Tưởng Năng Tiến - Đưa người ta không đưa sang sông
Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:
“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể…”
“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.”
Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.
Theo vnexpress:
Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…
Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Độc lập hạng nhì cho bà Võ Thị Thắng. Ảnh: Đời Sống Pháp Luật |
Phóng
viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm
đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:
“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không khai báo.”
Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”
Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.
Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:
Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:
Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…
Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.
Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức |
Giáo
sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín”
đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ
và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S. Lê Minh Trí cũng bị giết
chết theo cùng một cách.
Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:
“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”
Vẫn theo bản tin thượng dẫn:
Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.
Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân. Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.
Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.
Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.
Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”
Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!
Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!
Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?
© Tưởng Năng Tiến
© Đàn Chim Việt
Trung Quốc học ở Việt Nam ngày nay
Vanhoanghean
Trần Ngọc Vương
Lời Tòa Soạn: Hiểu biết về thế giới quanh mình là một nhu
cầu tự thân của con người, của các cộng đồng xã hội. Hiểu biết để mà có
cách ứng xử phù hợp, để tồn tại, để mà phát triển. Nếu không hoặc ít
hiểu biết sẽ gặp nhiều bất trắc và tai họa đến từ thế giới [tự nhiên và
xã hội] quanh ta. Chúng ta ở cạnh Trung Quốc nhưng chúng ta đang có
nhiều khoảng trống tri thức về họ. Điều đó là vô cùng tệ hại bởi nhiều
điều tai quái và bất hạnh sẽ bất ngờ đến với ta từ họ. Thực trạng ngành
Trung Quốc học ở Việt Nam và những gợi ý là điều mà Gs. Ts Trần Ngọc
Vương sẽ trình bày trong bài viết này.
Từ mỗi cá thể rồi mở rộng dần ra các quần thể, các cộng đồng từ
nhỏ tới lớn để tồn tại và phát triển đều phải thường xuyên và liên tục
hội được những điều kiện từ cần đến đủ, điều kiện cần là cho sự tồn tại
và điều kiện đủ là cho sự phát triển.
Hàng loạt triết gia thuộc nhiều nền văn hóa, văn minh khác nhau ngay từ thời cổ đại xa xưa đã giành nhiều tâm trí, thậm chí có người giành cả cuộc đời chỉ để “loay hoay” đi tìm ý nghĩa và phương thức tồn tại cho riêng mình hay cho mỗi, cho từng cá thể mà rốt cuộc những đáp án tìm được cho tới nay vẫn chưa đủ để “tự dỗ dành” được chính bản thân. Vậy nên cho tới tận tuổi xế chiều, một trong những bậc hiền triết – nhà thông thái bậc nhất của châu Âu mở ra thời đại Khai minh là René Descarte vẫn thốt lên những lời lẽ đượm vẻ chán chường :”Hãy biết sắp xếp lại mơ ước của bản thân mình thì tốt hơn là hy vọng thay đổi trật tự của thế giới”. Một triết gia khác, nếu không nhầm thì là La Rochefoucault, còn quyết liệt một cách thê thảm hơn: “Cuộc đời chỉ vô nghĩa đối với những ai nhăm nhe đi tìm ý nghĩa của nó!”. Còn triết lý dân gian thì nói gọn lỏn: “Ngu si hưởng thái bình!”, bởi “Biết lắm thì khổ nhiều”.
Nếu lấy điểm khởi đầu là cá nhân, cá thể, coi đó là đơn vị tọa độ gốc, thì trong khung khổ loài người, xét theo góc nhìn đối với những sinh thể tự nhiên, cho tới nay có thể xác định những cấp độ quần thể và quần thể hóa cơ bản là gia đình, gia tộc, dòng họ, tộc người, hệ tộc (tiểu chủng), chủng tộc (đại chủng). Những cá thể lai (métisses) làm thành “ranh giới mềm” giữa các cấp độ quần thể hiện thực,và cần lưu ý thêm rằng bộ phận này trong thế giới ngày nay đang có xu hướng càng ngày càng đông đảo.
Theo góc nhìn xã hội – lịch sử và xã hội hóa – lịch sử hóa, song song với trục quy chiếu đó là thực tế địa vực hóa, lãnh thổ hóa, lần lượt xuất hiện các thực thể xã hội – hành chính, từ làng xã, huyện, tỉnh, khu, miền, (cùng các biến thể ở từng cấp) quốc gia, khối – vùng quốc gia, châu lục, và cuối cùng là thế giới.Các cộng đồng cũng vận động phân hóa thành các tổ chức, đoàn thể, nhóm xã hội, theo hướng càng tiến tới thời hiện đại thì các loại tập hợp xã hội hóa đó càng đa dạng về hình thức và càng phong phú, phức tạp về nội dung.
Các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa trên thế giới từng khẳng định sự tồn tại của hàng chục nền văn minh lớn trong lịch sử nhân loại ở các châu lục (trừ ở châu Nam cực), nhưng phần lớn các nền văn minh ấy đều có vận mệnh lịch sử thăng trầm dữ dội, cho tới ngày nay thì phần đông các học giả hàng đầu của chuyên ngành lịch sử văn hóa, văn minh đều khá thống nhất trong nhận định rằng chỉ có hai nền văn minh lớn của nhân loại, tuy cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng trên tổng thể, được coi là tồn tại liên tục từ lúc hình thành đến nay, không bị đứt gãy đến thành rời rạc, không bị sụp đổ đến mức không thể gượng dậy được, đó là văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa. Do vị trí đặc thù đó, mà hai nền văn hóa, văn minh này thu hút sự chú ý từ lâu của rất nhiều học giả trên thế giới.
Những phác thảo đầu tiên – cho đến nay chỉ có thể khẳng định ở mức độ như vậy – cho lời đáp đối với “sự thách đố” của hai nền văn hóa, văn minh này, là chúng được thiết định bởi những nguyên lý và cách thức khác biệt nhau! Về phần mình, tôi cho rằng lực lượng nòng cốt duy trì và phát triển văn minh Trung Hoa là những nhóm xã hội theo đuổi mục tiêu một nền văn minh đế chế hóa, còn lực lượng chủ yếu kiến tạo và bảo trì nền văn minh Ấn Độ là những nhóm xã hội khát vọng hướng tới một nền văn minh vũ trụ hóa theo cách thức tâm linh và siêu việt .Hẳn rằng đây là một nhận định gây ngạc nhiên và chắc chắn cũng gây tranh cãi, nhưng không phải là trọng tâm của bài viết này.
Từ điểm nhìn của người hiện đại, các nền văn hóa, văn minh có lịch sử hàng ngàn năm đều hàm chứa những bí mật riêng có để tồn tại và phát triển, tuy nhiên việc phát hiện ra những yếu tố mang tính đặc trưng ấy trong bối cảnh toàn cầu hóa và thế giới “đã trở nên phẳng” như ngày nay là một công việc hoàn toàn không dễ dàng. Văn minh phương Đông nói chung, văn minh Trung Quốc nói riêng ngay từ thời điểm tiếp xúc, giao thoa có hệ thống ban đầu cũng đã dần dà thu hút sự chú ý, và càng ngày càng gây chú ý cao độ, của nhiều học giả phương Tây, và ở nhiều quốc gia Âu Mỹ, ngành Trung Quốc học đã có lịch sử riêng hàng ba thế kỷ.Như đối với bất kỳ lĩnh vực nào khác của nghiên cứu khoa học, khi hiểu biết càng tăng lên thì những “mặt khuất” chưa được biết tới cũng càng giãn nở rộng ra, nói theo lối “biện chứng” là “càng hiểu biết nhiều càng thấy sự ngu dốt của chính mình to thêm mãi”. Dẫu vậy, bất chấp những gì không biết, chưa biết, đối tượng nghiên cứu vẫn ngày một trở nên minh bạch hơn, rõ ràng hơn. Trung Quốc học trên thế giới ngày nay đang bùng nổ với quy mô và chiều sâu chưa từng thấy, tương ứng với vị trí và vai trò ngày càng “nặng ký” của Trung Quốc trên trường quốc tế, dù theo nghĩa khẳng định hay theo nghĩa tiêu cực.
Như mọi người đều có thể biết, cư dân thuộc cộng đồng Việt ngày nay vốn mang nhiều đặc điểm chứng tỏ mối liên quan gần gũi với cộng đồng cư dân địa vực Nam Trung Quốc, trước hết là về phương diện nhân chủng. Về mặt địa văn hóa, sự giải thể “cơ tầng Đông Nam Á cổ” đã diễn ra đối với cộng đồng Bách Việt trên lưu vực sông Dương Tử và những vùng đất vùng người kề cận với “Trung Nguyên” để bị “thu hút” vào “cơ cấu đế chế” mà cộng đồng cư dân trên lưu vực sông Hoàng Hà, dù sao chăng nữa, ít nhất từ thời Thương – Chu trở đi, đã đóng vai trò là hạt nhân và trục tập hợp. Khi quỹ đạo đế chế hóa ở “Trung Nguyên” chính thức được xác lập (Tần), thì đại diện lớn nhất của “cộng đồng Nam Man xưa” là nước Sở vẫn tỏ ra là “trung tâm đề kháng” mạnh mẽ nhất, nhưng rồi thất bại của Hạng Vũ trước Lưu Bang đã chính thức đặt dấu chấm hết cho nỗ lực tự lập tự cường của cả vùng đất mênh mông làm nên gần một nửa của cái “Trung Nguyên mới”. Bốn thế kỷ đế chế Hán thông qua vô số nhân vật và sự kiện lịch sử đã “làm nốt” , “kiện toàn” cái cốt lõi của quốc gia – đế chế này. Ba thế kỷ rưỡi “suy thoái đế chế” từ thời Tam Quốc. qua Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220 – 581) cho thấy tình trạng tái cát cứ trên quy mô lớn và kéo dài sẽ còn là một “tiết tấu mang tính điệp khúc” sẽ còn lặp lại nữa, bất chấp sự thật là nhìn trên tổng thể, nhà Tùy đã tấu lên khúc dạo đầu của “đế chế tân trào”, để tiếp đó là một đế chế Đại Đường hùng cường hoa phát, đưa xứ sở này vượt lên trình độ cao nhất thế giới trong ba thế kỷ tiếp theo.
Nhưng như đã biết, “kịch bản lịch sử” tiếp theo là “điệp khúc suy bại, cát cứ” tái diễn. Sự tái lập “thiên triều đế chế” dưới cả hai thời Bắc và Nam Tống đều không phục hưng được vẻ huy hoàng độc đáo của thời Đại Đường, trên thực tế Nam Tống chỉ là triều đại tượng trưng cho cả một “Trung Quốc đa sở hữu” mà ngày nay, các nhà nước Liêu, Kim, cả Tây Hạ nữa, đang được các sử gia đương đại Trung Quốc, và cả những người làm phim cổ trang nữa, “cho phép gia nhập sâu” vào thành những trang lịch sử chính thống.
Nguyên, Minh, Thanh tiếp tục là những nhà nước đế chế, nhưng lại vẫn cần lưu ý rằng “khúc đầu” và “khúc cuối” của những đế chế này là những “trang sử rách” được viết bởi rất nhiều thế lực cát cứ lớn nhỏ, và chính những chủ thể sáng lập nên các đế chế này vốn cũng “trưởng thành lên” từ những thế lực cát cứ đó, hơn thế, và điều đặc biết đa nghĩa, hai trong ba đế chế ấy được dựng nên bởi bàn tay của các thế lực “Hung Nô, Di Địch, ngoại nhân”.Nhân vật khai sáng đế chế thứ ba – Chu Nguyên Chương, Thái tổ Hoàng đế nhà Minh, là người duy nhất trong thập đại đế vương có nguồn gốc phương Nam, nghĩa là cũng “Nam Man một nửa”. Nhưng từ góc nhìn khác, phải nhận rằng chính ba triều đại đế chế này, bằng những cách thức có thể rất khác nhau, đã lần lượt đưa thêm những vùng đất vùng dân cư sáp nhập vào bản đồ đế chế của “quốc gia ở giữa”, và sự mở rộng cương vực đế chế ấy rút lại đã “xóa sổ” hàng loạt các quốc gia từng tồn tại và phát triển độc lập trong hàng ngàn năm trước đó. Nhà nước Nam Chiếu – Đại Lý là trường hợp điển hình của một sự bị thôn tính như thế, và điều đó diễn ra dưới tay của một “kẻ chinh phục” khá nổi tiếng và tai tiếng người Mông Nguyên – Thoát Hoan, người lần đầu tiên khuất phục được cả vùng Vân Nam cho đế chế của cha mình rồi nhờ thế mà vẽ vĩnh viễn vùng đất này vào bản đồ Trung Hoa nhưng lại từ Đại Việt trở về theo “con đường ống đồng”!
Mối quan hệ lâu đời giữa một cộng đồng đất và người Việt Nam với một thực tế nhiều triều đại nhưng hoàn toàn có thể nhìn nhận là có tính liên tục theo chiều nhất thể hóa trên đất Trung Hoa như vậy từng diễn ra với rất nhiều tông điệu, cung bậc và sắc thái, không ít khi tỏ ra mâu thuẫn và nghịch phách, lỗi nhịp. Không bàn ở đây lịch sử những mối quan hệ của các “Thiên triều” Trung Hoa với các cộng đồng phương Bắc, phương Tây và phương Đông của họ, chỉ xét riêng những tác động qua lại giữa các triều đình này với các cộng đồng phương Nam (gồm cả Đông Nam và Tây Nam), thì có thể khẳng định rằng duy chỉ ở Việt Nam, rốt cuộc, tồn tại được và phát triển được một vùng đất vùng cư dân đạt tới định chế độc lập, tự khẳng định như một “quốc gia đầy đủ” dù đã phải trải qua hàng chục cuộc xâm lăng và chiếm đóng lớn nhỏ của các thế lực thiên triều ấy.
Tình thế bất tương đẳng truyền kiếp trải qua hàng hơn hai ngàn năm giữa hai thực thể (nếu chỉ tính từ mốc tín sử cho phép nói là bắt đầu có biết đến sự tồn tại của nhau) khiến cho trong suốt cả thời gian dằng dặc ấy, xuất hiện không ít những “phương thức ứng xử” đa trị và đa nghĩa giữa những thế lực vừa thống trị mà cũng vừa đại diện cho cộng đồng Việt với các triều đại đế chế trên đất Trung Hoa.
So với các quốc gia – dân tộc khác trong nhóm các quốc gia được định danh là “đồng văn” trên nền “Hán tự văn hóa quyển” là Triều Tiên và Nhật Bản, có thể nêu lên một nhận xét khái quát bao hàm một nghịch lý: Việt Nam là quốc gia trên thực tế chịu đựng họa xâm lăng và nô dịch của các đế chế Trung Hoa liên tục nhất, dai dẳng nhất, khốc liệt nhất, có thời gian bị nội thuộc kéo dài nhất (trong khi Nhật Bản “chưa một ngày bị Trung Quốc cai trị”!) nhưng giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ được các nhà Đông phương học định danh là “thế giới Hán hóa” (le monde sinisé), Việt Nam lại là quốc gia chịu ảnh hưởng của “nền văn hóa Thiên triều” chính thống ít sâu đậm nhất! Khẳng định này có thể gây tranh cãi và giải thích điều này hoàn toàn không dễ dàng.Nhưng có thể đề nghị các nhà khoa học đang cộng tác làm các bộ sách kinh tạng với các học giả thuộc bốn trường Đại học lớn của bốn nước chứng thực phần nào cho điều vừa nói, thậm chí chỉ cần căn cứ vào số lượng quyển của bộ Nho tạng có được ở Việt Nam so với số lượng quyển có được từ nguồn thư tịch Triều Tiên và Nhật Bản. Tình hình chung cho cả Tam giáo hay rộng hơn, cho cả bách gia chư tử, có lẽ cũng không khác mấy, thậm chí tôi ngờ rằng còn có thể “hoang vắng” hơn!
Chúng tôi đã có dịp nhận xét rằng trong các loại hình nhà nho cơ bản (hiển nho), thì ở Việt Nam thưa thớt loại triết nho – nhà nho nhà tư tưởng, cũng hiếm nhà nho học giả. Hai mẫu nhà nho phổ biến hơn cả ở Việt Nam trước kia là nhà nho ông quan và nhà nho nghệ sĩ. Nhiều nhà nghiên cứu có thẩm quyền chuyên môn bậc nhất trong giới khoa học xã hội nước ta mấy chục năm qua dù muốn dù không đều buộc phải thừa nhận một thực tế: cha ông ta không có nhiều truyền thống học thuật nói chung, lý luận nói riêng.
Có thể và cần thiết tạo nên nhiều cơ hội khác để bàn kỹ, bàn sâu về chủ đề này. Điều tôi cần nói ở đây chỉ là một nhận xét vắn tắt: hàng ngàn năm chung đụng với nền văn hóa Trung Hoa, cha ông ta quả có chịu ảnh hưởng nhiều, thậm chí rất nhiều, nhưng rút cuộc, hiểu nền văn hóa đó một cách sâu sắc, toàn diện và hệ thống thì khó có thể khẳng định. Bộ phận “ưu tú” hơn cả trong giới nhà nho đương nhiên theo truyền thống hình dung phải là các bậc đại khoa, nhưng giữa ba ngàn tên tuổi đỗ đại khoa còn lưu lại trong sử sách hay trên bảng vàng bia đá, thật khó đếm số học giả nổi trội đủ mười đầu ngón tay. Dĩ nhiên, hoàn toàn có thể nói thêm rằng không chỉ có các bậc đại khoa mới trở nên học giả tầm cỡ, nhưng đã vậy, lại phải nói thêm nữa rằng những trường hợp như thế chắc chắn là những ngoại lệ.
Thứ kiến thức xuất phát từ nền văn hóa, học thuật Trung Hoa mà nhà nho Việt Nam biết nhiều nhất trước kia là văn và sử. Tụng Bắc sử để quyết khoa đó đã là “học bệnh” của cả ngàn năm. Nhưng có thực nhà nho ta có ai đó đã kịp đọc đủ, dù chỉ một lần, những pho sử chính thức của các sử gia Trung Quốc, thứ được biên soạn lần hồi trong khoảng 2500 năm? Tôi không tin như thế. Ngay bộ sử nổi tiếng nhất – Sử ký Tư Mã Thiên – thì cũng chỉ thấy nhà nho ta “nằm lòng” những phần “Bản kỷ”, “Thế gia”, một phần “Liệt truyện”, còn phần “Thư” và “Biểu” thì thấy rất ít người nhắc tới.Học vấn của nhà nho Việt Nam về “Trung Quốc học” lại chỉ thiên mạnh mẽ về thời cổ đại. Có thể nói cho tới tận thế kỷ XVIII rất ít nhà nho Việt Nam có điều kiện và chịu khó “cập nhật thông tin” về nền học thuật Trung Quốc từ đời Tống trở đi. Thứ nhà nho biết nhiều và có thể kèm cả sự say mê là văn chương, nhưng trong số những tác giả được xếp vào danh sách bát đại gia Đường – Tống, thì người được biết tới nhiều nhất có lẽ chỉ là Tô Đông Pha, thứ đến là Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Âu Dương Tu được đề cập thưa thớt hơn, về Vương An Thạch thì có lẽ vì vừa là lãnh tụ phái Tân đảng vừa là người chủ trương xâm lược Việt Nam nên ít được nhắc tới, còn cơ hồ không có tác giả nào của Việt Nam từng “cố công tìm hiểu” về Tô Tuân, Tô Triệt và Tăng Củng.
Rất hiếm văn nhân người Việt trước đây có được một sự hiểu biết tương đối toàn diện về những thành tựu đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc sau đời Đường. Bằng chứng là không thấy ai tỏ ra “lão luyện” về Tống từ, Nguyên khúc hay Minh – Thanh tiểu thuyết, mặc dù những loại sách vở ấy vẫn được các thương nhân Hoa Kiều “bằng con đường tiểu ngạch” đưa vào Việt Nam.
Trong tâm trạng bốc đồng vừa có sắc thái tự hào dân tộc chủ nghĩa pha màu tuyên huấn, vừa ẩn giấu cả mặc cảm tự ty, thi thoảng có những người Việt lớn tiếng khẳng định rằng một số nhân vật xuất sắc nào đó của giới trí thức nho gia Việt Nam từng đỗ “lưỡng quốc tiến sĩ”, thậm chí “lưỡng quốc trạng nguyên”. Với tất cả sự chú mục tìm hiểu, cá nhân tôi không khẳng định có ai đó từng là như thế. Có chăng, đó chỉ là những nhân vật hư cấu trong truyện Nôm bình dân!
Các chính thể chuyên chế ở Trung Quốc xưa (và cả nay) có chủ trương nhất quán kìm hãm sự trưởng thành đích thực của trí tuệ người Việt, áp dụng một đường lối nặng thì diệt chủng văn hóa Việt mà nhẹ ra thì cũng ngăn cấm người Việt đạt tới một nền học vấn tiên tiến so với mặt bằng khu vực. Những “đặc chiếu” của Minh Thành Tổ về cách thức ứng xử với tất cả những gì là di sản văn hóa của chính người Việt và sự kiện quan lại Trung Quốc thu giữ tất cả những sách vở có nội dung ít nhiều rộng hơn tri thức khoa cử mà Lê Quý Đôn đã tự bỏ tiền riêng ra mua khi về qua của khẩu trong chuyến đi sứ của ông vào năm 1762 chỉ là những ví dụ nổi bật.
Chủ trương “giáo hóa Nam nhân” của Trung Quốc chỉ được khuôn định trong khung khổ cho người Việt biết được và học theo, làm theo những gì họ muốn nhìn thấy ở “giống dân” ấy.
Triều Nguyễn trên thực tế đã tạo được ít nhiều sự thay đổi có tính đột xuất và chủ động hơn các triều đại trước họ đối với lĩnh vực “Trung Quốc học”. Đó cũng sẽ là cả một câu chuyện dài không có điều kiện để bàn tới ở đây. Tuy nhiên,có thể nói vắn tắt rằng cho tới tận thời điểm trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, những cố gắng đó của vua tôi nhà Nguyễn vẫn chưa thể đạt tới tầm mức tạo ra được một quán tính và vectơ chuyển động theo hướng khác.
Trên dưới một thế kỷ kể từ sau hàng ước Giáp Thân, nền văn hóa nói chung và nền học vấn nói riêng ở Việt Nam bị/ được “bẻ lái” theo đường hướng khác, thoát dần khỏi quỹ đạo khu vực truyền thống. Bản thân nền văn hóa và nền học vấn ở Trung Quốc cũng từng bước trở nên khác trước, dù muốn dù không cũng buộc phải tuân theo quỹ đạo hiện đại hóa và hiện đại. Nhưng định mệnh lịch sử, ít nhất là cả trên hai bình diện địa văn hóa lẫn địa chính trị, đã khiến cho hai quốc gia, hai dân tộc, hai cộng đồng cư dân vẫn duy trì những “hằng số của những quan hệ, những tính quy định”. Vậy mà, bất chấp tầm quan trọng của những mối quan hệ đa chiều và phức tạp giữa hai quốc gia, hai cộng đồng vẫn cứ đòi hỏi thậm chí đòi hỏi tăng cường mạnh mẽ hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau, Trung Quốc học ở Việt Nam tới thời điểm này có thể nói vừa thiếu vừa yếu, nghiêm trọng tới mức “không tin được dù đó là sự thật”.
2.TRÔNG NGƯỜI , MÀ NGẪM….
Không bàn tới chuyện người Nhật Bản, người Hàn Quốc với tư cách là những quốc gia đồng văn đã nghiên cứu Trung Quốc thế nào, mà chỉ giới thiệu qua ở đây sự phát triển của ngành Trung Quốc học ở những quốc gia Âu Mỹ, ngõ hầu từ đó họa may có thể nhận ra đôi ba điều cảnh tỉnh gì chăng? Hợp lẽ hơn, trong khung khổ của bài viết này tôi chỉ muốn nhắc tới nền Trung Quốc học ở hai quốc gia mà tôi biết tương đối rõ, đó là Trung Quốc học ở Nga và Trung Quốc học ở Pháp. Với mỗi nền Trung Quốc học ở mỗi quốc gia ấy, cũng chỉ có thể lấy một trường hợp tương đối điển hình để “nêu ví dụ”.
2.1. TRUNG QUỐC HỌC Ở NGA:
Có thể nói rằng ngay từ thời Sa hoàng, ngành Đông phương học nói chung và chuyên ngành Trung Quốc học nói riêng đã sớm được thiết kế như một lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu trong những hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội Nga. Dễ hiểu rằng do đế chế Nga và đế chế Trung Hoa đều là những đế chế khổng lồ và hiếu đại, nhưng do hai khu vực hạt nhân của hai đế chế nằm rất xa nhau, với một “vùng đệm” mênh mông bao gồm cả Xi bê ri và hàng chục quốc gia Trung Á, lại do sự khác biệt cả về chủng tộc cả về truyền thống lịch sử, nên ngành Trung Quốc học của Nga vào những thế kỷ đầu tiên lại được xây dựng nên bởi những công trình nghiên cứu của giới học giả Nga về các tộc người và các nhà nước thuộc các tộc người thiểu số nằm ở vùng Bắc và Đông Bắc Trung Quốc ngày nay. Nói theo ngôn ngữ của vua chúa Trung Quốc xưa, thì người Nga biết và hiểu về họ trước hết là qua các tộc thuộc nhóm “Ngũ Hồ” (Bắc Địch) và nhóm “Đông Di”. Trong ngôn ngữ Nga cho đến nay, Trung Quốc vẫn là “Kitai” – một biến âm của tộc danh Khiết Đan.Vị trí địa lý và quy mô đế chế đã khiến cho những nhà hoạt động nhà nước thời các Sa hoàng nảy sinh tham vọng và tổ chức hiện thực hóa tham vọng làm bá chủ ít ra là một vùng lãnh thổ khổng lồ (và như đã biết, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, gọi tắt là Liên Xô, là quốc gia từng có lãnh thổ lớn nhất, chiếm tới 1/6 mặt địa cầu).Đến thời Liên bang Xô viết, thì ngành Đông phương học của quốc gia này mà bộ phận ưu tiên là Trung Quốc học đã thu hút vào bản thân nó những trí tuệ kiệt xuất bậc nhất của giới khoa học xã hội và nhân văn, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên cộng sản. Với định hướng chiến lược tư duy toàn cầu, đặt ra và giải quyết những vấn đề chung nhất của toàn thế giới và toàn bộ lịch sử nhân loại, cùng với nỗ lực giữ vững địa vị “thành trì của phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế”, vừa phải giúp đỡ toàn diện để làm hình thành nên một quốc gia “Trung Hoa đỏ”, vừa phải kiềm chế nó (và đã không thành công) sao cho “người khổng lồ mới” này không trở thành chủ thể mới tranh đoạt quyền lãnh đạo cả phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới, nhà nước Liên Xô quả đã không tiếc sức người sức của đầu tư cho một chuyên ngành Trung Quốc học trở nên thực sự là ngành mũi nhọn. Một tư tưởng có tầm quan trọng hàng đầu, tiên quyết những thành tựu của giới Trung Quốc học Nga nói riêng, Liên Xô nói chung là tư tưởng đòi hỏi giới khoa học này phải nghiên cứu “thế giới Trung Hoa” như một đối tượng của khoa học tự nhiên, nghĩa là như nó vốn và đang tồn tại chứ không như người Liên Xô mong muốn nó tồn tại.Chính nhờ vào sự đinh hướng chủ đạo như thế mà giới Trung Quốc học Nga cả một thời gian rất dài về cơ bản là thoát khỏi sự ám ảnh của vòng kim cô “lập trường chính trị” ngắn hạn nên thiển cận.(Cũng có một số nhà Đông phương học Nga bị xử lý, có người bị giết trong các cuộc thanh trừng vào các thập kỷ 30, 40, trong đó có những thiên tài như Iulian Konxtantinôvich Shuski, nhưng thực chất lại vì những nghi ngại chính trị ngoài khoa học). Trong khoảng thời gian trên dưới một thế kỷ, chuyên ngành Trung Quốc học ở Nga thực sự đã ở vào vị trí hàng đầu trong toàn cảnh ngành Trung Quốc học thế giới, với hàng loạt những tên tuổi xứng tầm quốc tế: Alêxeev Vaxili Mikhailôvich (1881-1951), Vaxiliev Vaxili Pavlôvich (1818 – 1900), Marr Nikolai Iakovlevich (1864 – 1934), Olđelburg Xergei Phêđôrôvich (1863 – 1934), Konrad Nikôlai Iôxivphôvich (1891 – 1970), Sherbatxkôi Phêđor Ippolitôvich (1866 – 1942), Shuski Iulian Konxtantinôvich (1897 – 1946), Vaxiliev Boris Alekxanđrôvich ( 1899 – 1946) cùng rất nhiều tên tuổi lớn khác.
Một trong những tên tuổi lớn của giới Đông phương học Nga vừa qua đời gần đây là Riphtin Bôris Lvôvich (1832 – 1912), viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Nga, người mà Tạp chí Nghiên cứu văn học số 11/2012 vừa ra một số chuyên đề với một tình cảm trân trọng dự định chúc mừng sinh nhật lần thứ tám mươi chẳng dè khi đang lên khuôn thì nhận được tin ông thệ thế. Sự lựa chọn và cách thức làm khoa học của Riphtin (xin xem toàn số 11 tạp chí Nghiên cứu văn học vừa qua) theo tôi nghĩ, không chỉ đơn giản khiến chúng ta suy nghĩ, mà có lẽ trước hết, buộc chúng ta xấu hổ biết bao khi tự nhìn lại mình!
2.2. TRUNGQUỐC HỌC Ở PHÁP:
Là một “đế quốc thực dân đời cũ” điển hình, không khó giải thích vì sao lĩnh vực Đông phương học Pháp lại có được bề dày truyền thống đáng ngưỡng mộ đến vậy. Tôi sẽ không làm mất thêm thời gian của quý vị bằng việc lược thuật lại những thành tựu rất nổi trội của ngành Trung Quốc học ở quốc gia này, mà đơn giản chỉ khẳng định lại rằng với những tên tuổi như Marcel Granet (1884 – 1940), Pellio, anh em nhà Maspero, Levi, Edouard Chavann…giới Trung Quốc học Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX đã giành được sự kính trọng của các nhà Đông phương học thế giới, kể cả của các học giả lớn người Trung Quốc. Hậu duệ tinh thần của những nhà thông thái đó là cả một đội ngũ đông đảo vẫn tiếp tục được bổ sung không dứt tới nay. Tôi muốn đề cập tới một trong những khuôn mặt sáng giá bậc nhất hiện nay trong số họ: giáo sư Frencois Julien, nhà triết học đương đại, người đã công bố hàng vài chục chuyên luận về triết học, mỹ học và tư tưởng Trung Quốc trong hơn ba mươi năm gần đây. Ở Việt Nam, liên tiếp trong khoảng mười năm lại nay, đã có ngót một chục công trình của tác giả này được dịch và xuất bản, điều đó đã biến ông thành “nhà triết học được đọc nhiều nhất ở Việt Nam sau các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx” như trong lời giới thiệu một công trình của ông đã thông tin.Nói vắn tắt, thì cá nhân tôi, tiếp xúc với những công trình của nhà Trung Quốc học này, hầu như bao giờ cũng vừa đọc vừa giật mình thon thót.
Tôi có theo dõi và hệ thống hóa, dù “chẳng để làm gì”, dù “chả ích cho ai” đi nữa, cách thức mà người Pháp, từ trước tới nay, tìm hiểu (kỹ lưỡng) và ứng xử (rất mực thận trọng) đối với nhà nước Trung Quốc và cộng đồng người Hoa. Điều mà tôi tự nhủ, nhân dịp này xin nói ra lời, rằng sao một cộng đồng, một quốc gia có số phận lịch sử chằng buộc với Trung Quốc tự ngàn xưa và còn sẽ phải bị/ được chằng buộc “tới muôn sau” như Việt Nam, mà lại tự mình chấp nhận giới hạn sự hiểu biết của mình về người láng giềng khổng lồ “nông nổi” đến mức ấy? Chưa nói rằng, liên miên trong lịch sử còn thêm tình trạng “kẻ biết thì không làm mà kẻ làm thì không biết” diễn ra không phải là thi thoảng cho lắm!
Hàng loạt triết gia thuộc nhiều nền văn hóa, văn minh khác nhau ngay từ thời cổ đại xa xưa đã giành nhiều tâm trí, thậm chí có người giành cả cuộc đời chỉ để “loay hoay” đi tìm ý nghĩa và phương thức tồn tại cho riêng mình hay cho mỗi, cho từng cá thể mà rốt cuộc những đáp án tìm được cho tới nay vẫn chưa đủ để “tự dỗ dành” được chính bản thân. Vậy nên cho tới tận tuổi xế chiều, một trong những bậc hiền triết – nhà thông thái bậc nhất của châu Âu mở ra thời đại Khai minh là René Descarte vẫn thốt lên những lời lẽ đượm vẻ chán chường :”Hãy biết sắp xếp lại mơ ước của bản thân mình thì tốt hơn là hy vọng thay đổi trật tự của thế giới”. Một triết gia khác, nếu không nhầm thì là La Rochefoucault, còn quyết liệt một cách thê thảm hơn: “Cuộc đời chỉ vô nghĩa đối với những ai nhăm nhe đi tìm ý nghĩa của nó!”. Còn triết lý dân gian thì nói gọn lỏn: “Ngu si hưởng thái bình!”, bởi “Biết lắm thì khổ nhiều”.
Nếu lấy điểm khởi đầu là cá nhân, cá thể, coi đó là đơn vị tọa độ gốc, thì trong khung khổ loài người, xét theo góc nhìn đối với những sinh thể tự nhiên, cho tới nay có thể xác định những cấp độ quần thể và quần thể hóa cơ bản là gia đình, gia tộc, dòng họ, tộc người, hệ tộc (tiểu chủng), chủng tộc (đại chủng). Những cá thể lai (métisses) làm thành “ranh giới mềm” giữa các cấp độ quần thể hiện thực,và cần lưu ý thêm rằng bộ phận này trong thế giới ngày nay đang có xu hướng càng ngày càng đông đảo.
Theo góc nhìn xã hội – lịch sử và xã hội hóa – lịch sử hóa, song song với trục quy chiếu đó là thực tế địa vực hóa, lãnh thổ hóa, lần lượt xuất hiện các thực thể xã hội – hành chính, từ làng xã, huyện, tỉnh, khu, miền, (cùng các biến thể ở từng cấp) quốc gia, khối – vùng quốc gia, châu lục, và cuối cùng là thế giới.Các cộng đồng cũng vận động phân hóa thành các tổ chức, đoàn thể, nhóm xã hội, theo hướng càng tiến tới thời hiện đại thì các loại tập hợp xã hội hóa đó càng đa dạng về hình thức và càng phong phú, phức tạp về nội dung.
Các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa trên thế giới từng khẳng định sự tồn tại của hàng chục nền văn minh lớn trong lịch sử nhân loại ở các châu lục (trừ ở châu Nam cực), nhưng phần lớn các nền văn minh ấy đều có vận mệnh lịch sử thăng trầm dữ dội, cho tới ngày nay thì phần đông các học giả hàng đầu của chuyên ngành lịch sử văn hóa, văn minh đều khá thống nhất trong nhận định rằng chỉ có hai nền văn minh lớn của nhân loại, tuy cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng trên tổng thể, được coi là tồn tại liên tục từ lúc hình thành đến nay, không bị đứt gãy đến thành rời rạc, không bị sụp đổ đến mức không thể gượng dậy được, đó là văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa. Do vị trí đặc thù đó, mà hai nền văn hóa, văn minh này thu hút sự chú ý từ lâu của rất nhiều học giả trên thế giới.
- NHỮNG GÌ TỪNG CÓ VÀ ĐANG CÓ:
Những phác thảo đầu tiên – cho đến nay chỉ có thể khẳng định ở mức độ như vậy – cho lời đáp đối với “sự thách đố” của hai nền văn hóa, văn minh này, là chúng được thiết định bởi những nguyên lý và cách thức khác biệt nhau! Về phần mình, tôi cho rằng lực lượng nòng cốt duy trì và phát triển văn minh Trung Hoa là những nhóm xã hội theo đuổi mục tiêu một nền văn minh đế chế hóa, còn lực lượng chủ yếu kiến tạo và bảo trì nền văn minh Ấn Độ là những nhóm xã hội khát vọng hướng tới một nền văn minh vũ trụ hóa theo cách thức tâm linh và siêu việt .Hẳn rằng đây là một nhận định gây ngạc nhiên và chắc chắn cũng gây tranh cãi, nhưng không phải là trọng tâm của bài viết này.
Từ điểm nhìn của người hiện đại, các nền văn hóa, văn minh có lịch sử hàng ngàn năm đều hàm chứa những bí mật riêng có để tồn tại và phát triển, tuy nhiên việc phát hiện ra những yếu tố mang tính đặc trưng ấy trong bối cảnh toàn cầu hóa và thế giới “đã trở nên phẳng” như ngày nay là một công việc hoàn toàn không dễ dàng. Văn minh phương Đông nói chung, văn minh Trung Quốc nói riêng ngay từ thời điểm tiếp xúc, giao thoa có hệ thống ban đầu cũng đã dần dà thu hút sự chú ý, và càng ngày càng gây chú ý cao độ, của nhiều học giả phương Tây, và ở nhiều quốc gia Âu Mỹ, ngành Trung Quốc học đã có lịch sử riêng hàng ba thế kỷ.Như đối với bất kỳ lĩnh vực nào khác của nghiên cứu khoa học, khi hiểu biết càng tăng lên thì những “mặt khuất” chưa được biết tới cũng càng giãn nở rộng ra, nói theo lối “biện chứng” là “càng hiểu biết nhiều càng thấy sự ngu dốt của chính mình to thêm mãi”. Dẫu vậy, bất chấp những gì không biết, chưa biết, đối tượng nghiên cứu vẫn ngày một trở nên minh bạch hơn, rõ ràng hơn. Trung Quốc học trên thế giới ngày nay đang bùng nổ với quy mô và chiều sâu chưa từng thấy, tương ứng với vị trí và vai trò ngày càng “nặng ký” của Trung Quốc trên trường quốc tế, dù theo nghĩa khẳng định hay theo nghĩa tiêu cực.
Như mọi người đều có thể biết, cư dân thuộc cộng đồng Việt ngày nay vốn mang nhiều đặc điểm chứng tỏ mối liên quan gần gũi với cộng đồng cư dân địa vực Nam Trung Quốc, trước hết là về phương diện nhân chủng. Về mặt địa văn hóa, sự giải thể “cơ tầng Đông Nam Á cổ” đã diễn ra đối với cộng đồng Bách Việt trên lưu vực sông Dương Tử và những vùng đất vùng người kề cận với “Trung Nguyên” để bị “thu hút” vào “cơ cấu đế chế” mà cộng đồng cư dân trên lưu vực sông Hoàng Hà, dù sao chăng nữa, ít nhất từ thời Thương – Chu trở đi, đã đóng vai trò là hạt nhân và trục tập hợp. Khi quỹ đạo đế chế hóa ở “Trung Nguyên” chính thức được xác lập (Tần), thì đại diện lớn nhất của “cộng đồng Nam Man xưa” là nước Sở vẫn tỏ ra là “trung tâm đề kháng” mạnh mẽ nhất, nhưng rồi thất bại của Hạng Vũ trước Lưu Bang đã chính thức đặt dấu chấm hết cho nỗ lực tự lập tự cường của cả vùng đất mênh mông làm nên gần một nửa của cái “Trung Nguyên mới”. Bốn thế kỷ đế chế Hán thông qua vô số nhân vật và sự kiện lịch sử đã “làm nốt” , “kiện toàn” cái cốt lõi của quốc gia – đế chế này. Ba thế kỷ rưỡi “suy thoái đế chế” từ thời Tam Quốc. qua Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220 – 581) cho thấy tình trạng tái cát cứ trên quy mô lớn và kéo dài sẽ còn là một “tiết tấu mang tính điệp khúc” sẽ còn lặp lại nữa, bất chấp sự thật là nhìn trên tổng thể, nhà Tùy đã tấu lên khúc dạo đầu của “đế chế tân trào”, để tiếp đó là một đế chế Đại Đường hùng cường hoa phát, đưa xứ sở này vượt lên trình độ cao nhất thế giới trong ba thế kỷ tiếp theo.
Nhưng như đã biết, “kịch bản lịch sử” tiếp theo là “điệp khúc suy bại, cát cứ” tái diễn. Sự tái lập “thiên triều đế chế” dưới cả hai thời Bắc và Nam Tống đều không phục hưng được vẻ huy hoàng độc đáo của thời Đại Đường, trên thực tế Nam Tống chỉ là triều đại tượng trưng cho cả một “Trung Quốc đa sở hữu” mà ngày nay, các nhà nước Liêu, Kim, cả Tây Hạ nữa, đang được các sử gia đương đại Trung Quốc, và cả những người làm phim cổ trang nữa, “cho phép gia nhập sâu” vào thành những trang lịch sử chính thống.
Nguyên, Minh, Thanh tiếp tục là những nhà nước đế chế, nhưng lại vẫn cần lưu ý rằng “khúc đầu” và “khúc cuối” của những đế chế này là những “trang sử rách” được viết bởi rất nhiều thế lực cát cứ lớn nhỏ, và chính những chủ thể sáng lập nên các đế chế này vốn cũng “trưởng thành lên” từ những thế lực cát cứ đó, hơn thế, và điều đặc biết đa nghĩa, hai trong ba đế chế ấy được dựng nên bởi bàn tay của các thế lực “Hung Nô, Di Địch, ngoại nhân”.Nhân vật khai sáng đế chế thứ ba – Chu Nguyên Chương, Thái tổ Hoàng đế nhà Minh, là người duy nhất trong thập đại đế vương có nguồn gốc phương Nam, nghĩa là cũng “Nam Man một nửa”. Nhưng từ góc nhìn khác, phải nhận rằng chính ba triều đại đế chế này, bằng những cách thức có thể rất khác nhau, đã lần lượt đưa thêm những vùng đất vùng dân cư sáp nhập vào bản đồ đế chế của “quốc gia ở giữa”, và sự mở rộng cương vực đế chế ấy rút lại đã “xóa sổ” hàng loạt các quốc gia từng tồn tại và phát triển độc lập trong hàng ngàn năm trước đó. Nhà nước Nam Chiếu – Đại Lý là trường hợp điển hình của một sự bị thôn tính như thế, và điều đó diễn ra dưới tay của một “kẻ chinh phục” khá nổi tiếng và tai tiếng người Mông Nguyên – Thoát Hoan, người lần đầu tiên khuất phục được cả vùng Vân Nam cho đế chế của cha mình rồi nhờ thế mà vẽ vĩnh viễn vùng đất này vào bản đồ Trung Hoa nhưng lại từ Đại Việt trở về theo “con đường ống đồng”!
Mối quan hệ lâu đời giữa một cộng đồng đất và người Việt Nam với một thực tế nhiều triều đại nhưng hoàn toàn có thể nhìn nhận là có tính liên tục theo chiều nhất thể hóa trên đất Trung Hoa như vậy từng diễn ra với rất nhiều tông điệu, cung bậc và sắc thái, không ít khi tỏ ra mâu thuẫn và nghịch phách, lỗi nhịp. Không bàn ở đây lịch sử những mối quan hệ của các “Thiên triều” Trung Hoa với các cộng đồng phương Bắc, phương Tây và phương Đông của họ, chỉ xét riêng những tác động qua lại giữa các triều đình này với các cộng đồng phương Nam (gồm cả Đông Nam và Tây Nam), thì có thể khẳng định rằng duy chỉ ở Việt Nam, rốt cuộc, tồn tại được và phát triển được một vùng đất vùng cư dân đạt tới định chế độc lập, tự khẳng định như một “quốc gia đầy đủ” dù đã phải trải qua hàng chục cuộc xâm lăng và chiếm đóng lớn nhỏ của các thế lực thiên triều ấy.
Tình thế bất tương đẳng truyền kiếp trải qua hàng hơn hai ngàn năm giữa hai thực thể (nếu chỉ tính từ mốc tín sử cho phép nói là bắt đầu có biết đến sự tồn tại của nhau) khiến cho trong suốt cả thời gian dằng dặc ấy, xuất hiện không ít những “phương thức ứng xử” đa trị và đa nghĩa giữa những thế lực vừa thống trị mà cũng vừa đại diện cho cộng đồng Việt với các triều đại đế chế trên đất Trung Hoa.
So với các quốc gia – dân tộc khác trong nhóm các quốc gia được định danh là “đồng văn” trên nền “Hán tự văn hóa quyển” là Triều Tiên và Nhật Bản, có thể nêu lên một nhận xét khái quát bao hàm một nghịch lý: Việt Nam là quốc gia trên thực tế chịu đựng họa xâm lăng và nô dịch của các đế chế Trung Hoa liên tục nhất, dai dẳng nhất, khốc liệt nhất, có thời gian bị nội thuộc kéo dài nhất (trong khi Nhật Bản “chưa một ngày bị Trung Quốc cai trị”!) nhưng giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ được các nhà Đông phương học định danh là “thế giới Hán hóa” (le monde sinisé), Việt Nam lại là quốc gia chịu ảnh hưởng của “nền văn hóa Thiên triều” chính thống ít sâu đậm nhất! Khẳng định này có thể gây tranh cãi và giải thích điều này hoàn toàn không dễ dàng.Nhưng có thể đề nghị các nhà khoa học đang cộng tác làm các bộ sách kinh tạng với các học giả thuộc bốn trường Đại học lớn của bốn nước chứng thực phần nào cho điều vừa nói, thậm chí chỉ cần căn cứ vào số lượng quyển của bộ Nho tạng có được ở Việt Nam so với số lượng quyển có được từ nguồn thư tịch Triều Tiên và Nhật Bản. Tình hình chung cho cả Tam giáo hay rộng hơn, cho cả bách gia chư tử, có lẽ cũng không khác mấy, thậm chí tôi ngờ rằng còn có thể “hoang vắng” hơn!
Chúng tôi đã có dịp nhận xét rằng trong các loại hình nhà nho cơ bản (hiển nho), thì ở Việt Nam thưa thớt loại triết nho – nhà nho nhà tư tưởng, cũng hiếm nhà nho học giả. Hai mẫu nhà nho phổ biến hơn cả ở Việt Nam trước kia là nhà nho ông quan và nhà nho nghệ sĩ. Nhiều nhà nghiên cứu có thẩm quyền chuyên môn bậc nhất trong giới khoa học xã hội nước ta mấy chục năm qua dù muốn dù không đều buộc phải thừa nhận một thực tế: cha ông ta không có nhiều truyền thống học thuật nói chung, lý luận nói riêng.
Có thể và cần thiết tạo nên nhiều cơ hội khác để bàn kỹ, bàn sâu về chủ đề này. Điều tôi cần nói ở đây chỉ là một nhận xét vắn tắt: hàng ngàn năm chung đụng với nền văn hóa Trung Hoa, cha ông ta quả có chịu ảnh hưởng nhiều, thậm chí rất nhiều, nhưng rút cuộc, hiểu nền văn hóa đó một cách sâu sắc, toàn diện và hệ thống thì khó có thể khẳng định. Bộ phận “ưu tú” hơn cả trong giới nhà nho đương nhiên theo truyền thống hình dung phải là các bậc đại khoa, nhưng giữa ba ngàn tên tuổi đỗ đại khoa còn lưu lại trong sử sách hay trên bảng vàng bia đá, thật khó đếm số học giả nổi trội đủ mười đầu ngón tay. Dĩ nhiên, hoàn toàn có thể nói thêm rằng không chỉ có các bậc đại khoa mới trở nên học giả tầm cỡ, nhưng đã vậy, lại phải nói thêm nữa rằng những trường hợp như thế chắc chắn là những ngoại lệ.
Thứ kiến thức xuất phát từ nền văn hóa, học thuật Trung Hoa mà nhà nho Việt Nam biết nhiều nhất trước kia là văn và sử. Tụng Bắc sử để quyết khoa đó đã là “học bệnh” của cả ngàn năm. Nhưng có thực nhà nho ta có ai đó đã kịp đọc đủ, dù chỉ một lần, những pho sử chính thức của các sử gia Trung Quốc, thứ được biên soạn lần hồi trong khoảng 2500 năm? Tôi không tin như thế. Ngay bộ sử nổi tiếng nhất – Sử ký Tư Mã Thiên – thì cũng chỉ thấy nhà nho ta “nằm lòng” những phần “Bản kỷ”, “Thế gia”, một phần “Liệt truyện”, còn phần “Thư” và “Biểu” thì thấy rất ít người nhắc tới.Học vấn của nhà nho Việt Nam về “Trung Quốc học” lại chỉ thiên mạnh mẽ về thời cổ đại. Có thể nói cho tới tận thế kỷ XVIII rất ít nhà nho Việt Nam có điều kiện và chịu khó “cập nhật thông tin” về nền học thuật Trung Quốc từ đời Tống trở đi. Thứ nhà nho biết nhiều và có thể kèm cả sự say mê là văn chương, nhưng trong số những tác giả được xếp vào danh sách bát đại gia Đường – Tống, thì người được biết tới nhiều nhất có lẽ chỉ là Tô Đông Pha, thứ đến là Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Âu Dương Tu được đề cập thưa thớt hơn, về Vương An Thạch thì có lẽ vì vừa là lãnh tụ phái Tân đảng vừa là người chủ trương xâm lược Việt Nam nên ít được nhắc tới, còn cơ hồ không có tác giả nào của Việt Nam từng “cố công tìm hiểu” về Tô Tuân, Tô Triệt và Tăng Củng.
Rất hiếm văn nhân người Việt trước đây có được một sự hiểu biết tương đối toàn diện về những thành tựu đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc sau đời Đường. Bằng chứng là không thấy ai tỏ ra “lão luyện” về Tống từ, Nguyên khúc hay Minh – Thanh tiểu thuyết, mặc dù những loại sách vở ấy vẫn được các thương nhân Hoa Kiều “bằng con đường tiểu ngạch” đưa vào Việt Nam.
Trong tâm trạng bốc đồng vừa có sắc thái tự hào dân tộc chủ nghĩa pha màu tuyên huấn, vừa ẩn giấu cả mặc cảm tự ty, thi thoảng có những người Việt lớn tiếng khẳng định rằng một số nhân vật xuất sắc nào đó của giới trí thức nho gia Việt Nam từng đỗ “lưỡng quốc tiến sĩ”, thậm chí “lưỡng quốc trạng nguyên”. Với tất cả sự chú mục tìm hiểu, cá nhân tôi không khẳng định có ai đó từng là như thế. Có chăng, đó chỉ là những nhân vật hư cấu trong truyện Nôm bình dân!
Các chính thể chuyên chế ở Trung Quốc xưa (và cả nay) có chủ trương nhất quán kìm hãm sự trưởng thành đích thực của trí tuệ người Việt, áp dụng một đường lối nặng thì diệt chủng văn hóa Việt mà nhẹ ra thì cũng ngăn cấm người Việt đạt tới một nền học vấn tiên tiến so với mặt bằng khu vực. Những “đặc chiếu” của Minh Thành Tổ về cách thức ứng xử với tất cả những gì là di sản văn hóa của chính người Việt và sự kiện quan lại Trung Quốc thu giữ tất cả những sách vở có nội dung ít nhiều rộng hơn tri thức khoa cử mà Lê Quý Đôn đã tự bỏ tiền riêng ra mua khi về qua của khẩu trong chuyến đi sứ của ông vào năm 1762 chỉ là những ví dụ nổi bật.
Chủ trương “giáo hóa Nam nhân” của Trung Quốc chỉ được khuôn định trong khung khổ cho người Việt biết được và học theo, làm theo những gì họ muốn nhìn thấy ở “giống dân” ấy.
Triều Nguyễn trên thực tế đã tạo được ít nhiều sự thay đổi có tính đột xuất và chủ động hơn các triều đại trước họ đối với lĩnh vực “Trung Quốc học”. Đó cũng sẽ là cả một câu chuyện dài không có điều kiện để bàn tới ở đây. Tuy nhiên,có thể nói vắn tắt rằng cho tới tận thời điểm trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, những cố gắng đó của vua tôi nhà Nguyễn vẫn chưa thể đạt tới tầm mức tạo ra được một quán tính và vectơ chuyển động theo hướng khác.
Trên dưới một thế kỷ kể từ sau hàng ước Giáp Thân, nền văn hóa nói chung và nền học vấn nói riêng ở Việt Nam bị/ được “bẻ lái” theo đường hướng khác, thoát dần khỏi quỹ đạo khu vực truyền thống. Bản thân nền văn hóa và nền học vấn ở Trung Quốc cũng từng bước trở nên khác trước, dù muốn dù không cũng buộc phải tuân theo quỹ đạo hiện đại hóa và hiện đại. Nhưng định mệnh lịch sử, ít nhất là cả trên hai bình diện địa văn hóa lẫn địa chính trị, đã khiến cho hai quốc gia, hai dân tộc, hai cộng đồng cư dân vẫn duy trì những “hằng số của những quan hệ, những tính quy định”. Vậy mà, bất chấp tầm quan trọng của những mối quan hệ đa chiều và phức tạp giữa hai quốc gia, hai cộng đồng vẫn cứ đòi hỏi thậm chí đòi hỏi tăng cường mạnh mẽ hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau, Trung Quốc học ở Việt Nam tới thời điểm này có thể nói vừa thiếu vừa yếu, nghiêm trọng tới mức “không tin được dù đó là sự thật”.
2.TRÔNG NGƯỜI , MÀ NGẪM….
Không bàn tới chuyện người Nhật Bản, người Hàn Quốc với tư cách là những quốc gia đồng văn đã nghiên cứu Trung Quốc thế nào, mà chỉ giới thiệu qua ở đây sự phát triển của ngành Trung Quốc học ở những quốc gia Âu Mỹ, ngõ hầu từ đó họa may có thể nhận ra đôi ba điều cảnh tỉnh gì chăng? Hợp lẽ hơn, trong khung khổ của bài viết này tôi chỉ muốn nhắc tới nền Trung Quốc học ở hai quốc gia mà tôi biết tương đối rõ, đó là Trung Quốc học ở Nga và Trung Quốc học ở Pháp. Với mỗi nền Trung Quốc học ở mỗi quốc gia ấy, cũng chỉ có thể lấy một trường hợp tương đối điển hình để “nêu ví dụ”.
2.1. TRUNG QUỐC HỌC Ở NGA:
Có thể nói rằng ngay từ thời Sa hoàng, ngành Đông phương học nói chung và chuyên ngành Trung Quốc học nói riêng đã sớm được thiết kế như một lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu trong những hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội Nga. Dễ hiểu rằng do đế chế Nga và đế chế Trung Hoa đều là những đế chế khổng lồ và hiếu đại, nhưng do hai khu vực hạt nhân của hai đế chế nằm rất xa nhau, với một “vùng đệm” mênh mông bao gồm cả Xi bê ri và hàng chục quốc gia Trung Á, lại do sự khác biệt cả về chủng tộc cả về truyền thống lịch sử, nên ngành Trung Quốc học của Nga vào những thế kỷ đầu tiên lại được xây dựng nên bởi những công trình nghiên cứu của giới học giả Nga về các tộc người và các nhà nước thuộc các tộc người thiểu số nằm ở vùng Bắc và Đông Bắc Trung Quốc ngày nay. Nói theo ngôn ngữ của vua chúa Trung Quốc xưa, thì người Nga biết và hiểu về họ trước hết là qua các tộc thuộc nhóm “Ngũ Hồ” (Bắc Địch) và nhóm “Đông Di”. Trong ngôn ngữ Nga cho đến nay, Trung Quốc vẫn là “Kitai” – một biến âm của tộc danh Khiết Đan.Vị trí địa lý và quy mô đế chế đã khiến cho những nhà hoạt động nhà nước thời các Sa hoàng nảy sinh tham vọng và tổ chức hiện thực hóa tham vọng làm bá chủ ít ra là một vùng lãnh thổ khổng lồ (và như đã biết, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, gọi tắt là Liên Xô, là quốc gia từng có lãnh thổ lớn nhất, chiếm tới 1/6 mặt địa cầu).Đến thời Liên bang Xô viết, thì ngành Đông phương học của quốc gia này mà bộ phận ưu tiên là Trung Quốc học đã thu hút vào bản thân nó những trí tuệ kiệt xuất bậc nhất của giới khoa học xã hội và nhân văn, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên cộng sản. Với định hướng chiến lược tư duy toàn cầu, đặt ra và giải quyết những vấn đề chung nhất của toàn thế giới và toàn bộ lịch sử nhân loại, cùng với nỗ lực giữ vững địa vị “thành trì của phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế”, vừa phải giúp đỡ toàn diện để làm hình thành nên một quốc gia “Trung Hoa đỏ”, vừa phải kiềm chế nó (và đã không thành công) sao cho “người khổng lồ mới” này không trở thành chủ thể mới tranh đoạt quyền lãnh đạo cả phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới, nhà nước Liên Xô quả đã không tiếc sức người sức của đầu tư cho một chuyên ngành Trung Quốc học trở nên thực sự là ngành mũi nhọn. Một tư tưởng có tầm quan trọng hàng đầu, tiên quyết những thành tựu của giới Trung Quốc học Nga nói riêng, Liên Xô nói chung là tư tưởng đòi hỏi giới khoa học này phải nghiên cứu “thế giới Trung Hoa” như một đối tượng của khoa học tự nhiên, nghĩa là như nó vốn và đang tồn tại chứ không như người Liên Xô mong muốn nó tồn tại.Chính nhờ vào sự đinh hướng chủ đạo như thế mà giới Trung Quốc học Nga cả một thời gian rất dài về cơ bản là thoát khỏi sự ám ảnh của vòng kim cô “lập trường chính trị” ngắn hạn nên thiển cận.(Cũng có một số nhà Đông phương học Nga bị xử lý, có người bị giết trong các cuộc thanh trừng vào các thập kỷ 30, 40, trong đó có những thiên tài như Iulian Konxtantinôvich Shuski, nhưng thực chất lại vì những nghi ngại chính trị ngoài khoa học). Trong khoảng thời gian trên dưới một thế kỷ, chuyên ngành Trung Quốc học ở Nga thực sự đã ở vào vị trí hàng đầu trong toàn cảnh ngành Trung Quốc học thế giới, với hàng loạt những tên tuổi xứng tầm quốc tế: Alêxeev Vaxili Mikhailôvich (1881-1951), Vaxiliev Vaxili Pavlôvich (1818 – 1900), Marr Nikolai Iakovlevich (1864 – 1934), Olđelburg Xergei Phêđôrôvich (1863 – 1934), Konrad Nikôlai Iôxivphôvich (1891 – 1970), Sherbatxkôi Phêđor Ippolitôvich (1866 – 1942), Shuski Iulian Konxtantinôvich (1897 – 1946), Vaxiliev Boris Alekxanđrôvich ( 1899 – 1946) cùng rất nhiều tên tuổi lớn khác.
Một trong những tên tuổi lớn của giới Đông phương học Nga vừa qua đời gần đây là Riphtin Bôris Lvôvich (1832 – 1912), viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Nga, người mà Tạp chí Nghiên cứu văn học số 11/2012 vừa ra một số chuyên đề với một tình cảm trân trọng dự định chúc mừng sinh nhật lần thứ tám mươi chẳng dè khi đang lên khuôn thì nhận được tin ông thệ thế. Sự lựa chọn và cách thức làm khoa học của Riphtin (xin xem toàn số 11 tạp chí Nghiên cứu văn học vừa qua) theo tôi nghĩ, không chỉ đơn giản khiến chúng ta suy nghĩ, mà có lẽ trước hết, buộc chúng ta xấu hổ biết bao khi tự nhìn lại mình!
2.2. TRUNGQUỐC HỌC Ở PHÁP:
Là một “đế quốc thực dân đời cũ” điển hình, không khó giải thích vì sao lĩnh vực Đông phương học Pháp lại có được bề dày truyền thống đáng ngưỡng mộ đến vậy. Tôi sẽ không làm mất thêm thời gian của quý vị bằng việc lược thuật lại những thành tựu rất nổi trội của ngành Trung Quốc học ở quốc gia này, mà đơn giản chỉ khẳng định lại rằng với những tên tuổi như Marcel Granet (1884 – 1940), Pellio, anh em nhà Maspero, Levi, Edouard Chavann…giới Trung Quốc học Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX đã giành được sự kính trọng của các nhà Đông phương học thế giới, kể cả của các học giả lớn người Trung Quốc. Hậu duệ tinh thần của những nhà thông thái đó là cả một đội ngũ đông đảo vẫn tiếp tục được bổ sung không dứt tới nay. Tôi muốn đề cập tới một trong những khuôn mặt sáng giá bậc nhất hiện nay trong số họ: giáo sư Frencois Julien, nhà triết học đương đại, người đã công bố hàng vài chục chuyên luận về triết học, mỹ học và tư tưởng Trung Quốc trong hơn ba mươi năm gần đây. Ở Việt Nam, liên tiếp trong khoảng mười năm lại nay, đã có ngót một chục công trình của tác giả này được dịch và xuất bản, điều đó đã biến ông thành “nhà triết học được đọc nhiều nhất ở Việt Nam sau các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx” như trong lời giới thiệu một công trình của ông đã thông tin.Nói vắn tắt, thì cá nhân tôi, tiếp xúc với những công trình của nhà Trung Quốc học này, hầu như bao giờ cũng vừa đọc vừa giật mình thon thót.
Tôi có theo dõi và hệ thống hóa, dù “chẳng để làm gì”, dù “chả ích cho ai” đi nữa, cách thức mà người Pháp, từ trước tới nay, tìm hiểu (kỹ lưỡng) và ứng xử (rất mực thận trọng) đối với nhà nước Trung Quốc và cộng đồng người Hoa. Điều mà tôi tự nhủ, nhân dịp này xin nói ra lời, rằng sao một cộng đồng, một quốc gia có số phận lịch sử chằng buộc với Trung Quốc tự ngàn xưa và còn sẽ phải bị/ được chằng buộc “tới muôn sau” như Việt Nam, mà lại tự mình chấp nhận giới hạn sự hiểu biết của mình về người láng giềng khổng lồ “nông nổi” đến mức ấy? Chưa nói rằng, liên miên trong lịch sử còn thêm tình trạng “kẻ biết thì không làm mà kẻ làm thì không biết” diễn ra không phải là thi thoảng cho lắm!
Chỉ số tham nhũng mới của Á Đông
GNA: (Đêm Trung Thu, trẻ em đông nghẹt đường phố Saigon vào những
năm trước 1975. Không ai tổ chức, anh chị em chúng tôi tự làm những lồng
đèn, tự vẽ tô mầu, tự cắm nến …rồi lang thang khắp phố phường Saigon
trong những cuộc diễu hành tự phát, giữa những đùa giỡn trẻ con. Chúng
tôi ca những bài hát thiếu nhi, không phải những bài sặc múi tuyên
truyền rẻ tiền sau này. Đây là Tết của trẻ em, của những tâm hồn còn
ngây thơ dù giữa chiến tranh và đủ loại thủ đoạn âm mưu chính trị…Không
biết bao giờ những đứa cháu của chúng tôi mới được quyền sống lại những
năm tuổi thơ trong trắng? – Trích bài viết của Huy Thanh gởi riêng cho
GNA)
Bánh trung thu Trung Quốc ế ẩm vì chiến dịch chống tham nhũng
Theo An Bình – Dân Trí – 6 Sep 2014
Việc tiêu thụ bánh trung thu tại tỉnh Quảng Đông – nơi được mệnh danh
là “lò” bánh trung thu của Trung Quốc – đã giảm mạnh sau khi cơ quan
chống tham nhũng hàng đầu nước này ban hành quy định cấm sử dụng công
quỹ để mua bánh đắt tiền làm quà biếu.
Quảng Đông vốn nổi tiếng khắp Trung Quốc về việc sản xuất bánh trung
thu. Những năm trước, tỉnh này chiếm một nửa lượng bánh trung thu được
bán trên cả nước và một phần lớn cũng được xuất khẩu ra nước ngoài.
Thành phố Wuchuan, nơi được Liên đoàn công nghiệp và thương mại toàn
Trung Quốc mệnh danh là “kinh đô bánh trung thu” vào năm 2012, đã bán
được số bánh trung thu trị giá trên 1,5 tỷ nhân dân tệ (242,9 triệu USD)
trong mùa lễ hội năm ngoái.
Nhưng năm nay, chiến dịch chống tham nhũng của Trung Quốc đã ảnh
hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ bánh trung thu ở trong nước, sau khi
Bắc Kinh cấm giới chức sử dụng công quỹ để mua bánh trung thu đắt tiền
làm quà biếu.
Động thái trên nằm trong một nỗ lực được tiến hành trên toàn quốc
nhằm loại trừ tham nhũng và tiêu pha phung phí trong giới chức chính
phủ.
Lễ hội rằm tháng 8 (âm lịch), nơi vào thứ 2 tới, là dịp để các gia
đình đoàn tụ và ăn bánh trung thu. Tuy nhiên, loại bánh này thường dính
dáng tới tham nhũng tại Trung Quốc. Những hộp bánh trung thu đắt tiền
thường được dùng để biếu các giới chức và doanh nhân.
Trong một bài phát biểu tại một cuộc hop thứ 7 của Hội nghị Hiệp
thương chính trị nhân dân Trung Quốc lần thứ 12 ở Bắc Kinh hôm 25/8, ông
Vương Kỳ Sơn, Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, đã chỉ trích truyền thống tặng bánh trung thu của người
Trung Quốc, mà ông nói là tạo ra các cơ hội cho tham nhũng.
Ông Vương cho hay, những chiếc điện thoại đắt tiền, trang sức và tiền
mặt thường được giấu trong mỗi hộp bánh trung thu làm quà biếu.
Cuộc họp hồi tháng 8 cũng thảo luận việc thực thi 8 quy định của Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhằm thúc đẩy sự tiết kiệm và chiến đấu với
quan liêu, lãng phí. Ông Vương cho hay các quy định sẽ thay đổi phong
cách làm việc để giành lại niềm tin của công chúng.
Theo ông Vương, chiến dịch chống tham nhũng và lãng phí đang được
tiến hành sẽ tiếp tục trong ít nhất 5 năm tới, nói thêm rằng cuộc chiến
chống tham nhũng là một cuộc chiến mà “Trung Quốc không được phép thất
bại”.
Cuộc chiến chống tham nhũng và lãng phí của chính phủ trung ương
Trung Quốc bắt đầu hồi tháng 11/2012, khi ông Tập Cận Bình lên nắm
quyền.
Trong một nỗ lực chống tham nhũng, Ủy ban kiểm tra kỷ luật Trung ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã mở một “mục báo tin đặc biệt” trên trang
web của cơ quan này từ đầu tháng 8 để cho phép mọi người thông báo về
những quan chức chi tiêu lãng phí hoặc sử dụng công quỹ để mua quà biếu
trong dịp trung thu năm nay.
Các quan chức bị phát hiện vi phạm các quy định sẽ bị nêu tên trong
báo cáo hàng tuần trên trang web của Ủy ban kiểm tra kỷ luật Trung ương.
Còn Việt Nam trong suy thoái kinh tế?
Thị trường bánh trung thu 2014: Bánh Trung thu bất ngờ bán chạy
Theo Quốc Chánh – VCCI – DDDN – 8/8/2014
Theo ông Nguyễn Xuân Luân, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Kinh Đô: “Một
tín hiệu đáng mừng là mùa trung thu năm nay diễn ra trong bối cảnh tình
hình kinh tế đang chuyển động rất tích cực, dự báo sức mua tiếp tục khả
quan trong năm 2014. Sau hơn 2 tuần khởi động, chúng tôi nhận thấy một
trong những điểm mới rất khả quan là năm nay nhiều DN đã tiếp cận Kinh
Đô, tìm hiểu thông tin bánh trung thu từ rất sớm”.
Năm nay các hãng bánh lớn như Bibica, Kinh Đô, Hỷ Lâm Môn, Như Lan
cùng nhiều các thương hiệu khác như Brodard, Givral, Nhà hàng Ái Huê,
Đại Phát, Đồng Khánh, Thành Long, Yến Sào Khánh Hòa… và một số nhà hàng,
khách sạn lớn cũng đã khởi động mùa kinh doanh bánh trung thu, tập
trung sản xuất để đáp ứng nhu cầu của người mua. Như mọi năm, đánh vào
nhu cầu biếu tặng của khách hàng, các DN tăng mạnh sản lượng và đầu tư
nâng cấp chất lượng, nhất là dòng bánh cao cấp. Về phía Kinh Đô, với lợi
thế về thị phần, sản phẩm và hệ thống phân phối, năm 2014, Kinh Đô công
bố đưa ra thị trường 2.800 tấn bánh trung thu các loại, tăng hơn 15% so
với năm ngoái. Tương tự, Bibica cũng
tăng 15% lượng bánh với 530 tấn của 60 chủng loại bánh. Nhà hàng Ái Huê
(Quận 5, TP HCM) đã chuẩn bị 10 tấn sản phẩm, tập trung vào đối tượng
khách hàng lớn, truyền thống. Đại Phát thuần khẩu vị của người Hoa cũng
chuẩn bị 500.000 hộp bánh, tăng 20%… Theo thông tin từ phía các nhà sản
xuất, năm nay giá bán tăng nhẹ từ 5-10% so với năm ngoái, dao động từ
36.000 – 130.000 đồng/chiếc. Các dòng bánh cao cấp từ 350.000- 790.000
đồng/hộp. Ngoại lệ, có những hộp bánh thượng hạng có giá trên một triệu
đồng đến cả chục triệu đồng/hộp.
Để giành thị phần ở phân khúc các dòng sản phẩm bánh trung thu cao cấpphục
vụ cho nhu cầu biếu tặng của khách hàng, theo bà Trần Thị Phương Hà,
Phòng truyền thông Bibica, năm nay Bibica sản xuất hai dòng sản phẩm
chính để hợp với khẩu vị của cả hai miền Nam-Bắc. Dòng bánh cao cấp với
nhãn hiệu Đế Nguyệt, Phúc Nguyệt, Minh Nguyệt, Vọng Nguyệt và dòng sản
phẩm bánh trung thu dinh dưỡng để chào bán. Trong khi đó, ngoài dòng sản
phẩm Trăng Vàng như mọi năm, Kinh Đô năm nay có thêm sản phẩm Trăng
Vàng Pha Lê với bánh Mochi và bánh Tuyết. Đây được xem là bước đột phá
trong dòng bánh cao cấp mang phong cách Nhật Bản, Hàn Quốc hiện đại. Và
đây được xem là hai thương hiệu mạnh của thị trường bánh kẹo Việt Nam.
Nếu như Bibica công bố có hơn 500 gian hàng và 12.000 điểm bán trên toàn
quốc thì ở Kinh Đô, đối thủ “nặng ký” cũng đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh qua việc đầu tư các gian hàng từ quy mô phố trung thu, chợ trung
thu tại các thành phố lớn, đến các gian hàng ở tuyến quận, huyện khắp
các tỉnh, thành phố cũng như khai thác hệ thống Kinh Đô Bakery tại
TP.HCM và Hà Nội, hệ thống siêu thị trên toàn quốc nhằm tạo sự thuận
tiện cho khách hàng.
Dự báo sức mua sẽ tăng
…
Đặt nhiều kỳ vọng tăng doanh thu và lợi nhuận trong mùa lễ hội trung
thu, nên giữa các nhà sản xuất đang diễn ra cạnh tranh quyết liệt, từ
chất lượng, mẫu mã đến khâu phân phối sản phẩm. Nhiều DN cho biết, sẽ
nâng cao dịch vụ chăm sóc khách hàng như
giao hàng tận nơi, mở rộng các địa điểm bán hàng… để tăng hiệu quả kinh
doanh, tạo chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên, trước hoạt động chào
bán bánh trung thu trá hình trên online, hầu hết các bánh trung thu của
tất cả các thương hiệu uy tín đều được rao bán trực tuyến, kèm theo
những chú thích khá hấp dẫn về điều kiện giao hàng, chiết khấu.
(Blog Alan Phan)
Chính trị – Xã hội
3 tàu chiến Trung Quốc án ngữ phi pháp Gạc Ma nhằm “biến tốt thành xe“-(Bizlive)
Nhiều áo thun in bản đồ Việt Nam thiếu quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa-(Bizlive) ===>>>
Xây cột cờ chủ quyền Trường Sa ở Yên Bái -(Infonet)
Tướng TQ: “Nhật Bản quan tâm an ninh hàng hải, muốn can dự Biển Đông” -(GDVN)
Sợi xích nóng Mỹ-Úc-Ấn-Nhật xiết chặt Trung Quốc
-(ĐV) -Thủ tướng Úc công du sang Ấn Độ, Mỹ-Úc ký hiệp ước tăng cường
hợp tác quân sự, mở rộng liên minh quốc phòng với Nhật Bản, Ấn Độ… —
Trung Quốc giật thon thót trước cái bắt tay của Nhật-Mỹ-Hàn -(ĐV)
Báo Canada cảnh cáo Trung Quốc về sức mạnh Việt Nam -(Infonet) — Đừng bỏ dở cuộc vận động thoát Trung -(RFA)
Việt Nam sẽ mua máy bay Superjet 100 chở khách của Nga?-(Bizlive) — Nga sẽ giao 2 chiếc Sukhoi Superjet 100 cho Việt Nam -(ĐV) — Phi đội EC-225, DHC-6 huấn luyện bảo vệ biển đảo -(ĐV) — Tổng Bí thư sắp thăm chính thức Liên bang Nga -(ĐV) — Việt Nam – Liên Bang Nga họp ủy ban liên chính phủ -(GDVN)Nga và Việt Nam sẽ hợp tác trong ngành chế tạo cơ khí và đóng tàu-(Bizlive) — Nga – Việt sẽ chuyển qua thanh toán bằng đồng tiền quốc gia -(Infonet)
- Không cần cái gọi là “Hội nhà báo độc lập” (Petrotimes 6-9-14) — À há!!! P/v một nhà báo … không độc lập. (“Họ hoàn toàn không đăng ký, xin phép hoạt động. Đây là một điều không thể chấp nhận không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới” Sai bét! Ông sang các nước Âu Mỹ xem có nước nào mà các hội đoàn nghề nghiệp phải xin phép không?)◄(Vietstudies)
Nghị định bán bia trên mây: Dân nhờn luật, quan nhũng nhiễu! -(ĐV) — Trí thức cần phải được coi trọng thực sự -(ĐV)
GS Nguyễn Hữu Khiển: ‘Đổ xô thi công chức là bất thường’ -(VnEx)Không gian xã hội dân sự ở Việt Nam đang mở rộng? -(VHNA) -Andrew Wells-Dang
Bộ trưởng Thăng chỉ đạo từ xa bắt xe chở gỗ khủng-(Bizlive) — TP.HCM quy hoạch ‘giảm’ dân cư tại quận 9-(Bizlive) — Cục trưởng Đường thủy nội địa nói về vụ “tàu hơn 7 tỷ, bán giá sắt vụn“-(Bizlive)
Dân kêu trời vì “không có miếng” vụ tham ô hơn 5 tỷ ở Hà Tĩnh – (ĐSPL)-
Doanh nghiệp Nhà nước, đã móc nối với doanh nghiệp tư nhân lập khống hồ
sơ đền bù cho người dân để hưởng lợi 5,2 tỉ đồng. Trong khi đó , hàng
chục hộ dân thuộc vùng rừng phòng hộ đầu nguồn xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm
Xuyên (Hà Tĩnh) lại rơi vào tình cảnh “có tiếng mà không có miếng”.
— Hà Tĩnh: Cả xã làm… lâm tặc -(Infonet)
Formosa tuyển 3.000 lao động nước ngoài -(BBC) — 3.000 công nhân nước ngoài được chấp thuận làm việc tại Vũng Áng -(RFA)
Lao động TQ ở VN: vấn đề hay cơ hội? -(Boxitvn)
Cấp 1.000 tấn gạo cứu đói cho tỉnh Lạng Sơn -(Infonet) — Nơi người dân ăn cơm độn bắp quanh năm
-(TT) -Người dân Cà Ráng (một xóm sát biên thuộc xã Cải Viên, huyện Hà
Quảng – Cao Bằng) quanh năm ăn cơm độn bắp, đỗ tương và thiếu đói từ 2-3
tháng trong năm.Đi đổ rác, người dân phát hiện một bé gái sơ sinh để bên đường -(GDVN) — Vì sao trẻ VN bị xếp vào nhóm “thấp bé nhẹ cân” nhất thế giới? -(MTG) — Xấu hổ vì câu nói “It’s Vietnamese” của khách Tây đi máy bay -(ĐSPL)
Ly kỳ vụ giải cứu 2 cháu nhỏ khỏi “công trường” mua bán nội tạng -(ĐSPL)
-Anh Phạm Tuấn Anh (TP.Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) không quản khó khăn,
vất vả, lùng sục hàng chục km đường biên giới Việt – Trung để truy tìm
hai cháu bé bị bác ruột bắt cóc đưa sang Trung Quốc.
Nhân viên một bệnh viện trả lại gần nửa tỉ đồng tiền quà biếu -(ĐSPL)- Việc một bệnh viện cấp huyện ở TP.HCM công khai số tiền hơn 400 triệu đồng quà tặng, góp phần thực hiện chủ trương phòng chống tham nhũng… — Lãnh đạo địa phương có bị doanh nghiệp “cầm tay chỉ việc”? -(ĐSPL)
‘Phải nói được sự thật’
-(VNN) -Nói lên sự thật tâm tư, nguyện vọng của nhân dân không phải là
điều gì dũng cảm, mà là chức năng của Mặt trận… – Chủ tịch UB TƯ MTTQ VN
Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ. >>> MTTQ sẽ làm cầu nối của trí thức
Lặn đào đáy biển kéo cáp điện ra Lý Sơn -(VEF) >>> Nghi vấn về lô hàng quân trang xuất khẩu sang Úc >>> Nhân viên ‘quèn’ ở ngân hàng lương cũng cao
Năng suất lao động VN thấp nhất châu Á Thái Bình Dương -(RFA) — Nhân vụ tranh luận ở Hội nhà báo độc lập -(RFA)
Người Sài Gòn nhớ Sài Gòn xưa -(RFA) — WHO: ‘Số vụ quyên sinh phái Nam cao gấp 3 lần phái nữ ở VN’ -(VOA)
Thế nào là một Chính Phủ vì dân? -(DCCT) >>> 11 NGOs kiến nghị UNWGAD lên tiếng về Lê Quốc Quân vào ngày 08.09.2014 >>> Việt Nam-Vatican sẽ gặp nhau vào tuần tới tại Hà Nội
Quy trình Xét xử công minh- Ân xá Quốc Tế (Bài 8) -(VNTB) — Tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới: Vẫn bệnh “báo cáo láo” -(VNTB)
*********************************************************************
Những sai sót không đáng có của báo chí đối lập -(Kami -RFA) — Nhìn lại cuộc đấu tranh -(Bùi Tín -VOA)
Quyền được biết -(Song Chi -NV) — NGƯỜI DÂN HỌ BIẾT CÁI GÌ ? -(TNM)
Bọn móc đống rác -(Bùi bảo Trúc -NV) – ….Tội
nghiệp cho những thằng ranh con ngu dốt này. Ðến bây giờ mà còn moi
thùng rác ra mà ăn với nhau. Nhưng mà chúng nó cũng còn khôn chán. Gọi
nhau là “cơm sườn” thay vì cộng sản vì theo cộng sản thì chỉ có đói rã
họng ra mà chết cả lũ hay sao! …. Tháng
7 năm 2013, Nguyễn Tấn Dũng ký một sắc lệnh miễn học phí cho các sinh
viên ghi tên học chương trình 4 năm về chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh mà không có con chó nào chịu học. Ðài BBC cho biết cả nước
không có được nổi 100 sinh viên ghi tên.
ÔI, ĐỒNG BÀO TÔI -(TNM) -Video
Từ thoát Trung, thoát…, đến thoát “hệ lụy”? -(Boxitvn) — Đau cột sống và đau cuộc sống! -(Boxitvn)
Nên thả hết tù hình sự vì xã hội mình “còn khá trong sáng” -(Đồng phụng Việt)
XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VỀ BIỂN ĐẢO CỦA TRIỀU NGUYỄN QUA CHÂU BẢN -(Ngô Minh)Tạp chí thơ in luận văn tác giả Nguyễn Phú Trọng không có lợi cho ông -(Quechoa)
Cuộc giải phóng thứ hai -(Quechoa) — Nếu tôi là thư ký chủ tịch nước -(Quechoa)
Kinh tế
Sân bay Long Thành “ngóng” gần 3 tỷ USD từ ngân sách -(ĐV) — Cao tốc Bến Lức-Long Thành: Chờ vốn giải phóng mặt bằng-(Bizlive) — Dự án trọng điểm, quây cản gây tắc đường, nhưng vắng bóng công nhân -(GDVN)Việt Nam đạt thỏa thuận xuất khẩu hàng nông thủy sản sang Nga -(Bizlive) — Ủy ban Giám sát Tài chính: Tổng cầu thấp gây khó cho tăng trưởng GDP 5,8%-(Bizlive) — Doanh nghiệp khó khăn, khó đạt được mục tiêu tăng trưởng 5,8% -(MTG) ===>>>
Thép không gỉ nhập khẩu vào Việt Nam bị đánh thuế chống bán phá giá-(Bizlive)
Bánh trung thu ở Sài Gòn ế ẩm, mua 1 tặng 3-(Bizlive)
Hàng Trung Quốc tràn ngập đồ chơi trung thu -(VNN)
Gom ngàn tỷ, triệu đô về Quảng Ninh ôm đất -(VEF)
Sài Gòn vay tiền Thái Lan để chống ngập -(NV) Thái Lan giờ trở thành một trong những quốc gia cung cấp ODA cho Việt Nam và chính quyền thành phố Sài Gòn xin được dùng khoản ODA đó. Khoản ODA của Thái Lan chưa đầy 40 triệu Mỹ kim nhưng có nhiều ràng buộc. Chẳng hạn phải sử dụng công ty tư vấn và nhà thầu của Thái Lan.
Dự án thực hiện bằng vốn vay của Thái Lan phải sử dụng ít nhất 50% giá trị khoản vay để mua hàng hóa và dịch vụ của Thái Lan… Tuy nhiên chính quyền Việt Nam và chính quyền thành phố Sài Gòn khó có thể có lựa chọn khác nếu muốn giải quyết tình trạng Sài Gòn dễ ngập, khi ngập thì vừa sâu, vừa lâu.
Thế giới
Đồng rúp thắt chặt quan hệ Nga-Trung: Đã thấy trái đắng! -(ĐV) — NATO tập trận tại vùng Baltic “thị uy” Nga-(Bizlive) — Về với Nga, Crimea vẫn phụ thuộc Ukraine điện, nước và viễn thông-(Bizlive) — Nga bắt đầu mở cửa trở lại căn cứ quân sự tại Bắc Cực -(GDVN) — Nga mở lại căn cứ quân sự tại Bắc cực-(RFI)Ngân hàng và quốc phòng Nga nhìn sang Châu Á-(RFI) — Khủng hoảng Ukraina : Tổng thống Putin ra luật chơi -(RFI) — Liên Hiệp Châu Âu đồng thuận về việc tăng cường biện pháp trừng phạt Nga -(RFI)
Tổng thống Obama: NATO hậu thuẫn đầy đủ cho Ukraine -(VOA) — Nga ‘không vui’ khi Trung Quốc tự ý nhái máy bay! -(MTG)
TQ hé lộ tin phi công thiệt mạng khi thử nghiệm trên hàng không mẫu hạm -(RFA) — Hai phi công Trung Quốc tử nạn trên hàng không mẫu hạm Liêu Ninh -(RFI) — Phi công tử nạn khi thử “cá mập bay” trên Liêu Ninh -(ĐV) — Tàu hộ vệ RSS Intrepid Hải quân Singapore thăm Hạm đội Nam Hải, TQ -(GDVN)
Vì sao Pakistan hoãn đón Chủ tịch Trung Quốc?-(Bizlive) — Nhật tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc ở Nam Á-(RFI)
NATO thành lập liên minh chống Nhà nước Hồi giáo -(RFI) — Iraq hoan nghênh kế hoạch lập liên minh quốc tế chống IS -(RFA)
Người Hồi giáo Ấn Độ bác bỏ lời kêu gọi thánh chiến từ al-Qaida -(VOA) — Nhà nước Hồi Giáo ‘xử tử binh sĩ Libăng thứ hai’ -(VOA) — Hoa Kỳ lại không kích tổ chức Nhà nước Hồi Giáo -(VOA)NATO tập trận tại vùng Baltic -(VOA)
Thủ tướng Úc thăm Malaysia thúc đẩy tìm kiếm máy bay MH 370-(RFI)
Bắc Triều Tiên lại bắn hỏa tiễn -(RFI)
Tổ chức al-Shabab Somalia cử lãnh tụ mới -(VOA)
Ai Cập sẽ xử ông Morsi về tội tiết lộ tài liệu mật cho Qatar -(VOA)
Văn hóa – Giáo dục – Khoa học- Xã hội
Clip: Múa cột trong lễ khai giảng ở TP.HCM -(ĐV) — Múa cột trong lễ khai giảng, lãnh đạo trường nói gì? -(ĐSPL)
Thủ tướng: Công bố ngay phương án kỳ thi quốc gia -(ĐV) — Bao giờ thì Bộ GD&ĐT công bố phương án thi quốc gia? -(GDVN)
Chuyên gia Đại số giật mình khi xem bài toán tính gà -(VNN) — Tranh cãi về bài toán tính gà: PGS Văn Như Cương “nắn gân” phụ huynh -(Infonet) — Sinh viên Việt Nam đọ tài với 825 trường ĐH trên thế giới -(Infonet)
Nước uống tiêu chuẩn Mỹ, bánh Trung thu cao cấp “bẩn” -(ĐV)“Ái nữ” rủ bạn giai trói mẹ cướp tiền đã bị bắt -(ĐV)
- Ukraine: Lệnh ngừng bắn được ký kết (BBC) - Chính phủ Ukraine và phe ly khai thân Nga ở miền đông đã ký kết một thỏa thuận đình chiến nhằm chấm dứt gần 5 tháng giao tranh.
- Pakistan hoãn đón lãnh đạo TQ vì bất ổn (BBC) - Chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc ông Tập Cận Bình tới Pakistan bị hoãn lại vì bất ổn chính trị, theo Bộ Ngoại giao Pakistan.
- 3.000 công nhân nước ngoài được chấp thuận làm việc tại Vũng Áng (RFA) - Khoảng 3.000 công nhân nước ngoài vừa được chấp thuận trên nguyên tắc đến làm việc tại các gói thầu ở dự án Thép Formosa Vũng Áng Hà Tĩnh. VnExpress đưa tin này không nói rõ đây có phải là lao động người Trung Quốc hay không, nhưng cho biết UBND tỉnh Hà Tĩnh chấp thuận về nguyên tắc đối với yêu cầu của 9 nhà thầu Trung Quốc về việc tuyển công nhân nước ngoài.
- Khi cánh chim điện ảnh tìm được 'bến đỗ' (BBC) - Nữ đạo diễn Hoàng Điệp chia sẻ niềm vui và nhìn lại những gian nan ngay sau khi phim 'Đập cánh giữa không trung' đoạt giải hay nhất ở Venice.
- Việt Nam: 20 cựu sĩ quan đòi Nhà nước minh bạch quan hệ với Trung Quốc (RFI) - Ngày 02/09/2014, 20 cựu sĩ quan tướng lãnh quân đội và công an Việt Nam đã gửi một bản Kiến nghị đến các lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng chính phủ không huy động quân đội và công an vào« bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân», làm rõ các khuất tất trong quan hệ với Trung Quốc,« khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh» trong các xung đột vũ trang với Trung Quốc.
- Phi cơ chở người Mỹ bay lạc bị buộc hạ cánh xuống Iran (RFI) - Washington cho biết hôm qua (5/9/2014), một chiếc máy bay dân sự chuyên chở khoảng một trăm hành khách trong đó có nhiều người Mỹ, xuất phát từ căn cứ quân sự Bagram của Hoa Kỳ tại Afghanistan trên đường đến Dubai, đã bay lạc hướng phải đáp xuống lãnh thổ Iranít giờ.
- Về... sư tử đá (BaoMoi) - (TBKTSG) - Mươi năm trở lại đây, ở các di tích văn hóa - lịch sử và cả ở một số cơ quan, công sở hoặc nơi công cộng nước ta xuất hiện tràn lan các linh vật có nguồn gốc nước ngoài, mà chủ yếu là sư tử đá. Đáng giật mình là ngay ở ngoài đảo Trường Sa, đài tưởng niệm liệt sĩ xây chưa xong nhưng đã chễm chệ hai bên một đôi sư tử đá kiểu Trung Quốc! Báo điện tử vov.vn cho hay, nhà sử học Dương Trung Quốc ra thăm đảo đúng dịp ấy đã tìm hiểu, thì được biết đó là “quà” của một vị quan chức trong đất liền gửi ra với thành ý hiến tặng.
- “Đây, chương trình Thi văn Tao Đàn…” (RFA) - Trong sinh hoạt văn nghệ mang tính trình diễn thi ca cao nhất của miền Nam trước năm 1975 có hai chương trình nổi tiếng là Thi văn Tao Đàn của Đinh Hùng và Mây Tần của nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà trên đài phát thanh Sài Gòn.
- Tình hình biển Đông chiều 6/9: TQ mở rộng Đá Gạc Ma – mối họa của Việt Nam, Đài Loan và Mỹ (BaoMoi) - (Xã hội) - TQ tiến hành khai hoang tại Đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa đã tạo rao mối đe dọa nghiêm trọng đối với Việt Nam, Đài Loan và quân đội Mỹ đang hoạt động tại khu vực.
- "Trung Quốc xây căn cứ phi pháp ở Chữ Thập uy hiếp trực tiếp Cam Ranh" (BaoMoi) - (GDVN) - Kế hoạch xây đảo nhân tạo (phi pháp) ở Chữ Thập nếu thành công, chỉ 10 đến 15 năm nữa cục diện Biển Đông sẽ thay đổi toàn bộ.
- 24 tỷ đô la vốn cho tập đoàn thương mại điện tử Trung Quốc Alibaba ? (RFI) - Chuẩn bị gia nhập sàn chứng khoán Wall Street, tập đoàn thương mại điện tử Trung Quốc Alibaba dự trù huy động hơn 24 tỷ đô la vốn trong đợt phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ở Hoa Kỳ.
- Bắc Triều Tiên lại bắn hỏa tiễn (RFI) - Quân đội Hàn Quốc được đặt trong tình trạng báo động sau khi Bình Nhưỡng bắn thử ba tên lửa tầm ngắn vào hôm nay (06/09/2014). Hỏa tiễn Bắc Triều Tiên được bắn đi từ bờ biển phía đông, gần cảng Wonsan vào sáng sớm nay.
- Nhật tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc ở Nam Á (RFI)
- Hôm nay, 06/09/2014, thủ tướng Nhật Shinzo Abe đặt chân đến Dhaka mở
đầu chuyến viếng thăm kéo dài 3 ngày tại Bangladesh và Sri Lanka
nhằm tranh giành ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực NamÁ.
- NATO thành lập liên minh chống Nhà nước Hồi giáo (RFI) - Kết thúc thượng đỉnh khối Liên Minh Bắc Đại Tây Dương tại Newport, Anh Quốc, tổng thống Hoa Kỳ thuyết phục NATO thành lập liên minh quốc tế chống Nhà nước Hồi giáo (EI) đang hoành hoành tại Irak và Syria. Các quốc gia trong vùng Vịnh họp bàn về khả năng tham gia liên minh quốc tế.
- Y tế Thế giới cho phép liệu pháp điều trị Ebola bằng máu và huyết thanh (RFI) - Trong khi chờ đợi vaccin phòng chống virus Ebola đang được thử nghiệm và hoàn tất vào tháng 11 tới, hôm qua 5/9/2014, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thông báo cho phép sử dụng ngay các phương pháp trị liệu bằng máu và huyết thanh trong những nước bị nhiễm dịch Ebola.
- WHO gấp rút triển khai các chữa trị thí nghiệm với Ebola (VOA) - Tổ chức Y tế Thế giới loan báo sẽ đẩy mạnh triển khai các cách chữa trị thí nghiệm đối với virút Ebola trong lúc số ca tử vong vì dịch bệnh này tăng lên hơn con số 2000 ở Tây Phi
- Sierra Leone sẽ giới nghiêm 72 giờ để đối phó dịch Ebola (RFA) - Sierra Leone ban bố lệnh giới nghiêm 72 giờ trên toàn lãnh thổ vào cuối tháng 9 để đối phó với dịch bệnh Ebola.
- Không quân Syria tiêu diệt 15 phần tử IS ở Raqa (RFA) - Hôm thứ bảy, máy bay của không quân Syria oanh kích thành phố Raqa do phiến quân Hồi giáo IS chiếm giữ ở miền bắc nước này đã hạ sát 31 người, trong đó có 15 phần tử IS.
- Iraq hoan nghênh kế hoạch lập liên minh quốc tế chống IS (RFA) - Iraq hôm thứ bảy hoan nghênh kế hoạch của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama thành lập liên minh quốc tế chống phiến quân của tổ chức mang tên nhà nước Hồi giáo IS. Baghdad gọi kế hoạch này là một thông điệp mạnh mẽ đáp ứng lời kêu gọi của Iraq.
- Tổng thống Obama đi thăm Stonehenge (VOA) - Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã đi tham quan không dự trù đến địa điểm tiền sử Stonehenge -- những tượng đài cự thạch cổ trên đồng cỏ xanh của Anh
- Ai Cập sẽ xử ông Morsi về tội tiết lộ tài liệu mật cho Qatar (VOA) - Cựu tổng thống bị lật đổ của Ai Cập đang bị giam chờ ngày xét xử ba vụ án nữa và ông có thể bị kết án tử hình.
- Chiến dịch tìm kiếm máy bay MH370 sẽ tiếp tục trong hai tuần nữa (RFA) - Chiếc máy bay MH370 của hàng không Malaysia bị mất tích nửa năm qua sẽ lại được tiếp tục tìm kiếm dưới biển trong chiến dịch khởi sự trong vòng 2 tuần nữa. Thủ tướng Australia Tony Abbott cho biết như vậy hôm 6/9/2014, khi ông đến Kuala Lumpur để thảo luận với chính phủ Malaysia về vấn đề này.
- Thủ tướng Úc thăm Malaysia thúc đẩy tìm kiếm máy bay MH 370 (RFI) - Sau Ấn Độ, hôm nay Thủ tướngÚc Tony Abbott đã tới thủ đô Kuala Lumpur thăm chính thức Malaysia trong một ngày. Mục tiêu chính của chuyến thăm là tăng cường hợp tác giữa hai nước và phối hợp tìm kiếm và giải quyết hậu quả hai vụ tai nạn thảm khốc của hãng hàng không Malaysia Airlines.
- Ukraine: quân đội và phe ly khai cáo giác lẫn nhau vi phạm lệnh ngừng bắn (RFA) - Theo tin ghi nhận sáng thứ bảy, quân đội Ukraine và phe phiến quân ly khai thân Nga đã cáo giác lẫn nhau vi phạm lệnh ngừng bắn chỉ vài giờ sau khi có hiệu lực.
- Nga mở lại căn cứ quân sự tại Bắc cực (RFI) - Theo nguồn tin báo chí Nga, hôm nay 6/9/2014, Mátxcơva đã điều 6 tàu hải quân chuyên chở binh sĩ và nhiều trang thiết bị tới mở lại một căn cứ quân sự của thời Liên Xô cũ tại Bắc cực.
- Khủng hoảng Ukraina : Tổng thống Putin ra luật chơi (RFI) - Kiev và phe ly khai vừa đạt được thỏa thuận hưu chiến vào hôm qua tại Minsk, Belarus, là đề tài thu hút quan tâm bình luận của hầu hết các báo Pháp. Nhật báo Le Monde có bài viết nhận định về vai trò của chủ nhân điện Kremlin qua bài viết :« Ukraina : Vladimir Putin ra luật chơi».
- Liên Hiệp Châu Âu đồng thuận về việc tăng cường biện pháp trừng phạt Nga (RFI) - Đại sứ 28 thành viên Liên Hiệp ChâuÂu trong cuộc họp ngày 05/09/2014 tại Bruxelles đồngý tăng cường các biện pháp trừng phạt kinh tế Nga. Lý do Matxcơva xâm phạm chủ quyền của Ukraina. Nga đe dọa phản công.
- Tổng thống Obama: NATO hậu thuẫn đầy đủ cho Ukraine (VOA) - Tổng thống Mỹ nói rằng liên minh NATO hậu thuẫn đầy đủ cho Ukraine trong khi nước này bảo vệ biên giới trước Nga và chống lại 1 phong trào đòi ly khai ở miền đông
- Hai phi công Trung Quốc tử nạn trên hàng không mẫu hạm Liêu Ninh (RFI) - Hai phi công Trung Quốc đã tử nạn khi tập hạ cánh và cất cánh trên hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên của nước này. Hãng tin AP hôm nay, 06/09/2014 cho biết Tân Hoa Xã đã gián tiếp loan báo thông tin nói trên khi cho biết là chủ tịch Tập Cận Bình vừa ký sắc lệnh truy tặng huy chương cho hai phi công của phi đội chiến đấu cơ tập hạ cánh và cất cánh trên hàng không mẫu hạm Liêu Ninh.
- Trung Quốc: 44 người chết vì lụt ở miền tây nam (RFA) - 44 người chết 18 người mất tích vì trận lụt xảy ra hồi tuần trước ở miền tây nam Trung Quốc. Bộ Dân Vụ Trung Quốc loan báo hôm thứ bảy thêm rằng, trận lụt cũng làm hư hỏng nhiều nhà cửa và mùa màng.
- 230 người chết vì mưa lũ ở Pakistan và vùng bắc Ấn Độ (RFA) - 230 người ở Pakistan và vùng bắc Ấn Độ bị thiệt mạng do mưa lũ gây lụt, lở đất cuốn theo nhà cửa bị phá hủy. Giới chức hữu quan của Pakistan và Ấn Độ cùng cho biết hôm thứ bảy.
- Somalia cảnh giác cao sau khi thủ lãnh chủ chiến bị hạ sát (VOA) - Các giới chức Somalia ra lệnh cảnh giác cao trên cả nước sau khi thủ lãnh của nhóm chủ chiến al-Shabab bị hạ sát trong một cuộc oanh kích của quân đội Mỹ
- NIH phát hiện các chất độc được cất giữ sai quy cách (VOA) - Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ phát hiện thêm các mẫu mầm bệnh được cất giữ sai chỗ trong các phòng thí nghiệm, trong đó có độc tố ricin và các loại vi khuẩn phát tán dịch bệnh
- Phó Tổng thống Biden: Giới trung lưu không cảm nhận kinh tế hồi phục (VOA) - Phó Tổng thống Hoa Kỳ nói đã có 1 chuỗi 54 tháng công ăn việc làm mới được tạo ra, đó là chuỗi dài nhất tăng trưởng công ăn việc làm không bị gián đoạn trong lịch sử của Mỹ
- Phong trào ủng hộ biển đảo: Biểu tượng của tình đoàn kết (BaoMoi) - Phong trào ủng hộ biển đảo không chỉ giúp các chiến sỹ hải quân, cảnh sát biển giữ vững tay súng bảo vệ chủ quyền Tổ quốc và ngư dân thêm vững vàng vươn khơi, bám biển, mà còn trở thành biểu tượng của tình đoàn kết dân tộc, sẵn sàng chống lại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
- Hoạt động đối ngoại nổi bật tháng 8 (BaoMoi) - (Chinhphu) - Tăng cường hợp tác trong quan hệ với EU; củng cố mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc, Lào, Campuchia, Nhật Bản, Ấn Độ...; tổ chức diễn đàn đối ngoại đa phương và làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các nước trong ASEAN… là những nét chính của hoạt động đối ngoại tháng 8.
- Báo TQ cố tô vẽ về mối đe dọa từ hải không quân Philippines (BaoMoi) - (GDVN) - Bài báo lo ngại Philippines nhập khẩu máy bay chiến đấu hạng nhẹ FA-50 của Hàn Quốc sẽ tạo ra mối đe dọa cho Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế Philippines.
- Trung Quốc đang 'ngoại giao giàn khoan', sát thủ kinh tế... (BaoMoi) - (Quan điểm) - Trung Quốc vừa đưa giàn khoan Khải Hoàn 01 ra vùng biển thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Giàn khoan này như thế nào, khả năng khai thác ra sao?
- Báo Nhật: Căng thẳng Biển Đông ảnh hưởng đến cả Tết Trung thu (BaoMoi) - (GDVN) - "Nếu chúng ta không dạy cho trẻ em tầm quan trọng của việc bảo vệ lãnh thổ, chúng tôi sẽ bị Trung Quốc cướp mất", một phụ nữ Việt Nam 34 tuổi cho biết.
- Bài học phân định tranh chấp biển Ấn Độ-Bangladesh (BaoMoi) - Cuối tháng 8, Bộ Ngoại giao Philippines thông báo Philippines đã đề nghị Trung Quốc giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông thông qua tòa án quốc tế như cách Ấn Độ và Bangladesh áp dụng để giải quyết tranh chấp trên vịnh Bengal.
Mòn mỏi chờ Nhà nước bồi thường
http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20140907/mon-moi-cho-nha-nuoc-boi-thuong/642565.html
TT – Gần hai năm
khi Tuổi Trẻ có bài phản ánh “Đến chết vẫn chưa được bồi thường oan
sai”, nay chúng tôi liên lạc lại nhân vật, chỉ nhận được tiếng thở dài…
13 năm kể từ khi được tòa án công nhận không có tội, ông Phạm Đức Bình vẫn chưa được nhận tiền bồi thường – Ảnh: T.L.
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có
hiệu lực thi hành hơn bốn năm nay. Với một nghị định, 13 thông tư và
thông tư liên tịch hướng dẫn, những tưởng việc thực thi không còn gì
vướng mắc, tuy nhiên thực tế mọi chuyện hầu như ngược lại.
Gần hai năm sau khi Tuổi Trẻ có bài phản ánh “Đến chết vẫn chưa được bồi thường oan sai” (Tuổi Trẻ 1-11-2012) về việc bà Mai Thanh Thúy (quận Gò Vấp, TP.HCM)
đi đòi bồi thường oan sai cho chồng, chúng tôi liên lạc lại thì vẫn chỉ
nhận được tiếng thở dài của bà Thúy: “Chưa nhận được tiền bồi thường
đâu cô à. Cơ quan nhà nước cứ gọi tui lên đi tới đi lui, thương lượng
hoài mà vẫn chưa xong. Nếu không vì danh dự cho người đã khuất thì có lẽ
tui đã bỏ cuộc vì quá mệt mỏi”.
Chết đi vẫn chưa được bồi thường
Năm 2008, ông Lê Quốc Dũng, chồng bà Thúy,
bị Công an quận Gò Vấp bắt tạm giam vì nghi ngờ có hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tháng 5-2009, Viện KSND quận Gò Vấp đã hoàn
tất cáo trạng truy tố ông Dũng.
Sau đó không chứng minh được hành vi phạm
tội, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã ký quyết định đình
chỉ điều tra bị can và vụ án vào tháng 2-2010. Tuy nhiên, mãi đến tháng
6-2010, Công an quận Gò Vấp mới mời ông Dũng đến công bố quyết định.
Đầu năm 2012, ông Dũng làm đơn gửi Viện KSND
quận Gò Vấp đề nghị bồi thường oan sai số tiền hơn 300 triệu đồng. Ông
Dũng mất vào tháng 8-2012 do bệnh nặng. Từ đó đến nay, vợ và con ông
Dũng liên tục có đơn yêu cầu Viện KSND quận Gò Vấp bồi thường cho ông
Dũng.
Lúc đầu, Viện KSND quận Gò Vấp không thụ lý
đơn với lý do đã hết thời hiệu yêu cầu bồi thường, trong khi lỗi là của
Công an quận Gò Vấp vì chậm công bố quyết định đình chỉ điều tra.
Sau hàng chục lần đơn thư mòn mỏi, đi tới đi
lui, tháng 7 năm nay bà Thúy được Viện KSND quận Gò Vấp mời đến thỏa
thuận số tiền bồi thường là hơn 120 triệu đồng (thực tế thu nhập bị mất
sau năm tháng tạm giam và tổn thất tinh thần). Tuy nhiên đến nay bà Thúy
vẫn chưa nhận được tiền.
“Đại diện Viện KSND quận Gò Vấp bảo phải lập
hồ sơ báo cáo Viện KSND TP HCM, Viện KSND tối cao. Sau khi xem xét,
Viện KSND tối cao sẽ chuyển cho Bộ Tài chính. Bộ Tài chính thẩm định rồi
mới rót tiền về Sở Tài chính TP.HCM, sau đó mới có tiền trả cho tui” – bà Thúy cho biết.
Một trường hợp chờ đợi mòn mỏi khác là ông
Lương Ngọc Phi (Thái Bình). Tháng 9-1999, TAND tỉnh Thái Bình tuyên phạt
ông Phi 17 năm tù về hai tội trốn thuế và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa với nhận định ông Phi vay của ngân hàng hơn
8,5 tỉ đồng, trong đó có hơn 985 triệu đồng ông Phi không chứng minh
được đã dùng vào việc gì, cũng không có khả năng trả nợ.
Sau đó, TAND tối cao đã hủy án điều tra lại.
Năm 2003, không chứng minh được hành vi phạm tội của ông Lương Ngọc
Phi, Viện KSND tỉnh Thái Bình đã đình chỉ điều tra đối với ông.
Mười năm sau, vào tháng 8-2013, TAND tỉnh
Thái Bình đã bị TAND TP Thái Bình tuyên buộc phải bồi thường cho ông Phi
hơn 21 tỉ đồng – số tiền bồi thường được cho là lớn nhất từ trước đến
nay.
Đến nay, bản án có hiệu lực gần một năm
nhưng ông Phi vẫn chưa được nhận tiền. Ông Phi ngao ngán nói: “Giờ tôi
chỉ muốn được gặp lãnh đạo TAND tối cao để hỏi rốt cục họ có chịu giải
quyết cho tôi hay không?”.
Chín năm là thời gian đợi bồi thường của ông
Phạm Đức Bình (quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội). Năm 2000, TAND TP Hà Nội xử
phạt ông Phạm Đức Bình 30 tháng tù về tội tham ô tài sản xã hội chủ
nghĩa và sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa. Năm 2001, tòa phúc
thẩm TAND tối cao tại Hà Nội tuyên ông Bình không phạm hai tội nêu trên.
Từ năm 2005, ông Phạm Đức Bình đã gửi đơn đến TAND TP Hà Nội đề nghị
được bồi thường.
Sau 13 năm kể từ ngày được tuyên vô tội,
tháng 4-2014, TAND TP Hà Nội đã tiến hành thương lượng với ông Phạm Đức
Bình, thỏa thuận mức bồi thường là hơn 600 triệu đồng. Thế nhưng đợi chờ
từ tháng 4 đến nay, ông Bình vẫn chưa nhận được tiền.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, lãnh đạo TAND TP Hà
Nội cho biết “vụ việc đang được xem xét”. Còn ông Bình ngao ngán nói:
“Tôi đến tòa đề nghị bồi thường sớm cho tôi thì bị bảo vệ tòa chặn ngay ở
cổng, bảo lãnh đạo đi vắng. Điện thoại cho thư ký tòa thì bảo phải đợi.
Tôi đã đợi 13 năm rồi, giờ không biết phải đợi đến bao giờ?”.
Nguồn: Cục Bồi thường nhà nước |
Cục Bồi thường nhà nước kêu khó
Thừa nhận với Tuổi Trẻ việc thực
hiện Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước còn rất chậm, ông Trần
Việt Hưng, phó cục trưởng Cục Bồi thường nhà nước – Bộ Tư pháp, lý giải
một phần do luật mới (dù luật có hiệu lực thi hành từ 1-1-2010 – PV),
trình tự thủ tục giải quyết bồi thường mới nên khi thực thi các địa
phương luôn yêu cầu Bộ Tư pháp có công văn hướng dẫn.
Theo ông Hưng, một vấn đề bất cập là quản lý
nhà nước về bồi thường bị cắt khúc: Chính phủ quản lý công tác bồi
thường trong hoạt động hành chính và thi hành án, còn TAND tối cao, Viện
KSND tối cao quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng. Vì
vậy phải có sự phối hợp giữa các cơ quan.
“Ví dụ như vụ việc ông Lương Ngọc Phi, các
cơ quan đã họp đưa ra hướng giải quyết. Tuy nhiên đây là lĩnh vực tố
tụng, chúng tôi không can thiệp được. Nếu có thẩm quyền, chúng tôi đã có
công văn hối thúc TAND tối cao sớm chuyển hồ sơ qua Bộ Tài chính để chi
trả tiền cho ông Phi. Khi triển khai luật có những bất cập như thế” –
ông Hưng nói.
Một lý do nữa ông Hưng nêu ra là kinh phí
trong hoạt động bồi thường của Nhà nước chỉ được cấp khi giải quyết vụ
việc cụ thể, còn kinh phí về quản lý, tổ chức họp hành để phối hợp, trao
đổi bàn biện pháp thì không có.
“Chúng tôi hay nói đùa Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước là nồi lẩu thập cẩm, có cả thủ tục hành chính, thủ
tục dân sự, có cả quyền lực nhà nước (đơn phương ra quyết định giải
quyết bồi thường), trong đó lại phải có sự thương lượng, có sự giao thoa
giữa hành chính và dân sự. Nó rất khó nên khi áp dụng, mỗi người còn có
cách hiểu và quan điểm khác nhau. Quan trọng là khi xử lý, các cơ quan
nhà nước biết lưu tâm đến nỗi khổ của người dân do hoạt động sai trái
của cán bộ công chức gây nên, sớm giải quyết cho dân theo đúng tinh thần
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là khôi phục những tổn thất về tài
sản, bù đắp những tổn thất về tinh thần” – ông Hưng cho biết.
TÂM LỤA
Những lá thư bị ép buộc vào Đảng
VNTB
Phùng Hoài Ngọc
“Tôi rất bất ngờ nhận được thư email ngày 23/5/2014 của một học trò cũ tên là CT, nay là giáo viên trung học phổ thông. Thật khó khăn để trả lời thỏa đáng cho em. Nhưng vẫn phải trả lời, hi vọng đáp ứng lòng tin cậy của em CT dù trong muôn một. Tuy em có tự giới thiệu họ tên, nhưng tôi khó nhớ ra khuôn mặt em trong cả ngàn GV trung học hai cấp mà chúng tôi đã đào tạo ở trường SP suốt vài chục năm qua. Em cũng không nói địa chỉ nơi công tác (có lẽ em cũng còn nghi ngại rắc rối !).
Tôi hỏi ông bạn cho tôi đăng hai bức thư đó được không. Ông đồng ý. Lãng tử xin đăng nguyên văn hai bức thư của cô CT và hồi âm của ông bạn. Mong cô giáo CT thông cảm.
* Lá thư thứ nhất của CT
Kính gởi Thầy!
Con có một thắc mắc nhờ Thầy giúp dùm:
Con là một GV, đã học qua lớp cảm tình Đảng, nhưng vì thấy mình chưa thật sự đủ năng lực và điều kiện để bước vào hàng ngũ của Đảng, nên hiện con chưa muốn vào Đảng được. Cũng chính vì lí do này mà Hiệu trưởng trường con luôn gây áp lực cho chúng con.
Tháng 02/2014 con và 3 anh chị khác trong đơn vị được Bí thư chi bộ trường mời lên văn phòng để vận động về việc phát triển Đảng. Lúc đó chúng em đã lần lượt trình bày hết những lí do mà hiện nay chưa đủ điều kiện để vào Đảng được với Bí thư trường.
Nhưng đến khi họp Tổ chuyên môn cuối năm vào 05/2014 thì được biết kết quả đánh giá của Hiệu trưởng về chuẩn nghề nghiệp của giáo viên của con là 67 điểm, đạt loại Trung bình do bị khống ở tiêu chí 1: Phẩm chất đạo đức chính trị chỉ đạt được 1 điểm. Lúc đó chúng tôi có khiếu nại và đề nghị Hiệu trưởng xem xét lại nhưng Hiệu trưởng chỉ giải thích là vì lí do: chưa tự giác chấp hành chủ trương ở công tác phát triển Đảng của đơn vị, và chưa tự giác tham gia hoạt động chính trị. Bản thân con nhận thấy mình luôn gương mẫu chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu tham gia các hoạt động chính trị-xã hội; gương mẫu thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. Đáng lẽ phải đạt 3 điểm như các đồng chí khác trong trường con, nếu chỉ vì lí do hiện nay chưa thể vào Đảng mà Hiệu trưởng đánh giá chúng con như thế thì thật không công bằng.
Bản thân chúng con tự nhận thấy mình chưa đủ năng lực nên không thể bước vào hàng ngũ Đảng, vì sợ sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Chi bộ. Và bản thân chúng con sẽ cố gắng phấn đấu hoàn thiện mình hơn nữa để thật sự xứng đáng thì mới vào xin Đảng.
Thầy cho chúng con hỏi, khi học xong lớp “Cảm tình Đảng”, mà không vào Đảng thì có thể bị coi như là: chưa tự giác chấp hành chủ trương ở công tác phát triển Đảng của đơn vị, và chưa tự giác tham gia hoạt động chính trị như Hiệu trưởng trường con đánh giá không? Không vào Đảng và bị Hiệu trưởng đánh giá như vậy có đúng và công bằng với chúng con không?
Con mong nhận được lời chia sẽ của Thầy!
Thầy trả lời
Em CT thân mến
Thầy rất thông cảm nỗi bức xúc của em và thầy cũng biết tình hình phát triển đảng viên đảng Cộng sản hiện đang khó khăn, trì trệ.
Về lời khuyên, thầy chỉ biết nói là: chấp nhận những bất công xã hội để thực hiện được ý chí, theo nhận thức của chính mình. Bị xếp loại trung bình cũng được. Tất nhiên, theo thầy nghĩ, cách đánh giá xếp loại của Trường là bất công rồi.
Em thông cảm rằng BGH nhà trường cũng là nạn nhân, họ phải chịu sự lãnh đạo của cấp trên giao chỉ tiêu. Họ cũng mắc bệnh thành tích nữa.
Thân mến tạm biệt, chúc em can đảm làm theo những gì mình tin là đúng đắn.
* Lá thư thứ hai của CT
Em rất cảm ơn những lời khuyên của Thầy!
Em còn một thắc mắc nhỏ nữa nhờ thầy giúp dùm;
Hiệu trưởng trường chúng em nói, từ đây trở về sau nếu những ai không chịu vào Đảng thì sẽ bị thuyên chuyển công tác sang chỗ khác, hoặc là bị tinh giảm biên chế không còn dạy nữa. Em cảm thấy lo lắm! Không biết có qui định ấy không?
Hiện tại Hiệu trưởng đang yêu cầu chúng em phải viết tờ tường trình nêu lên lí do mà hiện nay chưa thể vào Đảng, và hứa sẽ vào Đảng trong vài năm nữa thì Hiệu trưởng sẽ điều chỉnh lại cách xếp loại đánh giá chuẩn nghề nghiệp lại là Khá. Chúng em không biết có nên viết không và nếu viết thì phải nêu lên lí do nào để không bị họ bắt bẻ nữa? Vì tất cả những lí do chúng em trình bày Hiệu trưởng đều cho rằng không chính đáng.
Em nhờ thầy hướng dẫn giúp em dùm!
Thầy trả lời
Theo thầy biết, chẳng có tổ chức Đảng nào quy định như hiệu trưởng đó nói. Tùy theo địa phương đặt ra luật lệ mà thôi.
Nếu họ ép quá thì em đành phải nhân nhượng, đặng theo đuổi nghề nghiệp mà em yêu thích.
Rổi sau lại tính nữa,, em ạ.
Chúc em mạnh khỏe, an tâm, đường đời còn dài lắm.
GNLT
*** Mời đọc thêm bài này :Bọn móc đống rác -(Bùi bảo Trúc -NV)
Đối tượng được miễn học phí : Sinh viên học chuyên ngành Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. -(Khoa luật ĐH Huế)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét