Tranh chấp Biển Đông: điềm báo cho một thay đổi chiến lược ở khu vực?
Yoichi Kato11-9-2011
Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông (Nguyên văn: biển Hoa Nam – ND) giữa Trung Quốc và các quốc gia duyên hải, gồm Việt Nam và Philippines, đang có thêm nhiều ý nghĩa chiến lược đối với toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương và hơn thế nữa. Nhật Bản không thể coi nhẹ vấn đề này, xem nó như một hiện tượng biệt lập ở một khu vực xa xôi, bởi vì đây là vấn đề phản ánh chiến lược khu vực của Trung Quốc, một chiến lược dựa vào vị thế kinh tế và sự tự tin ngày càng cao của họ.
Thách thức có tính chất căn bản hơn là các nước trong khu vực, trong đó có Nhật Bản, nên xử lý như thế nào với mâu thuẫn chiến lược đang thể hiện rõ dần kia – kết quả của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng lớn với Trung Quốc và việc tiếp tục phụ thuộc vào trật tự an ninh khu vực do Mỹ bảo đảm.
Tranh chấp chủ quyền trên biển Hoa Nam có vẻ đã đạt tới một điểm cân bằng nào đó, tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-Trung Quốc và Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF) hồi tháng 7 ở Bali, Indonesia. 10 quốc gia thành viên ASEAN và Trung Hoa đã đồng ý về những nguyên tắc mới, mở đường cho việc thực thi bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC), một văn bản có tính chất dài hạn, tìm kiếm giải pháp hòa bình cho tranh chấp trên Biển Đông.
Ngoại trưởng Nhật Bản khi đó là ông Takeaki Matsumoto, người tham gia vòng hội nghị ASEAN này, đã hoan nghênh diễn tiến trên. Ông tuyên bố tại Nghị viện: “Tôi coi đây là một bước tiến về phía trước”.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng coi đây là “một bước quan trọng”, và đồng thời, bà kêu gọi ASEAN và Trung Quốc khẩn trương thực thi bước tiếp theo: xây dựng một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc về pháp lý để ngăn chặn xung đột. Bà Clinton nói thêm: “Các bên đưa ra yêu sách đều phải nêu yêu sách của mình một cách công khai và cụ thể để chúng ta có thể biết tranh chấp nằm ở đâu”.
Nhưng thế quân bình dường như đang sụp đổ nhanh chóng. Không đầy hai tuần sau hội nghị ở Bali, Nhân Dân Nhật Báo, tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã đăng tải một bài bình luận trên trang nhất, buộc tội Philippines xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc khi xây dựng một căn cứ quân sự tại một trong các đảo thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Bài báo kết thúc với một lời cảnh báo rất rắn: “Những ai phạm sai lầm chiến lược nghiêm trọng về vấn đề này sẽ phải trả giá thích đáng”.
Ngay lập tức, Tân Hoa Xã đăng một bài viết tiếng Anh tóm tắt lại câu chuyện. Rõ ràng là đảng và chính phủ Trung Quốc có ý định gửi thông điệp này tới tất cả các bên liên quan. Và trên thực tế, việc họ làm đã tạo ra xáo động trong khu vực.
Chính quyền Nhật Bản và Mỹ vẫn coi vòng hội nghị bộ trưởng ASEAN vừa qua là một thành công, bởi các hội nghị đã thành công trong việc đưa vấn đề “an ninh hàng hải” vào chương trình nghị sự của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào tháng 11 sắp tới. Với kết luận này của họ, vấn đề Biển Đông có thể được thảo luận nhiều hơn trong một bối cảnh đa phương rộng hơn tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, ngoài việc được thảo luận ở các hội nghị cấp ASEAN. Điều đó sẽ đảm bảo mang lại một cơ hội cho những quốc gia không có yêu sách nào, những quốc gia có sử dụng Biển Đông, như Nhật Bản và Mỹ, để họ có thể tham gia vào quá trình thảo luận.
Trên một mặt trận còn nhạy cảm hơn thế, hội nghị bộ trưởng ASEAN còn được coi là thành công bởi vì đã có một thỏa thuận ngầm hình thành giữa các quốc gia có yêu sách chủ quyền và các quốc gia sử dụng Biển Đông nhiều nhất, rằng sẽ tiếp tục đặt nghi vấn về tính pháp lý của yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực “đường 9 điểm” hay “đường 9 đoạn” trên Biển Đông. Chiến lược thận trọng này có vẻ đang lái Trung Quốc vào một thỏa thuận đa phương mới – một bộ quy tắc ứng xử để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình – bằng cách gây áp lực tập thể, thông qua việc liên tục phản đối tính pháp lý của yêu sách “đường 9 đoạn”.
Trung Quốc sử dụng đường hình chữ U, 9 đoạn, chạy dọc đường bờ biển và chuỗi đảo ở Biển Đông này làm cơ sở cho yêu sách chủ quyền của họ. Khu vực nằm trong đường 9 đoạn bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông. Theo các tài liệu chính thức cùng với tấm bản đồ mà chính phủ Trung Quốc đệ trình lên Liên Hợp Quốc vào năm 2009, Bắc Kinh đòi “chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trên Biển Đông và vùng nước lân cận”. Tuy nhiên, không rõ là Trung Quốc đòi chủ quyền toàn bộ phần Biển Đông nằm trong đường 9 đoạn như là lãnh hải của họ, hay yêu sách của họ chỉ áp dụng với các đảo và vùng nước lân cận của các đảo.
Vào ngày 24-8, khoảng một tháng sau hội nghị ARF, hai tàu tuần tra của cơ quan ngư chính Trung Quốc đã đi vào vùng biển thuộc chủ quyền của Nhật Bản, xung quanh một trong các đảo trong quần đảo Senkaku ở Đông Hải. Đây là lần đầu tiên tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Nhật xung quanh quần đảo Senkaku, tính từ năm 2008 khi hai tàu tuần tra của hải giám Trung Quốc (CMS) tiến vào và ở lại trong biển của Nhật Bản suốt 9 tiếng đồng hồ. Lần này, thời gian vi phạm ngắn hơn. Nhưng chính quyền Nhật Bản coi vụ việc này là rất nghiêm trọng bởi vì ngay cả khi tàu đánh cá Trung Quốc đâm vào một canô của lực lượng tuần duyên Nhật Bản, gần quần đảo Senkaku hồi tháng 9 năm ngoái, thì tất cả tàu của chính phủ Trung Quốc, kể cả của cơ quan ngư chính lẫn CMS, đều ở cách xa vùng biển thuộc chủ quyền Nhật Bản.
Đáp lại phản đối chính thức từ chính phủ Nhật Bản, một người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói: “Quần đảo Điếu Ngư (Senkaku) và các đảo con của nó đã là biển của Trung Quốc từ thời cổ. Tàu của Cơ quan Ngư chính Trung Quốc tuần tra vùng biển này để duy trì trật tự thường xuyên của hoạt động đánh bắt cá”.
Quan điểm này chẳng có gì mới, nhưng hành động hung hăng của một trong những cơ quan hành pháp về hàng hải thì mới. Về phần chính phủ Nhật Bản, có một số ý kiến suy luận rằng có lẽ ý định của Trung Quốc là thử xem lập trường của chính phủ Nhật Bản về chủ quyền cứng rắn đến đâu sau hội nghị ARF, nhất là vào thời điểm Nhật Bản đang chuyển giao quyền lực từ nội các Kan sang chính phủ tiếp theo.
Quan điểm hiện hành trong chính phủ Nhật Bản là điều gì đang xảy ra trên Đông Hải đều có liên hệ chặt chẽ với tranh chấp trên Biển Đông. Ngoại trưởng Minister Matsumoto tuyên bố trước Nghị viện: “Nhật Bản quan tâm rất sâu sắc tới tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông bởi các tranh chấp đó có ảnh hưởng tới hòa bình và an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và bởi vì chúng cũng có liên quan chặt chẽ tới việc bảo vệ an toàn cho giao thông trên biển”.
Tranh chấp chủ quyền không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hải. Còn có một số dấu hiệu gia tăng căng thẳng ở biên giới trên bộ Trung – Ấn. Các học giả Ấn Độ có quan điểm rằng Trung Quốc đang tham gia vào việc xác định lại biên giới trên đất liền và trên biển, nhằm giành vị thế quyền lực mạnh mẽ hơn. Và môt loạt hành động “xác định lại biên giới” như vậy đã được thực thi với cái giá phải trả là sự toàn vẹn chủ quyền và an ninh của các nước láng giềng. Ấn Độ chú ý sát sao tới tình hình trên Biển Đông bởi vì họ coi đó là một chỉ dấu cho những gì có thể xảy ra trong tranh chấp biên giới giữa họ với Trung Quốc.
Thách thức căn bản hơn nữa mà toàn bộ Ấn Độ-Thái Bình Dương phải đối mặt có lẽ là sự mâu thuẫn chiến lược mới xuất hiện. Đối với hầu hết các nước trong khu vực, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn, nếu không nói là lớn nhất, trong khi họ lại phải phụ thuộc vào Mỹ để duy trì được trật tự an ninh trong khu vực, kể cả quyền tự do hàng hải. Tuy nhiên, cái thế phụ thuộc kép này làm cho các nước trong vùng gặp khó khăn hơn trong việc quyết định nên hành động như thế nào khi và nếu Trung Quốc chống lại địa vị đứng đầu hiện nay của Mỹ. Đây dường như là những gì đang xảy ra trên Biển Đông lúc này.
Năm ngoái, ông Hugh White, cựu quan chức trong Bộ Quốc phòng Australia, có công bố một bài viết, tựa đề “Chuyển giao quyền lực – tương lai của Australia giữa Washington và Bắc Kinh”. Trong đó, ông chỉ ra rằng kỷ nguyên “Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối, không bị cạnh tranh” đã chấm dứt, và có thể tạo dựng một trật tự ôn hòa mới ở châu Á để dung chứa quyền lực ngày càng gia tăng của Trung Quốc, “nếu Mỹ sẵn lòng trao cho Trung Quốc một không gian chính trị và chiến lược nhất định”.
Cái cốt lõi trong lý luận của ông White là Mỹ nên ngừng việc cạnh tranh vị trí đứng đầu với Trung Quốc, mà nên chia sẻ quyền lực với Trung Quốc thì hơn. Ông cũng khuyến cáo rằng đã đến lúc phải tư duy lại chiến lược phòng ngừa (hedging strategy). Đây là đáp án khả thi để giải quyết bài toán “phụ thuộc kép”.
Vấn đề đang nổi lên trong những tranh cãi về vấn đề Biển Đông, là sự nhận thức rằng bản chất của tranh chấp chủ quyền là việc tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc, và một mình Mỹ thì không thể thống lĩnh cả khu vực, cho dù họ có năng lực khổng lồ về quân sự. Quan điểm chiếm ưu thế trong cộng đồng các nước ASEAN có thể không rõ ràng dứt khoát và cực đoan như của ông White. Nhưng nếu trên thực tế, “sự nổi lên của Trung Quốc và sự suy giảm tương đối “các hành động từ phía Mỹ, vẫn thường được coi như là một sự dập khuôn”, sự chuyển dịch từ “vị thế đứng đầu của Mỹ” sang “chia sẻ quyền lực Trung-Mỹ” có thể thu hút sự chú ý lớn hơn từ các nước và nhân dân trong khu vực. Sẽ có thách thức to lớn đối với Nhật Bản – quốc gia xây dựng chiến lược an ninh của mình dựa trên giả định rằng vị trí quyền lực số 1 của Mỹ là không thể nào lung lay.
Những gì đang xảy ra trên Biển Đông có thể là điềm báo một sự thay đổi tư duy chiến lược của các nước trong khu vực và cuối cùng là thay đổi chính trật tự chiến lược ở đây.
Thủy Trúc dịch từ Asahi Shimbun