã làm cho Đảng trưởng thành, nhân dân và dân tộc trưởng thành. Với dũng khí tự phê phán, nhận rõ trọng trách của mình trước vận mệnh của dân tộc và cuộc sống của nhân dân, Đảng ta tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội. Thực tiễn và kinh nghiệm làm cho nhân dân thấy rõ, vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng là cần thiết và hệ trọng như thế nào đối với cuộc sống của chính mình. Từ người dân bình thường đến những người có học thức và học thức cao, từ những người cao tuổi đã dạn dày kinh nghiệm và trải nghiệm trong trường đời thực tiễn đến lớp trẻ ngày nay sinh ra và lớn lên trong đổi mới… đều hiểu và cảm nhận trực tiếp điều đó. Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện với lịch sử vẻ vang hơn 80 năm, trong đó đã cầm quyền liên tục gần 70 năm nay, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, đã tồn tại và hoạt động chỉ vì Dân và Dân tộc. Đảng ta không có mục đích nào khác ngoài mục đích phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phấn đấu hy sinh để đem lại lợi quyền cho dân, để dân là chủ và làm chủ. Dân ủy thác cho Đảng trọng trách. Sứ mệnh, địa vị và trọng trách của Đảng là sự lựa chọn của dân, là sự tin cậy mà dân dành cho Đảng, đòi hỏi Đảng phải thực thi tốt nhất để không phụ lòng tin của dân. Đảng đã từng làm được như vậy vì dân, trong lịch sử vẻ vang của mình, cũng như hiện nay, Đảng đang nỗ lực tự vượt lên những hạn chế, khiếm khuyết của mình, ra sức tự chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, với sự giúp đỡ của toàn dân nhằm xứng đáng hơn nữa với sự ủy thác, tin cậy của dân.
Sự thật ấy cần phải thấy rõ và tôn trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng chân chính cách mạng, quang minh chính đại không sợ bất cứ một cái gì, chỉ lo toàn tâm toàn ý làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân. Đảng công khai khuyết điểm sai lầm và có dũng khí, có quyết tâm sửa chữa, nhờ đó Đảng sẽ tiến bộ, chắc chắn, mạnh khỏe, có sức sống. Lại có dân giúp đỡ, xây dựng và bảo vệ, sự nghiệp sẽ thành, chế độ sẽ vững và dân sẽ được hưởng Độc lập – Tự do và Hạnh phúc”.
Đó là sự thật và chân lý không thể phủ nhận, không thể hoài nghi, càng không thể xuyên tạc bởi tâm không thành, trí không sáng, lòng không bền bỉ đi cùng Đảng cùng dân vượt qua khó khăn thử thách để giữ trọn niềm tin và chia sẻ trách nhiệm với Đảng của mình, dân tộc mình và nhân dân mình. Việc tuyên truyền lập một Đảng mới, một Đảng khác, lại kêu gọi đa nguyên đa đảng để xây dựng dân chủ, coi đó là quyền công dân chính đáng, kêu gọi những ai đang muốn ra khỏi Đảng hoặc không còn sinh hoạt Đảng nữa hãy cùng tham gia thành lập đảng mới như các ông Lê Hiếu Đằng, Hồ Ngọc Nhuận gần đây đưa ra là điều không thể chấp nhận.
Phản ứng và thái độ của cá nhân là quyền của mỗi người, nhưng quyền ấy phải thuận theo đạo lý và luật pháp. Không một ai trong tư cách thành viên của cộng đồng xã hội, công dân hoặc Nhà nước pháp quyền được nhân danh quyền mà làm phương hại tới ổn định chung, lợi ích chung, sự nghiệp chung của nhân dân và dân tộc.
Đó là lẽ phải và đạo lý ở đời và làm người mà Bác Hồ gọi là Thân dân và Chính tâm. Với những đảng viên của Đảng Cộng sản, đòi hỏi này càng cần phải tôn trọng nghiêm ngặt hơn bởi sự dẫn dắt của lý trí tỉnh táo, sáng suốt và thái độ chính trị nghiêm túc, biết tự mình trung thành với lý tưởng và nguyên tắc, cùng với giữ trọn đạo làm người cách mạng. Sự giác ngộ đưa đến sự tự nguyện gia nhập Đảng, không có ai ép buộc ai. Đã ở trong Đảng thì việc tuân thủ điều lệ như tuân thủ một “đạo luật” là một lẽ đương nhiên, bởi Đảng là một tổ chức chiến đấu, một Đảng hành động, đòi hỏi kỷ cương. Đảng không phải là một câu lạc bộ. Xa rời đòi hỏi ấy, là đã tự mình phủ nhận mình. Khi đã giác ngộ chân lý thì phải phục tùng chân lý. Đó là tự do và quyền tự do chân chính dựa trên sức mạnh cộng hưởng của khoa học, đạo đức và chính trị, tạo nên tư cách, phẩm giá đảng viên. Thay vì nêu cao trách nhiệm xây dựng Đảng, củng cố sự thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng, có cá nhân lại kêu gọi lập đảng mới, coi đa đảng, đa nguyên là tất yếu để có dân chủ, coi đó là quyền tự do… thì suy nghĩ ấy, hành động ấy không thể chấp nhận bởi sự xa rời nguyên tắc và đạo lý cách mạng của Đảng ta, của nhân dân ta.
Có một thực tế lịch sử hiển nhiên cũng cần được làm rõ, trong các nước tư bản chủ nghĩa, dù tồn tại đa đảng và các đảng đối lập, nhưng vẫn định hình một đảng cầm quyền. Chính trường ở đó thường xuyên diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị tư sản. Họ chỉ đa nguyên, đa đảng trên hình thức, còn trên thực tế đều tỏ rõ sự nhất nguyên, bởi đảng chính trị tư sản nào cũng không bao giờ xa rời mục đích bảo vệ cho quyền thống trị và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ. Cũng không phải một đảng là trở ngại của sự phát triển dân chủ. Nêu lên quan điểm này người ta đã không tính đến, hoặc vô tình, hoặc cố ý sự khác biệt bản chất giữa các đảng chính trị tư sản và cộng sản, giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN. Với thực tiễn Việt Nam và đổi mới của Việt Nam, không ai có thể phủ nhận được những bước tiến rõ rệt về dân chủ mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong những năm qua, trong nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền, trong thực hành dân chủ, đặc biệt là sự thừa nhận của chính người dân, về những nỗ lực của chúng ta trong việc thực hiện tính công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, quản lý, trong tranh luận, thảo luận, trong bầu cử, trong cải cách hành chính và cải cách tư pháp… Thành tựu của đổi mới sở dĩ có được là nhờ lực đẩy của dân chủ hóa và chính dân chủ là một trong những thành tựu nổi bật của đổi mới.
Cuộc thảo luận rộng rãi trong toàn dân đóng góp cho các văn kiện Đại hội của Đảng, nhất là cương lĩnh và chiến lược, cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là một minh chứng rõ rệt cho sự quan tâm đầy trách nhiệm của người dân đối với Đảng và Nhà nước của mình, cũng như nhân dân đã tham gia vào công việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị, tham gia đánh giá về chính sách và luật pháp. Đó là những bằng chứng nói lên sức sống của đời sống chính trị dân chủ ở nước ta. Bởi thế, chắc chắn là, đông đảo các tầng lớp nhân dân sẽ có tiếng nói phê phán với những hoạt động tuyên truyền, những lời kêu gọi đòi đa nguyên đa đảng ở nước ta. Cuộc sống vốn tường minh và nhân dân vốn sáng suốt, công bằng, nhạy cảm đủ sức sàng lọc, phân định để làm rõ chân và giả, thiện chí xây dựng và những toan tính sai lầm, gây hại cho dân, cho nước. Nhân dân đón nhận và ủng hộ những gì công tâm, chính trực và chối từ những ngụy tạo, ác ý.
Tôn trọng sự thật và chân lý để hành động có trách nhiệm, đó là thái độ và sự lựa chọn của chúng ta, từ Đảng đến dân. Trên tất cả các phương diện từ lý luận khoa học đến thực tiễn chính trị cũng như sự trong sáng đạo đức, những ai thiện tâm, thiện chí, vì Tổ quốc, dân tộc và nhân dân đều thấy rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền là một thực tế lịch sử, không gì có thể làm dao động lý trí và tình cảm của chúng ta.
Điều 4 trong Hiến pháp đã khẳng định về vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Đó là ý chí của dân, nguyện vọng của dân, đạt được sự đồng thuận rất lớn của xã hội. (LB: hồi nào ý nhỉ? có qua Trưng cầu dân ý không nhỉ???) Đảng ta trong nhận thức và đánh giá của dân, có đầy đủ tính chính đáng pháp lý và sự xứng đáng về phẩm giá và uy tín của một Đảng lãnh đạo và cầm quyền.
Đảng cần ra sức tự vượt lên những hạn chế và khiếm khuyết bằng cách tự đổi mới, tự chỉnh đốn để xứng đáng với trọng trách của mình và niềm tin của dân. Đóng góp vào công việc hệ trọng này là hành động có trách nhiệm của mỗi đảng viên và mỗi người dân. Bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, về thực chất là bảo vệ dân, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của dân, hiện tại cũng như lâu dài.
GS TS HOÀNG CHÍ BẢO

1993. Ai sai lầm, lệch lạc: Lê Hiếu Đằng hay Linh Nghĩa?

Huỳnh Phan
25-08-2013
Trên báo Công an nhân Dân ngày 24/8/2013 có đăng bàiNhiều sai lầm, lệch lạc trong bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằngcủa tác giả Linh Nghĩa. Qua bài báo, không thấy tác giả vạch ra được chỗ sai lầm, lệch lạc thật sự nào trong bài viết của ông Lê Hiếu Đằng mà chỉ thấy nhiều lệch lạc sai lầm của chính tác giả, xin được nêu những điểm chính như sau.

Ngay phần mở đầu bài viết tác giả đã cho thấy sự lệch lạc của mình khi cho rằng khi đọc phần đặt vấn đề của bài viết ông Lê Hiếu Đằng với câu ‘ …“tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới’ thì ‘người đọc ngỡ ngàng rằng sắp có vụ thanh toán nhau của các băng nhóm tội phạm!’ Có lẽ do tác giả có kĩ năng đọc hiểu tiếng Việt quá kém hoặc là do bị ảnh hưởng của các chủ đề thường ngày trên các báo nhất ‘lề phải’, nhất là báo Công An, là ‘cướp, giết, hiếp’, một nét ‘ưu việt’ của xã hội ta, nên mới hiểu một câu trong ngữ cảnh về chuyện lớn lao của đời người ra chuyện hèn mọn, phi pháp. Một người với vốn tiếng Việt trung bình không ai lại hiểu như thế. Tiếp theo, tác giả lại chê bai bài viết là dài, kể lể, đọc sốt cả ruột… là những thứ thuộc về hình thức chẳng có liên quan gì tới việc sơ sót, lệch lạc về nội dung của nó. Rõ ràng hai điều này chỉ nhằm mục đích bêu rếu cá nhân hơn là phê phán nội dung bài viết nhưng có vẻ chỉ tác dụng ngược lại cho tác giả.
Bây giờ xin đi vào phần chính của bài viết nhưng chỉ xin điểm qua một số lập luận ‘mới’ của tác giả so với những bài đã đăng cùng chủ đề.
Trước nhất, khi đọc phần 1 của bài viết LHĐ tác giả đã ‘khái quát’ là ông LHĐ đã ‘phủ nhận mọi thành quả của cách mạng VN, đồng thời ca ngợi, [sic] chế độ cũ’. Tác giả không nêu ra được dẫn chứng nào cho việc ông LHĐ ‘phủ nhận mọi thành quả của cách mạng VN’, còn về ‘ca ngợi chế độ cũ’ tác giả dẫn chứng việc ông LHĐ nhắc lại vụ ông bị chính quyền cũ bắt giam nhưng vẫn cho ông ra đi thi. Ở đây ông Đằng chỉ nêu ra một việc có thật (có thể kiểm chứng được) từ kinh nghiệm của chính bản thân để cho thấy rằng chế độ hiện nay còn có điều chưa tốt so với chế độ cũ. Có lẽ theo quan niệm của tác giả, hễ là đã xem ai là ‘địch’ thì dù họ có ưu điểm, thế mạnh gì thì cũng không được phép nói ra và nếu nói ra sẽ là ca ngợi địch!
Thứ hai, để phản biện phần ‘đa nguyên, đa đảng’ tác giả nêu ra câu hỏi ‘Vì sao dưới chế độ kinh tế đa nguyên” thời Mỹ và tay sai ở miền Nam, người ta đã ra Đạo luật 10/59, “bắn bỏ tất cả bọn Cộng sản”, không cần xét xử?’ Hình như tác giả còn nhỏ tuổi nên không nắm được sự kiện hoặc thiếu tra cứu nên đã phạm sai sót khi viết điều này. Trước nhất, luật 10/59 được ra khi VNCH đã đặt trong tình trạng chiến tranh và thứ hai là luật này quy định việc lập ra các Toà án quân sự để xét xử nhanh ‘các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa’. Như vậy, đây là một luật trong thời chiến và người phạm tội có qua xét xử của Toà án [quân sự], dù có thể qua loa, chiếu lệ nhưng không phải không cần xét xử như tác giả viết sai. Và lưu ý rằng lúc đó ở miền Nam ‘bọn Cộng sản’ là một tổ chức có vũ trang, tuy chưa đủ sức thực hiện việc lật đổ chế độ VNCH nhưng cũng có các hoạt động ám sát, phá hoại mà theo quan điểm của nhà cầm quyền VNCH thì ít ra đó cũng là một tổ chức khủng bố, phiến loạn chứ không phải là một tổ chức chính trị đấu tranh qua nghị trường. Vì thế, người CS dĩ nhiên bị đặt ngoài vòng pháp luật, và do đó không thể coi là một đảng phái hợp pháp trong hệ thống đa đảng của VNCH như các đảng Đại Việt, VNQDĐ… Tác giả có lẽ quên rằng trong bất cứ chế độ nào, dù đa đảng hay không, việc lật đổ chính quyền bằng bạo lực đều không thể chấp nhận. Vì vậy, câu hỏi tác giả đưa ra như trên chẳng có giá trị gì trong phản bác mà lại cho thấy tác giả là người vừa kém hiểu biết vừa thiếu óc suy xét.
Ngoài ra, trong phần này tác giả cũng phê phán ông Đằng là ‘thách thức pháp luật và kêu gọi xóa bỏ chế độ hiện hữu, bao gồm cả vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.’ Để chứng minh cho luận điểm này tác giả đưa ra trích dẫn “[v]ậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội… Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này? … Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa… Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay.’’ Nếu không có vấn đề về đọc hiểu thì qua đoạn trích dẫn này (ngay cả khi tác giả đã cố ý gian lận bỏ bớt ý cũng rất quan trọng ‘[m]à nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm’) ai cũng có thể thấy ông Đằng chỉ đề xuất thành lập đảng mới dựa theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành của chế độ (dù tính chất ‘của dân, do dân, vì dân’ của chế độ này còn phải xét lại). Chưa có văn bản pháp lí nào cấm thì người dân được phép làm, đó là nguyên tắc không có gì là thách thức ở đây. Và trong bài cũng hoàn toàn không thấy chỗ nào ông Đằng ‘kêu gọi xoá bỏ chế độ hiện hữu’. Về ‘kêu gọi xoá bỏ …. vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam’ cũng thế, ý ông Đằng trong bài chỉ muốn đảng CS phải phấn đấu cạnh tranh với các đảng phái khác, nếu có, để giành quyền lãnh đạo một cách chính danh chứ không phải tự nhân danh hay đúng ra mạo danh như hiện nay thôi (mấy bài phản biện trên báo QĐND, ND, ĐĐK vừa qua cũng chỉ nói lấy được chứ chẳng nêu ra được bằng chứng thuyết phục nào cho thấy nhân dân thừa nhận vai trò lãnh đạo này). Nhưng cũng lưu ý rằng với Hiến pháp và pháp luật hiện tại, ngay cả khi có đảng hay nhiều đảng mới ông Đằng cũng cho rằng đảng CSVN vẫn có khả năng lãnh đạo cho tới một tương lai không ngắn. Nếu vào một lúc nào đó đảng CS mất vai trò lãnh đạo chủ yếu chỉ là do tự đảng phấn đấu kém nên nhân dân không chọn lựa, chứ không ai lật đổ cả. Ngoài ra, tác giả cũng có nhắc nhở ông Đằng ‘pháp luật Việt Nam quy định rằng mọi tổ chức chính trị xã hội đều phải đăng ký, xin phép Nhà nước, kể cả các tôn giáo’. Có lẽ tác giả nên nhắc nhở điều này đối với đảng CS của tác giả trước. Đảng này chủ trương xây dựng một nhà nước pháp quyền nhưng đã và đang hoạt động theo mặc định như thời chiến tranh, chẳng theo khuôn khổ pháp lí nào cả và do đó cũng không có việc đăng kí. Thật ra, theo nghiên cứu của luật sư Trần Vũ Hải thì không có luật pháp hiện hành nào của VN có quy định việc thành lập đảng chính trị phải được sự cho phép hay công nhận từ nhà nước. Hơn nữa, qua bài ông Đằng cũng không có ý nào là không tuân thủ các quy định, luật lệ đang có của chế độ.
Thứ ba, để bác bỏ lời phê phán ông Đằng về thái độ của đảng CS và Chính phủ trong vấn đề biển Đông, tác giả lập luận ‘phải hiểu được Việt Nam cần có một chiến lược thông minh, kết hợp sức mạnh “cứng” với sức mạnh “mềm” mới có thể bảo vệ được lãnh hải của mình. Chẳng lẽ Việt Nam mua tàu ngầm Kilo, máy bay SU 30, tên lửa S.300 là trò chơi ảo trên mạng!’ Sức mạnh ‘cứng’, sức mạnh mềm là gì trong khi TQ bắt bớ, đánh đập ngư dân ta đánh cá ngay trong vùng biển truyền thống, đơn phương cấm bắt đánh bắt cá trong vùng biển thuộc chủ quyền VN, chiếm đóng, xây dựng phi pháp trên đảo của VN… mà chính phủ vẫn làm ngơ hay chỉ phản đối chiếu lệ, còn khi dân chúng thể hiện lòng yêu nước qua việc biểu tình ôn hoà lại bị đàn áp không thương tiếc. Đó có phải là ‘hèn với giặc, ác với dân’ không? Tàu ngầm, máy bay, tên lửa sẽ chẳng là gì khi nhân dân không đồng lòng cùng chính quyền chống giặc như lịch sử cho thấy, chưa kể việc mua sắm các trang bị này có thể chỉ là cách hợp pháp để cho các tay to, mặt lớn của đảng có dịp ‘phết phẩy’ kinh phí quốc phòng vào túi riêng.
Thứ tư, trong nội dung chính cuối cùng tác giả tóm tắt phần cuối bài viết của ông Đằng ‘trong đoạn này, LHĐ kể về “bản lĩnh” của bản thân và những sai lầm khuyết điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều giai đoạn đã qua. Đồng thời chép lại những “khuôn mẫu” của thể chế “đa nguyên”, “tam quyền phân lập” đầy rẫy trên mạng ai cũng biết.’ Đây là một tóm tắt khá mập mờ, nhất là cách dùng từ ‘đồng thời’ khiến người đọc có thể hiểu tác giả ngầm chấp nhận những điều mà ông Đằng viết trong đoạn này, kể cả những sai lầm, khuyết điểm của đảng CSVN! Sau đó, tác giả dẫn “Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư Toán học Ngô Bảo Châu)…” và phán ‘[đ]áng tiếc LHĐ lại nhận thức về tự do của thời kỳ tiền sử – xin lỗi có thể nhận định này hơi quá đáng! Đặc trưng của con người, của loài người không chỉ ở, không chủ yếu ở cái gọi là “tự do” như LHĐ nói mà chính là ở ý thức về mối quan hệ cá nhân với tổ chức xã hội, với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng của mình.’ Đọc kĩ phần trích dẫn và đọc suốt đoạn này cũng như cả bài của ông Đằng, khó ai có thể hiểu được tác giả lấy từ chi tiết nào để phán ‘LHĐ lại nhận thức về tự do của thời kỳ tiền sử‘ hoặc ông Đằng không ý thức ‘về mối quan hệ cá nhân với tổ chức xã hội, với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng của mình’. Rõ ràng tác giả chỉ nói lấy được mà thôi.
Phải nói đây là một bài phản biện hết sức ‘củ chuối’ về nội dung. Về mặt hình thức, bài viết cũng không khá gì hơn. Tác giả và ban biên tập tập báo để những lỗi hết sức ngớ ngẩn và sơ đẳng về chính tả, dùng từ… chẳng hạn để/ không để dấu câu đúng chỗ, dùng từ ngọng ‘tựu chung’ thay vì từ đúng ‘tựu trung’, thậm chí lại dùng cả từ tiếng Anh từ ‘Mr’ thay vì ‘ông’ trong bài báo tiếng Việt này…
Có lẽ trước thực tế ‘bầy hầy‘ của chế độ hiện tại khó ai có thể đưa ra một phản biện logic, thuyết phục ngoài việc nguỵ biện hoặc nói lấy được nên các giáo sư, tiến sĩ lí luận của đảng dù ăn bổng lộc bao năm nay đã không dám mở miệng phản bác vì sợ ô danh hay lo có hệ luỵ tương lai. Vì thế, các báo lớn không có cách nào khác hơn là tìm những kẻ vô danh, tiểu tốt, ‘chịu đấm ăn xôi’, chẳng biết ‘trời cao đất dày’ là gì để làm chuyện phản biện ‘chữa cháy’ vượt quá khả năng của họ.
H.P.
(* Những chỗ nhấn mạnh trong cách trích dẫn là do người viết thêm vào)

Phản hồi bài viết “Nhiều sai lầm, lệch lạc trong bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằng” của Linh Nghĩa, trên báo Công an nhân dân

Nguyễn Thành An
Đã lâu tôi không viết bài, phần vì bận việc, phần vì thấy quá nhỏ bé trước các cao nhân như Hoàng Xuân Phú, Nguyễn Quang A, Hoàng Tụy, Huy Đức, Đoan Trang, Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Hiếu Đằng… Tuy nhiên, sau khi đọc bài viết của Ông/bà Linh Nghĩa, tôi muốn được giải nghĩa tư tưởng của Ông Lê Hiếu Đằng, theo cách hiểu của tôi (cũng xin thưa rằng: tôi là một người được đào tạo tại một trường đại học của Bắc âu). 
Linh Nghĩa: “Ông (LHĐ) hỏi: “Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra khỏi nhà tù để đi thi như chúng tôi hay không?”. Có lẽ vì đang “nằm bịnh”, nên Mr LHĐ đã lẩm cẩm nêu câu hỏi này. Thật đáng tiếc một người Cộng sản trên 40 năm tuổi Đảng lại chỉ biết nhìn nhận một chế độ qua lăng kính cá nhân và qua một sự việc mang tính ngẫu nhiên.”
Tôi cũng thấy đáng tiếc cho ông LHĐ và nhiều người khác đã ngộ nhận để rồi góp phần vào việc dẫn dắt đất nước đi đến tình cảnh quá nhiều đau khổ như hiện nay. Nhưng chỉ với bản chất thật sự của một con người, dám suy nghĩ, và có trách nhiệm với lương tri, đồng loại, ông LHĐ mới có được sự thay đổi như hiện nay. Với người trẻ như tôi, ông LHĐ là biểu tượng của nhân cách và lòng quả cảm, kiên cường!
Tôi đã từng thắp hương cho các cô gái Ngã ba Đồng Lộc, khấn rằng: “sự hy sinh của các cô là lãng nhách, vô nghĩa. Nếu có linh thiêng, các cô hãy làm gì đó để cứu vớt dân lành, những người mà sau cái gọi là độc lập, họ không có được tự do và cuộc sống ít đau khổ hơn thời thực dân, phong kiến…Còn tôi, tôi không xin các cô gì cả!”
Chế độ nào, nếu tốt đẹp, cũng cần phải hướng tới thỏa mãn nhu cầu các cá nhân trong xã hội (nếu các nhu cầu đó là chính đáng). Nếu ông đã từng du lịch Châu âu, Úc, hoặc Mỹ… sẽ thấy các công viên, nơi vui chơi công cộng (miễn phí) được giữ gìn rất sạch đẹp. Điều này có được là vì, chính phủ các nước này đã khích lệ & bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân – từ đó họ có trách nhiệm hơn trong bảo vệ tài sản công, thay vì khích lệ “mỗi người vì mọi người, làm chủ tập thể” như Việt Nam, để rồi mọi nơi đều bị tàn phá, như ông bắt gặp hàng ngày ở Việt Nam!
Một nhà báo, với một sự kiện được “ra tù” đi thi tú tài như ông LHĐ, đặc biệt lại là đối tượng chống Chính phủ VNCH, mà kết luận là “ngẫu nhiên”, thì tôi không hiểu ông/bà Linh Nghĩa nghĩ gì mà kết luận như thế? Nếu tôi là thầy giáo, bài viết của ông chỉ đáng trình độ học sinh lớp 5 (nhầm lớp).
Linh Nghĩa: “Về lý luận, căn cứ khoa học của ông  LHĐ là: “đã đa nguyên kinh tế thì tất là phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Như có người đã phê phán – đó là một kiểu logic hình thức thô thiển. Xin hỏi ông LHĐ: Vì sao dưới chế độ kinh tế “đa nguyên” thời Mỹ và tay sai ở miền Nam, người ta đã ra Đạo luật 10/59, “bắn bỏ tất cả bọn Cộng sản”, không cần xét xử? 
Dưới chế độ MNCH, Đạo luật 10/59 chỉ nhắm vào kẻ thù của họ–đó là những người cộng sản. Còn dưới chế độ cộng sản, hàng loạt đạo luật còn nhắm vào việc tiêu diệt dân lành (ví dụ tiêu diệt địa chủ thời cải cách RĐ, cướp đất của dân trong suốt 2 thập kỷ qua…), thậm trí vào chính đồng đội hoặc những người đã hậu thuẫn cho cộng sản (ví dụ: bà Nguyễn Thị Năm). Nếu cộng sản tốt như ông nghĩ, ông/bà Linh Nghĩa hãy đi hỏi dân Nam Bộ. Có người nói rằng “xưa nó (cộng sản) trốn trong đống rơm mà lính cộng hòa vào hỏi tao không khai, giờ nó trốn trong ống tre tao cũng trẻ tre bắt nó nộp cho chính phủ cộng hòa!”
Nói về độ tàn nhẫn, hiếu chiến thì thế giới đều thua cộng sản. Ông có nhớ ai nói: “thà đốt cả rãy Trường Sơn, hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng” thì chúng tôi vẫn đánh Mỹ? Mỗi khi nhắc lại câu này, nhiều người bạn Châu âu đều lắc đầu, ngán ngẩm cho tư tưởng hiếu chiến ấy.
Ông/bà Linh Nghĩa nghĩ sao về tương lai con cái ông bà? Nếu thể chế cộng sản hiện tại vẫn duy trì trên đất nước này? Đời ông/bà có thể tránh được tai ương, vì chấp nhận “bưng/bê” cho những người cộng sản. Liệu con cháu ông bà, nếu chúng khí phách hơn ông/bà (ví dụ: Tiến Trung, Phương Uyên, Nguyên Kha…), rồi có bị tù đầy? (như CHHV, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung)…hoặc rơi vào oan khuất thấu trời như anh em Đoàn Văn Vươn, người dân Văn Giang… không?
Linh Nghĩa: “Nhân đây xin nhắc LHĐ pháp luật Việt Nam quy định rằng mọi tổ chức chính trị xã hội đều phải đăng ký, xin phép Nhà nước, kể cả các tôn giáo.”
Đây là nhận định bậy bạ. Nó không chỉ cho thấy đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức độc tài, mà còn cho thấy sự thiếu hiểu biết của ông/bà Linh Nghĩa – mang danh nhà báo mà không hiểu nội dung Hiến pháp Việt Nam. Mời ông xem bài “LS Trần Vũ Hải gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bản Dự thảo Ý kiến về Thành lập và Tham gia đảng phái” để học hỏi thêm.
Linh Nghĩa: “…Song đáng tiếc đã từng là người lãnh đạo, lẽ ra LHĐ phải thấy được những chuyện phức tạp trong vấn đề Biển Đông, phải hiểu được Việt Nam cần có một chiến lược thông minh, kết hợp sức mạnh “cứng” với sức mạnh “mềm” mới có thể bảo vệ được lãnh hải của mình. Chẳng lẽ Việt Nam mua tàu ngầm Kilo, máy bay SU 30, tên lửa S.300 là trò chơi ảo trên mạng!”
Thôi đi ông/bà Linh Nghĩa, ông/bà đã không hiểu rằng chiến thắng & kết thúc chiến tranh không phải là do vũ khí tối tân quyết định (bằng chứng là cuộc chiến GP MNVN mới đây), mà chính xác là tinh thần của người lính và lòng quả cảm của nhân dân. Đừng liệt kê mấy cái tàu bay với tên lửa (đi mua) để biện minh cho hành động hèn nhát của đảng cộng sản và chính phủ Việt Nam. Không biết trong cuộc sống ông/bà Linh Nghĩa đã từng “mua chức, mua quyền gì chưa”, nhưng không lẽ ông bà không nghe, hoặc không thấy rằng, cấp tướng/tá trong quân đội, công an hiện tại hầu hết (nếu như không phải là tất cả) đều được mua bằng tiền đó sao? (vậy nên đại tá Ca Hải Phòng mới đây cũng được phong tướng!). Trong tình trạng mua bán sao, gạch như thế, ông nghĩ có cách nào Việt Nam có thể chiến thắng Trung Quốc nếu chiến tranh xảy ra? Đừng vịn vào những lý do ngớ ngẩn để biện minh cho các hành động hèn nhát, sự mục ruỗng trong ý chí của cá nhân ông, cũng như cái đảng mà ông đang tôn thờ!
Linh Nghĩa: “…Ai cũng biết ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đồng thời là quan điểm của Đảng ta, của Nhà nước ta. Có phải ông đang cố tình gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam?”
Một sự quy chụp kiểu con nít, thưa ông/bà nhà báo. Chúng ta cần những lãnh đạo có chính kiến, sáng tạo và bản lĩnh, chứ không cần ý kiến tập thể — cái mà đã đưa Việt Nam vào vòng luẩn quẩn, kiệt quệ về kinh tế, văn hóa…trong suốt mấy thập kỷ qua. Với vai trò là thủ tướng, nếu được bầu cử công khai và dân chủ, thì ý kiến của thủ tướng cũng có thể xem là đại diện cho toàn dân. Việc ông LHĐ ủng hộ quan điểm của ông NTD là bình thường (tôi cũng ủng hộ quan điểm này của ông NTD). Sao nhà báo Linh Nghĩa có thể xuyên tạc thành “gây chia rẽ đảng cộng sản VN”? Thời kỳ này chứ đâu phải những năm 1960s/1970s khi chắc ông/bà Linh Nghĩa mới sinh ra?
Linh Nghĩa: “…Đáng tiếc LHĐ lại nhận thức về tự do của thời kỳ tiền sử – xin lỗi có thể nhận định này hơi quá đáng! Đặc trưng của con người, của loài người không chỉ ở, không chủ yếu ở cái gọi là “tự do” như LHĐ nói mà chính là ở ý thức về mối quan hệ cá nhân với tổ chức xã hội, với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng của mình…”
Lại xuyên tạc (hoặc không đủ trình độ hiểu biết) nữa rồi ông/bà Linh Nghĩa ơi. “Tự do” trong suy nghĩ và mong muốn của ông LHĐ là tự do của tư tưởng văn minh, tiến bộ, nhân văn. Còn cái khái niệm “tự do” mà ông/bà Linh Nghĩa ngụy biện, là thứ tự do của “cướp, giết, hiếp, lại quả, lợi ích nhóm, mua quan, bán chức…” Mà mấy thứ tự do này, chưa xin thì đảng cộng sản cũng đã “thể chế hóa” đầy rẫy ngoài xã hội hiện nay rồi.
Linh Nghĩa: “…LHĐ đã tự phơi bày là người sa ngã về đạo đức – chính trị và những thiếu hụt về trí tuệ của mình.”
Không rõ ai mới là người thiếu hụt về trí tuệ. Với cá nhân tôi (nói lại với ông/bà Linh Nghĩa một lần nữa: được đào tạo bài bản ở một trường đại học Bắc âu), mượn lời nhà văn Dương Thu Hương thì nói rằng: “ông LHĐ là cây gỗ, bão gió có thể quật ngã ông ấy, nhưng ngược lại, ông ấy sẽ trở thành cây cổ thụ. Còn ông/bà Linh Nghĩa, nếu chấp nhận là thứ dây leo, thì mãi cuộc đời ông/bà chỉ là thứ dây leo mà thôi!”

1981. LS Trần Vũ Hải gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bản Dự thảo Ý kiến về Thành lập và Tham gia đảng phái

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—–*****—–

ĐỀ NGHỊ  CHO Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ

THÀNH LẬP VÀ THAM GIA MỘT ĐẢNG NGOÀI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Kính gửi:  Ủy ban thường vụ Quốc hội (Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng)
Tôi là Trần Vũ Hải, hành nghề luật sư tại 81 phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và 66 Huỳnh Khương Ninh, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh, xin gửi lời chào trân trọng đến Quý Vị và xin được trình bày như sau:
Gần đây, một số người kêu gọi thành lập một đảng mới lấy tên là Đảng Dân chủ Xã hội và cho rằng pháp luật Việt Nam không cấm công dân thành lập đảng. Một số người cho rằng không đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều công dân Việt Nam quan tâm đến vấn đề này đã hỏi chúng tôi về phương diện pháp lý.
Chúng tôi đã nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành và đã dự thảo Bản ý kiến gửi Quý Vị để tham khảo và cho ý kiến về vấn đề này.
Theo chúng tôi, vấn đề thành lập và tham gia một đảng ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam đang được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm, đã có nhiều người đề xuất, các cơ quan chức năng và các nhà luật học hàng đầu của Việt Nam cần có những quan điểm rõ ràng căn cứ vào pháp luật Việt Nam để khẳng định luật pháp Việt Nam có cấm công dân Việt Nam tham gia và thành lập đảng khác ĐCSVN, nếu không cấm việc thành lập sẽ diễn ra như thế nào để phù hợp pháp luật Việt Nam.
Chúng tôi tin tưởng rằng, Quý Vị sẽ có ý kiến chính thức về vấn đề quan trọng này và những ý kiến này cần được công bố trên các phương tiện truyền thông.
Trân trọng.
  
Công dân Trần Vũ Hải
 ——————–

BẢN Ý KIẾN

VỀ THÀNH LẬP VÀ THAM GIA ĐẢNG PHÁI DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

(Dự thảo)
 Hà Nội, ngày 22/8/2013
Từ sau 1975 đến 1988, tại Việt Nam có 03 chính đảng hoạt động hợp pháp là Đảng Cộng sản Việt Nam (trước đó là Đảng Lao động Việt Nam và tên gọi tại miền Nam là Đảng Nhân dân Cách mạng), Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã Hội Việt Nam hoạt động. Đến năm 1988, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tự giải tán. Từ đó đến nay, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), chưa có đảng nào được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Gần đây, một số người kêu gọi thành lập một đảng mới lấy tên là Đảng Dân chủ Xã hội và cho rằng pháp luật Việt Nam không cấm công dân thành lập đảng. Một số người cho rằng không đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài ĐCSVN.
Nhiều công dân Việt Nam quan tâm đến vấn đề này đã hỏi chúng tôi về phương diện pháp lý. Chúng tôi đã nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành, trong đó có những văn bản sau:
1.     Hiến pháp Việt Nam  năm 1992 (được sửa đổi 2001);
2.     Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005;
3.     Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 và các luật sửa đổi, bổ sung bộ luật này;
4.     Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1984);
5.     Luật về quyền lập hội 1957;
6.     Một số luật khác như: Luật Mặt trận Tổ quốc; Luật Công đoàn 2012; Luật Thanh niên; Pháp lệnh về Cựu chiến binh….;
7.     Nghị định 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 45/2010/NĐ-CP; các thông tư hướng dẫn các Nghị định này.
Trên cơ sở nghiên cứu những văn bản này, chúng tôi có những ý kiến như sau:
1.     Không có điều khoản nào trong Hiến pháp và các luật của Việt Nam cấm công dân Việt Nam thành lập và tham gia một chính đảng khác ngoài ĐCSVN.
2.   Tuy nhiên, Điều 79 Bộ luật Hình sự có quy định trừng phạt người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Như vậy, việc thành lập hoặc tham gia vào một đảng không nhằm lật đổ chính quyền nhân dân sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều luật này. Nói cách khác, hoạt động thành lập và tham gia vào một đảng không nhằm lật đổ chính quyền sẽ không được coi là bất hợp pháp.
3.   Về nguyên tắc đảng là một loại hội chính trị. Thành lập và tham gia một chính đảng là thực hiện quyền về lập hội, hội họp. Điều 69 Hiến pháp ghi nhận: Công dân có quyền ….hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Điều 22 Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 quy định: Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình.  
4.   Pháp luật nhiều nước phân biệt giữa đảng phái chính trị và hội. Bộ luật Dân sự Việt Nam (Điều 100) quy định có các loại pháp nhân như: (i) tổ chức chính trị; tổ chức chính trị – xã hội; (ii) tổ chức chính trị  xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; (iii) tổ chức khác. Không có quy định rõ trong Bộ luật Dân sự hội thuộc loại pháp nhân nào trong 03 loại pháp nhân trên.      
5.    Chúng tôi cho rằng một đảng phái hoặc  một liên minh chính trị là tổ chức chính trị theo cách hiểu của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, không có điều khoản nào của Hiến pháp, các Luật, Điều lệ ĐCSVN khẳng định ĐCSVN là một tổ chức chính trị. Điều 9 Hiến pháp quy định Mặt trận Tổ quốc là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu… Luật Mặt trận Tổ quốc cũng có quy định tương tự, nhưng không khẳng định Mặt trận tổ quốc là tổ chức chính trị (theo cách hiểu của Bộ luật Dân sự). Các tổ chức chính trị – xã hội ở Việt Nam gồm: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và các công đoàn (theo Luật Công đoàn), Đoàn Thanh niên cộng sản Việt Nam (theo Luật Thanh niên), Hội Cựu chiến binh Việt Nam (theo Pháp lệnh Cựu chiến binh),Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (theo Điều lệ của hội này), Hội Nông dân Việt Nam (theo Điều lệ của hội này).
6.     Có vẻ như tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội không được coi là hội theo pháp luật hiện hành của Việt Nam. Luật về Quyền  lập hội 1957 hiện đang còn hiệu lực (mặc dù một số điều khoản trong Luật này thực tế đã  không còn hiệu lực do không phù hợp với một số luật khác ban hành sau đó hoặc không phù hợp với thực tế hiện nay, nhưng Nghị định 45/2010/NĐ-CP vẫn căn cứ vào Luật này, tức Chính phủ vẫn coi Luật này còn hiệu lực). Điều 9 Luật về quyền lập hội quy định: Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này. Nghị định 45/2010/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 33/2012/NĐ-CP) quy định không áp dụng đối với các tổ chức chính trị – xã hội (nêu ở mục 5 trên), các tổ chức giáo hội. Không thấy Nghị định này quy định rõ loại trừ ĐCSVN và tổ chức chính trị ra khỏi đối tượng áp dụng. Nhưng Điều 2 định nghĩa hội như sau: Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Hiểu theo quy định này, đảng phái (tổ chức chính trị) không được coi là Hội. Như vậy, có thể cho rằng Luật về quyền lập hội, Nghị định 45/2010/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 33/2012/NĐ-CP) không áp dụng cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.
7.     Trong khi Công đoàn, Mặt trận có luật riêng, chưa thấy có luật nào về đảng, kể cả luật về ĐCSVN. Tuy nhiên, như phân tích ở trên, đảng là một tổ chức chính trị, một loại pháp nhân được quy định trong Bộ luật Dân sự. Do đó, những quy định về pháp nhân, tổ chức chính trị trong Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng nếu xem xét về thành lập, tham gia một đảng chính trị.
8. Pháp nhân theo Điều 84 Bộ luật Dân sự được quy định như sau:
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Thế nào là thành lập hợp pháp không được định nghĩa rõ trong Bộ luật Dân sự, tuy nhiên Điều 85 Bộ luật Dân sự quy định như sau: Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy có 02 loại pháp nhân được thành lập: (i) theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii) không có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức.
9.     Tổ chức chính trị theo Bộ luật Dân sự thuộc đối tượng nào trong 02 loại pháp nhân được thành lập nêu trên? (Đảng có phải xin phép thành lập từ Nhà nước hay không?)
Điều 88 khoản 1 Bộ luật Dân sự quy định : Trong trường hợp pháp luật quy định pháp nhân phải có điều lệ thì điều lệ của pháp nhân phải được các sáng lập viên hoặc đại hội thành viên thông qua; điều lệ của pháp nhân phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận trong trường hợp pháp luật có quy định.
Như phân tích ở trên, không có luật nào quy định về thành lập, tham gia tổ chức chính trị ngoài Bộ luật Dân sự. Do đó, đảng (tổ chức chính trị) có cần điều lệ hay không và điều lệ này phải được một cơ quan Nhà nước công nhận hay không sẽ căn cứ chính những điều khoản trong Bộ luật Dân sự.
Trong khi loại pháp nhân (ii) nêu trong mục 4 trên được quy định tại Điều 104 Bộ luật Dân sự (pháp nhân là tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp), theo đó pháp nhân loại này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, công nhận điều lệ, thì điều 102 Bộ luật Dân sự quy định về loại pháp nhân là tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội chỉ quy định phải có điều lệ, nhưng không quy định cơ quan nhà nước công nhận điều lệ và  cho phép thành lập đối với loại pháp nhân này. Như vậy, tổ chức chính trị (và tổ chức chính trị – xã hội) phải có điều lệ nhưng không cần cơ quan nhà nước nào công nhận điều lệ, cho phép thành lập. Thực tế, ĐCSVN đã hoạt động như vậy, điều lệ của Đảng này sửa đổi nhiều lần nhưng không cần cơ quan nhà nước nào công nhận việc sửa đổi vì không có điều khoản của văn bản pháp luật nào (kể cả Bộ luật Dân sự) quy định phải có thủ tục công nhận từ Nhà nước. Nói cách khác pháp luật Việt Nam (cụ thể là Bộ luật Dân sự) quy định: đảng phái (tổ chức chính trị) là loại pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của tổ chức cá nhân (không thuộc loại thành lập theo quyết định của cơ quan Nhà nước), không phải xin phép thành lập, điều lệ không cần Nhà nước công nhận nhưng phải được các sáng lập viên hoặc đại hội thành viên thông qua.
10.  Tóm lại, theo chúng tôi đảng phái (tổ chức chính trị) được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, và cần lưu ý những điểm chính sau:
a.     Có sáng kiến của những cá nhân (công dân Việt Nam) đề nghị thành lập đảng.
b.     Mục tiêu của đảng dự kiến thành lập không được nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
c.     Các sáng lập viên (những người sáng kiến) thông qua điều lệ đảng hoặc đại hội thành lập thông qua điều lệ đảng. Đảng phải có cơ quan điều hành (Ban chấp hành), người đại diện (người đứng đầu) và trụ sở (các điều 88,89, 90, 91 Bộ luật Dân sự).
d.     Việc thành lập đảng và điều lệ đảng không cần sự cho phép, công nhận từ Nhà nước.
11.   Tuy nhiên những ý kiến trên là những ý kiến cá nhân của chúng tôi, dựa trên nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành. Theo Điều 91 Hiến pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Do đó, chúng tôi đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghiên cứu bản ý kiến này của chúng tôi. Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không đồng ý với bản ý kiến này và có cách giải thích khác về Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và những luật liên quan khác về vấn đề này, chúng tôi đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố sớm ý kiến của mình.
Văn bản này cũng được gửi đến một số cơ quan liên quan và một số giáo sư, nhà khoa học luật hàng đầu Việt Nam (có danh sách kèm theo dưới đây) để  tham khảo, xin ý kiến.
Chúng tôi hi vọng rằng sẽ nhận được ý kiến của các cơ quan hữu quan, các nhà luật học. Sau 30 ngày kể từ ngày công bố bản ý kiến (dự thảo) này,  những ý kiến (nếu có) của các cơ quan hữu quan và các nhà luật học sẽ được chúng tôi công bố và tham khảo để đưa ra văn bản ý kiến cuối cùng của chúng tôi về vấn đề này.
Trân trọng.                               
                                                                      Ký tên


                                                                  Trần Vũ Hải
                          (Hành nghề luật sư tại 81 chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội)
Dự thảo Bản ý kiến này được gửi đến:
1. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng)
3. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chung Lưu
4. Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao (Ông Trương Hòa Bình)
5. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (Ông Nguyễn Hòa Bình)
6. Bộ Công an (Ông Trần Đại Quang)
7. Bộ Tư pháp (Ông Hà Hùng Cường)
8. Bộ Nội vụ (Ông Nguyễn Thái Bình)
9. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (Ông Phan Trung Lý)
10. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (Ông Nguyễn Văn Hiện)
11. Ông Nguyễn Như Phát – Viện trưởng ViệnNhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
12. Ông Nguyễn Đăng Dung – Giáo sư Luật Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
13. Ông Đào Trí Úc – Giáo sư Luật, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Bà Mai Hồng Quỳ – Giáo sư Luật – Hiệu trưởng trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
15. Ông Lê Hồng Hạnh – Giáo sư Luật, Hội luật gia Việt Nam

Cấm không được 'rờ' đến Thống đốc Bình!

QLB - Sự lũng đoạn thị trường Tài chính, tiền tệ, thị trường vàng của các bố già Đỏ - Đen chưa bao giờ trắng trợn như hiện nay. 

Hơn một năm qua, việc Thống đốc Nguyễn Văn Bình vẫn tiếp tục trung thành thực hiện kế hoạch 1 tỷ đô la lợi nhuận từ độc quyền vàng của bố già Kiên dù cho bố già Kiên đã bị bắt hơn 1 năm! Nồng độ thao túng thị trường vàng ngày càng lộ liễu. Lấy lý do 'ổn định' và 'quản lý' Thống đốc Bình đã gây hỗn loạn thị trường vàng cả nước để biến thương hiệu SJC của bố già Đỗ Minh Phú và Lê Hùng Dũng thành thương hiệu độc quyền quốc gia để từ đó Thống đốc Bình ngồi thu tô từ các nhãn hiệu vàng khác!

Chưa  hết, mới đây nhất Chính Phủ lại ban hành văn bản 'Miễn kiểm tra vàng nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước'!!! Đằng sau văn bản này là thông điệp gì nếu không phải sự bao che trắng trợn cho tham nhũng, cho lũng đoạn của Đảng X đối với nền kinh tế Việt Nam mà trong đó vàng đang là một thị trường béo bở ở những Quốc gia như Việt Nam có thói quen tích trữ vàng từ hàng ngàn năm?
Sự ra đời của một văn bản phạm luật này còn là thông điệp muốn truyền tải cho toàn thể nhân dân Việt Nam rằng: Cấm không được 'rờ' đến thống đốc Nguyễn Văn Bình! Dù cho 'đứng nhất' lộn ngược, xem ra Thống đốc mật vụ vẫn còn 'có giá' với Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng! Phải chăng đúng như Thống đốc Bình chia xẻ "Em chỉ là ngừoi lính" nên bảo vệ Bình nhưng chính là để bảo vệ cha con nhà mình?

Dù là gì thì ai cũng thấy: Đảng X thực sự độc tôn và đang làm mưa, làm gió tại chính trường Việt Nam mà đến cả Đảng cộng sản Việt Nam cũng phải 'bó tay chấm com' như dân Hà Nội thì thầm vào tai nhau.... 

Miễn kiểm tra vàng nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước

Vàng do Ngân hàng Nhà nước nhập khẩu để phục vụ điều tiết, ổn định thị trường trong nước sẽ được miễn kiểm tra chi tiết hồ sơ hải quan, miễn kiểm tra thực tế.

Nội dung trên vừa được Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh thay mặt Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ: Tài chính, Công an và Ngân hàng Nhà nước thực hiện.

Việc miễn kiểm tra được thực hiện trong thời gian nhất định; lô vàng nhập khẩu được đưa về kho của đơn vị do Ngân hàng Nhà nước ủy nhiệm nhận hàng với điều kiện được niêm phong cho đến khi hoàn thành thủ tục hải quan theo quy định.

Việc tổ chức bốc dỡ được giao cho Ngân hàng Nhà nước phối hợp với cơ quan chức năng và doanh nghiệp liên quan thực hiện theo quy định, đảm bảo an toàn tài sản.

Ngày 22-5-2013, Ngân hàng Nhà nước có công văn kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho miễn kiểm tra, miễn khai báo thủ tục hải quan đối với vàng nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước.

Theo Ngân hàng Nhà nước, khi tiếp nhận từng chuyến hàng (vàng nhập khẩu) cơ quan này sẽ có văn bản ủy nhiệm cho đơn vị nhận hàng và chịu trách nhiệm về tính chất từng chuyến hàng.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước đề nghị bổ sung mặt hàng vàng nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước vào danh mục hàng hóa đặc biệt được áp dụng quy chế miễn khai báo, miễn kiểm tra và miễn báo cáo thủ tục hải quan (cùng danh mục hàng hóa phục vụ an ninh, quốc phòng) vào Luật Hải quan sửa đổi.

Về tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ, vận chuyển và bảo vệ các chuyến hàng đảm bảo an toàn, bí mật, Ngân hàng Nhà nước đề xuất phương án, các bộ: Công an, Giao thông vận tải, Tài chính và Tổng cục Hải quan, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Nhà nước thực hiện.

Lí giải về đề xuất trên, Ngân hàng Nhà nước cho rằng, điều này sẽ giúp bảo mật thông tin về vàng nhập khẩu, lịch trình, thời gian vận chuyển, nâng cao độ an toàn trong quá trình vận chuyển…

Mặt khác, từ trước đến nay, hàng hóa đặc biệt như tiền, vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ in, đúc tiền của Ngân hàng Nhà nước đã được Thủ tướng chấp thuận không phải thực hiện thủ tục khai báo hải quan.

Theo Ngân hàng Nhà nước, hiện nay thủ tục khai báo và kiểm tra hải quan đối với vàng nhập khẩu đang được thực hiện như hàng hóa nhập khẩu thông thường đang gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục nhập khẩu đối với mặt hàng vàng.

Theo T.Bình - Báo Hải quan

Về tham nhũng và lạm quyền (hết)

Quan chức nhận hối lộ

Ông F., 54 tuổi, họa sĩ, Thiên Tân: “Tất cả mọi người đều biết rằng người Trung Quốc chúng tôi rất thích ăn uống. Càng đắt tiền và sang trọng thì càng tốt. Đặc biệt là giới quan chức, những người lúc trả tiền chỉ cần ký tên vì họ ăn uống bằng tiền nhà nước. Cũng vì vậy mà tất cả mọi người đều muốn trở thành quan chức, vì có nhiều lợi điểm hứa hẹn. Họ nhận được nhà giá rẻ, ăn uống thượng hạng và ngoài ra còn có nhiều tiền hối lộ nữa. Vào thời hoàng đế đã thế rồi. Nếu một thành viên gia đình nhận được một chức vụ thì cả gia tộc được hồi phục. Ngày nay, con số quan chức ngày một lớn hơn.”
Trong cùng quy mô mà những cuộc phản đối chống cán bộ Đảng tham nhũng tăng lên, niềm tin tưởng của người dân vào Đảng Cộng sản và khả năng khống chế tham nhũng đang tràn lan của họ cũng giảm xuống. “Người ta không thể phủ nhận hoàn toàn, rằng họ cũng có cố gắng để xóa bỏ những tình trạng bất cập. Nhưng họ không động đến cội rễ của vấn đề nên họ cũng không thành công cho lắm trong những cố gắng giải quyết của họ”, ông S., giám đốc ở Tam Á, nói.
Bực tức và thịnh nộ về những sự bất công bằng, lạm quyền và tham nhũng xì hơi ra hàng ngày trong các diễn đàn trên Internet. Không ai tỏ ra mình lạc quan, còn hơn thế, nhiều người bình luận còn phỏng đoán rằng phần lớn các thế lực trong Đảng còn không muốn ngăn chận tham nhũng nữa. Vì qua đó, các quan chức nhà nước hưởng lợi vượt trội từ tăng trưởng kinh tế. Có những nhà kinh tế học tin rằng chính tham nhũng đã mở đường cho nền kinh tế thị trường. Khẩu hiệu của Đặng Tiểu Bình “Hãy để cho một vài người giàu lên trước đã” phải được diễn giải hoàn toàn khác đi trong mối liên quan này: nhiều phần của giới tinh hoa chính trị và quan liêu, những người thấy rằng cải cách đã cướp đi các lợi thế của họ, chỉ không phản kháng nữa khi họ nhận ra rằng họ và gia đình họ thật ra là những người thắng cuộc.
“Tham nhũng vượt lên trên mọi sự tưởng tượng”, một nhân viên nhà nước đã về hưu ở Bắc Kinh nói. Nguười ta hầu như không dám tin vào các con số nữa: chín mươi phần trăm các cơ quan địa phương được cho là đã bị nhiễm tham nhũng.
Các hình thức hối lộ rất đa dạng và không có một giới hạn nào cho những ý tưởng cả:. Mua giàn máy công nghiệp với giá đắt và đút túi khoảng chênh lệch, những cái cũng có thể là phân  nửa của tổng số tiền, chỉ là một khả năng.
Ví dụ điển hình cho tham nhũng là đầu cơ đất. Đất đai thuộc nhà nước hay làng ở nông thôn. Các quan chức quyết định ai được phép sử dụng nó. Họ bán quyền sử dụng lại cho các nhà đầu tư, và ai trong đất nước này cũng đều biết rằng họ thu được rất nhiều tiền trong lúc đó. Khéo léo nhất là khi viên quan chức đó bán tống bán tháo những quyền sử dụng đó với giá rẻ cho công ty của một người họ hàng, người vay tiền ngân hàng để mua và sau này bán lại quyền sử dụng với giá cao gấp nhiều lần. Trước kia, người ta còn có thể cho rằng quyền sử dụng một miếng đất sẽ đổi chủ nhiều lần trước đi bắt đầu được xây dựng, và tất nhiên là tất cả đều kiếm được tiền từ việc đó, cả các quan chức lẫn công chứng viên, những người phải xác nhận các giấy phép và văn kiện tại mỗi lần đổi chủ. Áp dụng hình thức đấu giá có nhiệm vụ cần phải ngăn chận tham nhũng trong lúc bán quyền sử dụng đất, điều không phải lúc nào cũng thành công, Những người cùng đấu giá bị bắt buộc phải rút lui, phần vì bị đe dọa, phần bị người khác ra giá cao hơn. Tư nhân không thắng được các công ty nhà nước, khi các công ty này quan tâm tới cùng mảnh đất. Vì các công ty nhà nước có thể vay tiền tốt hơn nên họ có thể đưa ra những giá cao hơn là các doanh nghiệp tư nhân. Việc thường hay xảy ra là sau khi đấu giá công khai, kế hoạch xây dựng chính thức được thay đổi đi. Nếu như trước đây chỉ cho phép xây bốn đến năm tầng thì nhờ hối lộ mà thành hình một ngôi nhà cao mười lăm tới hai mươi tầng.
Thời vàng song là lúc các nhà máy quốc doanh được tư hữu hóa. Việc này diễn ra không có giới công chúng nên trong lúc biến đổi đã có những cơ hội tốt nhất cho tham nhũng. Cán bộ trước đây trở thành giám đốc hay trở thành lực lượng lãnh đạo của các nhà máy tư nhân mới. Thỉnh thoảng, đó là người họ hàng hay người tin cẩn của các quan chức chính phủ, những người được người ta bán rẻ cho các nhà máy đó hay còn chuyển giao không mất tiền cho họ nữa.
Khi nhà nước đặt hàng, các cán bộ quyết định cộng tác chung với những nhà máy nào. Khi các giám đốc và đại diện cơ quan nhà nước thống nhất, cả hai bên đều hưởng lợi. Cán bộ trong các cơ quan nhà nước địa phương thông thường làm việc chung rất tốt với các doanh nghiệp tư nhân. Khó có thể chứng minh là họ có điều gì đó bất thường. Có lợi nhuận nhiều là các dự án hạ tầng. Người ta biết đến nhiều trường hợp mà con cái của các quan chức tỉnh trở thành triệu phú nhân dân tệ chỉ trong vòng có vài năm. Nhà nước trả tiền xây đường cao tốc ví dụ như 120 triệu nhân dân tệ cho mỗi một kilômét, phí tổn thật chỉ nằm ở khoảng 70 triệu. 50 triệu đi vào túi của những người nào đó.
Một di sản từ thời xưa là việc mua chức tước. Vào thời nay, nó còn phổ biến rộng rãi hơn nữa. Nó liên tục từ ở trên xuống phía dưới và có trong tất cả các lĩnh vực, kể cả tư pháp, cảnh sát và công tố. Ví dụ như một thị trưởng sẽ giao quyền lãnh đạo các cơ quan dưới quyền ông cho những người tin cậy khi nhận được những khoảng tiền tương ứng. Những người này lại bán các vị trí của bậc dưới. Người ta cho rằng phải tốn ít nhất là 30 triệu nhân dân tệ cho vị trí thị trưởng của một thành phố nổi tiếng ở miền Nam Trung Quốc. Người này không tự có số tiền đó, ông để cho các doanh nhân tài trợ, những người rồi sau này sẽ nhận được nhiều ưu đãi từ phía ông ấy,
Cộng đồng Internet lưu tâm thường thích thú loan báo, các quan chức tham nhũng có bao nhiêu người đàn bà quanh mình. Người ta cho rằng thị trưởng của một thành phố nổ tiếng trong Tứ Xuyên có nhiều vợ bé trong độ tuổi từ mười sáu cho tới hai mươi. Bí thư của một quận trong Phúc Kiến tổ chức tiệc tùng với hai mươi hai tình nhân của ông ấy mà trong lúc đó, người đẹp nhất được chọn ra và được thưởng 300.000 nhân dân tệ.

Những biện pháp đối phó

Lời yêu cầu xuất phát từ giới chính phủ cao cấp nhất, rằng thu nhập hàng năm và tiền tiết kiệm của tất cả các lãnh tụ Đảng và quan chức phải được công khai hóa, vì có thể cho rằng trên chín mươi phần trăm cán bộ có nhiều tiền hơn là họ có thể có với tiền lương của họ. Cho tới nay, lời yêu cầu này luôn bị từ chối.
Có những quan chức nào đó phòng xa gửi người thân của họ ra nước ngoài, để có thể nhanh chóng đào thoát khi có nguy hiểm bị phát hiện phạm tội. Vì vậy mà Đảng và Hội đồng Nhà nước đã đưa ra một quy định mới trong tháng 7 năm 2010 mà theo đó phải kiểm tra các thành viên của Đảng và chính phủ có vợ cơn đã di cư khi họ nộp đơn xin hộ chiếu ra nước ngoài. Trong tương lai, trước đi thăng chức, người ta sẽ muốn kiểm tra xem liệu người thân của ứng viên đó đã di cư ra nước ngoài hay chưa. Khi người thân sống trong những nước mà nhân viên nhà nước có liên quan tới trong lúc làm việc thì người này phải báo cáo điều đó cho cấp trên của mình,
Trung ương Đảng nhìn những quy định mới như là một biện pháp quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Liệu nó có tác dụng hay không thì còn phải chờ xem.
Tình hình nghiêm trọng cho tới đâu, điều này được Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào nói rõ thêm lần nữa trong tháng Giêng năm 2011, khi ông yêu cầu có những bước đi kiên định để ngăn chận tham nhũng trong một cuộc họp của Ủy ban Nội chính Trung ương.

Sự thông đồng nguy hiểm của quan liêu, tư bản và tội phạm có tổ chức

“Quan chức tham nhũng, doanh nhân vô lương tâm và băng đảng tội phạm – ba thế lực này ngày nay cộng tác mật thiết với nhau. Trong thời gian này, đó là cái nguy hiểm nhất trong xã hội của chúng tôi.” Ông J., 90 tuổi, cựu bộ trưởng ở Bắc Kinh, nhớ lại: “Tham nhũng và kinh tế cấu kết bắt đầu nghiêm trọng vào đầu những năm 1990. Đảng Cộng sản đã bỏ lỡ việc tiến hành những biện pháp để chống lại. Vì vậy mà nó có thể lan rộng ra với một vận tốc mà ngày nay không còn có thể kìm hãm được nó nữa. Các lãnh đạo Đảng của ngày hôm nay không tồi. Họ có ngăn chận cái đang diễn ra, nhưng điều đó là khó khăn. Giống như đó là một khối u ung thư đang lan ra trong cơ thể. Nếu như  người ta không nhận nó ra kịp lúc và cắt bỏ nó đi thì rồi nó dần dần chiếm hữu cả cơ thể và mang lại cái chết. Ngày nay chúng tôi trong Trung Quốc cần một người can đảm nắm lấy những mâu thuẫn và vấn đề đó và giải quyết chúng với một bàn tay kiên quyết. Trong số các lãnh tụ Đảng của ngày hôm nay, hầu như không có ai dám phê phán công việc của những người khác. Chỉ  khen ngợi hay im lặng. Qua đó, họ làm cho tình hình càng tồi tệ thêm. Cho tới nay chỉ có một người chống lại: Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh.”
Bạc Hy Lai, bí thư của thành phố Trùng Khánh trực thuộc trung ương đã khởi đầu cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tội phạm có tổ chức trong thành phố của ông. Bạc Hy Lai không phải là một người nào đó, mà là cựu bộ trưởng Bộ Thương mại và ngoài ra còn là con trai của Bạc Nhất Ba (1908 – 2007), người thuộc trong số các chính trị gia hàng đầu của Trung Quốc. Năm 2009, ông cho bắt hàng trăm người, bị buộc đã phạm những tội như bài bạc bất hợp pháp, mãi dâm và buôn ma túy. Trong số những người bị bắt, bên cạnh thành viên của các băng nhóm giống như mafia còn có nhiều nhân viên của các cơ quan cảnh sát, những người cũng tham gia cật lực vào trong những vụ kinh doanh đen này, trong số đó là nguyên phó sếp cảnh sát. Nhiều án tù nhiều năm và án tử hình được tuyên bố. Sau đó, một làn sóng run sợ lan qua tất cả các tỉnh, liệu ví dụ nghiêm khắc của Bạc Hy Lai bây giờ có trở thành gương mẫu để noi theo hay không. Hiện giờ thì sự lo âu đó đã lắng xuống một chút. Thay vì vậy, người ta nói xấu Bạc rằng với việc làm đó, ông chỉ muốn khoa trương bản thân cho những chức vụ nhà nước cao hơn mà thôi. Thế nào đi nữa thì bây giờ ông cũng có nhiều kẻ thù.

Không phải ai cũng tham nhũng

Ông W., 49 tuổi, doanh nhân từ Hongkong: “Chống lại tham nhũng không khó. Người ta phải tự mình bắt đầu và đừng luôn luôn yêu cầu những người khác.”
Từ ba năm nay, người đàn ông này lãnh đạo chi nhánh của một tập đoàn lớn ở Hongkong trong tỉnh Giang Tô. “Tôi chưa từng nhận tiền hối lộ bao giờ, lúc nào cũng từ chối dứt khoát, ngay cả khi người ta muốn thuyết phục tôi rằng điều đó ở đây là thông thường.  Ở Hongkong, trong những năm 1970 có một chiến dịch chống tham nhũng có quy mô rộng lớn và rất có tác động. Tôi nghĩ một điều tương tự như vậy cũng là cần thiết ở đây. Thế nào đi chăng nữa thì tôi cũng không nhận thứ gì cả và tôi cũng không đưa cho gì cả. Cách ứng xử này là nguyên tắc trong xí nghiệp của chúng tôi, và xem đấy, cũng có thể hoạt động được mà không cần như vậy. Kinh nghiệm đã cho thấy như thế. Tôi còn muốn khẳng định rằng các đối tác kinh doanh của tôi đánh giá rất cao cách ứng xử này ở tôi và vì vậy mà trung thành với tôi.
Yu-Chien Kuan (Quan Ngu Khiêm)
Phan Ba dịch

Cuộc chiến không cần súng đạn

Nhóm Hành Khất (Danlambao) - Trong giai đoạn tàn khốc của cuộc Chiến tranh Việt Nam đối với những binh lính Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ có thể xem là khoảng thời gian 1956-1970. Những người lính sống sót được trở về quê hương và cuộc chiến đó xem như đã chấm dứt đối với họ. Nhưng không hẳn đã là kết thúc như họ tưởng vì họ còn một cuộc chiến khác. Một cuộc chiến không cần súng đạn, một cuộc chiến đấu với chính mình, với những ảo ảnh rùng rợn trên chiến trường thực sự ngày nào luôn bám theo, hoặc với nổi sợ hãi của lương tâm kéo dài mãi đến cuối đời.
Trong bản tiếng Việt "Một đêm Khủng khiếp ở xã Thanh Phong" ("One Awful Night in Thanh Phong") của tác giả Gregory L. Vistica vào ngày 25 tháng Tư năm 2001, trên trang mạng New York Times, mô tả khá tỉ mỉ về những sự việc đã xảy ra ở xã Thanh Phong qua những người lính Mỹ từng can dự vào biến cố đó, qua một phụ nữ nhân chứng Việt Nam, và qua những tài liệu trong Văn khố Quốc gia và kho lưu trữ tài liệu của Học viện Hải quân. Tác giả cũng đã mất khoảng 3 năm trong việc tìm hiểu, tra cứu, phỏng vấn, và ngay cả tham khảo ý kiến từ một số trí thức bên ngoài về những lời nhận định, suy xét trên khía cạnh quy tắc của cuộc chiến tranh, trên pháp luật qua mệnh lệnh của người chỉ huy, và trên tâm lý của những người lính trước tình cảnh sống chết.
Mặc dù có rất nhiều mâu thuẫn, thiếu rõ ràng trong những lời tường thuật từ những người lính từng can dự - có thể vì hoàn cảnh hiện trường là ban đêm, vì ký ức kém, hoặc vì chính họ muốn quên đi những điều không hay khiến cho thời gian càng làm xáo trộn thêm ký ức của họ - những hình ảnh cũng đã được khơi dậy một phần nào đó. Tuy chưa hẳn là chính xác. Sự kiện ở xã Thanh Phong gần như là tiêu biểu trước những sự kiện xảy ra tiếp theo sau này. Nó dường như thể hiện những đặc điểm chung đối với những biến cố đi sau mặc dù hoàn cảnh, tình huống có khác nhau đi mấy.
A. Một cái nhìn tổng quát về những Chiến binh Hoa Kỳ:
Những chiến binh Hoa Kỳ, họ là những người lính từ một nước rất xa xôi đối với Việt Nam, với nền văn hóa rất khác biệt, hầu như cảm thấy lạc lõng trong ngôn ngữ bày tỏ và không nhận thức được điều gì mà những người bản địa muốn nói đến. Và hơn thế nữa, họ chính là những mục tiêu của hận thù mà không cách nào thương lượng qua tư tưởng, dù mục đích của họ hoàn toàn tốt đẹp và có ý thân thiện hơn là sự phân chia thù hận. Vì thật ra, họ chẳng có gì phải thù hận người dân Việt Nam mà họ chưa từng biết - đôi khi ngay cả vùng địa lý Việt Nam nằm trên bản đồ thế giới nhưng một số người không nhỏ cũng chưa từng để mắt đến - ngoài cái tên địa điểm, nơi mà họ phải đến theo chuyến quân vụ định kỳ. Họ chỉ chiến đấu chống loại người Cộng sản ở Việt Nam mà qua đó được gọi chung trong ngôn ngữ ngắn gọn là Việt Cộng hay VC, theo mệnh lệnh của người cầm đầu đất nước họ mà đa phần trong số họ dường như không bao giờ xem cuộc Chiến tranh Việt Nam là một lý tưởng nào đó, một cuộc chiến có ý nghĩa nào đó, hoặc thậm chí nó có hay không một mục đích nào đó trên bàn cờ thế giới. Đối với họ, tất cả những thứ đó quá mơ hồ, xa vời, họ chỉ thi hành nhiệm vụ, sứ mệnh như là cách phục vụ một đất nước xa xôi của chính họ hơn là cho đất nước mà họ đang chiến đấu. Chỉ là thế. Đơn giản chỉ là như vậy.
Quả thật, họ là những người lính quốc tế. Và riêng trong giai đoạn nầy, họ đang có mặt ở Việt Nam để thi hành nghĩa vụ đối với quốc gia của chính mình. Những gì họ hành xử đối với những người bản địa đều phải tuân theo quy tắt: có những quy tắt chung, và cả những quy tắc riêng - ứng dụng cho mỗi nơi mà họ đến. Có thể nói rằng họ luôn luôn bị bó buột theo rất nhiều nguyên tắc, quy luật, luật lệ mà chúng được đơn giản hóa biến thành một cuốn sách tay hướng dẫn riêng cho Quân đội qua những ký hiệu riêng biệt. Họ được xem là những chiến binh chuyên nghiệp được huấn luyện kỹ càng về kỹ thuật, kỹ năng, và tinh thần chiến đấu cùng đạo đức, tác phong theo quân đội. Và sự huấn luyện cho một sĩ quan đòi hỏi những mức độ khắt khe khác cao hơn, sự trao dồi học tập đa dạng và sâu hơn theo từng cấp bậc trong vai trò lãnh đạo thích ứng của họ.
Tuy thế, không thể nào người ta không dự ước đến những hệ quả trong suốt cuộc chiến tranh qua những hoạt động của họ và thậm chí sau khi cuộc chiến đã xem như chấm dứt đối với họ. Bởi thế, chẳng có gì khó hiểu khi những chiến binh Hoa Kỳ, vốn là những người từng đổ máu trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, lại trở thành những người "phản chiến" sau này dù rằng mục đích họ làm hoàn toàn không có ý hỗ trợ những hành động xâm lược, gây chiến của Quân Bắc Việt --nhưng những hành động đó vô tình xuôi theo chiều hướng có lợi hơn cho Cộng sản Việt Nam trên bàn cờ chính trị sau này.
B. Cái nhìn sơ lược về những hệ quả trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam:
Những chiến binh Hoa Kỳ sau khi được trở lại quê hương vì bị loại bỏ khỏi cuộc chiến hoặc hết hạn trong chuyến quân vụ của mình, hoặc trong chính sách rút quân của Tổng thống Nixon, đều mang theo những tâm trạng khác nhau, thậm chí đối nghịch với nhau, hay mâu thuẫn cá nhân đầy ấp trong lòng. Đặc biệt nhất là đối với những thương binh Hoa Kỳ, sự mâu thuẫn cá nhân trong chính họ luôn luôn dằn vật, bấn loạn, xô đẩy qua những thương tích về thể chất và lẫn tinh thần, khiến họ dường như mất đi phương hướng trước đó, và sẵn sàng ngã theo xu hướng dễ dãi nào khác trong xã hội, nhất là những chiều hướng náo động. Vì họ muốn khỏa lấp, quên đi những ký ức nào đó hay cái hiện thực thương tích trên cơ thể họ. Họ đang bước vào một cuộc chiến không cần súng đạn mà đôi khi, ngay cả bản thân họ không hề biết đến. Một cuộc chiến giữa hai đối phương: lý lẽ và lương tâm. Một cuộc chiến không cần đòi hỏi mạng người mà chỉ là một giải pháp giải thoát lương tri của con người.
1- Một thí dụ điển hình: sự kiện xã Thanh Phong:
Sự kiện xã Thanh Phong đã xảy ra vào ngày 25 tháng Hai năm 1969 mà trong đó nhân vật chính yếu là vị Trung úy Joseph Robert "Bob" Kerrey - sau này là vị Thống đốc tiểu bang Nebraska (1983--1987), Thượng nghị Sĩ Hoa Kỳ từ Nebraska (1989--2001), và là Hiệu trưởng Đại học New School ở thành phố New York (200-2010) - chỉ huy tiểu đội Seals Hải quân đột kích vào đó chỉ với 5 thành viên trong sứ mệnh đầy nguy hiểm vốn thách thức sự bén nhạy trong quyết định trước trách nhiệm bảo toàn lực lượng và hoàn thành nhiệm vụ của ông ta. Tuy nhiên, sự thách thức thực tiễn đôi khi vượt xa hơn những gì họ được huấn luyện, học hỏi, khi mà những tình huống đa dạng trong chiến tranh luôn ẩn nấp đâu đó và chờ chực xuất hiện một cách bất ngờ như những đoàn quân du kích. Và trong tình thế đó, trong khoảnh khắc ngắn ngủi cần có cho sứ mệnh, ông Kerrey đã phải làm những quyết định cấp thời, không đủ thời gian để suy ngẫm trước cái sống và chết trong khoảng phần giây của cái búng tay. Cũng không đủ thời gian để lật xem lại những trang sách hướng dẫn quy tắt trong đầu hoặc xét đoán lại sao cho phù hợp theo luật pháp. Ông Kerrey chỉ còn một chọn lựa duy nhất là phải hành động theo bản năng.
Trung úy Joseph Robert "Bob" Kerrey
Trớ trêu thay, sự quyết định của ông Kerrey không cách nào làm quân bình giữa sứ mệnh và quy tắt, giữa lý lẽ và lương tâm, giữa trách nhiệm và nhân bản, và đó chính là một hệ quả trong suốt cuộc chiến tranh. Một hệ quả đè nặng lên tất cả những thành viên của tiểu đội Seals trong suốt cuộc đời còn lại của họ. Trong những mộng mị kinh hoàng chợt thoáng hiện, trong những ray rức, đau đớn sâu thẩm, khó thể hiện bằng lời, trong những ngần ngại, lo sợ trước sự thiếu hiểu biết, cảm thông của người ngoài cuộc, trong những lời tường thuật dường như muốn chận lấy tiếng nói trong khi nó đang tìm kiếm những câu chữ tương đối thích hợp, nhẹ nhàng ý nghĩa, và rõ ràng hơn trong cách bày tỏ. Tuy nhiên, những kẻ thù xưa kia của ông ta không dễ dàng bỏ qua mà còn lợi dụng yếu điểm của quy tắt chiến tranh để rêu rao, thêu dệt thêm qua cách như thể là văn hóa dù chỉ là bề ngoài trên lớp son đỏ chói "Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh Việt Nam." Điều đó cũng nhằm nói rằng họ, những người Cộng sản, không bao giờ gây tội ác chiến tranh - mặc dù sự thật hiển nhiên, chính họ là những người gây ra chiến tranh-- và những người nước ngoài chiến đấu ở Việt Nam là những tội phạm chiến tranh. Điều đáng lưu ý là, những người Cộng sản đó chưa bao giờ tìm được hay bịa chuyện được cái gọi là "tội ác chiến tranh" của Quân đội Việt Nam Cộng hòa (QĐVNCH). Cũng không thể không nhắc đến công sức của phóng viên Gregory L. Vistica châm ngòi nổ trong cuộc nghiên cứu kéo dài 3 năm của ông ta về sự kiện xã Thanh Phong làm vang tiếng đến nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Dĩ nhiên là, họ sẽ tận dụng sự kiện đó để tuyên truyền thêm cho cái "chính nghĩa" của họ.
Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam luôn luôn là một đối thủ bạo ngược, quỷ quyệt như đã từng trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam - đó là chưa nói những hành động tàn bạo, máu lạnh của họ, mà đó phải là bản chất của những cán bộ cao cấp Cộng sản để thi hành những sứ mệnh bất chấp là kinh tởm đến thế nào miễn sao đạt được điều gì họ muốn - nắm bắt ngay cơ hội đó và ghim chặt danh tính của ông Kerrey vào "tội ác chiến tranh" trong cảnh trưng bày của bào tàng viện để bêu xấu muôn đời một cá nhân chỉ với một chức vụ xem như cấp gần thấp nhất trên bực thang sĩ quan -- mà lẻ ra không đáng phải làm vậy nếu xét trên sự dung hòa, hiểu biết hơn của con người - đến những thế hệ sau. Mặc dù qua nhiều cuộc phỏng vấn với ông Kerrey, thậm chí hai quân nhân Seals chủ chốt trong sự kiện là Mike Ambrose và Gerhard Klann, và cả bà Phạm Thị Lành, một cán bộ Việt Cộng, tự xưng là nhân chứng nhìn thấy tận mắt trước khi chui xuống hầm dưới lòng đất, trong một cuộc phỏng vấn với chương trình "60 Phút II" của đài truyền hình truyền thông CBS vốn được đăng lại trên trang mạng CBSNews.com qua loạt bài viết gồm 3 phần vào ngày 11 tháng Hai năm 2009, và trong phần I của "Memories Of A Massacre: Part I" có đoạn trả lời của bà Lành vốn không hề nói đến cái "ống cống" nào như cái đang trưng bày trong "Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh Việt Nam" ở Sài Gòn mà nó được mang vào ngày 4 tháng Hai năm 2009 --sau hơn 8 năm từ khi tác giả Gregory L. Vistica tung ra bài viết và cuộc phỏng vấn với bà Lành-- qua một phụ nữ tên là Bùi Thị Nhị, tự xưng là con gái của nạn nhân Bùi Văn Vật vốn là ông già mà ông Klann có nhắc đến, mang đến tặng cho viện bảo tàng. Và trên tấm bảng nơi chưng bày có viết là một đứa bé trai bị mổ bụng bởi lực lượng Seals. Nhưng điều nầy cũng hoàn toàn sai lạc với lời tường thuật của bà Lành - là ba đứa trẻ bị đâm khi bị lôi ra từ một cái mương.(pc 01) 
Vấn đề có thể đặt ra là tại sao những người khác không chui xuống hầm dưới lòng đất trốn như bà Bùi Thị Nhị khi bà Phạm Thị Lành đã phát hiện ra sự hiện diện của lính Mỹ? Và bà Lành cũng không hề nói đến việc mang những đứa con của bà ta xuống hầm hoặc chúng ra sao, khi bà ta nói rằng vì nghe tiếng ồn nên thức giấc và rồi chạy ra ngoài núp sau bụi chuối nên mục kích được sự việc nơi căn nhà lá nhỏ đầu tiên.(pc 02) Và sau đó, bà ta còn cho biết thêm là bà ta bò đến gần hơn để tận mắt thấy được những binh lính Hoa Kỳ lùa ra những người trong những căn nhà lá nhỏ khác sau khi họ tiến sâu vào, và xếp những người đó thành hàng rồi xả súng bắn vào từ phía sau.(pc 03)
(Đây là "ống cống" trong "Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh Việt Nam"
ở Sài Gòn, được cho là nơi ẩn núp của ba đứa trẻ mà Bà Bùi Thị Nhị tự
xưng là người con gái của nạn nhân Bùi Văn Vật, chính là người được
cho là dâng hiến cái "ống cống" đó)
(Trên tấm bảng nầy nêu đích danh tính của Trung úy Bob Kerrey và
thêm vào câu chuyện mỗ bụng đứa bé trai mà trong những cuộc
phỏng vấn với những thành viên của tiển đội Seals và ngay cả từ
bà Phạm Thị Lành, tự xưng là nhân chứng, cũng không hề nói đến)
Theo như những lời tường thuật của bà Lành, bà ta bỏ ra khá nhiều thời gian từ lúc theo dõi sự kiện ở căn nhà lá nhỏ đầu tiên đến lúc bò sâu vào trong nơi có một cụm những căn nhà lá nhỏ khác để chứng kiến thêm cảnh giết hại trước khi bà ta chui xuống hầm dưới lòng đất. Hoàn toàn câu chuyện cho thấy rằng bà ta dường như quan tâm đến sự kiện giết hại hơn là quay trở lại lo cho những đứa con mình trốn thoát. Điều nầy cho thấy lời tường thuật của bà ta quá gượng ép sao cho hợp với phần lớn những lời tường thuật của ông Klann nói về những gì xảy ra lúc đó và thêm thắt vài chi tiết khác mà trong hoàn cảnh rối loạn, kinh hoàng trong bóng tối khiến khó ai có thể nhớ được để nhìn nhận là đúng hay sai. Từ đó, người ta có thể hiểu rằng những lời của bà Lành là do nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam mớm lời trước. Và sau này, trong một cuộc viếng thăm khác của đoàn quay phim "60 Phút II" đến xã Thanh Phong để quay cảnh làm nền cho chương trình, chính bà Lành, dưới sự xem xét kỹ lưỡng của những phóng viên, đã phải tự nhìn nhận là bà ta thực sự không nhìn thấy vụ thảm sát, ngoại trừ nghe những tiếng kêu thét của những người sắp chết và sau đó nhìn thấy những thi thể nằm xếp thành hàng.(pc 04) Và lần nầy có thêm một người khác tự xưng là nhân chứng đứng ra xác minh những lời bà Lành nói là đúng.
Tuy nhiên, nếu xét lời thừa nhận lần thứ hai nầy của bà Lành là bà ta nghe những tiếng kêu thét của những người sắp chết, điều nầy xem ra không hợp lý. Vì ông Klann cho biết trong khoảng cách 2 đến 10 mét khi nhả đạn thì đó là những vết thương chí tử, người ta không thể nào kêu thét nổi ngoại trừ rên rỉ nho nhỏ --như ông Klann đã mô tả - (pc 05) trong một sự im lặng chết chóc.
Đó là những gì xảy ra ở xã Thanh phong, trong sự tương đối chính xác như có thể. Đó là sự diễn biến qua lời tường thuật của ông Klann - bỏ qua những gì bà Lành nói, vì chỉ là "ăn theo đốm" của ông Klann - muốn trút đi những ray rức trong mấy chục năm qua dù chỉ cần được nói lên một lần. Tuy rằng, bản thân ông Kerrey, hay bất cứ thành viên nào của tiểu đội Seals, cũng cảm thấy không nhẹ nhàng hơn ông Klann trước một biến cố như là một tai nạn bất thường, vượt ngoài khả năng kiểm soát của ông ta. Nhưng hệ quả khó dừng lại, như trong trường hợp của ông Kerrey. Nó đã không đưa ông ta đi xa hơn chiều hướng trước đó mà ông ta đã chọn mà tự chuyển hướng ngược hẳn như là cách trả đũa cuộc đời vì nó cướp đi một phần thân thể quý giá của ông ta.
2- Phản chiến: một sự lựa chọn trả đũa:
Cũng như ông Kerrey, một chiến binh tàn tật, luôn cảm thấy uất ức dù sự hy sinh của ông ta được tuyên thường bằng một Huân chương Danh dự, một phần những thương phế binh của QĐVNCH(pc 06) trong giai đoạn lúc bấy giờ tham gia vào phong trào phản chiến vốn xuất phát từ Hoa Kỳ như là một sự lựa chọn trả đũa cuộc chiến tranh. Họ cũng có những huy chương khác nhau cho những công trạng chiến đấu, cho lòng anh dũng, can đảm nào đó mà bấy giờ dường như đã biến mất. Mất rất mau. Tan biến nhanh hơn ánh lửa lằn đạn mà ngày nào đó họ quá quen thuộc đến độ lăn xả vào chúng. Dù họ có lý tưởng nào đó hay chỉ mơ hồ trong cách phục vụ đất nước theo quân vụ của ông Kerrey, thì hiện tại chỉ là ảo tưởng đối với những thân thể không còn khả năng dâng hiến. Họ bị xem như loại bỏ ngoài cuộc chiến. Và đó cũng có thể là điều mà ông Kerrey cảm thấy. Và đó cũng có thể là lý do tại sao ông ta tham gia tích cực trong phong trào phản chiến.
Nhưng không chỉ một cựu quân nhân Kerrey có ý nghĩa đó mà hầu như một con số không nhỏ những cựu quân nhân khác, mà phần đông là những thương phế binh Hoa Kỳ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Điều họ muốn chỉ đơn giản là giải tỏa những buồn phiền, bực tức, oán hận của mình trên một cái gì đó để họ được dịp kêu gào, thét to hầu giảm bớt đi sự căm phẩn đối với cuộc đời hơn là trên một hay những người khác chẳng liên quan gì đến vận không may của họ. Họ hoàn toàn dường như hành động không có một chủ đích nào. Tuy thế, hệ quả đó sẽ chắc chắn kéo theo những hệ quả khác, khi người ta không thể kiềm chế nó được.
Ông Kerrey lúc bấy giờ cùng những người bạn phản chiến của mình chống lại những quân nhân đang tham gia quân vụ ở Việt Nam mặc dù trên thực tế, tất cả những binh lính chiến đấu TQLC Hoa Kỳ đã rút hết về nước và hoàn toàn chấm dứt sự có mặt của họ từ ngày 27 tháng Sáu năm 1971, ngoại trừ những vị cố vấn không-tham-gia-chiến-trường. Họ đã thực sự gián tiếp góp sức thúc đẩy những quyết định của Quốc Hội Hoa Kỳ dứt bỏ chiến trường Việt Nam để "thực sự" kết thúc Chiến tranh Việt Nam một cách mau chóng qua cửa ngõ mở sẵn của Hoa Kỳ cho Quân Bắc Việt. Và đó cũng chính là một thất bại cay đắng nhất của chính tổ quốc của ông ta khi nó được nhận biết ra sau những biến cố dồn dập hơn, chấn động thế giới hơn: cuộc ly hương của Thuyền Nhân, và những Chương trình Ra đi Trật tự của những sĩ quan, viên chức cao cấp của VNCH bị bạo ngược giam cầm lâu dài bởi Cộng sản sau khi đã "thực sự" kết thúc Chiến tranh Việt Nam như điều mà ông Kerrey và những người bạn phản chiến của mình mong muốn.
C- Cái nhìn sơ lược về những hệ quả sau khi "kết thúc" Chiến tranh Việt Nam:
Sau nỗi vui mừng đắc thắng không lâu của phong trào phản chiến Hoa Kỳ khi được tin Chiến tranh Việt Nam đã "kết thúc," là những nỗi lo âu, ái ngại khác hiện ra trong lòng những người dân Hoa Kỳ khi họ chứng kiến những khối đông Thuyền Nhân Việt Nam tạm trú trong những trại tị nạn Cộng sản trên một số quốc gia thân thiện, lân cận trong vùng Đông Nam Á. Có phải chăng sự "kết thúc" Chiến tranh Việt Nam lại không mang lại một kết quả tốt đẹp nào? Những cuộc biểu tình đấu tranh, những xáo trộn của xã hội, những thay đổi miễn cưởng về văn hóa, những cuộc vật lộn phá vỡ tư duy, lề lối sinh hoạt v.v. mà phong trào phản chiến tạo nên, lại chẳng giúp ích gì cho đất nước họ sao? Và hiện tại, thực tế trước mắt họ lại là những người Việt Nam đang trốn chạy Cộng sản đến nỗi phải mất mạng gấp nhiều và rất nhiều lần hơn số lượng người đã bị thiệt mạng ở xã Thanh Phong, hay số lượng lớn hơn ở làng Mỹ Lai, một biến cố khác theo sau sự kiện Thanh Phong. Chính những người tị nạn đó cũng đã vô tình phản ảnh nỗi cay đắng tiềm ẩn của người dân Mỹ mà qua đó Bức tường Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam được dựng lên vào năm 1982 để khắc ghi hơn 58 ngàn cái tên của những anh linh chiến sĩ Hoa Kỳ.
1- Một cái tên khốn khổ: 
Cái tên Bob Kerrey càng lúc càng được nhiều người dân Mỹ biết đến, nó may mắn không phải nằm trên Bức tường Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, mà nằm trên danh sách những Thống đốc Hoa Kỳ, trên căn phòng riêng trong Quốc Hội Hoa Kỳ dành cho mỗi Thượng Nghị sĩ, và nằm hàng đầu trên danh mục của trường Đại học New School ở thành phố New York. Một cái tên không khó nhớ đối với người ngoại quốc, và càng dễ nhớ hơn đối với hầu hết mọi người ở những nơi mà ông Kerrey có mặt, từ lãnh vực chính trị cho đến giáo dục.
Vào năm 2000, những người ủng hộ nhà chính trị đang lên thuộc Đảng Dân chủ sửng sờ khi được tin ông Kerrey bỏ cuộc tranh cử Nghị viện cho nhiệm kỳ lần thứ III. Sau khoảng một tháng khi hết nhiệm kỳ, tên của ông ta được nhắc đến nhiều hơn trên báo chí, tuần báo, báo mạng, chương trình tin tức trên truyền hình, chương trình phỏng vấn, và vài năm sau đó có những cuốn sách với cái tên Bob Kerrey in to đậm nơi trang bìa. Và cũng từ đó, con đường chính trị mà ông ta mơ ước được bước vào chức vụ Tổng thống dường như bế tắc vì những hệ quả tiếp nối từ cuộc chiến thực sự đến cuộc chiến không cần súng đạn. Nhưng cái tên của ông ta chắc chắn sẽ khó phai mờ qua những thành công về tiền tài, danh vọng ở nước Mỹ và càng không thể nào nhạt khi cái tên đó cũng được viết rõ ràng được "trân trọng" giữ lại nơi công cộng của viện bảo tàng ở Việt Nam.

2- Những linh hồn không ngủ:
Những hơn 32 năm tính đến năm 2001 từ sự kiện ở xã Thanh Phong, ông Kerrey cho biết là ông không bao giờ cảm thấy bình yên trong lòng với những ác mộng chợt đến rồi đi. Ngay cả ông Klann cũng thế, hay bất cứ thành viên nào của tiểu đội Seals. Mặc dù ông Kerrey có cái nhìn của người chỉ huy khi xem xét lại sự kiện - và điều nầy được chính quyền Nixon nhìn nhận và tưởng thưởng cho ông ta một Ngôi sao Đồng - nhưng ông ta cũng không thể nào gạt được những bối rối, lo ngại, bất an nào đó khi phải tường thuật lại sự kiện mà chính nó là tạo nên hệ quả và kết quả trong suốt cuộc đời của ông ta sau này.
Nếu ông Kerrey không tham gia trong phong trao phản chiến, có lẽ đã sẽ có ít người được biết đến ông ta. Đó cũng là một điểm son để ông ta bắt đầu hướng đi mới: chính trị. Dù rằng ông ta không phải là người có cảm tình với Cộng sản, nhưng hành động phản chiến đó tạo cho Cộng sản một cơ hội hiếm có nhất để giành lấy sự ủng hộ của dân chúng Mỹ "dứt bỏ Chiến tranh Việt Nam" một cách toàn diện, dứt khoát, thẳng thừng, và chai lạnh. Mặc tất cả những gì đã từng cam kết nhằm bảo vệ thế giới tự do, mặc tất cả những máu xương của những chiến binh Hoa Kỳ nhiệt tình hy sinh vì lời kêu gọi của quốc gia, mặc tất cả những gì sẽ xảy ra cho những đồng minh của mình - không chỉ riêng một miền Nam Việt Nam - khi họ tức tưởi nhắc lại lời cam kết của Quốc Hội Hoa Kỳ qua vai trò của người cầm đầu đất nước, những người đồng minh đó phải nhận lấy sự cay đắng trong tuyệt vọng trước làn sóng đỏ, không phải là số lượng người bị thảm sát ở xã Thanh Phong hay ở làng Mỹ Lai nếu so với con số hàng trăm ngàn đến hàng triệu. Nhưng dường như không một ai trong số những người trong Quốc Hội Hoa Kỳ mang nặng những bứt rứt nào đó như ông Kerrey hay những thành viên của tiểu đội Seals.
Tuy thế, tên của ông Kerrey được dán chặt vào "Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh Việt Nam" ở Sài Gòn, một nơi công cộng cho cả những du khách trong và ngoài nước, sẽ được biết đến bởi nhiều thế hệ ở Việt Nam, sẽ được nhắc đến trong những bài luận văn chính trị của những học sinh các cấp ở khắp mọi nơi trên cái đất nước mà đáng lý ra, không nhiều thì ít, phải biết rằng chính ông Kerrey, một vị cựu Trung úy của Seals Hải quân, từng được tưởng thưởng Ngôi sao Đồng và cả Huân chương Danh dự từ Tổng thống Nixon, là người hết lòng ủng hộ phong trào phản chiến để mang lại cục diện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam cho Cộng sản Bắc Việt.
Bob Kerrey không được may mắn hơn vị tiểu đội trưởng tàu tốc đỉnh John Kerry, sau này cũng là một cựu quân nhân phản chiến có tiếng tăm hơn hẳn ông Kerrey qua cuộc tường trình kéo dài 2 tiếng đồng hồ với Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng Tư năm 1971 về vấn đề những hành động tàn bạo. Và cũng trong năm 1971, trong chương trình "Gặp gỡ Báo chí" của đài NBC, anh Kerry đã khẳng định là chính anh ta cũng từng đốt cháy những ngôi làng, lạm dụng súng đạn trong vùng tự-do-bắn. Thật là may mắn cho số phận của John Kerry, không những không có vấn đề rắc rối gì hay bị đóng đinh bởi nhà cầm quyền Cộng sản như Bob Kerrey mà còn được thăng tiến trên đường chính trị sau khi trở thành đảng viên thuộc đảng Dân chủ của vị Tổng thống Barack Obama đương nhiệm, đến chức vụ Bộ trưởng Bộ ngoại Giao vốn được chính thức tuyên thệ vào ngày 1 tháng Hai năm 2013. Có phải chăng chỉ vì cái họ trong chữ "Kerrey" dài hơn một mẫu tự "e" nên nó dư thừa đối với nhà cầm quyền Việt Nam hơn là cái họ "Kerry" thân thiện, vừa đủ, không có chữ "enermy" trong đó?
(Nữ tài tử phản chiến Jane Fonda đang nói chuyện với đám đông gồm
những cựu quân nhân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam và cựu quân
nhân John Kerry đang lắng nghe và chuẩn bị phát biểu kế tiếp trong cuộc
vận động chống chiến tranh ở giai đoạn 1970--1971, từng là vị tiểu đội
trưởng tàu tốc đỉnh với nhiều Huân chương: Bạc, Đồng và 3 Trái tim Tím)
(Trở thành Bộ trưởng Bộ ngoại Giao từ ngày 1/02/2013)
3- Sự thương thuyết về một lời xin lỗi:
Nhưng không thể nào! Vì sau những bài viết từ báo chí của nhà nước Cộng sản rầm rộ theo sau những bài viết khác của giới truyền thông Hoa Kỳ, và của những hiệp hội Cộng sản bên Mỹ, không thể thuyết phục ông Kerrey - mặc dù lúc bấy giờ ông ta đã trở thành cựu Thượng Nghị sĩ, không còn đương nhiệm - đứng ra tuyên bố một lời xin lỗi với nhà cầm quyền Cộng sản. Có thể vì danh dự của một sĩ quan TQLC Hoa Kỳ vẫn còn trong bản chất của ông ta và nhất là cái Huân chương Danh dự và Ngôi sao Đồng --mặc dù ông ta ít khi đeo Ngôi sao Đồng trong những dịp lễ - khiến ông ta không thể nào tự tiện làm hoen ố một tập thể to lớn của Quân đoàn TQLC. Mặc dù ông ta khi còn đang đương nhiệm vai trò Thượng Nghị sĩ cũng đã cố gắng làm những việc tạo sự thân thiện với nhà cầm quyền Cộng sản theo như lời ông Chuck Searcy, một cựu chiến binh Mỹ là người đại diện Quỹ tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam của Mỹ - đó cũng là hội đã từng huy động, đóng góp, và đưa ra đề án xây dựng Bức tường Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam lần đầu tiên tại thủ đô Washington-- có mặt tại Hà Nội trong một phỏng vấn với phóng viên báo Lao Động vào ngày 26/05/2001 trên trang mạng vietbao.vn (theo vnexpress.net) qua bài viết "Mỹ cần phải xin lỗi người Việt Nam" có đoạn như sau:
"Quả thật là tôi ngạc nhiên. Thời gian qua Kerrey là một người rất tích cực ủng hộ và cố gắng cải thiện quan hệ với Việt Nam. Khi gặp ở Washington khoảng năm 1994, 1995, ông ấy nói với tôi: 'Người Mỹ và người Việt Nam cần hiểu nhau nhiều hơn, phải học cách tôn trọng nhau hơn.' Ông ấy còn nói rằng Chính phủ Mỹ có thể dành một khoản tiền để mỗi năm gửi 1.000 sinh viên Việt Nam sang Mỹ học và 1.000 sinh viên Mỹ sang Việt Nam. Tuy nhiên, đấy mới là ý tưởng, theo Kerrey, Quốc hội khó mà phê duyệt khoản ngân sách này."
Vấn đề "cần hiểu nhau nhiều hơn" dường như đối với ông Chuck Searcy là một mệnh đề quan trọng hơn, khi nó được nhắc đến trước một mệnh đề "phải học cách tôn trọng nhau hơn." Tuy nhiên, nếu không có sự tôn trọng, thì làm sau tìm hiểu nhau hơn? Vì dù có sự cố gắng đi mấy để tìm hiểu nhau nhiều hơn mà thiếu sự tôn trọng lẫn nhau vốn là điều tiên yếu trong cách giao tế hoặc cư xử với cả những người thân thuộc, thì xem như khó có thể thực hiện. Mặc dù theo ông Searcy cho là "chính phủ Việt Nam đã rất tốt, rất khoan dung. Họ chưa bao giờ nói người Mỹ phải xin lỗi." Tuy nhiên, ông Searcy quên một điều là những tờ báo ở Việt Nam bây giờ là tiếng nói đại diện cho nhà cầm quyền Cộng sản. Chính là nền văn hóa riêng biệt của chế độ Cộng sản, hoàn toàn khác với thế giới mà ông ta đã lớn lên. Có nghĩa là, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đang "bắn tiếng" thương lượng lời xin lỗi của ông Kerrey. Nếu ông Kerrey không thể thực hiện được những yêu cầu nào đó mà nhà cầm quyền Cộng sản đòi hỏi qua sự liên lạc với tòa Đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ, thì xem như khó được "khoan dung." Điều nầy được thể hiện rõ ràng cũng trong bài viết trên, qua câu hỏi được chuẩn bị trước của phóng viên báo Lao Động cho ông Chuck Searcy như là một cách nhắn gởi đến ông Kerrey như sau:
Phóng viên: "Theo ông, sau bao nhiêu năm, chúng ta nên phơi bày những sự thật Kerrey hay nên đào sâu chôn chặt chúng? Và tác động của những sự thật đó đến thế giới trẻ ở Mỹ?"
Trong đó, câu hỏi thòng thêm thứ hai, dường như quá thừa, và mất lịch sự. Vì vấn đề có "tác động hay không đối với thế giới trẻ ở Mỹ" chẳng dính dáng gì đến Việt Nam. Nếu cho đó là sự bày tỏ quan tâm bình thường, thì thật là lếu láo, và xảo quyệt hay đúng hơn là đểu cáng. Vì đó là chuyện của nước Mỹ, là vấn đề của chính quyền Mỹ đảm nhiệm; không phải là vấn đề của Việt Nam thì tại sao nhà cầm quyền Việt Nam muốn biết? Hay nói đúng hơn, đó cũng chính là một lời đe dọa được thêm vào.
Vì trước đó qua câu hỏi về vấn đề xin lỗi, ông Searcy bày tỏ sự không tán thành một cách khéo léo như sau:
Phóng viên: "Ông có cho rằng Mỹ cần xin lỗi Việt Nam vì đã gây ra chiến tranh hay không?"

Ông Searcy: "Tôi luôn nghĩ rằng Mỹ cần phải xin lỗi người Việt Nam vì những gì đã xảy ra trong chiến tranh. Nhưng tôi không hiểu sao Mỹ chưa bao giờ làm như vậy. Đó là một sai lầm của nước Mỹ. Nhưng người Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã rất tốt, rất khoan dung. Họ chưa bao giờ nói Mỹ phải xin lỗi. Họ chỉ nói: Chúng tôi đánh giá cao những đóng góp nhân đạo của bất kỳ nước nào với sự thiện chí. 

Tôi nghĩ rằng cũng không cần nói lên một lời xin lỗi nếu Mỹ có thể thể hiện điều đó qua hành động với người Việt Nam, như qua các chương trình nhân đạo, các mối quan hệ hoà bình. Chúng ta hiểu rõ lịch sử đau thương giữa hai nước nhưng chúng ta quyết định hướng tới tương lai, tôn trọng lẫn nhau, giúp Việt Nam có một cuộc sống tốt hơn cho thế hệ sau."
Từ lúc ông Kerrey rút lui ra khỏi chính trường ở Quốc Hội để trở thành Hiệu trưởng trường Đại học New School, thì khả năng vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ủng hộ, giúp đỡ, và viện trợ cho Việt Nam dường như bị sụt giảm. Dường như sự "khoan dung" của nhà cầm quyền Cộng sản cũng có mực độ nào đó theo sự quyết định của họ vì vậy thời hạn 8 năm dành cho ông Kerrey suy nghĩ và thể hiện những hành động nào đó qua lòng nhiệt thành đối với nhà cầm quyền Việt Nam sao cho ưng ý nhất hoặc khi cảm thấy rằng ông Kerrey không còn nhiều khả năng ích lợi cho nhà cầm quyền Cộng sản, thì đó là lúc tên ông Kerrey được gắn chặt vào "Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh Việt Nam" vào năm 2009.
Cũng có thể là trong một vài lần nào đó trong đời, trong những lúc chìm đắm trong cuộc chiến không cần súng đạn của mình, ông Kerrey đã nghĩ đến một điều hoang tưởng nhưng chắc chắn là đầy sự hối tiếc, đó là nếu chính quyền VNCH của miền Nam Việt Nam vẫn còn tồn tại, nếu Quốc Hội Hoa Kỳ không bị chia rẽ tư tưởng giữa hai phe phái dứt bỏtiếp tục ủng hộ miền Nam Việt Nam do áp lực phần nào từ những phong trào phản chiến ở nước Mỹ, và nhất là những hội cựu quân nhân trong Chiến tranh Việt Nam, thì cái tên Bob Kerry của ông ta đã không phải bị đóng đinh trong "Viện Bào tàng Tội ác Chiến tranh" ở Sài Gòn như hôm nay. Và cũng có thể, vì ông ta không mong muốn ai nhắc đến chuyện đó và không xem đó là một thành tích, ông ta sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc xoa dịu vết thương chính mình bằng những hành động trợ giúp thiết thực, âm thầm nào đó cho những người dân thuộc vùng quê xa xôi của miền Nam Việt Nam được phát triển hơn. Sự phát triển đó sẽ mang lại cho họ sự hiểu biết hơn về một vài khái niệm trừu tượng như cộng hòa, tự do, cộng sản, v.v. Chính điều đó sẽ khiến cho ông Kerrey cảm thấy một sự hòa bình thật sự đến với cuộc chiến không cần súng đạn đó.
(Ông Chuck Searcy, Phó Chủ tịch của nhóm Cựu chiến binh vì Hòa bình 
(VFP = Veterans For Peace) trong chuyến đưa một nhóm đầu tiên gồm 
những cựu chiến binh, thân nhân, báo chí đến Việt Nam vào năm 2013. 
Với mỗi thành viên trong số 160 người đóng góp là 1.000 đô-la để có 
được 17.000 đô-la giúp Việt Nam rà bom mìn còn sót lại ở Hà Nội.) 
D. Tình "thâm" hơn là thâm tình:
Không riêng gì ông Kerrey vốn là người bị nhà cầm quyền Việt Nam đóng đinh vào viện bảo tàng, vị Thiếu úy bộ binh William Laws Calley còn được nhà cầm quyền Cộng sản xây nguyên một "Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh Việt Nam" riêng biệt về vụ thảm sát ở làng Mỹ Lai nhưng bằng tiền đóng góp của những chiến binh can dự vào sự kiện đó và những người dân Mỹ hảo tâm. Mặc dù những cựu chiến binh tự quyên góp mang về xây dựng trường học, bệnh xá, đường xá, đền tưởng niệm nạn nhân, và tiếp tế tài chánh hàng năm trong mỗi chuyến viếng thăm ngôi làng Mỹ Lai hầu bày tỏ sự hối tiếc trong hành động, nhưng những cái tên và gương mặt của họ vẫn được đóng đinh trên những bức tường của viện bảo tàng đó. Và mặc dù anh Calley sau khi đã bị kết án chung thân nhưng cuối cùng được Tổng thống Nixon rút giảm bản án chỉ còn 3 năm bị quản thúc ở nhà, anh ta chọn cách sống im lặng, tránh gặp những người quen biết, hoặc phóng viên trong 40 năm trời, cuối cùng cũng đã lên tiếng xin lỗi bằng sự chân thành nhất của mình, không phải vì áp lực của một ai hay lo ngại qua cách bêu rêu hận thù và quá hẹp hòi của nhà cầm quyền Cộng sản. Hãy nghe ông Calley 66 tuổi phát biểu trong cuộc hội ngộ với những bạn bè xưa lần đầu tiên với 40 khách tham dự trong bữa an trưa hàng tuần qua đoạn trích dẫn trong bài viết "Calley apologizes for role in My Lai Massacre" ("Ông Calley Xin lỗi cho Vai trò của mình trong vụ Thảm sát ở làng Mỹ Lai") trên NBCNews.com vào ngày 21/08/2009 như sau:
"There is not a day that goes by that I do not feel remorse for what happened that day in My Lai," William L. Calley told members of a local Kiwanis Club, the Columbus Ledger Enquirer reported Friday. "I feel remorse for the Vietnamese who were killed, for their families, for the American soldiers involved and their families. I am very sorry."
("Không có một ngày nào trôi qua mà tôi không cảm thấy hối hận về những gì đã xảy ra ngày hôm đó ở làng Mỹ Lai," William L. Calley nói với các thành viên của một câu lạc bộ Kiwanis địa phương, phóng viên của tờ báo Columbus Ledger Enquirer tường thuật vào ngày thứ Sáu. "Tôi cảm thương xót cho những người Việt Nam vốn là những người bị giết, cho những gia đình của họ, cho những người lính Mỹ bị lôi cuốn vào và những gia đình của họ. Tôi cảm thấy rất hối tiếc.")
Điều đáng lưu ý là không phải ông Calley đang xin lỗi nhà cầm quyền Cộng sản để mong được dở đi cái viện bảo tàng quái đản đó. Tuy trường hợp của ông Calley có đôi phần hơi khác hơn trường hợp của ông Kerrey vì thời gian: ngày và đêm, và vì sứ mệnh: tuần tra và đột kích, cũng như số lượng người bị thiệt mạng, nhưng không có nghĩa là ông Kerrey không thể lên tiếng nói như ông Calley nhưng vì Ông Kerrey đang rơi vào một hoàn cảnh khác hơn ông Calley.
Một trường hợp khác lại xảy ra cho ông John McCain (hoặc John Sidney McCain III), Thượng Nghị sĩ thuộc đảng Cộng hòa, người từng ra tranh cử chức vụ Tổng thống với Barack Obama vào năm 2008 và tranh chức Chủ tịch đảng với George W. Bush vào năm 2000, là ông ta bị "kết tội" phản bội một "nông dân" miền Bắc vốn là người "được xem" là đã "cứu sống" ông ta khi chiếc phi cơ Skyhawk A-4E của ông ta bị bắn hạ, rơi xuống hồ Trúc Bạch theo như bài viết "How war hero John McCain betrayed the Vietnamese peasant who saved his life" ("Vị Anh hùng John McCain Bội phản một Nông dân Việt Nam vốn là người Cứu mạng ông ta như thế nào?") trên trang mạng Dailymail.co.uk vào ngày 23/03/2008.
(Thiếu tá Hải quân John McCain (bên phải phía trước) với đội phi
hành và chiếc phi cơ Buckeye T-2 dành cho tập huấn, vào năm 1965
Và theo bài báo cho biết thêm là người "nông dân" miền Bắc đó tên là Mai Văn Ôn đã ném hai cây tre xuống hồ và nhào theo để cứu lấy anh McCain, sau khi kéo được anh McCain vào gần bờ, một nhóm người khác xuống tiếp cứu. Sau 5 năm rưỡi bị giam cầm, tra tấn, cuối cùng anh McCain được thả ra, về quê hương mình vào năm 1973. Vào năm 1995, ông Ôn nhờ ông Searcy trao cho vị Thượng Nghĩ sĩ McCain lá thư của mình, chỉ vỏn vẹn vài dòng như sau:
"I am the guy who pulled you out of the lake and I have followed your progress over the years. I wish the best for you and your family and I hope some day you will be president of the United States."
("Tôi là kẻ kéo ông ra khỏi cái hồ nước và tôi đã từng theo sát sự tiến triển của ông qua nhiều năm. Tôi chúc điều tốt nhất cho ông và gia đình và tôi hy vọng một ngày nào đó, ông sẽ là Tổng thống Hoa Kỳ.")
(Theo tin phát thanh, vào ngày 27/10/1967 Đài Hà Nội tường thuật
là một phi công Mỹ được nhận dạng như là Thiếu tá Hải quân John
Sidney McCain, được giải cứu từ hồ Trúc Bạch gần Hà Nội, vào ngày
26/10 sau khi bung dù ra từ chiếc phi cơ bị hư hại, vốn đã bị bắn trúng
bởi hỏa lực dưới đất của miền Bắc. Tin phát thanh cho biết rằng ông
McCain đã được kéo khỏi nước bởi những cán binh Bắc Việt, được
băng bó những vết thương và bị bỏ tù cùng ngày (theo en.wikipedia)
Sau đó, ông Searcy đứng ra sắp xếp cuộc hội ngộ vào năm 1996. Và cảnh "thâm tình" trong bức ảnh đã khiến nhiều người ngoại quốc xúc động lúc ông Ôn chạy đến ôm chầm "người mang ơn" của mình và kêu kêu nhiều lần: "McCain, McCain, McCain!" Ông Ôn chỉ nói được như thế. Sau khi trao cho ông Ôn một tặng vật mà ông McCain mua từ một cửa tiệm bán hàng lưu niệm nào đó dưới tầng hầm dành cho Thượng Nghị sĩ, ông McCain đã không quay trở lại, mãi đến năm 2000 sau khi ông Ôn đã mất vào năm 1998 lúc 88 tuổi, nhưng ông McCain không ghé thăm người quá phụ ngoài cái hồ nước nơi mà ông rơi xuống, cũng gần căn nhà của ông Ôn. Bà vợ ông Ôn, Bùi Thị Liên, lúc bấy giờ là 71 tuổi, nói với nhóm phóng viên Anh Quốc của dailymail rằng "nếu không có ông chồng bà ta lúc đó, ông McCain đã bị chết chìm và không thể trở về với gia đình và sẽ không có mặt trong cuộc tranh cử Tổng thống hôm nay." Bà nói thêm rằng trong những năm cuối đời, ông chồng bà ta đôi lúc rất buồn và than là "Ông McCain đã quên tôi rồi!" Và bà ta tha thiết giữ chặt bàn tay của người phóng viên, khi họ chuẩn bị rời khỏi, nói rằng: "Làm ơn giúp chúng tôi nhắc nhở ông McCain về việc mà ông chồng tôi đã làm cho ông ta. Chỉ vài lời cũng sẽ đủ để cho gia đình biết rằng ông McCain còn nhớ ơn."
(Cuộc hội ngộ duy nhất giữa Mai Văn Ôn lúc 86 tuổi và Thượng Nghị
sĩ McCain ở Hà Nội vào năm 1996 do ông Chuck Searcy làm trung gian.
Giả như ông Ôn là người lao vào nước trước, như vậy lúc bấy giờ ông ta
đã là 57 tuổi, khác xa những thanh niên trong hình trên)
Sau cuộc hội ngộ "thâm" tình, ông McCain dường như quên đi người "ân nhân" của mình, thậm chí trong cuốn hồi ký "Faith of My fathers" ("Lòng trung thành của những Tổ tiên tôi") vào năm 1999 -sau khi ông Ôn qua đời 1 năm trước đó - cũng không hề nhắc đến cái tên Mai Văn Ôn nào đó tự nhận là người đã cứu sống ông ta. Mặc dù trước và sau khi mất, gia đình ông Ôn cũng đã nhờ chuyển vài lá thư đến văn phòng ông McCain, nhưng không nhận được hồi đáp nào. Trong cuốn hồi ký đó, ông McCain cho biết là khi rơi xuống hồ nước, ông ta tỉnh lại nhờ nước lạnh và vì hai cánh tay của ông ta bị nứt xương, ông ta phải dùng răng kéo sợi dây cho áo phao trên người căng lên. Một nhóm người dùng hai thanh tre dài kéo ông ta lên đó và đưa vào bờ. Sau đó, ông ta bị nhiều người đấm đá, phun nước miếng, lốt hết áo quân, và thậm chí đánh gãy xương vai bằng báng súng, và dùng lưỡi lê đâm vào chân ông ta trước khi vận chuyển đưa ông ta về Hà Nội vào nhà tù Hỏa Lò có cái tên hỗn danh khác là "Khách sạn Hilton Hà Nội."
Qua câu chuyện cho thấy rằng có hay không nhân vật tên Ôn trong số những người kéo ông McCain vào bờ thì không quan trọng lắm, nhưng điều quan trọng hơn hết là những người đó chắc chắn không phải là những thường dân miền Bắc - mà đa số những người ngoại quốc luôn bị đánh lừa khi được thuật lại câu chuyện, và họ thiếu kinh nghiệm hiểu biết cách sinh hoạt, suy nghĩ của những người miền Bắc Việt Nam lúc đó như thế nào, nhất là ngay trong lúc đang bị dội bom - vì nếu bức hình trên được phóng to ra, người ta dễ dàng nhân ra rằng trong số 12 người kéo ông McCain, có một người cầm súng ngắn chĩa vào ông ta từ bên phải và kế đó có người đang chuyền nhau khẩu súng ngắn khác. Điều nầy chứng minh là theo tin phát thanh của Đài Hà Nội là đúng khi nhìn nhận nhóm người trong hình là những cán binh Cộng sản Bắc Việt.
Mặc dù bài viết trên của trang mạng Anh Quốc dailymail mắc phải khá nhiều chi tiết sai lầm, và cố tình thêm thắt sự việc, cũng như trong cách viết thiếu chính xác, vô trách nhiệm qua từ ngữ của một tác giả nào đó không có để tên, đó là chưa nói đến vấn đề viết sai năm mất của ông Ôn, nhưng đã vội vàng chạy hàng tít là "người nông dân" và khẳng định là nhóm người dân làng. Bài viết đó được chia sẻ rộng rãi và đa phần là những lời bình phẩm gay gắt, châm biếm vị Thượng Nghị sĩ McCain - trong đó, cũng có những người tự xưng là cựu chiến binh, cựu phi công Hoa Kỳ - nhưng họ bị mờ mắt không nhìn thấy rõ những gì trong bức hình, u mê trong cách đọc vội vàng bỏ qua nhiều chi tiết sai lạc quan trọng nên thiếu xét đoán sáng suốt, và quá dễ tin vào những bài viết chỉ vì chúng đến từ một trang mạng có tiếng nào đó. Và đây cũng là một câu chuyện về vấn đề "thâm" tình mà không hẳn phải là tình thâm.
E. Kết luận:

Những ai đã từng là những chiến binh phải đối mặt với cái chết và sống trong gang tấc, phải gánh chịu thương tích trên thể xát mình trong suốt cuộc đời còn lại, cho dù cuộc chiến đã chấm dứt đối với họ nhưng cuộc chiến không súng đạn khác vẫn còn đó trong những cơn ác mộng phản ảnh sự hãi hùng trong những chiến trận, hoặc những hình ảnh kinh khiếp nào qua những hành động trong tình huống không đủ thời gian suy ngẫm. Họ cũng chỉ là những nạn nhân chiến cuộc trong một góc nhìn khác. Họ không phải là những người máu lạnh khi những bứt rứt nào đó luôn dằn vặt lương tâm khốn khổ mà chỉ họ mới biết. Tuy nhiên, lòng thù hận và lợi ích chính trị nào đó bất chấp tất cả mọi thủ đoạn "đóng đinh" đối phương dù những người chiến binh đó có những hành động thiết thực nhằm bày tỏ sự hối tiếc đến như thế nào.
Nói thế không có nghĩa là đối phương của những chiến binh đó luôn luôn có những hành động không sai trái, không tàn bạo. Một vài thí dụ điển hình là cuộc thảm sát ở kinh thành Huế vào năm 1968 do sự cố ý có mục đích của những lực lượng Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng, hoặc cuộc thảm sát ở Dak Son, sông Bé vào năm 1967 do sự trả thù của Việt Cộng trên những người dân bản thượng qua những bức hình trong bài viết tổng thể "Biased in Vietnam War Atrocities' Reports" ("Có thành kiến trong những Báo cáo về những Hành động Tàn bạo trong Chiến tranh Việt Nam") có nguồn dịch sơ lược tại vietlandnews.net "Tội ác CS Việt nam: Thảm sát Dak Son - Sông Bé 1967." Nhưng tất cả những sự kiện thực tế đó, nhà cầm quyền Cộng sản luôn ém nhẹm, bưng bít hoặc tìm cách chối bỏ và đổ lỗi ngược lại cho đối phương một cách trơ trẻn, độc ác, và gian xảo. Những người Cộng sản luôn luôn thích tô vẽ mình bằng những ảo tưởng tốt đẹp nhất, thánh thiện nhất, cao đẹp nhất. Hoặc bất cứ cái gì "nhất" cũng phải thuộc về họ, ngay cả sự tàn bạo nhất mà họ luôn chối bỏ. Họ là những con người được đào tạo sao cho chai lì lòng thương hại vì nó là yếu tố ủy mị, yếu kém nhất đối với quan niệm được nhồi nhét của những cán binh, cán bộ Cộng sản. Và họ triệt để khai thác điều đó nơi đối phương để đắc thắng. Dù là thế nào, cuộc chiến không cần súng đạn đó chắc chắn diễn ra trong sâu kín nhất nơi mỗi một con người, ngay cả những người Cộng sản đầy bản sắc. Vì họ cũng chỉ là những con người phàm tục, không hơn không kém.
(Vụ thảm sát ở Dak Son --những thi thể được bó lại trong vật liệu
có sẵn, đang chờ đợi chôn cất, được chất đầy trong một trong những
căn chòi tạm bợ còn sót lại. Những thi thể nầy được mang ra từ một
nơi trú ẩn trong một đường hầm)
___________________________________
Phụ Chú
pc 01_ Nguyên văn trích từ bài viết "Memories Of A Massacre: Part I" vào ngày 11 tháng Hai năm 2009, như sau:
Mrs. Lanh: 
"The three children were scared and they crawled into a ditch. The old man and the old woman were lying down inside a house like the houses here. There was a water pump. He was sleeping inside the house and they went in and grabbed him and dragged him out to the water pump and that is where they cut his throat. Then they stabbed the three children." 
(Bà Lành:
Ba đứa trẻ sợ hãi và chúng bò vào trong một cái mương. Ông già và bà già đang nằm bên trong một căn nhà như những ngôi nhà ở đây. Có một máy bơm nước. Ông đang ngủ bên trong căn nhà và họ đã đi vào và chụp lấy ông và kéo ông ta ra đến máy bơm nước và đó là nơi mà họ cắt cổ họng ông ta. Sau đó, họ đâm ba đứa trẻ.)
Mặc dù chi tiết về máy bơm nước không được nhắc đến bởi ông Ambrose và ông Klann --hai chiến binh Hoa Kỳ thuộc lực lượng Seals có mặt ngay hiện trường lúc bấy giờ-- ông Klann cho biết số người hiện diện, giống tính, tuổi tác trong căn nhà như bà Lành đã mô tả. 
pc 02_ Nguyên văn trích từ bài viết "Memories Of A Massacre: Part I" ("Những ký ức về một cuộc Thảm sát: Phần I") vào ngày 11 tháng Hai năm 2009, như sau: 
Mrs. Lanh:
"I was hiding behind the banana tree and I saw them cut the man's neck, first here and then there. His head was still just barely attacked at the back."
(Bà Lành:
Tôi đang núp phía sau cây chuối và tôi nhìn thấy họ cắt cổ người đàn ông, đầu tiên ở đây và sau đó ở chỗ kia. Đầu ông ta chỉ còn hơi dính lại ở phía sau.)
pc 03_ Nguyên văn trích từ bài viết "Memories Of A Massacre: Part I" ("Những ký ức về một cuộc Thảm sát: Phần I") vào ngày 11 tháng Hai năm 2009, như sau:
Mrs. Lanh:
"It was very crowded so it wasn't possible for them to cut everybody's throats one by one. (edit) Two women came out and kneeled down. (edit) They shot these two old women and they fell forward and they rolled over. And then they ordered everybody out from the bunker and they lined them up and they shot all of them from behind."
(Bà Lành:
Rất đông người vì đó là điều không thể đối với họ cắt cổ mọi người từng người một. (được sửa chữa cho rõ nghĩa) Hai phụ nữ bước ra ngoài và quỳ xuống. (được sửa chữa cho rõ nghĩa) Họ đã bắn hai người phụ nữ lớn tuổi nầy và hai người phụ nữ ngã về phía trước và lăn qua. Và sau đó họ đã ra lệnh cho mọi người ra khỏi hầm trú trên mặt đất và họ xếp những người đó lại thành một hàng và họ bắn tất cả những người đó từ phía sau)
Và theo nguyên văn trích từ bài viết "One Awful Night in Thanh Phong" ("Một đêm Khủng khiếp ở xã Thanh Phong") của tác giả Gregory L. Vistica vào ngày 25 tháng Tư năm 2001, như sau:
"Lanh, who had been checking to see that her children were safe, says she crept close enough to witness what happened next."
(Bà Lành, vốn là người lúc bấy giờ đang kiểm soát để biết rằng những đứa con của mình được an toàn, nói rằng bà ta đã bò đến đủ gần để chứng kiến ​​những gì xảy ra kế tiếp.)
pc 04_ Nguyên văn trích từ bài viết "Memories Of A Massacre: Part I" ("Những ký ức về một cuộc Thảm sát: Phần I") vào ngày 11 tháng Hai năm 2009, như sau:
Narration: 
"That is precisely what Mrs. Lanh told us in Vietnam. Journalists who went to the village more recently reported that Mrs. Lanh now says she heard Rather than saw some of the killings."
"They also reported that another self-described eyewitness supports what Mrs. Lanh told us." 
(Người tường thuật:
Đó điều chính xác là những gì bà Lành nói với chúng tôi ở Việt Nam. Những nhà báo vốn là những người đã đi đến ngôi làng, trong thời gian gần đây hơn báo cáo rằng bà Lành bây giờ nói rằng bà ta nghe Hơn Là đã nhìn thấy một vài vụ giết hại.)
(Họ cũng báo cáo lại rằng có một người khác tự xưng là nhân chứng đứng ra xác minh những gì mà bà Lành đã nói với chúng tôi.) 
Và theo nguyên văn trích từ bài viết "A Farewell to Arms" ("Giả từ Vũ khí") của tác giả John Gregory Dunn vào ngày 13 tháng Sáu năm 2002, trên trang nybooks.com
"Vistica left Newsweek in 2000, kept the story, and sold the idea both to the Times Magazine and to CBS’s 60 Minutes franchise. In Vietnam a 60 Minutes II camera team shooting footage for the show in Thanh Phong discovered an elderly Vietnamese woman who claimed to have witnessed the killings. Her name was Pham Tri Lanh, she had been a Vietcong supporter in 1969, and she corroborated Klann’s account. Under close scrutiny by reporters from Time, however, Pham Tri Lanh’s testimony became less insistent, more malleable. She admitted that she had not actually seen the massacre; she had heard the screams of the dying, she now said, and had seen their bodies lined up." 
(Ông Vistica đã rời khỏi tuần báo Newsweek vào năm 2000, vẫn giữ lấy câu chuyện, và bán ý tưởng cho cả tạp chí Times và cho một chi nhánh "60 Phút" của đài CBS. Ở Việt Nam, một đoàn quay phim của "60 Phút II" đang quay cảnh làm nền cho chương trình ở xã Thanh Phong đã phát hiện một người phụ nữ Việt cao tuổi vốn là người tuyên bố là đã từng chứng kiến ​​những vụ giết hại. Tên của bà ta là Phạm Thị Lành, bà ta đã từng là một người ủng hộ Việt Cộng vào năm 1969, và bà ta chứng thực những lời tường thuật của ông Klann. Dưới sự xem xét kỹ lưỡng bởi các phóng viên từ báo Time, tuy thế, lời khai của Phạm Thị Lành trở nên kém khẳng định hơn, dễ có thể chỉnh sửa cho đúng hơn. Bà ta thừa nhận là bà ta đã không thực sự nhìn thấy vụ thảm sát; bây giờ bà ta nói rằng bà ta đã nghe những tiếng kêu thét của những người sắp chết, và đã nhìn thấy những thi thể của họ nằm xếp thành hàng.)
pc 05_ Nguyên văn trích từ bài viết "Memories Of A Massacre Part II" ("Những ký ức về một cuộc Thảm sát: Phần II") vào ngày 11 tháng Hai năm 2009, như sau:
Klann: 
"It was dead quiet. It was dead quiet. Then you could just hear certain people, hear their moaning. So we would just fire into that area until it was silent there. And that was it. And, and until, we were sure that everybody was dead."
(Ông Klann:
Đó là một sự yên lặng chết chóc. Một sự yên lặng chết chóc. Sau đó, anh bạn chỉ có thể nghe những người nào đó, nghe tiếng rên rỉ của họ. Vì vậy, chúng tôi sẽ chỉ bắn vào trong khu vực đó cho đến khi nó im lặng ở đó. Và đó là như thế. Và, và cho đến khi, chúng tôi chắc chắn rằng mọi người đã chết.)
pc 06_ QĐVNCH: Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
pc 07_ Trong chương trình "Gặp gỡ Báo chí" ("Meet the Press") của đài NBC vào năm 1971, anh Kerry được hỏi về việc có hay không bản thân anh ta đã từng can dự trong những hành động tàn bạo ở Việt Nam. Anh ta đáp lại như sau:
"There are all kinds of atrocities, and I would have to say that, yes, yes, I committed the same kind of atrocities as thousands of other soldiers have committed in that I took part in shootings in free fire zones. I conducted harassment and interdiction fire. I used 50 caliber machine guns, which we were granted and ordered to use, which were our only weapon against people. I took part in search and destroy missions, in the burning of villages. All of this is contrary to the laws of warfare, all of this is contrary to the Geneva Conventions and all of this is ordered as a matter of written established policy by the government of the United States from the top down. And I believe that the men who designed these, the men who designed the free fire zone, the men who ordered us, the men who signed off the air raid strike areas, I think these men, by the letter of the law, the same letter of the law that tried Lieutenant Calley, are war criminals." (theo en.wikipedia)
("Có tất cả các loại hành động tàn bạo, và tôi sẽ phải nói rằng, vâng, vâng, tôi đã nhúng tay vào cùng một loại những hành động tàn bạo như hàng ngàn những người lính khác đã từng can dự vào việc mà tôi đã tham gia vào những vụ nổ súng trong những vùng tự-do-bắn. Tôi đã tiến hành việc bắn phá gây rối và ngăn chận. Tôi đã sử dụng những khẩu súng máy cỡ nòng 50 ly, mà chúng tôi đã được cấp cho và được ra lệnh sử dụng, mà chúng là những vũ khí duy nhất của chúng tôi chống lại những người dân. Tôi đã tham gia trong những sứ mệnh tìm kiếm và tiêu diệt, trong việc đốt cháy những ngôi làng. Tất cả điều này thì trái ngược đối với những luật lệ chiến tranh, tất cả điều này thì trái ngược đối với những Quy ước Geneva và tất cả điều này được ra lệnh như là một chính sách thực sự được thiết lập, viết ra hẳn hoi bởi chính phủ Hoa Kỳ từ trên xuống dưới. Và tôi tin rằng những người vốn đã đưa ra những điều nầy, những người vốn đã quy định những vùng tự-do-bắn, những người vốn đã ra lệnh cho chúng tôi, những người vốn đã ký giấy cho phép những khu vực không kích, tôi nghĩ rằng những người nầy, theo tuân theo từng chữ của luật lệ, cùng chữ nghĩa hạn hẹp của luật lệ vốn đã xét xử Trung úy Calley, là những tội phạm chiến tranh.")
Anh Kerry, lúc bấy giờ, có một lý luận mạnh mẽ như đoạn trích ở trên, nên luôn được nhiều người cựu quân nhân phản chiến ủng hộ. Tuy nhiên, trong cái nhìn từ người miền Nam Việt Nam, điều đó chứng tỏ rằng quả thật anh Kerry còn rất non nớt kinh nghiệm trong chiến tranh. Đa số những binh lính Hoa Kỳ được huấn luyện rất kỹ về lý thuyết, thực tập về kỹ năng, nhưng bao nhiêu đó chưa đủ để ứng dụng vào mỗi tình huống chiến tranh khác nhau. Trên thực tế, những vùng đất xa xôi của miền Nam lại chính là vùng đất địch, sự tinh tế nhận biết đó chỉ có được nơi chính những binh lính miền Nam Việt Nam. Đó là một trở ngại lớn lao về văn hóa đưa đến những suy nghĩ sai lạc theo cái nhìn của những binh lính Hoa Kỳ, trừ khi nào những binh lính Hoa Kỳ có cơ hội hợp tác chiến lược với những binh lính Cộng hòa một thời gian, họ mới biết phân biệt và hiểu được một phần nào. Và điều nầy đã cho thấy trong cuốn sách "Ride the Thunder" ("Cưỡi cơn Sấm sét") của tác giả Richard Botkin, nhưng chỉ tiếc là nó được viết sau những năm thấm sâu cay đắng thất bại trên lãnh vực tuyên truyền của Cộng sản. Cũng có nghĩa là chính anh Kerry cũng bị xáo trộn về tư tưởng khi không nhận chân ra ý nghĩa của Chiến tranh Việt Nam và mục đích của đối phương. Dù là gì, anh ta cũng đã đổ xương máu vì nó, không ai không nhìn nhận công lao đó của anh ta, nhưng sự thất bại của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam có phần nào yếu tố là những phong trào phản chiến bởi chính những cựu quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam. Và anh Kerry không ngoại lệ.