CUỘC HÔN NHÂN MA QUỶ NGUYỄN TẤN DŨNG & CÁC "SÓI NGA'' NGUYỄN ĐĂNG QUANG - HỒ HÙNG ANH
MASAN, Chủ nhân thua
lỗ tay trắng từ Nga trở về, dựa thế Nguyễn Văn Hưởng cướp được tiền
thành lập công ty vốn 300 tỷ được Bản Việt tiếp tay phù phép thành vốn
điều lệ 5.000
tỷ đồng! Trong thành phần cổ đông: Hai nhân vật chính Nguyễn Đăng Quang
và Hồ
Hùng Anh chỉ đứng tên 10 cổ phiếu! còn lại chỉ là đại diện!? Tại sao
trước khi
lên sàn hai ‘sói Nga’này phải làm trò như vậy? Lý do đơn giản: Không ai
rõ thực
trạng công ty hơn chính kẻ chủ nhân và kẻ nhào nặn ra nó là Công ty
Chứng Khoán
Bản Việt. Chính vì vậy, chúng đã tính toán từ trước với mục đích duy
nhất: Tự
do bán cổ phiếu để thu tiền mặt về. Do vậy nhóm ‘sói’ này đã để cho
người nhà
đứng tên để dễ dàng bán ra.
Thực chất những ngày niêm yết chúng đã bán ra thu về vài
ngàn tỷ với sự tiếp tay của Bản Việt. Các nhà đầu tư nước ngoài vì nhìn thấy
Bản Việt là thấy con ‘Hổ chúa’ ngồi đó bảo vệ - Chẳng có bảo hiểm đầu tư nào
tốt hơn thứ bảo hiểm này, chính vì vậy đám sói này đã bán cho Các nhà đầu tư
nước ngoài thu vài tram triệu USD, trong đó Nguyên Thanh Phượng cũng đã được
nhóm sói này tặng cho 100.000.000 cổ phiếu để trả công cho thứ bảo hiểm vô hình
mà vững chắc.
Trò chơi được tiếp tục với những trò phù phép lừa đảo người
tiêu dùng để bán nước tương Chin-sun chứa chất ung thư gấp 2.215 lần được phép (
để có thể bảo quản được lâu, không bị huỷ bỏ do chất lượng kém và bị nhiêm
khuẩn) đến bán mỳ gói và các sản phẩm chứa chất độc hại “Tartranzine 102 (E
102)” … nhưng đỉnh cao vẫn là vụ thôn tính Núi Pháo từ tay nhà đầu tư nước
ngoài đang niêm yết tại nước ngoài trị giá trên 2 tỷ USD! Ngay khi lên vị trí
Thủ Tướng, năm 2007, Nguyễn Tấn Dũng đã kéo quân lên thăm Thái Nguyên – Một
Tỉnh hoang vắng chẳng có mấy Uỷ viên TƯ Đảng mà cũng chẳng có mấy Đại biểu Quốc
Hội để phải tranh thủ ‘lấy phiếu’! Chỉ
đến khi ngài Thủ Tướng nằng nặc đòi ra thực địa thăm Núi Pháo thì dân Thái
Nguyên mới hiểu vì sao! Đứng tại núi
pháo, Thủ Tướng hùng hồn công bố rằng là : Nhà đâu tư nước ngoài được cấp giấy
phép 03 năm mà chưa triển khai nên buộc phải thu hồi giấy phép đâu tư!
Chỉ sau câu tuyên bố tại nơi đèo heo hút gió này, bộ máy của Chính Phủ chạy
tít, dưới sự điều hành bởi cái hợp đồng tư vấn của Bản Việt!
Báo Diễn đàn Doanh nghiệp ngày 21/6/2010:
‘Được sự cho phép của Chính phủ và các bộ, ngành chức năng,
hiện 100% số vốn và quyền làm chủ đầu tư dự án Núi Pháo Vica từ phía nước ngoài
đã được chuyển cho công ty TNHH Núi Pháo Vica - doanh nghiệp trong nước do tập
đoàn Masan Group có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh và công ty Cổ phần xuất
nhập khẩu và đầu tư Thái Nguyên thành lập. Đây cũng là vụ mua bán doanh nghiệp
tầm cỡ nhất trong vòng ba năm trở lại đây.
Ngay sau khi Masan đàm phán thành công mua lại 75% cổ phần
của nhà đầu tư nước ngoài trong liên doanh Nuiphaovica, phương án tái cấu trúc
công ty do Masan đề xuất đã được Chính phủ chấp thuận.
Theo đó, công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Thái Nguyên (Batimex) sẽ không nắm giữ
quyền góp 15% cổ phần tại liên doanh cũ nữa, thay vào đó sẽ được hoàn trả 100
nghìn USD vốn điều lệ đã góp cùng với khoản lãi suất tính theo lãi suất trái
phiếu Chính phủ. Công ty TNHH Nuiphaovica mới sau khi được tái cấu trúc sẽ kế
thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ của công ty liên doanh Khai thác khoáng sản
Nuiphaovica đã được quy định trong các giấy phép, chứng nhận đầu tư hiện có, kể
cả các quy định về ưu đãi.
Hiện nay, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang thực hiện việc đăng
ký chuyển nhượng khoản vay nước ngoài 79 triệu USD của Nuiphaovica từ đối tác
nước ngoài trong liên doanh Nuiphaovica sang cho Masan. Ngoài ra, Masan công bố
sẽ tiếp tục triển khai dự án Núi Pháo với quy mô vốn đầu tư 10.000 tỷ đồng (510
triệu USD) để khai thác và chế biến sâu khoáng sản theo yêu cầu của Chính phủ.’
Nếu là bạn liệu có được ưu ái: Vừa lấy được mỏ Niken với trữ
lượng lớn nhất nhì thế giới, lại được NHNN chuyển ngay cho khoản vay 79 triệu
USD! Nhưng chưa hết, hãy xem đây:
Ngày 25/1/2011, Báo SGTT đăng tin:
‘Masan đã kí một thỏa thuận với ngân
hàng phát triển Việt Nam (VDB) cho một khoản vay có đảm bảo thời hạn 8 năm, giá
trị 2.376,9 tỉ đồng. Theo Masan, công ty đã cố gắng giảm thiểu rủi ro cho dự án
mỏ Núi Pháo bằng việc huy động tổng cộng 4.477 tỉ đồng từ Mount Kellett và
VDB.’
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NH PTVN) Là một ngân hàng
chính sách được Chính Phủ rót vốn hoặc được tiếp nhận các nguồn vốn ưu đãi từ
các nước rất thấp chuyên phục vụ cho các doanh nghiệp nhà nước và tài trợ vốn
cho các dự án trọng điểm quốc gia với lãi suất ưu đãi. Vậy tại sao Masan lại
được ưu ái đến vô lý như vậy? Được 100% mỏ tài nguyên khoáng sản quan trọng bậc
nhất của Việt Nam, rồi lại được cấp vốn ưu đãi từ nguồn của Chính Phủ!
Tiếp theo, cũng qua môi giới của Bản Việt,
Masan đã bán cho nước ngoài – Cũng theo báo SGTT đăng ngày 25/1/2011
“Masan huy động được 2.100 tỉ đồng đầu
tư vào Núi Pháo
SGTT.VN - Tập đoàn Mount Kellett (Mỹ) vừa
đầu tư khoảng 2.100 tỉ đồng để đổi lấy 20% cổ phần của công ty tài nguyên
Masan, công ty con của công ty cổ phần tập đoàn Masan (mã chứng khoán MSN). Sau
giao dịch này, công ty cổ phần Masan sẽ sở hữu 64%, công ty Tiberon Minerals
Pte Ltd và Mount Kellet lần lượt nắm giữ 16% và 20% vốn chủ sở hữu tại công ty
tài nguyên Masan.
Công ty tài nguyên Masan hiện đang nắm
toàn quyền sở hữu dự án mỏ khai thác vôn-fram Núi Pháo thuộc tỉnh Thái Nguyên,
dự án đình đám mà Dragon Capital thua lỗ và đã chuyển nhượng cho Masan trong
năm nay.
Theo thỏa thuận, công ty cổ phần tập
đoàn Masan có quyền mua lại số cổ phần của Tiberon trong 3 năm tới với giá trị
từ 1.260-1.890 tỉ đồng. Theo ông Jason Maynard, đồng sáng lập viên của Mount
Kellett, họ đã đầu tư với kỳ vọng Masan sẽ trở thành tổ chức hàng đầu trong
lĩnh vực tài nguyên tại Việt Nam và Đông Dương nói chung.”
Tất cả những bất
thường trên chỉ được lý giải bởi một hợp đòng 150 triệu USD tiền tư vấn của
Nguyễn Thanh Phượng, cùng việc cam kết nhận nợ cho Vinashin của Masan. Và mối
tình giũa Masan – Nguyễn Tấn Dũng còn được thể hiện ở việc Masan và Techcombank
tài trợ xây dựng trường cho Kiên Giang. Ngày 28/6/2012, đồng loạt các báo Đảng
cộng sản, Nhân dân, Công An nhân dân … đăng tin:
‘Trường THPT Minh
Thuận được xây dựng mới trên diện tích 34.000m2, bao gồm 14 phòng
học, 8 phòng hiệu bộ, 24 nhà công vụ… với tổng vốn trên 28,8 tỷ đồng do Liên
hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Kiên Giang thông qua Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng và đồng chí Lê Hồng Anh - Thường trực Ban Bí thư vận động Tập đoàn
MASAN, Ngân hàng Tecombank tài trợ 20,5 tỷ đồng, số còn lại ngân sách địa
phương.’
Vụ buôn bán Núi Pháo chỉ là bước tiếp theo của cuộc hôn nhân
ma quỷ giửa các ông chủ ‘Sói Nga’ của Masan – Techcombank & Nguyễn Tấn
Dũng.
Mời các bạn xem tiếp các bài sau.
Detective
MASAN
CHÈN ÉP DÂN ĐỂ LẤY NÚI PHÁO!
QLB - Mời độc giả hãy xem bài
Trên Đại đoàn kết để thấy rõ bộ mặt thật của nhóm thôn tính tài sản NGUYỄN
THANH PHƯỢNG - NGUYỄN ĐĂNG QUANG - HỒ HÙNG ANH. Hãy đọc bài này để
thấy phương cách hành xử côn đồ để cướp đất của dân đã được lặp lại tại Văn
Giang! Cùng một nhóm 'Sói Nga' về Việt Nam, với sự bảo kê của Nguyễn Tấn Dũng
và Nguyễn Văn Hưởng, chủ của các dự án đã thuê côn đồ đanh đập dân... nhưng
không hề bị trừng trị! Công lý ở đâu? Có phải công lý nằm trông tay Hổ chúa'
xuất thân từ anh y tá????
Xung quanh vụ kiện kéo dài tại dự án Núi Pháo - Thái Nguyên Quyền lợi của dân
không được quan tâm (08/03/2012)
|
Báo Đại Đoàn Kết
đầu năm 2012, có bài "Có khuất tất trong đền bù giải phóng mặt bằng?”
phản ánh việc hàng chục hộ gia đình ở xã Hà Thượng, một trong 4 xã nằm trong
dự án xây dựng khu khai thác, chế biến khoáng sản thuộc huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên, gửi đơn khiếu nại - tố cáo đến cơ quan chức năng từ địa phương
và Trung ương xung quanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên đến nay,
vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm.
|
Lực
lượng vệ sĩ phục vụ cho việc giải phóng mặt
bằng
đã có những hành động trái pháp luật
Người dân ở đây khiếu
nại về việc không được giao quyết định thu hồi đất chi tiết theo điều 32,
Luật Đất đai - 2003 cho từng hộ có đất bị thu hồi; áp giá đền bù thiếu công
bằng, không đúng, không đủ theo quy định của pháp luật; ép buộc giao đất khi
chủ dự án chưa thực hiện bồi thường, hỗ trợ... Thậm chí dùng lực lượng công
an, dân phòng... cưỡng chế giao đất, gây bức xúc dư luận...
Cho
đến nay, tình hình khiếu kiện vẫn chưa giảm, an ninh trật tự diễn biến phức
tạp. Đáng chú ý là việc liên tiếp xảy ra xô xát, ẩu đả giữa người dân bị thu
hồi đất với lực lượng gọi là... "vệ sỹ” (mặc đồng phục có biển hiệu
"An ninh quốc gia” có công cụ hỗ trợ). Công ty Núi Pháo Vica đã thuê
hàng chục vệ sĩ bảo vệ đã trực tiếp trấn áp những ai "dám” ngăn cản việc
giải phóng mặt bằng... Một số vụ điển hình như ngày 25-10- 2011, lực lượng
"vệ sỹ” này đã làm anh Trần Hoàng Hải (xóm Sơn Hà, xã Hùng Sơn, huyện
Đại Từ) ngất xỉu. Khi ấy anh Hải cùng chị gái là Trần Thị Huyền cùng các chị
Hồng; chị Bình... có đất bị thu hồi, nhưng chưa được nhận tiền đền bù, hỗ trợ
đã ngăn cản lực lượng của công ty giải phóng mặt bằng. Riêng anh Hải bị còng
tay bằng khóa số 8 (việc này cán bộ Công an huyện Đại Từ đã lập biên bản;
Công an xã Hà Thượng cùng một số người làm chứng xác nhận...).
Sáng ngày
23-11-2011, bà Hoàng Thị Năm trú tại xóm 2, xã Hà Thượng, một trong hàng trăm
hộ gia đình có đất bị thu hồi vào thắp nhang tại ngôi mộ bố chồng nằm trong
diện giải tỏa, chưa di dời, đã bị lực lượng vệ sỹ ngăn cản phải đưa đi bệnh
viện A - Thái Nguyên điều trị. Nghiêm trọng hơn, ngày 24-2-2012 khi 5 mẹ con
bà Lương Thị Nhung (còn gọi là Ly), trú tại xóm 4, xã Hà Thượng ra ngăn cản
việc Công ty Núi Pháo Vica chưa thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ đúng, đủ
tiền cho bà Nhung, chủ hộ sử dụng đất, bị thu hồi 3.921m2 đất (gồm: Ao, bãi,
ruộng vườn, đồi và đất ở), lực lượng "vệ sỹ” đã xô đẩy khiến anh Nguyễn
Khánh Duy (con bà Nhung) bị thương. Anh Duy hiện vẫn đang điều trị tại bệnh
viện...
Đến nay, các
"khổ chủ” nêu trên vẫn tiếp tục kiên trì "đội” đơn đi gõ cửa công
quyền, với hy vọng được giải quyết quyền lợi chính đáng và đề nghị cơ quan
pháp luật cần làm rõ, xử lý đúng pháp luật đối với những "vệ sỹ ” của
Núi Pháo Vica có hành vi trái pháp luật. Đề nghị UBND tỉnh Thái Nguyên, Ban
giải phóng đền bù dự án nói trên khẩn trương kiểm tra, giải quyết có tình có
lý, đảm bảo quyền lợi cho công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật,
tránh xô xát, hậu quả đáng tiêc xảy ra.
Vi
Quốc Trần
|
MASAN - BẢN CHẤT LỪA ĐẢO
Ngày 7/7/2011
Báo VNExpress đăng bài ‘Quảng cáo mì gói
kiểu ‘gậy ông đập lưng ông’
“Nhiều
nhãn mì gói của chính Masan vẫn chứa E 102, chất mà công ty này gọi là phẩm màu
độc hại nên không đưa vào sản phẩm mới Mì Tiến Vua bò cải chua”
Rõ rang để cạnh tranh với các thương
hiệu khác, trong đó đặc biệt thương hiệu Ace có tiếng tăm, Masan đã bịa ra cả
những thông điệp để đánh lừa dư luận lầm tưởng sản phẩm của mình đạt tiêu chuẩn
Nhật Bản, trong khi chính sản phẩm của mình lại đang sử dụng chính những hương
liệu độc hại.
Dưới đây
chỉ là một trường hợp ‘bị bắt tận tay day tận mặt’, còn hàng trăm sản phẩm khác
thì sao? Nước Tương Chin – Sun bị Phần Lan bắt quả tang cũng chối đây đẩy, đến
khi nước tương lấy ngay tại chính cơ sở sản xuất của Công ty, chất gây ung thư
gấp 2.215 lần cho phép, cao nhất Việt Nam thì càng thấy rõ BẢN CHẤT: Một Tập
đoàn với những chủ nhân là kẻ bất nhân thì liệu có thể làm được điều gì tử tế
ngoài việc lừa đảo người dân để làm giàu cho chính họ?
Mời đọc
Trong thư trả lời VnExpress.net
về clip quảng cáo mì Tiến Vua bò cải chua bị Công ty Acecook tố là đưa thông tin gây nhầm lẫn, đại diện của Masan
cho biết nên chờ sự phân xử của cơ quan chức năng. Tuy nhiên, Masan lại rất sẵn
lòng thông tin thêm về sản phẩm mì Tiến Vua bò cải chua với sợi mì không phẩm
màu độc hại E 102 (còn có tên gọi màu tổng hợp Tartranzine 102).
Đại diện của Masan cho biết đây là một sản phẩm đáp ứng yêu cầu của Nhật
Bản, quốc gia đầu tiên đưa ra công nghệ sản xuất mì. Vị này còn bổ sung, Nhật
đã cấm không cho sử dụng phẩm màu hóa học tổng hợp E 102 trong mì ăn liền và thực
phẩm nói chung. Kèm theo phần trả lời này, Masan gửi thêm một tài liệu rất chi
tiết với các dẫn chứng về sự độc hại của E 102 từ các văn bản của Nhật, Mỹ và một
số quốc gia châu Âu.
Vì thế mà trong clip quảng cáo mì Tiến Vua bò cải chua, Masan đã phát đi
thông điệp mì có màu đậm là chứa phẩm màu độc hại.
|
Mì Omachi của Masan vẫn đang chứa E 102. Ảnh minh họa: Nhật Minh |
Trong khi đó, theo khảo sát của VnExpress.net,
trên thị trường, các sản phẩm đang được bán rộng rãi của chính Masan tại siêu
thị, điểm bán lẻ… gồm mì Tiến Vua (loại cũ) và mì Omachi đều chứa E 102. Trên
bao bì Omachi và Tiến Vua (loại cũ) đều in rõ ràng thành phần: Màu tổng hợp
Tartranzine 102 (E 102).
Trả lời về chất E 102 có trong các sản phẩm mì Omachi, Tiến Vua (loại
cũ) đang bán trên thị trường, nguồn tin từ Masan cho biết, công ty dự kiến thay
thế E 102 trong tất cả các sản phẩm mì khác trong thời gian tới.
Về việc Masan quảng bá mì Tiến Vua bò cải chua không chứa phẩm màu “độc
hại” E 102, kèm việc cung cấp nhiều thông tin về tác động của chất này tới sức
khỏe con người, nhưng vẫn sản xuất và đưa ra thị trường các sản phẩm chứa chất
này tới người tiêu dùng trong nhiều năm qua, đại diện nói trên cho biết sẽ
nghiên cứu và có câu trả lời sau.
Trong khi đó, một lãnh đạo của Cục vệ sinh an toàn thực phẩm cho biết,
nói phẩm màu E102 là độc chất có hại cho sức khỏe là không thông tin đầy đủ. “Nếu
loại phẩm màu này là độc chất, có hại cho sức khỏe người tiêu dùng thì Bộ Y tế
đã cấm sử dụng chứ không để cho các công ty làm như hiện nay. Ngay cả công ty mới
có sản phẩm mì gói không chứa E102 thì hiện tại họ vẫn đang sử dụng ở các sản
phẩm khác”, ông nói.
Chiều 6/7, Cục an toàn vệ sinh thực phẩm đã chính thức phát đi thông tin về thực phẩm màu E102. Thông báo nêu
rõ, phẩm mầu E102 được sử dụng đúng hàm lượng thì vẫn đảm bảo an toàn. Hiện tại,
chỉ có một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hạn chế việc sử dụng do lo ngại vấn đề
dị ứng thức ăn vốn ở một tỷ lệ cao trong cộng đồng dân cư mà khó phân biệt dị ứng
có thể do E102 hay do bản thân thực phẩm. Còn lại, hầu hết các nước của EU, Mỹ
và các nước khác vẫn cho phép sử dụng E102 trong chế biến thực phẩm.
Bình luận về mẫu quảng cáo mì Tiến Vua bò cải chua ‘tố cáo’ Omachi, giám
đốc sáng tạo của một công ty quảng cáo lớn tại TP HCM (người có kinh nghiệm
trong ngành mì ăn liền) cho rằng, công ty Masan chuẩn bị chưa kỹ cho chiến dịch.
Việc đưa ra thông điệp bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, trong khi vẫn bán các sản
phẩm mà mình quảng cáo có hại cho sức khỏe là điều cấm kỵ.
“Omachi là sản phẩm mì cao cấp vẫn còn chứa chất E102 thì hiệu ứng phản
cảm của quảng cáo mì Tiến Vua (phân khúc bình dân) sẽ còn nặng nề hơn. Thêm vào
đó, khi chất E102 được cơ quan về an toàn thực phẩm khẳng định không độc hại
cho sức khỏe mà lại quảng cáo như vậy thì làm cho người tiêu dùng không tin vào
thông điệp được đưa ra nữa. Như vậy là quảng cáo mì Tiến Vua đã tự tay bóp
chính mình rồi”.
VNEXPRESS
Câu chuyện Ba Dũng đang tháo chạy có cái lý của nó hay không ????
Có lý chứ, rất có lý là đằng khác.
Ngoài những chuyện chúng ta biết rồi (tôi sẽ viết sau), những yếu
tố sau đây (có thể nói là quan trọng theo thứ bậc từ trên xuống dưới):
1. Sự xuất hiện của QLB mà ngày hôm nay tôi biết là do bàn tay Nguyễn Phú Trọng (Trọng Lú TL) đặt ra vì bài này..
Còn chuyện tư Sang khè ba Dũng hổm rày
là rõ như ban ngày, tức là 4S và TL cùng nhau chỉa 3 Dũng, có thể để
hiệp thương với 3 Dũng sau này trên xương máu của DN và 90 triệu dân VN
2. Kinh tế ngày càng lộ ra bét nhè
và tất cả mọi người, không ai che chở hay chối cải được, DN vẫn phá sản
với mức độ tàn khốc (3 Dũng càng ở lâu từ đây tới cuối năm thì hình ảnh
càng tệ), thất nghiệp là hơn 2 triệu và tăng nhanh.
3. Ngày càng lộ ra trên mặt báo lề
phải về nợ xấu NH (không còn là 106 ngàn tỉ như NVBinh từng bao che) mà
là ít nhất công nhận 400 ngàn tỉ (điều này làm phương án mua nợ xấu với
100 ngàn tỉ phá sản từ trong trứng nước. Nợ xấu của DNNN từ 415 ngàn tỉ
bây giờ chúng nó công nhận là hơn 1 triệu tỉ (Bùi Quang Vinh công nhận
ngày 01.07.2012), tôi thì cho rằng nợ xấu NH là 740 ngàn tỉ ít nhất và
nợ xấu DNNN là 2 triệu 400 ngàn tỉ ít nhất. TTCK sẽ bị ảnh hưởng nặng nề
về những con số này.
3. Đàn em như Nguyễn văn Bình, NV
Giàu bắt đầu trở mặt và hợp tác với dư luận, xì nhiều bằng chứng cáo
buộc 3 Dũng và sự môi giới của vợ chồng con gái Thanh Phượng rất rõ
ràng.
4. Những mắc xích của Mafia như
tướng Hưởng, Quang, Lê Hùng Anh, Trầm Bê, bầu Kiên, Tiền còi v…v…. lần
lượt được phanh phui mà sức của 3 Dũng và Hưởng không làm câm miệng quan
làm báo nữa rồi.
5. Chỉ cần Ủy ban chỉ đạo chống tham
nhũng hay cơ quan đảng hành trọng trong lần chỉnh đốn Đảng tháng 7 là 3
Dũng sẽ đi tù cùng con cái và mất tất cả
6. BCT, BBT, UVTW, CCB, QĐND v.v..
đều lo sợ về những cuộc biểu tình trong những tháng ngày sắp tới, người
dân đang rất oán hận về kinh tế, lạm phát, mất việc của 3 Dũng, nên BCT
phải hành động để cứu Đảng không sụp đổ bởi người dân.
——————-
Bên trên là những lý do, và sau đây là những triệu chứng
1. Con gái rút khỏi đại diện Pháp Luật Bản Việt để khi vắng mặt thì đừng ai thắc mắc.
3. Giao cho Tướng Hưởng công việc thành lập Con Đường VN, con đường
này bị cộng đồng mạng cày nát bấy (tôi cũng là một trong những thủ
phạm, thật tình mà nói, tôi là thủ phạm nhiều chuyện trên đây lắm…). Con
đường VN dùng để thương lượng hạ cánh an toàn rẻ hơn nhiều so với
thương lượng với 4S và TL.
4. Cty mua nợ bây giờ đổ thừa là cần quá nhiều tiền nên tạm hoãn,
thực chất là không có 100 ngàn tỉ để thực hiện và chống đối trong QH,
trong BCT, trong dân quá mạnh mẽ vì dùng tiền thuế của dân mà cứu Mafia
banking.
——————————-
Những chuyện mà 90 triệu người dân phải làm:
1. Hãy đề cao cảnh giác 4S và TL thỏa hiệp với 3 D về hạ cánh an
toàn cùng vài tỉ usd trao tay, 3 Dũng phải trả giá cho những gì tổn
thương đến cuộc sống của 90 triệu dân và nợ nần 215 tỉ (4 triệu 300 ngàn
tỉ, 120% GDP) mà đời con cháu chắt, chút chít phải trả
2. Hãy sẵn sàng xuống đường biểu tình giải thể ĐCS vì một CP Hậu CS
tài năng , trong sạch (minh bạch, trung thực) đã sẵn sàng để đem lại
cuộc sống cho người dân (cho dầu tôi không tham gia).
3. Cuộc suy thoái này là 7 năm, Alan Phan dám nói thế vì ông ấy ở
ngoại quốc như tôi, còn những kinh tế gia VN đầu biết 7 năm nhưng không
dám nói. Không khó mà phán đoán bao nhiêu năm, cứ nhìn chuyện sát nhập
nhà băng để giải quyết nợ xấu mà từ hơn 1 năm nay, chỉ sát nhập 4 trong
số cả trăm tổ chức tín dụng, còn giải quyết nợ của DNNN càng lâu hơn
nữa. BĐS không thấy lối thoát dù đã giảm lãi suất 5 lần, từ 14% còn 9%.
4. Hãy theo dõi sát trang CXN này để biết sự thật hiện tình kinh
tế, tất cả những gì dự báo từ trước đều diễn ra như thế, lòng tin phải
đặt đúng chổ thì mới có cơ sở để hành động.
Melbourne
02.07.2012
Châu Xuân Nguyễn
TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN CỦA LIÊN HIỆP QUỐC
(Được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948)
Lời nói đầu
Với nhận thức rằng:
- Việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, các quyền bình đẳng và không thể
tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do,
công bằng và hoà bình trên thế giới;
- Sự xâm phạm và coi thường nhân quyền đã dẫn đến những hành động tàn
bạo xúc phạm tới lương tâm của nhân loại, và việc xây dựng một thế giới
trong đó con người được tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn
phải chịu nỗi sợ hãi và cùng cực được coi là khát vọng cao nhất của loài
người,
- Nhân quyền phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải
nổi dậy như là biện pháp cuối cùng nhằm chống lại chế độ cường quyền và
áp bức.
- Cần phải khuyến khích việc phát triển quan hệ bằng hữu giữa các dân tộc,
Nhân dân các nước thành viên Liên Hợp Quốc trong bản Hiến Chương đã
một lần nữa khẳng định niềm tin của mình vào những quyền cơ bản của con
người, vào nhân phẩm, vào giá trị của mỗi người, vào quyền bình đẳng nam
nữ, và đã bày tỏ quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội cũng như xây dựng
các điều kiện sống tốt hơn, tự do hơn.
Các nước thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp Quốc, phấn đấu thúc
đẩy mọi người tôn trọng và thực hiện các quyền cũng như những tự do cơ
bản của con người.
Sự nhận thức thống nhất về các quyền và tự do của con người kể trên là yếu tố quan trọng nhất để thực hiện đầy đủ cam kết này.
Nay, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tuyên bố:
Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền này là thước đo chung cho
tất cả các quốc gia và các dân tộc đánh giá việc thực hiện mục tiêu mà
mội cá nhân và mọi tổ chức trong xã hội, trên cơ sở luôn ghi nhớ Bản
Tuyên ngôn này, và sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do
cơ bản của con người thông qua truyền bá và giáo dục, cũng như sẽ phấn
đấu đảm bảo cho mọi người dân, ở chính các nước thành viên của Liên Hợp
Quốc và ở các lãnh thổ thuộc quyền quản lý của mình, công nhận và thực
hiện những quyền và tự do đó một cách có hiệu quả thông qua những biện
pháp tích cực, trong phạm vi quốc gia hay quốc tế.
Điều 1
Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
các quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm,
và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu.
Điều 2
Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản
Tuyên ngôn này, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ,
tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc
hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.
Ngoài ra, cũng không có bất cứ sự phân biệt nào về địa vị chính trị,
pháp quyền hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà một người xuất thân,
cho dù quốc gia hay lãnh thổ đó có được độc lập, được đặt dưới chế độ
ủy trị, chưa tự quản hay có chủ quyền hạn chế.
Điều 3
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.
Điều 4
Không ai phải làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm.
Điều 5
Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
Điều 6
Mọi người đều có quyền được thừa nhận tư cách là con người trước pháp luật ở khắp mọi nơi.
Điều 7
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Tất cả mọi người đều có
quyền được bảo vệ như nhau chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử vi
phạm Bản Tuyên ngôn này, cũng như chống lại mọi hành vi xúi giục phân
biệt đối xử như vậy.
Điều 8
Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bênh
vực theo pháp luật trước những hành vi vi phạm các quyền cơ bản do hiến
pháp hay pháp luật quy định.
Điều 9
Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày đi nơi khác một cách độc đoán.
Điều 10
Mọi người, với tư cách bình đẳng về mọi phương diện, đều có quyền
được một tòa án độc lập và vô tư phân xử công bằng và công khai để xác
định quyền, nghĩa vụ hoặc bất cứ một lời buộc tội nào đối với người đó.
Điều 11
Mọi người, nếu bị cáo buộc về tội hình sự, đều có quyền được coi là
vô tội cho đến khi một tòa án công khai, nơi người đó đã có được tất cả
những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trảng
của người đó dựa trên cơ sở luật pháp.
Không ai bị kết tội hình sự vì một hành vi hay sự tắc trách không bị
coi là một tội hình sự theo quy định của luật pháp quốc gia hay quốc tế
vào thời điểm đó. Cũng như không cho phép áp dụng hình thức xử phạt đối
với một tội hình sự nặng hơn so với quy định của luật pháp lúc bấy giờ
cho mức độ phạm tội cụ thể như vậy.
Điều 12
Không ai phải chịu sự can thiệp một cách độc đoán đối với cuộc sống
riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín của cá nhân người đó, cũng như
không bị xâm phạm tới danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được
pháp luật bảo vệ chống lại những hành vi can thiệp và xâm phạm như vậy.
Điều 13
Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia.
Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình.
Điều 14
Mọi người đều có quyền tìm kiếm và được lánh nạn ở nước khác khi bị ngược đãi.
Quyền này không được áp dụng trong trường hợp đương sự bị truy tố về
những tội phạm không mang tính chất chính trị hay vì những hành vi đi
ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.
Điều 15
Mọi người đều có quyền có quốc tịch của một nước nào đó.
Không ai bị tước quốc tịch hoặc bị khước từ quyền được đổi quốc tịch một cách độc đoán.
Điều 16
Nam và nữ khi đủ tuổi thành niên đều có quyền kết hôn và xây dựng gia
đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn
giáo. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong cuộc sống
vợ chồng và khi ly hôn.
Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên.
Gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội, được nhà nước và xã hội bảo vệ.
Điều 17
Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở hữu chung với người khác.
Không ai bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.
Điều 18
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả
tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín
ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền bá, thực
hành, thờ phụng hay lễ tiết, với tư cách cá nhân hay tập thể, tại nơi
công cộng hoặc nơi riêng tư.
Điều 19
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do
bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào; cũng như tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ
phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên giới.
Điều 20
Mọi người đều có quyền tự do hội họp và tham gia hiệp hội một cách hoà bình.
Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào.
Điều 21
Mọi người đều có quyền tham gia vào chính quyền quản lý đất nước
mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do
lựa chọn.
Mọi người đều có quyền được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nước mình một cách bình đẳng.
Ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ý
chí đó phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, được
tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín,
hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự.
Điều 22
Với tư cách là một thành viên của xã hội, mọi người đều có quyền được
hưởng an sinh xã hội cũng như được hưởng các quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá không thể thiếu để bảo đảm nhân phẩm và tự do phát triển về nhân
cách; thông qua những nỗ lực quốc gia và sự hợp tác quốc tế; phù hợp với
hệ thống tổ chức và nguồn lực của mỗi quốc gia.
Điều 23
Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp,
được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ
chống lại nạn thất nghiệp.
Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng
và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với
nhân phẩm, và được hỗ trợ thêm từ các hình thức bảo trợ xã hội khác,
nếu cần thiết.
Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ các quyền lợi của mình.
Điều 24
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới
hạn hợp lý số giờ làm việc và được hưởng những ngày nghỉ định kỳ có
hưởng lương.
Điều 25
Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để đảm
bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn,
mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng như có quyền
được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa,
già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan
vượt quá khả năng đối phó của họ.
Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc
biệt. Tất cả trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được
hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau.
Điều 26
Mọi người đều có quyền được học hành. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất
là ở các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt
buộc. Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo
dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có
khả năng.
Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về nhân cách và
thúc đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo
dục cũng phải nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu
nghị giữa tất cả các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như
phải nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc về duy trì hoà bình.
Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cái họ.
Điều 27
Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng,
được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như
những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học.
Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh
thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào
mà người đó là tác giả.
Điều 28
Mọi người đều có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc
tế mà trong đó các quyền và tự do cơ bản nêu trong bản Tuyên ngôn này có
thể được thực hiện một cách đầy đủ.
Điều 29
Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở
đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ.
Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những
hạn chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự công bằng và
tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như
đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi
chung trong một xã hội dân chủ.
Trong bất cứ trường hợp nào, việc thực hiện các quyền tự do này cũng
không được đi ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp
Quốc.
Điều 30
Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản Tuyên ngôn
này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hoặc cá nhân
nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất kỳ hành
vi nào nhằm mục đích phá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản
Tuyên ngôn này.
MÈO CON BỊ 'TÓM', HỔ CHÚA CƯỠI ĐẦU NHÂN DÂN!
Qlb
- Đọc bài dưới đây để thấy chỉ có những con mèo thì bị lôi ra làm
'thịt', còn những con hổ chưa nói đến hổ chúa thì lại cưỡi lên đầu nhân
dân và miệng lưỡi thì giả giọng 'hươu vàng'!
6 tháng thanh tra phát hiện tham nhũng 132,7 tỷ đồng
Theo Thanh tra Chính phủ, trong 6 tháng đầu năm 2012, toàn ngành đã phát hiện 49
vụ, 67 người có hành vi liên quan đến tham nhũng với số tài sản 132,7 tỷ đồng;
kiến nghị thu hồi 132 tỷ đồng.
Trong số này, ngành đã thu hồi được 60,2 tỷ đồng, kiến nghị
xử lý hành chính đối với 8 tập thể, 29 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra hình sự
27 vụ, 35 người, xử lý trách nhiệm 6 người đứng đầu.
Nhiều bộ, ngành, địa phương đã phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng như:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Kiên Giang, Tiền Giang…
Cơ quan điều tra trong công an nhân dân cũng đã thụ lý điều tra 248 vụ, 572 bị
can phạm tội về tham nhũng (trong đó khởi tố mới 117 vụ, 217 bị can) với tổng số
tiền thiệt hại lên đến 657,9 tỷ đồng và 1,2 triệu USD; đã thu hồi nộp ngân sách
nhà nước 13,05 tỷ đồng, chiếm 2%. Trong số này, 102 vụ đã có kết luận điều tra
đề nghị truy tố với 260 bị can; tạm đình chỉ điều tra 7 vụ, 14 bị can; đình chỉ
điều tra 3 vụ, 6 bị can và hiện đang điều tra 136 vụ, 292 bị can.
Sáu tháng qua, ngành Thanh tra đã triển khai 6.065 cuộc thanh tra hành chính và
kiểm tra chuyên ngành tại trên 333.000 tổ chức, cá nhân. Qua thanh tra kiến nghị
thu hồi về ngân sách nhà nước hơn 6.480 tỷ đồng, 1.290 ha đất (đã thu hồi được
141 tỷ đồng); xử phạt vi phạm hành chính 258 tỷ đồng (đã thu 215 tỷ đồng); xuất
toán, loại khỏi giá trị quyết toán do chưa thực hiện đúng quy định và đề nghị
cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý hơn 31.200 tỷ đồng.
Ngành kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 425 tập thể, 697 cá nhân;
ban hành 134.520 quyết định xử phạt vi phạm hành chính tổ chức, cá nhân; chuyển
cơ quan điều tra xử lý hình sự 27 vụ, 35 người.
Từ nay đến cuối năm, toàn ngành tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành, nhất là trong những lĩnh vực dư luận xã hội đang quan tâm; chỉ đạo, kiểm
tra, giám sát đối với hoạt động của các đoàn thanh tra; công khai kết luận thanh
tra chính xác, đúng bản chất, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận và xử lý
sau thanh tra.
Ngành tập trung xử lý kịp thời các vụ việc khiếu kiện đông người, đồng thời
giải quyết cơ bản những vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài; tổ chức thực hiện
tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đẩy mạnh thanh tra, kiểm
tra trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện
pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đôn đốc việc tổ chức thi hành quyết địnhh giải
quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật.
Toàn ngành cũng tập trung sửa đổi, bổ sung các giải pháp, cơ chế đi đôi với
thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, chú trọng việc công khai minh
bạch hoạt động của cơ quan nhà nước; thanh kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện
các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thúc đẩy công tác phòng,
chống tham nhũng ở các cấp, các ngành…/.
Chu Thanh Vân (TTXVN)
'cường hào mới' ở Việt Nam
Bình quân khoảng 20 người dân nuôi
một "cán bộ", và rất nhiều các loại phí khoảng "19 loại phí" cho một gia
đình thử hỏi có Không nghèo được không? không biết mối lo ngại về
"cường hào mới" đã đến chưa để người dân lo "tẩm bổ" sức khỏe để chuẩn
bị "chu đáo" cho việc mưu sinh trong điều kiện hoàn cảnh mất đất và tư
liệu sản xuất cũng chảy mòn theo thời gian vào tay "cường hào mới" ngày
nay chứ không phải ngày xưa?
Một người dân xã Quảng Vinh, Quảng Xương, Thanh Hóa, nơi một xã có tới ngót nghét 500 cán bộ. Ảnh NNVN
Khoảng
cách phân hóa giàu nghèo hiện nay đang là con số báo đông không chỉ ở
thành thị mà ngay ở vùng nông thôn đã có không ít cẩm cảnh lại thời buổi
"kéo cày thay trâu" về lại vùng quê nhưng có điều ruộng thời nay, trâu
thời nay lại phải tìm kế mưu sinh khác vì đất hết trâu cũng chẳng
còn?
Bài viết "Rùng mình xã có 500 cán bộ" trên báo Nông nghiệp
Việt Nam,đúng là rùng mình thật! Xã Quảng Vinh (huyện Quảng Xương, tỉnh
ThanhHóa) có 15 thôn, 2.000 hộ, 9.500 dân. Như vậy gần 20 người dân è
lưng ranuôi một cán bộ. Mỗi gia đình phải gánh 19 loại phí. Không nghèo
saođược! Làm gì để đóng 19 loại phí cho một gia đình?
Hiện nay hệ
thống hành chính được thiết kế 4 cấp, trung ương, tỉnh, huyện vàxã. Xã
là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính, cấp cơ sở là cấp gần
dânnhất,hiểu dân nhất,vì thế được phân câp giải quyết những việc bức
xúchàng ngày đối với đời sống của dân và họ cũng cần có bộ máy và "trình
độ" cán bộ để thực thi luật pháp đối với dân nhất không biết là nguồn
kinh phí nào để chi lương cho cán bộ hành chính cấp xã mà một xã có tới
500 cán bộ hành chính như bài báo đề cập trên đây " không biết có phải
cán bộ hành chính sinh gia để "hành là chính không ? nhưng với
Trọng
trách là vậy, tin cậy là vậy. Thế nhưng gầy đây qua phát hiện,phanh
phui của báo chí về những chuyện bê bối của chính quyền cơ sở quảlà đáng
lo ngại nếu thậm chí còn phải dùng đến từ đáng báo động hoặc một vài
địa phương đã kéo dài tình trạng này quá lâu cần phải ở mức "báo động
khẩn cấp".
Điển hình như việc ăn chặn tiền tết của Chính phủ trợ
cấp cho ngườinghèo, tiền hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ, theo điều tra
được ví vonchua xót hột lúa củ khoai cõng gần bốn chục loại lệ phí.
Nhiều lệ phí cực kỳ phi lý.Đó là ở vùng ven biển.
Còn chuyện ở
Tỉnh miền Trung du cũng có những "động tác" ăn chặn tiền công quỹ nhà
nước hỗ trợ cho Cựu chiến Binh, hay những hộ nghèo thậm chí còn cả
chuyện "bỏ tiền ra để chạy được vào hộ nghèo" hay rồi cơ chế xin cho đã
biến những mục tiêu hỗ trợ của nhà nước thành miếng bánh, mồi ngon của
những ông quan cấp cơ sở ? Buồn không kể xiết cảm cảnh đói nghèo lại
càng "nghèo đói " Còn cán bộ cấp cơ sở không hiểu thu nhập từ đâu nhưng
thời này hẳn không có ai là không có "nhà lầu xe hơi, một vài trang
trai... thậm trí còn khách sạn, nhà hàng riêng " Người dân chỉ biết hỏi
"ông trời" sao ông không phân biệt được đúng sai mà bắt dân đen chúng
con khổ quá thấy cảnh bất công mà đành chịu nhị nhục thưa ông !
Còn
một chuyện cỏn con là ngay một xã nay thuộc thủ đô, dù không hề có kênh
mương dẫn nước dânvẫn phải đóng thủy lợi phí; ai không đóng sẽ không
được chứng giấy tờ.
Gần đây nhiều chính quyền cơ sở của nhiều địa
phương lại "ưu ái" cấpsổ chứng nhận nghèo cho hộ giàu để họ được hưởng
các chế độ trợ cấpgiành cho người nghèo, trong khi đó người nghèo thực
sự cho thoát nghèođể đủ cái gọi là chỉ tiêu!?...
Lâu nay, từ cán
bộ công chức bình thường đến lãnh đạo các cấp hầu nhưđều nói, cơ sở rất
quan trọng, nó quyết định sự thành bại của sự nghiệpchung. Thế nhưng
trong hành động và việc điều hành ở mọi cấp khônghiếm lối suy nghĩ và
hành động chỉ lo tập trung phát triển phần ngọn.
Suy cho cùng cũng
có cái lý của nó. Vì làm như vậy dễ thấy những kếtquả tức thời, thoả
mãn ngay bệnh thành tích vì 1 hay 2 nhiệm kỳ rất ngắnvà thật ra đỡ tốn
công sức, đầu tư suy nghĩ...
Lối
suy nghĩ và hành động này thường được biện minh là xuất phát từlợi ích
chung, là vì bộ mặt Quốc gia... Tuy nhiên nếu xem xét thật côngtâm, tính
toán trên phương diện lâu dài, tính bền vững của sự pháttriển, thì lối
suy nghĩ và hành động trên không kém phần nguy hại. Nhữngbài học về nguy
cơ mất ổn định chính trị ở một số vùng quê những nămtrước đây vẫn còn
nhức nhối.
Công bằng mà nói, sau những sự kiện đáng tiếc đó thực
hiện nghị quyếtcủa Đảng, Chính phủ ban hành Quy chế dân chủ cơ sơ và sau
đấy nâng lênthành Pháp lệnh như thổi một luồn sinh khí mới dân chủ XHCN
vào nôngthôn đang có nguy cơ vệ sự xuất hiện đâu đó vấn nạn "cương hào
mới" như "giặc nội xâm". Tuy nhiên do sự thiếu kiên trì, thiếu kiểm tra,
chưathật thấm nhuần, kiên quyết và tổ chức triển khai mang tính phong
trào,tình hình thực thi dân chủ cơ sở theo tinh thần của Pháp lệnh có
phần"chùn xuống".
Còn chuyện "buôn vua,bán chúa" đã
nở rộ ngay tại cơ sở ? Ví như hiện tương "Ủy ban một nhà, chi bộ một họ"
là hoàn toàn không hiếm có những "cán bộ Đảng, chính quyền cấp cơ sở
kéo dài đến 03 nhiệm kỳ " để rồi lớp kế vị toàn là người thân trong gia
đình ,dòng họ kiểu "cha truyền con nối" thời @ hôm nay ?
Có thể nhận định nguyên nhân gây bất cập trong tổ chức và hoạt động của chínhquyền cơ sở cấp xã có thể khái quát ở các điểm:
Một là, HĐND
cấp xãthực chất vẫn là cơ quan nặng về hình thức. Do trình độ học vấn
nóichung ở nông thôn thấp, cho nên rất khó cho người có đủ năng lực làm
đạibiểu. Trong khi đó số người có năng lực khá hơn, có học vấn lo làm
kinhtế, không thiết tha tham gia chính quyền. Mặc dù là cơ quan quyền
lựcNhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủcủa nhân dân nhưng HĐND trên thực tế vẫn không khẳng định được vị
trícủa mình trong thực tiễn hoạt động.
Thứ hai,
tính hình thức của các nghị quyết do HĐND xã thông qua cũngkhông tạo
được cơ sở thực tiến đối với việc chấp hành của UBND. Khả năngkiểm soát
của HĐND xã đối với hoạt động của UBND rất hạn chế. Chưa cómột cơ chế
kiểm soát hữu hiệu, nhất là không có biện pháp thực hiện chếtài.
Thứ
ba: Đội ngũ cán bộ cơ sở đông nhưng không mạnh, vừa thừa vừathiếu. Hầu
hết cán bộ ở cơ sở chỉ được đào tạo cơ bản về chính trị chungchung, ít
được đào tạo về nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước. Cán bộxã khá lúng
túng trong triển khai hoạt động, thụ động , giải quyết côngviệc kém
hiệu quả, nhiều khi không đúng luật pháp.
Ngoài ra, tình trạng vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân có thể nói làkhá phổ biến đáng báo động.
Mặt khác, vẫn còn tình trạng giải quyếtcông việc tùy tiện, tham nhũng
nhất là trong lĩnh vực đất đai, tìnhtrạng mất đoàn kết nhiều nơi còn kéo
dài, có khi gay gắt không hiếmchuyện ủy ban một nhà, chi bộ một họ.
Để
xóa bỏ được các bất cập trên rất cần có những giải pháp căncơ nâng cao
năng lực của chính quyền cơ sở để cho nó đủ sức triển khaicác chủ trương
chính sách trên địa bàn nông thôn.Mọi vấn đề vẫn không nằm ngoài chính
sách "ba trong một" khâu tổ chức cán bộ từ cấp cơ sở đến cấp trung ương
đều cần được thực hiện chính sách tuyển chọn công khai minh bạch tìm
được người cán bộ có "tâm. có tầm" và phải công tâm vì dân phục vụ? Cụ
thể
Thứ nhất, công khai minh bạch mọi
hoạt động của chính quyềntrước nhân dân, có cơ chế bảo đảm để cho nhân
dân tham gia thảo luận,quyết định và giám sát việc thực hiện các nhiệm
vụ của địa phương.
Thứ hai, nâng cao năng lực giám sát của HĐND xã.có cơ chế giám sát thật hiệu quả,biện pháp chế tài nghiêm đủ sức răn đe.
Muốn
vậy, đề nghị về cơ cấu đại biểu nên tính toán một tỷ lệ hợp lýtheo
hướng mở rộng đại biểu ngoài Đảng, đại biểu là dân, bớt đại biểuquản lý
nhà nước để HĐND thực hiện tốt hơn chức năng kiểm tra giám sát.
Thứ ba, triệt
để tuân thủ Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong mỗihoạt động của chính quyền
cơ sở theo đúng quy định về "Dân biết, dânbàn, dân kiểm tra"
Thứ tư, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để thu hút được sinh viên được đào tạo bài bản tham gia chính quyền cơ sở.
Thứ năm,
thi tuyển công khai, cạnh tranh vào làm công chứcxã, tiến đến thực hiện
nghiêm túc quy định bỏ phiếu tín nhiệm các chứcdanh chủ chốt của xã.
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Nghị quyết về "đẩynhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ2001-2010"
cũng nhấn mạnh phải "đặc biệt quan tâm xây dựng, đào tạo độingũ cán bộ
đảng viên và củng cố các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vữngmạnh, coi
đây là nhân tố quan trọng bảo đảm sự thành công sự nghiệp côngnghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn".
Trong lĩnh vực xây
dựng chính quyền, nếu chỉ quan tâm đến đội ngũ cánbộ công chức ở Trung
ương, tỉnh, huyện mà không quan tâm đến việc đàotạo bồi dưỡng, giáo dục
đạo đức phẩm chất chính trị, chăm lo chế độchính sách cho đội ngũ cán bộ
cơ sở phường xã thì sẽ không có một chínhquyền trong sạch vững mạnh.
Chăm
lo chế độ chính sách thiết thực, minh bạch, không để tự tung tựtác, bổ
chi phí vào đầu dân phải gánh chịu, như chuyện ở xã Quang Vinhthì chính
quyền dù đông đến bao nhiêu cũng rất yếu, không ít những kẻ ănbám, ăn
theo. Chính quyền cấp trên dù có tài giỏi đến đâu cũng khôngthể làm thay
và lấp chỗ trống hụt hẫng này.
Vì vậy cuộc vận động "học tập và
làm theo tấm gương Chủ Tịch Hồ Chí Minh cần được triển khai đồng bộ ngay
tại cấp cơ sở những cán bộ của dân, gần dân và phải do dân bầu chọn
công khai minh bạch chứ không phải như lời kể lại của những người dân ở
một Đảng bộ, Chính quyền cấp Phường ở một tỉnh giáp Thủ Đô mà việc bầu,
chọn đều do xếp đặt từ trước thậm chí ban chỉ đạo còn cử người ngồi
hướng dẫn người dân "gạch bỏ " người này bầu bán người kia theo chỉ đạo
chung rồi? Muốn có thành công trong điều hành chính sách từ cơ sở đến
trung ương đều cần thiết phải thực hiện "công khai minh bạch" theo tiêu
chí và trách nhiệm đề ra.
Mai Phương TH
Theo Tamnhin
Bốn "không" ở Singapore
Singapore là thành viên của Hiệp
hội các nước ASEAN không chỉ được ca ngợi là quốc gia có nền kinh tế
phát triển mà còn được đánh giá có một Chính phủ trong sạch. Singapore
có bốn kinh nghiệm chống tham nhũng có hiệu quả. Tamnhin.net xin giới
thiệu đến độc giả bốn kinh nghiệm của Singapore trong chống tham nhũng.
1. Làm cho quan chức không dám tham nhũng.
Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức Chính
phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm.
Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ càng cao, thì phần
trăm trích ra gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên tới vài chục phần trăm
lương tháng. Số tiền này do Nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức, quan
chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công
chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu. Quan chức càng to
thì số tiền bị trưng thu càng lớn. Vì vậy, mỗi quan chức khi nảy ý định
tham nhũng đều phải tính toán: Nếu tham nhũng, nhận hối lộ mấy trăm,
thậm chí cả ngàn đô mà bị tịch thu hàng chục ngàn đô, bị sống trong hoàn
cảnh không lương bổng cho đến lúc chết thì mất lại nhiều hơn được. Vì
thế, đại đa số chọn giải pháp không tham nhũng; quan chức cấp càng cao,
lương càng nhiều càng sợ không dám tham nhũng.
2. Làm cho quan chức không thể tham nhũng.
Chính phủ Singapore quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức,
quan chức phải khai báo một lần với Nhà nước về tài sản của bản thân
hoặc của vợ (chồng) bao gồm: Tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ
phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa… Những tài sản tăng lên phải khai rõ
nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc có thể coi là tham ô, tham nhũng.
Nhà nước còn quy định: Quan chức Chính phủ không được phép nợ nần; không
được vay một khoản tiền lớn vượt quá tổng ba tháng lương. Singapore có
thị trường mua bán cổ phiếu, nhưng quan chức Chính phủ muốn mua cổ phiếu
phải được lãnh đạo cơ quan chủ quản đồng ý và chỉ được phép mua cổ
phiếu của công ty trong nước. Với cổ phiếu của các công ty nước ngoài
đang kinh doanh ở Singapore cũng được phép mua, nhưng với điều kiện các
công ty đó không có quan hệ lợi ích với Chính phủ. Công chức và quan
chức Chính phủ không được phép đến các sòng bạc, nhà chứa.
Luật Báo chí Singapore quy định những điều khoản nhằm chống tham nhũng
trong lĩnh vực này. Theo đó, các nhà báo, ký giả muốn gửi bài viết của
mình ra nước ngoài phải qua tổng biên tập xem xét. Khi được trả tiền
nhuận bút, nhà báo đó phải báo cáo với cơ quan chức năng của Chính phủ
trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận được tiền, v.v...
3. Làm cho quan chức không cần tham nhũng.
Singapore có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao
với cấp thấp, với công chức và giữa công chức với nhân viên, công nhân.
Thu nhập thấp nhất là người bảo mẫu mỗi tháng 400 đô la (Singapore). Nữ
công nhân lắp ráp điện tử mỗi tháng từ 600 đến 900 đô la. Công chức cơ
quan chính phủ tất cả đều tốt nghiệp đại học, lương khởi điểm khoảng
1.300 đô la. Cấp thứ trưởng lương tháng từ 10.000 đô la đến 20.000 đô
la. Thủ tướng lương tháng hơn 40.000 đô la (thời điểm năm 2000). Với mức
lương như vậy, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần
tham nhũng. Hơn nữa cách trả lương như vậy công chức và quan chức Chính
phủ luôn có sự so sánh: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình
thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý,
mất hết liêm, sỉ. Sự so sánh và tự vấn đó đã làm cho quan chức tự tiêu
huỷ những tham vọng không trong sáng của mình.
4. Làm cho quan chức không muốn tham nhũng.
ở Singapore muốn tham nhũng một thứ gì đó, dù nhỏ cũng rất phiền hà. Ví
dụ, khi khách nước ngoài đến Singapore, nếu họ muốn tặng các quan chức
nước chủ nhà một món quà để cảm ơn về sự đón tiếp và thắt chặt mối quan
hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hoá với giá trị tiền không
nhiều. Món quà nào có giá trị 100 đô la Singapore trở lên là họ từ chối
hoặc phải xin phép lãnh đạo cơ quan, nếu đồng ý mới được nhận. Nhưng khi
nhận rồi lại phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Nếu món quà đó
có giá trị tiền quá mức quy định và quan chức đó vẫn muốn nhận thì phải
nộp tiền. Số tiền nộp thêm đưa vào tài khoản quỹ “nộp phạt” của Chính
phủ.
Chuyện kể rằng, một phái đoàn quan chức của Chính phủ Singapore được cử
sang một nước nọ để ký một hiệp định liên doanh sản xuất. Nhận thấy hiệp
định này đem lại nhiều lợi ích cho mình, giới chức nước chủ nhà đã tặng
những món quà lưu niệm có giá trị cao cho quan chức đoàn Singapore. Bởi
sự quá nhiệt thành của chủ nhà, họ không sao từ chối được. Nhưng cứ
nghĩ đến việc khi về nước lại mang quà biếu này đến cơ quan khai báo,
phải mua lại và chuyển tiền vào tài khoản quỹ “nộp phạt” thì quả là
phiền toái. Cả đoàn đều phải “đành lòng” viết thư cảm ơn và gửi lại quà ở
sân bay trước khi trở về Singapore.
Nước ta đã trải qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế
- xã hội phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhưng tệ
nạn tham nhũng đã được gọi là quốc nạn mà cả xã hội lên án vẫn phát
triển ngày càng tinh vi. Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ chín (khoá IX), cùng với việc khẳng định những thành tựu to lớn
đã đạt được, cũng đã nghiêm khắc chỉ rõ: “Điều làm cho nhân dân còn bất
bình và lo lắng nhiều là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất, đạo
đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng và khá
phổ biến”.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp và tích cực chỉ
đạo chống tham nhũng. Trên diễn đàn Quốc hội, các cuộc đối thoại của Thủ
tướng Chính phủ với báo chí đều khẳng định quyết tâm tuyên chiến với
tham nhũng. Nhưng đến nay, hiệu quả đem lại còn hạn chế.
Trông người mà nghĩ đến ta, có thể nói, cách làm của Singapore là gợi ý
tốt để chúng ta suy ngẫm, vận dụng trong quá trình xây dựng “Luật chống
tham nhũng” của Nhà nước ta. Những biện pháp, những điều khoản điều
chỉnh của Luật phải có tính bao quát, toàn diện và phải đồng bộ với các
chính sách, bảo đảm tính khả thi. Chú trọng yếu tố kinh tế, sao cho tính
ngăn chặn, phòng ngừa cao và tính nghiêm khắc, nghiêm minh trong xử lý
vi phạm phải mạnh mẽ. Phương châm và mục tiêu của việc chống tham nhũng
nên theo hướng: Làm cho quan chức không dám, không thể, không muốn và
không cần tham nhũng mà Singapore đã làm có hiệu quả.
TS. PHAN HỮU TÍCH
Tam nhin
ÔNG
TỔ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ QUỶ SA - TĂNG
Qlb - Mời độc giả hãy đọc lại
bài đăng của Danlambao Blog để thấy rõ bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam tại
sao chỉ có quỹ dữ là tồn tại, phát triển, người tử tế, lương thiện không có đất
sống!
Giáo
chủ Cộng Sản: Karl Marx là người thờ quỷ Sa Tăng
Tanyth
Lawless (bạn đọc danlambao) - Người Trung Quốc và Việt Nam từ nhỏ đến lớn bị cưỡng chế
truyền bá lý luận chủ nghĩa Marx, gọi là triết học Marx-Lenin – bác bỏ sự tồn
tại của thần linh (vô thần luận) và tôn thờ vật chất. Tuy nhiên bản thân chúng
ta lại không hề chân chính hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Nga
có hơn 100 đầu sách do Marx viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx
viết nhiều như vậy, rốt cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Muốn
giấu giếm điều gì đây?
Gần đây, xem thấy trên mạng lưu truyền một số bài viết về
Marx và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách tiếng Anh nói về sinh hoạt
và công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết bình sinh không để nhiều người biết
của Marx.
Ngày 5 tháng 5 năm
1818, Marx sinh ra trong một gia đình luật sư người Do Thái giàu có. Khi Marx
lên 6 tuổi, gia đình ông ta quy y Cơ Đốc giáo. Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ
Đốc và tín ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp trung học, thành tích của Marx
rất tốt và tất cả đều xem ra bình thường. Cha Marx cũng đặt kỳ vọng rất lớn vào
ông ta.
Tuy nhiên trong thời
gian học đại học, tính cách Marx biến đổi lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và
cuồng vọng tự đại, khiến cha mẹ ông ta trở nên bất an và đau khổ.
Với sự giàu có của
gia đình, trong thời gian Marx học đại học, cha Marx đã cấp cho ông ta rất
nhiều tiền để tiêu xài [3]. Tuy nhiên Marx và Jenny (Jenny von Westphalen) đã
bí mật đính hôn (gia cảnh Jenny tốt hơn Marx, người vừa cao vừa xinh xắn, là
đối tượng theo đuổi của nhiều chàng trai). Chiếu theo lý thường, cuộc đời Marx
lúc này lẽ ra nên theo chiều hướng tích cực. Vậy vì sao Marx bỗng chốc trở nên
đầy thù hận? Nguyên là sau khi vào đại học, Marx đã gia nhập giáo hội Sa-tăng
(Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì [2] (người tự xưng là có giao tế
với ma quỷ Shiloh), và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ.
Theo tôn giáo Tây
phương giảng, Sa-tăng là thiên sứ sa ngã (fallen angel), từ đó trở thành ma
quỷ, chứa đầy thù hận và tật đố với Thượng Đế (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên
truyền thù hận đối với Thượng Đế, đồng thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại
(bởi vì Thượng Đế đã sáng tạo ra loài người).
Giai đoạn đầu học đại
học, Marx dự định học tập thơ ca và hí kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà
ông ta viết, người ta có thể thấy sự thù hận của Marx đối với Thần và nhân
loại. Ví như trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt
vọng của bản thân, Marx viết: “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!”
(Nothing but revenge is left to me!), “Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời
cao, Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh, Cho bức tường thành của sự
mê tín khủng khiếp, Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên…” (I shall
build my throne high overhead, Cold, tremendous shall its summit be. For its
bulwark– superstitious dread, For its Marshall–blackest agony.) Trong bài thơ
này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước trở thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt
cả thế giới. Marx còn thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết
thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo
của con người” (Human Pride), Marx viết: “Rồi ta sẽ quăng đôi
găng tay sắt lên, Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế giới, Dưới người lùn
khổng lồ khóc thút thít, Lao xuống, nhưng không thể diệt niềm hạnh phúc của ta.
Giống như Thượng Đế mà ta dám làm, Xuyên qua vương quốc hoang tàn trong khải
hoàn, Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa, Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo
Hóa.” (Then the gauntlet do I fling, Scornful in the World’s wide open
face. Down the giant She-Dwarf, whimpering, Plunges, cannot crush my happiness.
Like unto a God I dare, Through that ruined realm in triumph roam. Every word
is Deed and Fire, And my bosom like the Maker’s own.) Tác giả bài thơ này đã có
được khoái cảm từ việc hủy diệt thế giới, mức độ thù hận và cuồng vọng có thể
thấy được từ đó.
Mikhail Bakunin (một
người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”,
cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, viết: “Người
ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có
được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê
tởm và điên cuồng”.
Có một điểm cần phải
chỉ rõ ở đây, đó là thành viên giáo hội Sa-tăng không phải là người theo chủ
nghĩa duy vật; họ không chỉ không vô thần, mà còn tin rằng có sự sống sau khi
chết. Tín đồ Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần,
muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần).
Ví dụ trong kịch bản “Oulanem” nói về quan hệ giữa mình và Sa-tăng giáo
(“Oulanem” là một danh xưng nghi thức tôn giáo của Sa-tăng, “Oulanem is a
ritualistic name for Satan [2]“), Marx không phủ nhận sự sống sau khi chết, mà
cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận với Đấng Tối Cao. Trong vở kịch
này, tác giả đã bán linh hồn mình cho ma quỷ [1].
Sau khi Marx chết
không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth nói: “Ông ta (Marx) là
một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn
phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”. Theo phân tích,
nghi thức cầu khấn của Marx không phải là của Do Thái giáo (cũng không phải của
Cơ Đốc giáo), mà rất có thể là một loại nghi thức ma quỷ bí mật nào đó của
Sa-tăng giáo. Thực sự Marx không phải là một người vô thần.
Tháng 3 năm 1854,
người con trai Edgar của Marx đã xưng hô như sau trong câu mở đầu bức thư gửi
cha mình: “Ác quỷ thân ái của con (My dear devil)”. Bởi vì giáo đồ
Sa-tăng giáo chính là gọi người mình thương yêu như vậy, liệu có thể là trùng
hợp chăng? Không chỉ có vậy, người con rể yêu quý Edward Eveling của Marx cũng
là một tín đồ Sa-tăng. Người bạn thâm giao Proudhon (nhà tư tưởng xã hội chủ
nghĩa người Pháp) của Marx cũng sùng bái Sa-tăng như vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng
Heinrich Heine, một người bạn thân khác của Marx, cũng là một người sùng bái
Sa-tăng, hơn nữa trong thơ còn công khai ca ngợi Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một
người đàn ông, khả ái mê ly”.
Mặc dù Marx công khai
bày tỏ sự thù hận đối với chủ nghĩa tư bản trong các tác phẩm của mình, nhưng
ông ta lại đầu cơ cổ phiếu vào thị trường Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền.
Lúc may mắn thắng được, tháng 6 năm 1864, Marx viết trong bức thư gửi người chú
Leon Phillips rằng ông ta thắng được 400 bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].
Marx được trợ giúp
một lượng lớn tiền từ Engels, nhưng rõ ràng là vẫn không thỏa mãn. Khi một
người bác vợ 90 tuổi sắp chết, Marx viết như sau trong bức thư gửi Engels: “Nếu
như con chó già (old dog) đó chết, thì tôi không ngại gì nữa”. Engels phúc đáp
như sau: “Chúc mừng ông, chướng ngại đối với di sản kế thừa của ông mắc bệnh
rồi, tôi hy vọng ông ta vạ đến nơi rồi”. Sau khi cụ già 90 tuổi mà Marx gọi
là “con chó già” qua đời, Marx lại viết: “Đây là một việc mừng. … Nếu không
phải con chó già đó đem một đống của giao cho bà chủ giữ nhà, thì vợ tôi còn có
thể được nhiều hơn”.
Marx và Engels đều là
phần tử trí thức cao cấp, thế nhưng người ta phát hiện rằng, thư từ qua lại
giữa họ đầy rẫy những từ ngữ hạ lưu thấp hèn. Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ
dâm ô ra, giữa họ không hề có bất cứ bức thư nào trao đổi về niềm mơ ước chủ
nghĩa xã hội nhân đạo.
Giờ lại xem thái độ
của Marx đối với mẹ và vợ mình. Tháng 12 năm 1863, Marx viết trong bức thư gửi
Engels: “Hai giờ trước, tôi đã nhận được một bức điện báo, nói mẹ tôi đã
chết rồi. … dưới rất nhiều tình huống, điều mà tôi cần không phải là một người
đàn bà già đó, mà là những cái khác. Tôi nhất định phải lên đường đến Trier để
tiếp thu di sản (ghi chú của người viết: Trier là nơi Marx sinh ra).” Điều
mà Marx quan tâm chỉ là di sản mà thôi. Ngoài ra, quan hệ giữa Marx và người vợ
Jenny là không tốt, bà đã hai lần ly thân ông ta, nhưng sau đó lại trở về. Khi
Jenny chết, Marx thậm chí còn không tham dự lễ tang.
Marx không bao giờ
thực hiện nghĩa vụ nuôi gia đình; bất chấp mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào
Engels để sinh hoạt. Marx và vợ sinh được sáu người con, trong đó ba người chết
vì thiếu dinh dưỡng, còn hai người con gái và một con rể thì tự sát (người con
gái Eleanor từng nói khi Engels sắp chết rằng cô suy sụp khi biết Marx có con
riêng và sau đó tự sát) [2]. Marx còn nát rượu nghiêm trọng [1].
Marx đối với người
thân của chính mình còn tuyệt tình như vậy, đối với người khác thì có thể tưởng
tượng được. Ai cũng biết Marx là người Do Thái, nhưng ông ta lại căm thù người
Do Thái, còn viết riêng một cuốn sách bài Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do
Thái” (On the Jewish Question). Ông ta thù hận người Đức, người Trung Quốc,
miệt thị: “Người Đức, người Trung Quốc, người Do Thái đều là kẻ bán hàng
rong”. Ông ta gọi người Nga là “bị cơm”, gọi người Xla-vơ là “nhân chủng
cặn bã”, là chủng tộc “phản động”, và nên bị hủy diệt trong cơn bão táp cách
mạng thế giới.
Trong “Tuyên ngôn
của đảng cộng sản” và các cuốn sách khác, Marx tuyên bố phấn đấu vì giai
cấp vô sản, thế nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu xuẩn, lưu manh, khó
ngửi”, còn gọi người da đen là “đần độn”, thậm chí ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc
Mỹ…
Ngày 9 tháng 1 năm
1960, tờ báo Đức “Reichsruf” đã tiết lộ một vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe
đã từng bí mật gửi lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô một phong thư gốc của Marx.
Trong thư đã chứng thực Marx từng là một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát
Áo, ông ta từng là gián điệp trong đội ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi
lần cung cấp một tin tức, Marx nhận được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo
của Marx liên quan đến những người cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và
Thụy Sỹ [1].
Marx chết ngày 14
tháng 3 năm 1883, và được mai táng tại nghĩa trang Highgate (Highgate Cemetary)
ở Luân Đôn, với chỉ 6 người tham dự tang lễ. Thế nhưng nghĩa trang Highgate này
là trung tâm sùng bái Sa-tăng ở Luân Đôn, rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái
ma quỷ đã được cử hành tại nghĩa trang này.
Sự thực đã chứng tỏ
rõ Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo. Tất nhiên Marx không dám thừa nhận, và để
che đậy, ông ta mới nói dối mình là người vô thần. Marx vận dụng thuần thục các
mánh khóe của Sa-tăng — bịa đặt và lừa dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ
của đảng cộng sản, dùng vô thần luận, duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự
của ma giáo cộng sản, để mong đạt được mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.
Mở đầu “Tuyên ngôn
của đảng cộng sản”, Marx viết: “Một bóng ma, bóng ma chủ nghĩa cộng sản
đang làm run sợ lục địa Châu Âu”. Không ít người cảm thấy nghi hoặc về đoạn
này. Hiện tại chúng ta đã minh bạch rồi, “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” này kỳ
thực là Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã nói rõ điều
này cho mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.
Marx đối với nhân
loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng
sản thực tiễn thực hiện giấc mộng của tín đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân
loại tai ương và thống khổ lớn phi thường. May có “Cửu bình cộng sản đảng”
khiến ngày càng nhiều người Trung Quốc thức tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội
của Trung Cộng, thoát khỏi khống chế của Sa-tăng, từ đó được tân sinh.
Tham khảo tư liệu:
[1] Von Richard
Wurmbrand, Marx and Satan (Marx và Sa-tăng), Living Sacrifice Book Co (December
1986).
[2] David Allen
Rivera, Final Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February
2004). Chương 6: Khởi nguyên của chủ nghĩa cộng sản.
[3] Rolv Heuer trong
cuốn sách “Thiên tài và phú ông” đã giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha
Marx cấp cho Marx mỗi năm 700 đồng bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất
lớn, bởi vì thời bấy giờ, chỉ 5% người có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.
* * * * * * * * * * *
* * * * * * * * *
“Con đường thành ma
của Karl Marx” (trích bộ phận quan trọng)
(Trích đoạn)
Trong bài thơ “Câu ma
chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:
Thượng Đế đã lấy đi
của ta tất cả,
Trong sự nguyền rủa
và tra tấn của định mệnh.
Tất cả thế giới đã ra
đi không trở lại!
Ta không còn lại gì
ngoài thù hận!
Ta sẽ dựng ngai của
ta ở trên trời cao,
Lạnh lẽo và kinh
khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,
Cho bức tường thành
của sự mê tín khủng khiếp,
Sự thống khổ đen tối
nhất cho kẻ ngồi trên.
Kẻ nhìn vào nó với
đôi mắt khỏe mạnh,
Sẽ trở thành xanh đen
như chết và câm lặng;
Chiếm cứ bởi sự mù
quáng và lạnh lẽo của tử vong,
Có lẽ niềm hạnh phúc
sẽ chuẩn bị phần mộ cho hắn.
Toàn văn bản tiếng
Anh bài thơ có thể được tra cứu tại:
(Trích đoạn)
Vào thời học sinh,
Marx đã viết một kịch bản, có lẽ là đáp án. Kịch bản này tên gọi là “Oulanem”.
Để hiểu được đầu đề này thì phải biết sự việc như sau:
Sa-tăng giáo có một
loại nghi thức tế lễ gọi là “tụ hội đen tối”. Trong nghi thức này, thầy tế của
Sa-tăng giáo tiến hành tụng niệm vào lúc nửa đêm. Cây nến màu đen bị đảo ngược
và đặt lên giá cắm nến, trong khi thầy tế mặc ngược áo trường bào, nhìn vào
cuốn sách cầu nguyện và tụng niệm, nhưng thứ tự niệm là hoàn toàn đảo lại, bao
gồm thánh danh của Thần, Chúa Jesus, và Đức Mẹ Maria, đều đảo lại để niệm. Một
cây thập tự giá được treo ngược hoặc bị giẫm ở dưới chân; một vật thâu trộm
thánh khí của giáo đường được khắc tên của Sa-tăng, dùng để trao đổi giả. Trong
“tụ hội đen tối” này, một bộ Thánh Kinh sẽ bị thiêu hủy. Tất cả những người có
mặt sẽ phát thệ phạm vào bảy tội tổ tông trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo,
đồng thời thề vĩnh viễn không làm việc tốt. Sau đó, họ sẽ tiến hành túng dục
cuồng hoan.
“Oulanem” chính là
đem Thánh danh “Emmanuel” ra viết bậy bạ. “Emmanuel” là một tên của Chúa Jesus
trong Thánh Kinh, theo tiếng Hebrew thì có nghĩa là “Thần đồng tại với chúng
ta”. Phép thuật hắc ám cho rằng loại đảo ngược này là hữu hiệu.
Tác phẩm “Oulanem”
của Marx có thể tra cứu trên mạng Marxist:
Dù sao đây cũng chỉ
là màn kịch đầu tiên (Act I), nội dung đằng sau vẫn còn chưa đưa lên mạng, tại
sao vậy?
(Trích đoạn)
Để lý giải kịch bản
“Oulanem”, chúng ta nhất định phải dựa vào một màn tự bạch kỳ dị của Marx.
Trong bài thơ “Người diễn tấu” (The Fiddler), Marx viết:
Sao vậy! Ta lao
xuống, lao xuống mà không trượt
Thanh kiếm đen máu
của ta đâm vào tâm hồn ngươi.
Thượng Đế khéo léo
kia không muốn hay là quản,
Nó nhảy vào não từ
đám sương đen của địa ngục.
Tới khi trái tim mê
mẩn, tới khi cảm xúc dâng trào:
Ta đã bán mình cho ma
quỷ Sa-tăng.
Ngài viết các ký
hiệu, bấm thời gian cho ta,
Ta chơi khúc quân
hành Thần Chết nhanh và rảnh.
Đoạn này càng thể
hiện rõ hơn nữa, Marx đã thừa nhận mình có khế ước với Sa-tăng. (Người viết bổ
sung thêm: Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn
ký cho ông ta” [1])
Bản tiếng Anh tác
phẩm “Người diễn tấu” (The Fiddler) của Marx có thể được tham chiếu tại:
Những câu này mang
theo một hàm nghĩa đặc thù: Trong nghi lễ thăng cấp của Sa-tăng giáo, để thực
hiện thuật phù thủy, một thanh kiếm sẽ được bán cho người thăng cấp. Còn kẻ
thăng cấp trả tiền và dùng máu của mình để ký tên trên khế ước với ác ma; sau
đó, khi người này chết, linh hồn anh ta sẽ thuộc về Sa-tăng.
Dưới đây là trích dẫn
kịch bản “Oulanem” của Marx:
Họ cũng là Oulanem, cũng
là Oulanem!
Có cái chết vang
trong cái tên đó, vang lên
Cho tới khi người ti
tiện mang nó kết thúc.
Nhưng đợi xem, ta
đang có nó! Rõ như không khí,
Chắc như xương ta, nó
thăng lên từ linh hồn ta.
…
Nhưng ngươi, trong
cánh tay trẻ khỏe của ta,
Và chúng xoắn lên
điên cuồng ở trước ngực.
Trong bóng đêm, vực
không đáy mở ra và nuốt trọn chúng ta,
Nếu ngươi chìm xuống,
hãy cười, ta sẽ theo ngươi,
Và thì thầm với
ngươi: “Đi xuống! Đi xuống với ta! Đồng chí!”
Trong Thánh Kinh mà
Marx học ở đại học nói ma quỷ bị một vị thiên sứ quăng vào vực không đáy (Khải
Huyền, 20:3). Vực không đáy này là dành cho ma quỷ và các thiên sứ sa ngã. Marx
muốn đưa toàn nhân loại vào trong địa ngục này.
Trong kịch bản này,
ai đang đại biểu cho lời thoại của Marx? Từ ngôn ngữ của người trẻ tuổi, chúng
ta có lý do để nghĩ rằng: Ông ta muốn ném toàn nhân loại vào ngục không đáy,
còn bản thân ông ta đang cười những người bị thuyết vô thần dụ dỗ. Ngoại trừ
nghi lễ thăng cấp của giáo hội Sa-tăng ra, trên thế giới không có bất cứ một
loại lý niệm nào như vậy.
Trong kịch bản
“Oulanem”, khi Oulanem chết, Marx mô tả:
Tất cả đã mất! Thời
giờ đã mãn, và thời gian
Dừng lại. Vũ trụ tầm
thường này sụp đổ.
Ngay khi ta siết chặt
vĩnh hằng và hét lên,
Câu nguyền rủa thật
lớn vào tai con người.
Marx thích lặp lại
câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy
diệt”. Ông ta thích trích dẫn câu nói đó.
Hết thảy những thứ
này là chỉ điều gì? Công nhân, nông dân, trí thức, thương nhân? Người tin chủ
nghĩa cộng sản? Hay là toàn nhân loại? (Người viết bổ sung thêm: Nguyền rủa cả
nhân loại đều bị hủy diệt, chỉ có ma quỷ Sa-tăng mới có ý tưởng như vậy [2])
(Trích đoạn)
Thành viên Sa-tăng
giáo không phải là người duy vật, họ tin rằng có sự sống sau khi chết. … cho
rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận đối với Đấng Tối Cao. Đối với ma
quỷ, “vĩnh hằng” đồng nghĩa với “khổ hình”. Chính vì vậy ma quỷ mới trách mắng
Chúa Jesus: “Hỡi Con Đức Chúa Trời, chúng tôi nào có gây sự gì với Ngài chăng?
Ngài đến đây để hình phạt chúng tôi trước kỳ sao?” (Phúc Âm Matthew, 8:29).
Marx cũng có cùng một loại bất an như vậy. Trong “Oulanem”, ông ta viết:
Vĩnh hằng! Nó là nỗi
đau vĩnh hằng,
Cái chết không thể
tưởng tượng, đo lường được!
Một mưu kế tà ác được
trù tính để chế nhạo chúng ta,
Không gì ngoài máy
đồng hồ, cỗ máy câm lặng rung lên
Trở thành lịch — trò
hề của thời gian; trở thành,
Chỉ là thứ gì đó nhờ
đó ít nhất có thể xảy ra;
Và để hủy diệt, chỉ
có thể là hủy diệt!
(Trích đoạn)
Khi Marx viết
“Oulanem”, cậu thanh niên trẻ này mới chỉ gần 18 tuổi. Lúc ấy, kế hoạch ấp ủ cả
một đời của ông ta đã thể hiện rất rõ ràng. Marx không hề ảo tưởng vì nhân
loại, vì giai cấp vô sản, hoặc vì chủ nghĩa xã hội mà phục vụ. Ông ta muốn hủy
diệt cả thế giới, làm rung động cả thế giới, lấy đau đớn, rối loạn làm cơ sở để
dựng ngai của ông ta.
Lời kết:
Mars, chủ nghĩa cộng
sản, đảng cộng sản, là tổ chức hữu hình mà Sa-tăng kiến lập tại thế gian con
người. Kể từ khi sinh ra, nó đã lấy phản đối tín ngưỡng chính thống và văn hóa
truyền thống làm mục đích, lấy phá hoại luân lý chính thường và đạo đức nhân
loại làm căn bản, giết người hại mệnh, họa loạn thế gian. Ai mà người gia nhập
tổ chức này, thì chính là thành viên của ma giáo (bị nhận ấn ký), chắc chắn
phải uống rượu thịnh nộ của Thượng Đế, trở thành vật hy sinh của ma giáo. Bởi
vậy xóa thú ấn, thoái xuất ma giáo cộng sản là điều rất quan trọng để được tân
sinh.