MỘT DỰ BÁO THIÊN TÀI CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
NGUYỄN KHẮC MAINKM: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi được Chúa Nguyễn Hoàng hỏi kế đã nói: “Hoành Sơn nhất đoái, vạn đại dung thân”, theo đó Nhà Nguyễn đã âm thầm và quyết liệt mở mang đất nước để có một Việt Nam trọn vẹn hình chữ S ngày hôm nay. Với Biển Đông, Cụ Trạng cũng có lời tiên tri, dạy rằng: “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ / Đất Việt muôn năm vững trị bình”.
Trong Bạch Vân Am Thi Tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài thơ Cự Ngao Đới Sơn:
Chữ Hán:
巨 鰲 戴 山
碧 浸 仙 山 徹 底 清
巨 鰲 戴 得 玉 壺 生
到 頭 石 有 補 天 力
著 腳 潮 無 卷 地 聲
萬 里 東 溟 歸 把 握
億 年 南 極 奠 隆 平
我 今 欲 展 扶 危 力
挽 卻 關 河 舊 帝 城
Phiên âm: Cự ngao đới sơn
Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
Trước cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành.
Dịch nghĩa: Con rùa lớn đội núi
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy,
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất.
Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay,
Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phù nguy,
Lấy lại quan hà, thành xưa của nhà vua.
Xin mạn dịch thơ như sau: Con rùa lớn đội núi
Núi tiên biển biếc nước trong xanh,
Rùa lớn đội lên non nước thành.
Đầu ngẩng trời dư sức vá đá,
Dầm chân đất sóng vỗ an lành.
Biển Đông vạn dặm dang tay giữ,
Đất Việt muôn năm vững trị bình.
Chí những phù nguy xin gắng sức,
Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.
Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc càng thấy rất “kim nhật kim thì”, rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ nguyên là đễ nói cái chí của cụ ”Chí những phù nguy xin gắng sức” ( Ngã kim dục triển phù nguy lực). Nhưng lại đọng trong đó một tư tưởng chiến lược một dự báo thiên tài:
“BiểnĐông vạn dặm dang tay giữ, /Đất Việt muôn năm vững trị bình”.
(Vạn lý Đông minh quy bả ác / Ức niên Nam cực điện long bình.”)
Vào những ngày này Biên Đông đang trở thành một trường tranh chấp, quyết liệt đầy tính bá đạo, đai Hán, đầy mưu mô và hành động vừa gian ác, vừa xảo quyệt của nước lớn Trung Hoa, đang trong cơn hưng phát, thèm khát không gian sinh tồn, muốn bá chiếm biển Đông. Nào vạch đường lưỡi bò, nào xây dựng thành phố Tam Sa được tính toán xây dựng trên vùng chủ quyền của người khác, nào gọi thầu những lô thăm dò ngay trên vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nào ngang ngược, tàn bạo cắt cáp, rượt bắt tàu thuyền của ngư dân ta đang làm ăn trên vùng biển của nước mình…
Hai câu thơ đầy tính dự báo chiến lược của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng lay động từ đáy sâu của ý chí, của tâm hồn cái tâm thức biển đảo của người Việt. Tự ngàn xưa dân Việt đã là cư dân của văn hóa biển-đảo. Vạn dặm biển Đông phải quay về nắm lấy trong bàn tay. Làm được như vậy, mà phải làm được như vậy – làm chủ được biển Đông, thì muôn đời cõi trời, đất nước Nam này sẽ vững vàng trong cảnh thanh bình thịnh trị lớn lao!.
“Biển Đông vạn dặm dang tay giữ / Đất Việt muôn năm vững trị bình”.
Đó là lời dự báo thiên tài, là lời truyền dạy của tổ tiên. Nó phải được cảm nhận để hành động trên quy mô của Dân tộc.
Nói quay về giữ trong bàn tay có nghĩa là nói sự làm chủ của mình. Chúng ta sẽ và phải làm chủ biển Đông. Tất nhiên không thể và không phải với một thứ phản văn hóa, nghĩa là cũng muốn làm chủ với tư tưởng bá quyền, độc chiếm. Tinh thần làm chủ của chúng ta là vừa biết kiên quyết bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, kiên quyết chống lại sự xâm lăng nước lớn. Mà cũng biết tôn trọng chủ quyền hợp pháp của các nước lân bang Đông Nam Á.
Làm chủ Biển Đông, mà tổ tiên đã truyền dặn, ngày nay phải thể hiện cả ba mặt. Thứ nhất là làm chủ những vấn đề về lịch sử, pháp lý, cả những gì liên quan đến sức mạnh vật chất, tinh thần, để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thứ hai là phải xây dựng một nền kinh tế biển hoàn chỉnh hữu hiệu. Thứ ba là phát triển khoa học và văn hóa biển. Cả ba lĩnh vực trên là ba khâu liên hoàn, làm tiền đề, nhân quả lẫn nhau. Bảo vệ chủ quyền để phát triển kinh tế biển. Muốn phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền hữu hiệu lại phải coi trọng xây dựng các ngành khoa học biển và văn hóa biển. Đó chính là một năng lực mới của Dân tộc để xây dựng và bảo vệ Đất nước.
Điều đáng mừng là Nhà nước ta cũng đã có phác thảo trên những nét chính về một chiến lược biển Đông với 9 giải pháp lớn như sau:
1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Xây dựng lực lượng mạnh nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh biển đảo,
3. Đẩy mạnh điếu tra cơ bản và phát triểnkhoa học-công nghệ biển.
4. Triển khai quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo quốc phòng, an ninh.
5. Quản lý nhà nước có hiệu quả hiệu lực đối với các vấn đề liên quan đến biển.
6. Xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển.
7. Phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội vùng biển đảo và ven biển.
8. Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển.
9. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh (đi đôi với tạo điều kiện đễ nhân dân than gia giữ chủ quyền, làm kinh tế và xây dựng khoa học, văn hóa biển.)
Đọc lại bài thơ Cự ngao đới sơn với hai câu dự báo chiến lược thiên tài, chúng ta càng khâm phục cụ Trạng Trinh Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bao đời, nhân dân gọi Cụ như vậy vì Cụ sống vào thời Lê-Mạc (1491-1585). Cụ đỗ Trạng nguyên, được phong tước Trình Tuyền hầu. Cụ đã đễ lại một di sản văn hóa đồ sộ, với cả ngàn bài thơ văn với những giá trị nhân văn, đầy chất triết lý, đầy tình yêu nước, thương dân, là một kho Minh triết của muôn đời. Cụ còn là nhà dự báo, tiên tri. Câu “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” là lời dự báo không chỉ cho Nguyễn Hoàng, cho Đàng trong mà là cả cho Việt Nam. Về hai chữ Việt Nam, chính Cụ là người đầu tiên dùng để chỉ tên Đất nước, rồi được vua Gia Long dùng làm tên nước chính thức cho đến tận hôm nay.
Câu thơ cuối bài của cụ “Ta nay cũng muốn đem sức phò nguy” chính là nói về chúng ta trong những nhiệm vụ làm chủ biển Đông hôm nay vậy./.
—-
Dịch thơ :
1. “Phú quý hồng trần mộng, bần cùng bạch phát sinh; Hoa thôn đa khuyển phệ (Hoa thôn: làng người Hoa, đa khuyển phệ: có nhiều tiếng chó sủa;);
2. Mục giã dục nhân canh (những người trông thấy giục người ra canh giữ);
3. Bắc hữu kim thành tráng, Nam hữu ngọc bích thành (miền Bắc có thành vàng (hoàng – kim) hoành tráng, miền Nam có thành Ngọc bích);
4. Phân phân Tùng bách khởi, nhiễu nhiễu xuất đông chinh (phân phân tùng bách khởi: giữa hai năm tùng bách (Canh Dần – Tân Mão) sẽ khởi binh, nhiễu nhiễu xuất đông chinh: trùng trùng, điệp điệp xuất quân ra biển đông chinh chiến…);
5. Bảo giang thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành (vùng Bảo giang sẽ xuất hiện Thiên tử, không cần phải chinh chiến, mà thành công)…
6. Rồi ra mới biết thánh minh, mừng đời được lúc hiển vinh reo hò….
Nếu cụ Trạng Trình đúng thì thật may mắn cho xã tắc !
Nhà văn Phạm Viết Đào góp thêm một vài kiến giải:
Về câu 1: “Phú quý hồng trần mộng” có thể hiểu: Do Biển Đông có nhiều dầu, Trung Quốc lại đang “bần cùng bạch phát sinh”, nghĩa là đang thiếu nhiên liệu trầm trọng do kinh tế phát triển nóng nên phải mơ độc chiếm Biển Đông; Còn câu: “Hoa thôn đa khuyển phệ” thì quá rõ. Hiện có rất nhiều tướng lĩnh Trung Quốc thuộc phái “khuyển phệ” đang chủ trương phát động đánh Việt Nam để độc chiếm Biển Đông; trong đó ý kiến của Lý Hồng Mai trên Hoàn cầu gần là một trong những “khuyển phệ” tiêu biểu… Lời tiên tri của cụ Trạng Trình là chính xác…
Về câu thứ 2: Mục giã dục nhân canh (những người trông thấy giục người ra canh giữ) câu này ứng với đám lóc nhóc đang thường xuyên viết bài thúc giục chính phủ không được tìm cách thỏa hiệp, đầu hàng Trung Quốc mà phái có biện pháp cứng rắn bảo vệ chủ quyền quốc gia, lãnh hải, lãnh thổ…
Về câu thứ 3: Bắc hữu kim thành tráng, Nam hữu Ngọc bích thành (miền Bắc có thành vàng (hoàng – kim) hoành tráng, miền Nam có thành Ngọc bích)…
Có thể cụ Trạng Trình đã tiên đoán miền bắc sẽ có máy bay SU 34 hoặc máy bay HU 1A do Mỹ trang bị để trông giữ biển; miền nam có Tàu ngầm Kilo của Nga, hay Hạm đội của Mỹ giúp canh chừng…
Về câu thứ 4: Phân phân Tùng bách khởi, nhiễu nhiễu xuất đông chinh (phân phân tùng bách khởi: giữa hai năm tùng bách (Canh Dần – Tân Mão) sẽ khởi binh, nhiễu nhiễu xuất đông chinh: trùng trùng, điệp điệp xuất quân ra biển đông chinh chiến…);
Câu này đang chờ xem có ứng nghiệm: sẽ khởi binh, nhiễu nhiễu xuất đông chinh; trùng trùng,điệp điệp xuất quân ra biển đông chinh chiến trong năm Canh Dần, Tân Mão (2010 – 2011)?
Về câu thứ 5: Bảo giang thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành (vùng Bảo giang sẽ xuất hiện Thiên tử, không cần phải chinh chiến, mà thành công)…
Có thể tiên đoán: Thiên tử ở đây sẽ là Mỹ sẽ xuất hiện đóng vai trò trọng tài để phân chia Biển Đông không để Trung Quốc bắt nạt Việt Nam.
VỚI HỌC VIỆN KHỔNG TỬ
Hà Văn Thùy
Người bạn hỏi: “Thiên hạ đang nhao nhác về Học việc Khổng Tử, ông thấy thế nào, có đáng ngại không?”Tôi nói: “Đến bây giờ, khi đã có Nhà văn hóa Pháp, Viện Gớt, Hội đồng Anh… mà xứ này chưa có Học Viện Khổng Tử mới là không bình thường. Còn chuyện ngại, theo tôi vừa không, vừa có!”
Lý do không ngại
Nếu là cơ quan lập ra để trao đổi văn hóa nhằm hiểu biết lẫn nhau đúng như tôn chỉ của nó, “dụng khẩu bất dụng thủ” (dùng lời, không dùng nắm đấm) thì là điều tốt. Việt Nam và Trung Quốc vốn “đồng chủng đồng văn”. Từ nghìn năm trước, Khổng Tử được người Việt coi là thánh, là vạn thế sư biểu, trên nước ta, khắp Bắc Trung Nam chỗ nào chả có miếu Văn thánh… Vậy việc lập Viện Khổng Tử là tiếp nối truyền thống xưa, đâu có gì lạ?
Có điều trước kia, do chưa hiểu cội nguồn lịch sử văn hóa Trung Quốc cũng như Việt Nam nên người Việt thường lép vế trước ông thầy Tàu. Nhưng nay thì khác. Nếu có một tao đàn để trao đổi học thuật nghiêm túc, chúng ta không thiếu chuyện để nói.
Xin ghi lại cuộc luận đàm văn hóa giữa Trạng Quỳnh và sứ Tàu thời hiện đại.
“Sứ: tiền chủ hậu khách, xin Trạng nói trước!
Quỳnh: Tôi mạn phép thưa với quan Sứ là có lẽ Cụ Khổng không biết gốc gác nước Lỗ của Cụ từ đâu?
Sứ: Sao ngài nói vậy. Là bậc thánh nhân trước tác kinh sử lẽ nào Cụ lại không rành…
Quỳnh: Tôi
tin Cụ không biết bởi lẽ, nếu biết, Cụ đã không gọi người phía Nam là
man di! Theo thiển kiến của kẻ ngu này thì, trước thời Chu, nước Lỗ chỉ
là một trong 800 tiểu quốc hạt tiêu hạt cải, phần lớn là của người Việt.
Một nhúm người Dương Việt đặt tên nước của mình là Rõ, có nghĩa sáng
rõ, rực rỡ. Nhưng khi người Hoa Hạ làm chủ, không phát âm được vần R nên
phải nói trại thành Lõ rồi thành Lỗ. Nếu biết cội nguồn như vậy, chắc Cụ đã không…
Sứ: Dà, à…
Quỳnh: Ngay cả việc giảng kinh Thi, Cụ Khổng cũng trật lấc…
Sứ: Sao ngài dám…
Quỳnh: Xin
thưa, quan Sứ xem đây, câu cuối bài Quan Thư, cụ ghi “Quân tử hảo cầu.”
Đấy là quân tử Tàu chứ đâu phải quân tử Việt?! Nguyên văn tiếng Việt của
nó là “Quân tử hiếu kều!” Quân tử Việt, tự nhiên, đa tình, thấy giữa
bãi vắng, một thục nữ yểu điệu, thì chàng ta “hiếu kều” tức là khoái
động thủ, muốn nắm tay ve vuốt, đâu có chịu đứng như phỗng mà cầu mong?!
Sau này, khi san định, Cụ Khổng, một phần vì không đủ chữ, một phần vì
tư tưởng thanh giáo, chuyển thành “hảo cầu,” thật vô duyên…Mà như kẻ ngu
này hiểu thì không chỉ Cụ Khổng mà hàng tỷ người Trung Hoa đâu đã hiểu
hết được thứ tiếng mà dân quý quốc vẫn nói!
Sứ: Dà, dà! Ngài không được xúc phạm đại quốc!
Quỳnh: Thưa
không, tôi chỉ nói sự thật, còn nếu tôi sai, xin quan Sử chỉ bảo! Thế
xin hỏi quan Sứ: Từ Mông Cổ từ đâu ra, có nghĩa là gì?
Sứ: Thế mà cũng hỏi, đó là từ tổ tiên chúng tôi đặt ra để gọi người Mông Cổ!
Quỳnh: Ngài
nói đúng, nhưng chỉ đúng ở ngọn. Người Việt, chủ nhân đầu tiên của Trung
Quốc, gọi những người sống trên đồng cỏ phía bắc Hoàng Hà là người Đồng
Cỏ. Sau này do người Hoa Hạ không nói được vần Đ nên đọc trại Đồng thành Mồng rồi thành Mông, còn Cỏ thành Cổ! Đồng Cỏ có có ý nghĩa, còn Mông Cổ thì vô nghĩa, cũng vô nghĩa như tên nước Lỗ của cụ Khổng vậy!
Sứ: Thật vậy sao, nghe cũng có lý, tiếc là ngộ hổng piếc!
Quỳnh: Xin
hỏi quan sứ, ông vua cuối của nhà Hạ và nhà Thương tên gì? Quan sứ trố
mắt nhìn Trạng nghi ngại, sợ bị mắc lỡm. Nhưng thấy vẻ mặt Trạng thực
thà, bèn nói:
Sứ: Ngài không định bỡn tôi chứ? Đó là Kiệt và Trụ, ai mà không hay!
Quỳnh: Vâng, xin hỏi quan Sứ câu nữa, vậy ý nghĩa hai cái tên đó là gì?
Sứ: Suy nghĩ
lúc lâu rồi nói, người Trung Quốc thường đặt tên theo ý nghĩa, nhưng đôi
khi cũng không. Tôi nghĩ, tên hai vị này không có gì đặc biệt.
Quỳnh: Vậy là
quan Sứ không biết rồi, vì là con cháu người Việt nên thời đó người Hoa
Hạ nói tiếng Việt. Thấy vua nhà Hạ hoang dâm nên khi chết, gọi ông ta
là Cặc, còn ông vua cuối nhà Thương là Đụ. Người về sau do không nói
được những từ như vậy nên gọi trại thành Kiệt, Trụ! Thế quan Sứ có
biết, Lưu Bang thực ra nhà nghèo, ít học nên không có tên mà vì là thứ
ba trong nhà nên được gọi là Lưu Ba. Sau này khi làm vua mới nối thêm
vần NG nữa thành Lưu Bang không? Còn trên đời chẳng làm gì có cái tên lỳ
quặc Câu Tiễn. Đó là tên ông vua người Việt là Cu Tí rồi sau gọi theo
Đường âm thành cái tên Câu Tiễn! Nhân đây, cũng xin hỏi quan Sứ: Từ
Trung Nguyên từ đâu ra vậy?
Sứ: Đó là nơi phát tích của người Hoa Hạ chúng tôi, là đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, từ đó mà có tên Trung Quốc…
Quỳnh: Ngài nói không sai. Nhưng xin hỏi cái tên gốc của Trung Nguyên là gì, do ai đặt?
Sứ: Ngài hỏi gì kỳ. Nó là thế, còn gốc với ngọn gì, đất Trung Quốc phải do người Trung Quốc đặt tên chớ còn ai vào đây nữa!
Quỳnh: Xin
thưa, vậy Ngài không biết rằng trong sách Trung Quốc dân tộc sử của tiên
sinh Chu Cốc Thành nói rằng, người Việt vào Trung Quốc trước người Hán
sao? Sau khi khai phá đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, người Việt đặt tên
con sông lớn ở đấy là sông Nguồn còn đồng bằng thì được gọi là Trong
Nguồn. Khi chiếm vùng đất này, ban đầu người Hoa Hạ vẫn gọi theo người
Việt, nhưng sau đó, vào thời Đường, chuyển âm Trong thành Trung, Nguồn thành Nguyên! Xin được hỏi quan sứ điều nữa: vì sao ngôn ngữ Trung Hoa hiện nay đơn âm?
Sứ: (Mừng
ra mặt, có vẻ hý hửng), nói dõng dạc: điều này thì tôi biết chắc như
đinh đóng cột, đó là bậc kỳ lão của chúng tôi, tiên sinh Dương Chấn
Ninh, không chỉ là nhà Nobel vật lý mà còn là nhà kinh Dịch kiệt xuất
từng phát biểu: như mọi ngôn ngữ khác, tiếng Trung Quốc lúc đầu đa âm
nhưng Kinh Dịch làm cho ngôn ngữ Trung Hoa trở thành đơn âm!
Quỳnh: Xin
lỗi ngài, vị giáo sư lỗi lạc của Ngài cũng trật lấc. Không phải kinh
dịch làm cho ngôn ngữ Trung Hoa trở thành đơn âm mà ngược lại, Kinh Dịch
được ghi bằng ký hiệu nhị phân là vạch đứt vạch liền có trước. Sau đó,
khi chữ vuông ra đời, Văn Vương, Khổng Tử mới dùng chữ để giải mã Dịch
bằng cách thêm vào Hào từ, Thoán từ, Thập dực giúp nhiều người hiểu được
kinh Dịch… Nhân đây cũng xin được thưa với quan Sứ, là dù đọc nát nhị
thập tứ sử thì cho tới nay, tôi đố ngài biết được nguồn gốc người Trung
Quốc ở đâu, tiếng Trung Quốc từ đâu ra và chữ Trung Quốc do ai sáng tạo?
Sứ: (mặt xịu
xuống buồn xo rồi cất giọng thành thực): Phải nói điều này kể cũng xấu
hổ, nhưng không thể nói khác, là không chỉ ngộ mà toàn thề tồng pào của
ngộ cũng hông piếc, xin Trạng chỉ giáo!
Quỳnh: Xin
lỗi quan Sứ, bây giờ tôi phải về, ra chợ mua mớ rau muống nấu cơm, kẻo
mụ vợ tôi tối ngày ngồi coi phim Tàu bỏ tôi nhịn đói! Hẹn tái ngộ, tôi
sẽ cho Sứ biết, còn nhiều hơn những điều như thế!”
Trên đây chỉ là câu chuyện hư cấu, nhưng
thực tế, chúng ta có nhiều điều để nói với người Trung Hoa mà khi nghe
ra, những người còn luơng tri sẽ hướng về đất Việt như cội nguồn và nhận
ra, họ và chúng ta cùng một dòng máu.Có câu chuyện đáng tiếc thế này. Tôi mới đọc trên mạng bài viết của một học giả sắc tộc Môn ở Miến Điện. Biết rằng ngôn ngữ Môn là hệ ngôn ngữ lớn ở Đông Á và người Môn là tộc lớn nhưng rồi bị mất đất, mất luôn tổ quốc nên ông đau đáu kiếm tìm đất tổ của mình. Một số nhà khoa học nói rằng, nơi phát tích của người Môn là Bắc Bộ Việt Nam nhưng ông không tin vì Annam nhỏ bé và bị nô lệ đâu xứng đáng là quê hương của dân tộc ông! Ông tin vào một số học giả phương Tây khác cho rằng, Nam Trường Giang là nơi phát tích của người Môn. Vì vậy, trong dịp sang Trung Quốc, ông đã tới nam Trường Giang với lòng thành kính của kẻ hành hương tìm về cố xứ. Cảm động về mối chân tình của ông nhưng thương ông “mồ cha không khóc lại khóc đống mối” tôi định viết cho ông lá thư nói rằng:
“Bằng nguồn ADN lấy từ chính máu huyết đồng bào của ông và đồng bào tôi, khoa học xác minh rằng, bảy vạn năm trước, tổ tiên của ông và của tôi là người Việt cổ chủng Indonesian, được sinh ra tại thềm Biển Đông của Việt Nam, lúc đó là đồng bằng Hainanland. Khoảng năm vạn năm trước, có những nhóm Việt cổ đi về hướng tây, tới đất Mianmar thành người Môn bản địa. Nhóm đi xa hơn, tới Ấn Độ thành người Dravidian. Sau đó, do khí hậu phía bắc âm lên, người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi người Dravidian bị người Arian xâm lăng, người Môn bị người Miến chiếm đất, trở thành người thiểu số. Người Lạc Việt Indonesian đa số, giữ vai trò lãnh đạo phương Đông về xã hội và ngôn ngữ. Do chưa hiểu điều này và do nhận thấy người Môn và người Khmer giữ được ngôn ngữ gốc nên học giả phương Tây gọi là hệ ngôn ngữ Môn-Khmer nhưng thực ra đó là ngôn ngữ Việt cổ. Tổ tiên người Môn không hề sống ở Nam Dương Tử rồi bị đẩy sang đất Miến như ông đã tưởng lầm. Khoa học cho thấy, quê hương người Môn là Bắc Bộ, hay nói đúng hơn là thềm Biển Đông của Việt Nam.” Nhưng thật tiếc, vị học giả đã qua đời ba năm trước!
Nếu sự thật được phổ biến, chắc nhiều người Trung Hoa sẽ hiểu đâu là nguồn cội của mình.
Chính vì thế, Học viện Khổng tử không có gì đáng ngại.
Lý do để ngại
Có không ít lý do để ngại. Đó là việc nhà cầm quyền Bắc Kinh theo thói quen cố hữu làm những chuyện không đàng hoàng, vì đó là bản nghệ của họ. Lý do quan trọng hơn là vì “đã có đảng và nhà nước lo”, người ta gạt nhân dân đầy trí tuệ ra ngoài, đặt vào đó những kẻ bằng cấp cùng mình nhưng cũng cùng mình dốt nát, ăn không nên đọi, nói không nên lời, suốt ngày khom lưng cúc cung nhận những thánh chỉ từ người Tàu để làm những điều tổn dân hại nước! Điều này thực tế đã diễn ra. Mấy năm trước, một tiến sĩ người Việt ở Úc viết cuốn Khoa học soi sáng lịch sử, được NXB Lao Động in nhưng vì động chút xíu tới lông chân “ông bạn 16 chữ vàng”, nó bị đem nghiền bột. Còn tôi, kỳ công viết được cuốn Khám phá lại lịch sử Trung Hoa, trình bày những tri thức mới nhất về cội nguồn sinh học, về lịch sử, văn hóa Trung Hoa đem tới ba nhà xuất bản mà không đắt vì “nhạy cảm nên cơ quan QLXB nói nên để lại”! Khi người dân vừa bị trói tay vừa bị bít miệng thì thua trên sân nhà là cái chắc. Lo là phải!
Trí thức Việt Nam trước vận mệnh non sông
Chính luận20-10-2013
David Thiên Ngọc
“Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng lên chế độ độc tài hiện nay. Đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để đảm bảo tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.” - ông Huỳnh Nhật Tân.
Trước khi viết bài này tôi đắn đo suy
nghĩ mất mấy ngày liền. Trăn trở, suy tư về ý tưởng trong nội dung bài
viết đã diễn ra từ lâu song chưa hạ bút được bởi trong tôi còn quá nhiều
ray rức. Là một con dân nước Việt ngoài sự hiểu biết qua sách vở, giảng
đường cùng các tài liệu lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa của đất
nước ta qua hàng ngàn năm trước thì tôi cũng tận mục sở thị từng trang
đời, từng dấu vết và những vòng quay của bánh xe lịch sử VN từng giờ lăn
qua trước mắt hơn 40 năm qua.
Đất nước ta hiện nay thật sự đang chao đảo, xã hội ngả nghiêng đã đến hồi sụp đổ về mọi mặt. Dân tình khổ đau, chới với trên bờ vực sống còn thì bổn phận của những người con dân có trái tim nồng nàn, yêu tổ quốc non sông thì không thể nào an giấc. Đứng đầu hàng ngũ này phải kể là lớp sĩ phu chí sĩ, trí thức.
Lịch sử VN đầu thế kỷ 15 nhà Trần suy yếu, giặc Minh phương bắc xâm chiếm cõi bờ, đặt ách đô hộ. Đứng trước tình thế dân tộc rơi vào vòng xiềng xích, nô lệ. Trần Nguyên Hãn ngày đêm đau đáu cho vận nước tình dân, cùng Nguyễn Trãi đêm thao thức đọc binh thư, ngày băng rừng, vượt núi tìm minh Chúa đem tài sức hiến dâng cùng nhau dấy binh khởi nghĩa ở Lam Sơn. Cuối cùng các chí sĩ, trí thức yêu nước đã đưa con thuyền quốc gia vượt phong ba cập bến bờ hạnh phúc, xã hội an bình, thịnh lạc qua mấy trăm năm.
Ngày nay cùng với trào lưu tiến bộ trên thế giới. Việt Nam với dòng giống Lạc Hồng, qua chứng minh lịch sử là một dân tộc hiền hòa nhưng bất khuất, cần cù và thông minh, ham học đã sản sinh ra bao lớp anh thư, tuấn kiệt và những lớp nhân sĩ trí thức yêu nước thương nòi đã dám quên mình cho sự thịnh suy của tổ quốc, dấn thân đấu tranh cho xã hội đẹp tươi.
Nơi đây tôi chỉ xin đề cập đến một số nhân vật chính trị, trí thức VN trong các thập niên 60-70 của thế kỷ 20 mà giới trí thức (tạm gọi) này một số xuất thân từ hàng ngũ Sinh viên học sinh (SVHS) Sài Gòn ngày trước mà quá trình hoạt động và tiếng vang vẫn còn, tuy mỗi thời gian có một gam màu khác nhau.
Hai thập niên 60 và 70 thế kỷ trước đất nước VN đắm chìm trong biển lửa, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Kể từ khi Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN đã cúi đầu vâng theo mệnh lệnh của CS Nga-Tàu xé bỏ hiệp định Genève và đem quân tiến chiếm miền Nam Việt Nam để làm bàn đạp nhuộm đỏ bán đảo Đông Dương. Chính Lê Duẫn đã xác nhận “Ta đánh (MNVN) đây là đánh cho Nga-Tàu”. Cuộc binh lửa can qua đó đã gây ra cho hàng triệu sinh linh nam nữ thanh niên VN phải bỏ mình một cách đau thương và vô nghĩa, làm mồi để chúng đốt dãy Trường Sơn một cách phi lý.
Để góp phần cho cuộc binh đao đó một số trong giới trí thức miền Nam, nhất là giới SVHS tập trung ở Sài Gòn đã đóng một vai trò không nhỏ. Vào thời giai đoạn 1965-1975, đa phần thanh niên VN tương đối khá mơ hồ về mặt chính trị. Chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa tư bản là những học thuyết không mấy phổ biến rộng rãi và sâu xa mà mỗi cá nhân phải tự tìm tòi học hỏi. Phần lớn sinh ra và lớn lên bắt đầu có một chút ý thức về xã hội, về nhân sinh quan thì lăn lộn và ngập chìm trong lửa đạn. Nắm được yếu tố này cộng sản đã khai thác triệt để và hình thành mạng lưới tuyên truyền dưới lá cờ cứu nguy tổ quốc. Từ đó phong trào Thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) đấu tranh phản chiến, chống Mỹ ra đời. Ở đây tôi chỉ nói phong trào TNSVHS miền nam (SG), ngoài ra còn có phong trào TNSVHS Huế, Đà Nẵng cũng được CS dựng lên.
Phong trào TNSVHS Sài Gòn được lãnh đạo bởi thành đoàn Đoàn Thanh niên cộng sản HCM và bùng lên sôi nổi trong giai đoạn từ năm 1965-1972, trong đó có 2 mặt là bí mật và công khai (hợp pháp). Thành phần bí mật hoàn toàn là đảng viên CS trực tiếp từ thành đoàn, đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định đảm trách lãnh đạo lực lượng công khai. Trong lực lượng công khai có một số đoàn viên, đảng viên CS chưa bị lộ thân thế làm nòng cốt và xách động, hô hào kêu gọi, lôi kéo hàng ngũ SVHS đấu tranh bãi khóa chống “Mỹ ngụy” đòi hòa bình cho VN. Trong lúc đất nước lâm vào cảnh chiến tranh tàn khốc, hàng ngày bom đạn máu xương chết chóc diễn ra hàng giờ thì những SVHS trong phong trào với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, hăng say và hiếu động nhưng ý thức về chính trị hời hợt non trẻ, lập trường tư tưởng chưa có, đã nghe theo những lời tuyên truyền ngọt mật từ miệng lưỡi của các đoàn, đảng viên CS và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc, lý tưởng để dấn thân.
Ngoài các cán bộ đảng viên của thành đoàn, đặc khu ủy như Dương Văn Đầy, Trần Thị ngọc Hảo (tư Tín), Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết), Phan Đình Dinh (chín Kế), còn có Phùng Hữu Trân, Lê Thành Yến, Nguyễn Xuân Thượng, Võ Thị Bạch Tuyết v.v… cùng các lãnh đạo của phong trào VSHS qua các khóa chủ tịch tổng hội SVHS SG và các ban đại diện của các phân khoa, cao đẳng và học sinh kỹ thuật Cao Thắng như:
Phải công bằng mà nói trong bối cảnh xã hội và chính trường miền Nam lúc đó vô cùng nhiễu loạn với tình hình chiến tranh leo thang và chế độ tự do ai cũng có quyền biểu thị chính kiến, khuynh hướng chính trị của mình. Do đó đối với lực lượng TNSVHS kể cả các sinh viên lãnh đạo phong trào đấu tranh chống Mỹ đang ở lứa tuổi bừng bừng nhựa sống, cuồng nhiệt dễ bị kích động, lôi kéo và có một số lỡ bước, lầm đường là khó tránh khỏi. Trong phong trào này tôi chia ra làm ba dạng sau:
Nói về hai chữ trí thức – không cần phải có đủ “tiêu chuẩn” bằng cấp, học vị, học hàm mới là người trí thức. Đã là người trí thức là biết xa, hiểu rộng có thể đoán biết trước những điều mà người khác chưa kịp thấu, là biết trăn trở trước sự sống còn của đất nước, dân tộc. Trí thức lấy phản biện xã hội làm tâm niệm và có tâm lẫn có tầm để hướng tư duy cùng việc làm được hoàn mỹ. Trí thức phải biết hy sinh trong quá trình dấn thân vì đại nghĩa, vì dân tộc giống nòi, đặc biệt là trong những hoàn cảnh đặc thù của đất nước người trí thức phải có dũng khí. Lúc này cái dũng khí nó sẽ tự đặt cho người trí thức ở vị trí của người quân tử, trên kẻ hạ nhân là sẵn sàng nhận ra khuyết điểm hoặc sai lầm của mình để trên hành trình sẽ có quyết định dứt khoát rẽ lối hoặc quay về! Như thế mới là anh hùng đúng nghĩa vì đã “tự thắng mình”.
Ở lĩnh vực này tôi thật đau buồn và xót xa cho những con dân VN ưu tú về trí tuệ – ở đây tôi xin tách khuynh hướng chính trị ra để có lời nói chân tình, thẳng thắn và có sự công bằng.
Nếu trong gần một thập niên từ năm 1965 đến những năm 72, 73, 74 của thế kỷ trước, những trái tim hồng rực lửa của những người con ưu tú đó không bị mê hoặc bởi những luân điệu tuyên truyền, giựt dây của cộng sản nằm vùng và suốt một thời gian dài không bị quay cuồng trong mê lộ học thuyết Mác-Lê lạc hậu và quái đản thì những hạt ngọc đó ắt hẳn cũng làm sáng lên một góc trời của quê hương, tổ quốc và cũng phần nào làm cản trở bước đi của chủ nghĩa cộng sản vô thần.
Ngược lại quí vị không phải là người trí thức như tôi đã nói ở trên. Các vị chỉ là người học thức nhưng mắt bị mờ, trí bị mụ giống như một chiếc xe đạp bị mất lái có tác hại không nguy hiểm như chiếc ô-tô. Đồng thời tôi xin khẳng định rằng quí vị không hề có dũng khí. Ngày trước, trong thời gian xã hội đất nước rối ren, TNSVHS hầu như mất phương hướng về tư duy chính trị, do đó các vị như những con chim non sẵn sàng bay theo luồng gió mới tuy rằng trong đáy sâu thẳm của tâm hồn chưa biết thực chất đúng, sai. Điều đó nhìn lại thấy không có gì đáng trách. Nhưng trong quá trình dong ruổi cho đến ngày hôm nay các vị ắt hẳn nhận thức được con đường đó là thiên đường hay địa ngục, chính danh hay lừa dối, chân lý hay phản bội. Thế nhưng một số thanh niên bốc lữa ngày xưa nay đã già vẫn cứ như những con thiêu thân lao vào chỗ ác. Vẫn còn một số im lặng và đồng lõa với tội ác mà chính họ đã từng góp phần. Vẫn còn một số xem hệ quả đảng là cứu cánh, là thành phần duy nhất có đủ tư cách lãnh đạo dân tộc.
Ngược lại, trong suốt chuỗi đường dài của cách mạng VN từ khi có đảng CSVN tham gia trên vũ đài chính trị, trong số những bậc tiền bối (ở đây tôi cũng tách rời khuynh hướng chính trị) lão thành cách mạng CSVN đi tiên phong trong những buổi sơ đầu, có những bậc xứng danh là trí thức có đủ tâm và tầm cùng dũng khí đã dám nói lên tư duy, chính kiến của mình. Ở đây các vị này không phải là “phản động” chống đảng như ý nghĩa của đảng CS thường dùng mà có 2 chủ ý: một là góp thêm cho đảng những ý tưởng, sáng kiến ngõ hầu tạo thêm sự trong sáng và mạnh mẽ hơn cho con đường mà đảng đã đề ra. Hai là thẳng thắn chỉ trích những điểm sai, chệch hướng của đảng mà không sợ sự phản kháng hay mọi hiểm nguy cho bản thân, gia đình đưa đến từ đảng. Trong số những vị tiền bối này tôi xin liệt kê theo từng thứ bậc như sau:
A- Lớp lão thành cách mạng chỉ thẳng sự sai lầm của đảng và đã can đảm nói lên sự phản bội của đảng đối với sự hy sinh của mình cho sự nghiệp cách mạng. Trong số đó nổi bật 2 người. Đó là ông Nguyễn Hộ và Trung tướng Trần Độ.
Ông Nguyễn Hộ là một vị lão thành của đảng CSVN, tham gia tích cực và có nhiều thành tích trong buổi bình minh của chính quyền CSVN còn non trẻ. Ông đã từng kinh qua các chức vụ Ủy viên Thường trực của Ban Thường vụ Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn – Chợ Lớn, Phó Chủ tịch Tổng công đoàn VN, Thư ký Liên hiệp Công đoàn Tp. HCM, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Tp. HCM. Tuy nhiên, ông sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi mà nhiều người trong đảng mơ ước, đã không im hơi lặng tiếng để hưởng phú quí vinh hoa mà ông đã chỉ thẳng sự sai lầm của đảng CSVN và khẳng định ông đã bị đảng phản bội. Chính cố thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đương chức đã đích thân lên nơi ở của ông tại Củ Chi để thuyết phục ông về Sài Gòn tịnh dưỡng tuổi già, an hưởng bổng lộc từ thành quả cách mạng mà ông đã tạo nên. Thế nhưng đã bị ông từ chối và nói lên sự thẳng thắn, sau này ông quyết định tuyên bố từ bỏ đảng CSVN vào năm 1991.
Trung tướng Trần Độ là một vị tướng văn võ song toàn. Ông là một trong những người có bước chân đầu tiên trong chỉ huy, lãnh đạo đoàn quân tiến chiếm miền Nam Việt Nam cùng các tướng lãnh Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm… với chức vụ phó chỉ huy kiêm phó bí thư quân ủy quân GPMNVN.
Tháng 3/1974 ông được phong hàm trung tướng cùng đợt với Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung, Đồng Sĩ Nguyên. Năm 1981 ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm Phó ban Tuyên huấn Trung ương khi chuyển qua ngạch dân sự. Ông đã viết và để lại nhiều tài liệu, sách có giá trị.
Với tầm nhìn bao quát và với dũng khí của mình, trung tướng Trần Độ đã khẳng khái nói lên chính kiến riêng và chỉ trích thẳng sự sai lầm của đảng. Trong vị trí vẫn còn trong đảng của ông lúc ấy, ông đã nói “Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thối hóa, ruỗng nát, tắc tị không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể đảng nữa.”
Theo ông “nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của đảng.”
Chính vì những lời khẳng khái và chí khí này là mũi tên bắn thẳng vào tim của đảng CSVN. Do đó ông đã bị khai trừ ra khỏi đảng CSVN ngày 4/1/1999 khi tuổi đảng vừa tròn 58 tuổi. TS Hà sĩ Phu đã tặng ông câu đối sau:
“Văn võ tung hoành, trung tướng phong TRẦN, thế sự song kiên song trọng đảm.
Bắc nam xuất nhập, đại quân tế ĐỘ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm”.
B- Lớp trí thức, lý luận cao cấp của đảng. Nổi bật trong hàng ngũ này là giáo sư Hoàng Minh Chính và ông Lê hồng Hà.
GS Hoàng Minh Chính là một nhà lý luận cao cấp của đảng CSVN, Viện trưởng Viện Triết học Marx-Lenin. Ông trở thành một người bất đồng chính kiến sâu sắc với đảng CSVN khi ông đã thấy rõ sự sai lầm nghiêm trọng của học thuyết Karlmarx-Friedrich Engels, chủ thuyết mà một thời ông trên cương vị Viện trưởng Viện triết học Mác-Lênin đã tuyên truyền và ca ngợi, có nhiều sai sót cơ bản khi áp đặt vào các quốc gia CS.
Chính vì thế mà năm 1967 đảng CSVN đã khai trừ ông ra khỏi đảng với cáo buộc ông cầm đầu nhóm người theo chủ nghĩa xét lại, không tán thành nghị quyết 9 của đảng CSVN và muốn thay đổi theo đường lối đệ tứ CS. Từ đó ông phải kinh qua 3 lần tù đày, giam giữ, quản chế, tổng cộng gần 20 năm. Sau khi ra tù ông vẫn tiếp tục hoạt động và khiếu nại giải oan cho nhóm “Xét lại chống đảng” và vận động mọi người tham gia góp ý cho bản dự thảo “Thách thức và triển vọng”.
Ngày 16/1/2000 ông Hoàng Minh Chính gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ tố cáo VN không có tự do báo chí, tự do ngôn luận. Tháng 8/2005 ông sang Mỹ chữa bệnh và công khai diễn thuyết chỉ trích, phê phán đảng và nhà nước CSVN. Ngày 28/9/2005 ông đăng đàn ở đại học Harvard với đề tài “Dân chủ cho Việt Nam”. Ngày 29/9/2005 ông điều trần trước Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Hoa Kỳ và nêu những vụ đàn áp tôn giáo và khủng bố tàn bạo ở VN, đồng thời kiến nghị với chính phủ Hoa Kỳ có chính sách mạnh tay đối với nhà nước CSVN. Sau đó ông còn vận động lấy chữ ký nhiều người đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp và nghị định 31/CP, cùng nhiều hoạt động tích cực khác để đem lại cho VN một nền dân chủ tự do và công lý. Ông hoạt động không ngừng nghỉ cho đến khi ông qua đời vào ngày 7/2/2008 (mùng một Tết mậu tý) vì bệnh ung thư tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội. Trước khi mất ông Hoàng Minh Chính viết “Bức tâm thư năm mậu tý” gởi lãnh đạo nhà nước CSVN.
Trong quá trình hoạt động ông Hoàng Minh Chính thể hiện chính kiến của mình và ủng hộ chủ trương của Khrush Chyov bác bỏ tư tưởng sùng bái cá nhân (I.V.Stalin) và sống hòa bình với thế giới tư bản. Đường lối này Mao trạch Đông gọi là “Chủ nghĩa xét lại”. Gs Hoàng minh Chính và các nhân vật đồng chính kiến với ông ủng hộ đường lối của Nga và chủ trương chung sống hòa bình với nhân dân Miền Nam VN và chính phủ VNCH. Cuối cùng cả nhóm theo chủ trương của Hoàng Minh Chính đều bị họa với con số khoảng 300 người trong đó có 30 nhân vật cao cấp (theo Journal of Cold War History tháng 11/2005)
Ngoài ông Hoàng Minh Chính ra, còn có các nhân vật cao cấp bị bắt tiêu biểu như: Vũ Đình Huỳnh – Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại Giao, Lê Trọng Nghĩa – Đại tá Cục trưởng Cục 2 (tình báo QĐ), Lê Minh Nghĩa – Đại tá Chánh VP Bộ QP, Đỗ Đức Kiên – Đại tá Cục trưởng Cục tác chiến, Hoàng Thế Dũng – Tổng Biên tập báo QĐND, Vũ Thư Hiên – Nhà báo, Trần Minh Việt – Phó bí thư thành ủy Tp. Hà Nội kiêm Phó chủ tịch UB hành chính Tp. Hà Nội, Phạm Hữu Viết – Phó TBT báo Hà Nội mới, Phạm Kỳ Vân – Phó Tổng biện tập Tạp chí Học tập…
Những nhân vật không bị bắt nhưng bị khai trừ đảng tiêu biểu như: Ung Văn Khiêm – Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Lê Liêm – Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thiếu tướng Kim Quang, Nguyễn Văn Vịnh – Thứ trưởng bộ QP, Bùi Công Trừng – Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học.
Ngoài ra còn có khoảng 40 người xin tị nạn tại Liên Xô vì lúc này đang đi học hoặc công tác trong đó tiêu biểu như: Nguyễn Minh Cần – Phó chủ tịch UBHC Tp. Hà Nội, Lê Vinh Quốc – Đại tá Chính ủy Sư đoàn 308, Phó Chính ủy QK III, Đỗ Văn Doãn – Đại tá, nguyên Tổng biên tập báo QĐND…
GS Hoàng Minh Chính có những phát biểu đáng chú ý như sau:
- Đất nước VN đứng ở đáy nhân loại trên mọi bình diện.
- Nhân dân VN hiện nay đang trong cơn quằn quại rũ bỏ ách nô lệ thâm căn cố đế nội xâm, đã tìm thấy trong chính sách hỗ trợ tự do dân chủ của Hoa Kỳ một sức mạnh vô giá cho cuộc đấu tranh sống còn của mình.
- Các đầu tư phát triển quốc tế (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) chẳng qua thực chất là làm đầy túi tham của đảng và chính quyền.
Ngoài các nhân vật cấp cao tiêu biểu trên, còn có những nhà chính trị, chính khách có dũng khí, can đảm nói lên tiếng nói của riêng mình và chỉ trích đường lối độc tôn, độc trị của đảng như cựu UVBCT Trần Xuân Bách. Ông thể hiện chính kiến của mình là muốn đi theo con đường đa nguyên chính trị trong lúc ông đang chức ở BCT, cuối cùng ông bị loại ra khỏi BCT, khỏi BCH T.Ư đảng CSVN và về làm chuyên viên ở Bộ Ngoại giao theo lời mời của bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch với tư cách là một đảng viên thường. Ông làm ở đây cho đến khi về hưu và mất ngày 1/1/2006.
Tất cả trên đây là những nhân vật chính trị, quân sự cấp cao của đảng CSVN sau khi nhận thức được sự thật, thấy rõ đảng CSVN và lý tưởng bao năm theo đuổi là tai họa của dân tộc, đã thể hiện dũng khí của một kẻ sĩ, bất chấp an nguy đến sự nghiệp và tính mạng của riêng mình.
Không phải những tính chất cao đẹp và can trường đó chỉ ở những bậc trí thức, giáo sư, học giả ở tầm cao mới có mà ở những con người vào tầng lớp thường thường bậc trung hay bình dân, trong hàng ngũ viên chức, đảng viên thường hay công nhân cũng không thiếu. Họ cũng đều ở trong điều kiện rất thuận lợi và bước công danh thẳng tiến, có cuộc sống bản thân, gia đình sung túc, đầy đủ nếu chấp nhận cúi đầu nghe theo, làm theo đường lối của đảng hay cùng lắm là “đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ” bỏ ra khỏi đầu óc tư duy công lý, sự thật, tự do công bằng dân chủ. Nhưng họ đã quay lưng lại với đảng và đã bày tỏ thái độ.
Ở trong tầng lớp này cũng có nhiều người sáng suốt, nhận ra chân lý và thấy con đường từ trước mình đi là sai lầm và sẵn sàng đổi hướng hoặc quay về như hai anh em Huỳnh Nhật Tân, Huỳnh Nhật Hải ở Tỉnh Lâm Đồng. Nếu nói về danh phận thì hai anh em họ Huỳnh ở bậc trung cao. Ông Huỳnh Nhật Hải là Thành uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND Tp Đà Lạt. Ông Huỳnh Nhật Tân là Tỉnh ủy viên dự khuyết, Phó GĐ Trường đảng tỉnh Lâm Đồng. Sau khi nhận thấy con đường theo đảng từ trước giờ là sai lầm và đã tự soi mình, cả 2 anh em họ Huỳnh đã can đảm trả thẻ đảng, dứt khoát đoạn tuyệt với đảng CSVN.
Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Phạm Hồng Sơn được đăng trên trang Blog Phạm thị Hoài, trong đoạn sau cùng của bài phỏng vấn 2 ông ấy đã nói như sau:
- Ông Huỳnh Nhật Tân: “Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng lên chế độ độc tài hiện nay. Đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để đảm bảo tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.”
- Ông Huỳnh Nhật Hải: “Bây giờ nhìn lại con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.”
Và mới đây nhất là đảng viên trẻ tuổi Nguyễn Chí Đức, một thanh niên đầy nhiệt huyết, bức xúc trước sự hung hăng, bành trướng của tập đoàn CS Bắc Kinh xâm chiếm biển đảo của nước ta, anh đã tham gia vào hàng ngũ người biểu tình yêu nước VN chống TQ xâm lăng. Anh đã bị công an CSVN đàn áp, đạp vào mặt. Nhận thấy sự bất cập trong chính sách của đảng, anh đã tự ý làm đơn xin ra khỏi đảng.
Ngoài những cán bộ đảng viên từ cao cấp trở xuống có dũng khí, can trường dám thể hiện tư duy, chính kiến của riêng mình trong khi còn tại chức còn lại hằng hà sa số những kẻ tham sống sợ chết, tham quyền cố vị, khi còn tại chức thì hết lòng vì đảng, ra tay sát hại dân lành, bòn rút xương máu của nhân dân, công quĩ, tài sản quốc gia, khi đã về hưu hay bị ghẽ lạnh, thất sủng hoặc bị kỷ luật sa thải thì lúc đó lại cao giọng nói lời chỉ trích chính quyền CS và muốn tỏ ra là người đồng hành và đứng về phía nhân dân.
Trở về với giới tạm gọi là trí thức VN một thời là TNSVHS dưới chế độ VNCH.
Qua các dẫn chứng từ con người đến sự việc và tính chất tư duy, đến việc làm của từng thế hệ trong bối cảnh đặc thù của vũ đài chính trị VN trong suốt thời gian hơn 1/2 thế kỷ qua, toàn thể quí vị gọi là trí thức trong giới SVHS Sài Gòn mà tôi đã nêu tên ở phần đầu của bài viết, xét về phần học vị, bằng cấp thì các vị đa phần ở bậc cao, là những bác sĩ, luật sư hoặc ít ra cũng là cử nhân. Tuy so với Gs Hoàng Minh Chính hay những vị lão thành cách mạng tương tự khác thì các vị chỉ là một chiếc lá vàng rụng giữa rừng thu, nhưng so với các nhân vật khác mà tôi đã dẫn thì các vị đa phần ngang bằng hay hơn hẳn. Thế nhưng ở đây vấn đề bằng cấp, học vị không phải là “tiêu chuẩn” hay thước đo để đo lường phẩm giá con người, mà ở đây sau khi tôi đã phân tích các nhân vật nêu trên thì các vị (lãnh đạo SVHS SG) có lấy làm hổ thẹn? Cái khí phách, nhiệt huyết hừng hực trong tim của các vị ngày xưa và các nhân vật tôi kể trên trong thời tuổi trẻ cũng ngang nhau. Thế nhưng trong quá trình dấn thân, cống hiến cho lý tưởng mình theo đuổi thì các nhân vật nêu trên đã “ngộ” ra rằng con đường trước kia họ đi đã đưa đến sự sai lầm, kể cả cái học thuyết mà họ ca ngợi và rao giảng! Tuy nhiên, họ đã không dừng ở sự nhận thức suông mà đã can đảm, sẵn sàng hy sinh, phá bỏ tất cảnhững luận điệu tuyên truyền dối trá và tội ác xấu xa. Với dũng khí can trường họ cương quyết rẽ lối hoặc quay về, đồng thời khẳng khái nói lên sự sai trái, xấu xa của chủ nghĩa mà một thời họ tôn thờ và ấp ủ như GS Hoàng minh Chính, Trung tướng Trần Độ, lão thành cách mạng Nguyễn Hộ, UV BCT TƯ đảng Trần Xuân Bách, Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm… cùng các nhân vật cấp cao thượng tầng của đảng CSVN mà trong đó đa phần là đã vào tuổi xế chiều. Đáng lý ra họ được an nhàn và hạnh phúc của bản thân và gia đình. Thế nhưng với cái khí phách “ngang tàng” của kẻ sĩ không cho phép, lương tâm và lý trí của một con người trí thức đúng nghĩa không bằng lòng với cảnh:
Gần đây các vị lại mang danh là các nhân sĩ trí thức làm đơn xin đảng, chính quyền để được đi biểu tình thể hiện lòng yêu nước. Tôi thấy thật buồn cười và lấy làm xấu hổ giùm cho các vị. Là trí thức nhân sĩ mà làm đơn xin kẻ ác, kẻ cướp cho tôi cho được lấy lại tài sản của tổ tiên đã bị tước đoạt!? Cuối cùng các vị đã được phúc đáp thế nào? Có phải cái đơn của các vị nó bị vứt vào góc tủ lãng quên hay có khi là trong sọt rác và nó đã chết khi chưa ráo mực? Các vị ngây thơ hay đóng kịch? Có phải vẫn cảnh, màn lừa bịp nhân dân để cứu nguy cho đảng? Sau khi đệ trình cái đơn ngớ ngẩn đó các vị đã nói rằng nếu không được đáp ứng thì các vị sẽ tự tổ chức biểu tình và meeting! Từ đó các vị đã tổ chức được bao nhiêu lần? Sao không tổ chức mà lại im hơi lặng tiếng? Cái hào khí của các vị đã bị đảng cầm tù rồi chăng? Hay các vị đã tự nguyện dâng lên làm quà cho đảng?
Ngày xưa các vị lao vào các cánh cửa học đường như cơn bão lớn cuốn phăng SVHS bãi khóa xuống đường. Lúc ấy các vị có đệ đơn lên tòa đô chính hay phủ đầu rồng để xin phép được biểu tình chống Mỹ để sau đó tự do và hiên ngang gào thét giữa đường phố Sài Gòn rằng “…Xin một lần nằm xuống… nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ…???”
Hào khí ngất trời và vô cùng sôi động khi vào ngày 11/7/1970 sau khi tổ chức đại hội SVHS thế giới kỳ I được tổ chức trước đó tại trường Nông lâm súc, đã biến thành cuộc xuống đường rầm rộ, đoàn biểu tình trương cao cổ quan tài đỏ ghi đậm hai câu thơ của Tố Hữu:
Trong cuộc biểu tình này ngoài Huỳnh Tấn Mẫm và chủ tịch đoàn đại hội ra còn có đại diện cho Văn Khoa là Hạ Đình Nguyên, Nguyễn Hoàng Trúc, Nguyễn Thị Yến (thủ quỹ tổng hội), HS Lê Văn Nuôi (chủ tịch tổng đoàn HSSG) cùng nhiều đại diện cho các phân khoa đại học khác nữa. Cao trào thật sôi nổi, tất cả đều băng mình lao về phía trước (theo sự dẫn đường của trí tuệ, tiếng gọi của trái tim chân chính hướng về tổ quốc non sông hay từ mệnh lệnh của tập đoàn quỉ dữ mà không cần biết phía trước là vườn hoa thơm cỏ lạ hay là bãi tha ma?).
Riêng về ông Nguyễn Đăng Trừng: Là một thanh niên miền trung nghèo khó, được mái trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng giáo dục và sau này được trường Đại Học Luật khoa Sài Gòn đào tạo dưỡng nuôi, để rồi mang cái vốn liếng đó đi theo loài quỉ dữ. Đến năm 1968 sau biến cố Mậu Thân thân phận của Trừng bị bại lộ nên rời tổng hội SVSG chạy vào bưng theo đảng, lúc này Trừng ở ban thanh vận trung ương cục Miền Nam, sau đó chuyển qua làm cán bộ ban an ninh T4 trực thuộc đặc khu Sài Gòn-Gia Định mãi cho đến năm 1975. Tôi phải nói rõ ở phần cá nhân ông Trừng ở phần này vì có sự liên quan đến đạo đức của một con người mà đã hấp thu nền học vấn từ trường luật Sài Gòn như sau:
Năm 1970 Lê Khắc Sinh Nhật một SV Luật đã đánh bại liên danh Trịnh Đình Ban (Bảy Điểm CS thành đoàn) giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ban đại diện Luật khoa niên khóa 1970-1971. Sau đó Lê Khắc Sinh Nhật đứng chung liên danh với Lý Bửu Lâm và giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ban đại diện tổng hội SVSG niên khóa1970-1971 ngày 20/6/1971 sau 4 niên khóa liền SV Việt cộng thành đoàn, đặc khu ủy Sài Gòn- Gia Định chỉ đạo (Hồ Hữu Nhựt, Nguyễn Đăng Trừng, Nguyễn văn Quỳ và Huỳnh Tấn Mẫm) do đó VC cay cú và ra lịnh ám sát Lê Khắc Sinh Nhật ngay trường Luật ngày 28/6/1971.
Đến ngày 10/11/1971 lại ám sát GS Nguyễn Văn Bông ngay ngả 3 đường Cao Thắng-Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ ngày nay) khi xe của GS vừa trong Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đi ra. GS Nguyễn Văn Bông là GS chuyên giảng dạy môn Công Pháp Quốc Tế. Lúc đó giới Luật ở SG gọi GS là “Vua Công Pháp”. Đây là một tổn thất lớn cho ngành luật ở VN lúc bấy giờ. Vắng GS Bông, môn công pháp lúc đó ở trường luật hầu như bị tê liệt trong một thời gian dài. Có nguồn tin được tiết lộ rằng GS chuẩn bị lên làm Thủ Tướng chính phủ VNCH thay thế Thủ Tướng Trần thiện Khiêm. Tất cả 2 vụ ám sát trên đều do ban an ninh T4 thực hiện. Hoạch định kế hoạch này thì Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp tham gia và góp phần không nhỏ, bởi Trừng là người bao nhiêu năm nằm trong hàng ngũ SV và làm tay sai đắt lực cho CS họat động ở nội đô. Nói như thế thì đã khẳng định rằng bàn tay của Nguyễn Đăng Trừng đã “Vấy Máu” của SV Lê Khắc Sinh Nhật và GS Nguyễn Văn Bông. Một người là bạn cùng trường và một người là thầy đã nhiều năm dạy dỗ cho hắn ta tích lũy từng kiến thức một. Ở đây ta nói lên tính cách của một con người CS với các bản chất lừa thầy, phản bạn. Riêng ở Nguyễn đăng Trừng còn cao hơn là giết chết cả thầy lẫn bạn để làm bậc thang bước lên trên con đường gây tội ác cho nân dân. Hơn thế nữa, là một Luật sư học trò của các GS Vũ văn Mẫu, Nguyễn văn Bông, Vũ quốc Thúc…hẵn ông Trừng cũng đã hiểu sâu xa và vốn kiến thức về luật cũng không tồi, mặc dù ông dành thời gian để làm tay sai cho đảng nhiều hơn là để học. Như vậy tất nhiên ông cũng đã thấy rõ cái tập đoàn đảng CSVN mà ông cung phụng có một não trạng vô cùng u tối cộng thêm dã man, rừng rú…ngạo mạn phủi chân ngồi trên đầu các ông, ngồi xổm trên pháp luật mà ban ra những chủ trương vô nhân đạo, phản nước hại dân. Thế thì cái vốn kiến thức kia các ông vứt nơi đâu? Tại sao phải cúi đầu phụng mệnh? Có phải chăng cái bã vinh hoa hời lồng trong chiếc bánh vẽ mà đảng đã bố thí cho các ông và lấy từ xương máu của nhân dân?
Nói về ông Lê hiếu Đằng: Là một SV Việt cộng kỳ cựu, Đằng chịu dưới sự sai bảo trực tiếp của tên CS thuộc Thành đoàn Nguyễn ngọc Phương (Ba Triết) và cùng khóa tổng hội SVSG với Nguyễn đăng Trừng. Ông cũng xuất thân là học trò của các GS tôi vừa nêu ở trên. Cái hèn của ông cũng ngang tầm với N.đ. Trừng và H.t.Mẫm. Đến hôm nay ông tự nhận lấy tư cách là trí thức cùng với các ông “Lãnh đạo phong trào SVHS chống Mỹ cứu nước” cùng nhau ký đơn xin được đi biểu tình thể hiện lòng yêu nước thì tôi thấy thật là lố bịch và nhục quá! Vừa rồi còn tự thú “Tôi đã từng sinh hoạt trong đảng, tôi thấy chỉ dựa vào phê và tự phê, đấu tranh nội bộ thì hiện nay không có hiệu quả nữa. Nó đã bị vô hiệu hóa ở chỗ trong các đảng viên có tình trạng nói dối và sợ lẫn nhau. Có bao giờ đảng viên bình thường dám phê bình lãnh đạo của mình? Bản thân lãnh đạo cũng nương nhẹ nhau vì cũng sợ người khác phanh phui ra khuyết điểm của mình.”. Những điều ông nói ở trên có thật vậy sao ông? Chỉ có những người “ trong nội bộ đảng” của các ông mới biết sao? Và đến ngày nay mới có à! Đúng là ông đã bị CS cướp mất linh hồn và lý trí kể từ khi ông còn mài đủng quần ở khoa Luật SG và nghe theo đám CS nằm vùng ở Thành đoàn, ông không còn cảm thấy nhục khi mình dù sao cũng là một SV có học thức mà chịu sự sai khiến, chỉ bảo của tên CS vô học Ba Triết mà ông tự cho là hắn “sinh hoạt”? Tôi không ở trong nội bộ của những kẻ vô đạo của các ông nhưng tôi biết chắc chắn một điều rằng những lời ông vừa nói ở trên nó đã có từ những ngày đầu mà HCM du nhập rác rưởi về làm ô nhiễm đất nước VN và còn gấp vạn lần như ông nói ông ạ!
Ông còn nói thêm “Nếu hội nghị T.Ư 6 không đặt lợi ích đất nước, lợi ích Tổ Quốc lên trên mà đặc quyền lợi phe nhóm hoặc bản than cái ghế của mình thì sẽ không đi đến đâu. Sẽ đi đến tình trạng thỏa hiệp. Có thể đi đến một giải pháp không triệt để trong vấn đề chống tham nhũng.” Ông càng nói ra tôi thấy càng thêm nặng mùi…Ở đây tôi khẳng định rằng không có chữ “nếu” nhưng mà tại sao phải dùng từ “nếu” nhỉ? Gần 200 tên nắm cả trái tim của Tổ Quốc mà không dứt khoát phải vì dân, vì nước mà phải “nếu” ? Và chính ông cũng dư hiểu rằng các vị tổ sư đang ngồi xổm trên Hiến Pháp, trên cả “Luật” mà ông đã từng học đang chém giết lẫn nhau để giành quyền lợi rồi mà! Trước đây tôi đã viết “Phe nào thắng thì nhân dân cũng trắng tay” ông có đọc được? Thế thì cái bãi sình mà những sư phụ của các ông đang lột quần áo nhau ra cấu xé không phải vì lợi ích phe nhóm hay là ghế như ông nói thì là gì? Và sẽ đi đến “Thỏa hiệp” là sao? Thỏa hiệp chính trị để cùng nhau lo cho Tổ Quốc à? Tôi cũng khen ông nói rõ ở điểm này.
Các con sâu ở thượng tầng có thể không chém nhau bằng đao kiếm mà sẽ “ thỏa hiệp thương lượng” để chia phần bòn rút, chia lãnh địa để bóc lột nhân dân. Tôi xin tiếp lời của ông vì ông còn ngại ngần không dám nói toẹt ra. Dù sao trên đầu của ông cũng còn chiếc búa và lưỡi liềm cùng lá cờ đẫm máu của dân tộc đang bay phấp phới.
Tệ hại hơn…từ đó đến nay, trong bóng đêm những tên gọi là trí thức dấu thẻ đảng trong người vẫn cúi đầu làm tay sai cho đảng như kẻ vô hồn lầm lũi đi trong mưa. Nhưng đôi khi cũng tỏ ra “cuốn theo chiều gió” ngã lòng về phía nhân dân…nhưng thực ra vẫn giữ cái bản chất dối lừa, ởm ờ phản biện nhưng thật ra đó là những cánh tay lông lá của loài khỉ vượn được nối dài từ cửa động Ba Đình.
Gần đây ông Lê hiếu Đằng lại chắp thêm đôi cánh làm “cò” bay lượn…nói lời thức tỉnh bi ai…tính sổ với đời với đảng trên giường bệnh ở cái không gian gần kề “Funeral Home”. Cái chiêu bài lập đảng cò mồi…hô hào cùng nhau bỏ đảng (trong lúc mình luôn giữ khư khư thẻ đỏ sợ đưa ra nắng sẽ bị nhạt màu mà mất sổ hưu) để lập nên cái gọi là đảng DCXH để làm theo sự chỉ bảo của 16 con cáo Ba Đình? Với mục tiêu xoa dịu dư luận xã hội và làm xì hơi quả khinh khí cầu “Dân Chủ, Nhân Quyền” đang gây áp lực cho tập đoàn CSVN từ trong lẫn ngoài nước. Bài học năm 1946 Hồ tập Chương hô hào thành lập “Chính Phủ Liên Hiệp” để cùng nhau chung sức chống thực dân để rồi dễ dàng triệt tiêu, tàn sát sĩ phu yêu nước nghe theo lời Hồ cáo vẫn còn đó. Bây giờ cái gọi là đảng DCXH cũng vẫn một bài “Đường xưa lối cũ” thật rẻ tiền. Những đảng viên thức tỉnh nghe theo thì xem như “lộ mặt gian thần của đảng”. Chiêu này một mũi tên bắn hai mục đích. Một là phần nào tỏ ra dân chủ đa đảng đa nguyên để tiếp tục lừa mỵ người dân mà kéo dài cai trị. Hai là nhân cơ hội này mà thanh trừng nội bộ, những đảng viên thức tỉnh cùng những sĩ phu trí thức có lòng yêu nước, chống độc tài đảng trị thì sẽ có kết quả như các nhà chí sĩ Nguyễn hải Thần, Vũ hồng Khanh hơn 60 năm về trước. Bài ca Lê hiếu Đằng xướng giọng và Hồ ngọc nhuận đệm đàn thật lố bịch không xứng tầm với kẻ dù sao cũng đã từng thu vào tim đưa vào trí những lời giáo huấn dưới mái Đại Học đường Quốc gia Miền Nam VN ngày trước và một kẻ cũng đã kinh qua trong hàng ngũ dân biểu của nước VNCH.
Các TNSVHS Việt cộng với vốn kiến thức được xã hội VNCH trang bị cho có cảm thấy ray rức và thầm hổ ngươi khi đến thời điểm hôm nay mà còn đứng trong hàng ngũ 500 ông, bà nghị gật và vô thức thông qua, họp thức hóa những chiếc thòng lọng mà đảng đã tạo sẵn để siết vào cổ nhân dân? Có cảm thấy hổ thẹn với những bậc thức giả mà tôi đã nêu ở phần đầu. Tuy họ có lầm đường nhưng họ có dũng khí, đảm lược và can đảm rẽ lối hoặc quay về. Trình độ các vị hơn hẳn hai anh em nhà họ Huỳnh ở Đà Lạt nhưng các vị có dám nhìn thẳng vào ánh mắt của hai anh em này nếu mai kia trời xui lỡ gặp? Hay các vị có dám nói lời gì khi đối diện với người thanh niên Nguyễn Chí Đức tuổi đời đáng hàng con cháu của mình? Các vị có đủ can đảm hạ mình xin một lời vàng ngọc? Hay tảng lờ quay mặt bỏ đi!
Các vị nói gì với nhân dân, với tổ quốc trong khi các vị vẫn tự dối lấy chính mình? Không cần các vị phải như các nhà trí thức đáng quí ở trên mà chỉ cần có được một phần nhỏ là đem hết sức bình sinh của mình để nâng chiếc thẻ đảng nhẹ như cánh bèo mà trả về nơi nó đã sinh ra cũng giống như người thanh niên Nguyễn Chí Đức đã làm. Trên phương diện và ý thức này tuổi tác cùng những tội lỗi của thời dĩ vãng không là rào cản và cũng chẳng có biên cương nếu tâm hồn, trái tim và khối óc vẫn chưa trở thành nô lệ.
Đất nước ta hiện nay thật sự đang chao đảo, xã hội ngả nghiêng đã đến hồi sụp đổ về mọi mặt. Dân tình khổ đau, chới với trên bờ vực sống còn thì bổn phận của những người con dân có trái tim nồng nàn, yêu tổ quốc non sông thì không thể nào an giấc. Đứng đầu hàng ngũ này phải kể là lớp sĩ phu chí sĩ, trí thức.
Lịch sử VN đầu thế kỷ 15 nhà Trần suy yếu, giặc Minh phương bắc xâm chiếm cõi bờ, đặt ách đô hộ. Đứng trước tình thế dân tộc rơi vào vòng xiềng xích, nô lệ. Trần Nguyên Hãn ngày đêm đau đáu cho vận nước tình dân, cùng Nguyễn Trãi đêm thao thức đọc binh thư, ngày băng rừng, vượt núi tìm minh Chúa đem tài sức hiến dâng cùng nhau dấy binh khởi nghĩa ở Lam Sơn. Cuối cùng các chí sĩ, trí thức yêu nước đã đưa con thuyền quốc gia vượt phong ba cập bến bờ hạnh phúc, xã hội an bình, thịnh lạc qua mấy trăm năm.
Ngày nay cùng với trào lưu tiến bộ trên thế giới. Việt Nam với dòng giống Lạc Hồng, qua chứng minh lịch sử là một dân tộc hiền hòa nhưng bất khuất, cần cù và thông minh, ham học đã sản sinh ra bao lớp anh thư, tuấn kiệt và những lớp nhân sĩ trí thức yêu nước thương nòi đã dám quên mình cho sự thịnh suy của tổ quốc, dấn thân đấu tranh cho xã hội đẹp tươi.
Nơi đây tôi chỉ xin đề cập đến một số nhân vật chính trị, trí thức VN trong các thập niên 60-70 của thế kỷ 20 mà giới trí thức (tạm gọi) này một số xuất thân từ hàng ngũ Sinh viên học sinh (SVHS) Sài Gòn ngày trước mà quá trình hoạt động và tiếng vang vẫn còn, tuy mỗi thời gian có một gam màu khác nhau.
Hai thập niên 60 và 70 thế kỷ trước đất nước VN đắm chìm trong biển lửa, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Kể từ khi Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN đã cúi đầu vâng theo mệnh lệnh của CS Nga-Tàu xé bỏ hiệp định Genève và đem quân tiến chiếm miền Nam Việt Nam để làm bàn đạp nhuộm đỏ bán đảo Đông Dương. Chính Lê Duẫn đã xác nhận “Ta đánh (MNVN) đây là đánh cho Nga-Tàu”. Cuộc binh lửa can qua đó đã gây ra cho hàng triệu sinh linh nam nữ thanh niên VN phải bỏ mình một cách đau thương và vô nghĩa, làm mồi để chúng đốt dãy Trường Sơn một cách phi lý.
Để góp phần cho cuộc binh đao đó một số trong giới trí thức miền Nam, nhất là giới SVHS tập trung ở Sài Gòn đã đóng một vai trò không nhỏ. Vào thời giai đoạn 1965-1975, đa phần thanh niên VN tương đối khá mơ hồ về mặt chính trị. Chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa tư bản là những học thuyết không mấy phổ biến rộng rãi và sâu xa mà mỗi cá nhân phải tự tìm tòi học hỏi. Phần lớn sinh ra và lớn lên bắt đầu có một chút ý thức về xã hội, về nhân sinh quan thì lăn lộn và ngập chìm trong lửa đạn. Nắm được yếu tố này cộng sản đã khai thác triệt để và hình thành mạng lưới tuyên truyền dưới lá cờ cứu nguy tổ quốc. Từ đó phong trào Thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) đấu tranh phản chiến, chống Mỹ ra đời. Ở đây tôi chỉ nói phong trào TNSVHS miền nam (SG), ngoài ra còn có phong trào TNSVHS Huế, Đà Nẵng cũng được CS dựng lên.
Phong trào TNSVHS Sài Gòn được lãnh đạo bởi thành đoàn Đoàn Thanh niên cộng sản HCM và bùng lên sôi nổi trong giai đoạn từ năm 1965-1972, trong đó có 2 mặt là bí mật và công khai (hợp pháp). Thành phần bí mật hoàn toàn là đảng viên CS trực tiếp từ thành đoàn, đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định đảm trách lãnh đạo lực lượng công khai. Trong lực lượng công khai có một số đoàn viên, đảng viên CS chưa bị lộ thân thế làm nòng cốt và xách động, hô hào kêu gọi, lôi kéo hàng ngũ SVHS đấu tranh bãi khóa chống “Mỹ ngụy” đòi hòa bình cho VN. Trong lúc đất nước lâm vào cảnh chiến tranh tàn khốc, hàng ngày bom đạn máu xương chết chóc diễn ra hàng giờ thì những SVHS trong phong trào với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, hăng say và hiếu động nhưng ý thức về chính trị hời hợt non trẻ, lập trường tư tưởng chưa có, đã nghe theo những lời tuyên truyền ngọt mật từ miệng lưỡi của các đoàn, đảng viên CS và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc, lý tưởng để dấn thân.
Ngoài các cán bộ đảng viên của thành đoàn, đặc khu ủy như Dương Văn Đầy, Trần Thị ngọc Hảo (tư Tín), Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết), Phan Đình Dinh (chín Kế), còn có Phùng Hữu Trân, Lê Thành Yến, Nguyễn Xuân Thượng, Võ Thị Bạch Tuyết v.v… cùng các lãnh đạo của phong trào VSHS qua các khóa chủ tịch tổng hội SVHS SG và các ban đại diện của các phân khoa, cao đẳng và học sinh kỹ thuật Cao Thắng như:
Chủ tịch tổng hội VSHS SG:
- Hồ Hữu Nhựt (khóa 1966-1967)
- Nguyễn Đăng Trừng (67-68)
- Nguyễn Văn Quỳ (68-69)
- Huỳnh Tấn Mẫm (69-70)
Chủ tịch ban đại diện các phân khoa khác như:
Nguyễn Hoàng Trúc, Hạ Đình Nguyên (văn khoa)
Lê Hiếu Đằng (luật)
Đoàn Kỉnh, Phạm Hào Quang (khoa học)
Phạm Trọng Hàm (nha khoa)
Lê Văn Nuôi (hskt Cao Thắng)
….
Các vị này hiện nay kẻ còn người mất. Có
những người là những vỏ chanh bị đảng vứt lề đường. Có những người còn
bám đuôi theo đảng. Có những người đang phản biện trong luồng với đảng.Phải công bằng mà nói trong bối cảnh xã hội và chính trường miền Nam lúc đó vô cùng nhiễu loạn với tình hình chiến tranh leo thang và chế độ tự do ai cũng có quyền biểu thị chính kiến, khuynh hướng chính trị của mình. Do đó đối với lực lượng TNSVHS kể cả các sinh viên lãnh đạo phong trào đấu tranh chống Mỹ đang ở lứa tuổi bừng bừng nhựa sống, cuồng nhiệt dễ bị kích động, lôi kéo và có một số lỡ bước, lầm đường là khó tránh khỏi. Trong phong trào này tôi chia ra làm ba dạng sau:
1. Thành phần cốt lõi của đảng hầu hết là đảng viên trực thuộc thành đoàn, đặc khu ủy.
2. Thành phần
SV có lòng nhiệt huyết, trăn trở cho thời cuộc bị các đảng viên CS ở
dạng thứ 1 tuyên truyền, mê hoặc, lôi kéo và lao vào vòng xoáy với lòng
nhiệt tâm tràn đầy và theo thời gian lập thành tích rồi được kết nạp vào
đoàn, đảng CSVN.
3. Thành phần SVHS năng nổ, hiếu động tham gia phong trào nhưng chỉ nhứt thời tùy theo điều kiện và hoàn cảnh.
Ở đây đáng kể là thành phần thứ 2. Đại
đa số lãnh đạo phong trào SVHS miền Nam còn hiện hữu là thuộc thành phần
này. Các vị này thời đó vô cùng cuồng nhiệt, là lực lượng lôi kéo quần
chúng và trực tiếp mê hoặc cho thành phần thứ 3. Đồng thời các vị ấy
cũng là những mũi tên xé gió lao vào các cửa của đại học đường, trường
trung học hô hào bãi khóa, xuống đường biểu tình chống Mỹ, “ngụy” “cứu
nguy” cho đất nước. Tiếng nói của các vị này có tác dụng và thậm chí còn
gây áp lực cho những sinh viên học sinh còn thờ ơ với thời cuộc. Trong
các cuộc xuống đường, hô hào bãi khóa, bài Mỹ họ luôn luôn hô hào và
vang lên những bài hát “…Nếu là người tôi xin chết cho quê hương!!”.
Thật lý tưởng và những mỹ từ vô cùng cao cả, chính danh thử hỏi làm sao
không đốt cháy tâm can, động lòng một số tuổi trẻ với sức sống tràn đầy
nhưng nhận thức chính trị không có hoặc yếu kém? Thiếu nhận thức cộng
với tự ái lẫn niềm tự hào dân tộc sẵn sàng bộc phát và phá tan những gì
có thể.Nói về hai chữ trí thức – không cần phải có đủ “tiêu chuẩn” bằng cấp, học vị, học hàm mới là người trí thức. Đã là người trí thức là biết xa, hiểu rộng có thể đoán biết trước những điều mà người khác chưa kịp thấu, là biết trăn trở trước sự sống còn của đất nước, dân tộc. Trí thức lấy phản biện xã hội làm tâm niệm và có tâm lẫn có tầm để hướng tư duy cùng việc làm được hoàn mỹ. Trí thức phải biết hy sinh trong quá trình dấn thân vì đại nghĩa, vì dân tộc giống nòi, đặc biệt là trong những hoàn cảnh đặc thù của đất nước người trí thức phải có dũng khí. Lúc này cái dũng khí nó sẽ tự đặt cho người trí thức ở vị trí của người quân tử, trên kẻ hạ nhân là sẵn sàng nhận ra khuyết điểm hoặc sai lầm của mình để trên hành trình sẽ có quyết định dứt khoát rẽ lối hoặc quay về! Như thế mới là anh hùng đúng nghĩa vì đã “tự thắng mình”.
Ở lĩnh vực này tôi thật đau buồn và xót xa cho những con dân VN ưu tú về trí tuệ – ở đây tôi xin tách khuynh hướng chính trị ra để có lời nói chân tình, thẳng thắn và có sự công bằng.
Nếu trong gần một thập niên từ năm 1965 đến những năm 72, 73, 74 của thế kỷ trước, những trái tim hồng rực lửa của những người con ưu tú đó không bị mê hoặc bởi những luân điệu tuyên truyền, giựt dây của cộng sản nằm vùng và suốt một thời gian dài không bị quay cuồng trong mê lộ học thuyết Mác-Lê lạc hậu và quái đản thì những hạt ngọc đó ắt hẳn cũng làm sáng lên một góc trời của quê hương, tổ quốc và cũng phần nào làm cản trở bước đi của chủ nghĩa cộng sản vô thần.
Ngược lại quí vị không phải là người trí thức như tôi đã nói ở trên. Các vị chỉ là người học thức nhưng mắt bị mờ, trí bị mụ giống như một chiếc xe đạp bị mất lái có tác hại không nguy hiểm như chiếc ô-tô. Đồng thời tôi xin khẳng định rằng quí vị không hề có dũng khí. Ngày trước, trong thời gian xã hội đất nước rối ren, TNSVHS hầu như mất phương hướng về tư duy chính trị, do đó các vị như những con chim non sẵn sàng bay theo luồng gió mới tuy rằng trong đáy sâu thẳm của tâm hồn chưa biết thực chất đúng, sai. Điều đó nhìn lại thấy không có gì đáng trách. Nhưng trong quá trình dong ruổi cho đến ngày hôm nay các vị ắt hẳn nhận thức được con đường đó là thiên đường hay địa ngục, chính danh hay lừa dối, chân lý hay phản bội. Thế nhưng một số thanh niên bốc lữa ngày xưa nay đã già vẫn cứ như những con thiêu thân lao vào chỗ ác. Vẫn còn một số im lặng và đồng lõa với tội ác mà chính họ đã từng góp phần. Vẫn còn một số xem hệ quả đảng là cứu cánh, là thành phần duy nhất có đủ tư cách lãnh đạo dân tộc.
Ngược lại, trong suốt chuỗi đường dài của cách mạng VN từ khi có đảng CSVN tham gia trên vũ đài chính trị, trong số những bậc tiền bối (ở đây tôi cũng tách rời khuynh hướng chính trị) lão thành cách mạng CSVN đi tiên phong trong những buổi sơ đầu, có những bậc xứng danh là trí thức có đủ tâm và tầm cùng dũng khí đã dám nói lên tư duy, chính kiến của mình. Ở đây các vị này không phải là “phản động” chống đảng như ý nghĩa của đảng CS thường dùng mà có 2 chủ ý: một là góp thêm cho đảng những ý tưởng, sáng kiến ngõ hầu tạo thêm sự trong sáng và mạnh mẽ hơn cho con đường mà đảng đã đề ra. Hai là thẳng thắn chỉ trích những điểm sai, chệch hướng của đảng mà không sợ sự phản kháng hay mọi hiểm nguy cho bản thân, gia đình đưa đến từ đảng. Trong số những vị tiền bối này tôi xin liệt kê theo từng thứ bậc như sau:
A- Lớp lão thành cách mạng chỉ thẳng sự sai lầm của đảng và đã can đảm nói lên sự phản bội của đảng đối với sự hy sinh của mình cho sự nghiệp cách mạng. Trong số đó nổi bật 2 người. Đó là ông Nguyễn Hộ và Trung tướng Trần Độ.
Ông Nguyễn Hộ là một vị lão thành của đảng CSVN, tham gia tích cực và có nhiều thành tích trong buổi bình minh của chính quyền CSVN còn non trẻ. Ông đã từng kinh qua các chức vụ Ủy viên Thường trực của Ban Thường vụ Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn – Chợ Lớn, Phó Chủ tịch Tổng công đoàn VN, Thư ký Liên hiệp Công đoàn Tp. HCM, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Tp. HCM. Tuy nhiên, ông sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi mà nhiều người trong đảng mơ ước, đã không im hơi lặng tiếng để hưởng phú quí vinh hoa mà ông đã chỉ thẳng sự sai lầm của đảng CSVN và khẳng định ông đã bị đảng phản bội. Chính cố thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đương chức đã đích thân lên nơi ở của ông tại Củ Chi để thuyết phục ông về Sài Gòn tịnh dưỡng tuổi già, an hưởng bổng lộc từ thành quả cách mạng mà ông đã tạo nên. Thế nhưng đã bị ông từ chối và nói lên sự thẳng thắn, sau này ông quyết định tuyên bố từ bỏ đảng CSVN vào năm 1991.
Trung tướng Trần Độ là một vị tướng văn võ song toàn. Ông là một trong những người có bước chân đầu tiên trong chỉ huy, lãnh đạo đoàn quân tiến chiếm miền Nam Việt Nam cùng các tướng lãnh Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm… với chức vụ phó chỉ huy kiêm phó bí thư quân ủy quân GPMNVN.
Tháng 3/1974 ông được phong hàm trung tướng cùng đợt với Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung, Đồng Sĩ Nguyên. Năm 1981 ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm Phó ban Tuyên huấn Trung ương khi chuyển qua ngạch dân sự. Ông đã viết và để lại nhiều tài liệu, sách có giá trị.
Với tầm nhìn bao quát và với dũng khí của mình, trung tướng Trần Độ đã khẳng khái nói lên chính kiến riêng và chỉ trích thẳng sự sai lầm của đảng. Trong vị trí vẫn còn trong đảng của ông lúc ấy, ông đã nói “Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thối hóa, ruỗng nát, tắc tị không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể đảng nữa.”
Theo ông “nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của đảng.”
Chính vì những lời khẳng khái và chí khí này là mũi tên bắn thẳng vào tim của đảng CSVN. Do đó ông đã bị khai trừ ra khỏi đảng CSVN ngày 4/1/1999 khi tuổi đảng vừa tròn 58 tuổi. TS Hà sĩ Phu đã tặng ông câu đối sau:
“Văn võ tung hoành, trung tướng phong TRẦN, thế sự song kiên song trọng đảm.
Bắc nam xuất nhập, đại quân tế ĐỘ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm”.
B- Lớp trí thức, lý luận cao cấp của đảng. Nổi bật trong hàng ngũ này là giáo sư Hoàng Minh Chính và ông Lê hồng Hà.
GS Hoàng Minh Chính là một nhà lý luận cao cấp của đảng CSVN, Viện trưởng Viện Triết học Marx-Lenin. Ông trở thành một người bất đồng chính kiến sâu sắc với đảng CSVN khi ông đã thấy rõ sự sai lầm nghiêm trọng của học thuyết Karlmarx-Friedrich Engels, chủ thuyết mà một thời ông trên cương vị Viện trưởng Viện triết học Mác-Lênin đã tuyên truyền và ca ngợi, có nhiều sai sót cơ bản khi áp đặt vào các quốc gia CS.
Chính vì thế mà năm 1967 đảng CSVN đã khai trừ ông ra khỏi đảng với cáo buộc ông cầm đầu nhóm người theo chủ nghĩa xét lại, không tán thành nghị quyết 9 của đảng CSVN và muốn thay đổi theo đường lối đệ tứ CS. Từ đó ông phải kinh qua 3 lần tù đày, giam giữ, quản chế, tổng cộng gần 20 năm. Sau khi ra tù ông vẫn tiếp tục hoạt động và khiếu nại giải oan cho nhóm “Xét lại chống đảng” và vận động mọi người tham gia góp ý cho bản dự thảo “Thách thức và triển vọng”.
Ngày 16/1/2000 ông Hoàng Minh Chính gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ tố cáo VN không có tự do báo chí, tự do ngôn luận. Tháng 8/2005 ông sang Mỹ chữa bệnh và công khai diễn thuyết chỉ trích, phê phán đảng và nhà nước CSVN. Ngày 28/9/2005 ông đăng đàn ở đại học Harvard với đề tài “Dân chủ cho Việt Nam”. Ngày 29/9/2005 ông điều trần trước Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Hoa Kỳ và nêu những vụ đàn áp tôn giáo và khủng bố tàn bạo ở VN, đồng thời kiến nghị với chính phủ Hoa Kỳ có chính sách mạnh tay đối với nhà nước CSVN. Sau đó ông còn vận động lấy chữ ký nhiều người đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp và nghị định 31/CP, cùng nhiều hoạt động tích cực khác để đem lại cho VN một nền dân chủ tự do và công lý. Ông hoạt động không ngừng nghỉ cho đến khi ông qua đời vào ngày 7/2/2008 (mùng một Tết mậu tý) vì bệnh ung thư tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội. Trước khi mất ông Hoàng Minh Chính viết “Bức tâm thư năm mậu tý” gởi lãnh đạo nhà nước CSVN.
Trong quá trình hoạt động ông Hoàng Minh Chính thể hiện chính kiến của mình và ủng hộ chủ trương của Khrush Chyov bác bỏ tư tưởng sùng bái cá nhân (I.V.Stalin) và sống hòa bình với thế giới tư bản. Đường lối này Mao trạch Đông gọi là “Chủ nghĩa xét lại”. Gs Hoàng minh Chính và các nhân vật đồng chính kiến với ông ủng hộ đường lối của Nga và chủ trương chung sống hòa bình với nhân dân Miền Nam VN và chính phủ VNCH. Cuối cùng cả nhóm theo chủ trương của Hoàng Minh Chính đều bị họa với con số khoảng 300 người trong đó có 30 nhân vật cao cấp (theo Journal of Cold War History tháng 11/2005)
Ngoài ông Hoàng Minh Chính ra, còn có các nhân vật cao cấp bị bắt tiêu biểu như: Vũ Đình Huỳnh – Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại Giao, Lê Trọng Nghĩa – Đại tá Cục trưởng Cục 2 (tình báo QĐ), Lê Minh Nghĩa – Đại tá Chánh VP Bộ QP, Đỗ Đức Kiên – Đại tá Cục trưởng Cục tác chiến, Hoàng Thế Dũng – Tổng Biên tập báo QĐND, Vũ Thư Hiên – Nhà báo, Trần Minh Việt – Phó bí thư thành ủy Tp. Hà Nội kiêm Phó chủ tịch UB hành chính Tp. Hà Nội, Phạm Hữu Viết – Phó TBT báo Hà Nội mới, Phạm Kỳ Vân – Phó Tổng biện tập Tạp chí Học tập…
Những nhân vật không bị bắt nhưng bị khai trừ đảng tiêu biểu như: Ung Văn Khiêm – Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Lê Liêm – Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thiếu tướng Kim Quang, Nguyễn Văn Vịnh – Thứ trưởng bộ QP, Bùi Công Trừng – Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học.
Ngoài ra còn có khoảng 40 người xin tị nạn tại Liên Xô vì lúc này đang đi học hoặc công tác trong đó tiêu biểu như: Nguyễn Minh Cần – Phó chủ tịch UBHC Tp. Hà Nội, Lê Vinh Quốc – Đại tá Chính ủy Sư đoàn 308, Phó Chính ủy QK III, Đỗ Văn Doãn – Đại tá, nguyên Tổng biên tập báo QĐND…
GS Hoàng Minh Chính có những phát biểu đáng chú ý như sau:
- Đất nước VN đứng ở đáy nhân loại trên mọi bình diện.
- Nhân dân VN hiện nay đang trong cơn quằn quại rũ bỏ ách nô lệ thâm căn cố đế nội xâm, đã tìm thấy trong chính sách hỗ trợ tự do dân chủ của Hoa Kỳ một sức mạnh vô giá cho cuộc đấu tranh sống còn của mình.
- Các đầu tư phát triển quốc tế (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) chẳng qua thực chất là làm đầy túi tham của đảng và chính quyền.
Ngoài các nhân vật cấp cao tiêu biểu trên, còn có những nhà chính trị, chính khách có dũng khí, can đảm nói lên tiếng nói của riêng mình và chỉ trích đường lối độc tôn, độc trị của đảng như cựu UVBCT Trần Xuân Bách. Ông thể hiện chính kiến của mình là muốn đi theo con đường đa nguyên chính trị trong lúc ông đang chức ở BCT, cuối cùng ông bị loại ra khỏi BCT, khỏi BCH T.Ư đảng CSVN và về làm chuyên viên ở Bộ Ngoại giao theo lời mời của bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch với tư cách là một đảng viên thường. Ông làm ở đây cho đến khi về hưu và mất ngày 1/1/2006.
Tất cả trên đây là những nhân vật chính trị, quân sự cấp cao của đảng CSVN sau khi nhận thức được sự thật, thấy rõ đảng CSVN và lý tưởng bao năm theo đuổi là tai họa của dân tộc, đã thể hiện dũng khí của một kẻ sĩ, bất chấp an nguy đến sự nghiệp và tính mạng của riêng mình.
Không phải những tính chất cao đẹp và can trường đó chỉ ở những bậc trí thức, giáo sư, học giả ở tầm cao mới có mà ở những con người vào tầng lớp thường thường bậc trung hay bình dân, trong hàng ngũ viên chức, đảng viên thường hay công nhân cũng không thiếu. Họ cũng đều ở trong điều kiện rất thuận lợi và bước công danh thẳng tiến, có cuộc sống bản thân, gia đình sung túc, đầy đủ nếu chấp nhận cúi đầu nghe theo, làm theo đường lối của đảng hay cùng lắm là “đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ” bỏ ra khỏi đầu óc tư duy công lý, sự thật, tự do công bằng dân chủ. Nhưng họ đã quay lưng lại với đảng và đã bày tỏ thái độ.
Ở trong tầng lớp này cũng có nhiều người sáng suốt, nhận ra chân lý và thấy con đường từ trước mình đi là sai lầm và sẵn sàng đổi hướng hoặc quay về như hai anh em Huỳnh Nhật Tân, Huỳnh Nhật Hải ở Tỉnh Lâm Đồng. Nếu nói về danh phận thì hai anh em họ Huỳnh ở bậc trung cao. Ông Huỳnh Nhật Hải là Thành uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND Tp Đà Lạt. Ông Huỳnh Nhật Tân là Tỉnh ủy viên dự khuyết, Phó GĐ Trường đảng tỉnh Lâm Đồng. Sau khi nhận thấy con đường theo đảng từ trước giờ là sai lầm và đã tự soi mình, cả 2 anh em họ Huỳnh đã can đảm trả thẻ đảng, dứt khoát đoạn tuyệt với đảng CSVN.
Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Phạm Hồng Sơn được đăng trên trang Blog Phạm thị Hoài, trong đoạn sau cùng của bài phỏng vấn 2 ông ấy đã nói như sau:
- Ông Huỳnh Nhật Tân: “Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng lên chế độ độc tài hiện nay. Đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để đảm bảo tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.”
- Ông Huỳnh Nhật Hải: “Bây giờ nhìn lại con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.”
Và mới đây nhất là đảng viên trẻ tuổi Nguyễn Chí Đức, một thanh niên đầy nhiệt huyết, bức xúc trước sự hung hăng, bành trướng của tập đoàn CS Bắc Kinh xâm chiếm biển đảo của nước ta, anh đã tham gia vào hàng ngũ người biểu tình yêu nước VN chống TQ xâm lăng. Anh đã bị công an CSVN đàn áp, đạp vào mặt. Nhận thấy sự bất cập trong chính sách của đảng, anh đã tự ý làm đơn xin ra khỏi đảng.
Ngoài những cán bộ đảng viên từ cao cấp trở xuống có dũng khí, can trường dám thể hiện tư duy, chính kiến của riêng mình trong khi còn tại chức còn lại hằng hà sa số những kẻ tham sống sợ chết, tham quyền cố vị, khi còn tại chức thì hết lòng vì đảng, ra tay sát hại dân lành, bòn rút xương máu của nhân dân, công quĩ, tài sản quốc gia, khi đã về hưu hay bị ghẽ lạnh, thất sủng hoặc bị kỷ luật sa thải thì lúc đó lại cao giọng nói lời chỉ trích chính quyền CS và muốn tỏ ra là người đồng hành và đứng về phía nhân dân.
Trở về với giới tạm gọi là trí thức VN một thời là TNSVHS dưới chế độ VNCH.
Qua các dẫn chứng từ con người đến sự việc và tính chất tư duy, đến việc làm của từng thế hệ trong bối cảnh đặc thù của vũ đài chính trị VN trong suốt thời gian hơn 1/2 thế kỷ qua, toàn thể quí vị gọi là trí thức trong giới SVHS Sài Gòn mà tôi đã nêu tên ở phần đầu của bài viết, xét về phần học vị, bằng cấp thì các vị đa phần ở bậc cao, là những bác sĩ, luật sư hoặc ít ra cũng là cử nhân. Tuy so với Gs Hoàng Minh Chính hay những vị lão thành cách mạng tương tự khác thì các vị chỉ là một chiếc lá vàng rụng giữa rừng thu, nhưng so với các nhân vật khác mà tôi đã dẫn thì các vị đa phần ngang bằng hay hơn hẳn. Thế nhưng ở đây vấn đề bằng cấp, học vị không phải là “tiêu chuẩn” hay thước đo để đo lường phẩm giá con người, mà ở đây sau khi tôi đã phân tích các nhân vật nêu trên thì các vị (lãnh đạo SVHS SG) có lấy làm hổ thẹn? Cái khí phách, nhiệt huyết hừng hực trong tim của các vị ngày xưa và các nhân vật tôi kể trên trong thời tuổi trẻ cũng ngang nhau. Thế nhưng trong quá trình dấn thân, cống hiến cho lý tưởng mình theo đuổi thì các nhân vật nêu trên đã “ngộ” ra rằng con đường trước kia họ đi đã đưa đến sự sai lầm, kể cả cái học thuyết mà họ ca ngợi và rao giảng! Tuy nhiên, họ đã không dừng ở sự nhận thức suông mà đã can đảm, sẵn sàng hy sinh, phá bỏ tất cảnhững luận điệu tuyên truyền dối trá và tội ác xấu xa. Với dũng khí can trường họ cương quyết rẽ lối hoặc quay về, đồng thời khẳng khái nói lên sự sai trái, xấu xa của chủ nghĩa mà một thời họ tôn thờ và ấp ủ như GS Hoàng minh Chính, Trung tướng Trần Độ, lão thành cách mạng Nguyễn Hộ, UV BCT TƯ đảng Trần Xuân Bách, Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm… cùng các nhân vật cấp cao thượng tầng của đảng CSVN mà trong đó đa phần là đã vào tuổi xế chiều. Đáng lý ra họ được an nhàn và hạnh phúc của bản thân và gia đình. Thế nhưng với cái khí phách “ngang tàng” của kẻ sĩ không cho phép, lương tâm và lý trí của một con người trí thức đúng nghĩa không bằng lòng với cảnh:
“Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu.
Áo xiêm ràng buộc với nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?” (Kiều-Nguyễn Du)
So về danh và phận thì các vị lãnh đạo
SVHS chỉ là những cái bóng lu mờ. Về khí phách, dũng khí can trường thì
các vị theo tôi nghĩ rất lấy làm hổ thẹn.Gần đây các vị lại mang danh là các nhân sĩ trí thức làm đơn xin đảng, chính quyền để được đi biểu tình thể hiện lòng yêu nước. Tôi thấy thật buồn cười và lấy làm xấu hổ giùm cho các vị. Là trí thức nhân sĩ mà làm đơn xin kẻ ác, kẻ cướp cho tôi cho được lấy lại tài sản của tổ tiên đã bị tước đoạt!? Cuối cùng các vị đã được phúc đáp thế nào? Có phải cái đơn của các vị nó bị vứt vào góc tủ lãng quên hay có khi là trong sọt rác và nó đã chết khi chưa ráo mực? Các vị ngây thơ hay đóng kịch? Có phải vẫn cảnh, màn lừa bịp nhân dân để cứu nguy cho đảng? Sau khi đệ trình cái đơn ngớ ngẩn đó các vị đã nói rằng nếu không được đáp ứng thì các vị sẽ tự tổ chức biểu tình và meeting! Từ đó các vị đã tổ chức được bao nhiêu lần? Sao không tổ chức mà lại im hơi lặng tiếng? Cái hào khí của các vị đã bị đảng cầm tù rồi chăng? Hay các vị đã tự nguyện dâng lên làm quà cho đảng?
Ngày xưa các vị lao vào các cánh cửa học đường như cơn bão lớn cuốn phăng SVHS bãi khóa xuống đường. Lúc ấy các vị có đệ đơn lên tòa đô chính hay phủ đầu rồng để xin phép được biểu tình chống Mỹ để sau đó tự do và hiên ngang gào thét giữa đường phố Sài Gòn rằng “…Xin một lần nằm xuống… nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ…???”
Hào khí ngất trời và vô cùng sôi động khi vào ngày 11/7/1970 sau khi tổ chức đại hội SVHS thế giới kỳ I được tổ chức trước đó tại trường Nông lâm súc, đã biến thành cuộc xuống đường rầm rộ, đoàn biểu tình trương cao cổ quan tài đỏ ghi đậm hai câu thơ của Tố Hữu:
” Căm thù lại giục căm thù…
Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu.!”
và tiến thẳng về tòa đại sứ Mỹ trao cho đại sứ Bunker bảng tuyên bố “Đại hội”.Trong cuộc biểu tình này ngoài Huỳnh Tấn Mẫm và chủ tịch đoàn đại hội ra còn có đại diện cho Văn Khoa là Hạ Đình Nguyên, Nguyễn Hoàng Trúc, Nguyễn Thị Yến (thủ quỹ tổng hội), HS Lê Văn Nuôi (chủ tịch tổng đoàn HSSG) cùng nhiều đại diện cho các phân khoa đại học khác nữa. Cao trào thật sôi nổi, tất cả đều băng mình lao về phía trước (theo sự dẫn đường của trí tuệ, tiếng gọi của trái tim chân chính hướng về tổ quốc non sông hay từ mệnh lệnh của tập đoàn quỉ dữ mà không cần biết phía trước là vườn hoa thơm cỏ lạ hay là bãi tha ma?).
Riêng về ông Nguyễn Đăng Trừng: Là một thanh niên miền trung nghèo khó, được mái trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng giáo dục và sau này được trường Đại Học Luật khoa Sài Gòn đào tạo dưỡng nuôi, để rồi mang cái vốn liếng đó đi theo loài quỉ dữ. Đến năm 1968 sau biến cố Mậu Thân thân phận của Trừng bị bại lộ nên rời tổng hội SVSG chạy vào bưng theo đảng, lúc này Trừng ở ban thanh vận trung ương cục Miền Nam, sau đó chuyển qua làm cán bộ ban an ninh T4 trực thuộc đặc khu Sài Gòn-Gia Định mãi cho đến năm 1975. Tôi phải nói rõ ở phần cá nhân ông Trừng ở phần này vì có sự liên quan đến đạo đức của một con người mà đã hấp thu nền học vấn từ trường luật Sài Gòn như sau:
Năm 1970 Lê Khắc Sinh Nhật một SV Luật đã đánh bại liên danh Trịnh Đình Ban (Bảy Điểm CS thành đoàn) giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ban đại diện Luật khoa niên khóa 1970-1971. Sau đó Lê Khắc Sinh Nhật đứng chung liên danh với Lý Bửu Lâm và giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ban đại diện tổng hội SVSG niên khóa1970-1971 ngày 20/6/1971 sau 4 niên khóa liền SV Việt cộng thành đoàn, đặc khu ủy Sài Gòn- Gia Định chỉ đạo (Hồ Hữu Nhựt, Nguyễn Đăng Trừng, Nguyễn văn Quỳ và Huỳnh Tấn Mẫm) do đó VC cay cú và ra lịnh ám sát Lê Khắc Sinh Nhật ngay trường Luật ngày 28/6/1971.
Đến ngày 10/11/1971 lại ám sát GS Nguyễn Văn Bông ngay ngả 3 đường Cao Thắng-Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ ngày nay) khi xe của GS vừa trong Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đi ra. GS Nguyễn Văn Bông là GS chuyên giảng dạy môn Công Pháp Quốc Tế. Lúc đó giới Luật ở SG gọi GS là “Vua Công Pháp”. Đây là một tổn thất lớn cho ngành luật ở VN lúc bấy giờ. Vắng GS Bông, môn công pháp lúc đó ở trường luật hầu như bị tê liệt trong một thời gian dài. Có nguồn tin được tiết lộ rằng GS chuẩn bị lên làm Thủ Tướng chính phủ VNCH thay thế Thủ Tướng Trần thiện Khiêm. Tất cả 2 vụ ám sát trên đều do ban an ninh T4 thực hiện. Hoạch định kế hoạch này thì Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp tham gia và góp phần không nhỏ, bởi Trừng là người bao nhiêu năm nằm trong hàng ngũ SV và làm tay sai đắt lực cho CS họat động ở nội đô. Nói như thế thì đã khẳng định rằng bàn tay của Nguyễn Đăng Trừng đã “Vấy Máu” của SV Lê Khắc Sinh Nhật và GS Nguyễn Văn Bông. Một người là bạn cùng trường và một người là thầy đã nhiều năm dạy dỗ cho hắn ta tích lũy từng kiến thức một. Ở đây ta nói lên tính cách của một con người CS với các bản chất lừa thầy, phản bạn. Riêng ở Nguyễn đăng Trừng còn cao hơn là giết chết cả thầy lẫn bạn để làm bậc thang bước lên trên con đường gây tội ác cho nân dân. Hơn thế nữa, là một Luật sư học trò của các GS Vũ văn Mẫu, Nguyễn văn Bông, Vũ quốc Thúc…hẵn ông Trừng cũng đã hiểu sâu xa và vốn kiến thức về luật cũng không tồi, mặc dù ông dành thời gian để làm tay sai cho đảng nhiều hơn là để học. Như vậy tất nhiên ông cũng đã thấy rõ cái tập đoàn đảng CSVN mà ông cung phụng có một não trạng vô cùng u tối cộng thêm dã man, rừng rú…ngạo mạn phủi chân ngồi trên đầu các ông, ngồi xổm trên pháp luật mà ban ra những chủ trương vô nhân đạo, phản nước hại dân. Thế thì cái vốn kiến thức kia các ông vứt nơi đâu? Tại sao phải cúi đầu phụng mệnh? Có phải chăng cái bã vinh hoa hời lồng trong chiếc bánh vẽ mà đảng đã bố thí cho các ông và lấy từ xương máu của nhân dân?
Nói về ông Lê hiếu Đằng: Là một SV Việt cộng kỳ cựu, Đằng chịu dưới sự sai bảo trực tiếp của tên CS thuộc Thành đoàn Nguyễn ngọc Phương (Ba Triết) và cùng khóa tổng hội SVSG với Nguyễn đăng Trừng. Ông cũng xuất thân là học trò của các GS tôi vừa nêu ở trên. Cái hèn của ông cũng ngang tầm với N.đ. Trừng và H.t.Mẫm. Đến hôm nay ông tự nhận lấy tư cách là trí thức cùng với các ông “Lãnh đạo phong trào SVHS chống Mỹ cứu nước” cùng nhau ký đơn xin được đi biểu tình thể hiện lòng yêu nước thì tôi thấy thật là lố bịch và nhục quá! Vừa rồi còn tự thú “Tôi đã từng sinh hoạt trong đảng, tôi thấy chỉ dựa vào phê và tự phê, đấu tranh nội bộ thì hiện nay không có hiệu quả nữa. Nó đã bị vô hiệu hóa ở chỗ trong các đảng viên có tình trạng nói dối và sợ lẫn nhau. Có bao giờ đảng viên bình thường dám phê bình lãnh đạo của mình? Bản thân lãnh đạo cũng nương nhẹ nhau vì cũng sợ người khác phanh phui ra khuyết điểm của mình.”. Những điều ông nói ở trên có thật vậy sao ông? Chỉ có những người “ trong nội bộ đảng” của các ông mới biết sao? Và đến ngày nay mới có à! Đúng là ông đã bị CS cướp mất linh hồn và lý trí kể từ khi ông còn mài đủng quần ở khoa Luật SG và nghe theo đám CS nằm vùng ở Thành đoàn, ông không còn cảm thấy nhục khi mình dù sao cũng là một SV có học thức mà chịu sự sai khiến, chỉ bảo của tên CS vô học Ba Triết mà ông tự cho là hắn “sinh hoạt”? Tôi không ở trong nội bộ của những kẻ vô đạo của các ông nhưng tôi biết chắc chắn một điều rằng những lời ông vừa nói ở trên nó đã có từ những ngày đầu mà HCM du nhập rác rưởi về làm ô nhiễm đất nước VN và còn gấp vạn lần như ông nói ông ạ!
Ông còn nói thêm “Nếu hội nghị T.Ư 6 không đặt lợi ích đất nước, lợi ích Tổ Quốc lên trên mà đặc quyền lợi phe nhóm hoặc bản than cái ghế của mình thì sẽ không đi đến đâu. Sẽ đi đến tình trạng thỏa hiệp. Có thể đi đến một giải pháp không triệt để trong vấn đề chống tham nhũng.” Ông càng nói ra tôi thấy càng thêm nặng mùi…Ở đây tôi khẳng định rằng không có chữ “nếu” nhưng mà tại sao phải dùng từ “nếu” nhỉ? Gần 200 tên nắm cả trái tim của Tổ Quốc mà không dứt khoát phải vì dân, vì nước mà phải “nếu” ? Và chính ông cũng dư hiểu rằng các vị tổ sư đang ngồi xổm trên Hiến Pháp, trên cả “Luật” mà ông đã từng học đang chém giết lẫn nhau để giành quyền lợi rồi mà! Trước đây tôi đã viết “Phe nào thắng thì nhân dân cũng trắng tay” ông có đọc được? Thế thì cái bãi sình mà những sư phụ của các ông đang lột quần áo nhau ra cấu xé không phải vì lợi ích phe nhóm hay là ghế như ông nói thì là gì? Và sẽ đi đến “Thỏa hiệp” là sao? Thỏa hiệp chính trị để cùng nhau lo cho Tổ Quốc à? Tôi cũng khen ông nói rõ ở điểm này.
Các con sâu ở thượng tầng có thể không chém nhau bằng đao kiếm mà sẽ “ thỏa hiệp thương lượng” để chia phần bòn rút, chia lãnh địa để bóc lột nhân dân. Tôi xin tiếp lời của ông vì ông còn ngại ngần không dám nói toẹt ra. Dù sao trên đầu của ông cũng còn chiếc búa và lưỡi liềm cùng lá cờ đẫm máu của dân tộc đang bay phấp phới.
Tệ hại hơn…từ đó đến nay, trong bóng đêm những tên gọi là trí thức dấu thẻ đảng trong người vẫn cúi đầu làm tay sai cho đảng như kẻ vô hồn lầm lũi đi trong mưa. Nhưng đôi khi cũng tỏ ra “cuốn theo chiều gió” ngã lòng về phía nhân dân…nhưng thực ra vẫn giữ cái bản chất dối lừa, ởm ờ phản biện nhưng thật ra đó là những cánh tay lông lá của loài khỉ vượn được nối dài từ cửa động Ba Đình.
Gần đây ông Lê hiếu Đằng lại chắp thêm đôi cánh làm “cò” bay lượn…nói lời thức tỉnh bi ai…tính sổ với đời với đảng trên giường bệnh ở cái không gian gần kề “Funeral Home”. Cái chiêu bài lập đảng cò mồi…hô hào cùng nhau bỏ đảng (trong lúc mình luôn giữ khư khư thẻ đỏ sợ đưa ra nắng sẽ bị nhạt màu mà mất sổ hưu) để lập nên cái gọi là đảng DCXH để làm theo sự chỉ bảo của 16 con cáo Ba Đình? Với mục tiêu xoa dịu dư luận xã hội và làm xì hơi quả khinh khí cầu “Dân Chủ, Nhân Quyền” đang gây áp lực cho tập đoàn CSVN từ trong lẫn ngoài nước. Bài học năm 1946 Hồ tập Chương hô hào thành lập “Chính Phủ Liên Hiệp” để cùng nhau chung sức chống thực dân để rồi dễ dàng triệt tiêu, tàn sát sĩ phu yêu nước nghe theo lời Hồ cáo vẫn còn đó. Bây giờ cái gọi là đảng DCXH cũng vẫn một bài “Đường xưa lối cũ” thật rẻ tiền. Những đảng viên thức tỉnh nghe theo thì xem như “lộ mặt gian thần của đảng”. Chiêu này một mũi tên bắn hai mục đích. Một là phần nào tỏ ra dân chủ đa đảng đa nguyên để tiếp tục lừa mỵ người dân mà kéo dài cai trị. Hai là nhân cơ hội này mà thanh trừng nội bộ, những đảng viên thức tỉnh cùng những sĩ phu trí thức có lòng yêu nước, chống độc tài đảng trị thì sẽ có kết quả như các nhà chí sĩ Nguyễn hải Thần, Vũ hồng Khanh hơn 60 năm về trước. Bài ca Lê hiếu Đằng xướng giọng và Hồ ngọc nhuận đệm đàn thật lố bịch không xứng tầm với kẻ dù sao cũng đã từng thu vào tim đưa vào trí những lời giáo huấn dưới mái Đại Học đường Quốc gia Miền Nam VN ngày trước và một kẻ cũng đã kinh qua trong hàng ngũ dân biểu của nước VNCH.
Các TNSVHS Việt cộng với vốn kiến thức được xã hội VNCH trang bị cho có cảm thấy ray rức và thầm hổ ngươi khi đến thời điểm hôm nay mà còn đứng trong hàng ngũ 500 ông, bà nghị gật và vô thức thông qua, họp thức hóa những chiếc thòng lọng mà đảng đã tạo sẵn để siết vào cổ nhân dân? Có cảm thấy hổ thẹn với những bậc thức giả mà tôi đã nêu ở phần đầu. Tuy họ có lầm đường nhưng họ có dũng khí, đảm lược và can đảm rẽ lối hoặc quay về. Trình độ các vị hơn hẳn hai anh em nhà họ Huỳnh ở Đà Lạt nhưng các vị có dám nhìn thẳng vào ánh mắt của hai anh em này nếu mai kia trời xui lỡ gặp? Hay các vị có dám nói lời gì khi đối diện với người thanh niên Nguyễn Chí Đức tuổi đời đáng hàng con cháu của mình? Các vị có đủ can đảm hạ mình xin một lời vàng ngọc? Hay tảng lờ quay mặt bỏ đi!
Các vị nói gì với nhân dân, với tổ quốc trong khi các vị vẫn tự dối lấy chính mình? Không cần các vị phải như các nhà trí thức đáng quí ở trên mà chỉ cần có được một phần nhỏ là đem hết sức bình sinh của mình để nâng chiếc thẻ đảng nhẹ như cánh bèo mà trả về nơi nó đã sinh ra cũng giống như người thanh niên Nguyễn Chí Đức đã làm. Trên phương diện và ý thức này tuổi tác cùng những tội lỗi của thời dĩ vãng không là rào cản và cũng chẳng có biên cương nếu tâm hồn, trái tim và khối óc vẫn chưa trở thành nô lệ.
David Thiên Ngọc
Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam
Một
thỏa thuận thương mại do Mỹ dẫn dắt có giúp gì cho các nhà cải cách Việt Nam
hay không?
Phạm
Nguyên Trường dịch
Một số người cho rằng, nền
kinh tế Việt Nam đang chuyển động khá nhanh. Tốc độ lạm phát với hai con số
trong năm 2011 đã đã bắt đầu hạ nhiệt, còn kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và
hàng điện tử thì đang gia tăng nhanh chóng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
36% mỗi năm, đấy là theo đánh giá của cơ quan xếp hạng, có tên là Fitch.
Nhưng, GDP lại gia tăng khác
chậm: năm ngoái chỉ đạt 5%, thấp nhất kể từ năm 2009. Rắc rối phần lớn là do đảng
Cộng sản cầm quyền thất bại trong việc ép các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tuân
thủ kỉ luật và không xử lí được những khoản nợ xấu trong trong các ngân hàng. Cũng
như nước láng giềng Trung Quốc, các ông trùm trong đảng và đàn em của họ không
muốn thay đổi hiện trạng vì nó có lợi cho họ.
Nhưng, muốn có tính hợp pháp
thì chính phủ phải cải thiện được cuộc sống của người dân trong cái đất nước có
tới 90 triệu người này. Trong mấy tháng gần đây, các quan chức bắt đầu tung ra
kế hoạch cải cách kinh tế quan trọng. Dấu hiệu đáng khích lệ gồm có Nghị quyết
của Bộ chính trị hồi tháng tư, coi hội nhập kinh tế là ưu tiên hàng đầu; và những
cuộc tranh luận gần đây của các nhà làm luật của Việt Nam về biện pháp "cổ
phần hóa" hay tư nhân hóa một phần doanh nghiệp nhà nước. Tháng 9 vừa rồi
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cam kết sẽ xử lí 1.300 doanh nghiệp nhà nước như
các công ty tư nhân và tăng mức cổ phần trong các ngân hàng mà các nhà đầu tư
ngoại quốc có thể sở hữu lên từ 30% đến 49%.
Một nhà ngoại giao phương
Tây nói rằng hiện nay vấn đề không phải là có cải cách hay không mà là cải cách
sẽ diễn ra nhanh đến mức nào. Nếu đúng như thế thì tốc độ thay đổi có thể phụ
thuộc vào Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tức là phụ thuộc vào Thỏa
thuận thương mại tự do của hơn một chục nước do Mỹ lèo lái, đang được trù liệu.
Ngoài những vấn đề khác, TPP sẽ yêu cầu các thành viên kiềm chế những hành động
thái quá của doanh nghiệp nhà nước .
Việc TPP tập trung chú ý vào
doanh nghiệp nhà nước tạo ra vỏ bọc chính trị cho các nhà lập pháp có tinh thần
cải cách của Việt Nam, để họ có thể theo đuổi chương trình nghị sự của mình, một
nhà kinh tế học là ông Phùng Đức Tùng nói như thế. Họ sẽ đi xa đến đâu vẫn là một
câu hỏi mở, nhưng ông Tùng cho rằng tư nhân hóa hầu hết các DNNN sẽ thúc đẩy mạnh
mẽ nền kinh tế và tạo được nền tảng thuế khóa vững chắc hơn.
Doanh nghiệp nhà nước, chiếm
40 % sản lượng kinh tế, đang có nguy cơ gắn chặt với các ngân hàng quốc doanh –
tức là gắn với những người cho vay từng tài trợ cho việc tham gia vào thị trường
bất động sản đầy rủi ro trong vụ bùng nổ kèm theo việc Việt Nam gia ra nhập WTO
vào năm 2007.
Hiện nay, doanh nghiệp nhà
nước đang tích cực "tái cơ cấu", báo chí do nhà nước kiểm soát nói
như thế. Không có người nào tin rằng những khoản tín dụng khổng lồ sẽ tái diễn.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động không hiệu quả, một số nợ nần
chồng chất đến nỗi không có tiền trả lương cho nhân viên.
Không có gì tốt đẹp cho hàng
trăm ngàn thanh niên đang bước vào thị trường lao động thiếu sinh khí của Việt
Nam, những người đang chán ngấy nạn tham nhũng và bất bình đẳng còn đáng buồn
hơn thế. Cùng với tâm trạng thất vọng về hệ thống giáo dục, y tế và chính sách
về quyền sử dụng đất, những vấn đề đó có thể là nhiên liệu cho một vụ bùng nổ
xã hội trong một ngày nào đó.
Trong khi đó, các nhà đàm
phán trong lĩnh vực thương mại của Mỹ đang nóng lòng muốn kết thúc những cuộc
đàm phán TPP. Sự hấp dẫn đối với Việt Nam là một số ngành công nghiệp sử dụng
nhiều lao động như may mặc và giày dép sẽ dễ tiếp cận hơn với thị trường Mỹ. Nhưng
đại sứ Mỹ ở Việt Nam, ông David Shear, nói rằng nước này cần phải thể hiện "sự
tiến bộ rõ ràng" về nhân quyền để có thể giúp cho dư luận Mĩ ủng hộ họ
tham gia vào TPP. Về mặt này, việc luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân bị phạt tù
vì tội danh trốn thuế giả mạo sẽ chẳng giúp được gì. Mặc dù vậy, rất có thể hai
bên sẽ ký thỏa thuận trong năm tới.
Bài đã đăng trên bauxitvn.net.
CÓ "HẬU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI" CHĂNG ? - Kỳ 4
(tiếp theo - Kỳ 4)
… Thực tế còn rành rành ra đó. Ở bất kỳ nơi nào mà chủ
nghĩa xã hội thực sự có cơ hội và phương tiện để kế hoạch hoá xã hội, ngõ hầu
theo đuổi một cách hữu hiệu ước mơ tiêu diệt tư sản, xoá bỏ bất bình đẳng kinh
tế, và loại bỏ phương thức phân phối vốn và tài sản theo thị trường tự do, hậu
quả luôn dẫn đến sự đè nén quyền tự do cá nhân, tự do kinh tế, tự do tín
ngưỡng, tự do lập hội, và tự do chính trị. Chỉ riêng việc tập thể hoá nông
nghiệp cũng đã đưa đến những hậu quả khôn lường với những nỗi khổ đau, những sự
thiếu thốn, và thái độ coi thường tài sản, vốn dĩ là thành quả của sức lao
động.
Có thể ví chủ nghĩa xã hội, với khả năng tối ưu, có
thể huy động sự sợ hãi và thuần phục của con người để xây dựng lên một lần cho
xong một công trình như thành phố Gary, Indiana, không cần vật liệu tốt, nhưng
cũng không có khả năng duy trì công trình đó. Khi nắm được chính quyền, chủ
nghĩa xã hội đã đẻ ra tình trạng nghèo khổ so với chung quanh, hiện tượng năng
suất thấp đến chết người, sự bất công tuỳ tiện, nạn bè phái, nạn nô lệ hoá, các
trại tập trung, tra tấn, khủng bố, sự tiêu vong của xã hội dân sự, thảm hoạ môi
sinh, lực lượng công an chìm tàn bạo, và sự chuyên chế bạo ngược có tính hệ
thống.** Xem từ >> Kỳ 1 ; Kỳ 2 ; Kỳ 3
Ở bất kỳ nơi nào chủ nghĩa xã hội đã đặt ách cai trị,
luôn có những người, bị biệt giam, bị ép thức trắng đêm, phải chịu các nhục
hình dã man, thậm chí là cái chết bất ngờ hay từ từ, vì họ đã dám nói
"Không", vì họ đã phê phán người cầm quyền, vì họ đã từ chối không tố
cáo các bạn bè và đồng nghiệp của họ, và, đơn giản hơn thế nữa, vì họ với một
lý do nào đó - thậm chí chỉ một câu nói đùa - đã làm bực mình một người cộng
sản đang cầm quyền. Lòng can đảm và sự chịu đựng của những người này vượt quá khả
năng cảm nhận của chúng ta. Chừng nào chúng ta chưa đối thoại với những tội ác
này và những nạn nhân này, thì sẽ chưa thể có "hậu chủ nghĩa xã hội".
Để làm người có đạo lý, chúng ta phải ghi nhận một cách thích đáng là những sự
việc tồi tệ đó có thật, và làm chứng nhân tố cáo những kẻ đã có trách nhiệm gây
nên những thời kỳ thảm khốc nhất của lịch sử nhân loại.
Chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa phải đối mặt - cũng
như chủ nghĩa quốc xã hoặc chủ nghĩa phát xít khi phải đối diện với các trại
giết người tập trung, và tội ác tàn sát người vô tội - với thực tại sống động
của nó, một thực tại đầy rẫy những sự tàn khốc và giết chóc lớn nhất trong sử
sách của loài người, thì chừng đó chúng ta sẽ chưa được sống trong thời đại
"hậu chủ nghĩa xã hội."
Điều đó sẽ không xảy ra. Căn bệnh của các nhà trí thức
Tây phương đã trói buộc họ vào một quan hệ đối kháng với nền văn hoá của họ -
tức là thị trường tự do và các quyền tự do cá nhân - một nền văn hoá đã giảm
thiểu tối đa những nỗi khổ ải của con người, đã giải phóng tối đa con người ra
khỏi sự thiếu thốn, sự ngu dốt, và mê tín dị đoan, và đã gia tăng tối đa của
cải và cơ hội của con người trong suốt lịch sử nhân loại. Chưa ai giải thích
được một cách đầy đủ nguyên nhân của căn bệnh này, dù biết nó chính là một
trong những thiếu sót và bi kịch lớn nhất của những xã hội được xây dựng trên
nền tảng thị trường tự do và các quyền cá nhân, những xã hội được xem như là
những nền văn minh cấp tiến nhất từ trước đến nay trên hành tinh này. Đây là
một thứ bệnh lý mà trong những thập niên qua, càng ngày càng trở nên thô thiển
hơn và càng đi chệch khỏi những nguyên tắc của thực tế.
Bệnh lý này cho phép các nhà trí thức Tây phương đi
vòng để tránh những xác chết của các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản đang chất
cao như núi Everest mà không phải rơi một giọt nước mắt, buông một lời hối
tiếc, làm một hành động hối hận, hay phát sinh nhu cầu tái thẩm định bản ngã,
linh hồn, và ý thức. Trong tiểu luận "Vị
thượng đế đã thất bại", Spender nhận định rằng, nói chung chúng ta đã
thất bại trên phương diện đạo lý khi chúng ta có thái độ bất nhất, đối xử một
cách hoàn toàn khác biệt đối với những nạn nhân trong các giai đoạn khác nhau
của lịch sử. Ông muốn dùng nhận định trên để nói tới tất cả những người đang
theo đuổi một ý thức hệ và phe phái chính trị, và ý đó hoàn toàn đúng. Nhưng
nhận định của ông lại góp một lời giải thích thiết yếu rằng tại sao muôn vàn
xác chết là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản - gấp ít nhất mười lần số nạn nhân
của Đại nạn diệt chủng Do Thái - vẫn còn ở với chúng ta. Spender viết, khi con
người theo đuổi một sự nghiệp chính trị thì những người đứng chung hàng ngũ với
họ trở thành "sinh động và có
thật... là những con người bằng da bằng thịt và có tình cảm như chính bản thân
mình vậy”. Ngược lại, những người nào cản đường họ thì lại trở thành "những sự trừu tượng... những đề thuyết
rắc rối, phi lý, không cần thiết, những kẻ có cuộc sống gồm toàn những lập ngôn
sai lầm". Đối với trường hợp
thứ nhất (đồng chí), họ thấy những "thân thể", trong trường hợp sau,
họ thấy những "con chữ."[17] Chúng ta và con cái chúng ta được giáo
dục, tiêu khiển, hướng dẫn, thông tin, và hưởng thụ nghệ thuật từ những kẻ
không thấy được những xác người chất thành từng đống, mà chỉ nhìn thấy những
"con chữ" về những sinh mạng đó.
Thái độ phản ứng của các nhà trí thức Tây phương khi
xử sự với một bên là các thành tựu của xã hội của họ, và bên kia là lý tưởng xã
hội chủ nghĩa rồi đến thực tế chủ nghĩa xã hội, làm chúng ta choáng váng. Ngay
giữa xã hội Tây phương, nơi con người có cơ hội thăng tiến không đâu sánh được,
họ gào lên "phân biệt giai cấp". Trong một xã hội ngập tràn hàng hoá
và dịch vụ, họ gào lên, lúc thì "nghèo khó" lúc thì "chủ nghĩa
tiêu thụ". Trong một xã hội ngày càng giàu có hơn, đa diện hơn, có năng
suất cao hơn, tự chủ và có đời sống thoả mãn hơn, họ gào lên "bị bỏ rơi".
Trong một xã hội đã giải phóng được phụ nữ, các sắc tộc thiểu số, các tôn giáo
thiểu số, và cả những người đồng tính luyến ái cả hai phái ở mức độ mà chỉ năm
mươi năm về trước không ai có thể mơ tới được, họ gào lên "áp bức".
Trong một xã hội có những tổ chức từ thiện tư nhân rộng rãi đến vô biên, họ gào
lên "keo kiệt". Trong một xã hội mà hàng trăm triệu người đã thụ
huởng miễn phí trên sự rủi ro, kiến thức, và đồng vốn của những kẻ khác, họ gào
lên là những người thụ hưởng miễn phí này đã bị "bóc lột". Trong một
xã hội đã thay thế được phương thức cha truyền con nối bất tận bằng sự thăng
tiến chỉ dựa trên tài năng cá nhân, thì họ lại gào lên "bất công".
Nhân danh những thế giới mộng tưởng và sự hoàn hảo chỉ có trong huyền thoại, họ
đã tự bịt mắt và không chịu nhìn thấy những gì mà chúng ta xem là những phép lạ
do chế độ cởi mở Tây phương mang đến: đó là tự do cá nhân, trách nhiệm cá nhân,
tài năng cá nhân, và sự thoả mãn con người.
Cũng như Marx, họ đã bỏ những từ như "tự do"
vào trong ngoặc kép khi dùng các từ ấy để bàn về Tây phương. Dĩ nhiên, ở đây,
chúng ta cần lưu ý một điểm là, trong trường hợp có một kẻ thù thực sự căm hận
các nhà trí thức Tây phương xuất hiện - như chủ nghĩa phát xít và quốc xã - và
khi việc đánh bại kẻ thù đó tuỳ thuộc vào lòng tự tin của Tây phương, thì những
nhà trí thức Tây phương này lại chẳng có khó khăn gì trong việc phân định đâu
là thiện và đâu là ác, và cả trong việc lôi cuốn quần chúng vào trong cuộc tỉ
thí giữa thiện và ác.
Hành vi trí thức này là một bệnh lý với triệu chứng
lục tìm, lựa chọn những giai đoạn trong lịch sử sao cho phù hợp với các mục
tiêu của mình, rồi khư khư ôm lấy thời khắc đã đóng băng đó như một khuôn mẫu
bất di bất dịch. Với những nhà trí thức mang căn bệnh trên, những đổ vỡ đầu
tiên của công cuộc kỹ nghệ hoá tư bản bị định kiến như là mô hình của một xã
hội tư bản tương lai sẽ xuất hiện từ các vận động đó, cứ y như là người ta
không cần phải đếm xỉa đến tiến trình đã giúp được vô số người có được một cuộc
sống tự do và được tôn trọng, và mang lại cho con người một khả năng vô tiền
khoáng hậu để chống chọi lại những nguy cơ từ thiên nhiên và con người.
Dưới góc nhìn bệnh lý này, nước Nga mãi mãi nằm trong
thời kỳ từ 1914 đến 1917 và lối thoát duy nhất khỏi chủ nghĩa Stalin là chiến
tranh và Rasputin, cứ y như là biểu đồ phát triển kinh tế và xã hội của nước
Nga vào đầu thế kỷ thứ hai mươi chưa từng hướng về một sự thay đổi đầy năng lực
và hứa hẹn. Một khi những người cộng sản đã huy động được những đám đông thật
lớn vào bất cứ một thời điểm nào, họ đã giành được quyền lực một cách tuyệt đối
và vĩnh viễn, cứ y như là đảng Cộng hoà vào năm 1920, một đảng ít ra đã cũng
thắng cử một cách lương thiện, đã thủ đắc được quyền cai trị nước Mỹ vĩnh viễn
và có quyền chọn người kế vị trong nội bộ đảng. Căn bệnh này cũng cho phép
người ta có thể chối bỏ lịch sử và cứ việc tuỳ tiện thay đổi lập trường của
mình mà không một chút vướng bận hay có trách nhiệm gì đối với quá khứ. Ca bệnh
đầu tiên là Stalin, sau đó là Castro, sau đó là Hồ Chí Minh và bè lũ Khmer Đỏ,
và sau đó là những người Sandanista ở Nicaragua, danh sách những bệnh nhân còn
kéo dài đến độ gây buồn nôn.
Triệu chứng tinh thần của căn bệnh này, trong cả quá
khứ và hiện tại, vẫn là một sự hoang tưởng tập thể, vô cảm với lịch sử và phong
tục. Đó là niềm tin rằng trong các quan hệ giữa người với người, thiện tâm,
trật tự ổn định, công lý, hoà bình, bình đẳng trước luật pháp, tương kính tương
nhượng, và vị tha, là bản chất, còn sự nham hiểm, vô trật tự, bạo hành, ép
buộc, bất bình đẳng trước luật pháp, cố chấp, và lòng ác độc là những điều lệch
lạc khác thường cần được giải thích theo hoàn cảnh lịch sử. Vì đã sai lầm hiển
nhiên và có hệ thống khi định nghĩa đâu là trạng thái bình thường, các nhà trí
thức Tây phương đã không thể hiểu và trân trọng hình thái xã hội đã cho chúng
ta khả năng biến cải các trạng thái đó. Bệnh lý này cũng chính là niềm tin điên
khùng rằng ở những xã hội đã tiến hoá thành công, các nhà trí thức khi nắm
quyền lực có thể tuỳ tiện sắp xếp lại mọi thứ, và rằng những nền văn hoá có
năng suất cao nhất của nhân loại lại là những nền văn hoá hầu như bị trục trặc
tổng thể.
Rousseau và tất cả các nhà trí thức Mác-xít hoá, những
người đã phủ bóng tối của họ lên suốt một trăm năm qua và lâu hơn thế nữa, đã
nhìn ngược mọi thứ trong lãnh vực này. Con người vốn dĩ đố kỵ, điều này không
cần một lời giải thích về hoàn cảnh lịch sử, vì bản tính của con người là ác
cảm với sự khác biệt. Ngược lại, chính khả năng - tuy không hoàn chỉnh nhưng
cũng đủ để làm người ta kinh ngạc - mà một xã hội tư do có thể tạo ra và vận
dụng để vượt qua chủ nghĩa bộ tộc và chủ nghĩa đố kỵ mới cần được làm sáng tỏ,
trên tất cả những hiện tượng khác đã góp phần tạo dựng nên một kỳ tích có một
không hai là nước Mỹ. Tương tự, hiện tượng độc tài và lạm quyền cũng là một bản
tính tự nhiên của con người. Ngược lại, chính hiện tượng hạn chế được quyền lực
và mang lại tự do cá nhân mới cần được giải thích về mặt lịch sử. Chế độ nô lệ,
tự nó, không làm ai giật mình, bởi vì tự cổ chí kim, chế độ nô lệ là một trong
những hình thái phổ biến nhất trong lịch sử loài người. Thật ra, chính quan
niệm con người có quyền tự làm chủ lấy mình, con người phải có tự do, con người
có quyền lao động theo ý muốn mình, mới cần phải được giải thích về mặt lịch sử…
(còn
tiếp)NHỮNG TRANH CÃI VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG HOA
Bài dịch của Chu Giang Sơn
Bài viết gốc: China’s Foreign Policy Debates
Vương Chính(Zheng Wang: 王 正) là một học giả về chính sách công ở trung tâm quốc tế Woodrow Wilson. Ông cũng là phó giáo sư tại John C Whitehead School of Diplomacy and International Relations thuộc
Seton Hall University, tiểu bang New Jersey. Ông ấy cũng là nghiên cứu
sinh của Jennings Randolph Senior ở viện nghiên cứu hòa bình của Hoa Kỳ
và là thành viên của ủy ban quốc gia về quan hệ Hoa kỳ - Trung hoa.
Tập Cận Bình có thể đã tỏa sáng ở hội nghị cấp cao APEC, nhưng
Trung hoa vẫn cần phải giải quyết vài vấn đề về chính sách ngoại giao.
Vừa mới đây, Tổng thống Obama đã hủy bỏ cuộc tham dự hội nghị APEC ở
Indonesia, hội nghị Đông Á ở Brunei, và kế hoạch thăm Philippine và
Malaysia. Ngược lại, Chủ tịch Trung hoa Tập Cận Bình đã có chuyến thăm
thành công đến Indonesia và Malaysia, và tham dự hội nghị APEC. Với sự
vắng mặt của tổng thống Obama, sự hiện diện của Tập Cận Bình ở hội nghị
đã trở nên long trọng hơn.
Chuyến đi đến các nước Đông Nam Á là chuyến đi ngoại giao thứ 4 của Tập
Cận Bình kể từ khi ông nhậm chức chủ tịch nhà nước Cộng hòa nhân dân
Trung hoa. Cùng trong tháng, ông đã đến thăm Liên bang Nga, Tanzania,
Nam phi và Công gô. Trong quá trình dừng thăm Nam Phi, ông có tham dự
hội nghị BRICS - Brasil, Rusia, India, China và South of Africa, thành
viên 5 nước mới nổi - ở Durban. Vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6, ông ấy
đến Mehico, Costa Rica và Trinidad and Tobago. Và vào phút chót của
chuyến đi, ông ấy đã gặp Obama ở California. Sau đó, cuối tháng, ông ấy
đến Kazakhstan, Uzebekistan, Kurdistan và Turkmenistan và tham dự hội
nghị Tổ chức hợp tác Thượng Hải. Tổng cộng tất cả các chuyến đi này, Tập
Cận Bình đã có 36 ngày ở hải ngoại kể từ tháng 3 năm nay.
Rõ ràng, Tập Cận Bình đã chú ý nhiều đến chính sách ngoại giao, và đã sử
dụng một phần đáng kể thời gian của ông ấy cho đối ngoại. Vậy chính
sách đối ngoại của Tập là gì, và nó khác với những người tiền nhiệm,
như chủ tịch Hồ Cẩm Đào như thế nào?
Mặc dù các nhà quan sát Trung hoa đã thảo luận các vấn đề này, nhưng có
lẽ vẫn là quá sớm để có câu trả lời rõ rang. Trên thực tế, Trung hoa
đang ở một ngã rẽ để đưa ra một số quyết định có tính chiến lược quan
trọng và điều chỉnh về chính sách ngoại giao, và có nhiều cuộc tranh
cãi nội bộ chủ yếu trên các câu hỏi này. Mặc dù các tranh cãi kiểu này
đã xảy ra rồi, chúng vẫn là về vấn đề hiển nhiên. Ngược lại, ngày nay,
các tranh cãi kiểu này không những ảnh hưởng đến các vấn đề cụ thể mà
còn là tâm điểm của nhận định cơ bản, nội dung và bản chất chính là
chính sách đối ngoại của Trung hoa. Hiểu được bối cảnh và hậu trường
cuộc tranh cãi này là cần thiết để thấu hiểu được những nỗ lực ngoại
giao của Tập và bất kỳ một sự điều chỉnh về đối ngoại trong nhiệm kỳ của
Tập Cận Bình.
Một điều kỳ lạ, thời gian này, khắp Trung Hoa đã có những tư tưởng khá
thay đổi trên các vấn đề đối ngoại quan trọng. Chẳng hạn, một số ít
người nhận định rằng Trung hoa sẽ từ bỏ Bắc Triều Tiên trong khi một số
khác lại cho rằng Trung hoa sẽ làm gần gũi hơn mối quan hệ và cung cấp
chế độ an ninh tổng hợp,phòng vệ, thậm chí là cả sự bảo vệ hạt nhân.
Một vài dự đoán rằng Trung hoa sẽ giảng hòa và tìm một giải pháp hòa
bình cho các tranh chấp trên Biển Đông, trong khi một số khác vẫn tin
tưởng mạnh mẽ rằng Trung hoa sẽ giữ một lập trường quyết đoán hơn về lợi
ích quốc gia bao gồm cả việc sử dụng quân sự. Các cuộc tranh cãi về các
vấn đề riêng biệt này thể hiện bởi những quan điểm khác nhau trên vài
chủ đề chính hoặc các vấn đề cơ bản mà dẫn dắt chính sách đối ngoại của
quốc gia.
Một trong những tranh cãi chính là có hay không việc Trung hoa sẽ tiếp
tục đường lối của Đặng Tiểu Bình, cụm từ “taoguangyanghui”, được diễn
nghĩa là”ẩn dấu sức mạnh, chờ thời cơ”. Đại tướng Hùng Quang Khải, Cựu
giám đốc cục tình báo của quân giải phóng Trung quốc, cũng thừa nhận
rằng một sự hiểu chính xác hơn về cụm từ sẽ là” không phô trương sức
mạnh mà sẽ giấu mình dưới thế yếu”.
Một số khác tin tưởng rằng, Trung hoa sẽ tiếp tục chính sách này, và
đồng ý rằng một thế yếu trong đối ngoại sẽ là mục tiêu sâu hơn của
Trung hoa để tập trung phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề nội địa.
Tuy nhiên, một số khác cho rằng, đây là lúc Trung hoa từ bỏ đường lối
này khi Trung hoa đã là siêu cường toàn cầu, và bởi vậy quốc gia này sẽ
tham gia vai trò toàn cầu nhiều hơn. Trung Hoa sẽ không rụt rè sử dụng
sức mạnh để theo đuổi và bảo vệ các lợi ích quốc gia của nó. Một vài học
giả tham khảo chính sách ngoại giao tích cực của tổng thống V. Putin
như là một minh chứng cho chính sách đối ngoại của Trung hoa đi theo.
Một tranh luận khác là các chuẩn mực và giá trị mà Trung hoa sẽ hướng
đến trong chính sách đối ngoại. Vài học giả Trung hoa chỉ trích chính
sách ngoại giao hiện nay của chính phủ là thiếu thực chất và nguyên tắc,
chỉ là chủ nghĩa thực dụng thuần túy về các vấn đề đối ngoại. Họ đồng
ý rằng sự thiếu vắng các chuẩn mực và giá trị sẽ làm cho chính phủ bế
tắc trong việc tìm một chính sách ngoại giao. Sự thiếu vắng một giá trị
làm định hướng, họ cũng nhận định rằng, chính phũ Trung Hoa sẽ trở lên
do dự và bối rối, như là với các trường hợp mùa xuân Arab, Bắc Triều
Tiên và trong suốt khủng hoảng ở Syria gần đây.
Với triết lý cộng sản và những nguyên tắc của chiến tranh lạnh, cụ thể
là năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình - không còn nhiều thực tế cho
chính phủ, Bắc Kinh cần có một nguyên tắc khác, và định hướng cho chính
sách ngoại giao. Nội dung của các chuẩn mực và nguyên tắc này sẽ là rào
cản chính cho Trung hoa khi tham gia vào các vấn đề quốc tế.
Những tranh cãi về nội dung của các chuẩn mực này cũng bao hàm các tranh
cãi về việc có hay không Trung hoa sẽ đi theo các chuẩn mực và nguyên
tắc của phương Tây hơn là xây dựng một thứ của riêng nó, và có hay không
một chuẩn mực và nguyên tắc mà tất cả các quốc gia nên chấp hành. Các
cuộc tranh cãi này thể hiện một khủng hoảng rõ rệt về thể chế và nhà
nước Trung hoa. Bắc Kinh vẫn cần thời gian để quen với vị thế siêu cường
mới trên toàn cầu của nó và định hình một chính sách ngoại giao. Nó
chưa sẵn sàng để đảm nhiệm một vai trò lớn hơn và chưa rõ ràng cách
thứcsử dụng sức mạnh mới của mình. Đó cũng là lý do tại sao bài nói
chuyện về giấc mơ Trung hoa của Tập Cận Bình, hiện thời vẫn được xem là
chủ yếu cho người dân trong nước hơn là cho cộng đồng quốc tế.
Kể từ khi Tập Cận Bình lên làm nguyên thủ, ông ấy đã nói về chính sách
ngoại giao trong một số dịp và các trợ lý ngoại giao của ông ấy cũng đã
viết một số bài báo giới thiệu về chính sách ngoại giao mới. Một vài nhà
theo dõi Hoa Kỳ cũng đã đồng thuận rằng, thế hệ lãnh đạo mới đã theo
một hướng tiếp cận chủ nghĩa dân tộc nhiều hơn trong chính sách ngoại
giao. Mặc dù, dường như là đúng, chính phủ vẫn đưa ra những tuyên bố
mạnh mẽ, chính sách ngoại giao của quốc gia vẫn phải được xem xét trên
cơ sở các hành động hơn là các phát biểu của nó. Khẩu hiệu và định hướng
chung chung không thể thay thế các hành động thực tế. Vì lẽ đó, Bắc
Kinh không có được một chính sách tốt trên nhiều vấn đề. Nó cũng không
đưa ra một sự giải thích rõ ràng và cụ thể về định hướng chính sách
ngoại giao của chính quyền mới. Và cũng không có một dấu hiệu rõ ràng
cho thấy chính phủ đã có những điều chỉnh cụ thể cho các thách thức đối
ngoại chính, ví dụ như là các tranh chấp trên biển Đông, sự tranh chấp
quyết liệt với Nhật bản trên biển Nhật Bản, hay là các vấn đề về Triều
Tiên.
Các tranh cãi gần đây về quan hệ đối ngoại cũng có mối liên hệ gần gũi
với các vấn đề chính trị trong nước. Sự trỗi dậy chủ nghĩa dân tộc của
Trung hoa, đã tạo ra một bối cảnh mới cho chính sách ngoại giao của Tập
Cận Bình. Bắc Kinh cũng đã phải đương đầu với một tình thế khó xử về chủ
nghĩa dân tộc, ấy là, trong khi chủ nghĩa dân tộc là hữu ích để gắn kết
nội bộ, thì nó lại cản trở khả năng của Trung hoa để theo đuổi một
chính sách ngoại giao thuận lợi.
Một câu hỏi chủ yếu cho Tập Cận Bình là cách nào để duy trì sự cân bằng
này giữa nền chính trị trong nước, và các mối quan hệ bên ngoài. Cũng
vậy, nhìn lại lịch sử ngoại giao Trung Hoa, sự điều chỉnh các chính sách
chủ yếu đều đến sau khi có những thay đổi lớn về chính trị. Theo
chiều hướng này, các chính sách ngoại giao của Tập Cận Bình sẽ trở nên
rõ ràng hơn sau phiên họp toàn thể lần thứ ba của Đại hội 18, vào tháng
11/2013 này, khi Đảng Cộng Sản Trung hoa sẽ công bố các quyết định quan
trọng về chính sách quốc gia và phát triển kinh tế cho bốn năm sắp
tới.
Ván cờ chiến lược Biển Đông của Việt Nam
(Chính trị Việt Nam)
- Với vị trí chiến lược quan trọng, với khả năng tự vệ, đương đầu với
mọi thách thức an ninh có được, đã đến lúc Việt Nam tự quyết định chiến
lược an ninh của mình.
Nói đến Biển Đông thì ai cũng đều có chung một đánh giá từ xưa đến nay là Biển Đông có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trong khu vực châu Á-TBD. Chính vậy mà làm chủ hoàn toàn Biển Đông hoặc bảo vệ an toàn hàng hải trên Biển Đông không phải chỉ là mong muốn của một quốc gia mà có rất nhiều quốc gia đưa vào trong chiến lược khu vực, toàn cầu của họ.
Đó thực sự là tâm điểm của một cuộc
chiến địa chính trị khu vực châu A-TBD mà nguy cơ xung đột, chiến tranh
và cơ hội hợp tác, hòa bình phát triển là không đoán định.
Với hơn 3000 km đường bờ biển giáp Biển
Đông và hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có quần đảo Trường Sa nằm gần
như chính giữa Biển Đông, Việt Nam, do đó, có một vị trí chiến lược cực
kỳ quan trọng trên Biển Đông nói riêng và khu vực ĐNA nói chung.
Không khó để giải thích tại sao trước
đây, Việt Nam cứ liên miên hết thế lực lớn này đến thế lực lớn khác luôn
dòm ngó trên bàn cờ chiến lược Biển Đông, khu vực ĐNA.
Tại sao ư? Tại vì nghèo, yếu, lại ở vào vị trí đắc địa?
Ngày nay, Việt Nam đã khác, với khả năng
tự vệ, đương đầu với mọi thách thức an ninh có được, đã đến lúc Việt
Nam tự quyết định vị thế của mình, tham gia vào cuộc cờ khu vực với vị
thế khác – người chơi cờ.
“Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc trong thời kỳ mới” trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc từ ngày 13/10 là tất yếu khi TQ nhận thức và đánh giá đúng vấn đề và vị thế Việt Nam. |
1- Nước cờ của Việt Nam từ góc nhìn Trung Quốc
Hoạt động ngoại giao thời bình như hoạt động quân sự thời chiến, nghĩa là đều có tính quyết đinh sống còn với vận mệnh quốc gia.
Trong thời chiến, hoạt động ngoại giao
phụ thuộc vào kết quả quân sự. Hiệp định Giơneve năm 1954 được ký kết
phải sau khi “Tin đây anh (Phạm Văn Đồng) Điện Biên Phủ hoàn thành”.
Hiệp định Pari ký cũng phải sau trận “Điện Biên Phủ trên không”
Trong thời bình, kết quả đối ngoại phụ
thuộc lớn vào vị thế đất nước, đặc biệt là tiềm lực quốc phòng. Không có
khả năng, tiềm lực quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bắt kẻ xâm lược
phải trả giá đắt nếu liều lĩnh xâm phạm, nghĩa là không đủ sức răn đe
thì hoạt động ngoại giao chỉ “chót lưỡi đầu môi”.
Hiện tại ở khu vực châu Á-TBD đã có
nhiều liên minh quân sự như Mỹ-Nhật Bản, Mỹ-Hàn Quốc, Mỹ-Philipines và
nhiều tam giác chiến lược như Mỹ-Nhật Bản-Hàn Quốc, Mỹ-Nhật Bản-Ấn Độ,
Mỹ-Nhật Bản-Úc…có vẻ như là để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Tuy những mối quan hệ đó có thể làm cho Trung Quốc lo ngại, nhưng không
đủ để làm họ hốt hoảng.
Trong chiến lược đẩy lùi Mỹ, Nhật Bản ra
khỏi chuỗi đảo thứ nhất và đầy tham vọng biến Biển Đông thành “ao nhà”
của mình, đương nhiên, Trung Quốc sẽ vấp phải sự chống trả quyết liệt
của bên liên quan.
Trên khu vực ĐNA cũng xuất hiện nhiều
mối quan hệ cấp đối tác chiến lược như Việt Nam-Indonesia, Việt Nam-Nhật
Bản…đặc biệt có đối tác chiến lược sâu, toàn diện như Việt Nam-Nga
chẳng hạn, thì đâu là mối quan hệ khiến Trung Quốc lo ngại nhất và ảnh
hưởng lớn nhất đến chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà” của họ?
Phải chăng khi Mỹ và Việt Nam trở thành
đối tác chiến lược, Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam, mối
quan hệ tăng lên từ chiều sâu đến chiều rộng thì khiến Trung Quốc lo sợ?
Không phải. Mỹ có lợi ích quốc gia toàn
cầu, dù có đối đầu với Trung Quốc, muốn bao vây, kiềm chế Trung
Quốc…nhưng vẫn hợp tác với Trung Quốc. Vì thế khi cần, Mỹ vẫn sẵn sàng
lấy mối quan hệ với Việt Nam ra mặc cả với bất kỳ quốc gia nào, kể cả
Trung Quốc để tính toán thiệt hơn, nhiều ít.
Vậy, liên minh phòng thủ giữa Việt Nam với Philipines và ASEAN?
Nếu xảy ra thì đây cũng là điều rất đáng
lo cho Trung Quốc, bởi lẽ các quốc gia ĐNA trong khối ASEAN này có một
địa quân sự rất quan trọng trên Biển Đông và eo biển Malacca. Khi họ
liên thủ với nhau thì Biển Đông sẽ trở thành như một cái “hồ nước” mà
một chứ mười hạm đội của kẻ xâm lược cũng chẳng làm gì được khi vùng vẫy
trong đó bị “đồng loạt trên bờ ném đá”.
Rất may là tình huống này không có thể
xảy ra. Cuộc chiến địa chính trị giữa Trung Quốc, Mỹ đã khiến cho ASEAN
buộc phải lựa chọn, nghiêng ngả theo lợi ích quốc gia mà họ theo đuổi và
Trung Quốc cũng không mấy khó khăn đang làm mọi cách để không xảy ra.
Vậy mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga chăng?
Cũng không phải. Thực tế mối quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Nga là mối quan hệ được coi trọng ưu
tiên hàng đầu hiện nay. Đây là mối quan hệ truyền thống, hữu nghị, đặc
biệt tin cậy lẫn nhau và không một xung đột lợi ích nào dù là nhỏ.
Nga đã không ngừng tăng cường năng lực
quốc phòng cho Việt Nam để đủ sức đương đầu với thế lực bành trướng, tạo
ra sức răn đe mạnh (đương nhiên là mua bán, nhưng nếu không có độ tin
cậy thì không phải có tiền là mua được thứ mình muốn và ngược lại), qua
đó Nga kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, đồng thời củng cố một điểm
đứng chân ổn định vững chắc, tin cậy tại châu Á-TBD cho tương lai gần,
vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của Nga trên Biển Đông.
Tuy nhiên giữa Nga và Trung Quốc cũng là
đối tác chiến lược của nhau có tính chất vừa hợp tác vừa kiềm chế cho
nên Nga không thể vì Việt Nam tất cả để hy sinh lợi ích quốc gia khi hợp
tác với Trung Quốc.
Vậy rốt cuộc, với khả năng quốc phòng và
sức mạnh trên Biển Đông hiện tại, Việt Nam tăng cường mối quan hệ với
quốc gia nào thì sẽ khiến Trung Quốc lo sợ và không muốn?
Nếu như thế thì nước cờ đó hay mối quan
hệ này phải có tác động mạnh đến cấu trúc địa chính trị khu vực và ít
nhất có một mục tiêu chung là ngăn chặn Trung Quốc biến Biển Đông thành
“ao nhà”. Đặc biệt, mối quan hệ đó phải có độ tin cậy, tức là không có
xung đột về lợi ích. Mối quan hệ đó sẽ…
Đó chính là nước cờ hay sách lược đối
ngoại có tính logic mà Việt Nam đã, đang và sẽ dùng để tăng cường thế,
lực cho đất nước đủ sức bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài
phán của mình trước những thách thức nguy hiểm có thể xảy ra.
Dù có căng thẳng trên Biển Đông hay
không thì quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản phát triển sâu,
rộng, tin cậy, là nhu cầu tất yếu sự phát triển của 2 quốc gia rất cần
nhau.
2- Việt Nam-Nhật Bản, không để lịch sử lặp lại
Trong tình thế hiện tại về chủ quyền, rõ ràng là Trung Quốc đang xâm hại đến chủ quyền Việt Nam.
Trung Quốc đã thành lập và xây dựng cái
gọi là “thành phố Tam Sa” bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam;
Trung Quốc ngang ngược, cậy mạnh, gọi thầu quốc tế 9 lô dầu khí trong
thềm lục địa Việt Nam, ra lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng EEZ của Việt
Nam.
Hạm đội Nam Hải của hải quân Trung Quốc
luôn phô trương thanh thế, ráo riết diễn tập đánh chiếm đảo này đảo khác
trên Biển Đông…(còn những tuyên bố ngạo mạn, láo xược, của giới học giả
quá khích, tướng tá diều hâu, hiếu chiến về Việt Nam được bật đèn xanh
thì chúng ta không đáng quan tâm).
Việt Nam muốn hòa bình nhưng hòa bình
không lệ thuộc, Việt Nam kiên quyết bảo bệ chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên vùng biển Việt Nam được quốc tế công nhận
theo UNCLOS.
Do đó, không còn cách nào khác là phải
tăng cường tiềm lực quân sự và đối ngoại quân sự để tạo ra thế và lực
vững chắc cho đất nước.
Đài “Tiếng nói nước Nga” có bình một câu
hay nhưng chưa chính xác, rằng, “Con hổ Việt Nam có móng vuốt Nhật Bản”
mà lẽ ra thì “móng vuốt của Nga” mới đúng. Nhưng thật ra, móng vuốt của
Hổ chưa quan trọng, quan trọng là thế võ của hổ vồ như thế nào. Tuy
nhiên, hổ vồ như nào không phải là điều quyết định, quyết định là nội
lực của Hổ. Giống hổ thật đấy, nhưng đói đi không vững thì vồ được ai?
Chúng ta hãy trở lại với luận bàn từ
thanh kiếm. Đó là, kiếm dài hay ngắn không quan trọng, quan trọng là
kiếm pháp. Tuy nhiên, kiếm pháp tốt hay dở chưa quyết định, quyết định
là thanh kiếm gì.
Nếu thanh kiếm đó là một “thanh kiếm
báu” như, làm bằng công nghệ nào, chất liệu ra sao để có thể chém sắt
như chém bùn…và một thanh kiếm thường, chỉ gặp một cành cây đã quằn, gặp
kiếm địch thì bị chém đứt là hoàn toàn khác nhau khi đối đầu.
Chính xác là Việt Nam cần và phải có “thanh kiếm báu” và Trung Quốc quá biết nó sẽ có từ đâu.
Kể từ năm 1945 đến năm 2010, Nhật Bản có
65 năm hòa bình, xây dựng đất nước thành một siêu cường kinh tế, có một
nền công nghiệp hiện đại, kỹ thuật công nghệ cao nhất nhì thế giới.
Trong 65 đó Nhật Bản chỉ tồn tại 2 mâu
thuẫn với bên ngoài có thể coi như thách thức đến an ninh là CHDCND
Triều Tiên và Nga trên quần đảo phía Bắc. Tuy thế 2 mâu thuẫn đó không
đủ để biến lực lượng Phòng vệ Nhật Bản “thay tên đổi dạng”, chưa đủ để
đánh thức dân tộc Nhật đang “say giấc ngủ hòa bình”.
Lưu ý là, nếu như ai đó cho rằng trong
65 năm đó, Nhật Bản không chuẩn bị gì cho tiềm lực quốc phòng là nhầm.
Đó không phải là tư duy của một quốc gia có nền công nghiệp hiện đại và
quốc gia đang tồn tại đền thờ chiến tranh thế giới lần 2 thì càng không.
Chỉ đến năm 2010, đặc biệt là trong
tranh chấp quần đảo Senkaku thì yếu tố Trung Quốc là đủ năng lượng để
đepo khởi động bộ máy quân sự, quốc phòng và đánh thức chủ nghĩa dân tộc
Nhật Bản.
Một loạt các sức cản, ràng buộc như Hiến
pháp hòa bình Nhật Bản, tâm lý quen hưởng hòa bình vào ô hạt nhân Mỹ,
dựa dẫm vào Mỹ trở nên không là gì trước cú tác động của Trung Quốc.
Chiến tranh thế giới lần 2 đã kết thúc
68 năm, trong khi châu Âu đã vĩnh viễn lật sang trang mới những mối oán
hận giữa các kẻ thù cũ nhưng vùng ĐBA thì không.
Mối hận thù dân tộc “nỗi nhục 100 năm”
của Trung Quốc với Nhật Bản vẫn còn đó và càng lớn dần theo đà trỗi dậy
của Trung Quốc, bất chấp Nhật Bản đã từng tạo điều kiện thuận lợi, quan
trọng cho sự trỗi dậy thần kỳ của mình.
Tranh chấp quyết liệt Senkaku/Điếu Ngư
trên biển Hoa Đông đã làm mối quan hệ Trung-Nhật xấu đi đến mức chiến
tranh có nguy cơ xảy ra.
Trên Biển Đông. Nếu Trung Quốc biến
thành “ao nhà”, khống chế luôn eo biển Malacca thì coi như nền kinh tế
Nhật Bản sống hay chết hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn Trung Quốc. Đòn
“cắt nguồn cung đất hiếm” Nhật Bản chắc đã nhận đủ từ Trung Quốc và để
bắt Nhật Bản thành chư hầu, Trung Quốc có thừa lòng căm hờn và sự quyết
tâm để phong tỏa tuyến hàng hải Biển Đông khi cần thiết.
Nếu Việt Nam không kiểm soát được Trường
Sa chẳng hạn, lúc đó tuyến hàng hải thương mại, vận chuyển năng lượng
bị mất an toàn thì Nhật Bản sẽ rơi vào tình thế nguy hiểm.
Như vậy, có thể nói việc Trung Quốc biến
Biển Đông thành “ao nhà” có ảnh hưởng “không thể chấp nhận được” đến 2
quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản, cho nên, theo logic thì ngăn chặn âm
mưu, hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam và Nhật Bản đều
có cùng mục tiêu mang tính “tối thượng” là an ninh quốc gia và chủ
quyền.
Hiện tại Nhật Bản có một nền công nghiệp
hiện đại nhất châu Á. Mặc dù GDP sau Trung Quốc nhưng chất lượng GDP
cao hơn rất nhiều Trung Quốc. Cục diện địa chính trị trong vài năm tới
Nhật Bản sẽ là có vai trò chính trên châu Á-TBD trong khi hiện tại “lòng
tin chiến lược” Trung-Nhật đã cạn.
Cho nên, đối tác chiến lược với Nhật Bản
là đối tác chiến lược với một cường quốc lớn và không có gì thuận lợi
hơn là Việt Nam và Nhật Bản cũng như Việt Nam và Nga là đối tác chiến
lược của nhau mà không có xung đột lợi ích, vì thế có độ tin cậy, có
lòng tin, hoàn toàn khác bản chất với đối tác chiến lược nào đó mà vừa
hợp tác vừa kiềm chế nhau.
Đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản
chắc chắn một điều là dù có hay không có căng thẳng trên Biển Đông thì
Việt Nam và Nhật Bản cũng cần phải tăng cường mối quan hệ vì sự phát
triển của 2 quốc gia đầy duyên nợ này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nhật Bản là
nước tư bản lớn đầu tiên có quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Không phải ngẫu nhiên mà mà nhà yêu nước Phan Bội Châu tìm đường
sang Nhật Bản đã được khắc họa trong bộ phim “Người cộng sự” mà Đài
truyền hình Việt Nam phát sóng nhân dịp 40 năm quan hệ ngoại giao
Việt-Nhật.
“Lòng tin chiến lược” giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là tiền đề của hòa bình và phát triển.
Lê Ngọc Thống
đinh tấn lực - Hãy dọ giá đất thì biết…
Hãy dọ giá đất thì biết:
331.698 km² – giá bán là 16 chỉ vàng
đinh tấn lực - Thầy của những bậc Thầy…
Hết cả lãnh đạo xứ này có công kênh nhau lên cũng chưa cao quá gối người phụ nữ trong ảnh:
BÃO TRỜI VÀ BÃO QUAN THAM!
Phạm Mạn
.
.
Ông Trời mưa bão miền Trung
Nhà tan, người chết, ruộng đồng trắng tay!...
Dân ta đau xót từng ngày
nỗi đau quá lớn chất đầy tháng năm!
Quốc gia gặp buổi thăng trầm
thuế Dân chắt bóp ướt dầm mồ hôi!
Chao ôi! Lãng phí nơi nơi
Tham ô đục khoét hơn trời bão giông!
Riêng thằng Chí Dũng nuốt không
Còn hơn mấy tỉnh mất “tong” cửa nhà!
Mất nào mà chẳng xót xa
đều là của cải dân ta đó mà.
Nếu tiền “ụ nổi” mang ra
cứu dân bị lụt vượt qua nạn này(!?)
Than ôi! Mơ giữa ban ngày!
Bão trời tuy dữ chẳng tày “bão THAM”
Một Dương chí Dũng bạo tàn
Tiêu ma sinh lực vạn ngàn dân ta!
Lạ thay ai đó ngó qua
Trái tim vô cảm như là không tim.
Bao ngày dân thấy im lìm
tưởng rồi “nó” sẽ lặng chìm đi chăng;
hay là kết thúc lăng nhăng:
“nghiêm khắc kiểm điểm” nhẹ nhàng rút ra:
Sai này “cơ chế” sinh ra
Bài học “kinh nghiệm” cho ta nhớ đời!
Giáng đòn… “cảnh cáo” như chơi
nếu cao kỷ luật, lấy ai mà làm(!)
Có bao Chí Dũng quan tham
Đang gây bão tố bắc nam điêu tàn!
Bão này không thể sớm tan
nếu không kiên quyết cùng dân diệt trừ!
Bão này ghi sử thiên thu .
“Tồn”, “vong” - Đất nước kể từ đời nay!
Nhanh lên! Chống trận bão này!!!
PM
Trận bão số 10 đổ bộ Miền Trung
Thơ Tặng Hiền Thê
Văn Công MỹBên sông gõ đàn ta hát
Chiều xưa sóng vỗ mạn thuyền
Quê hương nửa đời được mất
Bóng người sợi tóc bay nghiêng
Đôi ta chìm sâu bóng núi
Mắt buồn, em giấu chân chim
Ngọn lửa như đêm hôn phối
Hương xưa em vẫn dịu hiền
Anh hát những lời thơ cũ
Em đàn nhịp phách chơi vơi
Tình tang đóa quỳnh mới nở
Í a thục nữ gọi mời
Già cuộc phù sinh mộng tưởng
Lòng sen đột ngột tinh khôi
Cõi người mênh mang vô lượng
“Hành Phương Nam” vẫn đủ đôi!