Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011


Tranh chấp Biển Đông: điềm báo cho một thay đổi chiến lược ở khu vực?

Yoichi Kato
11-9-2011
Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông (Nguyên văn: biển Hoa Nam – ND) giữa Trung Quốc và các quốc gia duyên hải, gồm Việt Nam và Philippines, đang có thêm nhiều ý nghĩa chiến lược đối với toàn khu vực châu Á  – Thái Bình Dương và hơn thế nữa. Nhật Bản không thể coi nhẹ vấn đề này, xem nó như một hiện tượng biệt lập ở một khu vực xa xôi, bởi vì đây là vấn đề phản ánh chiến lược khu vực của Trung Quốc, một chiến lược dựa vào vị thế kinh tế và sự tự tin ngày càng cao của họ.
Thách thức có tính chất căn bản hơn là các nước trong khu vực, trong đó có Nhật Bản, nên xử lý như thế nào với mâu thuẫn chiến lược đang thể hiện rõ dần kia – kết quả của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng lớn với Trung Quốc và việc tiếp tục phụ thuộc vào trật tự an ninh khu vực do Mỹ bảo đảm.
Tranh chấp chủ quyền trên biển Hoa Nam có vẻ đã đạt tới một điểm cân bằng nào đó, tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-Trung Quốc và Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF) hồi tháng 7 ở Bali, Indonesia. 10 quốc gia thành viên ASEAN và Trung Hoa đã đồng ý về những nguyên tắc mới, mở đường cho việc thực thi bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC), một văn bản có tính chất dài hạn, tìm kiếm giải pháp hòa bình cho tranh chấp trên Biển Đông.
Ngoại trưởng Nhật Bản khi đó là ông Takeaki Matsumoto, người tham gia vòng hội nghị ASEAN này, đã hoan nghênh diễn tiến trên. Ông tuyên bố tại Nghị viện: “Tôi coi đây là một bước tiến về phía trước”.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng coi đây là “một bước quan trọng”, và đồng thời, bà kêu gọi ASEAN và Trung Quốc khẩn trương thực thi bước tiếp theo: xây dựng một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc về pháp lý để ngăn chặn xung đột. Bà Clinton nói thêm: “Các bên đưa ra yêu sách đều phải nêu yêu sách của mình một cách công khai và cụ thể để chúng ta có thể biết tranh chấp nằm ở đâu”.
Nhưng thế quân bình dường như đang sụp đổ nhanh chóng. Không đầy hai tuần sau hội nghị ở Bali, Nhân Dân Nhật Báo, tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã đăng tải một bài bình luận trên trang nhất, buộc tội Philippines xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc khi xây dựng một căn cứ quân sự tại một trong các đảo thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Bài báo kết thúc với một lời cảnh báo rất rắn: “Những ai phạm sai lầm chiến lược nghiêm trọng về vấn đề này sẽ phải trả giá thích đáng”.
Ngay lập tức, Tân Hoa Xã đăng một bài viết tiếng Anh tóm tắt lại câu chuyện. Rõ ràng là đảng và chính phủ Trung Quốc có ý định gửi thông điệp này tới tất cả các bên liên quan. Và trên thực tế, việc họ làm đã tạo ra xáo động trong khu vực.
Chính quyền Nhật Bản và Mỹ vẫn coi vòng hội nghị bộ trưởng ASEAN vừa qua là một thành công, bởi các hội nghị đã thành công trong việc đưa vấn đề “an ninh hàng hải” vào chương trình nghị sự của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào tháng 11 sắp tới. Với kết luận này của họ, vấn đề Biển Đông có thể được thảo luận nhiều hơn trong một bối cảnh đa phương rộng hơn tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, ngoài việc được thảo luận ở các hội nghị cấp ASEAN. Điều đó sẽ đảm bảo mang lại một cơ hội cho những quốc gia không có yêu sách nào, những quốc gia có sử dụng Biển Đông, như Nhật Bản và Mỹ, để họ có thể tham gia vào quá trình thảo luận.
Trên một mặt trận còn nhạy cảm hơn thế, hội nghị bộ trưởng ASEAN còn được coi là thành công bởi vì đã có một thỏa thuận ngầm hình thành giữa các quốc gia có yêu sách chủ quyền và các quốc gia sử dụng Biển Đông nhiều nhất, rằng sẽ tiếp tục đặt nghi vấn về tính pháp lý của yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực “đường 9 điểm” hay “đường 9 đoạn” trên Biển Đông. Chiến lược thận trọng này có vẻ đang lái Trung Quốc vào một thỏa thuận đa phương mới – một bộ quy tắc ứng xử để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình – bằng cách gây áp lực tập thể, thông qua việc liên tục phản đối tính pháp lý của yêu sách “đường 9 đoạn”.
Trung Quốc sử dụng đường hình chữ U, 9 đoạn, chạy dọc đường bờ biển và chuỗi đảo ở Biển Đông này làm cơ sở cho yêu sách chủ quyền của họ. Khu vực nằm trong đường 9 đoạn bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông. Theo các tài liệu chính thức cùng với tấm bản đồ mà chính phủ Trung Quốc đệ trình lên Liên Hợp Quốc vào năm 2009, Bắc Kinh đòi “chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trên Biển Đông và vùng nước lân cận”. Tuy nhiên, không rõ là Trung Quốc đòi chủ quyền toàn bộ phần Biển Đông nằm trong đường 9 đoạn như là lãnh hải của họ, hay yêu sách của họ chỉ áp dụng với các đảo và vùng nước lân cận của các đảo.
Vào ngày 24-8, khoảng một tháng sau hội nghị ARF, hai tàu tuần tra của cơ quan ngư chính Trung Quốc đã đi vào vùng biển thuộc chủ quyền của Nhật Bản, xung quanh một trong các đảo trong quần đảo Senkaku ở Đông Hải. Đây là lần đầu tiên tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Nhật xung quanh quần đảo Senkaku, tính từ năm 2008 khi hai tàu tuần tra của hải giám Trung Quốc (CMS) tiến vào và ở lại trong biển của Nhật Bản suốt 9 tiếng đồng hồ. Lần này, thời gian vi phạm ngắn hơn. Nhưng chính quyền Nhật Bản coi vụ việc này là rất nghiêm trọng bởi vì ngay cả khi tàu đánh cá Trung Quốc đâm vào một canô của lực lượng tuần duyên Nhật Bản, gần quần đảo Senkaku hồi tháng 9 năm ngoái, thì tất cả tàu của chính phủ Trung Quốc, kể cả của cơ quan ngư chính lẫn CMS, đều ở cách xa vùng biển thuộc chủ quyền Nhật Bản.
Đáp lại phản đối chính thức từ chính phủ Nhật Bản, một người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói: “Quần đảo Điếu Ngư (Senkaku) và các đảo con của nó đã là biển của Trung Quốc từ thời cổ. Tàu của Cơ quan Ngư chính Trung Quốc tuần tra vùng biển này để duy trì trật tự thường xuyên của hoạt động đánh bắt cá”.
Quan điểm này chẳng có gì mới, nhưng hành động hung hăng của một trong những cơ quan hành pháp về hàng hải thì mới. Về phần chính phủ Nhật Bản, có một số ý kiến suy luận rằng có lẽ ý định của Trung Quốc là thử xem lập trường của chính phủ Nhật Bản về chủ quyền cứng rắn đến đâu sau hội nghị ARF, nhất là vào thời điểm Nhật Bản đang chuyển giao quyền lực từ nội các Kan sang chính phủ tiếp theo.
Quan điểm hiện hành trong chính phủ Nhật Bản là điều gì đang xảy ra trên Đông Hải đều có liên hệ chặt chẽ với tranh chấp trên Biển Đông. Ngoại trưởng Minister Matsumoto tuyên bố trước Nghị viện: “Nhật Bản quan tâm rất sâu sắc tới tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông bởi các tranh chấp đó có ảnh hưởng tới hòa bình và an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và bởi vì chúng cũng có liên quan chặt chẽ tới việc bảo vệ an toàn cho giao thông trên biển”.
Tranh chấp chủ quyền không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hải. Còn có một số dấu hiệu gia tăng căng thẳng ở biên giới trên bộ Trung – Ấn. Các học giả Ấn Độ có quan điểm rằng Trung Quốc đang tham gia vào việc xác định lại biên giới trên đất liền và trên biển, nhằm giành vị thế quyền lực mạnh mẽ hơn. Và môt loạt hành động “xác định lại biên giới” như vậy đã được thực thi với cái giá phải trả là sự toàn vẹn chủ quyền và an ninh của các nước láng giềng. Ấn Độ chú ý sát sao tới tình hình trên Biển Đông bởi vì họ coi đó là một chỉ dấu cho những gì có thể xảy ra trong tranh chấp biên giới giữa họ với Trung Quốc.
Thách thức căn bản hơn nữa mà toàn bộ Ấn Độ-Thái Bình Dương phải đối mặt có lẽ là sự mâu thuẫn chiến lược mới xuất hiện. Đối với hầu hết các nước trong khu vực, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn, nếu không nói là lớn nhất, trong khi họ lại phải phụ thuộc vào Mỹ để duy trì được trật tự an ninh trong khu vực, kể cả quyền tự do hàng hải. Tuy nhiên, cái thế phụ thuộc kép này làm cho các nước trong vùng gặp khó khăn hơn trong việc quyết định nên hành động như thế nào khi và nếu Trung Quốc chống lại địa vị đứng đầu hiện nay của Mỹ. Đây dường như là những gì đang xảy ra trên Biển Đông lúc này.
Năm ngoái, ông Hugh White, cựu quan chức trong Bộ Quốc phòng Australia, có công bố một bài viết, tựa đề “Chuyển giao quyền lực – tương lai của Australia giữa Washington và Bắc Kinh”. Trong đó, ông chỉ ra rằng kỷ nguyên “Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối, không bị cạnh tranh” đã chấm dứt, và có thể tạo dựng một trật tự ôn hòa mới ở châu Á để dung chứa quyền lực ngày càng gia tăng của Trung Quốc, “nếu Mỹ sẵn lòng trao cho Trung Quốc một không gian chính trị và chiến lược nhất định”.
Cái cốt lõi trong lý luận của ông White là Mỹ nên ngừng việc cạnh tranh vị trí đứng đầu với Trung Quốc, mà nên chia sẻ quyền lực với Trung Quốc thì hơn. Ông cũng khuyến cáo rằng đã đến lúc phải tư duy lại chiến lược phòng ngừa (hedging strategy). Đây là đáp án khả thi để giải quyết bài toán “phụ thuộc kép”.
Vấn đề đang nổi lên trong những tranh cãi về vấn đề Biển Đông, là sự nhận thức rằng bản chất của tranh chấp chủ quyền là việc tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc, và một mình Mỹ thì không thể thống lĩnh cả khu vực, cho dù họ có năng lực khổng lồ về quân sự. Quan điểm chiếm ưu thế trong cộng đồng các nước ASEAN có thể không rõ ràng dứt khoát và cực đoan như của ông White. Nhưng nếu trên thực tế, “sự nổi lên của Trung Quốc và sự suy giảm tương đối “các hành động từ phía Mỹ, vẫn thường được coi như là một sự dập khuôn”, sự chuyển dịch từ “vị thế đứng đầu của Mỹ” sang “chia sẻ quyền lực Trung-Mỹ” có thể thu hút sự chú ý lớn hơn từ các nước và nhân dân trong khu vực. Sẽ có thách thức to lớn đối với Nhật Bản – quốc gia xây dựng chiến lược an ninh của mình dựa trên giả định rằng vị trí quyền lực số 1 của Mỹ là không thể nào lung lay.
Những gì đang xảy ra trên Biển Đông có thể là điềm báo một sự thay đổi tư duy chiến lược của các nước trong khu vực và cuối cùng là thay đổi chính trật tự chiến lược ở đây.
Thủy Trúc dịch từ Asahi Shimbun

SỐNG VỚI NGƯỜI VIỆT (4)

Tác giả: Philippe PapinLaurent Passicousset
Người dịch: Hoàng Hà. Hiệu đính: Diệu Linh

CÔNG, TƯ: NHỮNG MÁNH KHÓE LỪA ĐẢO CŨ RÍCH

Sau cơn bão Ketsana, chúng tôi đi tàu hỏa đến Đà Nẵng, thành phố khôn ngoan không để lộ ngay hết nét duyên thầm của mình. Nếu đến bằng đường quốc lộ, dù điểm vào thành phố là ở đâu thì cũng thấy đầy rẫy các loại xe tải và xe chở công ten nơ. Ầm ĩ và bụi bặm. Đâu đâu cũng thấy vận chuyển hàng hóa. Thành phố sống theo nhịp của cảng. Thành Tourane ngày xưa, trở thành căn cứ quân sự Mỹ trong chiến tranh, một thời gian dài sống nhờ vào cảng biển. Mới năm 2010 đây thôi, nhờ một địa điểm đặc biệt nằm lọt trong một vịnh vòng cung ba phần tư khép kín, thành phố thu hút rất nhiều tàu du lịch hạng sang, bổ sung thêm cho lượng khách du lịch đông đảo vẫn đổ xô đến bảo tàng Chàm, thánh địa Mỹ Sơn, Ngũ Hành Sơn và khu thương cảng cổ Hội An. Bãi biển Mỹ Khê tuyệt đẹp, nơi trong chiến tranh lính thủy đánh bộ Mỹ vẫn về nghỉ phép, cũng không hề tỏ ra thờ ơ với khách vãng lai. Tiếc thay, chúng tôi đến Đà Nẵng đâu phải để du lịch, càng không phải để đi tắm biển.

Thăng trầm một gia đình doanh nhân
Chúng tôi đến thăm vợ chồng ông bà Luân-Ngọc, hầu chuyện họ có rất nhiều điều thú vị. Ông bà sống trong một căn nhà nhỏ nơi trung tâm thành phố, giống như ở Hà Nội hay Hải Phòng, những căn nhà như vậy được xây sau năm 1954 trong vườn của những tòa biệt thự mặt phố của thực dân ngày xưa. Cho nên cứ phải đi một vòng mới tìm lại được căn nhà lớn nay đã xuống cấp, nơi 23 người là con cháu của những người chủ xưa hiện nay đang sinh sống. Nhà chủ xưa không phải người Pháp. (Người ta thường hay quên rằng những người Việt giàu có cũng sở hữu các biệt thự kiểu thực dân như thế này). Với 3 tầng gác, ban công chấn song và mái bằng nơi quần áo phơi cạnh bàn thờ tổ tiên, căn nhà của ông bà Luân-Ngọc gần như không có gì đặc biệt, có chăng là ở chỗ ông bà không tận dụng khoảng không gian giữa phố và phòng khách để mở cửa hàng.
Họ có đủ tiền để không cần phải bán đồ ngũ kim, quần áo hay bàn ghế Trung Quốc, nhưng vẫn luôn mở rộng cửa suốt cả ngày, làm việc của mình mà không ngại thiên hạ dòm ngó. Để thế cho thoáng, cho đỡ buồn và cho giống ở quê. Vả lại, trong các khu chung cư hiện đại người ta vẫn sống như thế. Cửa vào các căn hộ được đánh dấu bởi đủ kiểu giày dép các loại nhưng hàng xóm vẫn có thể vào được.
Ngôi nhà của ông bà Luân-Ngọc đang lâm nguy. Từ vài năm nay, số lượng các dự án bất động sản tăng nhanh, làm thay đổi bộ mặt thành phố. Nhà cao tầng thương mại mọc lên trong trung tâm thành phố, chung cư ở ngoại vi, biến Đà Nẵng thành một công trường khổng lồ không lúc nào ngơi nghỉ, mật độ nhà ở không tăng nhưng nhà cổ bị phá đi không thương tiếc. Tuy thế, ông bà bạn chúng tôi không tỏ ra lo lắng mấy.
Ông Luân nhận xét tuy khoảng hơn 20 dự án lớn đã triển khai, phần lớn các khu nhà vẫn còn nằm trong giai đoạn áp phích quảng cáo và những pa nô tuyên truyền về một khu đô thị mới sắp ra đời “giàu, đẹp, văn minh, hiện đại”. Từ thiết kế đến thực tế còn xa. Vả lại, phản đối để mà làm gì? Như ông Luân, con người của vận động và nghị lực phi thường, vẫn nói: “Hướng của lịch sử là như thế. Không thể cứ mãi là một cảng công nghiệp trong suốt hàng thế kỷ được!”.
Người thấp, đậm, khoảng ngoài 60, cực kỳ thân mật, ông Luân không chịu ngồi yên. Từ lúc chúng tôi tới đến giờ khoảng 10 phút, ông đã gọi đến 3 cuộc điện thoại, mời trà, tưới cây và đi 200 mét qua phòng khách, nhà bếp, ra phố, vào phòng ngủ. Năng lượng của người đàn ông này thật không tưởng. Vợ ông giữ kẽ bao nhiêu thì ông lại nói nhiều và hăng bấy nhiêu về tất cả những gì đang vận động và thay đổi. Không gì làm ông chán bằng sự lặp đi lặp lại, thói quen hay truyền thống. Đời sống nghề nghiệp của ông là minh chứng cho khả năng thích nghi vốn làm nên sức mạnh của nhiều người Việt Nam. Sự trải nghiệm của ông ở thời điểm bản lề giữa hai chế độ chính trị cho chúng tôi hiểu thêm về giới kinh doanh và về sự ảnh hưởng của những thói quen năm xưa đến cách làm ngày nay.
Ông Luân cưới vợ năm 1965, khi những người lính Mỹ đầu tiên tới Việt Nam. Lúc đó ông bà là chủ một doanh nghiệp nhỏ chuyên vận tải đường bộ. Họ có 3 xe tải, lấy được từ kho quân đội Pháp, và một nhà kho phía bắc thành phố, không xa ga xe lửa và cảng biển là mấy. Nhờ nguồn cầu lớn từ quân đội chính quyền miền Nam Việt Nam được Mỹ thành lập và tài trợ, doanh nghiệp của ông bà phát triển nhanh chóng. Tham dự tất cả các đợt đấu thầu, hết hợp đồng này đến đặt hàng khác, doanh nghiệp trở thành số một của thành phố, rồi của cả vùng, đến mức mở rộng ra cả Sài Gòn, vốn là đất riêng của giới mafia địa phương và Hoa kiều.
Khi đã có trong tay 4 chiếc xe tải cũ, năm 1967, ông Luân tậu thêm 8 tiếng Ford mới coóng vài năm liền sau này sẽ ngược xuôi trên khắp các tuyến đường phía Nam. Ông thú nhận thời đó ông bà giàu lên trông thấy. Vợ ông ngồi đó và không có vẻ gì là muốn cải chính lời chồng. Tiền vào như nước, tỷ lệ thuận với việc Mỹ ngày càng can dự sâu hơn vào chiến trường miền Nam, và với mức gia tăng nguy hiểm cho các chuyến xe. Chính trị không phải là vấn đề. Như tất cả mọi người, một mặt ông Luân trao phong bì cho các công chức miền Nam, mặt khác ông lại trả thuế cách mạng cho những người thân cộng sản (thậm chí có lần, năm 1972, ông còn vận chuyển nhiều thùng súng máy kalachnikov giấu dưới các bao xi măng).
Khi quân đội miền Bắc chiếm được Đà Nẵng tháng 3 năm 1975, mọi thứ đột nhiên sụp đổ hết. Vì có quan hệ với những người chiến thắng nên ông thoát khỏi tình trạng tồi tệ nhất là phải vào trại cải tạo. Nhưng những quan hệ ấy không đủ để giúp ông giữ việc kinh doanh: từ hôm trước đến hôm sau, doanh nghiệp của ông bị quốc hữu hóa, tài sản bị tịch biên. Ông bà Luân-Ngọc hoàn toàn trắng tay, sống khép mình lại và không dám thử hối lộ các cán bộ chính quyền mới nhằm giữ lại chút gì, có chăng chỉ là ngôi nhà ngày nay ông bà vẫn đang ở. 15 năm sau đó, ông bà sống cũng không cực khổ lắm, vì có mấy cây vàng như tất cả các gia đình Việt Nam thời đó vẫn dùng để bảo quản tài sản ngay trước thời điểm tháng 4/1975. Tuy sống không cực, nhưng ông bà phải rất dè chừng, không để ai thấy mình sống không khổ bằng họ: “Cái xa xỉ nhất lúc đó là ăn thịt gà nhờ người ta mua hộ, mà cắt gà phải cắt bằng kéo chứ nếu chặt bằng dao thì sợ hàng xóm nghe thấy mất, nhỡ họ lại đi tố cáo thì chết”. Đến đây thì chuyện chẳng có gì lạ, vì ai chẳng thế. Phần tiếp theo mới cho chúng ta thấy mọi chuyện ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa diễn ra như thế nào.
Đầu tiên là doanh nghiệp của ông bà Luân-Ngọc không biến mất. Nó chính thức được nhập vào sở Giao thông vận tải tỉnh, dưới cái tên bí hiểm “công ty 28”, đặt dưới sự quản lý của cán bộ ủy ban nhân dân thành phố, và họ nhanh chóng hiểu rằng cần phải làm gì để khai thác nó cho hiệu quả nhất. Mấy chiếc Ford được vội vã gắn thêm xi téc vào khung xe để chở xăng từ các kho miền Bắc đến các kho miền Nam. Việc chọn mặt hàng này là đúng sách vì xăng là mặt hàng duy nhất được mua bán tự do, chỉ đơn giản là vì miền Nam quá cần và việc trao đổi trái ngược hẳn với những gì diễn ra ở chợ đen khổng lồ và nhục nhã vẫn chuyển hàng hóa tiêu dùng từ phía Nam ra phía Bắc. Việc làm ăn này của doanh nghiệp vừa kín đáo, hợp pháp lại có lãi, đến nỗi cuối cùng các cán bộ thành phố coi đó là tài sản của mình. Họ lập ra sổ kế toán kép và chia lãi với nhau, sự vi phạm nhỏ này đối với chủ nghĩa xã hội không làm ai thấy phải lăn tăn gì, chẳng qua nó chỉ như một sự đền bù thích đáng cho những thiếu thốn họ đã phải trải qua suốt những năm chiến tranh. Đó chính là sự xuất hiện, ngay năm 1975, của một thực tế sau này sẽ còn kéo dài: tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước ngay trong lòng của nó.
Vài tháng sau, cán bộ đến nhà nhờ ông Luân giúp. Tổ chức các chuyến xe, quản lý các kho nhiên liệu, tìm lái xe giỏi và thợ máy đáng tin cậy: đâu phải tự nhiên mà làm được. Thế là ông lại đi làm. Thời gian đầu là làm tư vấn ở nhà, sau đó ông được mời đến giúp việc cho sở Giao thông, một vị trí thuận lợi để các sếp trên có thể nhờ đến những lời khuyên của ông. Ông không phải công chức, cũng chẳng phải đảng viên, nhưng đã tìm được chỗ đứng trong xã hội mới và nhờ thế mà có cách xóa đi quá khứ doanh nhân tư bản của mình. Về mặt chính thức thì lương ông chỉ ba cọc ba đồng, nhưng thực tế ông kiếm được nhờ việc thỉnh thoảng tham gia chở lậu xà bông, dầu gội đầu, quần áo, ti vi, máy điều hòa Mỹ giấu trong xi téc chở xăng. Ông cựu chủ doanh nghiệp sống lay lắt trong cái doanh nghiệp nửa nhà nước nửa mafia đang đi những bước chập chững đầu tiên này.
Thập kỷ đầu tiên sau mở cửa, từ 1986 đến 1995, ông bà Luân-Ngọc tận hưởng tối đa sự tiếp tay của các quan chức thành phố, trong đó một số đã trở thành bạn bè. Chính họ đứng ra bảo trợ cho ông vào đảng năm 1994, bất chấp những hoạt động ông đã làm trong chiến tranh và lý lịch có vấn đề của ông (cha ông làm cho bưu điện thời thực dân). Vậy là ông có thẻ đảng, thứ không phải là thực sự thiết yếu nhưng, như ông vẫn nói đùa là “cái mà không có nó thì”.
Về phần mình, bà Ngọc cũng tham gia cuộc chơi. Bà gia nhập hội phụ nữ và hoạt động “nhiệt tình như gái đôi mươi”, theo lời bà. Được bảo vệ trên phương diện chính trị, năm 1996, ông bà thành lập một doanh nghiệp vận tải mới và ngay lập tức liên doanh với “công ty 28” vì chẳng thể khác được, làm ăn với một doanh nghiệp về mặt chính thức vẫn là doanh nghiệp nhà nước thì dễ có lãi hơn nhiều. Phải ghi nhận điều này: doanh nghiệp năm 1996 khác hẳn với doanh nghiệp đã từng hoạt động trong chiến tranh. Không phải là quay lại với cách kinh doanh tự do kiểu cũ mà là một hình thức kinh tế mới, một cách kinh doanh chưa từng có và sự thực là đặc biệt hợp với bối cảnh bấy giờ. Nghe có vẻ trái khoáy. Vào thời điểm mà chủ nghĩa xã hội như vầng trăng đã cũ, các doanh nghiệp nhà nước sa thải hàng loạt, đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào và biên giới được mở ra, những người bạn của chúng tôi lại chọn cách núp bóng Nhà nước. Cách đấy hóa ra lại hay: doanh nghiệp của họ không ngừng ăn nên làm ra trong cả chục năm.
1975: Hà Nội gặp thị trường
Đến lúc này, câu chuyện của ông bà Luân-Ngọc đã rất bổ ích vì nó cho thấy cú sốc của sự thống nhất năm 1976, sau suốt 30 năm chiến tranh, thực tế đã phức tạp hơn vẻ ngoài của nó rất nhiều. Về mặt chính trị, chiến thắng áp đảo của chế độ Hà Nội và những người thân cộng sản đã trói buộc miền Nam, nơi dân chúng bị buộc phải lưu vong, giới tinh hoa địa phương bị đi cải tạo, cộng sản trở thành ông chủ và, trong khi bầu không khí nói chung chuyển sang màu đỏ Mạc-Tư-Khoa, kinh tế bị đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước từ nay sẽ lo tuốt mọi việc. Cái khó thấy hơn, ngoài những câu chuyện đời cá nhân, chính là sức mạnh của cú sốc ngược lại.
Ở Sài gòn, thành phố phản bội và đồi bại, mà người ta đã vẽ ra cho họ bức tranh khủng khiếp nhất có thể, các anh du kích và bộ đội gốc nông dân mở to đôi mắt ngây ngô trước những quầy đầy hàng họ chưa từng thấy bao giờ. Lang thang trong các chợ ngoài trời, họ phát hiện ra có những con rô bốt làm việc nhà, búp bê nhựa, mỳ ăn liền, máy sưởi, máy lạnh và ti vi màu. 20 năm sau khi chiếm được Hà Nội, ngày 10/10/1954, sự kiện đã làm cha anh của họ bối rối đến mức khi vào dinh thự thực dân phải lịch sự bỏ dép cao su ở ngoài mới dám bước lên thảm trải sàn, sự sửng sốt lần này quả là kinh khủng. Sài Gòn đầy những người khốn khổ, nghiện ngập, đĩ điếm, nhưng cũng có những thứ giúp sống tốt hơn và làm dịu đi nỗi đau của cuộc chiến tranh tàn bạo nhất. Đó không chỉ là một chiến lợi phẩm: miền Nam có tất cả, miền Bắc chẳng có gì, họ nghĩ rằng đó là vì miền Bắc đã làm sai. Ý tưởng về sự thay đổi bắt đầu. Nền kinh tế tự do của miền Nam, được minh họa bởi sự giàu có mà người Mỹ bỏ lại, gieo vào đầu người ta ý tưởng rằng có thể có một cách làm khác. Sự li dị với chủ nghĩa xã hội, hay nói đúng hơn là vụ xung đột gia đình đầu tiên diễn ra tại đây, ngay thời điểm chiến thắng vẻ vang.
Trong khi chờ đợi, luồng khí được tạo ra giữa sự trống rỗng của miền Bắc và sự thừa mứa của miền Nam đã làm đảo lộn mọi thông lệ. Giao thương được phép và buôn lậu dần xói mòn cấu trúc đẹp đẽ của chủ nghĩa xã hội. Dân thường nhảy bước ngắn, cán bộ nhảy bước dài, một hệ thống trao đổi khổng lồ chuyển ra Bắc nào thuốc, tủ lạnh, đài, máy lạnh và xe đạp, và chở vô Nam nào xăng, đồng và ni ken. Dễ hiểu tại sao ở Đà Nẵng, bản lề của đất nước, cán bộ thành phố không mất mấy thời gian chần chừ để lấy lại doanh nghiệp của ông bà Luân-Ngọc. Để có thể có một cái nhìn chính xác về Việt Nam ngày nay, cần phải hiểu rằng năm 1975 đã làm đảo lộn cả hệ thống, về ngắn hạn là tạo ra những thị trường song song, về dài hạn là làm lung lay lòng tin chắc chắn vào chủ nghĩa tập thể.
Thế mà, khác với vẻ bên ngoài, tác động của cú đánh kép này còn tăng lên trong những năm sau. Về mặt ý thức hệ, việc cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và bước vào vùng ảnh hưởng của Liên Xô cho phép Việt Nam thoát khỏi Mao và lâu lâu sau đó là Stalin. Về mặt thực tiễn, việc hội nhập kinh tế với các nước anh em được thể hiện qua sự mở cửa đón chào những kinh nghiệm khác (Hung-ga-ri hay Tiệp khắc), qua những trao đổi hàng hóa trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế Comecon, và một cách rất cụ thể là qua việc gửi hàng ngàn công nhân Việt Nam ra nước ngoài. Khi hết hợp đồng, những người này mang về nước những công ten nơ đầy bàn ghế tủ giường, linh kiện cơ khí, đồ gia dụng và dụng cụ bằng sắt tây, tất cả đều để bán lại, được hợp pháp hóa bởi một con dấu chả mấy khi vô tư. Tủ lạnh Saratov và xe máy Babetta, với một núi bàn là và thùng đá, bổ sung cho nguồn dự trữ Sài Gòn. Còn siêu hơn nữa: người ta đã tìm cách bán lại được sang các nước Đông Âu số son môi và đồng hồ mà người Mỹ đã bỏ lại. Anh Nguyễn Văn Bình, công nhân về hưu trước làm cho mỏ than ven vịnh Hạ Long kể chúng tôi nghe anh đã bán được sang tận vùng Silesie của Ba Lan cả một va li đầy đồng hồ và nước hoa made in USA mà trước đó anh đã rắp tâm mua bằng được ở Hà Nội. Tiền lời anh chuyển ngay thành 25 chiếc quạt Liên xô (gọi là quạt tai voi) và 100 chậu sắt tây to đùng sau đó mang về Việt Nam nấu chảy ra để sản xuất những xô chậu bé hơn cho dễ bán…
Vào thời ấy, chợ đen, hay nói đúng hơn là chợ xám, trở thành chuẩn mực. Cán bộ công chức tất nhiên là những người hưởng đầu tiên nhưng do mối quan hệ gia đình dây mơ rễ má nên tất cả mọi người đều chịu ảnh hưởng, kể cả nông dân. Phần kiếm thêm nhờ chợ đen là nguồn thu nhập chủ yếu, hơi giống như có mảnh đất riêng ở quê, bởi vì không phải ai cũng may mắn như ông bà Luân-Ngọc có của để dành để mà làm cho nó sinh lời. Chính nhờ buôn lậu mà dân chúng sống sót qua được giai đoạn 1975-1990 mà lẽ ra trên nhiều phương diện đã có thể là một thảm họa (thảm họa thật sự năm 1988, với nạn đói chết người ở nhiều nơi). Chúng ta thử nghĩ xem vào thời gian đó, khi mà tư thương bị chính thức cấm đoán, các quầy hàng Nhà nước vẫn được lén lút đem cho tư nhân thuê, mà người đem cho thuê lại chính là người nhà các quan chức quản lý chúng.
Đó chính là trường hợp của đại siêu thị xã hội chủ nghĩa trên phố Tràng Tiền, Hà Nội, nơi có không khí đúng như kiểu Bắc Triều Tiên (đèn đóm tù mù, thiếu hàng thường xuyên, mậu dịch viên đanh đá) nhưng về mặt tài chính đã ít chính thống hơn. Thời nay vẫn còn sót lại đôi chút hơi hướng thời đó khi nhân viên bưu điện hay hỏa xa lúc thối lại tiền thừa cho khách cứ phải lục mãi trong ví mình.
Chính trị thì không đi nhanh đến thế. Dù chính quyền để yên cho làm – mà đôi khi cũng lồng lên tí chút – chính quyền không chịu công nhận thời thế nay đã khác. Về mặt chính thức, không gì được phép cả. Tại sao? Ngoài sức ỳ quan liêu, lý do chính là tình hình quan hệ quốc tế thời bấy giờ. Việc Khmer đỏ tay sai của Bắc Kinh xâm lược Cam pu chia (1978) rồi cuộc chiến với Trung Quốc sau đó (bắt đầu tháng 2-3/1979 và còn dây dưa mãi đến 1989) làm cho về mặt chính trị là không thể bắt chước cải cách kinh tế mà đích thân Đặng Tiểu Bình khởi xướng vào chính thời điểm đó (đại hội XI Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 12/1978). Không lấy kẻ thù làm hình mẫu được. Hình mẫu Trung Quốc trước đây được ca ngợi hết lời nay không còn hợp thời nữa. Cho nên có thể nói căng thẳng với Trung Quốc làm chậm lại không phải bản thân sự thay đổi mà là việc hợp thức hóa sự thay đổi ấy. Việt Nam mở cửa, qua miền Nam và khối các nước Đông Âu, nhưng chiến lược của nước này trong phe xã hội chủ nghĩa là thân Xô ghét Trung đã không cho phép Việt Nam nói ra điều đó. Cải cách chỉ đến 10-15 năm sau đó, chính thức là năm 1986, trên thực tế là năm 1992. Sự chênh lệch này chính là nguyên nhân của tình hình 2010.
Trong suốt gần hai thập kỷ, tự do hóa được dung thứ nhưng không được công nhận, không có một khuôn khổ pháp luật và chính trị chung có thể cho phép nó vươn tới những cơ cấu hợp pháp của nền kinh tế, ví dụ như công nghiệp, ngân hàng, ngoại thương hay quản trị doanh nghiệp nhà nước, như ở Trung Quốc. Tác động kéo theo các lĩnh vực khác coi như bằng không. Buôn bán nhỏ giúp dân sống được qua ngày, nhưng không có tác dụng gì tích cực lên sự vận hành của các thể chế Nhà nước. Không nắm được tình hình đang thay đổi, các thể chế này vẫn tiếp tục vận hành theo lối cũ. Nếp hằn ấy sâu đến nỗi bây giờ vẫn còn. Ví dụ, mặc cho kinh tế biến chuyển nhanh chóng, khủng hoảng ngân hàng, đầu tư nước ngoài giảm sút và lạm phát tăng trở lại năm 2008, một vài bộ vẫn hoạt động theo kiểu kế hoạch hóa và thi đua xã hội chủ nghĩa, y như ngày xưa, dựng lên những bảng biểu thống kê để mà đưa ra những kết quả dự đoán phải đạt được, mà chẳng thèm đếm xỉa tới bối cảnh thực tế hay những kết quả thực tế đã đạt. Con số, kế hoạch, chỉ tiêu vẫn là những giá trị cơ bản. Từ đó đến phủ nhận thực tế không còn xa. Khi tháng 9/2008, Thủ tướng công bố lạm phát đã được kiềm chế ở mức 1,6%, như dự đoán, không một người Việt Nam nào không biết trên thực tế nó đã ở mức 25%, thậm chí 40% đối với lương thực thực phẩm.
Trong khi chờ đợi, giữa 1975 và 1992, vì không thể cải tổ thể chế, hoạt động tư nhân vẫn tiếp tục phát triển, nhưng không có sự thay đổi về bản chất cũng như về quy mô: bơi giữa dòng nước đục và kiếm chác trên chợ đen, như ngày xưa. Cái lẽ ra chỉ là tạm thời, là một đòn bẩy cho sự phát triển lại trở thành quy tắc. Vì thế nếu muốn tồn tại, chỉ còn cách là lại cậy nhờ đến quen thân. Làm sao khác được? Nếu không có gì được cho phép thì có nghĩa là làm gì cũng được. Ông bà Luân-Ngọc nói đã giàu lên được mà không thấy áy náy gì nhờ chi phong bì để kiếm hợp đồng, nhậu nhẹt với ủy ban nhân dân và trốn thuế. Từ việc kinh doanh xăng dầu, doanh nghiệp vận tải của ông bà, canh ty với quan chức địa phương, chuyển sang buôn đủ loại: vài năm sau khi chuyển hàng từ Sài Gòn ra Bắc, doanh nghiệp quay sang vận chuyển những thùng đồ mà hải quân Liên Xô đã “bỏ quên” tại các bến cảng Đà Nẵng và Cam Ranh (vải và gạo đổi lấy đồng hồ Boctok và vodka Smirnoff). Cũng giống như doanh nghiệp của ông bà, toàn bộ khối tư nhân chuyển sang lén lút, lách luật và hối lộ.
Khi cuối cùng đã đến thời điểm mở cửa chính thức, những thói quen xấu này đã trở nên vô cùng tệ hại. Các khái niệm như đối tác, hợp đồng, tôn trọng cam kết xa lạ đến nỗi việc hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài là vô cùng phức tạp. Nếu có thể lách là lách ngay. Nhân công không phải lúc nào cũng được khai đầy đủ; có hai sổ kế toán (một sổ thật và một sổ dởm); thuế hàng năm nộp trao tay và hóa đơn tiền điện có thể đàm phán. Trong giới làm ăn, theo như một vài tạp chí quốc tế đánh giá thì uy tín của Việt Nam ở vị trí thấp chưa từng có. Nhớ lại một số tạp chí Kinh tế viễn đông khi đánh giá môi trường kinh doanh đã xếp Việt Nam hạng bét châu Á trong hầu hết các lĩnh vực (số báo này có thể tìm thấy ở Việt Nam, nhưng bị kiểm duyệt dùng bút dạ đen gạch hết những chỗ nhạy cảm). Tóm lại, đến thời điểm thuận lợi, khối tư nhân vốn đã chìm đắm trong thói quen lén lút và phi pháp, trước đây là những cách làm duy nhất có thể làm được và có thể sinh lời, nay hoàn toàn không đủ tầm với thời cuộc. Không có doanh nghiệp địa phương nào có khả năng giúp doanh nghiệp nước ngoài triển khai các dự án kinh tế lớn. Chính quyền quá đỗi ngạc nhiên, họ vẫn tưởng mở cửa là để doanh nghiệp tư nhân phải bì bõm trong sự không chính thức và để tăng cường vai trò của Nhà nước và quan chức Nhà nước.
1986: muốn cứu chế độ, hãy cứu Nhà nước!
Việt Nam, đất nước vốn sống nhờ viện trợ Liên Xô, hoàn toàn bất ổn trước perestroika. Tự nhiên 1/5 thu nhập quốc gia bay mất tiêu, thị trường chắc chắn bên các nước anh em (70% giá trị xuất khẩu và 85% giá trị nhập khẩu), sự gia hạn nợ của những năm chiến tranh mà Liên Xô dành cho cũng mất luôn. Đất nước mất khả năng đảm bảo những chi trả hàng ngày, chưa nói đến những khoản chi bất thường do sự kiện 1979 gây ra (lưu 200 ngàn quân ở Cam pu chia, 400 ngàn quân ở biên giới Trung Hoa, Mỹ cấm vận, quốc tế ngừng viện trợ). Nhà nước cạn vốn, đành phải in thêm tiền và tiến hành một cuộc cải cách tiền tệ tai hại. Năm 1986, lạm phát đạt 480% (1000% năm 1988, năm có người chết đói), các sản phẩm cơ bản phải mua theo tem phiếu.
Chế độ đành phải mở cửa để tự cứu mình, chứ không phải vì đó là một sự lựa chọn có cân nhắc. Và họ làm điều này cẩn trọng, từ từ, với vô số biện pháp đề phòng, chỉ đơn giản là để tránh xảy ra trường hợp mọi việc diễn biến theo kiểu Nga. Do phá sản kinh tế mà ra, nhưng mở cửa vẫn được coi như một chiến lược chính trị. Lúc đầu là để thay thế tiền của Liên Xô bằng tiền của các doanh nghiệp nước ngoài, của Việt kiều và các nhà tài trợ quốc tế, sau đó là để tận dụng thời cơ mà nắm lấy khu vực kinh tế thực sự vốn lâu nay bị lấp trong sự lén lút khiến cho chính quyền không thể kiểm soát 15 năm nay. Cách tính này tốt, với điều kiện là nối thẳng nguồn vốn nước ngoài tới các cơ quan Nhà nước: mọi việc diễn ra đúng như thế, với trò cấp phép đầu tư và vai trò cực lớn của bộ Kế hoạch đầu tư lúc đó trở thành một dạng bộ tài chính đứng ra chia lộc. Hệ thống ấy vận hành suốt 20 năm. Đến năm 2010, tiền nước ngoài vẫn còn chiếm 1/3 tài sản quốc gia.
Sự chậm trễ này so với Trung Quốc cuối cùng cũng bắt Hà Nội phải trả giá đắt. Ở bên đó, ngay từ đầu những năm 1980, cải cách kinh tế đã buộc các doanh nghiệp nhà nước phải có trách nhiệm hơn, sử dụng hợp đồng lao động thay vì chế độ làm việc đến hết đời, và nhất là, tinh giảm biên chế triệt để. Do số lao động liên quan chiếm đến 20% tổng số lao động, chương trình cải cách đã vấp phải những sự kháng cự đông người, từ rất sớm, bạo lực và kéo dài. Sự phản đối của công nhân khối quốc doanh đã khơi mào cho sự kiện Thiên An Môn 1989, rồi đến các vụ đình công lớn ở tỉnh Tứ xuyên 8 năm sau. Vậy là Trung Quốc tinh giảm biên chế, nhưng vô cùng khó khăn.
Việt Nam cũng triển khai như thế, bằng cách xóa bỏ một nửa số doanh nghiệp nhà nước, nhưng sau Trung Quốc 10 năm, làm ngay một lúc nhưng dễ dàng hơn vì cả ngành công nghiệp Nhà nước chỉ chiếm 5% số tài sản quốc gia và 2% số công nhân. Sự khác biệt trong cách tiến hành và nhịp độ tiến hành cải cách thay đổi tất cả. Ở Trung Quốc, trong khi các doanh nghiệp quốc doanh sa thải khó khăn và mất thời gian giải quyết xung đột và trì trệ, khối doanh nghiệp tư nhân đã kịp tận dụng thời cơ để lột xác: trở nên nhẹ nhõm hơn, trang bị tốt hơn, hiện đại hơn, hướng về xuất khẩu để đối phó với việc sản xuất thừa mứa, và thắng khu vực Nhà nước nay đã hoàn toàn không thể cạnh tranh nổi. Ở Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân không có may mắn đó (hay là các doanh nghiệp Nhà nước không bị cái hạn đó). Khối tư nhân đã không biết cách tận dụng thời cơ doanh nghiệp quốc doanh chậm tinh giảm bộ máy, và cũng không lao ngay vào cuộc cạnh tranh vì bản thân họ cũng chẳng có gì để bán.
Sự tự do hóa kinh tế, nói chữ là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vì thế đã gây ra những hậu quả hoàn toàn trái ngược. Ở Trung Quốc, từ 1978 đến 2000, phần đóng góp của Nhà nước trong GDP đã giảm từ 1/3 xuống còn 1/10, buộc chính phủ, với sự hỗ trợ của phái “tân tả”, phải can thiệp để đưa con số này lên 20% (mục tiêu đã đạt được năm 2007). Giới lãnh đạo Việt Nam không gặp phải vấn đề này. Phần của Nhà nước đã tăng, từ 1/3 lên đến ½ GDP, rồi ổn định ở mức 40%, gấp đôi so với Trung Quốc. Đứng trên phương diện này, việc mở cửa đã thành công. Khối quốc doanh, đặt cược sự sống còn của mình, trong vòng 10 năm đã trở thành động lực của nền kinh tế và là nhân tố chủ đạo.
Bối cảnh này lý giải tại sao, cũng trong năm 1996, ông bà Luân-Ngọc thấy nên có quan hệ đối tác với một doanh nghiệp Nhà nước liên quan đến ủy ban nhân dân thành phố. Họ làm như thế vì không thể phát triển mà không núp bóng Nhà nước và có sự trợ giúp của công chức Nhà nước. Bà Ngọc cho biết: “Trước khi mở cửa, ông Luân đã làm cho “công ty 28”, công ty trước năm 1975 còn thuộc về chúng tôi. Sau khi mở cửa thì có gì khác? Lúc đầu là không có gì, phải mất 10 năm chúng tôi mới lại lập thêm được một công ty mới. Sau đó kiếm tiền có khá hơn, nhưng điều kiện kinh doanh và khách hàng vẫn thế. Trừ một hợp đồng công ten nơ béo bở mà chúng tôi tự kiếm được với một công ty nước ngoài, thì vẫn là việc vận tải cho tỉnh và các thành phố lớn, thông qua các doanh nghiệp quốc doanh, tức là việc làm thuê cho Nhà nước, đi kèm với đó là móc nối, là hoa hồng. Nếu không có quan hệ với ủy ban nhân dân thì doanh nghiệp đã phải đóng cửa rồi. Mà quan hệ chính là cái “công ty 28” ấy. Chúng tôi làm hết, nhưng họ ký: thế là đáng một nửa số lãi của chúng tôi rồi.”
Công-Tư: tù mù
Hệ thống không thay đổi. Ở Việt Nam, sáng kiến cá nhân thì có nhưng muốn thành công thì phải vào trong khuôn khổ Nhà nước. Một nhúm các doanh nghiệp quốc doanh lớn, do nhóm đặc quyền đặc lợi trong đảng lãnh đạo, thực sự nắm độc quyền nhiều lĩnh vực kinh tế. Xây dựng và các công trình công cộng nằm trong tay khoảng 5-6 công ty, trong đó có 2 công ty bao trùm đấu thầu lần nào cũng thắng. Nói rằng chỉ có mỗi họ là đủ tầm và tiềm lực kinh tế để tiến hành dự án là đúng nhưng không đủ: họ lớn thế chính là bởi họ được đặc quyền đặc lợi. Nhà nước cấp lại cho họ, dưới dạng hợp đồng, một phần tiền mình nhận được qua viện trợ quốc tế hay vay lãi xuất thấp. Vòng tròn khép kín từ Nhà nước đến doanh nghiệp quốc doanh này làm họ mạnh lên ngay trước thời điểm tư nhân hóa hàng loạt. Trong khi chờ đợi, chẳng gặp nguy hiểm cũng như khó khăn gì, họ đóng góp 45% giá trị sản xuất công nghiệp (tư nhân: 32%), hơn 1/3 GDP, chiếm một nửa số đầu tư và tín dụng mà ¾ số tín dụng này nằm trong tay của 4 ngân hàng Nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân không có cách nào lọt vào được vòng quay này. Hoặc chỉ có một số trước đây vốn là doanh nghiệp Nhà nước bị tư nhân hóa, nay nhờ các mối quan hệ cánh hẩu mà thỉnh thoảng được chia cho suất thầu phụ hay được hưởng tí nước từ vòi tín dụng chảy ra.
Trong cái vẫn gọi là khối doanh nghiệp tư nhân, cần phân biệt rõ 3 loại kinh doanh: doanh nghiệp gia đình giỏi lắm là kiếm được hợp đồng thầu phụ; các công ty, lớn hay nhỏ, phần nhiều trong đó trước là công ty Nhà nước được tư nhân hóa 80/100 và sống nhờ hợp đồng Nhà nước; và cuối cùng là khoảng 100 tập đoàn lớn của Nhà nước chiếm độc quyền trong các lĩnh vực sinh lợi và tiến hành chính sách đa dạng hóa đủ loại, tùy theo cơ hội.
Doanh nghiệp đã tư nhân hóa và các tập đoàn khổng lồ của Nhà nước có gắn kết với tầng lớp lãnh đạo, hay nói cho đúng hơn là với gia đình của lãnh đạo. Quỹ đầu tư VietCapital thuộc về Nguyễn Thanh Phương, ái nữ của Thủ tướng, có bằng master ở Đại học tổng hợp Genève, và lấy chồng là doanh nhân Mỹ gốc Việt. Anh trai Nguyễn Thanh Nghị là một doanh nhân lớn nắm phần lớn cổ phần trong công ty bất động sản cao cấp Bitexco. Trong lĩnh vực bất động sản còn có con gái một phó Thủ tướng và phu nhân của một vị lãnh đạo cao cấp trong đảng. Tập đoàn khổng lồ về viễn thông FPT được đặt dưới sự lãnh đạo của cựu con rể đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chiến thắng ở Điện Biên Phủ; và công ty Galaxy (điện ảnh, nhà hàng Tây phương, truyền thông) được điều hành bởi con gái một cựu bộ trưởng Ngoại giao. Cũng trong lĩnh vực này, có thể kể ra cả vị con rể ông Đỗ Mười (cựu Tổng bí thư), con trai ông Phan Văn Khải (cựu Thủ tướng) và tướng Nguyễn Chí Vịnh (con trai ông Nguyễn Chí Thanh, người đã tham gia thành lập quân đội nhân dân).
Ở cấp thấp hơn, người ta biết rằng các vụ trưởng thuộc bộ Xây dựng vị nào cũng có doanh nghiệp riêng đủ mạnh để có được các hợp đồng Nhà nước. Một số trong các doanh nghiệp này còn đóng trụ sở ngay tại bộ (có hơn 200 công ty xây dựng đặt dưới sự chủ quản của bộ này đã được chuyển thành công ty cổ phần, ai chả đoán được là có lợi cho ai). Ưu tiên, nhượng bộ, thậm chí là cả độc quyền là những yếu tố đảm bảo thành công cho những doanh nghiệp này. Nhưng đó chỉ là phần dễ thấy của một hệ thống được thu nhỏ, nhưng vẫn y nguyên, ở các tầng thấp hơn của chính quyền, cụ thể là ở các ủy ban nhân dân, tỉnh uỷ và thành uỷ. Ở đây chúng tôi ít thông tin hơn nhiều, vì vốn của các doanh nghiệp cổ phần hóa được chia cho các cổ đông mà chúng tôi không nắm được hết. Tuy nhiên, điều này minh họa cho một thực tế là giới tinh hoa chính trị theo kiểu xưa đang dần trở thành tinh hoa kinh tế xã hội của nước Việt Nam ngày mai. Trong khi chờ có bằng chứng, chúng ta vẫn có thể tiến hành điều tra hiện trường và lắng nghe những lời tâm sự.
Nhiều, thậm chí có thể nói là đa số các doanh nghiệp vừa và lớn của tư nhân đều do cán bộ, công chức đương quyền bí mật nắm giữ thông qua vợ, hoặc người thân của họ, điều này xảy ra ở khắp mọi cấp chính quyền. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng cần như vậy. Rất nhiều công ty chính thức thuộc về các cựu quan chức (Đảng và Nhà nước) hay cựu nhân viên doanh nghiệp Nhà nước: theo một điều tra của Malesky và Taussig (đăng năm 2008 trên Journal of Law, Economics and Organization), số này chiếm 1/3 số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho nên phải thận trọng khi nói tới “khu vực tư nhân” ở Việt Nam.
Nói về “khu vực Nhà nước” cũng cần đề phòng y như vậy. Những doanh nghiệp chúng tôi vừa đề cập trên đây, thường là ăn nên làm ra và ít bị cạnh tranh, có cách ứng xử không khác gì doanh nghiệp tư nhân. Lương của lãnh đạo, cách làm việc, cách phân chia lợi nhuận không có gì giống với nhận định của chúng tôi về một doanh nghiệp Nhà nước cả. Các quan chức cao cấp thích lợi nhuận có thể làm ăn một cách thuận lợi nhất ngay trong lòng Nhà nước. Việc biến đổi các doanh nghiệp Nhà nước không phải là một điều xấu về mặt bản chất. Tuy thế điều đó không hẳn là điều kiện để có dịch vụ tốt hơn. Giống như trường hợp một ngân hàng Nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh, về mặt lý thuyết thì phải dành cho việc cải tạo nhà ở cho vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, nhưng trên thực tế thì không chăm lo gì việc này mà lại đi đầu tư chứng khoán, tín dụng và những thứ khác sinh lời nhanh hơn. Trong lĩnh vực bất động sản thì ta còn thấy rõ hơn: rất ít nỗ lực được bỏ ra cho những chỗ không mang lại lợi lộc gì, ví dụ như việc cấp nước, về mặt cơ cấu đương nhiên là lỗ bởi việc thu phí là do Nhà nước quyết định, hay việc xây vỉa hè.
Cho nên, hệ thống kinh tế hiện nay dựa trên một nghịch lý: khu vực tư nhân có dây dưa đến khu vực Nhà nước, trong khi khu vực Nhà nước lại hành xử như tư nhân. Tất cả những cái đó dẫn đến sự tù mù về tư cách. Đâu là tư? Đâu là công? Chia chác ở đâu? Như thế nào? Người ta cứ cố sức gắn cái mác pháp lý chung chung cho một thực tế vốn phức tạp hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do cách đánh giá của phương Tây, nhất là của các tổ chức lớn, khi so sánh các quốc gia với nhau, chỉ chăm chăm soi vào mỗi tư cách pháp lý và dựa theo cách phân loại thống kê mà họ tự hào coi là có giá trị phổ quát của họ. Một yếu tố khác là do chiến lược của chính quyền muốn giữ sự tù mù để không ai biết được bản chất hoạt động của nó là gì.
Ở trong nước, qua báo chí, ta thấy nước Việt Nam chính thống tự khen đã tăng cường được kinh tế Nhà nước, nền kinh tế thuộc về nhân dân, nghĩa là đất nước vẫn là nước xã hội chủ nghĩa và rằng nền kinh tế Nhà nước không ngừng gia tăng đóng góp vào kinh tế quốc dân, điều này đúng; nhưng khi nói chuyện với các tổ chức quốc tế vốn chỉ thích nghe những lập luận mang tính tự do kinh tế, chính quyền lại nhắc đi nhắc lại rằng số doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đi và cùng lúc đó, số doanh nghiệp tư nhân tăng lên, điều này cũng không sai. Trong cả hai trường hợp, chính quyền chơi với các con số và tính đa nghĩa của khái niệm Nhà nước (ở Việt Nam cũng như ở nơi khác). Sự lẫn lộn này phục vụ những lợi ích rất cụ thể. Nếu những vụ kinh doanh nhỏ của tư nhân chỉ tồn tại được nhờ vào các cấu trúc của Nhà nước và các công chức, nếu những tập đoàn lớn của Nhà nước được bí mật tư nhân hóa làm lợi cho chính những người đó, thì người ta có thể thắc mắc cuối cùng ai là người được hưởng lợi nhất từ sự tăng trưởng 20 năm nay, và đang tiếp tục được hưởng lợi.
Một giai đoạn mới sắp được vượt qua: Công không chỉ đang hành xử như Tư, mà là sắp trở thành Tư. Thực vậy, phần lớn các thành phố và ủy ban nhân dân tỉnh đang là sân khấu của một trò ảo thuật siêu đẳng được diễn trong ba hồi. Đầu tiên, các lĩnh vực của doanh nghiệp công được nhóm lại, cho phép phân chia rõ ra một bên là những hoạt động không bao giờ sinh lời, một bên là những hoạt động có thể sinh lời. Tiếp theo, nhóm các doanh nghiệp có khả năng sinh lời được tách ra thành các doanh nghiệp độc lập, vẫn trực thuộc Nhà nước nhưng có nhiều quyền tự chủ hơn nhờ tư cách “công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” (thành viên ấy chính là Nhà nước). Cuối cùng, nguồn vốn của các công ty trách nhiệm hữu hạn này được mở ra cho các đối tác bên ngoài dưới hình thức phân chia theo cổ phần. Tài sản công bị tư nhân hóa lúc nào không hay. Ai cũng có thể đoán được việc này có lợi nhất cho những tên bịp ở vị trí tốt để nắm giữ cổ phần. Tiến trình ấy đang diễn ra. Ở đâu cũng thế. Chỉ có nhịp độ là khác nhau giữa địa phương này với địa phương khác, vì nó phụ thuộc vào đặc điểm hệ thống chính trị địa phương (nội bộ lãnh đạo phải hiệp thương bàn bạc) và tình hình phát triển (tư nhân hóa chỉ có lợi khi có khách hàng tương lai có khả năng chi trả). Lối sống ăn mồi của doanh nghiệp công ở địa phương là bộ mặt hợp pháp và kín đáo của cả một sự vận động nhằm chiếm lấy tài sản công của tầng lớp cán bộ, công chức. Nó khó được nhận diện hơn là việc biển thủ công quỹ hay mua đất phi pháp, đuổi nông dân khỏi đất của họ hay chiếm nhà công vụ. Tuy nhiên, đó chính là dấu hiệu rõ nhất của hướng đi mà chính quyền, hay nói đúng hơn là người của chính quyền, lựa chọn: để cứu mình, hãy cùng tư nhân hóa Nhà nước…
Bản tiếng Việt © BS 2011
(Còn tiếp nhiều kỳ)

355. Trao đổi qua bài viết của Hoàng Lại Giang


Đôi lời:  Dưới đây là ý kiến của độc giả LBS đăng trong mục “Phản hồi”của bài "Đừng tiếc nuối những gì mà loài người đã loại bỏ đi" (xem cuối bài) của Nhà văn Hoàng Lại Giang. Nhận thấy nội dung có nhiều thông tin đáng suy ngẫm, nên BS xin đăng lại.

Trao đổi qua bài viết của Hoàng Lại Giang

Bài của bác Hoàng Lại Giang thể hiện tâm huyết rất đáng quý của một người trí thức cộng sản trước hiện tình đất nước. Đáng tiếc là những gì bác viết về Mác, Ăng-ghen và Lênin lại không hoàn toàn chính xác. Các vị này không «sáng suốt», không tự nhận thức được sự sai lầm của mình như bác tưởng. Xin trả lời vài câu hỏi mà bác đặt ra :
Vì sao ngày 17 tháng 11 năm 1852 Mác – Ăng-ghen giải tán “Đồng minh những người Cộng sản”?
Việc giải tán “Đồng minh những người Cộng sản” không có liên quan gì đến sự hình thành phong trào dân chủ – xã hội. Từ ngày 4 đến ngày 12 tháng 11 năm 1852, vụ án xét xử 11 thành viên của tổ chức này diễn ra tại thành phố Cologne ở Đức (tên trong tiếng Đức của thành phố này là Köln). Trong vụ án này, Chính phủ Phổ đã kết tội 7 người, với mức án từ 3 đến 6 năm. Việc giải tán “Đồng minh những người Cộng sản” chỉ nhằm để tránh khó khăn cho phong trào cộng sản nói chung. Hơn 10 năm sau đó (1864), Mác thành lập Quốc tế I. Như vậy “giai đoạn đầu của phong trào công nhân độc lập Đức” không thể kết thúc từ năm 1852 như bác đặt vấn đề.
Và có phải chính Mác – Anghen đã thành lập Đảng dân chủ xã hội Đức – chính đảng xã hội chủ nghĩa vào tháng 8 năm 1869?
Đảng thành lập vào năm 1869 có tên là Đảng Công nhân Dân chủ – Xã hội (SDAP). Lãnh tụ của đảng này là August Bebel và Wilhelm Liebknecht, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx. Đảng này được hình thành từ một số tổ chức chính trị của giai cấp công nhân ở vùng Saxony và miền Nam nước Đức. Nhưng đảng này không phải là nguồn gốc duy nhất của Đảng dân chủ – xã hội Đức.
Nguồn gốc thứ hai của Đảng DCXH Đức là Tổng hội Công nhân Đức do Fernidand Lassalle (1825-1864) sáng lập vào năm 1863. Đó là tổ chức chính trị có quy mô lớn đầu tiên của giai cấp công nhân ở Đức. Tổ chức này chịu ảnh hưởng của Lassalle, mà Mác lại rất “kỵ” Lassalle , thường xuyên phê phán ông này.
Hai trường phái mác-xít và Lassalle cạnh tranh nhau mãi cho đến năm 1875, khi hai phái này hợp nhất với nhau thành một đảng có tên gọi là Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa (SAP). Đến năm 1890, đảng này đổi tên thành Đảng Dân chủ – Xã hội Đức (SPD) và giữ tên đó đến tận ngày nay. Năm 1875, tức là thời điểm hợp nhất giữa hai phái mác-xít và Lassalle, được coi là thời điểm thành lập đảng.
Mác không hề ủng hộ Lassalle mà luôn luôn đả kích Lassalle, cho ông này là kẻ cơ hội, thỏa hiệp với giai cấp tư sản. Vì vậy ngay khi hai phái hợp nhất với nhau vào năm 1875, Mác đã viết bài phê phán Cương lĩnh của Đảng DCXH, về sau tác phẩm này được Ăng-ghen công bố dưới tên gọi là “Phê phán cương lĩnh Gotha”.
Từ chủ nghĩa xã hội bạo lực, Mác – Anghen chuyển qua chủ nghĩa xã hội dân chủ xuất phát từ nguyên nhân nào?
Sự hình thành trào lưu dân chủ – xã hội không phải là công lao của Mác. Nếu có thể nói đến chút ít “công lao” đối với trào lưu dân chủ – xã hội thì chỉ có thể nói đến Ăng-ghen, người vào lúc cuối đời đã ủng hộ việc Đảng DCXH Đức tận dụng con đường hợp pháp (phổ thông đầu phiếu) để mở rộng ảnh hưởng.
Như trên đã nói, Đảng dân chủ – xã hội Đức là kết quả của hai dòng tư tưởng: Mác và Lassalle. Sự trỗi dậy của phái Lassalle (chủ trương đấu tranh ôn hòa trong khuôn khổ của chế độ dân chủ tư sản) mới là nguồn gốc của chủ nghĩa dân chủ – xã hội. Người đánh giá lại vai trò của Lassalle và vạch ra con đường sửa chữa chủ nghĩa Mác là Eduard Bernstein (1850-1932), một học trò của Ăng-ghen. Tác phẩm nổi tiếng của Bernstein gây sóng gió trong phong trào mác-xít ở Đức có tên là “Những tiền đề của chủ nghĩa xã hội và những nhiệm vụ của Đảng dân chủ – xã hội“ được xuất bản vào năm 1896, 3 năm sau khi Ăng-ghen qua đời.
Bác có thể tìm đọc bài viết “Dân chủ – xã hội là gì?” của tác giả Mai Thái Lĩnh để biết thêm chi tiết.
Vai trò của Lê-nin:
Chính Lê-nin là người đi đầu trong việc “chống xét lại” trong lòng phong trào mác-xít, dẫn đến sự thành lập Quốc tế III (tức Quốc tế cộng sản). Nếu không có Lê-nin, nhân loại sẽ không phải gánh chịu tai họa của chủ nghĩa cộng sản.
Lê-nin chẳng bao giờ thấy được sự sai lầm của mình như bác tưởng. Mục đích của NEP chỉ nhằm cứu kinh tế nước Nga – lúc bấy giờ đang cực kỳ be bét. Nhưng Lê-nin chỉ chủ trương tạm lùi một bước để khôi phục kinh tế, sau đó sẽ lại tiến hành công hữu hóa để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Riêng về chính trị, ông ta chưa bao giờ từ bỏ chuyên chính vô sản. Chính Lê-nin là người đẻ ra quan niệm “dân chủ vô sản” mà thực chất là “chuyên chính vô sản” (tức là “độc tài vô sản”).
Đảng cộng sản Việt Nam muốn giải phóng dân tộc, giành độc lập mà lại chọn con đường của Lê-nin. Đó mới thật sự là “lỗi hệ thống” mà ngày nay dân tộc ta phải gánh chịu.
L.B.S.

Đừng tiếc nuối những gì mà loài người đã loại bỏ đi!

(Những người cộng sản Việt Nam nên đọc lại thật kỹ học thuyết Mac và Anghen)
Hoàng Lại Giang
    Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước …. Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ.” Và trên tinh thần dân tộc ấy, năm 1945 ,sau khi giành lại chính quyền từ tay thực  dân Pháp, ông đã đặt tên nước là Việt Nam – Dân chủ – Cộng hòa và sau đó vào năm 1951 ông thuyết phục những người cộng sản đổi  tên Đảng là Lao Động. Tên nước và tên đảng cho đến giờ vẫn được nhân dân trân trọng và bảo vệ . Đấy chính là lòng dân. Thời nào cũng vậy, lòng dân là cái không mua được, dù bất cứ giá nào. Lịch sử đã chứng minh qua nghìn năm đô hộ giặc Tàu và trăm năm đô hộ giặc Tây. Lịch sử cũng đã chứng minh khi lòng dân không yên  thì mọi thứ bạo lực chỉ là hành động cứu cấp cho một thứ quyền lực phi nhân tính, vết nhơ không bao giờ rửa sạch. Lịch sử vẫn còn đó một Tần Thủy Hoàng, một Nê rô, nhà thơ bạo chúa, ở thời hiện đại là Hitle, là Stalin, là Mao trạch Đông  là Ponpot!

         Những người Macxit là những  người biết nắm qui luật, vận dụng qui luật, vận hành theo qui luật chứ không bao giờ bắt qui luật phải phục tùng ý chủ quan của con người. Và vì vậy, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu chắc chắn những người macxit chân chính   sẽ vận dụng qui luật để cắt nghĩa chứ không vì hụt hẫng khi  cái ý thức hệ  ban sơ, cái lý tưởng chất đầy tính ảo tưởng một thời ấu trĩ  không còn nữa   mà qui kết cho bất kỳ cá nhân nào là phản bội chủ nghĩa Mác – Lê. Một Khơrútxốp, một Goocbachốp … không thể làm được việc đó! Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là do  những người cộng sản tuy có khát vọng thay đổi xã hội, nhưng  không chịu đọc Mác và Anghen, hoặc đọc lõm bõm, hiểu lõm bõm, hoặc chọn những điểm thích hợp từ những quan điểm cứng rắn của Stalin và Mao Trạch Đông, rồi dùng bạo lực buộc quy luật theo ý chủ quan để  tự nó đi ngược lại sự  tiến hóa của nhân loại, và coi đấy là kinh điển, là bất di bất dịch. Ngay cả Mác cũng chưa bao giờ khẳng định học thuyết của mình là hoàn toàn tương thích với mọi thời đại. Mác từng nói: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương cách phê phán thế giới cũ, để tìm được thế giới mới. Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề  của mai sau không phải là việc của chúng tôi”. Ngay  khi viết học thuyết về chủ nghĩa tư bản, qui luật giá trị thặng dư, qui luật phản ứng của giai cấp công nhân bị bóc lột…ở  đầu thế kỷ 19  Mác và cả Anghen đều cho công trình của mình chỉ như một thứ dự báo.  Nó chỉ phù hợp với thời điểm ấy, chứ không thể phù hợp với tất cả mọi thời điểm trước và sau nó.
          Nhưng rất tiếc, một số nhà lãnh đạo Cộng sản thuộc địa, như Việt Nam, lại coi học thuyết Mác là bất di bất dịch, là kinh điển … ở mọi thời đại! Chính căn bệnh giáo điều xơ cứng của không ít nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời hiện đại ấy đã dẫn dân tộc và đất nước vào thế giới của chủ nghĩa xã hội bạo lực và giả tưởng …  Và vì vậy sự hụt hẫng khi chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là có thật.  Nhưng những người Cộng sản chân chính khi dũng cảm nhìn vào sự thật như đại hội VI Việt Nam năm 1986, thì chắc chắn tìm ra lối thoát cho dân tộc, còn nếu khăng khăng níu kéo cái chủ nghĩa đã sụp đổ, hy vọng vá víu lại …thì chắc chắn sẽ bị quy luật đào thải. Tôi nghĩ không ai đọc kỹ học thuyết Mác – Anghen bằng người Đức, bằng các triết gia Đức, trí thức Đức. Không ai đọc Lênin, hiểu mọi hành động của Lênin và Stalin bằng nhân dân Nga, trí thức Nga. Câu hỏi đặt ra là tại sao chủ nghĩa xã hội sụp đổ, nhân dân Nga, nhân dân các nước Đông Âu trong đó có nhân dân Đông Đức, không một hối tiếc, nếu không nói ngược lại là sự vui mừng như được làm người trở lại.
          Ai cũng biết, chính thể mới của các nước CNXH bị sụp đổ  không loại  đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, vậy mà bao nhiêu lần bầu cử, không đảng Cộng sản nào giành được đa số phiếu để trở lại nắm chính quyền. Tôi nghĩ những nhà lãnh đạo Việt Nam nên nghiêm túc suy nghĩ kỹ càng điều này, để có quyết sách đưa đất nước bước vào hội nhập với cái thế và lực của chính mình hơn là câu nệ và nô lệ về ý thức hệ. Nô lệ về ý thức hệ  mà đặt  ý thức  hệ trên quyền lợi dân tộc, thậm chí để mất cả đất và nước, biển và đảo, thì đấy là tội đồ, là bán nước! Vào thời ấy ( 1990), một số nhà lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt lo sợ mất CNXH, đã quay ngoắt 180  độ với cuộc cách mạng đổi mới của chính mình hôm qua (1986), cúi đầu , tôn vinh kẻ thù truyền kiếp là Trung Quốc, đàn áp ngay cả với đồng chí mình còn trung thành với cuộc cách mạng đổi mới tư duy. Thậm chí có người còn bao che cho tội ác dã man của lãnh đạo Trung Quốc ngang  nhiên  «dạy cho Việt Nam một bài học «   trong cuộc chiến tranh biên giới  năm 1979, nói rằng : «Song  dù có bành trướng thế nào đi chăng nữa thì Trung Quốc vẫn  là nước XHCN » . Nhà lãnh đạo này rõ ràng đã  đặt quyền lợi dân tộc, lãnh thổ thiêng  liêng của dân tộc xuống dưới ý thức hệ, và  hậu quả là im lặng trước Hoàng Sa bị chúng đánh chiếm năm 1974 và năm  1988 chúng đánh chiếm  7 hòn  đảo ở Trường Sa. Và bây giờ  chúng ngang nghiên đưa tàu hải giám quấy phá ngay trên vùng biển thuộc quyền  chủ quyền  của ta, cắt cáp  của tàu thăm dò dầu khí của ta  từ tháng 5 năm 2011. Nhân dân bức xúc ,bày tỏ thái độ trước sự bành trướng của Trung quốc thì chính quyền  tìm mọi cách ngăn chặn , thậm chí dùng cả bạo lực đối với  người biểu tình. Bây giờ hãy còn quá sớm để  quy đấy là tội bán nước, nhưng chắc chắn lịch sử rồi sẽ phán xét công minh, rạch ròi …  Với người Việt Nam tội bán nước là tội không thể dung tha, bởi ở bên cạnh một đất nước to, gian manh và xảo quyệt  luôn mưu dồ bành trướng, thì cái sự chống đỡ để giữ cho được từng tấc đất phải tính bằng xương máu của hết thế hệ này qua thế hệ khác. Người yêu nước không bao giờ đặt  nhầm chỗ giữa ý thức hệ và độc lập toàn vẹn non sông !!! Ý thức hệ là tạm thời, là giai đoạn, còn chủ quyền toàn vẹn non sông là vĩnh cửu .
         Hôm qua anh giúp tôi  giải phóng dân tộc, anh là đồng chí chung chiến hào, nhân dân chúng tôi biết ơn anh, hôm nay anh cướp nước tôi, anh là kẻ thù của nhân dân tôi, chứ không thể là đồng chí được! Mọi sự cố tình nhầm lẫn đồng chí với kẻ thù là lừa bịp nhân dân, là mắc mưu kẻ thù của nhân dân! Lúc này không thể không xem xét lại ý niệm khái quát về ngữ nghĩa của hai từ đồng chí mà những người cộng sản đang  dùng. Kẻ mưu đồ cướp nước ta, không thể là bạn của ta, càng không thể là đồng chí của ta.
           Trở lại học thuyết Mac.Trước sau, loài người vẫn đánh giá cao học thuyết Mác, bởi tính kế thừa và phép biện chứng của nó. Nó chỉ cho nhân loại thấy con đường tất yếu mà bất kỳ chế độ nào cũng phải vượt qua. Càng về cuối đời Mác và Anghen đều điều chỉnh rất nhiều luận điểm trong học thuyết của mình cho phù hợp với qui luật, với xu thế tất yếu của lịch sử. Mặc dù vậy hai ông cũng chỉ dám mong mọi người coi công trình của hai ông như một đoán ước tương lai chứ đừng coi là một giá trị tuyệt đối. Sai lầm của nhiều người theo học thuyết Mác, trước hết là không đọc hết Mác trong từng giai đoạn của hai ông. Ngược lại, lại chọn Mác ở thời điểm hai ông ra Tuyên ngôn đảng Cộng sản, ra Tư bản luận (tập I ), … một học thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm cốt lõi, lấy bạo lực cách mạng đập tan xiềng xích bóc lột và thâu tóm quyền lợi về tay mình. Đến Lenin và đặc biệt là Stalin thì dùng chuyên chính vô sản để triệt tiêu những người khác chính kiến với mình, đưa công nông lên hàng lãnh đạo. Đấy là thời kỳ trí thức bị chà đạp, bị vô hiệu hóa, bị tiêu diệt nhiều nhất trong lịch sử nhân loại,  không khác bao nhiêu so với thời Tần Thủy Hoàng. Đấy cũng là thời kỳ chủ nghĩa cộng sản coi chủ nghĩa tư bản là kẻ thù không đội trời chung. Thế giới phân cực thành hai phe, phe này quyết diệt phe kia và phe kia buộc phải chống  lại, hình thành cuộc chiến tranh lạnh từ đây. Và từ đây, Việt Nam trở thành “tiền đồn” của phe xã hội chủ nghĩa. Từ đấy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam nằm trong “ba dòng thác cách mạng”, nằm trong cái thế “đứng mũi chịu sào” của “tiền đồn” phe xã hội chủ nghĩa chống chủ nghĩa đế quốc, để cho Liên Xô và Trung quốc rảnh rang  …lo xây dựng đất nước mình, mà ta thì  phải mang ơn ,mang nợ họ.
          Hồi ấy, một  Bí thư TW Đảng diễn thuyết ở nhà hát lớn Hà Nội  về tiền đồn, về ba dòng thác cách mạng … tôi kiêu hãnh, tự hào … và “phổng mũi”. Nhưng năm tháng qua đi, nhìn lại dân mình, nước mình… sao thương quá! Bao xương máu đổ xuống! Bao người mẹ mất con, người vợ mất chồng. Có không ít người hôm nay vẫn chưa tìm được xác chồng con. Cuộc chia ly trong hận thù vẫn chưa hàn gắn nổi. Cuộc chia ly này nối cuộc chia ly kia. Bao triệu người bỏ nước ra đi bằng mọi giá – kể cả giá sinh mạng. Câu hỏi đặt ra, chưa thấy câu trả lời thỏa đáng: Vì sao đất nước hoàn toàn giải phóng, thống nhất, vậy mà dân vẫn đói, rách … và bỏ nước ra đi? Chỉ cần nhìn ra các nước láng giềng như Thái Lan, Singapore…cũng thấy nhục, thấy đau quá rồi !
          Một nhà lãnh đạo trong “tứ trụ triều đình” ở thập kỷ 80-90  tâm sự với tôi rằng: Chúng tôi phải chịu trách nhiệm về sự ra đi của bà con ở thời  hậu chiến này. Họ không thấy lối ra – đặc biệt là lối ra cho con cháu họ – chứ không phải họ không yêu nước.
        Đúng, đấy là thời kỳ đóng cửa cài then, thời kỳ hòa bình đen tối nhất trong lịch sử xây dựng. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Mác và ngay cả Lênin sau này đã bị lớp lãnh đạo theo Stalin và Mao bẻ cong bằng một thứ bạo lực mà đỉnh cao là Pônpốt, là Khơme Đỏ – một đồ đệ của chủ nghĩa Mao. Một thảm họa của loài người mà người hứng chịu là nhân dân Campuchia, nhân dân Việt Nam.
          Biến một ảo tưởng  «Thế giới đại đồng» thành hiện thực, những nhà lãnh đạo Cộng sản không dùng quyền lực mềm là sự thuyết phục, sự vận động mang tính đoàn kết truyền thống mà người ta dùng quyền lực cứng, đấy là “bạo lực cách mạng” của học thuyết Mác theo họ hiểu. Một thứ duy ý chí, bất chấp khoa học, qui luật, bất chấp truyền thống, đạo nghĩa.
    … Tự do tư tưởng là một điều bình thường ở các nước phương Tây thì ở Việt Nam cho đến hôm nay tự do tư tưởng là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, mặc dù chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ngay trên quê hương của Mác và Lênin  cùng một số nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa khác, trừ một vài nước ở phương Đông như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và Cu Ba ở châu Mỹ.
          Khỏi nói Triều Tiên và Cu Ba vì ai cũng biết đấy là một loại xã hội đội lốt Mác – Lê, nhưng thực chất là xã hội phong kiến, cha truyền ngôi cho con, anh nhường ngôi cho em…Tôi nghĩ mình vẫn còn may mắn vì không phải là công dân của Triều Tiên và Cuba.
          Còn Trung Quốc và Việt Nam. Về hình thức, đây là hai nước láng giềng có chung một thể chế chính trị là chủ nghĩa Mác – Lê – Mao. Nhưng tiềm ẩn bên trong mối quan hệ “16 chữ vàng” này là mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không thể hóa giải ngay được. Càng có độ lùi thời gian, người dân Việt Nam càng thấy rõ âm mưu thâm hiểm của dân tộc đại Hán.  Người dân bình thường cũng biết Trung Quốc đã  từ bỏ chủ nghĩa Mác, nhưng vẫn giương ngọn cờ CNXH để bịp dân họ và bịp một số  nhà lãnh đạo của Việt Nam hám quyền, hám chức, hám lợi.
        Đi ngược dòng thời gian, từ năm 1945, lợi dụng thế “kẹt” của Việt Nam trước họa xâm lăng trở lại của Tàu Tưởng và thực dân Pháp, dưới danh nghĩa đồng minh, những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc đã giúp Việt Nam hết lòng. Bởi vì, cùng với Bắc Triều Tiên ở Đông Bắc Á, Việt Nam là khu đệm của họ ở Đông Nam châu Á. Đây là thời kỳ, người Tàu nhận ra trước tiên “môi hở răng lạnh”. Nhưng đây cũng là thời kỳ họ lợi dụng lòng tin của ta nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào khác. Cùng với Stalin, Mao buộc chủ tịch Hồ Chí Minh phải làm cải cách ruộng đất theo  mô hình Hoa Nam. Chu Ân Lai buộc Phạm Văn Đồng phải ký hiệp định Giơnevơ theo dự kiến ban đầu của Chu – có thể được Mao phê chuẩn. Năm 1956 họ chính thức ép ta nhượng Đông Hoàng Sa cho họ. Năm 1957 họ thuyết phục ta xây dựng ga Đồng Đăng cách Ải Nam Quan  gần 500m. Lúc đầu họ nói hết đường ray. Sau họ nói để 500m từ ga Đồng Đăng đến Ải Nam Quan làm khu đệm, tập kết vũ khí từ Nga, Trung Quốc và các nước XHCN anh em để Việt Nam tiếp tục cuộc chiến đấu giành độc lập hoàn toàn. Nhưng cũng chính họ, năm 1956 khuyên ta không nên đánh lớn, đánh qui mô ở miền Nam, không nên mở rộng chiến tranh …. Năm 1958, nhân sự kiện chiến hạm Mỹ xuất hiện ở eo biển Đài Loan, họ thương lượng với ta công nhận “… hải phận 12 hải lý” của họ. Trên tinh thần đồng chí, anh em, ta giúp họ giảm bớt áp lực từ phía Mỹ với một bức thư của Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai (Tổng lý) ký ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đáng lẽ biết ơn ta thì hôm nay con cháu họ lại đem bức thư ấy ra làm cớ chiếm biển đảo của ta.
          Năm 1958, họ chiếm Tây Hoàng Sa của ta, bị quân đội Việt Nam cộng hòa đánh và bắt giữ tàu ở Đà Nẵng.
          Năm 1974, sau hiệp định Paris, Mỹ cam kết rút quân và không can thiệp vào Việt Nam, họ liền đánh chiếm Hoàng Sa của ta. Ta bại trận. Trên năm mươi chiến binh thuộc chính quyền Sài Gòn đã ngã xuống. Những người cách mạng im lặng! Đây là một thái độ phi văn hóa, phi truyền thống. Lịch sử không thể chấp nhận được! Những người Việt Nam đã ngã xuống vì tổ quốc Việt Nam, dù là người của bên nào cũng đáng được lịch sử vinh danh. Coi ý thức hệ cao hơn quyền lợi dân tộc  là một sai lầm nguy hiểm, nếu không nói là tội lỗi! (Điều này được lặp lại ở những năm 90 của thế kỷ 20, như trên tôi đã nói).
          Năm 1976 , họ xúi Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam của ta.
          Năm 1979, họ đánh biên giới phía Bắc nước ta. Đây là cuộc chiến phi nghĩa  đáng xấu hổ nhất thế kỷ 20 của họ, nhưng không hiểu sao báo chí ta lại ‘’định hướng‘’… im lặng …cho đến hôm nay?  Nhưng lịch sử thì không bao giờ ngừng trôi, nó sẽ chảy theo đúng dòng chảy của nó: Đó là Sự thật lịch sử.
          Năm 1988, họ đánh chiếm một số đảo Trường Sa của ta, sáu mươi bốn chiến sĩ của ta đã ngã xuống ở biển Đông.
          Lịch sử Việt – Trung ngoài sự giúp đỡ chí tình cho cuộc chiến giải phóng dân tộc của chúng ta do những nguyên nhân sâu xa từ quyền lợi dân tộc của họ như  tôi đã trình bày ở trên, còn có một sự thật lịch sử khác nữa vẫn còn lưu khá đậm trên giấy trắng mực đen và đặc biệt trong nhân dân Việt Nam – hết thế hệ này qua thế hệ khác: Đó là tư tưởng đại Hán có lịch sử từ nghìn năm qua, đừng ai vội nghĩ dễ xóa nhòa, hoặc dùng ý chí chủ quan bắt mỗi người  dân Việt Nam phải quên đi, để chỉ nghĩ tới “16 chữ vàng” hôm nay.
          Lịch sử quan hệ Việt – Trung cho chúng ta những bài học thật sâu sắc:

          - Không có sự giúp đỡ nào trong sáng, vô  tư cả!

          – Không thể có bốn phương vô sản đều là anh em!

          Bây giờ thì tôi thấy chính trị gia người Anh Lord Palmaroton là đúng, khi ông nói: “Chúng ta không có thù vĩnh viễn cũng như bạn muôn đời. Chỉ có quyền lợi dân tộc là vĩnh viễn và muôn đời mà thôi”.
          Tôi nghĩ cũng có không ít nhà lãnh đạo Việt Nam tâm huyết với vận mệnh đất nước, nhưng không có điều kiện đọc hết Mác – Anghen – Lênin.Vì vậy tốt nhất là mời những nhà trí thức thông hiểu nhiều ngoại ngữ đọc lại Mác – Lênin từ bản tiếng Đức và tiếng Nga. Mác là một nhà duy vật biện chứng. Chúng ta nên tìm hiểu cho kỹ bước đường phát triển tư tưởng của Mác từ khi Mác gia nhập Liên minh những người Cộng sản ở Bruxen – 1847 – viết “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” – 1848, cho đến khi qua đời năm 1883, nhà triết học này đã bao nhiêu lần phải đính chính mình, bao nhiêu lần phải điều chỉnh học thuyết của mình và bày tỏ những thái độ, những ứng xử khác nhau, thậm chí đối lập nhau … Từ chủ nghĩa xã hội bạo lực, Mác – Anghen chuyển qua chủ nghĩa xã hội dân chủ xuất phát từ nguyên nhân nào? Và bao giờ? Xã hội giữa hai thời kỳ ấy có những gì đặc biệt tác động đến tư tưởng hai ông? Vì sao ngày 17 tháng 11 năm 1852 Mác – Anghen giải tán “Đồng minh những người Cộng sản”, ủng hộ phong trào xã hội chủ nghĩa dân chủ – ôn hòa – của Lassall – một học trò của mình. Phải tìm câu trả lời về chuyển biến lớn lao này của Mác – Anghen trên con đường chính trị của mình từ thực tiễn xã hội châu Âu. Có phải giai đoạn đầu của phong trào công nhân độc lập Đức kết thúc từ năm 1852 sau cái án của Koren – một người Cộng sản Đức? Từ năm 1852 đến năm Lassall giương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội dân chủ – ôn hòa, năm 1862, là mười năm. Và có phải chính Mác – Anghen đã thành lập Đảng dân chủ xã hội Đức – chính Đảng xã hội chủ nghĩa vào tháng tám năm 1869? Đây có phải là giai đoạn thứ hai của phong trào công nhân Đức – Giai đoạn xã hội chủ nghĩa  dân chủ – ôn hòa?
          Tôi nghĩ quá trình chuyển biến tư tưởng Mác và Anghen đều có trong toàn tập của hai ông. Và Lênin cũng vậy. Ông là một nhà Macxít biện chứng. Từ thực tiễn ông uốn nắn ngay lý luận của mình. ông nói: “Chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản” (Lênin toàn tập. NXB Tiến Bộ tập 45 trang 428). Cũng như chính sách kinh tế mới – NEP – có trong toàn tập Lênin. Nhưng không hiểu vì sao không ai dám nói. Ngay một nhà lãnh đạo như Phạm Văn Đồng cũng phải chờ đến năm 2000 mới dám viết trên báo nhân dân. Vì sao? Một cách vận dụng Mác – Lênin như vậy đã nuôi dưỡng chủ nghĩa giáo điều cho nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam. Và hôm nay, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ mang tính toàn cầu, người Việt Nam vẫn phải giữ nguyên cái “Chủ nghĩa xã hội bạo lực” mà Mác và Anghen đã phủ định từ năm 1868.
          Đừng bao giờ nghĩ rằng nhân dân Việt Nam, trí thức Việt Nam im lặng trước một thể chế chính trị đã bị chính Mác và Anghen phủ định, bị cả nhân loại loại trừ sau bảy mươi năm thử nghiệm trên đất Nga, trên đất Đức và Đông Âu là đồng thuận với nhà nước. Tôi nghĩ đấy là một sự im lặng đáng sợ chứ không nên coi thường! Ai hiểu được nhân dân mình, người ấy chính là lãnh tụ của họ. Ai coi thường nhân dân, ai coi quyền lực là sức mạnh vô song, kẻ ấy sẽ không có gì ngoài những nguyền rủa của hôm nay và mai sau. Một Nero  bạo chúa, một Tần Thủy Hoàng, một Stalin, một Mao Trạch Đông, một Ponpot …vẫn còn đó bản chất tàn bạo của nó. Lịch sử là vậy, không quên công ơn và nhớ rất rõ tội ác.
         …Tổng thống Medvedev không thể im lặng được trước một số người còn sùng bái Stalin vì sự hiểu biết hạn hẹp do bưng bít thông tin, buộc lòng ông phải cho giải mã những điều được coi là tối mật của chủ nghĩa cộng sản. Ông nói: “Nếu hôm nay nhắm mắt trước tội ác này (Stalin ra lệnh giết hai mươi hai ngàn sĩ quan [binh sĩ  ?] Ba Lan năm 1940) thì trong tương lai những tội ác như vậy có thể lặp lại, muốn hay không, ở dạng này hay dạng khác, ở các nước khác nhau. Vì vậy mặc dù điều này diễn ra tuy gay gắt, những tội ác như vậy là không bao giờ hết thời hiệu. Những kẻ gây ra chúng sẽ phải chịu trách nhiệm bất kể đã mất cách đây bao nhiêu năm”.  
      Đúng, những kẽ gây ra tội ác với nhân dân  phải chiụ trách nhiệm bất kể đã mất cách đây bao nhiêu lâu !
     Đúng, người có văn hoá bao giờ cũng là người biết sợ sự thật lịch sử. Bởi đơn giản sự thật lịch sử hiện diện cùng thời gian hôm nay và cả mai sau: VINH QUANG và TỘI ÁC !
HLG
The New York Times

Thách thức trên biển đối với Trung Quốc

Aaron L. Friedberg
4-9-2011
Những kẻ thù tài chính của nước Mỹ đang đặt cả đất nước vào một con đường đầy những rủi ro chiến lược ngày càng lớn ở châu Á.
Khi những đảng viên đảng Dân chủ hào hứng bảo vệ các chương trình xã hội, còn đảng Cộng hòa thì hăm hở tránh việc tăng thuế, và cả hai bên đều nói là nợ quốc gia sẽ phải được kiểm soát, thì chúng ta có thể tin là sẽ được thấy những nỗ lực giảm ngân sách quốc phòng tiếp tục kéo dài. Trong vòng 10 năm tới, mức cắt giảm kế hoạch chi tiêu có thể lên đến năm trăm tỷ USD. Ngay cả khi Lầu Năm Góc rút quân khỏi Afghanistan và Iraq để tiết kiệm chi tiêu, thì việc mua hoặc phát triển vũ khí mới cũng không được đầu tư nhiều tiền như trước nữa.
Thật không may là Mỹ lại phải áp đặt những biện pháp kiềm chế đó đúng vào khi họ đang đối mặt với một thách thức chiến lược ngày càng gia tăng. Được tiếp sức nhờ đà tăng trưởng kinh tế gần 10% một năm, Trung Quốc, trong gần hai thập niên qua, đã tham gia vào công cuộc xây dựng quân đội nhanh chóng và mở rộng. Trung Quốc giữ bí mật các dự định của mình, và các nhà chiến lược Mỹ thì đã phải dồn mọi sự tập trung của họ vào các mối quan tâm khác kể từ sau vụ 11-9. Tuy nhiên, quy mô, đường lối và các hàm ý của việc Trung Quốc xây dựng quân đội thì ngày càng trở nên rõ ràng hơn.
Khi chiến tranh lạnh kết thúc, Thái Bình Dương thực chất trở thành một cái hồ của Mỹ. Với việc các lực lượng không quân và hải quân Mỹ hoạt động tại các căn cứ ở những nước thân thiện với họ như Nhật Bản và Hàn Quốc, Mỹ có thể bảo vệ và làm cho đồng minh yên tâm, cản bước những kẻ gây hấn tiềm năng, và đảm bảo tuyến đường hàng hải an toàn cho các tàu buôn đi lại trên khắp vùng biển tây Thái Bình Dương, tiến vào Ấn Độ Dương. Các lực lượng Mỹ có thể hoạt động ở khắp mọi nơi và hoàn toàn được miễn trách.
Nhưng điều đó đã bắt đầu thay đổi. Vào giữa thập niên 1990, Trung Quốc triển khai thực thi một số việc mà các nhà hoạch định chính sách ở Lầu Năm Góc gọi là “năng lực chống xâm nhập”. Nói cách khác, thay vì cố gắng theo kịp với sức mạnh Mỹ theo kiểu máy bay đối chọi máy bay, tàu đối chọi tàu, Bắc Kinh tìm những cách hiệu quả hơn về chi phí để trung lập hóa sức mạnh Mỹ. Họ đã thiết kế số lượng lớn những chương trình tên lửa đạn đạo phi hạt nhân không tốn kém lắm nhưng có độ chính xác cao, cũng như các tên lửa hành trình phóng từ trên biển hoặc trên không. Những vũ khí này có thể phá hoại hoặc làm hỏng một số cảng biển và sân bay, nơi các lực lượng không quân và hải quân Mỹ dùng làm bước đệm để hoạt động ở Tây Thái Bình Dương; và đánh chìm chiến hạm nào chở vũ khí có thể bắn xa hàng trăm dặm ra biển, kể cả hàng không mẫu hạm của Mỹ.
Quân đội Trung Quốc cũng đã và đang thử nghiệm kỹ thuật tấn công vệ tinh và mạng máy tính của Mỹ, bổ sung thêm việc này vào kho vũ khí nhỏ của họ – kho có những tên lửa hạt nhân tầm xa, có thể bắn sang tận Mỹ.
Mặc dù khả năng đối đầu trực tiếp là thấp, nhưng Trung Quốc có vẻ đang tìm cách làm thất bại các lực lượng quân sự tiên tiến của Mỹ, để khiến Washington phải khó khăn trong việc liệu đường ứng phó.
Các hoạt động chuẩn bị đó không có nghĩa là Trung Quốc muốn gây chiến với Mỹ. Ngược lại, họ dường như chỉ muốn làm cho các nước láng giềng của mình phải khiếp sợ, đồng thời ngăn cản Washington tham gia trợ giúp những nước đó một khi xảy ra xung đột. Các quốc gia khác – không biết chắc liệu mình có thể trông cậy vào sự ủng hộ của Mỹ không, và tự bản thân không thể nào theo kịp sức mạnh Trung Quốc – có thể sẽ phải đi đến quyết định rằng họ phải dung hợp ý muốn của Trung Quốc.
Nói theo nhà tư tưởng quân sự cổ đại của Trung Quốc, Tôn Tử, thì Trung Quốc đang tiến hành các biện pháp để “không đánh mà thắng” – xác lập vị thế siêu cường thống lĩnh châu Á bằng cách bào mòn độ tín nhiệm của những người bảo đảm về an ninh cho Mỹ, làm rỗng (rút ruột) khối đồng minh của Mỹ và cuối cùng đẩy Mỹ ra khỏi khu vực.
Nếu Mỹ và các đồng minh châu Á của họ tìm cách tự phòng thủ và phối hợp nỗ lực chung, thì không có lý do gì mà họ không duy trì được một thế cân bằng quyền lực thích hợp, ngay cả khi sức mạnh của Trung Quốc có gia tăng đi nữa. Nhưng nếu họ không phản ứng lại trước việc Trung Quốc tăng cường quân sự, thì có nguy cơ là Bắc Kinh có thể tính nhầm, phung phí sức mạnh và làm tăng nguy cơ đối đầu, thậm chí xung đột vũ trang. Quả thật, cách hành xử của Trung Quốc gần đây trong những tranh chấp về tài nguyên và biên giới trên biển với Nhật Bản và các nước nhỏ hơn trong khu vực biển Hoa Nam cho thấy là điều này có thể đang bắt đầu xảy ra.
Đây là một vấn đề không thể được giải quyết đơn giản bằng đối thoại. Chính sách quân sự của Trung Quốc không phải là sản phẩm của sự hiểu nhầm; nó là một phần của một chiến lược có chủ ý mà giờ đây các quốc gia khác phải tìm cách xử trí. Mạnh thì ngăn cản được hành vi gây hấn; yếu thì sẽ kích thích thêm sự gây hấn. Bắc Kinh sẽ lên án những hành động như thế, như thế là khiêu khích, nhưng chính các hành động của Bắc Kinh mới là mối nguy cơ hiện nay đang đe dọa phá vỡ sự ổn định ở châu Á.
So với ngày trước, nhiều nước láng giềng của Trung Quốc hiện nay tỏ ra sẵn sàng phớt lờ những lời phàn nàn của Bắc Kinh hơn, và sẵn sàng tăng cường chi tiêu cho quốc phòng, hợp tác chặt chẽ hơn với nhau và với Mỹ.
Tuy nhiên, họ ít có khả năng làm những việc ấy trừ phi họ tin chắc chắn rằng Mỹ sẽ vẫn hiện diện. Washington không nhất thiết phải gánh vác cả gánh nặng duy trì thế cân bằng quyền lực ở châu Á, nhưng họ phải lãnh đạo.
Lầu Năm Góc cần đặt ưu tiên hàng đầu vào việc tìm cách đối chọi với “năng lực chống xâm nhập” đang gia tăng dần của Trung Quốc, qua đó làm giảm khả năng Trung Quốc sử dụng tới chiêu bài đó. Việc này rất tốn kém. Để biện giải được cho khoản chi tiêu cần thiết trong thời kỳ kinh tế khắc khổ, các nhà lãnh đạo của chúng ta (Mỹ) sẽ phải rõ ràng hơn khi giải thích về lợi ích quốc gia cùng những cam kết của Mỹ đối với châu Á, và thẳng thắn hơn khi mô tả những thách thức do quá trình phát triển quân sự không ngừng của Trung Quốc gây ra.
Aaron L. Friedberg là giáo sư chính trị và quan hệ quốc tế ở Princeton, tác giả của cuốn “Tranh giành vị trí thống lĩnh: Trung Quốc, Mỹ và chiến lược làm chủ ở châu Á”.
Đan Thanh dịch từ The New York Times

Tin thứ Tư, 14-09-2011

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
<= “14 năm trôi qua, nỗi đau vẫn âm ỉ trong lòng người phụ nữ ấy, giờ cuộn sóng dữ dội, dâng lên trong mắt… “ Nhật ký Trường Sa – Kỳ cuối: Ngọn hải đăng dẫn đường (TT).
- Hồ Bạch Thảo: Ý nghĩa lịch sử của THƯ NGỎ GỬI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VIỆT NAM – (Diễn Đàn). Xem thêm: THƯ NGỎ GỬI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VIỆT NAM VỀ HIỂM HOẠ NGOẠI BANG VÀ SỨC MẠNH DÂN TỘC; Tận dụng sức mạnh dân tộc để đối phó hiểm họa ngoại bang.
- Phạm Đình Trọng: Đi xa nhìn về — (boxit). “Với những người phải tức tưởi bỏ nước ra đi vì sự kiện ba mươi tháng Tư đó thì nỗi buồn còn lớn lao, sâu xa đến thế nào! Tôi đã đi từ niềm vui của những lá cờ rợp trên dải đất ViệtNam đến nỗi buồn thăm thẳm lắng sâu ở tận nước Mỹ!” -  Bài viết của “TS Nguyễn Thanh Sơn – Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về NVNONN”, sao không đăng Đại đoàn kết, Nhân dân, mà lại trên Quân đội ND, há? Định hướng công tác kiều bào trong tình hình mới.

- Thơ của Bùi Chí Vinh: Ngó lại tiền nhân (eThongluan). “Ta thương Chu Thần phải tuốt gươm làm giặc/  Ta thương mặt trời bị chôn xuống đất/  Cho lũ hủ nho nhà Nguyễn mặc hoàng bào/  Ta thương mặt trăng gặp phải thời nguyệt thực/  Cho lũ nịnh thần lốm đốm mọc như sao”.
- Quảng Ngãi: Cứu 12 ngư dân trôi trên vùng biển Trường Sa 13 ngày (SGTT). – GIAN KHỔ LÝ SƠN (*) – (Mẹ Nấm). – Nghiệp đoàn nghề cá của ngư dân Lý Sơn (PLTP). – TÔI VỪA TRẢI QUA MỘT ĐÊM TRUNG THU TUYỆT VỜI – (Nguyễn Xuân Diện). “Các cháu đã làm những lồng đèn rất lớn: CỘT MỐC CHỦ QUYỀN TRƯỜNG SA – HOÀNG SA”.
- Độc giả méc, báo GDVN giờ có thêm mục Điểm tin báo chí Trung Quốc ngày 13/9/2011 (GDVN). – Lao động Trung Quốc: “hồn” phổ thông, “da” kỹ thuật cao (SGTT). – THỢ TRUNG QUỐC ĐANG TRÀN VÀO HẢI PHÒNG CƯỚP VIỆC – (Phạm Viết Đào). – Thua lao động Trung Quốc một cách cay đắng (Culangcat).
- Ngoại trưởng Ấn Độ công du Việt Nam với Biển Đông trong chương trình nghị sự – (RFI). – Ngoại trưởng Ấn Độ thăm Việt Nam sau vụ tàu TQ quấy nhiễu tàu Ấn Độ  (VOA). – Sau sự cố tàu INS Airavat trên Biển Đông, quan hệ Việt Nam – Ấn Độ mật thiết hơn (India Times/ Hồ Trung Nghĩa). – Thủ tướng Việt Nam công du Indonesia  (VOA).
- Tân thủ tướng Nhật nói về quan hệ với TQ – (BBC). – TQ muốn có bạn Nhật thì ‘đừng ngạo mạn’ – (BBC). – Thủ tướng Nhật hứa hẹn một chính sách mới về năng lượng – (RFI).
- Người phát ngôn mới – “ông Lương Thanh Nghị – nguyên Giám đốc Trung tâm Báo chí nước ngoài”: Nhân sự (TN). Việt Nam có nữ thứ trưởng ngoại giao – (BBC). – File ảnh này cũng không qua được proxy: Bà Nguyễn Phương Nga thăm Anh hồi 2009 (BBC). – ‘Mang Việt Nam tới Anh’ – (BBC).
- BÁC SĨ TRUNG QUỐC “CẮM BẢN” Ở VÙNG NGƯỜI MÔNG?..  (Mai Thanh Hải).
- “Biểu tình viên” Phương Bích khai trương blog với 2 bài: Giọt máu đào và ao nước lãGiá trị của sự thật (Chimwiki).
- LM Nguyễn Văn Khải nói về Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam – (RFA). “Giáo xứ Thái Hà chúng tôi từ thời chế độ Cộng sản lên nắm quyền năm 54 đến giờ, thì chuyện bị gây khó dễ, bị sách nhiễu, bị khủng bố, bị bắt bớ, bị tù đày, bị sỉ nhục, giết chóc, đã trở thành cơm bữa, nghĩa là chuyện bình thường. Còn như nếu bây giờ nhà nước không có nói gì, không gây khó dễ gì Thái Hà, thì đấy mới lại là chuyện bất thường”.
- Người tù thế kỷ Trương Văn Sương: Vietnam political prisoner dies after 33 years (AFP). – Việt Nam : Thêm một tù chính trị chết trong trại giam – (RFI). – Thêm tù nhân VN thứ hai chết trong ngục ở Việt Nam kể từ tháng 7-2011 – (BBC). Người kia là ông Nguyễn Văn Trại đã qua đời hồi tháng 7 năm nay. – Một tù nhân chính trị ở Việt Nam qua đời trong nhà tù (VOA).
- Bà Ba Sương tiếp tục ‘kêu oan’  – (BBC).
- Luật sư Huỳnh Văn Đông bị chặn tại sân bay Nội Bài – (RFA). =>
- Hồ sơ Wikileaks: Thiền Sư Nhất Hạnh từng phê phán chính quyền  – (NV). “Ông kêu gọi ngược lại, nói với Thủ Tướng Khải, rằng ‘người cộng sản nên trở thành người Việt Nam hơn’ và chấp nhận những giá trị truyền thống. Nếu không, chính trị sẽ ‘phá sản’ và đảng Cộng Sản sẽ mất sự ủng hộ. Ông kêu gọi Thủ Tướng Khải tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị.”
- Cần đối thoại với dân (ĐĐK) “việc sửa đổi Hiến pháp cũng được trông đợi sẽ xây dựng được mô hình “đối thoại” gần gũi triệt để giữa nhân dân và các cơ quan công quyền”.
- “Đối thoại” kiểu nầy? Đình công và kích động đình công (QĐND). Biểu tình yêu nước thì bị chụp mũ “phản động”, “Việt Tân”xúi giục. Bị bóc lột quá đáng phải đình công thì cũng đem ngáo ộp “thế lực thù địch lợi dụng kích động” ra dọa. Hết biết! Đám bồi bút như Kim Ngọc nầy, có còn là “đầy tớ” của Nhân dân, là đảng viên của đảng “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động”? – Xem thêm: Hàng nghìn bánh Trung Thu “bẩn” tặng công nhân (TTXVN). - Tặng bánh trung thu “dỏm”, công nhân phản ứng (TT).  – Đây rồi! Tổng biên tập báo QĐND sẽ có thêm kinh nghiệm từ thằng “bạn 16 chữ vàng” để viết, đăng bài “chống diễn biến hòa bình” của … người biểu tình yêu nước: – Đoàn cán bộ cấp cao Quân đội Việt Nam thăm TQ (Bee.net/ TTXVN)
- Công an tra khảo làm chết người (PLTP). – Vụ anh Nhựt: Chuyển hồ sơ lên VKSND Tối cao (NLĐ).
<- VỤ PHÁ TRƯỜNG GÀ TRONG NGHĨA TRANG BÌNH HƯNG HÒA: Công an phường, đội hình sự kiểm điểm (PLTP).
- Công dân đầu tiên kiện CSGT thua “chung cuộc” (DT).  – Hai cấp xét xử vụ công dân kiện cảnh sát vẫn chưa thuyết phục (LĐ). – Vụ CSGT xô xát với người dân: CSGT đã phòng vệ chính đáng trước người say(VTC).  – Vụ hai CSGT xô xát với dân: Có vấn đề!
- Hà Nội: Chủ tịch phường Điện Biên thua kiện, phải bồi thường 62 triệu cho dân (DT). Hu hu! Tội nghiệp chưa? Ông nầy sau vụ “cưỡng chế xây dựng” đó, tưởng êm, đã “thừa thắng xốc tới”, chỉ đạo đập phá tiếp tường nhà TS Cù Huy Hà Vũ, rồi phải xây trả lại. Nay thì … “quả báo”? Mời đọc: Tin choáng về bức tường của 2 nhà thơ lớn (Nguyễn Trọng Tạo).  “…chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Điện Biên quận Ba Đình, Hà Nội, Lê Văn Định đã dẫn đầu một lực lượng gồm cả công an, dân phòng… đến 24 Điện Biên Phủ, để “cưỡng chế” bức tường rào! Và nó đã bị đập phá không thương tiếc.”
- Lộ diện nhân vật quan trọng vụ thứ trưởng vay tiền (NĐT).- Ai chuyển tiền cho ông thứ trưởng? (TP). – Ai trả nợ thay cho ông Thứ trưởng Cao Minh Quang? (DV). =>
- LS Trần Ngọc Liễng – Vì Tổ quốc, sẵn sàng từ bỏ danh vọng (SGGP). Nhưng cũng có những người vì danh vọng, sẵn sàng từ bỏ Tổ quốc!
- Đa đảng ở Trung Quốc ? (Zetamu) “Có lẽ các đồng chí lãnh đạo ĐCS TQ nên khuyên các đồng chí ở VN cho lập lại mấy chính đảng thân thiện như đảng dân chủ, để đồng lòng xây dựng CNXH”.
- Nhà hoạt động nhân quyền Vương Lệ Hồng bị tù 9 tháng (VietSOH).
KINH TẾ
- Phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành: Đừng đổ hết lỗi về lạm phát cho chính sách tiền tệ không thể “gánh” hết lỗi gây lạm phát (ĐT). Cái tựa dài thoòng khó hiểu. – Giám đốc VinaCapital lo ngại lạm phát trong ngắn hạn khi lãi suất giảm (Gaffin).
- Ảo tưởng Lấy lại danh dự của ngành ngân hàng! (Tầm nhìn).  – “Minh oan” ngân hàng “xé rào” lãi suất (TQ).  – Ngân hàng bắt đầu nới cho vay tiêu dùng (VNE). – 5 ngân hàng giành nhau kho hàng rỗng (VNE).  – Không dễ tiếp cận vốn vay lãi suất thấp (TBKTSG).
- Tập đoàn, tổng công ty: Chuyện lỗ, nợ xấu và chiếm dụng vốn (VnEconomy).
- Hơn 1.700 cổ đông có khả năng mất trắng vì DVD hủy niêm yết. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một nhà đầu tư nào khởi kiện DVD về vấn đề này (Gaffin).
- Chính phủ từ chối “ngoại lệ” cho EVN(VnEconomy).
- Bộ Tài chính: “Không nên điều chỉnh giá điện liên tục” (TTXVN).
- Bốn năm thị trường hóa, điện chỉ một chiều: tăng giá! (VEF).
- Việt Nam là thị trường tiềm năng của ngành CN ôtô (TTXVN). Ra đường là kẹt xe, đường xá không phát triển thêm, không hiểu mua ôtô để chạy ở đâu, chắc là chạy trên trời?
- Đề nghị giám định lô hàng lậu 10 tỷ trên tàu Vinalines (Bee).
- VN nhắm mục tiêu đón 5,5 triệu du khách nước ngoài trong năm 2011 (VOA). =>
- Kế hoạch trợ giá gạo của Thái Lan sẽ khiến giá thị trường thế giới tăng cao – (RFI). Thai rice subsidy scheme to push up world prices (AP/ Bloomberg).
- Tổng thống Obama kêu gọi lưỡng viện quốc hội thông qua kế hoạch phục hưng kinh tế – (RFI). – Tổng thống Obama kêu gọi Quốc hội thông qua dự luật công ăn việc làm (VOA).
- Thế giới: nhiều ngân hàng gặp khó (TBKTSG). – Lo ngại về nợ của Hy Lạp gây rối loạn thị trường chứng khoán  (VOA).  – Giới lãnh đạo Châu Âu rốt ráo hội ý để tìm cách trấn an thị trường – (RFI).
- Ý cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ tài chính (SGTT).
- Ngân hàng TQ đang “tiếp sức” cho bong bóng kinh tế (VEF).
- Mỹ-Trung trong cuộc chiến về luật lệ làm ăn (PLXH).
- Tạp chí kinh tế: Khí đốt : Nga muốn tránh để phụ thuộc vào Ukraina – (RFI).
VĂN HÓA-THỂ THAO
<- Tội nghiệp Mẹ Thứ!  Xây tượng đài 410 tỉ đồng, gấp 5 lần số tiền được phê duyệt ban đầu là 81 tỉ đồng (vào tháng 8-2007) (NLĐ). – Tượng và tượng đài TP.HCM: Chưa tương xứng tầm vóc 300 năm (PLTP).
- Múa đương đại: Châu Âu chưa gặp Việt Nam (SGTT).
- Đỗ Doãn Phương (Hà Nội): Cứ diễn đi, còn hơn là nhìn sân khấu chết! (ANTG).
- Chuyện một đại gia đình “nuôi” cả ngàn con chó đá (VTC).
- Tưởng niệm “người Mnông cuối cùng”   (TTVH).   Georges Condominas = >
- Vụ ‘Minh Hằng mặc phản cảm’ chỉ bị phạt 3,5 triệu đồng (VNE).
- Lê Hoàng: “Lê Khanh đi giầy cao gót trong ruột tôi” (GĐ/Đẹp).
- Giải ‘án tình’ Ngọc Hân – Gia Long (ĐV).
- Nhà thơ Võ Văn Trực: Khâu bền sợi đau (Nguyễn Trọng Tạo).
- Linda Lê, nữ nhà văn Pháp gốc Việt muốn sống cuộc đời đơn độc để sáng tạo – (RFI).
- Nguyễn Trọng Tạo và cái uy rượu (Quê Choa).
- Bí mật ướp xác trong các ngôi mộ cổ (ĐV/ANTG).  – Bí ẩn xác ướp cổ tại Sài Gòn (ANTG).
- Bỏ V- League lập “Super Liga”: Nhìn từ Indonesia (VnMedia).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Phỏng vấn ông Dương Trung Quốc: Bản chất của lịch sử là “nhạy cảm” như … chính trị, nên mấy chục năm nay nó mới bị méo mó, khuất lập quá nhiều, làm sao học sinh nó không chê  (TTVH).
- Bùng nổ đại học và hệ quả – Bài 1: Thừa trường, thiếu người học (SGGP).
- Lớp học đặc biệt vào năm học mới – lớp học dành cho các bệnh nhi ung thư tại khoa nhi Bệnh viện Ung bướu TP.HCM (TT).   – Lớp học không bảng đen, phấn trắng (SGTT). “Do học trò độ tuổi không đồng đều nên việc dạy học của cô Hoa khó khăn, vất vả rất nhiều. Càng khó khăn hơn khi cô cứ phải nằm trên giường, không thể nào di chuyển để cầm tay, nắn chữ cho từng em”.
<- Trường quốc tế: Thật giả lẫn lộn (NLĐ).
- GS Nguyễn Ngọc Lanh: Trăm năm dạy ứng xử nghề nghiệp ở đại học Y Hà Nội (1) (Vietsciences).
- Khi con dậy thì, cha mẹ ở đâu? (SGTT).
- Sách giáo khoa lậu “lên ngôi” (ĐĐK).
- Chóng mặt vì tiền trường (NLĐ). – Nhiều hiệu trưởng thông cảm với… phong bì (TP).  – Những loại quỹ gây bức xúc đầu năm học (VNE). – Hà Tĩnh: Trường “loạn thu”, “bóp nặn” dân nghèo! (Tầm Nhìn).   – Thu phí đầu năm học mới: Lách luật (LĐ).  – Méo mặt vì… học phí tín chỉ
- Nên bỏ đào tạo ngoài chỉ tiêu ngân sách (NLĐ).
- Bảo mẫu bị “bỏ rơi” (PLTP).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Lao động bất hợp pháp tại Malaysia có thể bị trả về nước – (RFA).
- Vì sao đàn ông thích về Việt Nam lấy vợ?  – (NV).  Trong khi đó thì – Một ông Nam Hàn ‘coi mắt’ 6 cô gái Việt – (NV).
- Nhà máy thủy điện Bản Vẽ có nguy cơ bị vùi lấp (chaobuoisang.net). Trước khi xây nhà máy, không rõ những người có trách nhiệm đã làm đánh giá tác động môi trường chưa, sao lại xây cạnh bên ngọn núi có nguy cơ sụt lở? Còn đây nữa: Lào Cai: Sạt lở đất vùi lấp một lớp học mầm non (TTXVN). – Đánh giá lại dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A (NLĐ).
- Bài toán quá tải bệnh viện: Giải mãi không thấy đáp số (VNN). – Lại đòi tăng viện phí (NLĐ).  – Giá viện phí được điều chỉnh ngay từ năm nay (SGTT).  Ì ạch bệnh viện cửa ngõ (SGGP)
- Phòng dịch tay chân miệng: Còn chủ quan (SGTT).
- Ngoại cảm hay thủ thuật thôi miên? (Kỳ I) (Petrotimes).
- Trộm cướp hoành hành – kỳ 1 (TN).  – Kỳ 2: Trung tâm TP không bình yên.  – Kỳ 3: Người dân treo giá bắt trộm!
- Bắt hai kẻ bắt cóc bé 3 tháng tuổi đòi 50 lượng vàng (TT).
- Hà Nội “tổng tấn công” đại lý Internet sau 23 giờ (TTXVN).
- “Đôi mắt thần” nhìn xuyên lòng đất (LĐ) “Có biệt tài nhìn xuyên lòng đất, chỉ cần 2 thanh sắt dài khoảng 50cm cầm trên tay ông Hoàng có thể xác định chính xác chỗ nào có mạch nước ngầm hay không”.
- Những trở ngại cho việc cứu trợ gây tai họa thêm tại sừng Phi châu (VOA).
QUỐC TẾ
- Là nước cuối cùng, TQ công nhận tân chính quyền Libya – (BBC). – Trung Quốc công nhận tân chính quyền Libya để bảo đảm quyền lợi kinh tế – (RFI). Xem lại: Trung Quốc lén bán vũ khí cho Gaddafi (NLĐ). – Lực lượng của ông Gadhafi tấn công nhân viên bảo vệ cơ sở lọc dầu(VOA). – Một nữ gián điệp đã xâm nhập lực lượng Gaddafi (TT/Reuters).  – Phe nổi dậy bất hoà vì nghi có phản bội (VnMedia/Independent).
- Phương Tây không thể can thiệp vào Syria như Libya? (DVT).
- Taliban nhắm mục tiêu vào đại sứ quán Mỹ, trụ sở liên minh ở Kabul (VOA). – Taliban tấn công đại sứ quán Mỹ tại Afghanistan (TT).
- Tổ chức Al Qaida tuyên bố ủng hộ cách mạng hoa nhài – (RFI).
- Al-Qaeda tung video nói đến cái chết của bin Laden (VNE).
- Ba người Pakistan nhân tội âm mưu đưa khủng bố vào Hoa kỳ (VOA).
- Người Hồi giáo Ahmadiyah ở Indonesia than phiền về nạn đàn áp tôn giáo  (VOA).
- LHQ: Hằng trăm người thiệt mạng trong các vụ bạo động tại Yemen (VOA).
- LHQ: Ít nhất 2.600 người thiệt mạng trong cuộc nổi dậy ở Syria (VOA).
- Tố cáo tội ác chiến tranh ở Sri Lanka sẽ được đưa ra Hội đồng Nhân quyền (VOA).
- Các ứng viên TT của Đảng Cộng hòa tranh luận về chương trình trợ cấp (VOA).
- Hoa Kỳ kiểm chứng tin Iran sẽ phóng thích 2 nhà leo núi người Mỹ (VOA).
- Quan hệ Nga – Anh vẫn không được cải thiện sau chuyến đi của thủ tướng Cameron – (RFI).
- Tại Trung Quốc, một đường dây chế biến dầu ăn cũ bị phát hiện – (RFI).
- Tân Hoa hậu Hoàn vũ 2011 tuyên bố sẽ giúp quê hương Angola (VOA).
- Chủ nghĩa thực dân đang hồi sinh? (ĐV/Russia Today).
* VTV1: + Chào buổi sáng – 13/09/2011; + Tài chính kinh doanh sáng – 13/09/2011; + Tài chính kinh doanh trưa – 13/09/2011; + Cuộc sống thường ngày – 13/09/2011.
* RFA: + Sáng 13-09-2011
Tối 13-09-2011
* RFI: 13-09-2011