Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Putin và bài học cho Việt Nam - Lời nguyền

  • Đối mặt với thay đổi, Việt Nam cần làm gì? (RFA) - Trung Quốc từ những năm qua tiến hành các biện pháp gây hấn nhằm có thể chiếm cứ các vùng biển quanh Hoa Lục. Điều đó khiến cục diện thế giới biến chuyển do phản ứng không chỉ của các quốc gia liên quan mà cả các nước khác.
  • VN 'cần cảnh giác TQ' (BBC) - Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cảnh báo Việt Nam đừng nên quá tin Trung Quốc mà lơ là cảnh giác.
  • Nghĩ về Công dân và Đảng nhân ngày Độc lập (RFA) - Trải qua hơn nửa thế kỷ, con người Công dân ở Việt Nam vẫn đang lửng lơ giữa một mức độ chưa đạt đến sự hoàn thiện. Điều này cũng thể hiện một chế độ dân chủ chưa được xây dựng đầy đủ ở Việt Nam.
  • Tết Trung thu đến với các em khiếm thị (RFA) - Để mang lại một lễ Trung thu ý nghĩa cho trẻ khiếm thị, các học viên tại Trung Tâm Đào Tạo và Phục Hồi Chức Năng cho người khiếm thị ở thành phố Đà Lạt đã tổ chức một buổi Vui Hội Trăng Rằm cho các em.
  • Tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo kiểu cánh tả Pháp mất phương hướng (RFI) - Cuộc tranh luận về cái gọi là thái độ khinh thường người nghèo của Tổng thống cánh tả Pháp François Hollande xảy ra vào lúc tỷ lệ được lòng dân củaông xuống thấp tới mức chưa từng thấy.
    Chính sách kinh tế-xã hội của chính phủ bị chỉ trích mạnh mẽ, thậm chí cả từ phía đảng Xã hội củaông Hollande. Theo giới phân tích, đó là dấu hiệu cho thấy tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp đã bị mất phương hướng, không còn có mối liên hệ ưu tiên với các tầng lớp bình dân.
  • TQ nói về hai phi công tử nạn (BBC) - Truyền thông Trung Quốc nói có hai phi công tử nạn nhưng không phải trong lúc đang diễn tập ở tàu Liêu Ninh.
  • Định chế Lạt Ma hóa thân ‘‘đã hết thời’’ (RFI) - Trả lời báo Đức, ngày 07/09/2014, lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, tuyên bốông muốn là nhà lãnh đạo tâm linh cuối cùng của định chế Lạt Ma hóa thân. Việc từ bỏ định chế Lạt Ma hóa thân có thể là một giải pháp cho phép Tây Tạng gia tăng dân chủ hóa và thoát khỏi ảnh hưởng của Bắc Kinh.
  • Hải quân Ukraina và NATO tập trận tại Hắc hải (RFI) - Năm thành viên Liên Minh Bắc Đại Tây Dương tham gia tập trận trên biển cùng với hải quân Ukraina từ ngày 8 đến 10/09/2014. Các bên huy động gần 2000 lính và 12 tàu chiến. Đây là một đợt thao diễn hàng năm trong chương trình« Đối tác vì hòa bình» của NATO.
  • Ukraina : Nhiều đụng độ tiếp diễn bất chấp thỏa thuận ngừng bắn (RFI) - Trong đêm qua tới sáng nay, 08/09/2014, xung quanh Marioupol, thành phố cảng miền Đông Nam Ukraina, đụng độ vẫn tiếp tục nổ ra. Cho đến nay, xung đột chưa đến mức bùng phát, tuy nhiên tình trạng này đe dọa khả năng thực thi thỏa thuận ngừng bắn, có hiệu lực từ chiều ngày 05/09/2014.
  • Nga dọa trừng phạt hàng không châu Âu (RFI) - Đáp trả các biện pháp trừng phạt mới của Liên Hiệp ChâuÂu, Thủ tướng Nga Dimitri Medvedev ngày 08/09/2014 dọa cấm các hãng hàng không phương Tây bay ngang không phận Nga, trong các chặng nối ChâuÂu và ChâuÁ.
  • Ukraine: Phiến quân thả 1200 tù binh (BBC) - Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko nói phiến quân thân Nga thả 1200 tù binh trong lúc EU nói các biện pháp trừng phạt mới sẽ được sớm đưa ra đối với Nga.
  • Âm mưu tiến hành khủng bố tại Paris ? (RFI) - Phải chăng Mehdi Nemmouche, thủ phạm vụ tấn công khủng bố trước Bảo tàng Do Thái, Bỉ từng dự định tấn công khủng bố Paris vào dịp lễ Quốc khánh 14/07 ? Thông tin này được tờ Libération số đề ngày 08/09/2014 loan tải.  Bộ Nội vụ và Viện công tố Paris phủ nhận hoàn toàn tin trên. 
  • Trung Quốc và Achentina đạt thỏa thuận trao đổi ngoại tệ (RFI) - Theo thông cáo do Ngân hàng Trung ương Achentina ngày hôm qua 07/09/2014, Buenos Aires và Bắc Kinh đã đạt được một thỏa thuận về trao đổi ngoại tệ. Như vậy, quốc gia Nam Mỹ có thể huy động đến 11 tỷ đô-la cho nguồn dự trữ ngoại tệ của mình trong trường hợp khẩn cấp.
  • Dịch Ebola : Liên Hiệp Châu Phi họp khẩn tìm biện pháp (RFI) - Ngày 08/09/2014, các thành viên Liên Hiệp Châu Phi họp khẩn cấp để xây dựng một chiến lược chung quy mô toàn châu lục để đối mặt với dịch bệnh. Ebola cho đến nay khiến hơn 2.000 người chết tại miền Tây Châu Phi. 
  • Trước bầu cử giữa kỳ, Tổng thống Mỹ hoãn giải quyết vấn đề người không giấy tờ (RFI) - Ngày 07/09/2014, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đột ngột quyết định hoãn các biện pháp liên quan đến việc hợp thức hóa hàng triệu người cư trú bất hợp pháp tại Mỹ, chủ yếu là những người gốc Nam Mỹ. Vì sao Tổng thống Hoa Kỳ lại trì hoãn việc giải quyết vấn đề nhập cư gây nhức nhối ? Quyết định này gây phản ứng nào trong chính giới và trong xã hội Hoa Kỳ trước kỳ bầu cử Quốc hội lưỡng viện quan trọng này ?
  • Tai tiếng dầu ăn giả tại Đài Loan, Hồng Kông lo ngại (RFI) - Vụ dầu ăn bị pha trộn tại Đài Loan làm Hồng Kông quan ngại. Hôm nay, 08/09/2014, chính quyền cựu thuộc địa Anh Quốc cho tiến hành lấy mẫu kiểm nghiệm các mẫu thực phẩm được bày bán trong các siêu thị nhằm xác định xem có sự hiện diện của dầu ăn giả bị pha trộn đến từ Đài Loan hay không.
  • Tổng thống Iran lại chỉ trích kiểm duyệt internet (RFI) - Ngày 07/09/2014, Tổng thống Iran Hassan Rohani, một lần nữa, phê phán việc kiểm duyệt internet. Ông cho rằng các phương pháp trấnáp này không có hiệu quả. Các chỉ trích của tổng thống Iran nhắm vào phe bảo thủ luôn luôn muốn tăng cường kiểm duyệt, đặc biệt là trên internet.
  • Quốc hội Mỹ trở lại làm việc (VOA) - Quốc hội Mỹ nhóm họp hôm nay. Hạ viện và Thượng viện phải thông qua một dự luật chuẩn chi trước cuối tháng này để chính phủ Hoa Kỳ có tiền hoạt động
  • Hoàng Gia Anh loan báo tin vui (VOA) - Hoàng Tử William của Anh và nữ Công tước Kate đang chờ đón thành viên nhỏ thứ hai ra đời vào năm tới
  • Trung Quốc lại lên giọng về biển Đông (BaoMoi) - Bắc Kinh lớn tiếng kêu gọi các nước không liên quan trực tiếp đến tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông “đừng can thiệp” và “gây thêm rắc rối”
  • Cồn Cỏ yêu thương mãi xứng đáng là đảo Anh hùng (BaoMoi) - Sáng thu qua, vào ngày rằm Tháng Tám (âm lịch), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến với Cồn Cỏ, đảo nhỏ hai lần anh hùng canh giữ biển Đông trước thềm ven biển Quảng Trị. Chiếc tàu của Bộ đội Biên phòng mang số hiệu BP 1901 cất mình vượt sóng. Chuyến đi này nằm trong khuôn khổ của nhiều chuyến kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế biển và an ninh quốc phòng.
  • Philippines muốn EU giúp đỡ trong tranh chấp biển đảo với Trung Quốc (BaoMoi) - (TNO) Tổng thống Philippines Benigno Aquino sẽ tìm kiếm sự giúp đỡ từ châu Âu nhằm giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc nhân chuyến thăm các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) kéo dài một tuần, bao gồm Pháp và Đức, Bộ Ngoại giao Philippines ngày 8.9 cho biết.
  • Khám phá những bãi biển đẹp ở Phú Yên (BaoMoi) - Phú Yên, như tên gọi, nằm hiền hòa, yên bình giữa khúc ruột miền Trung, phía Bắc giáp Bình Định, phía Nam là Khánh Hòa, ngó sang hướng Tây là Đăk Lăk và Gia Lai, phía Đông nhìn ra biển Đông. Phú Yên cuốn hút với vẻ đẹp hoang sơ của những bãi biển tĩnh lặng như chưa có dấu chân người qua, mê hoặc đến lạ thường.
  • Hội thi cứu hộ biển Quốc tế - Đà Nẵng 2014 (BaoMoi) - Với chủ đề “Ngày hội của những người canh giữ biển”, chiều 7-9.tại bãi biển trước Công viên Biển Đông (TP Đà Nẵng), Ban Quản lý bán đảo Sơn Trà và các bãi biển du lịch Đà Nẵng phối hợp với Surflife Shaving Vietnam tổ chức Hội thi Cứu hộ biển Quốc tế - Đà Nẵng năm 2014.
  • Đà Nẵng lần đầu tổ chức hội thi "Cứu hộ biển quốc tế" (BaoMoi) - Chiều 7/9, tại bãi biển trước Công viên Biển Đông, Ban Quản lý bán đảo Sơn Trà và các bãi biển du lịch Đà Nẵng phối hợp với Surf life shaving VietNam tổ chức hội thi Cứu hộ biển quốc tế Đà Nẵng - Danang International Lifeguard competition với chủ đề “Ngày hội của những người canh giữ biển”.
  • Bức tranh thực của thị trường là đâu? (BaoMoi) - (ĐTCK) Khoảng 400 quỹ đầu tư sẽ hội tụ tại TP. HCM trong ngày 11-12/9 để cùng nhiều DN lớn Việt Nam để tìm kiếm khả năng hợp tác trong sự kiện Gateway to Vietnam do CTCK Sài Gòn (SSI) tổ chức.
  • Ý đồ nguy hiểm trên biển Đông (BaoMoi) - Giới quan sát cảnh báo nhiều nước sẽ bị đe dọa về mặt chiến lược khi Trung Quốc tăng cường không lực phi pháp ở Trường Sa và Hoàng Sa.

Vương Trí Dũng - Putin và bài học cho Việt Nam

Không có nước Nga, chỉ có người Nga
Chúng ta không bình luận đến vấn đề đúng sai. Điều đó thuộc vào góc nhìn của từng người. Nhưng thông điệp đá tảng mà Putin gửi đến cho tất cả rất rõ ràng, không dấu giếm, và không hai nghĩa: Biên giới nước Nga mở rộng đến nơi nào có người Nga sinh sống.

Lời nói và hành động của Putin đã làm cho NATO phải thay đổi. Chẳng thế mà NATO đã phải vội vã nhóm họp để có những biện pháp thích nghi cần thiết. Riêng tổng thống Obama còn phải vội vã bay đến Estonia để trấn an các đồng minh Estonia, Latvia và Lituanie, là các quốc gia thuộc Liên Xô trước đây có nhiều người Nga sinh sống.

Bài học cho Việt Nam
Yêu hay ghét Putin, bênh vực hay phê phán Putin, đó không phải là chủ đề và đó không phải là quan trọng. Điều quan trọng là từ thông điệp và hành động của Putin, nhất thiết phải rút ra những bài học cho Việt Nam. 
Có thể cô đọng ở mấy điểm chính sau đây.
1. Dân tộc là tối thượng
Putin nói rằng: “Không có nước Nga, chỉ có người Nga”. Còn Obama thì tuyên bố: “ Chúng ta là khác biệt”. Phát biểu của hai người đứng đầu hai cường quốc thế giới đương thời đã nói lên tất cả.
Nhưng Mao Trạch Đông còn vượt xa cả Putin lẫn Obama về dân tộc chủ nghĩa. Từ tháng 10 – 1959 tại hội nghị Quân ủy Trung ương, Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”. Nước Mỹ chỉ mới hơn hai trăm năm. Nước Nga chưa đủ mười thế kỷ. Còn dân tộc chủ nghĩa của đế chế Trung Hoa thì đã tồn tại chí ít cũng hơn bốn ngàn năm.
Không có tình đồng chí đồng giai cấp đồng minh nào bằng tình máu mủ. Tình máu mủ đồng bào là sản phẩm của tạo hóa. Bởi vậy dân tộc là tối thượng.
2. Không để tồn tại các phố xá người Hoa
Nước Nga chỉ có một Crưm, một Donbas. Vì người Nga sống ở Crưm mà Putin đã lấy gọn Crưm về Nga. Vì người Nga sống ở Donbas mà Putin đã tách Donbas thành nước Nga mới. Chúng ta không đề cập đến lý do, không bàn đến đúng sai. Chúng ta chỉ nói đến sự kiện thực tế tồn tại.
Nhưng China Town thì hằng hà sa số. “Nạn Hoa kiều” đã là một trong những cớ để Đặng Tiểu Bình mang 60 vạn quân tiến đánh Việt Nam ngày 17-2-1979. Điều đáng sợ nhất là chính quyền Việt Nam hiện nay đang tạo nên cơ hội thuận lợi chưa bao giờ có cho sự phát triển các phố xá người Hoa tại Việt Nam. Dân tộc Nga và Ucraina có quan hệ cả ngàn năm chung sống, nhưng ở Ucraina người Nga chỉ sinh sống chủ yếu ở phía Đông Ucraina, còn phía Tây là người Ucraina. Còn ở Việt Nam hiện nay, người Hoa đã có mặt từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, khắp cả hang cùng ngõ hẻm.
Một “Nạn Hoa kiều” có thể tạo dựng ra bất cứ lúc nào. Lúc đó không như Crưm, không như Donbas ở Ucraina, khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều là Crưm, đều là Donbas. Cũng không cần đến “Nạn Hoa kiều”, khi Trung Quốc dấy binh thì khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều có nội ứng người Hoa.
Một số người cầm quyền ở trung ương và địa phương ngây thơ tin rằng, khi hết hạn hợp đồng là đưa được lao động Trung Quốc về nước. Họ không biết rằng người Trung Quốc đã kịp lấy vợ khi vừa đặt chân đến đất Việt Nam. Họ cũng không ngờ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc bí mật cho tiền những kẻ bất lương tội phạm ra nước ngoài sinh sống, một kiểu lưu đày trá hình trong thời đại tích hợp toàn cầu.
Hãy chặn đứng ngay việc đưa người Hoa sang Việt Nam buôn bán làm việc. Đừng mang họa về cho dân tộc.
3. Các cường quốc sẽ tránh đối đầu
Ngày 29-8-2014 trong cuộc gặp mặt với thanh niên ở hồ Seliger Putin nói: “ Nước Nga sẽ không can dự vào các đụng độ lớn… Và ơn Chúa, chắc cũng không có ai có ý định phát động một cuộc xung đột lớn với Nga. Nga là cường quốc hạt nhân hàng đầu. Đây là sự thật”.
Việc Mỹ và NATO không ủng hộ mạnh Ucraina trong vấn đề Đông Ucraina cũng chính là tránh đối đầu trực diện với Nga. Và có thể nhận thấy ngay rằng NATO sẽ không mặn mà với việc kết nạp Ucraina là thành viên NATO. Nga sẽ làm mọi biện pháp có thể để ngăn chặn điều này. Và như thế sẽ dẫn đến sự đối đầu trực diện giữa Nga và NATO. Kết quả là Ucraina sẽ hoàn toàn bị chia rẽ. NATO chỉ có thể giúp đỡ Ucraina bằng tiền bạc, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, và chuyên gia huấn luyện; nhưng sẽ không có quân đội NATO đến Ucraina để tham chiến chống lại Nga. Thảm họa hạt nhân và sức mạnh của vũ khí hủy diệt là lý do căn bản buộc các cường quốc phải né tránh đối đầu.
Các cường quốc cũng sẽ không vì các quốc gia khác mà đi đến đối đầu. Không chỉ không phát động xung đột, ngay cả khi bị ràng buộc bởi một cam kết liên minh quân sự, các cường quốc cũng phải tìm cách không cho leo thang, giảm dần căng thẳng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đụng độ. Khi xẩy ra chiến tranh, các nước nhỏ sẽ phải tự chiến đấu bằng chính con người của nước mình.
Bởi vậy ngoài liên minh ra, nhất thiết phải xây dựng được một Việt Nam giàu mạnh tự cường.

4. Việt Nam phải đối mặt với đế quốc Đại Hán còn đáng sợ nhiều lần hơn các đế chế khác
Sự phản ứng của nước Nga cũng là điều tự nhiên. NATO đã tiến sát đến sườn nước Nga. Không chỉ thế, phương Tây bắt đầu chọc vào da thịt người Nga khi động đến Ucraina, một trong ba bộ tộc Slavo gần gũi nhất: Nga, Bạch Nga và Ucraina.
Nước Nga quẫy mạnh vì bị đâm vào sườn. Còn đế chế Đại Hán từ mấy ngàn năm luôn mang gươm đi xâm chiếm nước khác mà không cần bất cứ lý do nào. Số phận đã buộc Việt Nam phải sống cạnh một đế chế ngang ngược đáng sợ nhất trong lịch sự phát triển nhân loại.
5. Hãy hành động cương quyết vì quyền lợi dân tộc
Thống kê xã hội cho thấy Putin đang có uy tín cao trong nhân dân Nga. Tại sao vậy? Đơn giản là Putin đang làm sống lại một đế chế Nga. Điều mà nhiều người Nga rất mong mỏi.
Nhiều người Hoa cũng sẽ rất phấn khích khi lãnh đạo Trung Quốc tiến hành một chính sách bá quyền. Nếu lãnh đạo Trung Quốc làm cho đế chế Đại Hán bành trướng lớn mạnh, thì họ sẽ được nhiều người Hoa ủng hộ, bất chấp các biện pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành.
Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi liên quan đến dân tộc thì phải suy nghĩ kỹ nhưng lại phải hành động kịp thời và rất cương quyết, không do dự, không nhu nhược, không đớn hèn. Sức mạnh dân tộc sẽ truyền vào người ra quyết định, hợp thành một sức mạnh nối dài vô địch.
Putin thì rất cương quyết rất tiến công. Còn lãnh đạo Việt Nam thì ngược lại. Vai trò lãnh tụ rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Chừng nào Việt Nam chưa có phương thức dân chủ thực sự để chọn ra được những người lãnh đạo xứng đáng thì chừng đó số phận dân tộc còn long đong.
Bài học từ Putin dễ thấy nhưng lại khó học.
Vương Trí Dũng
(Boxitevn)

Thu chi của Đảng CSVN là 'tuyệt mật'


Tài liệu về dự trữ ngân sách và các khoản thu, chi đặc biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam được chính thức nhắc lại là thể loại văn bản thuộc hàng 'tuyệt mật', hoặc 'tối mật', theo một tờ báo từ TP HCM.

Trang 'Một Thế Giới' vừa công bố danh sách được Thủ tướng Chính phủ tại Việt Nam quy định về nhiều tài liệu liên quan đến hoạt động của Ban Kinh tế Trung ương Đảng.
Căn cứ vào quyết định do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký hôm 4/9 vừa qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 10 năm nay, các tài liệu thực hiện nhiệm vụ quốc tế về công tác tài chính đối với các Đảng, các tổ chức chính trị nước ngoài có quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thuộc diện bí mật.

Trang web 'Bấm Một Thế Giới' cũng chụp lại hình họ nói là quyết định vừa ký của Thủ tướng Việt Nam.

Ngoài ra, hạng mục 'tuyệt mật' này còn gồm cả các tài liệu, sổ công tác, thiết bị lưu giữ thông tin (gồm USB, thẻ nhớ, ổ cứng) chứa thông tin có nội dung thuộc độ Tuyệt mật của cơ quan Ban Kinh tế Trung ương.
Bí mật hay công khai?

Trong phần dẫn nhập vào quyết định mới nhất của chính phủ Việt Nam có nhắc đến cơ sở pháp lý của văn bản là 'Luật Tổ chức Chính phủ 25/12/2000' và Pháp Lệnh Bảo vệ Bí mật Nhà nước 28/12/2000' và một số văn bản pháp quy khác.

Quyết định tăng cường bảo mật đến từ đề nghị của Trưởng Ban Kinh tế Trung ương ̣(phải)

Tuy nhiên, quyết định của Việt Nam chỉ nhấn mạnh đến nhu cầu bảo mật của nhà nước và cho hay việc ra quyết định này đến từ đề nghị của Trưởng Ban Kinh tế Trung ương và Bộ trưởng Bộ Công an.

Được biết hồi đầu năm nay, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Lý Khắc Cường cũng ký một quyết định tương tự.

Nhưng theo tờ Bấm China Daily hồi tháng 2/2014, ông Lý nói nhu cầu của việc ra quy định mới về bảo mật là "nhằm tăng cường tính minh bạch của chính phủ".

Trung Quốc muốn chấn chỉnh việc áp dụng khá thoải mái dấu 'mật' hoặc xếp hạng 'bí mật quốc gia' cho rất nhiều thông tin các cơ quan nhà nước nắm giữ.

Các cơ quan nhà nước được chính phủ yêu cầu những gì cần công bố cho dư luận biết thì không được dán nhãn 'bí mật quốc gia'.
Ngoài ra họ cũng quy định rõ thời hiệu áp dụng chế độ bảo mật cho văn bản và chia cả thành các cấp độ bảo mật khác nhau.
Văn bản này của Trung Quốc có hiệu lực từ 1/3/2014.
(BBC)

Bộ trưởng công an Trần Đại Quang : 'Thần đồng' 16 tuổi hay đại tướng khai man lý lịch ?

"...Sự việc trên một lần nữa cho thấy rằng, giới chóp bu cộng sản sở dĩ vẫn có thể duy trì quyền lực chủ yếu dựa vào tuyên truyền và dối trá. Chỉ có sự thật mới đủ sức triệt tiêu và làm suy yếu quyền lực của chóp bu cộng sản. Vũ khí của những người dân Chúng Ta chính là Sự Thật. Để có được Sự Thật, Chúng Ta vẫn phải liên tục nỗ lực và đấu tranh đòi hỏi quyền được biết..."

Nhiều ý kiến trên mạng xã hội tiếp tục tỏ ra nghi vấn xung quanh bản tiểu sử đăng trên trang web Cổng thông tin điện tử Chính Phủ của bộ trưởng công an Trần Đại Quang, người được xem là trẻ tuổi nhất trong bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo nội dung bản tóm tắt tiểu sử, ông Quang sinh ngày 12/10/1956 tại Ninh Bình, trở thành học viên trường Cảnh sát Nhân dân vào tháng 7 năm 1972, tức khi mới 15 tuổi 9 tháng (!?).

Chưa hết, chỉ ngay sau đó 3 tháng, vào tháng 10 năm 1972, ‘thần đồng’ Trần Đại Quang tiếp tục vào học trường Văn hóa Ngoại ngữ Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) khi vừa tròn 16 tuổi.

Sau khi nghi vấn trên được phổ biến, nhiều thuộc cấp của vị bộ trưởng công an giải thích là vì ông Quang học chương trình giáo dục hệ 10 năm tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc ông này vào học trường cảnh sát khi mới 15 tuổi 9 tháng cũng là… bình thường (!?).

trandaiquang03
Tiểu sử Bộ trưởng công an Trần Đại Quang trên trang web Cổng thông tin điện tử Chính Phủ

Dù vậy, dựa trên các bằng chứng được gửi đến Danlambao, việc ông đại tướng Trần Đại Quang vào học trường cảnh sát khi chưa đầy 16 tuổi là hoàn toàn bịa đặt.

Ủy viên bộ chính trị Trần Đại Quang sinh năm 1950, chứ không phải là năm 1956 như được ghi trong bản tiểu sử lừa đảo. Tức là vào học trường cảnh sát năm 22 tuổi.

Như vậy, mục đích thật sự của việc ‘cải lão hoàn đồng’ này là gì?

Ủy viên trẻ tuổi nhất trong Bộ Chính trị cộng sản Việt Nam?

Trước Đại hội đảng lần thứ 11 vào năm 2011, khí ấy ông Quang là thứ trưởng bộ công an, ngấp nghé bước sang tuổi 61. 

Ở đội tuổi này đáng lẽ phải về hưu, nhưng ông Quang đã cố tình gian lận hồ sơ, biến năm sinh từ 1950 trở thành 1956. Tức ‘cải lão hoàn đồng’ so với tuổi thật là 6 tuổi.

trandaiquang04
Văn bản xác nhận gian lận hồ sơ cho ông Trần Đại Quang được đích thân chủ tịch tỉnh Ninh Bình khi ấy là ông Đinh Văn Hùng ký. 

Nhờ ngón đòn phù phép này mà hiện nay ông Trần Đại Quang đã trở thành ủy viên trẻ nhất trong bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam.

Về mặt lý thuyết, đến đại hội đảng lần thứ 12 vào năm 2016 sắp tới, ông Quang vẫn đủ tuổi ngồi lại trong bộ chính trị bằng việc gian lận tuổi.

Đại tướng Trần Đại Quang - con tin của gian trá

Tuy nhiên, dù quyền lực đến đâu chăng nữa thì bộ trưởng bộ công an Trần Đại Quang không thể che giấu được sự thật. 

Một bằng chứng không thể chối cãi là tất cả những văn bằng tốt nghiệp đại học của ông Quang đều ghi rõ năm sinh là 1950 :

trandaiquang05
 
trandaiquang06
trandaiquang07
Từ bằng tại chức luật cho đến cao cấp lý luận Mác-Lênin
của ông Quang ghi rõ năm sinh 1950

Trong sách vở của đảng cộng sản đều ghi rõ bộ trưởng công an Trần Đại Quang là ‘tiến sỹ luật’ và có học giàm ‘giáo sư’. Nếu phủ nhận những văn bằng trên thì hóa ra ông Quang đã dùng bằng giả?

Sự dối trá bỗng chốc trở thành con dao hai lưỡi, đại tướng Trần Đại Quang vì thế cũng trở thành con tin bởi sự gian trá của chính mình.

Sự việc trên một lần nữa cho thấy rằng, giới chóp bu cộng sản sở dĩ vẫn có thể duy trì quyền lực chủ yếu dựa vào tuyên truyền và dối trá. Chỉ có sự thật mới đủ sức triệt tiêu và làm suy yếu quyền lực của chóp bu cộng sản.

Vũ khí của những người dân Chúng Ta chính là Sự Thật. Để có được Sự Thật, Chúng Ta vẫn phải liên tục nỗ lực và đấu tranh đòi hỏi quyền được biết.

Đó cũng là lý do mà bản thân tôi rất ủng hộ phong trào "Chúng Tôi Muốn Biết"do Mạng Lưới Blogger Việt Nam phát động. 
Hoàng Trần
(Thông luận)

“Tung hê” nhà đất quan chức: Chống tham nhũng hay còn gì khác?

(VNTB) - Có phải ngẫu nhiên mà thời gian qua nổ ra hàng loạt vụ tài sản khủng của nguyên tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền và đương kim chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Lê Thanh Cung?


Tòa dinh thự nguy nga và bề thế của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Lê Thanh Cung. - Ảnh: Vietnamnet
Cách đây không lâu, một quan chức đương nhiệm là ông Ngô Văn Khánh, Phó tổng thanh tra chính phủ, cũng bị báo chí “lật ngửa” khi tung hê khối tài sản khổng lồ.

Dư luận hoàn toàn có lý khi đặt câu hỏi: vì sao những năm trước các vụ việc trên không “xì” ra, mà chỉ đến nay mới ‘lật bài”? Liệu có phải một cuộc chiến chống tham nhũng mới được đảng phát động, hay còn ẩn chứa nguyên cớ nào khác?

“Ê kíp” nào?

Những năm trước, đã có một số lần dư luận và báo chí phát hiện ra những quan chức có nhà đất kếch xù. Tuy nhiên theo thói quen của một nền báo chí bị đội vòng kim cô, bài viết điều tra và ngay cả những bài xã luận chung chung trên báo chí đều vấp phải bức tường ngăn chặn từ Ban tuyên giáo trung ương và cơ quan tuyên giáo địa phương. Không ít bài đã bị thẳng tay bóc gỡ. Công cuộc chống tham nhũng và sứ mệnh “kê khai tài sản cán bộ” cũng vì thế đã trở nên không tưởng, ít nhất từ khoảng năm 2003, khi bắt đầu chính sách kê khai tài sản, cho đến gần đây. Trì trệ này đã trở thành căn bệnh mãn tính, cho dù hàng năm Ban tổ chức trung ương và Bộ nội vụ đều nhắc đi nhắc lại chủ trương”.

Cũng không thể không xem xét về một khía cạnh mà dư luận đang hoài nghi: chỉ còn chưa đầy hai chục tháng nữa, theo lộ trình “kiện toàn nhân sự”, đại hội lần thứ 12 của đảng cầm quyền sẽ diễn ra. Thời gian rõ ràng là không còn nhiều, hay nói cách khác là những ai muốn “tranh cử” đều đang nằm trong trạng thái “chạy nước rút”. Ở một chiều cạnh khác, những nhân sự nào “dính chàm”, dù khởi phát từ công cuộc chống tham nhũng hay đấu đá bè phái, đều rơi vào nguy cơ bị “thanh trừng”. Đó là một sự thật không thể chối bỏ, xét từ phép biện chứng lịch sử trong đảng từ quá nhiều năm qua.

Cần lưu ý, cả ba vị Ngô Văn Khánh, Trần Văn Truyền và Lê Thanh Cung đều là quan chức thuộc khối chính quyền, xếp theo thứ bậc hành chính từ cấp trung ương xuống địa phương.

Cả ba vị quan chức trên lại đều quá khó để giải trình về nguồn gốc khối tàn sản cá nhân tích lũy được. Trong khi đó, hình dung đơn giản nhất của dư luận là trước khi đời con khát nước, đời cha phải ăn mặn. Vô số minh họa phất lên đột biến của giới quan chức hành chính Việt Nam đã quá đủ để mô tả về bộ mặt “của dân, do dân và vì dân” là như thế nào.

Thế nhưng câu hỏi tiếp theo là vì sao chỉ có những quan chức chính quyền bị “lộ”, còn quan chức thuộc khối đảng vẫn “an toàn”?

Báo chí, cả nhà nước lẫn “lề trái”, cũng quá nhiều lần đặt câu hỏi là nếu đảng cầm quyền không minh bạch và tự nghiêm khắc đối với chính mình thì làm sao có thể “răn dạy” được đảng viên dưới quyền.
Thế nhưng, thực tế không thể phủ nhận là đã hơn mười năm trôi qua, việc minh bạch hóa tài sản quan chức vẫn chỉ có ý nghĩa như bong bóng xà phòng. Không có bất kỳ một động tác thực chất nào khiến cho giới quan chức “ăn của dân không thiếu thứ gì” (lời bà Nguyễn Thị Doan – Phó chủ tịch nước) đủ run rẩy.

Chỉ đến giờ đây, khi bầu không khí của đại hội 12 đang nóng dần, và ngay trước mắt là một kỳ họp trung ương mà sẽ hứa hẹn không kém hấp dẫn so với thời điểm cách đây hai năm, câu chuyện về “tài sản khủng” mới một lần nữa được “minh bạch”.

Sâu xa hơn, dư luận có thể hiểu những quan chức như ông Ngô Văn Khánh, Trần Văn Truyền hay Lê Thanh Cung là thuộc “ê kíp” nào?
Phạm Chí Dũng
(Việt nam Thời báo)

Trần Vinh Dự - Mờ nhạt Aung San Suu Kyi?

Bà Aung San Suu Kyi được tự do vào tháng 11 năm 2010.
Bà Aung San Suu Kyi được tự do vào tháng 11 năm 2010.

Là khôi nguyên của giải Nobel Hòa bình năm 1991, và là người đã trải qua 15 năm giam lỏng tại gia vì nỗ lực tranh đấu cho một Miến Điện dân chủ, Aung San Suu Kyi trở thành một trong số rất ít các lãnh tụ tinh thần của thế giới hiện đại được cộng đồng quốc tế nể trọng và được người Miến Điện ưu ái gọi bằng cái tên “The Lady”. Những năm gần đây, với sự cải tổ về chính trị ở Miến Điện, Aung San Suu Kyi đã được tự do vào tháng 11 năm 2010 và được bầu làm nghị sĩ Miến Điện vào tháng 5, 2012.

Ngay sau đó, vào tháng 6 năm 2012, Suu Kyi công bố trên website của Diễn đàn Kinh tế Thế giới rằng bà muốn tranh cử tổng thống Miến Điện vào năm 2015. Việc tranh cử của bà sẽ phụ thuộc vào việc hiến pháp Miến Điện có thay đổi được hay không. Với hiến pháp hiện nay, bà không thể tham gia tranh cử vì hiến pháp này quy định những người có con cái mang quốc tịch nước ngoài không thể trở thành tổng thống của đất nước này. Mặc dù tổng thống đương nhiệm, ông Thein Sein, được cho là ủng hộ việc sửa đổi hiến pháp để tạo hành lang pháp lý cho Suu Kyi tranh cử tổng thống, cho đến nay hiến pháp này vẫn chưa được sửa đổi.

Vấn đề là từ khi được tự do, đặc biệt là từ khi trở thành nghị sĩ, Aung San Suu Kyi ít nhiều gây thất vọng với một số người vốn ủng hộ bà. Trong một bài phân tích thú vị vào tháng 6, 2014 trên CNN, ký giả Tim Hume phân tích lý do tại sao The Lady lại đánh mất sự ủng hộ của một số người. Theo Tim Hume, vấn đề chính nằm ở chỗ với tư cách là một chính trị gia trong một Miến Điện đang chuyển đổi, Suu Kyi trở nên im lặng trước nhiều vấn đề nhức nhối về nhân quyền, thí dụ liên quan đến chuyện xung đột sắc tộc và tàn sát cộng đồng thiểu số hồi giáo Rohingya tại đất nước này.

Time Hume dẫn lời David Mathieson, chuyên gia nghiên cứu cao cấp của tổ chức Human Rights Watch, cho rằng “Tôi nghĩ mọi người đều đồng ý rằng bà đã trở thành một nỗi thất vọng trên khía cạnh thúc đẩy quyền con người”. Kenneth Roth, giám đốc của tổ chức này cũng bình luận rằng “thế giới rõ ràng đã lầm lẫn khi giả định rằng với tư cách là một nạn nhân đáng kính của các vi phạm nhân quyền, bà cũng phải là một người bảo vệ các quyền con người”.

Vấn đề có lẽ nằm ở chỗ vai trò của Suu Kyi, với tư cách là một người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, một nhà bất đồng chính kiến, khác với vai trò mới của bà, trên cương vị là một chính trị gia, một candidate tiềm năng của chức vụ tổng thống Miến Điện.

Với tư cách là một nhà bất đồng chính kiến, một người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, Suu Kyi có thể nói nhiều về các ý tưởng lãng mạn của cuộc tranh đấu. Với tư cách là một chính trị gia, bà phải chọn lựa và có những quyết định chính trị chắc chắn không thể làm hài lòng tất cả mọi người.

Dẫu sao, Suu Kyi vẫn chưa trở thành tổng thống. Nếu như sau cuộc bầu cử 2015, bà trở thành tổng thống, thì vai trò của bà còn trở nên khó khăn hơn. Các ý tưởng lãng mạn của cuộc tranh đấu sẽ không còn, và thay vào đó là các quyết định chính trị khó khăn của người đứng đầu đất nước. Khi đó, có thể hào quang của The Lady thậm chí còn trở nên mờ nhạt hơn cả bây giờ.

Điều này làm người ta nhớ đến đương kim Tổng thống Obama của Mỹ. Trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch ốc năm 2008, ông xây dựng hình tượng của mình với tư cách là một nhà cải cách với khẩu hiệu “Change We Need” nổi tiếng. Với hình tượng này, ông đã chiến thắng giòn giã trước đối thủ John McCain của đảng Cộng hòa là người được coi là bảo thủ hơn. Hào quang của Obama sau đó đã ít nhiều bị mai một, và gần đây tỷ lệ người Mỹ ủng hộ ông giảm mạnh, thậm chí một cuộc khảo sát của Quinnipiac University công bố hồi giữa năm còn cho thấy Obama được những người tham gia khảo sát đánh giá là tổng thống tệ nhất của Mỹ kể từ Thế chiến 2.

Điều này không hẳn có nghĩa Obama hay Suu Kyi là một chính trị gia không xuất sắc. Tuy nhiên, nó cho thấy thách thức và áp lực ghê gớm của những chính trị gia được công chúng kỳ vọng quá lớn trong giai đoạn đầu trước khi lên nắm quyền.
 Trần Vinh Dự
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)

Nguyễn Thị Từ Huy - Giữ cái gì ?…

Nguyễn Thị Từ Huy
Khi tìm hiểu về một số nhân vật đã thành công trong việc giúp cho dân tộc của họ thoát khỏi sự thống trị của chế độ phân biệt chủng tộc, chế độ độc tài hay toàn trị, tôi rút ra nhận xét sau đây:

Nelson Madela, Václav Havel, Aung San Suu Kyi… đều là những người rất quyết liệt, rõ ràng trong tư tưởng và hành động, đi tận cùng lý tưởng của mình, chấp nhận tù đày, hy sinh chứ không chịu thỏa hiệp ; giữa phát ngôn và hành động rất thống nhất, họ nói điều họ nghĩ, và làm điều họ nói. Thậm chí họ có thể bước thẳng tới họng súng không một chút chần chừ.

Họ không có một trường đại học nào, một viện nghiên cứu nào, một tờ báo nào, một công ty nào… cần phải giữ cho bằng được, mà để giữ được thì phải hợp tác (hợp tác cũng có nghĩa là phải nhượng bộ) nên hệ quả là (dù muốn hay không) phải làm thành một phần của chính quyền. (Nói đúng ra thì Havel từng tham gia điều hành một tờ tạp chí văn học, nhưng ông ấy thà để cho nó bị bóp chết chứ không chịu thỏa hiệp với Hội nhà văn Tiệp Khắc, bởi ông hiểu rằng để giữ cho tờ tạp chí được sống thì tự do phải chết, sự thật phải chết). Không. Những người đó chẳng có gì để giữ cho riêng mình, nên đã không hề thỏa hiệp với chính quyền ; nên họ có thể cứng rắn, kiên định và cống hiến trọn vẹn cho toàn bộ dân tộc của họ, vì thế có thể làm thay đổi số phận dân tộc của họ.

Mặt khác, phải thấy rằng họ thành công vì được rất nhiều người ủng hộ, rất nhiều người trong xã hội đấu tranh cùng họ và hy sinh cùng họ.

Ta thử làm một giả định : nếu họ ở Việt Nam thì sẽ thế nào ? Căn cứ vào thực tế hiện nay thì có thể thấy họ sẽ bị đa số trí thức và người dân coi là quá cực đoan. Và viễn cảnh dễ nhận thấy là người ta sẽ không ủng hộ họ và không hợp tác với họ. Chẳng hạn, nếu Aung San Suu Kyi là người Việt Nam, và hoạt động chính trị ở Việt Nam, bà sẽ khó mà nhận được sự ủng hộ của đa số trí thức và dân chúng như là bà đã nhận được ở Miến Điện. Sẽ không có cảnh một đoàn giáo sư và sinh viên đại học đến tìm bà để đề nghị bà ở lại hoạt động cho đất nước, có nghĩa là họ sẽ cùng đấu tranh với bà và chấp nhận hy sinh cùng bà. Điều tương tự không thể xảy ra ở Việt Nam, tại thời điểm này. Trái lại, hầu hết giảng viên đại học Việt Nam sẽ khuyên bà nên trở về Anh mà sống yên vui với chồng con, họ sẽ khuyên bà « đi đi », « đừng ở lại », vì « Hà Nội không vội được đâu », vì « cái nước mình nó thế », phải từ từ thôi (dẫu đã từ từ gần một thế kỷ nay rồi nhưng vẫn phải từ từ) và cuối cùng là vì bà quá cực đoan, không chịu thỏa hiệp nên không làm được gì đâu (!!!).

Vậy đó, lý do khiến cho các lãnh tụ dân chủ được nêu trên đây và dân tộc họ thành công trong việc thoát khỏi vòng nô lệ của các chế độ độc tài hay toàn trị lại trở thành lý do khiến họ sẽ không được đa số dân chúng ở Việt Nam ủng hộ, nếu họ hoạt động ở Việt Nam.

Đấy cũng là lý do khiến cho các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam không được (hay chưa được) đa số những người làm công việc trí thức và đa số dân chúng (tôi phải nhắc lại từ « đa số » này) ủng hộ. Việt Nam không thiếu những người quyết liệt, dám hy sinh, có thể nêu một vài cái tên làm ví dụ như Trần Độ, Trần Xuân Bách ; những người bị tù đầy như Nguyễn Đan Quế, Lê Công Định... Nhưng họ bị cô lập bởi những người xung quanh, bị tẩy chay, bị « bỏ rơi ». Và để khỏi phải áy náy thì người ta cho rằng đấy là lỗi của họ, rằng « họ quá cực đoan », vì thế lảng tránh họ chẳng có gì là xấu. Thậm chí một người chỉ bộc lộ chính kiến một cách ôn hòa bằng cách viết một số bài ít nhiều mang tính chỉ trích còn bị xem là cực đoan thì thử hỏi làm sao những người quyết liệt đến mức hy sinh tất cả mọi thứ như các nhà bất đồng chính kiến từng tù tội lại không bị xem là quá cực đoan ?

Ý nghĩa của từ « cực đoan » này dĩ nhiên cũng cần được phân định một cách rõ ràng, ở đây chỉ nêu lên một khía cạnh : khi mà sự quyết liệt, sự lựa chọn rõ ràng, ý chí sống trong sự thật (các phẩm chất cần có của thái độ dân chủ, và của những người đấu tranh cho dân chủ) bị xem là cực đoan, thì cũng có nghĩa là các phẩm chất ưu tú bị nhìn như là nhược điểm. Nếu « cực đoan » là nhược điểm, thì có nghĩa là « không cực đoan » mới là ưu điểm. Lập luận sẽ là : « chúng tôi không xấu, mà chúng tôi không cực đoan thôi, vì thế chúng tôi mới tồn tại được trong xã hội này. Vì các ông/bà cực đoan nên các ông bà mới phải vào tù, các ông/bà mới bị đối xử bất công, vậy các ông/bà phải tự chịu lấy một mình, không trách chúng tôi được ». Với lập luận này thì lương tâm có thể dễ dàng ngủ yên, để mặc cho cái xấu hoành hành và cái tốt bị vùi dập.

Václav Havel ra tù rồi lên làm tổng thống, Nelson Madela ra tù cũng lên làm tổng thống, Aung San Suu Kyi sau khi được tự do cũng tham gia vào chính phủ. Trước đây ở Việt Nam những người cách mạng vào tù, khi ra tù họ trở thành anh hùng. Còn các nhà bất đồng chính kiến tại Việt Nam hiện nay sau khi ra tù thì trong con mắt của đa số trí thức và dân chúng, họ vẫn là tội phạm, chỉ bởi nhà nước coi họ là tội phạm. Vì thế nên không những không ủng hộ họ mà đa số người dân còn lảng tránh họ, và không có tổ chức nào dám nhận họ vào làm việc như một người bình thường. Có nghĩa là những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam, khi ra tù, không còn có khả năng tập hợp và ảnh hưởng tới công chúng nữa. Cũng có nghĩa là họ bị vô hiệu hóa về phương diện hoạt động xã hội. Tại thời điểm hiện tại này, không một người bất đồng chính kiến nào có thể mơ tưởng một vị thế như Havel từng có, hay Aung San Suu Kyi đang có. Một vị thế như vậy chỉ có thể có được khi phần lớn dân chúng trong xã hội ủng hộ họ, hy sinh cùng họ, và đi cùng con đường với họ. (Dĩ nhiên, cũng có những lý do thuộc về chủ quan của những người bất đồng chính kiến, nhưng vấn đề này cần được mổ xẻ vào lúc khác.)

Bi kịch của những người bất đồng chính kiến Việt Nam cũng chính là bi kịch của cả đất nước. Bởi nếu họ không được số đông ủng hộ, thì cũng sẽ không có ngày đất nước thoát khỏi vòng kìm kẹp của hệ thống toàn trị, cũng có nghĩa là không thể phát triển được, và nếu không phát triển được thì nguy cơ mất nước sẽ trở thành hiện thực mất nước.

Trong bài này, tôi đưa ra một nguyên nhân để lý giải cho hiện tượng vừa nêu ở trên (trong khi luôn ý thức được rằng có nhiều nguyên nhân khác nữa) : các nhà bất đồng chính kiến không/chưa được ủng hộ rộng rãi, lý tưởng tự do dân chủ không/chưa được ủng hộ rộng rãi ở Việt Nam, vì người ta ai cũng còn những thứ « phải giữ ».

Hiện nay, đa số mọi người lập luận rằng, tôi còn việc nọ hay việc kia phải làm (phải điều hành một cơ quan, một tổ chức…), tôi còn cái ghế giáo sư phải giữ, tôi còn cái chức trưởng khoa phải giữ, tôi còn cái chức hiệu trưởng hay viện trưởng phải giữ, con tôi còn có một công ty, cháu tôi có một nhà máy…, nên tôi phải thỏa hiệp, phải chấp nhận mọi thứ tệ nạn, nên tôi chưa thể ra khỏi đảng, tôi chưa thể nào tham gia cùng các bạn (chống Tàu, các hoạt động ngăn chặn các tệ nạn xã hội, ngăn chặn các chính sách sai lầm của chính phủ, bảo vệ nhân quyền, bảo vệ công lý, phát triển đất nước…). Nếu ai cũng có cái gì đó để giữ, và ai cũng không thể làm gì được, vậy thì ai sẽ làm đây ?

Vậy đó, hầu như rất ít người chấp nhận hy sinh chút ít quyền lợi cá nhân để làm những việc vì quyền lợi chung của cộng đồng. Có những người như vậy, nhưng hiện đang rất ít.

Trái lại, có một bộ phận không nhỏ những người hiểu biết, có một chút lương tâm, khi nhìn thấy những nguy cơ tồi tệ của xã hội hiện tại, muốn làm việc gì đó để ngăn chặn những nguy cơ đó. Nhưng vì họ luôn có cái gì để giữ cho họ, nên họ chỉ lựa chọn những giải pháp an toàn, những giải pháp cho phép họ bộc lộ một thái độ, nhưng không làm ảnh hưởng đến thứ mà họ đang có. Đó là phát biểu vài lời trong các hội nghị, hội thảo, tọa đàm mà nội dung của chúng chẳng có cách nào đi vào thực tiễn của cuộc sống ; hoặc viết thư ngỏ, kiến nghị. Điều đó giải thích sự bùng nổ của các kiến nghị, tuyên bố, kêu gọi… mấy năm gần đây. Nhưng các hình thức đó chưa bao giờ có hiệu quả, chưa bao giờ đạt được một kết quả cụ thể nào. Và căn cứ vào tình trạng hiện nay thì hình thức đó sẽ chẳng có hiệu quả. Dù bản thân tôi cũng thường tham gia ký kiến nghị, nhưng tôi phải thừa nhận sự thật đó, sự thật thì phải thừa nhận thôi. Ai viết kiến nghị thì cứ viết, còn ai làm thì cứ làm, chẳng thèm đếm xỉa đến kiến nghị, tuyên bố hay tuyên cáo, tất cả đều bị xếp xó hết.

Không có hiệu quả, bởi vì, nếu như vào một thời điểm nhất định nào đó, viết và ký kiến nghị có thể xem là một hành động, có tác động thức tỉnh và nâng cao nhận thức của một bộ phận người dân, thì lúc này, viết và ký kiến nghị, tuyên bố... không còn là một hành động nữa, vì tính chất vô hiệu quả của nó. Như tất cả mọi người đều thấy, gộp tất cả các kiến nghị từ trước tới giờ cũng không thể nào có được tác động, cả đối với chính quyền lẫn đối với dân chúng, bằng một chuyến đi xe máy của chị Bùi Thị Minh Hằng, hay sự ra đời của Văn đoàn độc lập hoặc Hội nhà báo độc lập. Dĩ nhiên, nói như vậy thì hơi quá cực đoan, nhưng quả thực, kiến nghị giờ đây chỉ còn có tác dụng an thần đối với người viết và người ký mà thôi, khiến cho họ cảm thấy là họ cũng đang làm việc gì đó. Nhưng đã đến lúc phải thấy rằng giờ đây ký kiến nghị nghĩa là không làm gì cả, chẳng có cái giá nào phải trả và cũng không còn âm vang nữa, chẳng có bao nhiêu tác động. Trái lại, sau kiến nghị, sự việc còn có thể trở nên trầm trọng hơn, tồi tệ hơn. (Xin đọc loạt bài « Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt? » và « Hiến pháp vi hiến » của Hoàng Xuân Phú để thấy được chính quyền đã thể hiện cho các công dân viết và ký kiến nghị về hiến pháp -trong đó có tôi- thấy rằng quyền lực của chính quyền mạnh như thế nào và thấy được sự khinh bỉ của chính quyền dành cho họ như thế nào.)

Nếu muốn thay đổi nhận thức dân chúng, thì những người viết kiến nghị có thể viết các bài phân tích thấu đáo cho dân chúng hiểu, và đối tượng hướng tới là dân chúng. Còn với chính quyền, phải có phương thức khác (dứt khoát hơn, rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn), nếu muốn có hiệu quả. Nhưng có vẻ như những người chủ trương kiến nghị chưa sẵn sàng cho những phương thức hành động khác, phải chăng là bởi chính họ cũng còn những thứ « phải giữ ».

Vấn đề là ở chỗ: nếu ngay cả những người hiểu biết, tạm cho là có ý thức trách nhiệm, còn không thể từ bỏ vài quyền lợi nhỏ mọn mà mình đang có (và để có được những quyền lợi đó phải chấp nhận nhập nhèm, thiếu minh bạch trong công việc, tiếp tay cho bộ máy tham nhũng, và nhìn chung là chọn thái độ thỏa hiệp với mọi tệ nạn trong cuộc sống, chấp nhận mọi quyết định sai trái của chính quyền), thì hỏi làm sao mà các lãnh đạo hiện hành, nhờ sự đảm bảo của đảng độc tài nên được ngồi trên núi vàng, chi phối và hưởng lợi từ toàn bộ lợi ích khổng lồ của quốc gia, lại có thể từ bỏ vị trí của họ, từ bỏ đảng của họ được ?

Đó là một logic thống nhất từ trên xuống dưới hiện nay.
(Còn tiếp)
Paris, 3/9/2014
Nguyễn Thị Từ Huy
   (RFA)

Tô Văn Trường - Lời nguyền

Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam bộ, nhã nhạc cung đình Huế vv…của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể  đại diện cho nhân loại thì trong tài nguyên, lời nguyền sâu cay nhất lại  là tài nguyên phi vật thể!

Không chỉ riêng lục địa châu Phi giầu tài nguyên khoáng sản nhưng vẫn đói nghèo, dịch bệnh, chiến tranh triền miên mà ngay cả Hà Lan là nước giầu khoáng sản, mặc dù là quốc gia phát triển nhưng đã phải trả bài học đắt giá vì đã không duy trì được vị trí đứng đầu thế giới về phát triển công nghệ điện tử, chỉ vì ỷ lại quá nhiều vào dầu ở biển Bắc (hiện thua xa Nhật Bản  và Hàn Quốc ). Cái gọi là "căn bệnh Hà Lan" ngày xưa cũng chính là "lời nguyền của tài nguyên khóang sản" ngày nay.

Theo sách giáo khoa từ thập niên 60 đã ngợi ca nước Việt Nam hình chữ S từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau, “rừng vàng, biển bạc” nhưng thực tế đến nay, tài nguyên đã khai thác đến kiệt quệ nhưng vẫn còn là nước nghèo nàn, lạc hậu.

Công luận thời gian qua, xôn xao việc ngoài 6,9 tấn vàng bị bán tháo ra nước ngoài, hoạt động của hai công ty khai thác vàng ở Quảng Nam trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế, ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên rừng, gây ô nhiễm rất lớn đến môi trường và độc hại, đặc biệt liên quan đến việc sử dụng thủy ngân.

Nếu như trước khi đi vào hoạt động, người dân và chính quyền tỉnh Quảng Nam kỳ vọng vào hai công ty của Tập đoàn Besra bao nhiêu thì đổi lại giờ đây, họ lại thất vọng bấy nhiêu khi chứng kiến sự làm ăn thiếu minh bạch, bất chấp luật pháp của tập đoàn này. Số nợ được Cục Thuế tỉnh Quảng Nam ghi sổ đến ngày 31-12-2012 của Công ty Phước Sơn là 101,7 tỉ đồng, đến tháng 7-2014 là 231 tỉ đồng. Công ty Bồng Miêu cũng nợ thuế tương tự, tháng 3-2013, số nợ thuộc diện phải cưỡng chế là 19,2 tỉ đồng, tháng 6-2014 số nợ lên đến 48 tỉ đồng.

Vấn đề bất cập ở đây còn là trách nhiệm của Bộ Tài nguyên & Môi trường. Theo tôi biết trong giấy cấp phép cho công ty Phước Sơn khai thác vàng đề rõ 7 tấn nhưng thực tế tiềm năng đến 22 tấn vàng!?  Ai chịu trách nhiệm về “lỗ hổng” này? Cấp phép xong là buông lỏng  khâu kiểm tra, quản lý như ‘kiểu đười ươi giữ ống” , thử hỏi ngay ở địa phương có mấy người biết chuyên môn về môi trường mỏ để theo dõi quản lý các dự án khai thác vàng này? Công nghệ của công ty khai thác vàng, thuộc loại lạc hậu, chỉ “chính quy”  hơn chút đỉnh so với việc khai thác theo dạng “thổ phỉ”!

Lĩnh vực khai thác khoáng sản ở Việt Nam, còn có một số nhà địa chất, doanh nghiệp Việt Nam trước đây cũng đã định đầu tư vào lĩnh vực vàng  nhưng đều chết yểu!  Đừng quên:  "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" ( Tục ngữ VN ).  “Phá của rừng, rưng rưng nước mắt " ( Nguyễn Huy Thiệp - Muối của rừng ).
Việt Nam không thể dựa vào tài nguyên thiên nhiên để phát triển được vì tài nguyên khoáng sản của nước ta rất nhỏ bé, manh mún. Thậm chí không có khoáng sản nào có lợi thế để cạnh tranh có hiệu quả (nhập khẩu còn rẻ hơn khai thác), trừ than, dầu, khí, nước ngọt, cát, đá, sỏi và đất. Than, dầu khí thì sắp hết (30 năm nữa là đóng cửa bể than Quảng Ninh). Ngay cả đá vôi làm xi măng, trữ lượng khai thác được và có hiệu quả cũng chỉ có khoảng 2 tỷ tấn.

Cần phải yêu cầu ngay từ khâu thăm dò mỏ, phải đánh giá đầy đủ khoáng sản chính và khoáng sản đi kèm để khi khai thác giảm thiểu tổn thất tài nguyên. Ví dụ ngay trong việc khai thác mỏ đá xây dựng thì ngoài sản phẩm chính là đá xây dựng, người ta tận thu bột đá làm nguyên liệu sản xuất gạch blok vv…
Thế giới, không thiếu những nước tài nguyên khoáng sản nghèo nàn, nhưng đã trở thành nước rất giầu có, nhờ cái tâm con người cũng rất .. giầu. Có thể thấy như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan , Hồng Công vv…

Đến nay, chưa có một quốc gia nào phát triển vì nhờ giầu tài nguyên, các nước vua dầu lửa cũng vậy. Nga lạc hậu hơn với Mỹ cũng có lý do này. Ở nước ta, vào thế giới toàn cầu hoá ngày nay, phát triển dựa vào tài nguyên khoáng sản là tự sát mà phải tập trung vào phát triển tài nguyên con người.

Trong văn hóa có cả dòng văn hóa phi vật thể, do vậy, về tài nguyên cũng tất phải có cả tài nguyên phi vật thể! Đó cũng chính là phạm trù có lời nguyền  thiêng liêng nhất! Phàm giả, những gì còn có thể cân, đo, đong đếm được thì là những căn bệnh nan y nhưng chưa phải vô kế khả thi. Nhưng, khốn nỗi lâm bệnh mà sợ thuốc đắng (hoặc chỉ uống giả dược) thì là tự sát !

Với những loại tài nguyên vật thể thì có thể "thua keo này, bày keo khác",  còn loại tài nguyên phi vật thể mà ... thất thoát thì không thể tính bằng "keo" mà bằng  kiếp,  thậm chí nhiều kiếp người.

  Tô Văn Trường
(Bản gốc của tác giả)
 
(Người Lót Gạch)

Kinh tế Việt Nam tiếp tục suy thoái, quán cà phê cũng vắng

Sống dưới bóng "quyền lực vô hình"

Từ lâu đã thành thông lệ, sau màn đọc "kính thưa", "kính gửi" của vài quan chức, diễn đàn trao đổi ngay lập tức được dựng lên và vận hành bởi số ít nhà khoa học "lão làng"tóc đã muối tiêu.
Nhiều nghiên cứu đã ca ngợi tập quán "trọng xỉ" như nét đẹp văn hóa của người Việt. Ấy là việc dành kính trọng, ưu tiên cho người già. Điều này thể hiện qua nhiều thế ứng xử như dành chỗ ngồi trang trọng nhất, lễ mừng thọ hay tiếng nói của họ luôn có trọng lượng... Tập quán này phổ biến ở nhiều cộng đồng khác ở nước ta cũng như trên thế giới và đây được coi là nét văn hóa đặc trưng, phổ biến ở xã hội nông nghiệp.

Đây là một giá trị văn hóa nhân văn, cần được lưu giữ. Điều cần bàn ở đây là việc làm sao để nét đẹp ứng xử này không bị lạm dụng, thành vật cản cho phát triển bởi trong nhiều trường hợp, tâm lí trọng tuổi tác đã bị biến tướng
trí thức, diễn đàn, trao đổi, khoa học, tranh luận

"Ma cũ" và "ma mới"

Như một thứ thông lệ ở nhiều nơi, kẻ vào sau luôn phải "nhún nhường" với người trước. Ở  chừng mực nào đó, thâm niên công tác như một thứ quyền lực vô hình, mặc nhiên gắn với đâu đó đặc quyền nhất định dù cho trong khá nhiều trường hợp, người có ít thâm niên hơn lại có năng lực, những đóng góp cụ thể và hiệu quả hơn.

Ở nhiều cơ quan, việc xét lên lương trước hạn hay đi nước ngoài từ lâu ngầm định ưu tiên cán bộ có thâm niên hay sắp về hưu. Nghịch lí ở chỗ việc này cứ "tự nhiên" được quyết định mà không gặp bất cứ ý kiến phản biện nào. Nhiều trường hợp người được xét lên lương không có thành tích gì nổi bật; người được cử đi nước ngoài không có chuyên môn phù hợp, không có đủ trình độ ngoại ngữ. Tiền thuế của dân hồn nhiên được sử dụng mà hiệu quả đem lại cứ thầm lặng đến vô cùng...

Việc thi nâng ngạch ở nhiều cơ quan khoa học cũng vậy. Hệ số lương được coi như một trong yêu cầu bắt buộc, quyết định đến việc ai đó có đủ tiêu chuẩn thi hay không. Mà hệ số lương thì đa phần đồng nghĩa với số năm công tác. Dẫn đến không ít cán bộ trẻ có năng lực, có thành tích nhưng vẫn phải "sống mòn" đếm thời gian đến ngày lên lương và do đó, đồng lương của họ thấp hơn so với đâu đó nhiều đồng nghiệp có thâm niên hơn dẫu cho cống hiến cả vô hình và hữu hình của người "đứng sau" lại vượt trội so với của kẻ "ngồi trước". Thời gian thì trôi chậm và lòng người cứ phân ưu.

Rồi nữa, trong nhiều hội thảo khoa học, từ lâu đã thành thông lệ, sau màn "kính thưa" của vài vị quan chức, diễn đàn trao đổi ngay lập tức được dựng lên và vận hành bởi số ít nhà khoa học "lão làng". Đa phần những trao đi đổi lại này chỉ diễn ra giữa một nhóm nhà khoa học chí ít thì tóc cũng đã muối tiêu và càng đáng tiếc hơn khi đa phần người nghe cứ mệt nhoài đến độ lạc lối nếu muốn tìm kiếm những điều mới mẻ từ các thảo luận đó. Cán bộ trẻ nên ngoan ngoãn ngồi tít phía sau, tốt nhất là im lặng mà nghe hay làm gì khác thì tùy miễn là đừng có ý kiến này, ý kiến nọ. Chân lí chưa bao giờ sẵn sàng nhìn về phía tương lai mà dường như vẫn còn mải chìm đắm đâu đó trong hào quang quá khứ?

Để măng mọc khi tre chưa già

Cổ nhân đã từng dạy “con hơn cha là nhà có phúc” và vị GS lừng danh Trần Quốc Vượng đã “chua” thêm một câu là “trò hơn thầy, đức nước càng dày”.

Thông điệp gửi gắm quá rõ: một xã hội chỉ phát triển khi thế hệ sau tiến xa hơn, đạt được nhiều thành tựu hơn. Điều này đúng ra phải là hiển nhiên bởi lớp đi sau được kế thừa từ người đi trước, có nền móng nhất định để tiếp bước, phát triển hơn.

Lí thuyết là vậy nhưng trên thực tế, để “măng mọc” trước khi “tre già”, một trong những việc cần làm là thay đổi quan niệm “sống lâu lên lão làng” hay tránh đồng nhất tuổi tác với các giá trị khác. “Manh áo” chẳng bao giờ làm nên “thầy tu”, tuổi tác không nhất thiết phải là sự bảo đảm cho chân lí. Điều này đặc biệt ý nghĩa trong phạm vi các cơ quan khoa học.

Sẽ là một cú hích quan trọng cho hoạt động nghiên cứu khoa học nước nhà nếu có những chính sách đặc thù, khuyến khích, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ phát triển. Cứ nhìn quy định thi nghiên cứu viên, giảng viên chính hay cao cấp hiện nay sẽ thấy sự bất cập của nó đã hạn chế các nhà khoa học trẻ thế nào.

Muốn thi từ nghiên cứu viên lên nghiên cứu viên chính, ứng viên phải có 9 năm công tác liên tục, với hệ số lương tối thiểu là 3,66. Yêu cầu này là 6 năm ở ngạch nghiên cứu viên chính đối với ứng viên muốn thi lên bậc cao cấp. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại cứ phải là 9 năm ở bậc này và 6 năm với bậc khác?

Ai cũng biết rằng cùng trong khoảng thời gian ấy, mỗi nhà khoa học, do nhiều lí do  có thể sức cống hiến khác nhau. Thành tựu khoa học của một người 25 tuổi vì thế không nhất thiết phải ít hơn so với đồng nghiệp 35 tuổi.

 Gần đây, một dự thảo mới được xây dựng, đề xuất cứ ai có bằng tiến sĩ sẽ được mặc định chuyển lên bậc “chính” hay từ phó giáo sư trở lên sẽ tự động được coi là bậc “cao cấp”. Và thế là tấm áo tuổi tác được thay bằng tấm áo học vị. Thay vì “sống lâu lên lão làng”, người ta rồi đây sẽ đua nhau “làm” tiến sĩ, phó giáo sư để được nâng ngạch, vừa oai, vừa tự động được tăng lương…

Một thực tế buồn là chúng ta có quá ít quỹ tài trợ nghiên cứu dành cho các nhà khoa học trẻ trong khi điều này khá phổ biến ở nhiều nước. Hầu hết các đề tài, dự án, chương trình nghiên cứu do chính phủ tài trợ hiện nay quy định học hàm, học vị, ngạch nghiên cứu nhất định. Nghiên cứu viên thì đương nhiên không được giao chủ nhiệm đề tài cấp bộ là một ví dụ. Điều này dẫn đến một hệ quả nguy hại là nhiều nhà khoa học trẻ không có cơ hội, nguồn lực cần thiết để tổ chức nghiên cứu theo hướng mình say mê. Sức trẻ, sự nhiệt huyết, tính sáng tạo, tất cả nội lực của họ phần lớn chỉ dùng vào việc “điếu đóm” trong các đề tài do người khác chủ nhiệm. Nhiều khi nằm ngoài hướng quan tâm của họ.

“Măng” chưa mọc, làm sao có “tre”?
Một nền khoa học phát triển cần có các chính sách cụ thể khuyến khích sự phát triển của giới trẻ. Điều đó đảm bảo không chỉ tính kế thừa, liên tục mà còn sức sáng tạo, lan tỏa, phát triển cho không chỉ nền khoa học mà cả xã hội.

Đã và đang có nhiều đề nghị tăng thời gian làm việc cho các nhà khoa học có học hàm, học vị, còn khả năng, sức lực cống hiến. Nếu chính sách này bị lợi dụng không đúng đối tượng sẽ vô tình kìm hãm cơ hội phát triển của người trẻ.

Tấm áo tuổi tác, giống như học hàm, học vị vì thế không và đừng bao giờ trở thành vật trang trí. Lịch sử nhân loại đã minh chứng đấy thôi. Bao phát kiến vĩ đại được viết nên bởi những mái đầu xanh. Nhiều trong số họ còn chưa kịp có bất cứ học hàm, học vị gì để lưu danh hậu thế.
Nguyễn Công Thảo
(Tuần Việt Nam)

Một lần nữa - TPP lại lỗi hẹn?

Các nhà lãnh đạo của các nước thành viên và các nước đang đàm phán gặp nhau tại một hội nghị thượng đỉnh của TPP năm 2010.
Các nhà lãnh đạo của các nước thành viên và các nước đang đàm phán gặp nhau tại một hội nghị thượng đỉnh của TPP năm 2010.
Theo voatiengviet.com, ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch Nước Việt Nam, hôm 8/8/2014 đã lên tiếng khẩn thiết kêu gọi Quốc hội Hoa Kỳ thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đầu tư, thương mại song phương tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập Hiệp định tự do thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) và ủng hộ một giải pháp ôn hòa cho Biển Đông. Đề nghị này được ông Sang nêu lên sau cuộc họp hôm 5/8/2014 tại Hà Nội giữa ông và TNS Bob Corker, đại diện Tổng thống Obama. TNS Bob Corker có cho ông Sang biết là chính phủ Hoa kỳ quyết tâm kết thúc vòng đàm phán gia nhập TPP vào khoảng ngày 12 đến 18 tháng 9 năm 2014.
Sự kiện này làm nhớ lại hôm 7/10/2013, bên lề hội nghị APEC tại Bali, Indonesia, Bộ trưởng Thương mại Hoa kỳ Penny Pritzker cũng cho biết Tổng thống Barack Obama kêu gọi 12 nước tham gia vòng đàm phán hãy nỗ lực kết thúc vòng đàm phán TPP vào cuối năm 2013.
Sau đó 45 ngày, tại vòng đàm phán Salt Lake City từ ngày 19 đến ngày 24 tháng 11 năm 2013, sau những buổi họp đầy mâu thuẫn giữa Mỹ và các thành viên khác của TPP, những vấn đề chủ yếu như quyền sở hữu trí tuệ (IPR), cải tổ định chế các tập đoàn nhà nước, xí nghiệp quốc doanh và nhiều vấn đề gai góc khác nữa vẫn còn tồn đọng, cần nhiều vòng đàm phán nữa mới hy vọng giải quyết xong. Do vậy, TPP đã một lần lỗi hẹn với sự mong đợi của Tòa Bạch Ốc.
Hôm 24/4/2014 vòng đàm phán TPP lại được nhắc lại một lần nữa tại Tokyo, nhân chuyến công du Nhật Bản của Tổng thống Obama. Trong cuộc họp thượng đỉnh tại Tokyo giữa Tổng thống Obama và Thủ tướng Shinzo Abe, chính phủ Nhật dứt khoác từ chối mở cửa thị trường cho những nông sản như gạo, đường, thịt bò, thịt heo, cùng các loại sản phẩm chế biến từ nông sản, sữa, và ngũ cốc. Nhà lãnh đạo Mỹ phải nhìn nhận rằng vòng đàm phán TPP còn nhiều phức tạp, không thể kết thúc trước cuối năm 2014.
Bộ trưởng Thương mại Hoa kỳ Penny Pritzker cho biết Tổng thống Obama kêu gọi 12 nước tham gia vòng đàm phán hãy nỗ lực kết thúc vòng đàm phán TPP vào cuối năm 2013.Bộ trưởng Thương mại Hoa kỳ Penny Pritzker cho biết Tổng thống Obama kêu gọi 12 nước tham gia vòng đàm phán hãy nỗ lực kết thúc vòng đàm phán TPP vào cuối năm 2013.
Sau chuyến đi, Tổng thống Obama và một số quan chức Hoa Kỳ lạc quan tuyên bố đã có bước đột phá trong quan hệ kinh tế giữa Mỹ và Nhật. Nhưng phía Nhật lại nói rằng Tokyo và Washington sẽ không đạt được thỏa thuận về kinh tế liên quan đến TPP cho đến trước mùa thu năm nay, nghĩa là trước kỳ bầu cử giữa nhiệm kỳ hai của Tổng thống Obama. Nhưng dường như vẫn còn một số vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Mỹ và Nhật. Do vậy, rất có thể vòng đàm phán sắp tới cũng không thể nào kết thúc trước cuối năm 2014 như Tổng thống Obama mong đợi. Như vậy, TPP lại một lần nữa rất có thể sẽ lỗi hẹn với Tòa Bạch ốc.
Gần đây có một sự cố lớn lao chi phối ý nghĩa tồn vong của TPP. Theo nguồn tin AP, sau gần 3 thập niên các hãng xưỡng Mỹ dọn sang Trung Quốc để khai thác nguồn nhân công rẻ mạt của nước này, các doanh nghiệp Trung Quốc đang tràn vào Hoa Kỳ để tận dụng lực lượng lao động Mỹ. Ví dụ, hồi tháng 5/2014 tại bang Alabama Tổ Hợp Golden Dragon Precise Copper Tube Group của Trung Quốc đã xây dựng một nhà máy cỡ trung ở vùng Pine Hill-Alabama-và mướn 300 nhân công địa phương. Tại Moraine (Ohio), Lancaster County (South Carolina), Gregory (Texas), TQ đã khai trương nhiều hãng xưởng thu nhận hàng trăm, hàng ngàn công nhân Mỹ. (1)
Sở dĩ có hiện tượng ngược chiều này vì từ lâu các nhà đầu tư, các nhà kinh tế Hoa Kỳ đã hoan nghênh các xí nghiệp, các nhà đầu tư Trung Quốc với bảng hiệu quảng cáo: Hoa Kỳ là vùng đất đầu tư tốt nhất, với nền an ninh bảo đảm nhất, năng lượng dồi dào nhất, lương bổng ít cách biệt, giá năng lượng và thị trường ít biến động. Đặc biệt ở các tiểu bang miền Nam lao động kỹ thuật cao lại rẻ, giá đất ở đây cũng thấp v.v. Do đó, theo một công trình nghiên cứu của Rhodin Group, năm 2013, các công ty Trung Quốc đã đầu tư vào Hoa Kỳ một số vốn kỷ lục là $14 tỷ USD, thu hút ít nhất là 70,000 nhân công Mỹ. Đây là một con số không ai dám nghĩ đến 10 năm trước đây.
Theo lịch sử, thì Hoa kỳ xin gia nhập tổ chức Mậu dịch Tự do Pacific-4 (tiền thân của TPP) vào tháng 9/2008, nghĩa là đúng 2 năm 4 tháng sau khi Tổ chức Pacific-4 do 4 nước Singapore, Chile, Brunei, New Zealand thành lập (2005) và có hiệu lực (2008). Qua tầm nhìn của Hoa Kỳ, Pacific-4 là một tổ chức mậu dịch đa dạng giống như nền kinh tế APEC. Hy vọng sẽ có nhiều quốc gia trên bờ Thái Bình Dương tham gia. Qua lăng kính màu hồng của Hoa kỳ, Pacific-4 hóa thân thành Trans-Pacific-Partnership (TPP).
Hôm 24/4/2014 vòng đàm phán TPP lại được nhắc lại một lần nữa tại Tokyo, nhân chuyến công du Nhật Bản của Tổng thống Obama.Hôm 24/4/2014 vòng đàm phán TPP lại được nhắc lại một lần nữa tại Tokyo, nhân chuyến công du Nhật Bản của Tổng thống Obama.
Chính phủ Obama coi đây là may mắn bất ngờ, một di sản từ Trời rơi xuống. Liền sau đó, năm 2009. Quyền Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, Demetrios Marantis, đơn phương thiết lập hàng loạt tiêu chuẩn đầy tham vọng dành cho những ai muốn gia nhập TPP. Một trong những tiêu chuẩn đó được coi như là cứu cánh của TPP: “Để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của doanh nghiệp Mỹ, xây dựng những doanh nghiệp cỡ nhỏ và cỡ trung là cột trụ là xương sống của nền kinh tế TPP, nguồn chính yếu tạo ra công ăn việc làm cho Hoa Kỳ nhằm giảm bớt nạn thất nghiệp đang gia tăng tại Mỹ. Nhờ đó TPP có thể qui tụ các nhà đầu tư xuất khẩu lớn của Hoa kỳ…”. (2)
Qua quá trình các hãng xưởng của Trung Quốc tràn vào nước Mỹ trong hai năm vừa qua, Trung Quốc đã chủ động thuê mướn cả trăm ngàn lao động, giúp Mỹ giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, tăng lượng xuất khẩu, phải chăng Trung Quốc đã vô tình thỏa mãn yêu cầu của Demetrios Marantis? Phải chăng, nhờ vào một loạt chiến thuật kinh tế tinh vi, Trung Quốc đã vượt qua những rào cản và xâm nhập vào nước Mỹ, và tước đoạt “cứu cánh” của TPP trên tay Mỹ ngay trên nước Mỹ với sự ghi ơn của các tập đoàn kinh tế, đầu tư của Mỹ? Phải chăng Trung quốc sẽ trở thành “siêu thành viên” của TPP?
Dù sao đi nữa chúng ta cũng phải hiểu việc Chính phủ Hoa Kỳ gửi Evan Medeiros hôm 14/7, và Bob Corker hôm 5/8 sang Hà Nội nhằm thuyết phục Việt Nam cố gắng “sửa mình” để sớm được gia nhập TPP là những cố gắng của Tòa Bạch ốc nhằm phục hồi tiềm năng và sức mạnh của TPP, một trong những mũi nhọn quan trọng hỗ trợ cho Chiến lược xoay trục về châu Á Thái bình Dương của Mỹ.
Đào Như
04.09.2014
------------------------------
(1) Nhà máy, Doanh nghiệp Trung quốc bắt đầu lan tràn trên đất Mỹ
(2) Hiệp Định TPP đang từng bước trở thành hiện thực
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA) 

Công thức thịnh vượng nào cho Việt Nam?

Động lực phát triển của một dân tộc có thể gói gọn trong ba chữ EEC - emotion (cảm xúc); enlightenment (sự khai sáng) và coordination (tính phối thuộc) - Ts. Vũ Minh Khương, ĐHQG Singapore phân tích động lực phát triển của một dân tộc.

  VietNamNet trân trọng giới thiệu cuộc đối thoại trực tuyến với Ts. Vũ Minh Khương quanh chủ đề: Việt Nam và cơ hội trỗi dậy từ thách thức.

Giấc mơ Việt Nam

Nhà báo Việt Lâm: Xin chào quý độc giả Vietnamnet. Vươn lên thịnh vượng có lẽ là khát vọng chung của mọi dân tộc. Lâu nay các nhà chính trị, kinh tế trên toàn thế giới vẫn đi tìm câu trả lời: Vì sao có quốc gia thành công nhưng cũng có không ít nước thất bại mặc dù họ có cùng xuất phát điểm thậm chí chia sẻ những tương đồng về văn hóa và chính trị? Liệu có công thức chính sách nào cho mọi quốc gia trên đường đi đến phồn vinh hay không? Câu hỏi đó có lẽ càng trở nên đau đáu với mọi người dân Việt Nam. Để góp phần đi tìm câu trả lời cho câu hỏi rất quan trọng này, VietNamNet tổ chức thảo luận trực tuyến với ông Vũ Minh Khương, Tiến sỹ về kinh tế học phát triển tại Đại học Harvard và hiện là Giáo sư Đại học Quốc gia Singapore. Ông cũng là nhân vật quen thuộc với bạn đọc hơn 10 năm qua với các bài viết sắc sảo và tâm huyết về các vấn đề phát triển của Việt Nam.

- Trước hết, xin được bắt đầu cuộc thảo luận ngày hôm nay của chúng ta với những chia sẻ của Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng cách đây chưa lâu trên báo Tuổi Trẻ. "Cách đây bốn, năm mươi năm thì Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương, sau mấy mươi năm tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam hiện có 90.000 người sống tại Hàn Quốc chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc ở Việt Nam làm ông chủ còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì làm ôsin, nghe mà xót lòng!". Ông nghĩ sao về suy tư trên?

TS Vũ Minh Khương: Tôi rất đồng cảm với ý kiến sâu sắc và đầy xúc cảm của anh Vũ Ngọc Hoàng. Tôi cũng đã gặp anh Vũ Ngọc Hoàng và ấn tượng với con người đầy tâm huyết này. Chúng ta cùng chia sẻ sự trăn trở về vận mệnh của đất nước. Nhìn lại câu chuyện của Hàn Quốc, đây cũng là mối quan tâm chung của toàn thế giới. Bởi năm 1960, Hàn Quốc và Philippines tương đồng về mọi mặt. Thậm chí, Philippines lợi thế hơn rất nhiều như sự hỗ trợ của quốc tế, dân trí khá tốt, tiếng Anh thông thạo. Lúc đó mọi người dự báo rằng, một ngày nào đó Hàn Quốc sẽ kém xa Philippines và Philippines đã sẵn sàng cho sự phát triển thịnh vượng. Thế nhưng ba mươi năm sau, nhìn lại Hàn Quốc đã tổ chức được Olympic thế giới và khẳng định được vị thế một dân tộc đang trỗi dậy rất mạnh mẽ.

Vì sao dân tộc họ đi được nhanh như thế? Việc trì trệ có thể nhiều lý giải, nhưng để cất cánh thì rõ ràng có bài học rất lớn mà các nước muốn trỗi dậy phải học hỏi. Robert Lucas, một giáo sư Mỹ nổi tiếng, kinh tế gia đoạt giải Nobel có nói rằng: "nếu ta hiểu được thấu đáo con đường đi đến phồn vinh của một dân tộc thì chắc chắn ta sẽ làm ra được một cái thần kỳ khác tương tự như thế".

Hơn 10 năm nay sau khi rời công việc của Chính phủ (TS. Vũ Minh Khương từng là Chánh văn phòng Thành uỷ Hải Phòng - xem thêm Chuyện về một TS Harvard người Việt), tôi cũng đã tìm hiểu với một lòng đau đáu như Việt Lâm vừa nói, rằng có một ngày nào đó không xa đâu, kỉ niệm 100 năm độc lập của Việt Nam ta, dân tộc mình sẽ ngẩng đầu hùng cường và có thể đi khắp thế giới để chia sẻ kinh nghiệm thành công. Chúng ta thoát khỏi chiến tranh và chấp nhận muôn vàn hi sinh để một ngày nào đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta không chỉ vươn tới phồn vinh mà còn chia sẻ kinh nghiệm với thế giới làm sao để bồi đắp hòa bình, xây dựng tình hữu nghị và thịnh vượng chung.
thịnh vượng, phát triển, giàu có
TS Vũ Minh Khương (trái) và nhà báo Việt Lâm. Ảnh: Lê Anh Dũng
Bí kíp EEC

Nhà báo Việt Lâm:Được biết ông cũng là tác giả của cuốn sách gây chú ý trong giới làm chính sách và nghiên cứu kinh tế với tựa đề "The Dynamics of Economic growth: Policy insights from comparative and analyses in Asia (tạm dịch: Những động lực của tăng trưởng kinh tế: Góc nhìn chính sách từ các phân tích so sánh ở châu Á). Qua phân tích mô hình phát triển của 16 quốc gia Châu Á, ông thấy có thể đúc kết những bài học nào?

TS. Vũ Minh Khương: Quá trình phát triển của các dân tộc tổng kết lại bằng tiếng Anh chỉ có 3 chữ "EEC". E thứ nhất là emotion, trong tiếng Anh người ta còn chơi chữ tốt hơn: "E stands for Energy" nghĩa là năng lượng, motion là chuyển động. Đây là cội nguồn và động lực trung tâm của mọi quá trình cải biến. Bởi vì phát triển kinh tế không phải chỉ là quá trình đầu tư đơn thuần mà đây là công cuộc cải biến vĩ đại đòi hỏi sự chuyển động rất lớn, nói cách khác con người phải có xúc cảm rất cao. Emotion có hai trạng thái quan trọng. Trạng thái thấp của emotion chỉ đơn thuần là cảm xúc, thường là nghi kỵ, bi quan, ức chế. Nếu chỉ đơn thuần giải phóng năng lượng xúc cảm ở trạng thái thấp như thế sẽ gây ra những rối loạn, thậm chí phức tạp và bất ổn. Chẳng hạn chúng ta thấy ở cấp độ quốc gia, công ty thì đơn từ kiện tụng triền miên.

Tuy nhiên, nếu nâng được xúc cảm lên cấp độ cao hơn, "aspiration", là khát vọng, là sự lo lắng cho vận mệnh dân tộc và ý thức trách nhiệm với tương lai. Khi xúc cảm ở dạng này được giải phóng ra thì năng lượng vô cùng lớn. Tổng thống Park Chun Hee khi khởi xướng cuộc cải cách cho Hàn Quốc, đã tuyên bố rõ: "Tôi mong muốn từng ngày làm cho Hàn Quốc đuổi kịp Nhật Bản". Đó là lời thề thiêng liêng, lời tuyên thệ về phồn vinh của dân tộc. Động lực xúc cảm này truyền tải rất mạnh mẽ đến giới tinh hoa. Cái hay là trước đó, dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn, các tập đoàn, công ty tham nhũng triền miên nhưng ông Park Chun Hee không bắt tù họ, mà mời họ cùng ngồi với Chính phủ để bàn bạc làm gì để dân tộc Hàn Quốc tiến lên, đối phó được với sự đe doạ của bên ngoài và tình thế thế giới đang khắc nghiệt như thế. Họ đã chụm đầu với nhau và đi những bước thần kỳ.

Phải nói rằng dân tộc Hàn Quốc ngày đấy còn đói khát, khổ sở hơn nước ta rất nhiều. Đầu tư nước ngoài không đáng kể, chỉ có một số trợ giúp nhất định của Mỹ và bồi thường chiến tranh của Nhật Bản. Nhưng dân tộc họ tràn đầy xúc cảm, khát vọng vươn lên, từ người lãnh đạo đến doanh nghiệp và người dân.

Chữ E thứ 2 là Enlightenment, nghĩa là độ khai sáng, mà độ khai sáng phải luôn luôn trau dồi, phải nhận thức rõ bối cảnh thế giới, tri thức về thế giới của mình phải thông suốt. Tư duy của mình phải học hỏi, mở mang, quý trọng đồng bào mình, quý trọng các cộng đồng xung quanh, phải liên tục học hỏi. Chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của sự khai sáng từ cuộc cải cách Minh Trị của Nhật Bản đến các cải cách của các nước sau này như Hàn Quốc, Singapore, thậm chí Trung Quốc với cải cách của Đặng Tiểu Bình. Điều quan trọng nhất là người lãnh đạo phải khai sáng, nếu không sẽ bị sa lầy vào những khủng hoảng không cần thiết như Nga hoặc Trung Quốc hiện nay. Những biểu hiện có thể thấy là họ hà khắc với dân tộc thiểu số, không coi trọng láng giềng, coi thường quy luật phát triển của lịch sử. Ngay cả trong chống tham nhũng, lẽ ra phải xây dựng những cơ chế khiến người ta không tham nhũng được, thay vì phát động đại chiến dịch "đả hổ diệt ruồi". Khi độ khai sáng có dấu hiệu đi xuống, chắc chắn đất nước ấy sẽ gặp khó khăn trên con đường phát triển trong thời gian tới.

Tôi muốn lưu ý rằng, enlightenment là yếu tố luôn luôn tự khai sáng chính mình chứ không phải anh có khai sáng rồi là yên tâm. Đây là quá trình học hỏi không ngừng, luôn luôn xem lại mình và nhìn lại người khác, nhìn sang người khác để thấy cái hay của người khác để học hỏi, cái dở của người khác để tránh. Đấy là trách nhiệm của người lãnh đạo, trách nhiệm của tri thức, trách nhiệm của doanh nghiệp, trách nhiệm của từng người dân.

Chữ C - chân kiềng thứ ba là Coordination - tính phối thuộc, đòi hỏi đội ngũ có năng lực. Động lực phát triển của một dân tộc phải được hiện thực hoá thành những chương trình hành động cụ thể, dưới sự dẫn dắt, điều hành và phối hợp của những con người cụ thể.

Nhà báo Việt Lâm:Vậy ông nhìn nhận ra sao về ba yếu tố này ở Việt Nam hiện  nay?

Ts. Vũ Minh Khương: Tôi thấy tương đối vui vì xúc cảm và khai sáng của người Việt Nam mình trong vài chục năm đổi mới vừa qua có sự vượt bậc. Tôi có thể cảm nhận được điều này khi nói chuyện với những người dân bình thường, trí thức, doanh nghiệp và cả lãnh đạo Chính phủ. Tôi cho rằng đây là bước tiến rất quan trọng để làm tiền đề cho sự trỗi dậy của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, tính phối thuộc sẽ là trở ngại, thách thức lớn cho Việt Nam trong thời gian tới.

Tính phối thuộc thế nào cho chặt chẽ phải dựa vào chiến lược phát triển. Chiến lược phát triển tức là mình đi đến đâu trong vòng 30 năm tới bởi thời gian gấp rút lắm rồi. Nếu một dân tộc hi sinh hàng triệu con người, mất mát hàng thập kỷ vì chiến tranh mà năm 2045 lại tỏa đi các nơi làm thuê, tôi cho rằng chưa xứng đáng là đã sản sinh ra những con người vĩ đại như Trần Hưng Đạo, Bác Hồ (Hồ Chí Minh), Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi thấy chúng ta phải xứng đáng hơn với thế hệ đi trước.

Xét những trùng hợp thú vị về những dấu mốc thời gian quan trọng của Việt Nam, 1945, 1975 thì nếu năm 2015 chúng ta khởi đầu bằng công cuộc cải cách vĩ đại như thế, để ba thập kỷ tới, vào năm 2045 tròn 100 năm thành lập nước, Việt Nam sẽ thực sự cất cánh. Tôi tin rằng chúng ta có thể làm được điều thần kỳ đó. Tôi đã các cuộc nói chuyện với một số nhà lãnh đạo Chính phủ về những vấn đề mà chúng ta đang trao đổi và càng thấy tự tin hơn. Bởi tôi thấy chúng ta có những con người sẵn sàng đảm đương và làm hết lòng với những công việc được phân công. Điều đó rất đáng quý.
thịnh vượng, phát triển, giàu có
TS Vũ Minh Khương. Ảnh: Lê Anh Dũng
Xoay lợi ích nhóm thành lợi ích dân tộc

Nhà báo Việt Lâm:Đúng là như ông nói, các yếu tố về cảm xúc và khai sáng đã hiện diện đây đó. Ở nhiều nước khác, có khi các nhà lãnh đạo phải lo lắng trước tình trạng thờ ơ của dân chúng với chính trị nhưng ở Việt Nam, người dân rất quan tâm và trăn trở trước thời cuộc. Chúng ta đã từng chứng kiến hàng triệu ý kiến góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng hay đường lối phát triển của đất nước. Mới đây thôi, cũng có hàng chục triệu ý kiến tham gia thảo luận việc sửa đổi Hiến pháp. Chúng ta cũng được chứng kiến không ít nhà lãnh đạo đã chia sẻ suy tư về khoảng cách phát triển giữa VN với thế giới. Rõ ràng đang có một nguồn cảm xúc rất cháy bỏng cho sự trỗi dậy của đất nước. Nhưng mặt trái của nó lại là nếu như năng lượng cảm xúc không hoá giải thành hành động cụ thể thì có thể dẫn tới sự mệt mỏi, hoài nghi, thậm chí một ngày nào đó sẽ biến thành sự vô cảm. Ông nghĩ sao về nguy cơ này?
  Tôi cảm nhận được nguy cơ này đang cận kề. Đây là lúc cần nhất đến vai trò người lãnh đạo. Tất nhiên giới trí thức, giới doanh nhân cũng như tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều phải có trách nhiệm trong công cuộc đổi thay này của đất nước. Nhưng rõ ràng người lãnh đạo phải là người khởi xướng. Vai trò của người lãnh đạo khởi đầu từ đâu tôi sẽ bàn sau nhưng trước khi đi vào bước cụ thể chúng ta phải thống nhất với nhau về nguyên lý hành động đã.

Về nguyên lý, chúng ta hoàn toàn có thể biến những hạn chế hiện nay thành sức mạnh. Chẳng hạn như ba vấn đề mà người ta cứ hay than phiền ở VN hiện nay, như "bệnh thành tích", lợi ích nhóm hay chủ nghĩa bảo thủ. Nếu có một chiến lược tốt, hoàn toàn có thể xoay chuyển chúng theo hướng tích cực.

Ví dụ như bệnh thành tích. Ở nước ngoài người ta nói bệnh thành tích là tốt chứ, bởi vì người ta cố gắng làm để đạt được chỉ số tốt. Vậy thay vì chạy theo điểm số, tại sao không chọn thành tích đem lại sự đổi thay cho đất nước, tôn trọng nhân dân, dân chủ hóa như là thành tích tối thượng mà lãnh đạo các cấp cũng như nhân dân được hưởng.

Nhóm lợi ích xét ở mặt nào đó cũng có ý nghĩa tích cực, bởi lẽ con người ai cũng có lợi ích riêng. Vậy nhà lãnh đạo làm sao xoay lợi ích riêng, lợi ích nhóm thành lợi ích quốc gia, giống như để cho Huyndai, Samsung, LG không chỉ phồn vinh thịnh vượng mà còn đóng góp chung cho sự phát triển của đất nước. Cái đấy thực ra chỉ cần một cú click để xoay trục nếu có sự phối thuộc tốt.

Thứ ba, chúng ta hay than phiền nhóm này, nhóm kia bảo thủ. Thế nhưng chính Đảng Bảo thủ của bà Thatcher lại là người khởi xướng cuộc cải cách nước Anh một cách kỳ vĩ bởi họ có nguyên lý bảo thủ đảm bảo sự tồn vong của dân tộc họ. Chúng ta cũng có những nguyên lý bảo thủ, chứ không phải nói cứ học Tây hết đi là không được. Vấn đề là xoay những nguyên lý đó theo hướng phục vụ lợi ích dân tộc, vì một mục tiêu cháy bỏng đưa đất nước tới hùng cường.
(còn tiếp)
(Tuần Việt Nam)

Chống tham nhũng đã đến lúc phải làm thật hơn, quyết liệt và mạnh mẽ hơn

Nạn tham nhũng đang làm cho niềm tin của nhân dân với Đảng bị giảm sút nghiêm trọng. Kỳ họp Quốc hội nào vấn đề chống tham nhũng cũng được bàn luận sôi nổi cả trong và ngoài hội trường. Đảng đã có Nhiều Nghị quyết, Nhà nước đã có pháp luật chống tham nhũng…nhưng nạn tham nhũng vẫn chưa giảm. Bởi chúng ta chưa thực sự cương quyết và chưa dám làm thật chăng?

http://www.tuyengiao.vn/Uploads/2014/8/25/15bao.jpg

Tham nhũng là vi phạm luật pháp. Hậu quả là làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng và chế độ ta. Vì thế, kẻ tham nhũng to hay nhỏ, lớn hay bé đều phải được xử lý nghiêm minh, công bằng. Tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội Khóa 13, các đại biểu đòi hỏi công cuộc chống tham nhũng phải ráo riết hơn, tập trung đánh mạnh vào những trường hợp tham nhũng lớn, nhưng cũng không bỏ qua những vụ tham nhũng nhỏ lẻ, hay còn gọi là tham nhũng vặt. Mặt khác các đại biểu nhấn mạnh về vấn đề phòng chống hơn là xử lý, trừng trị tham nhũng. Vì có một thực tế, khi đã để tham nhũng xảy ra thì việc khắc phục hậu quả vô cùng khó khăn. Việc xử lý dù nghiêm minh đến đâu thì cũng không thể cứu vãn được những mất mát. Vụ Vinalines, những kẻ phạm tội đều đã bị bắt và đang bị ra trước vành móng ngựa nhưng hàng trăm tỉ đồng đã “đội nón ra đi” thì mãi mãi không đòi lại được.
Nước ta không thiếu luật cũng như không thiếu các công cụ phòng chống tham nhũng. Từ những năm 90 ở thế kỷ trước, Quốc hội đã ra nghị quyết về chống tham nhũng, rồi Bộ luật Hình sự, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Cán bộ công chức... và nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời nhằm phòng ngừa và chống tham nhũng. Nhà  nước ta cũng có tòa án, viện kiểm sát, công an, cơ quan thanh tra, hải quan, thuế..., có Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng. Địa chỉ chống tham nhũng cũng đã rõ, đó là ở chốn công quyền nơi tiền công quỹ được coi như là “tiền chùa”, không của riêng ai cả nên người ta không những không xót mà còn tìm mọi cách tư túi được càng nhiều càng tốt. Dù với hình thức nào thì đầu vào của tham nhũng vẫn là quyền lực, đầu ra của tham nhũng vẫn là tiền. Cứ nhắm vào những địa chỉ có quyền lực, nắm nhiều tiền công quỹ mà kiểm soát để ngăn ngừa, không để xảy ra tham nhũng và cũng nhắm vào đó để kiểm tra, thanh tra, điều tra sẽ tìm ra những kẻ tham nhũng. 
Công cụ đã có, nhân lực đã có, địa điểm đã có, vậy mà kết quả chống tham nhũng trong thời gian qua vẫn chỉ mới dừng ở hai chữ: khiêm tốn. Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này thì lại chưa được chỉ ra một cách cụ thể và rõ ràng. Và giải pháp khắc phục thì vẫn chỉ dừng lại ở mức kêu gọi, thức tỉnh lương tâm theo kiểu “cán bộ tham nhũng phải biết xấu hổ”. Đã biết xấu hổ thì đã không tham nhũng! Còn nhớ ở Quốc hội khóa 10, 11, các đại biểu Quốc hội đã ví von “đánh từ vai trở xuống thì làm sao chống được tham nhũng?”, hoặc “quét cầu thang mà quét từ dưới lên thì làm sao sạch?”. Luật phòng chống tham nhũng dù có chặt chẽ, sắc bén đến mấy, nếu không được đem ra sử dụng đúng nơi, đúng lúc, đúng người, đúng tội thì cũng vô giá trị. 
Vì thế, nhân dân mong muốn Đảng và Nhà nước cần có chế tài  mạnh mẽ hơn, các cơ quan chức năng phải làm thật hơn, mạnh mẽ và quyết liệt hơn. “Phải thật thà nhúng tay vào việc” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy. Chúng ta đã nói nhiều, đã nhận thức đầy đủ tác hại cũng như ích lợi của việc chống tham nhũng; Chúng ta cũng đã nhiều lần nêu quyết tâm cao. Bây giờ chỉ cần hành động nữa thôi.
Điều quan trọng là Ban Chỉ đạo chống tham nhũng cần làm rõ thẩm quyền của các thành viên  trong các tổ chức chống tham nhũng trên cơ sở tạo sự độc lập cao độ để phát huy hết khả năng và cũng là  để quy trách nhiệm rõ ràng khi không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải phát động toàn dân chống tham nhũng, tạo điều kiện cho toàn dân chống tham nhũng. Đúng như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói: Nếu cả dân tộc cùng chống tham nhũng, thì không có kẻ nào thoát tội. 
  Phùng Văn Mùi 
(Văn Hóa Nghệ An)    

Kinh tế Việt Nam tiếp tục suy thoái, quán cà phê cũng vắng

HÀ NỘI (NV) - Trong khi chính quyền Việt Nam tiếp tục công bố các số liệu cho thấy kinh tế “bắt đầu khởi sắc” thì thực tế lại chứng minh đời sống của dân chúng càng ngày càng tồi tệ hơn trước.
Trung Thu năm ngoái đã ảm đạm. Trung Thu năm nay còn ảm đạm hơn. (Hình: News Zing)
Báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội sáu tháng đầu năm 2014, Tổng Cục Thống Kê Việt Nam cho biết, tốc độ tăng GDP so với cùng kỳ năm ngoái là 5,18% và đó là mức tăng GDP nửa đầu năm cao nhất trong ba năm vừa qua. Còn cơ cấu nền kinh tế trong sáu tháng đầu năm 2014 được Tổng Cục Thống Kê Việt Nam nhận định “vẫn theo hướng tích cực.”

Tuy nhiên những báo cáo khác, khác xa báo cáo của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam.

Báo cáo mới nhất của Ngân Hàng HSBC cho biết, trong 9 tháng qua, chỉ số mua hàng của giới quản trị, thường được gọi tắt là PMI (chỉ số có tính khái quát về hoạt động sản xuất dựa trên các yếu tố như: đơn đặt hàng mới, sản lượng, việc làm, thời gian giao hàng, lượng hàng tồn kho) tiếp tục sụt giảm. Hồi tháng 7, PMI tại Việt Nam là 51.7 điểm, sang tháng 8, PMI chỉ còn 50.3 điểm.

Còn báo cáo của Kantar Worldpanel (doanh nghiệp đa quốc gia chuyên nghiên cứu về thị trường qua nghiên cứu hành vi người tiêu dùng) về thị trường hàng tiêu dùng nhanh ở Hà Nội, Ðà Nẵng, Sài Gòn và Cần Thơ thì cho biết, dân chúng ở cả bốn thành phố này đang có khuynh hướng bỏ các nhà hàng, quán ăn, thậm chí cà quán cà phê để tiết kiệm.

Theo Kantar Worldpanel, mức độ tiêu dùng ở các thành phố lớn tiếp tục giảm vì tác động của tăng trưởng thiếp tục thấp dần. Mức mua các loại thức uống như bia và cà phê hòa tan để dùng tại nhà, tăng tương ứng với tình trạng mức tiêu thụ tại các nhà hàng, quán ăn, quán cà phê giảm.

Nhiều người bảo rằng, có thể cảm nhận mức độ suy thoái của kinh tế Việt Nam đang càng ngày càng trầm trọng hơn qua sự ảm đạm của mùa Trung Thu.

Năm ngoái, cũng vào dịp này, Bloomberg - hãng tin kinh tế, tài chính lớn nhất thế giới có một phóng sự về mùa Trung Thu ở Việt Nam, qua đó cảnh báo mức độ suy thoái của kinh tế Việt Nam càng ngày càng trầm trọng

Lúc ấy, Bloomberg nhận định, từ năm 2004, thị trường bán lẻ ở Việt Nam bắt đầu chựng lại và đi xuống vì càng ngày càng nhiều người quyết định “thắt lưng buộc bụng,” cắt giảm tối đa việc mua sắm từ những đồ xa xỉ như xe hơi, ti vi công nghệ cao đến các loại thực phẩm thiết yếu.

Bloomberg cảnh báo đó sẽ là lý do làm hàng hóa tồn đọng và các doanh nghiệp phải nỗ lực chống đỡ gánh nặng nợ nần vì vốn liếng bị bất động hóa, không những không sinh lợi mà giới chủ còn phải oằn mình trả lãi. Theo Bloomberg, thái độ lạnh nhạt của người tiêu dùng Việt Nam, tại một trong những thời kỳ mua sắm bận rộn nhất trong năm, chính là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy, mức độ suy thoái của kinh tế Việt Nam trầm trọng hơn trước.

Năm nay, dù đã áp dụng nhiều phương thức khuyến mãi nhưng các cửa hàng bán bánh Trung Thu ế ẩm đến mức người ta tin sẽ có nhiều doanh nghiệp, cá nhân trắng tay.

Báo cáo mới nhất của HSBC cho biết, tốc độ tăng sản lượng tiếp tục chậm lại trong tháng 8 và là chậm nhất trong 11 tháng vừa qua vì số lượng đơn đặt hàng mới giảm xuống, số lượng đơn đặt hàng xuất cảng mới cũng giảm. Mức tồn kho hàng thành phẩm của tháng 8 được HSBC tiết lộ là cao nhất trong 13 tháng vừa qua. (G.Ð)
(Người Việt)

Không được đổ nợ xấu lên đầu dân

Bong bóng bất động sản nổ. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng vùn vụt tăng. Vấn đề ngày càng nóng trên các diễn đàn.
Không được đổ nợ xấu lên đầu dân
Bong bóng bất động sản nổ khiến nợ xấu ngân hàng tăng vùn vụt (Ảnh minh họa)
 Để giải quyết nợ xấu, trong giới chuyên gia đã hình thành nhiều luồng ý kiến khác nhau. Một trong những luồng ý kiến đó là: Hoặc cần có một nguồn tiền thực sự để mạnh tay tái cấp vốn cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh. Để họ có thể xóa những món nợ biết chắc là không thể thu hồi được, ví dụ như nợ của DN nhà nước… hoặc tăng quyền lực cho VAMC (Cty TNHH Một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam).

Cụ thể là VAMC cần được chủ động trong các thủ tục pháp lý, thủ tục mua các khoản nợ xấu có vướng mắc về pháp lý. Sau khi mua rồi thì tìm nhà đầu tư để bán, và bán xong rồi thì hoàn tất được thủ tục về quyền sở hữu và quyền sử dụng cho nhà đầu tư. Có thể những quyền này của VAMC sẽ xung đột với những quy định của pháp luật hiện tại…

Hàng trăm DN nhà nước đang chuẩn bị múa tay chào mừng, nếu đề xuất trên được chấp nhận. Đầu tư ngoài ngành, quản lý kém, làm ăn thua lỗ, tham ô, làm thất thoát, mua thiết bị rởm, thiết bị đồng nát của nước ngoài về đắp chiếu…

DN nhà nước nào chả ôm một cục nợ ngân hàng to đùng? Trong tổng số nợ khổng lồ của khối DN nhà nước đó, số nợ “biết chắc không thể thu hồi được” đã lên đến con số hàng trăm ngàn tỷ. Xóa nợ. OK. Nhưng vấn đề là Ngân hàng Nhà nước lấy đâu ra “một nguồn tiền thực sự” để có thể mạnh tay tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh?

Lấy từ ngân sách thì chắc chắn không được rồi. Mỗi năm ngân sách thu được mấy trăm ngàn tỷ, thì thiếu trước hụt sau, năm nào cũng bội chi. Lại còn phải trả nợ nước ngoài, đến nỗi mới rồi, như báo chí đưa tin, là Chính phủ phải vay nước ngoài 1 tỷ USD nợ mới để trả nợ cũ.

Không thể lấy từ ngân sách thì chỉ còn cách là Ngân hàng Nhà nước sẽ in thêm tiền. Lúc đó cơn bão lạm phát lập tức bùng nổ. Và hậu quả là toàn dân lãnh đủ.

Hàng triệu công nhân vừa mới khấp khởi mừng vì đến tận… năm 2015, lương mới được tăng 15%, nếu gặp cú “vô lê” này, thì lương hình thức tuy tăng, nhưng lương thực tế lại giảm do lạm phát. Làm như vậy chẳng khác gì đổ khối nợ xấu khổng lồ đó của hệ thống ngân hàng lên đầu người dân?

Bơm tiền cho khối ngân hàng quốc doanh để ngân hàng xóa nợ xấu cho DN nhà nước. Nợ xấu sẽ được giải quyết. Những báo cáo của các ngân hàng lại sạch sẽ.

Còn những DN nhà nước thì lại tiếp tục mạnh tay vay tiền ngân hàng để “Gánh vàng đi đổ sông Ngô”, vì đã có niềm tin rằng nếu không trả được, thì lại sẽ được xóa. Nợ xấu sẽ lại phát sinh, và cái thòng lọng nợ xấu lại tiếp tục siết, càng ngày càng chặt.

Còn việc tăng quyền cho VAMC, dù những quyền đó xung đột với những quy định của pháp luật hiện tại, thì thật lạ lùng.

Đã gọi là “những quy định của pháp luật”, thì mọi cá nhân, tổ chức đều phải chấp hành. Xã hội có ổn định được hay không là do pháp luật có điều chỉnh được hành vi của toàn xã hội trong khuôn khổ của nó hay không.

Cho một DN được những quyền “xung đột" (nói thẳng ra là vi phạm) với những quy định của pháp luật hiện tại, thì khác nào đặt DN đó lên trên luật pháp? Và đã cho được một DN rồi, thì người ta có thể lại cho tiếp được DN thứ hai, thứ ba… Khi đó, xã hội sẽ ra sao?
  Vũ Hữu Sự
(Nông Nghiệp)

Hà Sĩ Phu - Hy vọng cuộc tranh luận trong Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là hữu ích

Thưa các anh.
 
Hình ảnh: HY VỌNG CUỘC TRANH LUẬN TRONG HỘI NHÀ BÁO ĐỘC LẬP VIỆT NAM LÀ HỮU ÍCH.

Hà Sĩ Phu

Thưa các anh. 
Bước đầu, chúng ta đã có thể thở phào, khi được nghe cả 2 anh Phạm Chí Dũng và Ngô Nhật Đăng phát biểu trên RFA, nói chung là đúng mực và xây dựng. Nhưng bây giờ phải ngồi lại với nhau, thẳng thắn bàn những việc căn bản. Nội quy tuy đã có như trong quá trình hình thành cần kịp thời tu chỉnh. Tôi xin phép được góp mấy ý kiến, mong được cả 2 trang Web và Facebook đều chấp nhận đăng.
Kính thư
Hsp

Vừa qua, một số bài tranh cãi nảy lửa giữa mấy thành viên chủ chốt trong Hội nhà báo Độc lập (ngay lúc sơ sinh mới tròn 2 tháng tuổi) không khỏi làm cho nhiều người lo lắng trước nguy cơ tan vỡ, nói ví von thì “khiến cho kẻ thù khoái trí người thân đau lòng”.
Nhưng cuộc giãi bày tâm tư trong một bài phỏng vấn của chính hai “đối thủ” trẻ đang “so găng” (nói vui thế cho thân mật), nhà báo kiêm chủ bút Phạm Chí Dũng và blogger Ngô Nhật Đăng, đã khiến cho những người trong cuộc tạm thời có thể thở phào, cơn giông bão tạm qua để cùng ngồi lại với nhau bàn lại những chuyện căn bản. Mong sao sự “thở phào” này không trở thành vô duyên.
Cuộc tranh cãi trong một hội có tên là “hội nhà báo độc lập” thì tất nhiên xoay quanh quan niệm làm báo và viết báo. Cái đích hướng tới thì quá lớn: phải dân chủ hóa đất nước để hồi sinh một dân tộc đã quá mệt mỏi, chán chường, nhân tâm ly tán, đang lao vào sống gấp hoặc sống cam chịu, để tìm lại sức chiến đấu cho một cuộc vừa chống nội xâm vừa chống ngoại xâm, đáp ứng nhu cầu xây dựng xã hội và bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm đã đến bên thềm! Nhiệm vụ đã khó tày trời lại phải tiến hành trong điều kiện chưa được tự do và hầu như tay trắng! Thật là một bài toán đố hóc búa, trong tình hình như vậy thì giữa những người tiên phong nếu không tranh cãi kịch liệt mới là chuyện lạ. Tôi mừng vì đã có tranh cãi, mà tranh cãi quyết liệt, và hy vọng sẽ được tiến triển theo chiều hữu ích.
Thật vậy, có hai luồng suy nghĩ:
 
- nên tìm sức mạnh ở tính có tổ chức, có chỉ đạo nhất quán, có điều lệ bài bản tương đối, có một đầu mối chỉ huy (coi là phương án 1),
 
- hay bước đầu cứ tạm lỏng lẻo, mạnh dạn khơi dậy tính năng động đa dạng rồi từ thực tế sẽ phát hiện, sàng lọc và hun đúc ra cái tối ưu (coi là phương án 2)? Phương án nào có độ an toàn và hiệu quả cao, có độ phiêu lưu (rủi ro) thấp nhất? 

Thực ra xã hội loài người vốn đã phải đối mặt với hai con đường này quá nhiều rồi. Phương án 1 sẽ  là tuyệt vời nếu có một minh quân, một thủ lĩnh tuyệt vời muôn năm, và phương pháp là cho thủ lĩnh đó càng độc quyền càng tốt, càng nhanh đến đích. Nhưng nếu có rủi ro thì rủi ro sẽ cực lớn khó lòng cứu vãn, kiểu được ăn cả ngã về không!. Chủ nghĩa CS đã đi đúng con đường đó và kết quả là đảng CS đã “ăn cả” còn nhân dân thì đã “về không”, vì biết bao người “chân chính” đã đinh ninh là tìm được Minh… quân rồi nên quyết lao theo, không tiếc cả mạng sống! Vẻ bề ngoài thì đó là bản lĩnh, là kiên quyết nhưng thực chất đó là tư duy ngại khó nên muốn liều đi thẳng một phen cho đơn giản.

Phương án thứ hai thì “cứ phải có nhiều để chọn lọc”! Tất nhiên đã nhiều thì tốt xấu cùng xuất hiện, xen kẽ nhau, nên phải thi đua, phải cạnh tranh, phải cọ xát. Các thủ lĩnh ham quyền thường không ưa sự thi đua “mất thì giờ” này, nhưng nhân dân thì được lợi.
Nêu ra hai đường lối ấy chẳng qua là điển hình hóa rành mạch cho dễ hiểu thôi. Trường hợp cụ thể của Hội nhà báo độc lập chúng ta không phải điển hình như vậy đâu, có mặt thế này, có mặt thế khác, nên phải dung hòa.
 
Để khỏi mất thì giờ, xin cho phép tôi, với tư cách một hội viên, thử nêu mấy giải pháp dung hòa như sau:

1/ Vẫn có tính tổ chức của một hội nghề nghiệp nhưng tạm thời chỉ nên lỏng lẻo. Đừng “bắt” Hội trưởng Phạm Chí Dũng phải chịu trách nhiệm quá nặng nề, cái gì cũng đổ lên đầu Chủ tịch hội thì TS Dũng không chịu nổi đâu. Nói chữ nghĩa thì đó là sự phân quyền, đồng thời phân trách nhiệm, sẽ nói rõ trong những phần sau
.    
2/ Là Hội nhà báo tất nhiên phải ra báo, nhưng ngoài ra còn những hoạt động khác. Cần có một tờ báo của hội (đang là Việt Nam thời báo), nhưng ông Phạm Chí Dũng không làm trưởng Ban biên tập, để có thì giờ lo công việc chung. Ban Biên tập cũng không nên quá thuần nhất.

3/ Ngoài tờ báo chính thức của Hội, các cá nhân hội viên hoặc các nhóm hội viên cùng ý tưởng có thể ra các Blog hay Facekook khác nhau (nghĩa là có thể nhiều chứ không phải chỉ một Facebook của ông Ngô Nhật Đăng hiện nay). Báo của nhóm nào thì nhóm ấy phải chịu trách nhiệm mọi mặt về tờ báo của mình. Ban Chấp hành Hội chỉ có trách nhiệm liên đới. 

4/ Vì có trách nhiệm liên đới nên khi một nhóm nào định ra báo cần thảo luận trước với BCH, trên manchette phải có 2 dòng, một dòng “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” và dòng dưới là tên cụ thể của nhóm, của phân hội ra báo đó. Các báo của nhóm (hay phân hội) được quyền tự biên tập, không cần BCH  hội phải duyệt. Nhưng sự tự do ấy cần theo tinh thần hợp tác, nhìn nhau mà làm, khi có vấn đề quan trọng thì cần phối hợp, và điều này không cản trở quyền tự do tư tưởng và tinh thần tự do báo chí của hội viên. 

5/ Tổ chức nào, càng sơ khai càng phải coi trọng tính “nội bộ”. Những ý kiến trao đổi cá nhân hoặc trao đổi nội bộ, muốn đăng công khai phải được sự đồng ý của cá nhân đó hoặc tập thể đó. Vi phạm nét văn hóa trao đổi này sẽ phá vỡ sự đoàn kết, phá vỡ sự tin cậy để đàm thoại, và dẫn đến sự phân ly không thể khác.
 
6/ Vì nhu cầu ra báo nên ngoài sự phân chia thành 3 chi hội Bắc-Trung-Nam có thể thành lập các nhóm hay các phân hội theo sự tương đồng về ý tưởng, về sở trường, sở thích. Các nhóm hãy đặt một tên cho nhóm mình để dễ xưng danh, dễ gọi. Một mặt về phía hội viên cần chia nhỏ để dễ gặp nhau, dễ sinh hoạt, nhưng một mặt  không để tình trạng BCH hội bị đơn độc như thời gian vừa qua. Ở Hà nội và nhất là Sài gòn cần bổ sung thêm người vào BCH , đại diện được nhiều thế mạnh khác nhau, để cùng hỗ trợ nhau. Thực tế vừa qua Chủ tịch Hội phải gánh quá nhiều việc trong khi lại đơn độc, thiếu sự hỗ trợ của một tập thể các ủy viên.
  
Mấy ý chắc còn vội vàng, xin mạnh dạn góp vào công việc của Hội, và xin chúc thành công.

                                                                                Đà Lạt 7/9/2014
                                                                                      H.S.P
Hà Sĩ Phu
Bước đầu, chúng ta đã có thể thở phào, khi được nghe cả 2 anh Phạm Chí Dũng và Ngô Nhật Đăng phát biểu trên RFA, nói chung là đúng mực và xây dựng. Nhưng bây giờ phải ngồi lại với nhau, thẳng thắn bàn những việc căn bản. Nội quy tuy đã có như trong quá trình hình thành cần kịp thời tu chỉnh. Tôi xin phép được góp mấy ý kiến, mong được cả 2 trang Web và Facebook đều chấp nhận đăng.
 
Kính thư
Hsp

Vừa qua, một số bài tranh cãi nảy lửa giữa mấy thành viên chủ chốt trong Hội nhà báo Độc lập (ngay lúc sơ sinh mới tròn 2 tháng tuổi) không khỏi làm cho nhiều người lo lắng trước nguy cơ tan vỡ, nói ví von thì “khiến cho kẻ thù khoái trí người thân đau lòng”.
Nhưng cuộc giãi bày tâm tư trong một bài phỏng vấn của chính hai “đối thủ” trẻ đang “so găng” (nói vui thế cho thân mật), nhà báo kiêm chủ bút Phạm Chí Dũng và blogger Ngô Nhật Đăng, đã khiến cho những người trong cuộc tạm thời có thể thở phào, cơn giông bão tạm qua để cùng ngồi lại với nhau bàn lại những chuyện căn bản. Mong sao sự “thở phào” này không trở thành vô duyên.
Cuộc tranh cãi trong một hội có tên là “hội nhà báo độc lập” thì tất nhiên xoay quanh quan niệm làm báo và viết báo. Cái đích hướng tới thì quá lớn: phải dân chủ hóa đất nước để hồi sinh một dân tộc đã quá mệt mỏi, chán chường, nhân tâm ly tán, đang lao vào sống gấp hoặc sống cam chịu, để tìm lại sức chiến đấu cho một cuộc vừa chống nội xâm vừa chống ngoại xâm, đáp ứng nhu cầu xây dựng xã hội và bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm đã đến bên thềm! Nhiệm vụ đã khó tày trời lại phải tiến hành trong điều kiện chưa được tự do và hầu như tay trắng! Thật là một bài toán đố hóc búa, trong tình hình như vậy thì giữa những người tiên phong nếu không tranh cãi kịch liệt mới là chuyện lạ. Tôi mừng vì đã có tranh cãi, mà tranh cãi quyết liệt, và hy vọng sẽ được tiến triển theo chiều hữu ích.
Thật vậy, có hai luồng suy nghĩ:

- nên tìm sức mạnh ở tính có tổ chức, có chỉ đạo nhất quán, có điều lệ bài bản tương đối, có một đầu mối chỉ huy (coi là phương án 1),

- hay bước đầu cứ tạm lỏng lẻo, mạnh dạn khơi dậy tính năng động đa dạng rồi từ thực tế sẽ phát hiện, sàng lọc và hun đúc ra cái tối ưu (coi là phương án 2)? Phương án nào có độ an toàn và hiệu quả cao, có độ phiêu lưu (rủi ro) thấp nhất?

Thực ra xã hội loài người vốn đã phải đối mặt với hai con đường này quá nhiều rồi. Phương án 1 sẽ là tuyệt vời nếu có một minh quân, một thủ lĩnh tuyệt vời muôn năm, và phương pháp là cho thủ lĩnh đó càng độc quyền càng tốt, càng nhanh đến đích. Nhưng nếu có rủi ro thì rủi ro sẽ cực lớn khó lòng cứu vãn, kiểu được ăn cả ngã về không!. Chủ nghĩa CS đã đi đúng con đường đó và kết quả là đảng CS đã “ăn cả” còn nhân dân thì đã “về không”, vì biết bao người “chân chính” đã đinh ninh là tìm được Minh… quân rồi nên quyết lao theo, không tiếc cả mạng sống! Vẻ bề ngoài thì đó là bản lĩnh, là kiên quyết nhưng thực chất đó là tư duy ngại khó nên muốn liều đi thẳng một phen cho đơn giản.

Phương án thứ hai thì “cứ phải có nhiều để chọn lọc”! Tất nhiên đã nhiều thì tốt xấu cùng xuất hiện, xen kẽ nhau, nên phải thi đua, phải cạnh tranh, phải cọ xát. Các thủ lĩnh ham quyền thường không ưa sự thi đua “mất thì giờ” này, nhưng nhân dân thì được lợi.

Nêu ra hai đường lối ấy chẳng qua là điển hình hóa rành mạch cho dễ hiểu thôi. Trường hợp cụ thể của Hội nhà báo độc lập chúng ta không phải điển hình như vậy đâu, có mặt thế này, có mặt thế khác, nên phải dung hòa.

Để khỏi mất thì giờ, xin cho phép tôi, với tư cách một hội viên, thử nêu mấy giải pháp dung hòa như sau:

1/ Vẫn có tính tổ chức của một hội nghề nghiệp nhưng tạm thời chỉ nên lỏng lẻo. Đừng “bắt” Hội trưởng Phạm Chí Dũng phải chịu trách nhiệm quá nặng nề, cái gì cũng đổ lên đầu Chủ tịch hội thì TS Dũng không chịu nổi đâu. Nói chữ nghĩa thì đó là sự phân quyền, đồng thời phân trách nhiệm, sẽ nói rõ trong những phần sau
.
2/ Là Hội nhà báo tất nhiên phải ra báo, nhưng ngoài ra còn những hoạt động khác. Cần có một tờ báo của hội (đang là Việt Nam thời báo), nhưng ông Phạm Chí Dũng không làm trưởng Ban biên tập, để có thì giờ lo công việc chung. Ban Biên tập cũng không nên quá thuần nhất.

3/ Ngoài tờ báo chính thức của Hội, các cá nhân hội viên hoặc các nhóm hội viên cùng ý tưởng có thể ra các Blog hay Facekook khác nhau (nghĩa là có thể nhiều chứ không phải chỉ một Facebook của ông Ngô Nhật Đăng hiện nay). Báo của nhóm nào thì nhóm ấy phải chịu trách nhiệm mọi mặt về tờ báo của mình. Ban Chấp hành Hội chỉ có trách nhiệm liên đới.

4/ Vì có trách nhiệm liên đới nên khi một nhóm nào định ra báo cần thảo luận trước với BCH, trên manchette phải có 2 dòng, một dòng “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” và dòng dưới là tên cụ thể của nhóm, của phân hội ra báo đó. Các báo của nhóm (hay phân hội) được quyền tự biên tập, không cần BCH hội phải duyệt. Nhưng sự tự do ấy cần theo tinh thần hợp tác, nhìn nhau mà làm, khi có vấn đề quan trọng thì cần phối hợp, và điều này không cản trở quyền tự do tư tưởng và tinh thần tự do báo chí của hội viên.

5/ Tổ chức nào, càng sơ khai càng phải coi trọng tính “nội bộ”. Những ý kiến trao đổi cá nhân hoặc trao đổi nội bộ, muốn đăng công khai phải được sự đồng ý của cá nhân đó hoặc tập thể đó. Vi phạm nét văn hóa trao đổi này sẽ phá vỡ sự đoàn kết, phá vỡ sự tin cậy để đàm thoại, và dẫn đến sự phân ly không thể khác.

6/ Vì nhu cầu ra báo nên ngoài sự phân chia thành 3 chi hội Bắc-Trung-Nam có thể thành lập các nhóm hay các phân hội theo sự tương đồng về ý tưởng, về sở trường, sở thích. Các nhóm hãy đặt một tên cho nhóm mình để dễ xưng danh, dễ gọi. Một mặt về phía hội viên cần chia nhỏ để dễ gặp nhau, dễ sinh hoạt, nhưng một mặt không để tình trạng BCH hội bị đơn độc như thời gian vừa qua. Ở Hà nội và nhất là Sài gòn cần bổ sung thêm người vào BCH , đại diện được nhiều thế mạnh khác nhau, để cùng hỗ trợ nhau. Thực tế vừa qua Chủ tịch Hội phải gánh quá nhiều việc trong khi lại đơn độc, thiếu sự hỗ trợ của một tập thể các ủy viên.

Mấy ý chắc còn vội vàng, xin mạnh dạn góp vào công việc của Hội, và xin chúc thành công.
Đà Lạt 7/9/2014   Hà Sĩ Phu
(FB Việt Nam Thời Báo)

Trương Nhân Tuấn - Khổ ghê, người Việt Nam nào lấy đất Kampuchia Krom ?

Nếu xét lại một cách sâu xa (trên vấn đề pháp lý) thì không có người VN nào « lấy đất » của Kampuchia hết cả.
Nam Kỳ lục tỉnh được vua nhà Nguyễn ký nhượng cho Pháp vào các hiệp ước năm 1862 và 1874. Nếu đất đó là « của » Kampuchia, thì đáng lẽ năm 1863, khi ký hiệp ước để nhận sự bảo hộ của Pháp, thì vua Miên phải lên tiếng phản đối (hoặc bảo lưu) cho Pháp biết vùng đất đó là của mình. Sự im lặng của Miên (qua các hành vi của nhà Nguyễn năm 1862 và 1874) là nhìn nhận đất đó thuộc chủ quyền của VN.


Mặt khác, nếu đất đó thuộc chủ quyền của Miên, sự im lặng của triều đình Nam Vang, từ năm 1962 cho đến năm 1949, mặc nhiên được hiểu là vương triều Cambodge đã từ bỏ chủ quyền (không điều kiện) ở vùng đất đó cho Pháp.

Trong khi đó, các triều vua nhà Nguyễn tiếp nối (cho đến Bảo Đại), cũng như tất cả các đảng phái chính trị VN, quốc gia cũng như cộng sản, đều có chung mục đích đánh Pháp để dành độc lập và thống nhất (ba kỳ) đất nước. Những yêu sách này đã thể hiện liên tục trong suốt lịch sử Việt Nam thời cận đại.

Vì vậy Quốc hội Pháp quyết định trả Nam Kỳ lại cho Bảo Đại (hậu duệ nhà Nguyễn), mà không trả cho Sihanouk, vào tháng 3 năm 1949 là điều hợp lý.

Phía Kampuchia đã nhiều lần nhìn nhận chủ quyền của VN tại vùng đất Nam Kỳ, qua các yêu cầu đòi phân định lại biên giới, với chính quyền thực dân Pháp, sau đó với các chính quyền của VN. Theo đó toàn bộ vùng Khmer Krom thuộc về VN.

Điển hình nhất, bộ bản đồ Kampuchia (do sở Địa dư Đông dương ấn hành năm 1953), được Sihanouk yêu cầu thế giới tôn trọng « lãnh thổ của Kampuchia », thì theo đó toàn bộ các tỉnh Nam Kỳ cũng thuộc về VN.

Vì vậy, trên phương diệp pháp lý, phía Kampuchia không có lý do nào để lên tiếng đặt lại yêu sách về lãnh thổ với VN.

Lãnh thổ Thái Lan hiện thời bao gồm ¾ lãnh thổ của Khmer ngày xưa. Trên đất Thái Lan, cũng có đông đảo người Miên sinh sống, (như một sắc dân Khmer Krom ở VN). Không thấy người Miên nào đòi lại đất từ người Thái.

Những người nông dân thật thà chấc phác Kampuchia đã bị các thế lực (chống VN) tuyên truyền nhằm xách động tinh thần dân tộc.

Điều mà người ta không bao giờ quên là dân Khmer, trong lịch sử, đã nhiều lần phát động tinh thần bài xích người Việt, đã tàn sát người Việt (cáp duồn), trong khi phía người Việt thì chưa bao giờ làm các việc dã man tương tự.
Trương Nhân Tuấn
(FB Trương Nhân Tuấn)

Bắc Kinh Thu Giữ Hộ Chiếu Của Các Quan Chức Chính Quyền

Biện pháp mới của Bắc Kinh nhằm ngăn chặn quan chức tham nhũng đào tẩu khỏi Trung Quốc
Một người dân Trung Quốc đang cầm hộ chiếu trên tay. Mới đây, chính quyền thành phố Bắc Kinh ban hành quy định các công chức phải giao nộp hộ chiếu và hạn chế ra nước ngoài với nhiều thủ tục phê duyệt nghiêm ngặt. (Omar Havana/Getty Images)
Truyền thông nhà nước đưa tin, để ngăn chặn các quan chức tham nhũng chạy trốn, gần đây, Bắc Kinh đã đưa ra quy định hạn chế ra nước ngoài đối với công chức và yêu cầu các quan chức giao nộp hộ chiếu.
Mới đây, chính quyền thành phố Bắc Kinh ban hành quy định cán bộ từ cấp phòng trở lên sẽ không được phép ra nước ngoài vì lý do cá nhân thông thường. Trong một số trường hợp đặc biệt, công chức có thể xin phép lãnh đạo cấp cao hơn để được phê duyệt ra nước ngoài theo một quy trình nghiêm ngặt.
Toàn bộ những người giữ vị trí lãnh đạo quan trọng trong nhà nước như quản lý về nhân lực, tài chính, những người tiếp cận với các tài liệu mật… phải qua kiểm tra gắt gao thì mới được phép đi nước ngoài.
Quy định mới cũng yêu cầu công chức phải nộp lại hộ chiếu cho phòng tổ chức cán bộ ngay khi từ nước ngoài về.
Chính quyền thành phố Bắc Kinh cũng tăng cường giám sát những công chức bị nghi ngờ có kế hoạch đào tẩu. Khi thấy dấu hiệu chạy trốn của công chức, những người khác trong cơ quan phải báo cáo theo từng cấp lên chính quyền thành phố trong vòng 48 giờ.
Những quy định mới được ban hành sau cuộc thanh trừng hồi đầu năm nay đối với những “quan chức chạy trốn” có vợ hoặc chồng và con cái định cư ở nước ngoài (thường là mang theo một phần tài sản). Đầu năm nay, nhà nước ban hành quy định những người như vậy sẽ không được cân nhắc cho các vị trí cao hơn.
Trốn chạy của quan chức tham nhũng trở thành vấn đề cấp bách trong những năm gần đây. Theo số liệu báo cáo của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, trong năm 2013, đã có 762 quan chức bị bắt khi đang trên đường chạy trốn với tổng số tiền và hàng hóa phi pháp lên đến 10 tỉ nhân dân tệ (tương đương 1,6 tỉ đô la Mỹ).
Trang tin tiếng Hoa tại hải ngoại Boxun dẫn lời các quan chức tại Cục Hàng không Dân sự cho biết năm 2012 có hơn 350 quan chức chạy trốn nhưng không thành. Họ đã bị hải quan bắt giữ tại sân bay Bắc Kinh với hơn 300 tỉ nhân dân tệ (tương đương 4,9 tỉ đô la Mỹ).
Để hạn chế và ngăn chặn các vụ chạy trốn tương tự, ĐCSTQ bắt đầu tiến hành điều tra các quan chức chạy trốn tại tất cả tỉnh thành trong năm nay.
Chỉ riêng tại tỉnh Quảng Đông tổng số quan chức chạy trốn được công bố lên đến 2.190 người. Hơn 10 tỉnh, thành phố tuyên bố “không tiện tiết lộ về số lượng quan chức chạy trốn”. Nhiều tỉnh, thành phố khác im lặng về vấn đề này.
Chương Tây Tiên (Zhang Xixian), giáo sư tại Trường Trung ương Đảng phát biểu với truyền thông Trung Quốc rằng chính quyền tỉnh muốn giữ im lặng bởi con số quan chức chạy trốn quá lớn khiến họ lo ngại nếu tiết lộ sẽ gây ảnh hưởng chính trị tiêu cực.
(Đại Kỷ Nguyên) 

Trung Quốc lên giọng dạy các nước ứng xử ở Biển Đông

(VTC News) - Tờ Hoàn Cầu thời báo của Trung Quốc nói trong cuộc gặp với người đồng cấp Australia Bishop hôm 7/9, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị ngang nhiên đưa ra 4 điểm cần tôn trọng của các bên liên quan trong vấn đề Biển Đông.
Theo đó, trong cuộc đối thoại chiến lược ngoại giao giữa Australia – Trung Quốc diễn ra ở Sydney hôm 7/9, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ngang nhiên nêu ra 4 điểm cần tôn trọng trong vấn đề Biển Đông.
Trung Quốc lên giọng dạy các nước ứng xử ở Biển Đông
Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị
Ông Vương nói các bên có tranh chấp cần 'tôn trọng thực tế lịch sử', đồng thời nói vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với các đảo nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa là vấn đề lịch sử nan giải, từ đó đưa ra điều kiện để giải quyết ổn thỏa vấn đề này là 'các bên liên quan cần hiểu rõ lịch sử để có cách nhìn khách quan và công bằng'.
  
Điểm thứ hai mà ông Vương nói tới là các bên cần tôn trọng luật pháp quốc tế. Ông Vương ngang nhiên cho rằng 'Trung Quốc luôn là nước mẫu mực trong việc duy trì thực thi các nguyên tắc và luật lệ quốc tế, Trung Quốc đã thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm theo luật pháp quốc tế'.

Điểm thứ ba là cần tôn trọng hiệp định đối thoại trực tiếp giữa các nước vì đây là cơ sở giúp giải quyết tranh chấp giữa các nước một cách ổn thỏa, phù hợp với tinh thần quốc tế là giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại. Hơn nữa, điều này cũng đã được quy định rõ trong Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
  
Cuối cùng, ông Vương nhấn mạnh các bên cần tôn trọng 'nỗ lực của Trung Quốc trong việc cùng ASEAN duy trì trật tự hòa bình ở Biển Đông'.

Trung Quốc luôn rao giảng về việc thực thi luật pháp quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông trong khi hành động lại đi ngược hoàn toàn với những gì họ nói.

Cụ thể là việc Trung Quốc đã gây bức xúc trong dư luận thế giới khi ngang nhiên vẽ ra đường 9 đoạn đứt khúc ở Biển Đông, hay còn gọi là đường lưỡi bò bao trọn 90% diện tích Biển Đông mà không có bất cứ chứng cứ pháp lý xác thực nào.

Mới đây nhất hồi tháng 5 vừa qua, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

Sau hai tháng hoạt động thăm dò trái phép, Trung Quốc  tuyên bố rút giàn khoan Hải Dương-981.
Tố Ngôn (theo Huanqiu.com)
(VTC)

Một bức tranh thu nhỏ của giới cầm bút Việt Nam tại Úc

Giống Hoàng Ngọc-Tuấn, Võ Quốc Linh cũng sinh tại Nha Trang (năm 1959). Và cũng giống Hoàng Ngọc-Tuấn, Võ Quốc Linh cũng trải qua vô số nhà tù (chủ yếu vì “tội” vượt biên và không có hộ khẩu), trong đó có nhiều nhà tù chung với Hoàng Ngọc-Tuấn. Trước, trong và ngoài nhà tù, Võ Quốc Linh làm rất nhiều thơ, nhưng lại cũng giống Hoàng Ngọc-Tuấn, lúc còn ở trong nước, anh không gửi thơ đăng ở đâu cả, vậy mà, lạ, thơ anh vẫn được nhiều bạn bè ghi nhớ. Anh chỉ thực sự xuất bản thơ khi anh đã sang tị nạn tại Úc (1986), thoạt đầu, trên Tập Họp, và sau, trên Việt cũng như Tiền Vệ. Giữa các tờ báo này, chỉ có một thay đổi nhỏ: Trước, anh chỉ làm thơ; sau, ngoài việc làm thơ, anh còn viết bút ký, trong đó, bài “Nhớ Lê Thành Nhơn” (1) và “Lê Văn Tài giữa cõi vô trú xứ” (2) được nhiều người ưa thích.
Nếu Lê Văn Tài đến với văn học từ hội hoạ, Hoàng Ngọc-Tuấn từ âm nhạc, Nguyễn Minh Quân (sinh năm 1960) lại đến với văn học từ khoa học. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa ở Việt Nam năm 1984, Nguyễn Minh Quân sang Úc năm 1990. Ở Úc, sau khi thi lại bằng hành nghề bác sĩ Y khoa, anh nhận được học bổng nên chuyển sang học Hoá học và tốt nghiệp Tiến sĩ năm 1996. Được giữ lại làm việc ở trường Victoria University, ngoài một số giờ đứng lớp, cả ngày anh lui cui trong phòng thí nghiệm. Sự ra đời của Việt làm thức dậy ở anh một niềm đam mê từ lâu bị đè nén: anh bèn quay sang viết về văn học; trong văn học, anh chọn một góc cạnh khá hiểm hóc: lý thuyết; trong lý thuyết, anh nhảy thẳng vào một khu vực còn rất mới mẻ, thậm chí, rất xa lạ với đại đa số giới nghiên cứu Việt Nam: chủ nghĩa hậu hiện đại và giải kiến tạo (deconstruction). Những bài viết về lý thuyết văn học rõ ràng, mạch lạc và sâu sắc của anh được đăng đi đăng lại ở Việt Nam, như là những tài liệu quý báu hiếm hoi về lý thuyết văn học đương đại đối với giới cầm bút trong nước.
Trẻ hơn Nguyễn Minh Quân một tuổi, Chim Hải ra đời tại Phan Rí, lớn lên, làm kế toán ở Phan Thiết, rồi vượt biên đến đảo Bidong, Malaysia năm 1983; hai năm sau, sang định cư tại Úc. Trong hai năm ở Bidong, Chim Hải làm thơ khá nhiều. Những bài thơ ấy, thoạt đầu, được đăng trên các tờ báo trên đảo; sau, trên các tuần báo tại Úc, và cuối cùng, được in thành tập với nhan đề Vần thơ cho anh (1988). Sau đó, vừa học vừa đi làm việc để sinh sống, chị vẫn tiếp tục làm thơ, đăng ở nhiều nơi; nhưng khi tham gia trên Việt, chị xuất hiện với một phong cách khác: về hình thức, tự do; về ngôn ngữ, gân guốc; về cảm xúc, có độ nén rất cao; và về nghệ thuật, thành thực mà nói, hay hơn hẳn.
Trong khi tất cả những người trên đều sinh ở miền Nam, Tạ Duy Bình ra đời tại Hà Nội (năm 1964 - trên giấy tờ ghi 1967). Ở Hà Nội, anh học kịch câm tại Nhà hát Tuổi trẻ, sau đó, trở thành diễn viên kịch câm. Năm 1988, nhân chuyến đi tham dự Liên hoan quốc tế những người viết kịch trẻ tại Canberra, anh quyết định xin tị nạn tại Úc. Ở Úc, anh tham gia vào một số ban kịch, rồi, năm 1995, cùng Bruce Keller, thành lập Citymoon Theatre, ở đó, anh vừa viết kịch bản vừa làm đạo diễn và làm cả diễn viên. Tốt nghiệp Thạc sĩ về Sân khấu tại Đại học Wollongong, Tạ Duy Bình có hai kịch bản bằng tiếng Anh được xuất bản: “Conversations with Charlie” in trong số đặc biệt về “Diaspora: Negotiating Asian-Australia” của tạp chí Journal of Australian Studies & Australian Cultural History do trường Đại học Queensland xuất bản (2000) và “Monkey Mother” in trong cuốn Three Plays by Asian Australians do Don Batchelor biên tập (Playlab xuất bản tại Brisbane năm 2000). Một vở kịch khác của anh, Yellow is Not Yellow, hoàn thành với sự tài trợ của Western Sydney Artists Fellowship Award năm 2005, đã được trình diễn thử nghiệm năm 2010 tại Riverside Theatre, Parramatta, Sydney (3). Tạ Duy Bình chỉ bắt đầu làm thơ từ năm 1999, và hầu như chỉ đăng trên tạp chí Việt, và sau đó, trên Tiền Vệ.
Lúc Lê Văn Tài đã thành danh như một hoạ sĩ ở Huế, Nguyễn Hoàng Văn mới ra đời (năm 1965), và mười năm sau, lúc anh bộ đội Lê Văn Tài về Đà Nẵng, Nguyễn Hoàng Văn vẫn còn lơ ngơ ở một trường tiểu học nhỏ xíu ở Hội An. Năm 1989, anh vượt biên, đến được Hong Kong, và năm 1994, được sang Úc định cư. Tại Úc, anh ghi danh học tại trường Victoria University, chuyên ngành về Ngoại thương và Á châu học. Đang là sinh viên, anh viết bài thường xuyên cho một số tờ báo Việt ngữ ở Sydney vừa để thoả mãn nhu cầu viết lách vừa như một sinh kế. Chủ yếu là bình luận thời sự. Khi tạp chí Việt ra đời, anh tham gia ngay từ số 2. Ngòi bút anh cũng chuyển hướng: từ chuyện xã hội và chính trị sang lãnh vực văn học và văn hoá. Anh viết nhanh và viết nhiều, đến năm 2002, lúc Việt đình bản, anh đã đủ bài để in hẳn thành một cuốn sách, cuốn Văn hoá, giới tính và văn học, với một phong cách được khen ngợi là “thông minh một cách tinh quái” (4).
Nguyễn Hoàng Tranh ra đời một năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc (1976) tại một làng quê hẻo lánh ở Tuy Hoà. Năm 14 tuổi, anh cùng với mẹ và chị em sang Úc đoàn tụ với người cha đã vượt biên từ hơn 10 năm trước. Tại Úc, sau khi học xong trung học, anh vào đại học, học về Kinh tế và Luật, sau đó, tốt nghiệp, trở thành luật sư; và sau đó nữa, trở thành giám đốc một công ty luật khá thành đạt ở Sydney.
Ngay từ lúc còn là học sinh và sinh viên, Nguyễn Hoàng Tranh đã làm thơ. Nhưng cũng giống như trường hợp của Lê Văn Tài và Hoàng Ngọc-Tuấn, tạp chí Việt đã mang đến cho anh một sự thay đổi có tính đột biến. Anh vất bỏ cả hàng mấy chục bài thơ sáng tác lúc trước. Anh hầu như biến thành một người khác. Với một phong cách khác. Và hay. Anh được mời vào Ban biên tập tạp chí Việt. Từ đó, anh viết rất nhiều. Chỉ trong vòng mấy năm, anh xuất bản hai tập thơ: Thở (2003) và Chữ (2005).
Sinh năm 1982, Phan Quỳnh Trâm trẻ hơn Nguyễn Hoàng Tranh sáu tuổi và sang Úc cũng muộn hơn, lúc đã 18 tuổi. Nhưng cũng giống như Nguyễn Hoàng Tranh, ở đại học, chị học một ngành rất xa văn chương: Khoa học điện toán; sau đó, đi làm trong lãnh vực truyền thông và ngân hàng. Giống Hoàng Ngọc-Tuấn, đam mê đầu tiên của Phan Quỳnh Trâm là ở âm nhạc. Chính Tiền Vệ đã lôi cuốn chị vào thế giới văn chương với tư cách một người cầm bút. Khác Nguyễn Hoàng Tranh, Phan Quỳnh Trâm không những viết bằng tiếng Việt mà còn viết cả bằng tiếng Anh; không những sáng tác mà còn dịch thuật.
Cùng thế hệ với Phan Quỳnh Trâm, Tú Trinh (sinh năm 1983), chỉ mới sang Úc từ năm 2008, sau khi đã tốt nghiệp đại học (ngành Ngữ Văn) và làm việc (trong ngành truyền thông); hơn nữa, đã có một số bài thơ được đăng tải trên báo chí ở Việt Nam (chủ yếu là báo Mực Tím và Tuổi Trẻ). Sang Úc, chị học Thạc sĩ về Truyền thông; sau đó, làm việc trong chương trình Việt ngữ của đài SBS. Trong thời gian đi học cũng như khi đi làm, chị vẫn viết, thoạt đầu, chỉ giới hạn trong sáng tác, và ở sáng tác, chỉ tập trung vào một thể loại: thơ; nhưng sau, cũng giống Phan Quỳnh Trâm, chị mở rộng sang một lãnh vực khác: dịch thuật; và một thế giới khác: làm thơ bằng tiếng Anh, dù một cách hoạ hoằn.
Ở trên là phác hoạ chân dung của một số người cầm bút Việt Nam tại Úc. Ngoài họ, ở Úc, có cả hàng trăm người cầm bút; trong số đó, chỉ giới hạn trong phạm vi văn học, cũng có đến vài chục người viết khá thường xuyên và ít nhiều có tên tuổi. Tuy nhiên, tôi chỉ chọn một số người đủ để minh họa cho tính chất đa dạng của các cây bút Việt Nam hiện đang sống tại Úc. Đa dạng về phái tính, tuổi tác, nghề nghiệp, địa phương lúc còn ở Việt Nam, thời điểm sang Úc định cư cũng như về thể loại họ ưa thích. Điểm chung duy nhất của họ là : Họ đến, hoặc thực sự đến, với văn học từ tạp chí Việt và/hoặc Tiền Vệ. Có thể nói Việt và Tiền Vệ là hai điểm xuất phát hoặc tập hợp chính của giới cầm bút Việt Nam tại Úc.
Nếu nhìn rộng ra những người từng ít nhiều cộng tác với tạp chí Việt và Tiền Vệ, chúng ta dễ dàng nhận thấy họ có mấy đặc điểm chính:
Thứ nhất, về tuổi tác, giới cầm bút Việt Nam ở Úc khá trẻ. Chỉ có bốn người trưởng thành trước 1975: Huy Tưởng, Lê Văn Tài, Trần Đình Lương và Đông Phương. Nhìn rộng hơn, bên ngoài Việt và Tiền Vệ, chúng ta cũng có thể thấy một số người khác nữa. Trong cuốn Văn học miền Nam, Tổng quan, nhà văn Võ Phiến có liệt kê danh sách và tiểu sử của 374 người cầm bút ở miền Nam trong giai đoạn từ 1954 đến 1975 (5). Trong số đó, chỉ có bốn người định cư tại Úc: Đoàn Nhật Tấn, Thiếu Mai, ký giả Lô-răng Phan Lạc Phúc và Lệ Hằng (6). Đoàn Nhật Tấn chỉ là một nhà giáo, chỉ viết sách về giáo dục; Thiếu Mai, vốn viết rất ít và viết cũng không hay, hơn nữa, ngay từ trước 1975, đã ngưng cầm bút từ lâu. Chỉ có Phan Lạc Phúc và Lệ Hằng là có thể được xem là nhà văn. Nhưng văn của Lệ Hằng khá bình dân, còn văn của Phan Lạc Phúc lại nặng về báo chí. Thành ra, có thể nói, văn học Việt Nam tại Úc hoàn toàn thiếu vắng những đại thụ hay cổ thụ từ trước. Điều này khiến văn học tại Úc khác hẳn văn học tại Mỹ, Pháp hay Canada. Ở các quốc gia ấy, một thời gian khá dài, chính những người cầm bút đã nổi tiếng trước 1975 đóng vai trò đầu đàn, nắm giữ những tờ báo văn học có uy tín nhất, như ở tờ Văn Học Nghệ Thuật là Võ Phiến và Lê Tất Điều; ở tờ Văn Học là Nguyễn Mộng Giác; ở tờ Văn là Mai Thảo và sau đó, Nguyễn Xuân Hoàng. Chỉ mãi đến đầu thập niên 1990, với tờ Hợp Lưu của Khánh Trường và tờ Tạp chí Thơ của Khế Iêm, mới thấy xuất hiện một lớp chủ bút trẻ hơn. Nhưng dù trẻ, họ cũng vẫn là những người đã trưởng thành trước 1975. Điều ấy khiến Nguyễn Mộng Giác, ngay từ cuối thập niên 1990, đã lên tiếng báo động về tình trạng mà ông gọi là “lão hoá” trong sinh hoạt văn học (7).
Ở Úc, không có “lão” và cũng không bị “lão hoá”. Các thế hệ kế tiếp nhau khá liên tục. Trong số các cây bút tham gia trên tờ Việt và Tiền Vệ, có một số người sinh trong thập niên 1940 (Huy Tưởng (8), Trần Đình Lương, Đông Phương và Lê Văn Tài), thập niên 1950 (Thường Quán, Uyên Nguyên, Hoàng Ngọc-Tuấn, Nguyễn Hưng Quốc, Võ Quốc Linh, Lê Nguyên Tịnh); một số người khác trong thập niên 1960 (Vi Hoà, Chim Hải, Lê Trung Tự, Hoàng Ngọc Trâm, Nguyễn Hoàng Văn, Nguyễn Minh Quân, Tạ Duy Bình), thập niên 1970 (Nguyễn Hoàng Tranh, Hoàng Ngọc Thư), hoặc thập niên 1980 (Phan Quỳnh Trâm, Tú Trinh), và thậm chí, thập niên 1990 (Trần Tịnh Danh).
Thứ hai, do tính chất đa thế hệ ấy, giới cầm bút không ngừng được tiếp máu. Sau khi Việt bị đình bản (cuối năm 2001), một số người cầm bút bỗng dưng biến mất: Nguyễn Minh Quân, Vi Hoà, Phạm Miên Tưởng, Đông Phương; một số khác viết ít hẳn: Uyên Nguyên, Võ Quốc Linh, Chim Hải (9), Trần Đình Lương. Nhưng ngay sau đó lại xuất hiện một lớp khác: Nguyễn Hoàng Tranh, Đinh Hồng Nghi và Hoàng Ngọc Thư. Khi ba người vừa kể bị khựng lại, lại xuất hiện ào ạt một lớp mới với những Phan Quỳnh Trâm, Tú Trinh, Lê Nguyên Tịnh, Lê Trung Tự, Hoàng Ngọc Trâm và gần đây nhất, Trần Tịnh Danh.
Thứ ba, một số khá đông hoạt động trên nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau: Ngoài tư cách nhà văn hay nhà thơ, Lê Văn Tài còn là hoạ sĩ, Bạt Xứ còn là nhiếp ảnh gia, Trần Đình Lương còn là nhiếp ảnh gia và họa sĩ, Hoàng Ngọc-Tuấn còn là nhạc sĩ, Tạ Duy Bình còn là kịch tác gia, đạo diễn và diễn viên sân khấu.
Thứ tư, số người hoạt động trên hai ngôn ngữ, hoặc dưới hình thức dịch thuật hoặc dưới hình thức sáng tác song ngữ, vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh, cũng nhiều: Hoàng Ngọc-Tuấn, Thường Quán, Lê Văn Tài, Trần Đình Lương, Nguyễn Minh Quân, Lê Nguyên Tịnh, Phan Quỳnh Trâm, Tú Trinh, Hoàng Ngọc Trâm, Tạ Duy Bình, Lê Trung Tự, Trần Tịnh Danh, Lê Liễu Chi…
Thứ năm, họ bao quát khá nhiều lãnh vực trong văn học. Về nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học, có Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn, Nguyễn Minh Quân và Nguyễn Hoàng Văn. Thuộc thế hệ trẻ hơn, Phan Quỳnh Trâm, ngoài việc làm thơ và dịch thuật, cũng viết một số bài có tính chất lý luận văn học. Về truyện, có Hoàng Ngọc-Tuấn, Hoàng Ngọc Thư, Nguyễn Như Núi, Trần Tất Đạt. Về kịch, có Tạ Duy Bình. Về thơ là nhiều nhất, gồm hầu hết những người còn lại.
Cuối cùng, dù viết nhiều hay ít, hầu như tất cả những người trên đều có một đặc điểm giống nhau: khao khát với cái mới. Mới so với mặt bằng văn học tiếng Việt. Và mới cả với chính họ nữa.
Khát vọng đối với cái mới ấy thể hiện trên ba lãnh vực: dịch thuật, phê bình / lý luận và sáng tác.
Nguyễn Hưng Quốc
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
***
Chú thích:
   1. Có thể đọc trên Tiền Vệ: http://tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=60
   2.Nguyễn Hưng Quốc (biên tập) (2013), Thơ Lê Văn Tài, California: Văn Mới, tr. 426-434.
   3. Xem phần giới thiệu vở kịch trên Tiền Vệ: http://tienve.org/home/stage                                         
      /view Stage.do?action=viewArtwork&artworkId=4937
  
   4.Nguyễn Hưng Quốc, “Lời giới thiệu”, in trong cuốn Văn hoá, giới tính và văn học (Văn Mới, California,   2004), tr. 9-11.
  5. Nhà xuất bản Văn Nghệ (California), in lần thứ ba, năm 2000.
  
  6.Huy Tưởng cũng đã xuất bản và nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975 nhưng vì anh sang Úc muộn (năm 2010) và từ lúc sang Úc, không viết lách được gì nữa nên không tính trong số này.
  
  7.Nguyễn Mộng Giác, “Tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học”, tạp chí Văn Học (California) số 153-4 (1&2/1999), tr. 4-10.
  
  8.Tất cả các bài thơ Huy Tưởng đăng trên Việt và Tiền Vệ, cho đến nay – tháng 9/2013) đều được sáng tác lúc còn ở Việt Nam.
 9. Từ cuối năm 2012, Chim Hải bắt đầu làm thơ lại khá nhiều.
(VOA)

Hà Nội sống lại với thời cải cách ruộng đất

Nhiều hiện vật quý, tài liệu gốc về công cuộc cải cách ruộng đất năm 1946 - 1957 đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Với diện tích trưng bày khoảng 230m2, chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946-1957” giúp công chúng có dịp tiếp cận trực tiếp với gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, ảnh tư liệu lịch sử về cải cách ruộng đất đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia và các cơ quan lưu trữ, các bảo tàng ở Hà Nội và địa phương.
cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử

                      Một trong những tư liệu về cải cách ruộng đất được trưng bày tại bảo tàng

Đây là những tư liệu, hiện vật quý hiếm, chứa đựng nhiều giá trị nội dung lịch sử và lần đầu tiên được giới thiệu đến đông đảo công chúng với quy mô lớn. Các hiện vật được tổ chức theo hai phần chính: Nông thôn Việt Nam trước cải cách ruộng đất và Cải cách ruộng đất 1946-1957. Nhiều hiện vật quý vốn là đồ dùng sinh hoạt, của cải của tầng lớp địa chủ trước cải cách ruộng đất, nhiều tư liệu liên quan đến chủ trương của Đảng, Chính phủ về cải cách ruộng đất được giới thiệu. Cuộc trưng bày cũng có một nội dung nhỏ về Sửa chữa sai lầm và một số bài học kinh nghiệm qua công cuộc cải cách ruộng đất.

Cuộc trưng bày nhằm đưa lại một cách nhìn thực tiễn, khoa học, khách quan về cuộc vận động cách mạng ruộng đất trong tiến trình lịch sử dân tộc ở nước ta giai đoạn 1946-1957, là hoạt động kỷ niệm 69 năm ngày Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9.

Một số hình ảnh được trưng bày trong triển lãm:


cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


                                              Áo dài của của tầng lớp địa chủ

cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


                                                              Đồ dùng trong nhà địa chủ

cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


                                                  Áo bông bụp của tầng lớp bần cố nông

cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


                                                     Căn bếp lụp xụp của người nghèo

cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


                                                    Mâm cơm sau cải cách ruộng đất

cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử


                                  Hình ảnh con trâu gắn liền với người nông dân

cải cách ruộng đất, bảo tàng lịch sử

 Rất nhiều cụ đã ngoài 80 tuổi đến xem trưng bày. Họ xúc động nhớ về về một thời kỳ đã qua.

T.L
(VNN)