Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

Bi kịch ‘đi tắt đón đầu’ - Giáo dục hay làm tiền?

Bùi Tín - Bi kịch ‘đi tắt đón đầu’

Mạng Diễn Đàn Thế Kỷ ngày 12/11/2014 loan tin một nông dân Việt Nam quê ở Tân Châu, Tây Ninh, vừa được Nhà Vua Campuchia Norodom Sihamoni phong danh hiệu “Đại tướng quân”. Đó là ông “Hai Lúa” Trần Quốc Hải.
Cũng theo Diễn Đàn Thế Kỷ, năm 2006 ông Hai Lúa chế tạo một chiếc trực thăng. Công trình này gây tranh cãi một thời rồi bị “xếp xó”. Nhưng ông Hai Lúa không bỏ cuộc. Ông say mê sáng chế, cải tiến các máy nông nghiệp như máy nhổ củ mì, máy làm cỏ đồng ruộng, máy rải phân, cả máy thu hoạch mủ cao su. Tuy nhiên, theo lời ông kể lại cho một phóng viên của báo Một thế giới thì ông bị rắc rối với cả trung ương Hà Nội và địa phương Tây Ninh. Nhà nước khuyên ông: Thôi nhé đừng làm nữa.
p.jpg
Gia đình ông Trần Quốc Hải
Diễn Đàn Thế Kỷ thuật lại rằng thế là ông khăn gói sang Campuchia. Các máy nông nghiệp của ông có khách hàng. Ông còn sửa chữa nhiều máy nông nghiệp cũ của nước bạn. Một hôm ông đi qua một doanh trại bộ đội cơ giới có xe bọc thép đã cũ. Ông quan sát nhiều lần và nảy ra sáng kiến có thể tham gia việc bảo quản, sửa chữa, cải tiến xe bọc thép BRDM2. Phía Campuchia đồng ý. Thế là ông và cậu con trai Trần Quốc Thanh lao vào việc. Chẳng bao lâu 5 chiếc xe bọc thép được cải tiến, tiêu thụ xăng giảm từ 40 lít xuống 25 lít/100km, tháp pháo tự động, Campuchia rất hài lòng, vì từng có chuyên gia quân sự VN sang sửa nhưng không đạt, vẫn trục trặc, hư hỏng.
Campuchia đánh giá cao, quý trọng khả năng hiếm có, tinh thần tìm tòi cải tiến, lối sống giản dị khiêm tốn của ông Trần Quốc Hải, rất trọng thị dành cho ông tiêu chuẩn ăn, ở, đi lại như cán bộ cấp cao của quân đội. Gần đây Nhà Vua còn phong cho ông danh hiệu “Đại tướng quân”. Hiện nay cha con ông đang nhận đóng mới 25 chiếc xe bọc thép cải tiến, nâng 6 bánh lên 8 bánh, có thể di chuyển thuận lợi trên địa hình phức tạp hơn.
Trước đây, hồi tháng 6/2014 mạng Đất Việt thuật lại câu chuyện một nhà phát minh khác không được trọng dụng trên đất nước mình. Đó là kỹ sư Phan Bội Trân, học từ Pháp về. Ông ham mê nghiên cứu về tàu ngầm, mò mẫm làm ra tàu ngầm nhỏ cho ngành thể thao du lịch biển . Chiếc tảu làm thử đẩu tiên đặt tên là Yết Kiêu 1, dài 3 mét 2, nặng 1 tấn, vỏ bằng composite, có ống kính viễn vọng, máy cung cấp khí, có bánh lái ở phía trước, phía sau và chiều ngang, có thể lặn sâu 70 mét trong nửa giờ, tất cả bộ phận đều làm từ trong nước, trừ động cơ phải nhập. Tàu ngầm tự tạo cho thể thao, du lịch biển được thử nghiệm từ năm 2010 ở hồ bơi Trường Trung cấp Kỹ thuật Hải quân Sài Gòn. Kết quả được đánh giá là khả quan, thiết thực. Giá thành chừng 10.000 US$. Sáng chế này cũng không được trong nước hoan nghênh, bị ế.
Nhân các sự kiện trên, đã có nhiều tờ báo mạng và blogger trong nước bình luận vì sao chính quyền trong nước không khuyến khích, còn ghẻ lạnh với các nhà sáng chế phát minh từ nhỏ đến lớn của nước mình. Có blogger đau xót nhắc rằng một nước có 24.000 tiến sỹ, 10.000 giáo sư mà chưa sản xuất nổi một chiếc đinh vít hiện đại đúng tiêu chuẩn.
Ai nấy đều rõ Việt Nam là thuộc nhóm đèn đỏ của toàn thế giới về sáng chế, phát minh, về số lượng các bài nghiên cứu có tính chất tìm tòi, khai phá về khoa học và kỹ thuật.
Về nhà khoa học, ngoài nhà toán học Ngô Bảo Châu còn ai nữa? Đây là hậu quả của lối học vẹt, học thuộc lòng, nhồi sọ các công thức chết, không khuyến khích óc tưởng tượng, suy luận, tự tìm hiểu mọi hiện tượng và sự vật, tò mò tìm ra cái mới.
Trao đổi chuyện này với một nhà báo Pháp chuyên về kinh tế các nước châu Á, ông có cách nhìn sâu và độc đáo. Ông bảo cái nguyên nhân của nguyên nhân là nền kinh tế VN không bình thường, không giống ai. Ông giải thích:
- Bình thường mở đầu cho phát triển kinh tế trong một nước nông nghiệp là phải tập trung vào sự nghiệp công nghiệp hóa, từ tích lũy ban đầu rồi tiến dần lên với quá trình hiện đại hóa. Quá trình đó có khi dài hàng thế kỷ, với sự hình thành của một đội ngũ ngày càng đông công nhân tay nghề cao và cán bộ kỹ thuật chuyên sâu, gắn liền với nền giáo dục cung cấp công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề, mang tinh thần cải tiến, sáng chế phát minh kết hợp với nền khoa học kỹ thuật không ngừng đi kịp với thế giới.

-  Sau vài chục năm nền sản xuất đạt mức công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao, vốn tư bản được tích lũy, tích tụ lớn lên dần mới xuất hiện những nhóm tài phiệt hùng mạnh, những đế chế kinh tê - tài chính đại tỷ phú, như ở phố Wall Street ở New York, Hoa Kỳ, từ đó sinh ra những ngân hàng ngày càng lớn để chuyên kinh doanh tiền tệ, cổ phiếu, chứng khoán.

-  Về mặt thuần sản xuất ra giá trị của cải thì nông dân, công nhân, lao động tri thức - kỹ thuật , nhà kinh doanh… mới thật là cái gốc, là những người làm giàu thêm cho xã hội. Còn giới tài phiệt - ngân hàng chỉ là kẻ lợi dụng ăn bám vào giới lao động nói trên, lấy của người này chuyển cho người khác. Cho nên một chế độ tốt là chế độ chăm lo cái gốc, là ưu tiên cho việc sản xuất ra ngày càng nhiều của cải, đào tạo nhiều công nhân tay nghề cao, nhiều cán bộ kỹ thuật tài giỏi, có nền khoa học giáo dục khai phóng khuyến khích tìm tòi, phát minh, sáng chế phong phú, tạo nên nền sản xuất năng suất không ngừng được nâng cao.
Có vẻ như Bộ Chính trị cầm quyền trong nước đã rất coi nhẹ cái phần gốc nói trên, cho nên năng suất lao động xã hội rất thấp, công nhân chuyên nghiệp thiếu trầm trọng, sáng chế phát minh hầu như vắng bóng, kỹ thuật lạc hậu đến mức tận cùng của khu vực, nền giáo dục vẫn theo kiểu giáo điều nhồi sọ. Trong khi đó ngân hàng nhan nhản: ngân hàng Nhà nước, ngân hàng quân đội, ngân hàng xây dựng, gân hàng thương mại, ngạn hàng ngoại thương, ngân hàng tỉnh, ngân hàng huyện, ngân hàng ngành.

Trong Quốc hội không thấy tiếng nói của nhà khoa học - kỹ thuật, không ai biết bộ trưởng khoa học và công nghệ là ông nào. Quốc hội vẫn bàn nhiều đến ngân sách, tiền lương, đến các khoản nợ, nợ quốc gia, nợ của các cơ sở quốc doanh, nợ của ngành ngân hàng, vẫn chỉ lo các nguồn ODA và FDI bị giảm bớt do nền kinh tế của trong nước vẫn chưa đủ sức tự phát triển bình thường.

Phải chăng đây là “nét sáng tạo độc đáo” của Bộ Chính trị các khóa gần đây, đã tạo nên cho giới lãnh đạo của đảng một cuộc đi tắt, đón đầu hoành tráng, không cần chờ cho nền kinh tế trải qua thời kỳ tư bản tích tụ ban đầu để tạo nên cả một hệ thống ngân hàng hùng hậu với những nhóm tài phiệt - tỷ phú đô-la Mỹ, hầu hết là bà con anh chị em bạn hẩu của các quan chức ở đỉnh cao quyền lực.
Với chiến lược đi tắt đón đầu như thế, thì phải 40 năm nữa thu nhập trung bình của người dân VN mới có thể bằng dân Nam Triều Tiên hiện nay, nhưng ngay bây giờ tài sản của các tỷ phú đô-la VN đâu có thua kém các tỷ phú Nam Triều Tiên hay Thái Lan.
Một bạn Pháp ghé tai tôi: Dân Việt Nam các ông hiền quá. Sự phi lý quái đản của nước Việt Nam không thể trông đợi gì ở cuộc cách mạng hoa hồng hay hoa huệ hay hoa sen mà cần phải có một cú điện chấn (un electro-choc). Phải chịu đau, choáng váng, xáo trộn một chút, mọi người thức tỉnh, giật mình, mới có cuộc đổi đời cần thiết và xứng đáng với dân tộc Việt Nam.
Bùi Tín
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. 
(VOA)

Càng nhiều luật thì càng bó tự do?

Việc ‘bổ sung’ văn bản luật do cuộc sống đòi hỏi khác xa hoàn toàn với việc phải ‘làm lại’, ‘sửa chữa’ những điều không đáng sai.
Một trong những bộ luật quan trọng  sắp được QH thảo luận tại hội trường tuần này là Bộ Luật Dân sự sửa đổi. Tuy nhiên, phát biểu tại thảo luận tổ cuối tuần trước, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường ‘tâm tư’ rằng: không thể tiếp tục mãi câu chuyện buồn là một bộ luật lớn như Luật Dân sự mà cứ 10 năm lại thay đổi một lần và, dân sự càng nhiều luật, càng bó tự do (VietNamNet, 13/11)...
 Nếu tính đến năm 2015 thì, có lẽ, nước ta lập ‘kỷ lục’ thế giới vì liên tiếp trong ba thập niên, cứ 10 năm lại sửa Luật Dân sự một lần (1995, 2005, 2015). Cách làm đó quả là lạ. Câu hỏi đặt ra: Tại sao chuyện đó không xảy ra ở nhiều nước khác và, việc sửa đi sửa lại nhiều như thế có thể làm cho người dân hiểu nhầm không?     
Những cái sai không đáng xảy ra…
Trước hết, phải xác định dứt khoát rằng ‘tuổi thọ’ của một bộ luật tùy thuộc hoàn toàn vào tài năng, sự cẩn trọng, tầm nhìn xa của các nhà lập pháp. Đừng đổ lỗi rằng do cuộc sống thay đổi quá nhanh, thường xuyên “đẻ’ ra các tình tiết, quan hệ mới, buộc luật pháp phải theo. Thực tế đó là điều hiển nhiên, chẳng hạn, cách đây 20 năm không có khái niệm về bí mật cá nhân, quyền riêng tư trong thư điện tử. Thế nhưng, việc ‘bổ sung’ văn bản luật do cuộc sống đòi hỏi khác xa hoàn toàn với việc phải ‘làm lại’, ‘sửa chữa’ những điều không đáng sai.
Luậ Dân sự, bó tự do, nhiều luật, Bộ trưởng Hà Hùng Cường, Hà Văn Thịnh, cơ quan tố tụngCó một câu chuyện xảy cách đây 227 năm – năm 1787. Khi đó, 55 nhà lập pháp (phần lớn là trẻ tuổi) của một nhà nước đang hình thành- Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ- họp để bàn xem nên soạn thảo Hiến pháp như thế nào, A.Hamilton đã phát biểu rằng: Chúng ta có mặt ở đây để xây dựng một nền tảng pháp lý (tức Hiến pháp) cho một quốc gia và chúng ta muốn nền tảng đó tồn tại qua mọi thời đại. Vậy thì, chúng ta phải dự liệu những thay đổi mà các thời đại đó sẽ tạo ra cũng như phải xác định được những điều không bao giờ thay đổi.
Nhưng dường như, nguyên tắc kinh điển đó ít khi được các nhà làm luật nước ta coi trọng. Chẳng hạn, độ tuổi bắt đầu hiểu biết - vị thành niên - trưởng thành của một đời người hầu như ít khi thay đổi (các nước xác lập tiêu chí “trưởng thành đầy đủ” trong khoảng từ 18-21 tuổi).
Thế nhưng, nếu giở mấy trang đầu tiên của Luật Dân sự hiện hành, sẽ thấy ngay sự mâu thuẫn khó giải thích.
Chẳng hạn, Điều 21 khẳng định trẻ đủ 06 tuổi là có “hành vi năng lực dân sự”; thế nhưng trong toàn bộ Luật Dân sự, không hề trao cho trẻ từ 06 đến trước 09 tuổi bất kỳ quyền gì. Phải chăng áp đặt 06 tuổi là căn cứ cảm tính theo tuổi bắt đầu đi học? Điều 20 cho rằng người chưa thành niên khi giao dịch dân sự “phải được người đại diện đồng ý”; thế nhưng, tại Điều 27 lại quy định rằng: “Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ 09 tuổi trở lên phải hỏi ý kiến người đó”(?)
Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để phân biệt quyền của người đại diện và người chưa thành niên khi cứ phải hỏi ý kiến lẫn nhau?
Công việc lập pháp đòi hỏi tính chặt chẽ của ngôn từ, không cho phép bất kỳ một sự mơ hồ nào trong cách thể hiện của ngôn ngữ. Thế nhưng, Luật Dân sự có không ít những sai sót trong chuyện này. Ví dụ, Điều 175 định nghĩa “Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại”(?) Chẳng lẽ tài sản nào cũng có khả năng sản sinh ra hoa lợi? Hoặc tại Điều 188, Luật Dân sự quy định về “Quyền chiếm hữu gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước” mà không hề nhắc đến các thứ không phải là gia súc, gia cầm. Chẳng hạn nuôi gấu lấy mật thì áp dụng vào điều luật nào?...
Có phải “Dân sự càng nhiều luật thì càng bó tự do”?
Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, “dân sự càng nhiều luật, càng bó tự do”(?) Đây là vấn đề cần phải tranh cãi bởi vì thực tiễn cho thấy, càng có nhiều quy định cụ thể phù hợp với nguyên tắc của luật pháp càng tốt. Nó sẽ loại trừ các yếu tố mơ hồ, loại trừ những điều luật đa nghĩa mà quan tòa muốn suy biện thế nào cũng được. Nhất là, ở các lĩnh vực “cấm – không cấm” được diễn đạt đầy đủ, chi tiết thì người dân (thuộc tầng lớp không có điều kiện học hành) mới biết rõ để mà chấp hành, tránh được những vi phạm không đáng xảy ra.
Chẳng hạn, sự kiện một cô giáo phải tự tử vì sự lộng hành, lạm quyền của hiệu trưởng (VietNamNet, 28/10) là một bằng chứng nhãn tiền: Không có bất kỳ một điều luật quy trách nhiệm hay có một chế tài nghiêm khắc nào đối với cấp trên khi cấp trên hành hạ cấp dưới. Cần nhấn mạnh rằng đây không hề là trường hợp đơn lẻ - ít nhất, theo hiểu biết của người này.
Là một người có hàng ngàn cựu SV làm giáo viên các cấp, tôi đã nghe nhiều lần về các ‘lãnh chúa’ ở các trường tiểu học và THCS chính là các vị hiệu trưởng. Tuyệt đại đa số giáo viên không dám phản đối những sai trái bởi họ sợ rằng nặng thì chuyển đến nơi xa, nhẹ thì bị trù dập. Nhẹ nhất – riêng cái chuyện khi con nhỏ, bố trí dạy tiết 01 rồi bắt ngồi chờ đến tiết 5 đã là hình phạt “hợp pháp” mà thâm thúy vô cùng…
Chính vì nguyên tắc cần phải cụ thể hóa các quan hệ dân sự nên đòi hỏi cái nhìn tổng thể về các quan hệ dân sự vừa … tổng thể, lại vừa phải cụ thể là vậy.
Những tắc trách đó gây phiền hà cho người dân và mọi cơ quan tố tụng. Tác hại nhãn tiền là xã hội thiếu ổn định, mặc dù, ai cũng biết, Luật Dân sự không phải là bộ luật khó nhất.
Hà Văn Thịnh
(Tuần Việt Nam)

Di sản thời Nguyễn Thiện Nhân: Giáo dục hay làm tiền?

“Có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI).
Có thể nói, khi Việt Nam xác định công cuộc xây dựng quốc gia phụ thuộc vào yếu tố nhân lực chất lượng cao thì Bộ Giáo dục - nơi đầu não của chính sách trồng người, nơi được rót đến 20% ngân sách nhà nước - đã làm gì để “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW”?
Di sản Nguyễn Thiện Nhân
Khó có thể nói hết tầm quan trọng của Bộ Giáo dục, nhưng từ sau Đổi mới đến nay, qua các đời Bộ trưởng, đầu não quyết sách giáo dục vẫn đang đi những bước ì ạch, chậm chạp.
Sự kiên nhẫn và trông chờ của xã hội đối với vấn đề đổi mới giáo dục và đào tạo con người được Bộ Giáo dục đối đãi lại bằng những quyết định không giống ai. Từ việc tiến hành các đợt cải cách thi cử, phong trào chống tiêu cực cho đến đổi mới sách giáo khoa.
Những việc làm đó không đưa đến những thay đổi mang tính toàn diện cho nền giáo dục nước nhà như kỳ vọng mà càng khiến nó trở nên bê bết hơn. Nền giáo dục không những không khá lên, mà còn tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt vẫn chưa thoát khỏi hư học, khi đào tạo không đáp ứng đúng nhu cầu của xã hội.
Từ năm 2006 đến nay, nền giáo dục được phổ cập đại trà và thị trường hóa, hoàn toàn trái ngược với việc cơ cấu nền giáo dục theo mô hình xã hội học tập. Các ngành và trường liên tục được mở ra, trong khi yêu cầu xã hội về đội ngũ nhân sự lành nghề hoàn toàn không được đáp ứng. Hơn 70 nghìn cử nhân thất nghiệp và đang tăng phản ánh xác thực nhất chất lượng đào tạo yếu kém đó.
Khi ông Nguyễn Thiện Nhân làm Bộ trưởng, ông chính là người liên tục tấn công vào bệnh thành tích trong giáo dục, nhưng ông lại là người rơi vào bệnh thành tích khi mở nhiều trường đại học nhất. Ông để lại một di sản về các trường đại học đại trà, và những phong trào không đến nơi, đến chốn. Hệ quả là xuất hiện những trường hợp “không thi, tự dưng được báo trúng tuyển đại học”.
Người giỏi “làm tiền”
Năm 2010, khi ông Nguyễn Thiện Nhân thôi nhiệm và ông Phạm Vũ Luận lên, cứ tưởng sẽ có một cuộc thay máu trong nền giáo dục. Thế nhưng, ông Bộ trưởng vốn là một người xuất thân từ ĐH Thương mại, nên có vẻ ông thích hợp với cách làm tiền trong giáo dục hơn là một người hoạch định chính sách giáo dục.
Từ khi ông lên nắm quyền Bộ trưởng, ông khiến cho dư luận mất dần sự kiên nhẫn vốn có, trong khi thế hệ học sinh biến thành những nạn nhân của cuộc thí nghiệm khổng lồ với các đề án “đổi mới” giáo dục tùy hứng, thiếu đánh giá tác động, dù rằng ông luôn phủ nhận điều này. Nhưng từ ban hành văn bản cho đến đưa ra các đề xuất giáo dục thời gian qua đã không cho thấy như vậy.
Từ việc ngã giá kiểu “buôn tôm, bán tép” với đề án 34.000 tỷ rớt xuống 778,8 tỷ đến việc Bộ Giáo dục đề ra phương án thay đổi hệ thống giáo dục (5 năm tiểu học, 5 năm THCS, 2 năm THPT) chưa được 8 ngày đã rút lại (20/8 – 28/8) vì độ “chín” chưa tới. Rồi Bộ rút 2 kỳ thi xuống 1 kỳ thi chung Quốc gia, tiếp đó dù đã công bố phương án kỳ thi chung quốc gia với chủ trương bỏ tuyển sinh đại học theo khối và chuyển sinh tuyển sinh theo môn thi. Nhưng sau đó, chính Bộ lại bất ngờ có công văn đề nghị xét tuyển theo khối trở lại. Từ miễn thi ngoại ngữ trong thời đại toàn cầu hóa đến việc bắt buộc phải thi môn này, rồi cụm thi tại địa phương (ban đầu cấm các thí sinh không dự tuyển ĐH, chỉ xét tốt nghiệp, sau lại nói không cấm)…, tất cả chỉ diễn ra trong thời gian 2 tháng.
Vậy sự nghiêm túc trong việc nghiên cứu các chính sách của Bộ nằm ở đâu để phải diễn ra cái tình trạng bất nhất đến thế? Nếu không coi đó là sự thiếu nghiêm túc trong công tác giáo dục, xa rời thực tiễn giáo dục Việt Nam, “thí nghiệm trẻ con” thì nên coi nó là gì?
“Miếng bánh” quá ngon
Câu chuyện về kỳ thi Quốc gia với các vấn đề liên quan chưa chấm dứt thì Bộ Giáo dục lại tiếp tục được nhắc đến với câu chuyện SGK. Theo truyền thống từ bấy lâu nay, Bộ là người chủ trì biên soạn, in ấn rồi bán SGK.
Nhưng SGK qua nhiều đợt “cải cách” đến nay vẫn chưa có thấy mức độ giảm tải, mà ngày một nặng nề. Các kiến thức hư học còn nhiều, trọng lượng sách vở ngày một tăng. Cho nên, nếu có đưa máy tính bảng vào thay thế sách vở truyền thống mà bỏ quên nội dung sách thì hiệu quả cũng bằng không. GS Nguyễn Lân Dũng dẫn chứng: Tôi đã mua trên 70 cuốn sách giáo khoa Sinh học ở bậc phổ thông của các nước và thấy chương trình ở ta chẳng giống nước nào, vừa nặng lại vừa thấp.
Điều đó, dẫn đến đòi hỏi gay gắt về việc Bộ Giáo dục phải buông mảng SGK ra thông qua xã hội hóa, trở về với cương vị là người quản lý tầm vĩ mô trong việc kiểm định, duyệt sách, thay vì vừa đá bóng, vừa thổi kèn như hiện tại. Thế nhưng Bộ viện lý do là “sợ” thiếu tính chủ động hay đến thời điểm học mà vẫn không có bộ SGK chuẩn nên muốn giữ độc quyền, trong khi sự độc quyền đó hoàn toàn không đáp ứng được sự mong đợi của xã hội.
Không ngoa khi cho rằng, Bộ Giáo dục “cố đấm ăn xôi” để giữ “miếng bánh” quá ngon này, và việc Bộ xin 778,8 tỷ đồng, trong đó 504,4 tỷ đồng là ngân sách trung ương (có phát sinh thêm) để in ấn và bán sách trong khi đó, các cá nhân, tổ chức khác thì buộc tự túc càng khiến cho nghi ngờ về cái lương tâm giáo dục.
Chủ nhiệm văn phòng Quốc Hội, ông Nguyễn Hạnh Phúc, cũng không đồng tình về việc Bộ GD-ĐT vừa biên soạn, vừa thẩm định SGK vì đó là không khánh quan, áp đặt.
Thế hệ con tin
Trong Hội nghị quán triệt Nghị quyết TW 8 (khóa 11) và tổng kết năm học 2012-2013, ông PTT Vũ Đức Đam cũng từng cho rằng giáo dục phải được đổi mới, nhưng đổi mới trước nhất vẫn là đổi mới quản lý ở Bộ Giáo dục. Ông Vũ Đức Đam cũng nhấn mạnh: “Chúng ta không “câu giờ”, không câu dầm để kéo lui nhưng phải hết sức khoa học và bình tĩnh. Ngay như cả việc thi tuyển vào ĐH cũng cần phải xem xét một cách cẩn trọng”
Nền Giáo dục Việt Nam vốn đã tối màu, từ khi ông Phạm Vũ Luận lên nắm quyền Bộ trưởng, ông tiếp tục thương mại hóa nền Giáo dục. Nhưng đó là một cuộc thương mại chưa thấy lợi cho nền giáo dục, mà chỉ thấy có lợi cho một nhóm người đứng đằng sau cái đề án, dự án giáo dục đó. Không thấy sự bình tĩnh và cẩn trọng mà chỉ thiếu sự vội vã và bất nhất.
Ông Bộ trưởng đã chỉ ra rất đúng về những hạn chế của nền Giáo dục Việt Nam, trong đó: Việc dạy - kiến thức nhiều, kỹ năng ít; Việc học - Thầy dạy gì, trò học nấy; Thi - Đó là cuộc chạy đua căng thẳng với số phận chứ không phải là kiểm tra chất lượng.
Nhưng gần 4 năm ông nắm giữ chức vị tư lệnh ngành giáo dục, những hạn chế đó mà ông nhận ra đến nay phần nào đã được khắc phục hay ít nhất là khắc chế? Không? Hoàn toàn không? Từ lượng kiến thức cho đến nạn thi cử, tiêu cực. Chưa kể, vấn nạn giáo viên sư phạm tràn lan ra trường chạy việc với suất vài chục cho đến vài trăm triệu đồng vẫn chưa được Bộ Giáo dục đếm xỉa đến dù báo chí, xã hội đã lên tiếng.
Dù ông Phạm Vũ Luận nhấn mạnh đổi mới giáo dục là trận đánh lớn. Nhưng trận đánh lớn đó các “tướng lĩnh đến binh lính phải quyết tâm, tin vào chiến thắng, sẵn sàng trả giá” nổi không trước một cách làm không giống ai ở Bộ của ông? Và nó diễn ra khi ông chỉ còn 1 năm nhiệm kỳ nữa là rời ghế (2010-2014).
Đó có phải là một cuộc “đặt cược”, với những quyết định đầy nóng vội và không hề đánh giá một cách đầy đủ các tác động? Và cái giá phải trả chính là hơn “22 triệu thầy, cô giáo và học sinh, sinh viên”. Rõ ràng, dù ông cố tình phủ nhận, nhưng với những gì ông thể hiện trong thời gian qua, đó chính là đánh cược, một “đánh cược” trên một thế hệ học sinh, sinh viên, giáo viên.
Vô liêm sỉ!
Xã hội không đòi hỏi cá nhân ông Bộ trưởng hay Bộ Giáo dục phải cho ra kết quả tức thì của việc Đổi mới giáo dục căn bản và toàn diện, nhưng nó phải ít nhất thể hiện được tính đổi mới trong đó. Nhưng tính đổi mới quá ít, trong khi đòi tiền lại quá nhiều. Chính điều đó, khiến cho Bộ mải tranh giành miếng bánh SGK, vẽ các đề án đổi mới tiền tỷ mà quên luôn trách nhiệm như chính tên gọi. Làm cho Giáo dục thay đổi liên tục, và những lần thay đổi đều như một trận đánh đầy bất ngờ nhưng hiệu quả lại thấp.
Ông Bộ trưởng muốn có sự đồng thuận để tiến hành đổi mới giáo dục, nhưng đồng thuận thì cũng phải dựa trên cơ sở tin tưởng khoa học chứ không phải là trên kiểu “làm thì láo mà báo cáo thì hay”. Cá nhân ông và cơ quan mà ông đang đứng đầu cần hiểu giáo viên cần và muốn gì, học sinh cần gì và xã hội muốn gì. Chứ không phải ngồi trong phòng lạnh mà ra các chính sách thiếu thực tế và , khiến xã hội thấy cách “làm tiền” vô liêm sỉ của Bộ Giáo dục thời kỳ ông quản nhiệm.
Nam Giang
(Việt Nam Thời Báo)

Miến Điện : Aung San Suu Kyi không thể làm Tổng thống

media
Triển vọng trở thành Tổng thống Miến Điện của bà Aung San Suu Kyi thêm xa vời ? Ảnh ngày 31/10/201
Cuối năm 2015, Miến Điện tổ chức bầu cử. Trong tiến trình đấu tranh thúc đẩy cải cách dân chủ, phe đối lập, với nòng cốt là Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đòi phải sửa đổi Hiến pháp, vốn được ban bố từ thời chế độ quân sự độc tài, để lãnh đạo đối lập, bà Aung San Suu Kyi, có thể trở thành Tổng thống. Các cuộc thương lượng đang diễn ra. RFI phỏng vấn ông Maël Raynaud nhà phân tích độc lập, chuyên gia về Miến Điện.
RFI : Xin chào ông Mael Raynaud. Một ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã được thành lập. Ủy ban này phải có ý kiến về hai điều khoản chính gây vấn đề, đó là điều khoản ngăn cản bà Aung San Suu Kyi trở thành Tổng thống và điều khoản cho phép quân đội nắm quyền kiểm soát chính quyền. Vậy ủy ban này có cơ may tạo được một sự thay đổi nào đó hay không ?  
Maël Raynaud : Rất tiếc là không. Tôi xin thông báo một tin xấu mà tôi vừa nhận được. Tôi nói chuyện qua điện thoại với các đồng nghiệp ở Naypyidaw, thủ đô Miến Điện và được biết : Chính quyền đã ra quyết định và bà Aung San Suu Kyi sẽ không thể trở thành tổng thống Miến Điện.
Lần này, Quốc hội mà người ta gọi Pythu Hluttaw tại Miến Điện, sẽ không thay đổi quyết định. Tôi nghĩ là đã quá muộn. Giờ đây, vấn đề cần biết là đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ - NLD và bà Aung San Suu Kyi sẽ phản ứng như thế nào, liệu họ có quyết định tẩy chay cuộc bầu cử hay vẫn tham gia ? Có lẽ họ sẽ tham gia, nhưng lần này, bà Aung San Suu Kyi không thể trở thành Tổng thống. 
RFI : Liệu có thể đạt được một thỏa hiệp trong những điều kiện như vậy hay không ? 
Maël Raynaud : Đúng là từ nhiều tháng nay, bà Aung San Suu Kyi thảo luận, đặc biệt là với Chủ tịch Quốc hội, ông Shwe Mann và họ cố gắng cùng nhau tìm cách đạt được một sự dàn xếp nào đó, chỉ liên quan đến Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Nếu Liên đoàn thắng cử, và trường hợp này dường như chắc chắn sẽ xẩy ra trong cuộc bầu cử vào cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 2015, thì cần phải dàn xếp ra sao để đảng này có thể chia sẻ quyền lực với các đại diện của quân đội, hiện vẫn là lực lượng chính trị lớn nhất ở Miến Điện, trong lúc Chủ tịch Liên đoàn, bà Aung San Suu Kyi lại không nắm chức Tổng thống. Cần phải tìm được một sự cân bằng và các cuộc thương lượng đang diễn ra. Có nhiều lý do để nghĩ rằng bằng cách này hay cách khác, sẽ có một giải pháp. 
RFI : Vậy bà Aung San Suu Kyi có thể chấp nhận chức vụ gì trong tân chính quyền Miến Điện ? 
Maël Raynaud : Theo Hiến pháp 2008, có hai Phó Tổng thống và bà Aung San Suu Kyi có thể là một trong hai người này. Bà cũng có thể giữ chức Chủ tịch Quốc hội, thay thế ông Shwe Mann. Đây là hai chức vụ có nhiều khả năng nhất, và theo tôi, chắc chắn sẽ có một sự dàn xếp, thỏa hiệp. 
RFI : Điều đó có nghĩa là bà Aung San Suu Kyi vẫn luôn luôn là chính khách dóng vai trò trung tâm trong phe đối lập. Ai có thể thay thế bà ? 
Maël Raynaud : Chắc chắn bà Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật trung tâm trong phe đối lập và đương nhiên, đại đa số người dân Miến Điện mong muốn là bà Aung San Suu Kyi trở thành Tổng thống. Tiếc thay, mong muốn của họ không được đáp ứng.
Điều hiển nhiên là bà Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật chính trong phe đối lập Miến Điện. Vậy ai có thể thay thế bà ? Rất tiếc là không. Bản thân bà Aung San Suu Kyi cũng không có năng khiếu đào tạo người thay thế. Bà có vai trò trụ cột và bà duy trì vị trí này. Chắc chắn, đây cũng là một vấn đề đối với tương lại của Miến Điện. 
RFI : Các cuộc xung đột với các cộng đồng thiểu số cũng đè nặng lên tương lai Miến Điện. Có một tiến trình tái lập hòa bình đang diễn ra. Mọi việc hiện nay đến đâu rồi ? 
Maël Raynaud : Có hai điểm. Trước tiên - và đây là thông tin tốt đẹp – là nhìn chung, chính phủ, quân đội và các cộng đồng thiểu số thảo luận với nhau. Tại Miến Điện hiện nay, không còn có những cuộc xung đột giống như tình hình trong những năm 1970. Rất tiếc là thỉnh thoàng, đâu đó, vẫn diễn ra các cuộc đọ súng. Nhưng nhìn trong tổng thể, chiến sự đã ngưng.
Điểm thứ hai, liên quan đến sự thành công của tiến trình này. Người ta có thể nghi ngại một chút nào đó. Nhưng rõ ràng cả hai bên đều có những nỗ lực thực sự. Vấn đề là chính phủ ngay từ đầu đã quyết định cần tiến xa hơn là việc đạt được một thỏa thuận ngừng bắn đơn giản, bằng cách cố đạt được một hiệp định chính trị. Điều này rất khó thực hiện. Người ta sẽ thấy tiến trình này bị chệch choạng ra sao, nhưng vào lúc này, người ta có thể lạc quan bởi vì chiến sự đã ngưng và đồng thời, người ta cũng hơi bi quan một chút, bởi vì tiến trình này có vẻ không mang lại kết quả. 
RFI : Từ khi lên cầm quyền, cách nay 18 tháng, ông Thein Sein đã đóng vai trò như một học sinh giỏi của phương Tây, thực hiện một loạt các cải cách, đến mức là Hoa Kỳ bãi bỏ trừng phạt. Giờ đây, khả năng hành động của ông ra sao ? 
Maël Raynaud : Không chỉ Mỹ mà cả Liên Hiệp Châu Âu đều bãi bỏ trừng phạt. Điều thứ nhất mà tôi muốn nói là hãy chấm dứt kiểu nhìn nhận Miến Điện và Tổng thống Thein Sein như là những người tìm mọi cách để làm hài lòng phương Tây.
Miến Điện là một nước có 51 triệu dân và có những vấn đề chính trị nội bộ. Tổng thống Thein Sein phải nghĩ tới người dân, nghĩ tới quân đội đứng sau lưng ông và ông cũng phải nghĩ tới những nhân vật như bà Aung San Suu Kyi. Khi tôi nói, ông Thein Sein nghĩ tới những người này, không có nghĩa là ông nhất thiết đồng ý với họ, nhưng ông phải chú ý tới họ và mối quan tâm của ông còn hơn nhiều người ngoại quốc.
Ông Thein Sein vẫn có khả năng hành động để tiếp tục thực hiện các cải cách. Tiến trình cải cách sẽ còn kéo dài hơn một năm, bởi vì trong một năm nữa, ông có thể rời chức Tổng thống. Nhưng thực ra với mối quan hệ của ông với phương Tây, rất có thể là Miến Điện sẽ tiếp tục có quan hệ tốt đẹp với phương Tây, ít ra là cho tới sang năm. 
RFI : Phải chăng Hoa Kỳ đã quá vội vã kỳ vọng vào tiến trình này, theo như nhận định của bà Aung San Suu Kyi ?  
Maël Raynaud : Tôi hiểu điều bà Aung San Suu Kyi nói, bởi vì bà nghĩ như vậy và bà cũng có một sự tính toán chính trị nào đó. Nếu bà nói rằng chính phủ đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì bà sẽ không còn lập luận gì nữa để chống lại họ về chính trị trong các cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào năm tới. Điều thứ hai, đối với Hoa Kỳ, tại một nước như Miến Điện, tiến trình chuyển đổi, cải cách rất phức tạp. Hoa Kỳ không có một sự lựa chọn nào khác là phải đi cùng, hỗ trợ tiến trình này.
Đức Tâm
(RFI)

Tại sao tình hữu nghị Nga-Trung sẽ bền vững

Gần đây, Trung Quốc và Nga đã thách thức trật tự quốc tế bằng cách hậu thuẫn lẫn nhau trên mặt trận ngoại giao để đối phó vấn đề Ukraine và Hồng Kông, theo thứ tự tương ứng. Nhưng các quan sát viên phương Tây gần như đã hiểu lầm những lý do khiến hai nước phải xây dựng các quan hệ thân thiết với nhau hơn trước. Nga và Trung Quốc được thúc đẩy bởi các lợi ích vật chất mà hai nước chia sẻ thì ít, nhưng bởi một ý thức thông thường về cái căn cước dân tộc [national identity] thì nhiều. Cái bản sắc dân tộc này tự định hình trong cuộc đối kháng chống phương Tây và trong việc củng cố cách nhìn của mỗi nước về di sản của chủ nghĩa cộng sản truyền thống.
130327162059-xi-jinping-vladimir-putin-614xaMoscow và Bắc Kinh có những bất đồng về trật tự tương lai mà họ dự phóng cho khu vực riêng của mình. Nhưng cả hai đều nhất trí rằng trật tự địa chính trị phương Đông chắc chắn xung khắc với trật tự địa chính trị phương Tây – và chính điều này đã dẫn hai nước đến những quan hệ song phương gần gũi hơn trước một cách đáng kể.
Một số quan sát viên phương Tây đã nhấn mạnh quá đáng về các căng thẳng Trung-Xô trong thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời tranh luận rằng quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow có thể vẫn còn thiếu bền vững vì những chuyển biến đã diễn ra bên trong hai nước từ thập niên 1990, kể cả tiến trình dân chủ hóa tại Nga, toàn cầu hóa tại Trung Quốc, và sự trỗi dậy nhanh chóng của một giai cấp trung lưu có khả năng tiếp cận thông tin bên ngoài tại cả hai nước. Về việc Trung Quốc và Nga xây dựng các quan hệ mới, các quan sát viên này tin rằng tình hữu nghị Nga-Hoa chỉ là một cuộc hôn nhân hờ [a marriage of convenience] sẽ bị các lợi ích quốc gia khác gạt qua một bên, trong đó phải kể đến các quan hệ hữu hảo với phương Tây.
Nhưng hầu hết người phương Tây không hiểu được rằng, kể từ những năm 1990, các quan chức Trung Quốc và Nga đã bắt đầu hối tiếc về những căng thẳng giữa hai nước trong thời Chiến tranh Lạnh. Họ hiểu rằng vấn đề tranh chấp được gây ra do thiếu sự trùng hợp lợi ích quốc gia thì ít, mà do bản sắc dân tộc thì nhiều – cái bản sắc dân tộc đã bị méo mó bởi các đòi hỏi ý thức hệ về quyền lãnh đạo thế giới cộng sản. Moscow phạm phải sai lầm nghiêm trọng khi chờ đợi Bắc Kinh cam chịu quyền lãnh đạo của mình, chấp nhận vai trò của một đối tác đàn em. Lãnh đạo Trung Quốc không chấp nhận vai trò đó, vì điều ám ảnh duy nhất của họ là tính ưu việt của ý thức hệ Cộng sản Trung Quốc.
Các nhà làm chính sách của hai nước cương quyết không lặp lại các vấn nạn này. Mặc dù Trung Quốc đang ở trong vị thế là một đối tác nổi bật trong mối quan hệ này, nhưng họ đã tỏ ra tự chế. Các lãnh đạo tại Moscow và Bắc Kinh tránh để cho chủ nghĩa dân tộc bá quyền nước lớn [chauvinistic nationalism] lấn át lợi ích quốc gia của nhau trong một nỗ lực chung nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của phương Tây trong khu vực của mỗi nước.
Vì mục đích đó, chính phủ của hai nước chủ ý tập trung vào những chính sách đối ngoại nhắm tới việc triệt hạ chính nghĩa của phương Tây [Western legitimacy], đồng thời thận trọng không đưa ra những bình luận phê phán các tham vọng của nhau trong chính sách đối ngoại. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã mô tả cái gọi là Giấc mộng Trung Hoa [China Dream] về một trật tự địa chính trị mới tại châu Á do các chính phủ trong khu vực tạo dựng nên – trong đó Bắc Kinh đóng một vai trò khống chế. Trong một cung cách tương tự, Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rõ mục đích của mình là tạo ra một Liên minh Á Âu, trong đó các quan hệ giữa các quốc gia Xô-viết trước đây là do Moscow định đoạt. Nga và Trung Quốc cáo buộc Mỹ đang thể hiện một não trạng hiếu chiến của thời Chiến tranh Lạnh bằng cách ra sức ngăn chặn tham vọng chính đáng của hai nước trong các khu vực ảnh hưởng của họ.
Ít ra có đến sáu lý do để tin rằng quan hệ đối tác ngầm này giữa Nga và Trung Quốc là bền vững. Một, Putin và Tập đã và đang dựa vào các ý thức hệ rất giống nhau để biện minh cho chế độ của mình. Cả hai đều nhấn mạnh niềm tự hào về thời đại xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa dĩ Hoa vi trung [Sinocentrism] hay chủ nghĩa dĩ Nga vi trung [Russocentrism] vốn đang tìm cách nới rộng trật tự chính trị trong nước ra bên ngoài, và chủ nghĩa chống bá quyền [anti-hegemonism].
Mặc dù chủ nghĩa dân tộc Nga có một tố chất bài ngoại [a strain of xenophobia] trong đó, từng tiếp sức cho lối tuyên truyền mị dân chống Trung Quốc trong những năm 1990, nhưng Putin đã hạn chế tối đa khía cạnh dân tộc chủ nghĩa này và tránh trực tiêp nhắc đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ý thức hệ dĩ Hoa vi trung [Sinocentrist ideology] có xu thế tương tự là nuôi dưỡng các căng thẳng với Nga – trong đó có việc thách thức các đòi hỏi chủ quyền của Nga tại Trung Á gồm lãnh thổ trước đây đã thuộc về Liên Xô. Nhưng các lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đã cho thấy, trong các hội nghị và diễn đàn quốc tế, kể cả tại Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, rằng họ sẵn sàng bày tỏ sự tôn trọng [vùng] ảnh hưởng chính trị và văn hóa của Nga.
Hai, Trung Quốc và Nga đang tìm cách nêu bật những dị biệt lịch sử với phương Tây và nhấn mạnh chiến tuyến giữa họ với Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh. Sách báo bị nhà nước kiểm duyệt tại hai nước ít khi nhắc đến cuộc tranh chấp Trung-Xô trong Chiến tranh Lạnh. Mặc dù trước đây một số sử gia Trung Quốc đã nhìn nhận rằng Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ là do Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên, nhưng các sách giáo khoa mới nhất đồng loạt đổ lỗi cho Mỹ đã gây ra chiến tranh.
Trong xu thế này, các nhà làm chính sách và các học giả trong cả hai nước gia tăng lập luận rằng phương Tây không bao giờ thay đổi não trạng đế quốc thời Chiến tranh Lạnh của mình. (Họ đưa ra bằng chứng bằng cách cáo buộc phương Tây đã hậu thuẫn cho cái gọi là các cuộc cách mạng màu tại Ukraine và Hồng Kông.) Luận điệu này ngụ ý là Trung Quốc và Nga vẫn phải tiếp tục chống lại ảnh hưởng của phương Tây và đóng góp cho việc kiến tạo một trật tự quốc tế mới.
Ba, cả hai nước đều lập luận rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 chứng tỏ rằng mô hình chính trị và kinh tế của phương Tây đang ở trên bờ thất bại và là kém ưu việt hơn các mô hình phát triển của họ (phần sau của tranh luận này có sức thuyết phục tại Trung Quốc nhiều hơn tại Nga.) Các lãnh đạo tại Bắc Kinh và Moscow đều không cho phép xã hội dân sự có điều kiện tạo ra một nguy cơ nào cho chế độ của mình, vì thế trong năm 2014 này đã ra tay đàn áp thô bạo hơn bất cứ thời điểm nào kể từ đầu thập niên 1990.
Bốn, cả Putin lẫn Tập đều nhấn mạnh tầm quan trọng của các quan hệ song phương Nga-Hoa trong việc đối đầu với các mối đe dọa từ ngoài vào. Đây là một hệ luận [a corollary] của việc hai chính phủ đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của chủ nghĩa cộng sản, dù đó là một ý thức hệ đang thống trị (tại Trung Quốc) hay như một di sản lịch sử tích cực (tại Nga). Điều này làm hai nước không còn bao nhiêu đồng minh ý thức hệ ngoài việc chỉ còn có nhau [các đồng minh ý thức hệ khác là Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn – ND] – và ta không có lý do để tin rằng điều này sẽ thay đổi trong một tương lai có thể thấy trước.
Năm, Nga và Trung Quốc đã thể hiện thành công một nỗ lực là đứng cùng một phe trong các tranh chấp quốc tế. Để khỏi xung đột công khai về các vấn đề khu vực, như các chính sách chủ quyền lãnh thổ và năng lượng của Việt Nam, cả Trung Quốc lẫn  Nga đều ngăn cấm việc bàn luận công khai các bất đồng quan điểm giữa hai nước, nhờ vậy giảm thiểu sức ép của dân chúng tại nước này đòi hỏi chính phủ phải lên tiếng phản đối nước kia. Đồng thời mỗi nước đều vác loa rêu rao mối đe dọa của Mỹ và đồng minh của Mỹ trong bất cứ tranh chấp nào liên quan tới một trong hai nước. Chiến dịch này có hiệu quả đến nỗi trong năm nay đôi khi khó phân biệt giữa sách báo Nga và sách báo Trung Quốc viết về cuộc khủng hoảng tại Ukraine hay các cuộc biểu tình tại Hồng Kông.
Sáu, hiện có những chiến dịch mà chính phủ hai nước đang tiến hành để đề cao bản sắc dân tộc. Putin và Tập đã vận dụng mọi nguồn lực có sẵn trong tay, kể cả chế độ kiểm duyệt gắt gao và cuộc tranh luận sôi nổi từ trên xuống dưới, để động viên cả nước hậu thuẫn một cuộc tuyên truyền chính trị inh ỏi nhằm biện minh cho các cuộc đàn áp ở trong và ngoài nước. Những kêu gọi này đã có hiệu quả vì chúng dựa vào những nỗi bất bình do lịch sử để lại và sử dụng luận điệu bá quyền nước lớn rất quen thuộc. Kết quả là, chủ nghĩa dân tộc đã trỗi dậy mạnh mẽ nhất tại hai nước kể từ điểm cao của Chiến tranh Lạnh.
Luận điệu của Trung Quốc trong việc hậu thuẫn các hành động của Putin tại Ukraine và luận điệu của Nga tán thành quan điểm của Tập về các vấn đề Đông Á không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên. Nói đúng ra, đó là một đặc điểm của một trật tự địa chính trị mới thời hậu Chiến tranh Lạnh. Chừng nào những nhà lãnh đạo chính trị chóp bu hiện nay tại Trung Quốc và Nga còn nắm giữ quyền lực, thì không có lý do gì để kỳ vọng một thay đổi lớn hoặc trong bản sắc dân tộc của hai nước hoặc trong quan hệ Nga-Hoa.
Những nước hi vọng tạo ra sự chia rẽ giữa hai quốc gia – trong đó có Nhật Bản dưới Chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe – chắc chắn sẽ thất vọng. Nói cách khác, không phải là chuyện ngẫu nhiên khi Mỹ không giành được hậu thuẫn của Trung Quốc trong nỗ lực chống chủ nghĩa bành trướng Nga tại Ukraine. Dù vấn đề là Bắc Triều Tiên, Iran, hay một thách thức nào khác đối với phương Tây, ta nên sẵn sàng chứng kiến có thêm nhiều cuộc đọ sức từ phía Nga-Hoa, chứ không hề giảm bớt.
Tác giả: Gilbert Rozman | Biên dịch: Trần Ngọc Cư
___________
GILBERT ROZMAN là Phó Giảng viên tại Phân khoa Nghiên cứu Đông Á của Đại học Princeton. Sách mới nhất của ông là The Sino-Russian Challenge to the World Order (Thách thức Nga-Hoa đối với Trật tự Thế giới).
Nguồn: “Asia for the Asians. Why Chinese-Russian Friendship Is Here To Stay”, Foreign Affairs 29/10/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
(Nghiên Cứu Quốc Tế)

Hà Nội: Một gia đình bị giật sập tường vì... hiến ít đất

Khi công an đến hiện trường, bức tường rào có chiều dài khoảng 40m, chiều cao 2m đã bị người dân trong xóm du đổ xuống đường.
Sáng 14.11, hàng chục người dân thôn Tân Phú, xã Phú Cường (huyện Sóc Sơn, Hà Nội) mang theo cuốc, xẻng, dây thừng đến kéo đổ 40 m tường rào của ông Nguyễn Văn Chinh (80 tuổi) và bà Trần Thị Sáu (78 tuổi) trước sự chứng kiến của cán bộ thôn và công an xã Phú Cường. Nguyên nhân được cho là hộ gia đình này hiến đất làm đường giao thông hơi... ít.

 
Bà Sáu xót xa trước bức tường bị phá.

Bà Trần Thị Sáu kể, lúc 8h ngày 14.11, một cán bộ thôn Tân Phú vào nhà bà hỏi: Tình hình thế nào, có con đường này, hai bác có bỏ ra không? Ông Chinh, bà Sáu trình bày chỗ đất xã cần lấy làm đường trị giá gần 400 triệu đồng, gia đình đồng ý hiến 100 triệu đồng, còn lại đề nghị xã đền bù. Nghe đến đây, ông cán bộ thôn bỏ ra ngoài gọi điện, một lúc sau có vài chục người đến kéo đổ tường.
Đoạn video clip do gia đình ông Chinh ghi lại cho thấy lực lượng thôn Tân Phú có mặt trước và trong khi bức tường rào của nhà ông Chinh, bà Sáu bị phá.
Khi lập biên bản, Công an xã Phú Cường ghi: Khi công an đến hiện trường thì thấy bức tường rào có chiều dài khoảng 40m, chiều cao 2m đã bị người dân trong xóm du đổ xuống đường.
Trao đổi với phóng viên, ông Trần Anh Tuấn - Chủ tịch UBND xã Phú Cường - xác nhận có sự việc một số người dân “bức xúc” kéo đổ tường gia đình ông Chinh. Ông Tuấn cho biết thêm, cùng ngày 14.11 đã phân công Bí thư chi bộ, trưởng thôn và trưởng ban công tác mặt trận phải đến tận cơ sở vận động người dân cùng gia đình ông Chinh không làm nóng thêm tình hình để xã tiếp tục giải quyết sự việc.
(Dân Việt)
 

Xã hội Việt Nam không nhất thiết phải bình đẳng - Tự do báo chí, không còn cách nào khác

Xã hội Việt Nam không nhất thiết phải bình đẳng

Có bao giờ bạn tự hỏi bản thân rằng mình phải làm gì để có mặt trên trái đất này và chiến đấu như thế nào mới có được vị trí như ngày hôm nay không? Bản thân mỗi người, đều phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh từ trước khi xuất hiện. Khi đã được sinh ra có sự phát triển về thể chất và ý thức chúng ta lại bắt đầu với vô vàn thử thách khác nhau để có thể tồn tài và một chỗ đứng trong xã hội (như những việc cạnh tranh trong thi cử, công việc, cuộc sống,…). Và chính những điều đó đã cho ta thấy muốn tồn tại và phát triển xã hội này chúng ta phải cạnh tranh rất nhiều và đấy là một bản năng bẩm sinh trong mỗi con người chúng ta mà không thể nào thay đổi được. Bạn có thể thay đổi một người thuận chân phải có thể đá banh bằng chân trái của họ được nhưng bạn không thể nào thay đổi được bản năng bẩm sinh đó của họ.
Xã hội Việt Nam không nhất thiết phải bình đẳngCâu hỏi đâu tiên được đặt ra rằng sự cạnh tranh và bình đẳng thì nó có tác động nhưng thế nào đối với sự phát triển của xã hội. Các bạn biết đó cạnh tranh là một hành động tranh đua, chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích tồn tại, sống còn giành lại lợi nhuận, địa vị, kiêu hãnh. Còn bình đẳng thì nó là điều gì đó mang nhiều khái niệm khác nhau ở từng lĩnh vực nhưng điều tôi muốn nói ở đây là cái hiểu chung của các bạn về bình đẳng.
Ngay từ xã hội nguyên thủy con người đã phải cạnh tranh rất nhiều để tồn tại và sinh tồn, chính những sự cạnh tranh ấy của con người đã thúc đẩy xã hội vận động rất nhiều để tiến tới các hình thái xã hội tốt đẹp hơn. Cho đến ngày nay sự cạnh tranh chủ thể trong nền kinh tế thị trường đã mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và nhà sản xuất. Ví dụ điển hình cho ta thấy giữa coca-cola và pepsi hai thương hiệu này đã không ngừng cạnh tranh với nhau và chính sự cạnh tranh ấy luôn đem lại cho người tiêu dụng về giá thành sản phẩm, chất lượng nước uống,…
Nếu chúng ta không cạnh tranh cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ làm trì trệ sự phát triển của xã hội. Các bạn biết đấy người Liên Xô họ đã thất bại trong việc tạo ra bình đẳng bằng cách dàn điều lợi nhuận và khi đó thì chẳng ai ham muốn làm việc chăm chỉ nữa và mô hình ấy nhanh chóng thất bại, kể cả xã hội Việt Nam chúng ta cũng thế chúng ta cũng cố gắng bằng việc dàn đều lợi nhuận này.
Từ những dẫn chứng trên chúng ta có thể thấy cạnh tranh đóng vai trọng rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, thay vì tạo ra bình đẳng thì ta hãy tập trung tạo sự cạnh tranh, cạnh tranh một cách công bằng. Cạnh tranh đó đã trở thành một quy luật tự nhiên mà không thể nào thay đổi bằng cách tạo ra sự bình đẳng.
Các bạn biết đó người ta luôn cho rằng đàn ông và đàn bà đều bình đẳng nhưng thực tế thì sao? Đến đây tôi sẽ dẫn một lời nói của Lý Quang Diệu đã bảo rằng:
“Ban đầu tôi cũng tin rằng mọi đàn ông đàn bà đều bình đẳng… Giờ tôi biết rằng điều đó không có khả năng xảy ra bởi vì hàng triệu năm trong quá trình tiến hóa, con người đã tảng mát khắp nơi trên bề mặt trái đất này, bị cách ly với nhau, phát triển độc lập, có sự pha trộn khác nhau về chủng tộc, dân tộc, khí hậu, thổ nhưỡng… Đây là những điều tôi đã đọc được và khiểm nghiệm so với quan sát của mình. Chúng ta đọc rất nhiều. Thực tế rằng mọi thứ được in ra và được ba, bốn tác giả không có nghĩa là mọi thức ấy đúng sự thật. Có thể tất cả đều sai. Nhưng qua kinh nghiệm của bản thân… tôi kết luận: đúng, có sự khác biệt.
Vậy điều tôi muốn nói ở đây sự cạnh tranh đó đã trở thành bản năng, nếu biết không thể thay đổi được thì đừng cố gắng, nếu chúng ta cố gắng tạo ra sự bình đẳng mà biết điều đó không thể thì chúng ta đang tự mình làm cho xã hội suy thoái. Thay vì tạo ra bình đẳng thì hãy tạo ra sự cạnh tranh công bằng. Tôi cũng mong rằng đất nước mình sẽ phát triển ở tầm cao mới, người Việt Nam chúng ta sẽ tập trung vào giáo dục thê hệ trẻ, lựa chọn và trọng dụng những con người tài giỏi mà không quan tâm đến xuất thân của họ tạo cho họ một môi trường công bằng để họ cạnh tranh góp phần phát triển đất nước.
 Đỗ Sơn Trà
(Triết Học Đường Phố)

Việt Nam ‘vừa hợp tác, vừa đấu tranh’ với Trung Quốc

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố như vậy hôm nay trong khi được chất vấn tại Quốc hội về quan điểm của chính phủ liên quan tới nhiều khía cạnh về cuộc tranh chấp biển Đông.
Ông Dũng nhấn mạnh thêm rằng Việt Nam và Trung Quốc “mãi mãi là láng giềng” nên Hà Nội, theo lời ông, “mong muốn hai nước luôn chân thành hợp tác để gìn giữ hòa bình ổn định, hợp tác cùng có lợi, cùng thịnh vượng, thực hiện một cách thực chất phương châm 16 chữ, tinh thần 4 tốt để đem lại lợi ích cho cả 2 nước”.
Ngoài ra, cũng giống như những lần phát biểu trước ở trong và ngoài nước, Thủ tướng Dũng nói rằng Việt Nam muốn giải quyết các tranh chấp với Bắc Kinh “theo công ước quốc tế, luật biển, thỏa thuận giữa cấp cao giữa 2 nước”. Ông Dũng nói thêm:
“Về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ khi Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam, vấn đề khó, nhưng mà tôi xin trình bày khái quát 6 chữ "vừa hợp tác, vừa đấu tranh".Chúng ta vừa hợp tác, vừa đấu tranh không chỉ với Trung Quốc mà với tất cả các nước. Chúng ta vừa hợp tác, vừa đấu tranh để có hòa bình, ổn định. Chúng ta vừa hợp tác, vừa đấu tranh để có hữu nghị, tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, cùng phát triển, cùng thịnh vượng và bảo vệ độc lập chủ quyền thiêng liêng của đất nước. Tất cả đều có được bằng đường lối đối ngoại thông minh của chúng ta”.
Ngoài ra, người đứng đầu chính phủ Việt Nam cũng cho rằng đề xuất thành lập Bộ Kinh tế biển, phụ trách về các vấn đề như bảo vệ chủ quyền, khai thác dầu khí, vận tải, du lịch biển, quốc phòng, phát triển kinh tế biển, là điều khó khả thi.
Khi được hỏi về kế sách “không đánh mà thắng” của Trung Quốc, mở rộng các đảo tranh chấp, ngay trong khi chưa rút giàn khoan dầu gây tranh cãi cũng như phương thức đối phó của Việt Nam, ông Dũng nói:
“Đảo Gạc Ma và một số đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc cưỡng chiếm năm 1988, và trong tình thế lúc đó, chúng ta đã cùng các nước ASEAN ký với Trung Quốc về thái độ ứng xử của các bên liên quan trên biển Đông, DOC, theo đó các bên giữ nguyên hiện trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, không đe dọa dùng vũ lực để giải quyết...Còn việc Trung Quốc bồi lấp biển ở đảo Chữ Thập thành đảo lớn nhất ở đảo Trường Sa với diện tích khoảng 49ha, lớn hơn đảo lớn nhất là Ba Bình trước đây, Lập trường của Việt Nam là phản đối hành động này vì đã vi phạm điều 5 tuyên bố DOC. Lập trường này được người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhiều lần nêu rõ. Tại các hội nghị cấp cao tôi đã nêu lập trường này như Asean, Asean + 8, Asean + 3 ...Đó là chủ trương, thái độ của chúng ta, lập trường rõ ràng của chúng ta.”
Trong phần chất vấn ông Dũng, một số đại biểu quốc hội đã nêu cụ thể về giàn khoan dầu mà Trung Quốc đưa vào nơi mà Việt Nam tuyên bố là thềm lục địa của mình.
Trong phiên họp hồi tháng Sáu, khi Hà Nội và Bắc Kinh vẫn đối đầu nhau  quanh giàn khoan này, Quốc hội Việt Nam đã ‘không ra nghị quyết về biển Đông’ như kỳ vọng của nhiều đại biểu và của người dân.
Trước đó, đại biểu Trương Trọng Nghĩa từ TPHCM nói rằng ‘nhân dân ta sẽ rất thất vọng, thậm chí hoang mang’  nếu ‘Quốc hội lần này không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức gì về Biển Đông’.
Thủ tướng Việt Nam từng tuyên bố có thể kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế. Nhưng từ đó cho tới nay, Hà Nội vẫn chưa có bước đi cụ thể, ngoài các tuyên bố các tranh chấp ở biển Đông cần phải được giải quyết thông qua các biện pháp pháp lý.
(VOA) (Túm lại là "đấu tranh" zư thế lào nhỉ, đọc mãi ko hiểu ^:)^

Chuyện ngày “đại đoàn kết toàn dân”

Hằng năm, cứ đến ngày 18 tháng 11, ngày ông Hồ Chí Minh thành lập mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, thì nhà cầm quyền, cụ thể là nhà cầm quyền các địa phương phát động phong trào đại đoàn kết toàn dân và kêu gọi nhân dân trong khu xóm, khu phố cùng chung tiền thêm vào khoản ngân quĩ của nhà nước trung ương rót xuống để mở tiệc gọi là ăn uống no say với nhau thể hiện tình thân ái thông quá ly rượu, miếng thịt ngày hội. Vài năm trở lại đây, năm nào cũng như năm nào, đến hẹn lại lên, câu chuyện ngày hội “đại đoàn kết” nghe ra còn dài thậm thượt.
loatuyentruyen.jpg
Chiếc loa tuyên truyền
Một người dân Cần Thơ, tên Tuấn, chia sẻ: “Ngày này thì họ đọc lại di chúc của Bác cho dân nghe rồi báo cáo tình hình hoạt động năm qua, cũng có trò chơi rồi nhận giải thưởng cho các trò chơi, xong rồi cũng có liên hoan này kia. Ở xã thì lớn còn ở ấp thì sơ sơ, nhậu vài mâm vậy thôi. Các ấp khác thì họ có ca hát, làm tới hai ngày lận đó.”
Theo ông Tuấn, cái ngày gọi là “đại đoàn kết toàn dân” này, thực tâm mà nói, đối với người miền Nam chẳng có ý nghĩa gì nếu không muốn nói là nó chỉ mang tính hình thức và gây tốn kém. Nói sâu xa một chút là cái ngày hội cứ nghe là đoàn kết, là văn hoá này trên thực tế lại gây ra quá nhiều phiền toái và thiếu văn hoá.
Sở dĩ nói ngày hội này quá phiền toái bởi Việt Nam vốn dĩ là một quốc gia mạnh về ăn nhậu nhưng lại rất yếu về ý thức văn hoá cũng như ý thức dân chủ, tiến bộ, chuyện rủ nhau cứ đến hẹn lại lên cùng nhau mổ heo, giết chó, mua bia về bày đầy bàn và xúm xít nhau nói ba điều bảy chuyện gọi là kêu gọi đại đoàn kết, xong công đoạn kêu gọi này lại xúm nhau ăn nhậu hả hê. Mục tiêu chính của người tham gia không phải là đoàn kết. Vì không có kiểu biểu lộ đoàn kết nào lại như thế được.
Mà mục đích để người ta xúm xít đến đây là để ăn nhậu, hẹn hò, ca hát cho thoả thích. Thật ra, thay vì phải di karaoke hay vào quán nhậu hát với nhau tốn nhiều tiền túi, ở các tu điểm “đại đoàn kết toàn dân” này, người ta chỉ bỏ ra một ít tiền túi cộng với tiền nhà nước rót tài trợ là có cái để chơi. Trong khi đó không phải ai đến đây cũng để chơi, nhiều người già cả, cao niên vì nễ mích lòng trưởng thôn nên đến dự, đóng góp xong rồi ra về, những khoản thừa này các nhóm chơi được thoả thích hưởng.
Và trên một đất nước mà đi đâu cũng gặp quan nhậu, dùng bữa nhậu, dùng âm thanh, dàn nhạc để kêu gọi đai đoàn kết toàn dân cũng là điều dễ hiểu. Điều này chỉ cho thấy rằng tầm nhận thức của người dân thôn quê không phải người nào cũng được mở mang. Thậm chí, có nhiều nơi, người ta chỉ biết rượu, thịt, ca hát và say lăn quay ra ngủ, không màn đến bất cứ chuyện gì làm mệt đầu vì suy nghĩ. Có lẽ đây là môi trường tốt nhất cho những buổi liên hoan đại đoàn kết ngộp bia rượu như thế này.
Và đánh vào tâm lý cứ rượu vào thì lời ra, muốn hát, muốn nhảy múa của đa phần người dân vốn thiếu ăn, thiếu mặt quanh năm nhưng lại quá nhiều trầm uất, muốn nhảy múa, muốn hò hét để giải thoát, thường thì các buổi liên hoan đại đoàn kết, ngoài việc hát ca, còn có thêm những chương trình khiêu vũ cây nhà lá vườn giữa các cặp đôi lắp ghép tức thời. Và, cũng có thể nói đây là một trong những đầu mối dẫn đến chuyện ngoại tình tràn lan khắp các miền quê.
Ngày “đại đoàn kết” mở màn…
haudaidoanket.jpg
Hậu ngày đại đoàn kết. RFA photo
Một nông dân tên Hiền, ở huyện Phong Điền, Cần Thơ, chia sẻ: “Ngày toàn dân nói chung quy là cũng giống như ngày bầu cử này nọ vậy đó, lễ hội, đua ghe… Họ gom lại thành từng phường, từng khóm rồi tổ chức kéo co, mấy trò chơi lễ hội, rồi đổ ra công viên, bày ra nấu nướng, nhậu nhẹt, ca hát từ sáng tới chiều rồi sáng mai dọn dẹp.”
Nói xong, Ông Hiền đọc thêm hai câu thơ tự sáng tác: Ngày đại đoàn kết mở màn/ Mấy cô rần rật chuyển sang ngoại tình… Đọc xong, ông cười chua chát nói rằng những gì chỉ mang tính hình thức không những không mang lại ích lợi cho người dân mà còn gây ra nhiều sự độc hại bởi trong cái rỗng tuếch của nó đã chứa mầm mống của tội ác.
Tình trạng những cặp hôn nhân trở thành dối trá, lừa dối nhau để tìm bạn tình trong những đêm liên hoan văn nghệ phường, văn nghệ xóm, họp xóm, họp tổ và liên hoan đại đoàn kết toàn dân đang diễn ra khắp các miền đất nước này. Bởi lẽ, khi người dân thực sự đoàn kết không phải là rủ nhau ăn nhậu, đàn đúm mà biết chia sẻ sự hiểu biết cho nhau, tôn trọng sự khác biệt của nhau trong một bầu không khí chan hoà, thân ái.
Và hơn hết, khi con người đoàn kết thật sự, người ta biết chia sẻ nhau từ trong gia đình cho đến xã hội, người ta biết cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, người mạnh phải biết nâng đỡ kẻ yếu thế, chuyện đau ốm, tang chay hiếu hỉ trong xóm làng người ta phải biết chia sẻ nhau… Nghiệt nỗi, kể từ khi ngày hội “đại đoàn kết toàn dân” bùng nổ từ Nam tới Bắc, người ta lại bắt đầu sống hình thức và sa đoạ hơn, hết quan tâm đến những người chung quanh đau khổ hay vui buồn, chỉ cần biết có lợi cho bản thân là đủ. Đó là tình hình chung không thể chối bỏ vào đâu.
Ông Hiền cũng nói thêm là nếu được, vẫn còn kịp, nhà nước nên bỏ đi những kiểu hô hào hình thức, những ngày “đại đoàn kết toàn dân” hay “hiến chương nhà giáo”, “thầy thuốc Việt Nam”, “nhà báo Việt Nam”… gì gì đó đi, bởi điều cần tôn vinh nhất là lương tri, đạo đức nghề nghiệp cũng như lương tri, đạo đức xã hội chứ không phải là một ngày hô hào ăn nhậu, liên hoan, mít tinh… vừa gây tốn kém ngân sách lại vừa vô bổ, dẫn đến thói quen hưởng thụ vô tội vạ và ích kỉ.
Một xã hội thực sự tốt là một xã hội của những con người hiểu biết và sống có nguyên tắc, biết tiết chế và không tham lam vô độ. Điều ấy rất cần thiết cho Việt Nam hiện tại.
Nam Nguyên
(RFA)

Nhà báo Việt Nam nghĩ gì về tự do báo chí

Bài viết của cựu Tổng biên tập tờ Thanh Niên, là ông Nguyễn Công Khế được dịch và đăng trên tờ New York Times của Mỹ hôm 19 tháng 11, 2014
Bài viết của cựu Tổng biên tập tờ Thanh Niên, là ông Nguyễn Công Khế được dịch và đăng trên tờ New York Times của Mỹ hôm 19 tháng 11, 2014
Tờ New York Times của Mỹ hôm 19 tháng 11 đăng một bài viết được dịch từ tiếng Việt của cựu Tổng biên tập tờ Thanh Niên, là ông Nguyễn Công Khế, trong đó ông kêu gọi chính phủ Việt Nam nên mở rộng quyền tự do hoạt động cho báo chí Việt Nam bao gồm báo chí nhà nước và tư nhân. Đây là một bài viết hiếm hoi của một cựu Tổng biên tập một tờ báo lớn của nhà nước được đăng tải trên một tờ báo lớn của Mỹ, nước luôn kêu gọi Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản. Liệu đây có phải là một dấu hiệu mới cho thấy nhà nước Việt Nam sẽ mở rộng quyền tự do báo chí trong nước?
Dấu hiệu của sự thay đổi
‘Chính phủ  Việt Nam cần cho phép báo chí hoạt động độc lập. Đây là điều cần thiết cho quá trình tự do hóa chính trị và kinh tế đang được tiếp tục và cho những nỗ lực của Đảng Cộng sản để lấy lại sự ủng hộ của người dân vốn cần thiết cho sự tồn tại của chính đảng cộng sản’. Phần mở đầu của bài viết mới của cựu Tổng biên tập báo Thanh Niên, Nguyễn Công Khế, được đăng tải trên tờ New York Times hôm 19 tháng 11 là một lời kêu gọi mới công khai đối với chính phủ Việt Nam về một vấn đề có thể coi là khá tế nhị ở Việt Nam, tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trong bài viết của mình, vị cựu Tổng biên tập lập luận sự thay đổi cho phép tự do báo chí ở Việt Nam lúc này là cần thiết. Ông viết ‘khung cảnh báo chí Việt Nam đã thay đổi mạnh trong suốt 5 năm qua, và Đảng Cộng sản đã mất phần lớn sự kiểm soát đối với ngành công nghiệp này với những hậu quả khủng khiếp’. Theo ông sự phát triển của internet với những trang mạng mang thông tin đa chiều không bị kiểm soát của nhà nước, cùng sự ‘đói thông tin’ của người dân trước các thông tin đa chiều đã khiến người đọc trẻ tuổi bỏ các trang báo lề phải nổi tiếng như  Tuổi Trẻ, Thanh Niên để tìm kiếm những nguồn thông tin không tuyên truyền. Bằng chứng được đưa ra là doanh thu quảng cáo của những trang báo này đã giảm gần 2/3 kể từ năm 2008 đến nay.
Ông Nguyễn Công Khế cũng nêu lên một số những diễn biến trong xã hội Việt Nam thời gian qua dẫn đến nhu cầu về một sự thay đổi tích cực hơn cho báo chí. Những diễn biến đó bao gồm những đòi hỏi của người dân về thông tin về vấn đề tham nhũng, những cam kết với nước ngoài như hội nghị Thành Đô tại Trung Quốc năm 1990 hay vấn đề tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc ngoài biển Đông.
Nói với đài Á Châu Tự Do, ông Nguyễn Công Khế cho rằng đã có những dấu hiệu cho thấy chính phủ Việt Nam có thể sẽ cởi mở hơn với báo chí.
Tôi có cảm giác là người ta đồng tình với tôi nhiều hơn. Tuy người ta chưa sửa được nhưng cái phần đồng tình rất nhiều. Và tôi tin là con đường minh bạch thông tin và tự do báo chí thì trước sau thì nó cũng đến và dứt khoát mình phải làm.
Khi được hỏi về những dấu hiệu cụ thể nào cho ông thấy rằng đã có sự đồng tình hơn từ phía chính phủ trong việc mở rộng quyền tự do báo chí, ông Nguyễn Công Khế cho biết ông từng viết bài “ Tôi đã bị trả giá nhiều lần” và “Dân thường không có quyền tham nhũng” nhưng không gặp phản ứng gì từ nhà nước. Ông nói:
Trong các bài đó tôi nói mạnh hơn bài này rất nhiều. Tôi nói chủ yếu về chính sách thông tin của nhà nước hiện nay.
Bài viết của ông Nguyễn Công Khế đưa ra giữa lúc có tin Quốc hội Việt Nam chuẩn bị xem xét thông qua luật báo chí sửa đổi vào năm tới. Trong Hội nghị Tổng kết 15 năm thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật báo chí hôm 12 tháng 11, Phó thủ tướng Việt Nam Vũ Đức Đam nói ‘không nên chỉ vì một vài biểu hiện tiêu cực, chúng ta thấy giật mình rồi đưa ran gay những quy định để bịt hết lại…. việc sửa luật lần này phải dự báo được xu thế phát triển mạnh mẽ về công nghệ, xu thế hội tụ thông tin…’
Nghi ngờ về những thay đổi sớm
Tuy nhiên, không phải nhà báo nào ở Việt Nam cũng có cùng quan điểm với cựu Tổng biên tập Nguyễn Công Khế về những dấu hiệu thay đổi trong tự do báo chí ở Việt Nam. Nhà báo tự do Lê Phú Khải nhận định:
Theo tôi là không có tín hiệu gì cả, hoặc là ông phát ngôn cho một nhóm lợi ích nào đó để lấy uy thế thôi, hoặc là ông đón gió…. Đón gió là thời đại thay đổi, chính ông Nguyễn Tấn Dũng nói là xã hội dân sự là đương nhiên là xu hướng của thời đại và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó.
Nhà báo Phạm Chí Dũng, phụ trách ban biên tập trang Việt Nam thời báo của Hội nhà báo Việt Nam Độc lập, một trang báo lề trái, không cho rằng sẽ có một thay đổi sớm nào đối với tự do báo chí tại Việt Nam:
Riêng cá nhân tôi thì gần như chưa có hy vọng nào cả lý do là hiện nay quốc hội rất bảo thủ. Lần gần đây nhất chúng ta chứng kiến là quốc hội đã thông qua một bản hiến pháp rất lạc hậu vào cuối năm 2013 và cho tới gần đây thì tất cả những vấn đề quan trọng nhất của hiến pháp như là đất đai, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do trưng cầu dân ý vẫn chưa được đả động tới. Ngay cả vấn đề được coi là dễ dàng nhất và phù hợp với nguyên tắc Paris mà Việt Nam đã tham gia từ năm 1981 là luật tiếp cận thông tin cho tới nay vẫn chưa nhận được sự phản hồi chính thức nào từ chính phủ và quốc hội.
Không những thế, theo nhà báo Phạm Chí Dũng, luật sửa đổi thậm chí còn siết chặt hơn quyền tự do báo chí.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện Việt Nam có 838 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình với đội ngũ nhà báo lên tới 40,000 người. Tất cả các cơ quan báo chí này đều phải chịu sự kiểm soát về mặt nội dung của nhà nước, mà theo nhà báo Phạm Chí Dũng gọi là cơ chế kiểm duyệt cứng và kiểm duyệt mềm. Cơ chế kiểm duyệt cứng là kiểm soát trực tiếp từ ban tuyên giáo trung ương đến địa phương tới các sở thông tin truyền thông ở các tỉnh thành. Cơ chế kiểm duyệt mềm là qua việc bố trí nhân sự trong cáo cơ quan báo như bí thư chi bộ, đảng bộ của các cơ quan này.
Theo ông Nguyễn Công Khế, Việt Nam cũng cho phép một số cơ sở báo chí tư nhân nhưng chỉ là bán tư nhân, sản xuất các show truyền hình, xuất bản các ấn phẩm báo chí nước ngoài như Esquire và Cosmopolitan. Tuy nhiên những cơ quan này bắt buộc phải có đối tác là một cơ quan thuộc nhà nước, tức là cũng chịu sự kiểm duyệt.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị Tổng kết 15 năm thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật báo chí vừa qua, Bộ trưởng thông tin truyền thông Nguyễn Bắc Son cũng nhấn mạnh không để những tư tưởng sai trái, đi ngược lại quan điểm của Đảng nhân cơ hội này để chống phá việc sửa luật báo chí.
Đối với những trang báo lề trái như tờ thời báo Việt Nam, nhà báo Phạm Chí Dũng cho biết kể từ khi thành lập hôm 17 tháng 7 đến nay, trang báo đã luôn phải chịu sự ngăn chặn bằng kỹ thuật và phá sập một lần. Mặc dù vậy, ông cho biết trang báo vẫn thu hút được khoảng 45,000 đến 50,000 người một ngày. Theo ông, đây là một con số rất nhỏ so với lượng truy cập vào các trang báo chính thống lớn như Vnexpress, và Dân trí, nơi có lượng truy cập được các báo này công bố lên đến hơn 100 triệu một tuần. Nhà báo Phạm Chí Dũng cho rằng, nếu không bị ngăn chặn như hiện nay, các trang báo lề trái hoàn toàn có thể cạnh tranh ngang ngửa với các trang báo lề phải về số lượng người truy cập.
Cựu Tổng biên tập Nguyễn Công Khế lập luận rằng, những nguồn thông tin thay thế khác không thể là thuốc giải độc đối với sự quản lý của nhà nước với truyền thông chính thống và những nhà báo Việt Nam có kinh nghiệm đã chịu sự kiểm duyệt đã lâu vì vậy họ không mong muốn gì hơn là có thể làm công việc của mình đúng đắn. Theo ông Nguyễn Công Khế, hiến pháp Việt Nam cho phép người dân có quyền tự do báo chí và tự do báo chí không chỉ tốt cho đất nước mà còn tốt cho cả chế độ.
Việt Hà
(RFA)

Nguyễn Công Khế: Tự do báo chí, không còn cách nào khác

nguyencongkhe-305.jpg
Nhà báo Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên.
Báo International New York Times trong số ra ngày hôm nay 19/11 có đăng một bài viết của nhà báo Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên viết về vấn đề tự do báo chí tại Việt Nam.
Bài báo này xuất hiện vào lúc Quốc hội Việt Nam chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các bộ trưởng mở ra một góc tối của tự do báo chí tại Việt Nam cần phải được Quốc hội và người đứng đầu chính phủ có thái độ dứt khoát vì tính chất quan trọng khó chối cãi của nó.
Biên tập viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn tác giả bài báo, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên Nguyễn Công Khế, về bài viết này.
Sự cấm đoán trong làng báo VN
Mặc Lâm: Thưa ông, là một nhà truyền thông có bề dày và kinh nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam chưa quen thuôc với tự do báo chí, ông đã mang kinh nghiệm khó khăn ấy để viết lên bài báo với tựa đề “Một nền Tự do báo chí cho Việt Nam” nói về sự cấm đoán trong làng báo Việt Nam và đăng trên một tờ báo lớn có lịch sử trong ngành báo chí thế giới là tờ International New York Times. Xin ông cho biết đây có phải là thời điểm thích hợp cho bài báo này hay không?
Nguyễn Công Khế: Cách đây không lâu, khi trả lời chính thức trên báo Thanh Niên và báo Một Thế Giới, tôi đã nói rõ việc này. Chính vì sự cấm đoán và mở rộng các vụ nhạy cảm của các nhà lãnh đạo, nó đã để báo chí đi vào ngõ cụt. Những thông tin cần thiết nhất thì lại không được đến từ những tờ báo chính thống.
Bây giờ với thời đại thông tin này, người ta phải đọc trên mạng, hàng nghìn trang xuất hiện. Hồi trước chúng ta làm báo nhật trình, tức là báo ngày.
Bây giờ không phải là báo ngày nữa mà là báo phút. Do vậy, nếu chúng ta không để cho những tờ báo chính thống do chính phủ kiểm soát ở Việt Nam nói những điều cần thiết và những sự thật thì dứt khoát người ta sẽ đọc các trang mạng và tin đó là sự thật.
 Ví dụ như cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh chẳng hạn, rồi một số cuốn sách người ta in ra trên mạng ở nước ngoài thì anh đâu có kiểm soát được. Cả một bộ máy chính thống không hề nói lại một câu từ “cải cách ruộng đất” cho đến “bệnh tình của các nhà lãnh đạo” tức là làm cho cả một nền báo chí thụ động. Và từ đó làm cho mất niềm tin của nhân dân đối với chính sách thông tin này.
NguyenCongKhe-NewYorkTimes-300.jpg
Bài viết của ông Nguyễn Công Khế trên báo New York Times số đề ngày 19/11/2014.
Nhà báo e ngại, lãnh đạo sợ mất ghế
Mặc Lâm: Với kinh nghiệm của Tổng biên tập một tờ báo lớn khi ông quyết định cho đăng các bài báo có tính đối diện với thời cuộc, đối diện với những vấn đề bị cho là nhạy cảm trong kinh tế xã hội hay chính trị…sau khi bài báo ấy xuất hiện ông có quan sát những hiệu quả mà nó mang tới hay không?
Nguyễn Công Khế: Thời của tụi tôi thì cách đây không lâu đâu –như tôi, Tô Hòa, Võ Như Lanh, Kim Hạnh.... một số Tổng biên tập trước đó. Khi đăng một bản tin chúng tôi nghĩ đến công chúng, đến đất nước mình nhiều hơn là nghĩ đến cá nhân của Tổng biên tập.
Bây giờ, từ các cán bộ nhà nước cho đến các cơ quan báo chí, người ta sợ bị “mất ghế” cho nên người ta không dám dũng cảm để nói lên sự thật mặc dù sự thật đó rất có lợi cho đất nước.
Nghị quyết của đảng, của chính phủ, quốc hội đang đặt vấn đề tham nhũng lên hàng đầu. Thế nhưng khi đặt bút viết chống tham nhũng của các vụ lớn thì các nhà báo rất e ngại, rất sợ, chùn tay. Điều đó làm cho tham nhũng hoành hành và dẫn đến nhiều hệ quả của đất nước.
Vấn đề nợ công, nợ xấu, những vấn đề mà cả đất nước và rất nhiều người dân quan tâm thì không làm được. Tôi nghĩ không phải là các nhà báo kém, thiếu chuyên nghiệp nhưng mà người ta ngại. Lãnh đạo các tờ báo thì sợ “mất ghế. Còn phóng viên thì ngại từ kiểm duyệt.
Tôi nghĩ nền báo chí như thế nó rất có hại, tai hại cho một đất nước đang phát triển. Sự công khai minh bạch của báo chí giúp cho sự phát triển của đất nước rất nhiều.
Lãnh đạo các tờ báo thì sợ “mất ghế. Còn phóng viên thì ngại từ kiểm duyệt. Tôi nghĩ nền báo chí như thế nó rất có hại, tai hại cho một đất nước đang phát triển.Nguyễn Công Khế
Sa đà vào những chuyện vặt vãnh
Mặc Lâm: Theo nhận xét chung của chúng tôi thì ngày nay nhiều tờ báo dám xâm nhập vùng cấm, vùng nhạy cảm hơn mặc dù chấp nhận sau đó bài báo có thể bị gỡ xuống và Tổng biên tập có thể bị mất chức. Tuy nhiên các hiện tượng đó không nhiều. Theo ông những hoạt động ngoài lề này phải chăng là chủ trương của nhà nước mở một chút cửa để không khí tràn vào xóa bớt sư ngộp thở của tự do báo chí nhưng vẫn chưa đủ không khí cho một lá phổi lành mạnh. Theo ông nếu nhà nước mở hẳn cánh cửa này thì sự lợi hại ra sao?
Nguyễn Công Khế: Tôi nghĩ nhà nước mở ra chỉ có lợi hơn chứ không có hại. Bây giờ như VTV đang bàn đến vấn đề Công Phượng, nói về lý lịch của Công Phượng. Đó chỉ là một việc rất nhỏ thôi. Công Phượng với các hồ sơ của Tư pháp ở xã, phường vùng nông thôn Việt Nam rất lơ mơ. Vấn đề tuổi Công Phượng 19 hay 21 thì có gì thiết yếu đâu mà người ta lại ầm ầm trên đài. Những vụ lớn, những vụ tham nhũng, những vấn đề nhức nhối của đất nước thì không.
Việt Nam chúng ta sống phụ thuộc vào cái gì? Lao động rẻ, công nhân rẻ, tài nguyên thô và chúng ta sử dụng vốn ODA rất không hiệu quả. Tất cả những vấn đề nhức nhối thì báo chí ít đề cập đến.
Còn không thì báo chí sẽ phân ra hai con đường: Một là các trang lá cải sẽ đăng cô đào này, bữa nay mặc cái áo này, bữa nay hở cái vòng một, vòng hai; Rồi người ta đi quá đà để khai thác, để câu view, tìm bạn đọc. Còn những vấn đề chính thì lại không đề cập. Đó là cái tai hại chứ.
Tôi nghĩ một chính quyền mạnh, một chính phủ mạnh thì cần một nền báo chí minh bạch, một nền thông tin minh bạch.
Mặc Lâm: Và ông nghĩ chính phủ hiện nay đã đủ mạnh chưa đề tiếp cận các nguồn thông tin minh bạch ấy?
Nguyễn Công Khế: Tôi thấy họ vẫn chưa dám để cho có thông tin nhiều chiều, có các phản biện thuyết phục. Một chính quyền mạnh, tôi nói trước đây-thời của chúng tôi cách đây không lâu như tôi đã nói ở trên- những phản ảnh của chúng tôi về tình hình thực trạng của kinh tế, chính trị, xã hội khi được đưa ra mà hơi gay gắt và nó gần với sự thật thì tôi nghĩ điều đó thúc đẩy cho xã hội lành mạnh. Nó chả có hại gì cả. Khi mà thông tin minh bạch thì người dân đặt lòng tin vào đất nước họ, vào xã hội nhiều hơn.
Con đường, chính sách minh bạch thông tin và tự do báo chí trước sau gì nó cũng đến và dứt khoát mình phải làm thôi. Không có cách nào khác, không có lựa chọn nào khác. Nguyễn Công Khế
Thời của Minh bạch, Tự do sẽ đến
Mặc Lâm: Phải nói đây là một chủ đề rất gay gắt trong chính trường Việt Nam hiện nay. Ông là một đảng viên kỳ cựu, đã có những cống hiến nhất định cho đất nước, cho Đảng Cộng sản Việt Nam và hơn nữa cho ngành báo chí với tư cách một Tổng biên tập…khi ông đưa những nhận xét này trên một tờ báo lớn của thế giới ông có lo ngại sẽ có những động thái nào đó từ chính quyền gây khó khăn cho ông hay không?
Nguyễn Công Khế: Tôi trả lời báo trong nước còn mạnh hơn báo này nhiều. Anh phải đọc lại bài “Tôi đã bị trả giá nhiều lần” và “Dân thường không có quyền tham nhũng”. Trong các bài đó tôi nói mạnh hơn bài này rất nhiều. Tôi nói chủ yếu về chính sách thông tin của nhà nước hiện nay.
Mặc Lâm: Nhưng đó là những bài báo trong nước nhưng bây giờ thì ông công khai trên diễn đàn báo chí quốc tế và do đó nhà nước sẽ để ý hơn và có biện pháp khác hơn? Nó có thể phát sinh hai vấn đề, một là phản ứng tích cực có nghĩa là họ sẽ thay đổi theo đề nghị của ông hai là họ tiêu cực trong thái độ phủ nhận và chống đối. Giữa hai thái độ đó ông hy vọng nó diễn ra theo chiều hướng nào?
Nguyễn Công Khế: Tôi nghĩ nó sẽ diễn ra chiều hướng tích cực. Tôi đặt vấn đề trong nước rồi. Tôi có cảm giác là người ta đồng tình với tôi nhiều hơn. Tuy người ta chưa sửa được nhưng tôi nghĩ phần đồng tình nhiều, rất nhiều.
Tôi nghĩ con đường, chính sách minh bạch thông tin và tự do báo chí trước sau gì nó cũng đến và dứt khoát mình phải làm thôi. Không có cách nào khác, không có lựa chọn nào khác.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.
Mặc Lâm
(RFA)

Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi

  • Chuyện ngày “đại đoàn kết toàn dân” (RFA) - “Ngày này thì họ đọc lại di chúc của Bác cho dân nghe rồi báo cáo tình hình hoạt động năm qua, cũng có trò chơi rồi nhận giải thưởng cho các trò chơi, xong rồi cũng có liên hoan này kia. Ở xã thì lớn còn ở ấp thì sơ sơ, nhậu vài mâm vậy thôi. Các ấp khác thì họ có ca hát, làm tới hai ngày lận đó.”
  • TQ và vị trí chiến lược ở VN (BBC) - Đà Nẵng báo thủ tướng việc Thừa Thiên-Huế cho phép nhà thầu Trung Quốc xây dựng khu nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân.
  • Nhà báo Việt Nam nghĩ gì về tự do báo chí (RFA) - Một bài viết của một cựu Tổng biên tập một tờ báo lớn của nhà nước được đăng tải trên một tờ báo lớn của Mỹ, nước luôn kêu gọi Việt nam phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản. Liệu đây có phải là một dấu hiệu mới cho thấy nhà nước Việt Nam sẽ mở rộng quyền tự do báo chí trong nước?
  • Sau 2 năm cầm quyền, phải chăng đã đến lúc Tập Cận Bình thay đổi chính sách đối ngoại ? (RFI) - Đạt được thỏa thuận với Mỹ về cách ứng xử trong lĩnh vực quân sự, cam kết cấp 20 tỷ đô la tín dụng cho các nước Đông Nam Á, nhân Thượng đỉnh APEC tại Bắc Kinh, Thượng đỉnh Bắc Á tại Miến Điện, Trung Quốc tìm cách xếp sang một bên các căng thẳng trong thời gian gần đây, để biểu lộ với thế giới một bộ mặt hiền từ hơn. Câu hỏi được đặt ra là phải chăng, sau hai năm cầm quyền, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ thay đổi hẳn chính sách đối ngoại ?
  • Thống nhất hai miền Triều Tiên tốn ít nhất 500 tỷ đô la (RFI) - Mặc dù viễn cảnh thống nhất hai miền Nam-Bắc Triều Tiên vẫn còn rất xa vời nhưng một cơ quan tài chính ở Hàn Quốc dựa trên những phân tích sự cách biệt mức sống của hai miền hiện nay đã đưa ra một cái giá thấp nhất để bán đảo Triều Tiên thống nhất : 500 tỷ đô la và không ít thời gian.
  • Ngày Nhà giáo Việt Nam (RFA) - Hằng năm, đến hẹn lại lên, cứ đến dịp 20 tháng 11, ngày Hiến chương nhà giáo Việt Nam, thầy cô và học sinh lại được dành cho một ngày để học trò đến thăm thầy cô cùng những đoá hoa dâng tặng, những lời chúc tụng thể hiện sự kính trọng và không ngoại trừ cả những gói quà chất nặng tình vật chất.
  • Những góc khuất của ngày Nhà giáo Việt Nam (RFA) - Ngành giáo dục ở VN lại đón thêm 1 ngày lễ vinh danh thầy cô giáo vào ngày 20/11. Hòa Ái có bài ghi nhận chia sẻ của giáo viên về các góc khuất của ngày tri ân dành cho những người chọn nghiệp “trồng người”.
  • Ngày 20 tháng 11 và các bạn trẻ (RFA) - 20 tháng 11 tại VN được xem là ngày lễ dành cho ngành giáo dục nói chung và nhằm tôn vinh những người thày và người cô, nói riêng. Ngày này cũng là dịp để các thế hệ học trò bày tỏ lòng biết ơn với những người thầy.
  • Phe Cộng hòa bác bỏ kế hoạch cải cách Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (RFI) - Việc cải cách cơ quan giám sát Mỹ đã thất bại : các thượng nghị sĩ Cộng hòa hôm qua 18/11/2014 đã ngăn chận một dự thảo bị cho là quá cấp tiến, nhưng được sự ủng hộ của Tổng thống Barack Obama, Silicon Valley và những người đấu tranh cho tự do cá nhân.
  • Trung Quốc đầu tư mạnh ra nước ngoài nhưng nhiều rủi ro (RFI) - Trung Quốc hiện nay đầu tư ra ngoại quốc nhiều hơn là nước ngoài đầu tư vào. Sự đảo lộn này, minh họa cho ảnh hưởng mới trên trường quốc tế của nền kinh tế thứ nhì thế giới, theo các chuyên gia không phải là không có rủi ro.
  • Đảng của bà Aung San Suu Kyi thừa nhận thua trong cuộc đấu tranh sửa đổi Hiến pháp (RFI) - Một ngày sau khi Quốc hội Miến Điện bác bỏ mọi khả năng sửa đổi Hiến Pháp trước bầu cử 2015, đảng đối lập Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, hôm nay 19/11/2014 đã lên tiếng thừa nhận « không thể thắng » trong cuộc đấu tranh sửa văn kiện nhằm mục đích mở đường cho lãnh đạo đảng, bà Aung San Suu Kyi lên làm tổng thống Miến Điện sau cuộc bầu cử lập pháp vào cuối năm sau.
  • Abenomic, điểm mạnh và điểm yếu (RFI) - Chính sách được gọi là Abenomic có thể là giải pháp kỳ diệu chống lại nạn giảm phát, nhưng hai năm sau khi Thủ tướng Nhật Shinzo Abe lăng xê một cách ồn ào, suy thoái đã quay trở lại và Abenomic đã mất đi hào quang của nó.
  • Nhật Bản : Nguyên nhân giải tán Quốc hội của Thủ tướng Abe ? (RFI) - Hôm qua, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã quyết định giải tán Quốc hội và sẽ tổ chức bầu cử vào tháng 12 tới, tức là trước thời hạn 2 năm. Chủ đề này được sự quan tâm đặc biệt của báo chí Pháp hôm nay, với nhiều bài phân tích về nguyên nhân quyết định của ông Abe.
  • Ukraina : Đức kêu gọi Nga tôn trọng các thỏa thuận hòa bình (RFI) - Công du Kiev ngày hôm qua, 18/11/2014, Ngoại trưởng Đức Frank-Walter Steinmeier  đã kêu gọi Nga tôn trong các thỏa thuận hòa bình được ký hồi đầu tháng Chín, tại Minsk, giữa đại diện chính quyền Ukraina và phe ly khai thân Nga. Ngoại trưởng Đức đã hội đàm với với Tổng thống Ukraina Petro Porochenko, trước khi sang Matxcơva.
  • Phó Tổng Thống Hoa Kỳ thăm Ukraine (VOA) - Phó Tổng Thống Mỹ Joe Biden đã rời thủ đô Washington thực hiện chuyến công du 5 ngày sẽ bao gồm các cuộc thảo luận với giới lãnh đạo tại Ukraine
  • Trung Quốc có trách nhiệm phải kiểm soát các trang mạng (RFA) - Phát biểu tại Hội Nghị Quốc Tế Về Internet do chính phủ Hoa Lục tổ chức đang diễn ra tại Ô Trấn, Phó Thủ Tướng Mã Khải của Trung Quốc nói rằng trách nhiệm của chính phủ là phải kiểm soát các hoạt động trên những trang mạng.
  • 200 ngư dân Malaysia bị bắt ở Indonesia (RFA) - Indonesia hôm qua đã bắt giữ 200 người Malaysia đánh bắt hải sản trái phép trong vùng nước của nước này. Bộ trưởng nội các nước này, Andi Widjajanto cho hãng tin Reuters biết như vậy vào hôm qua.
  • Quan hệ Trung Quốc và Úc ngày càng nồng ấm (RFA) - Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm qua lên tiếng ca ngợi quan hệ nồng ấm hơn bao giờ hết giữa Trung Quốc và Australia sau chuyến thăm cấp nhà nước của ông đến Australia.
  • ASEAN tăng cường hợp tác quốc phòng (BaoMoi) - ASEAN nhất trí tăng cường hợp tác tuần tra chung, diễn tập trên biển cũng như chia sẻ thông tin nhằm đối phó với tình trạng cướp biển ở Malacca và Biển Đông.
  • Indonesia tuyên bố đánh đắm các tàu cá trái phép (BaoMoi) - Tổng thống Indonesia Joko Widodo tuyên bố cần thực hiện các biện pháp cứng rắn với những tàu nước ngoài xâm nhập trái phép vào vùng biển của nước này, bao gồm cả việc đánh đắm chúng.
  • Trung Quốc tham lam dưới góc nhìn của các học giả (BaoMoi) - (PetroTimes) - Chiều 18/11, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 6 đã kết thúc tại Đà Nẵng, với gần 40 tham luận và hơn 80 ý kiến thảo luận sau hai ngày diễn ra. Hầu hết các học giả đều "không thể chấp nhận" được hành động hung hăng, bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc và kêu gọi các nước ASEAN phải đoàn kết hơn nữa.
  • Thủ tướng: Trung Quốc bồi lấp đảo ở biển Đông là vi phạm DOC (BaoMoi) - TPO - Trong 2 giờ đồng hồ chiều nay (19/11) báo cáo giải trình thêm và trực tiếp trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, việc Trung Quốc bồi lấp đảo trên Biển Đông là vi phạm Điều 5 của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
  • Vùng núi miền Bắc nhiều nơi có rét hại (BaoMoi) - (TNO) Nhiệt độ tại nhiều vùng núi các tỉnh miền Bắc sáng nay 19.11 giảm xuống mức rét đậm rét hại. Không khí lạnh đang gây ra hiện tượng thời tiết nguy hiểm trên biển.
  • Biển Đông- hợp tác thay vì xung đột (BaoMoi) - Sáng qua (18-11), Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ VI tiếp tục diễn ra với 8 bài phát biểu và nhiều ý kiến đóng góp. Tại đây, nhiều học giả đã đưa ra khuyến cáo cho thấy nguồn lợi ở Biển Đông nên là tiền đề để các quốc gia thúc đẩy hợp tác thay vì đối đầu hoặc xung đột. Các học giả cũng đồng thời cảnh báo về thảm họa kinh tế toàn cầu khi tuyến hàng hải Biển Đông bị đình trệ nếu xung đột leo thang.

Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi

Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam: Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi. ..Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ đang tiếp tục ngày một phình to?

Không phải là do tôi bịa ra hiện thực đó. Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30% công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng trên 800.000 người. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng, để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.

Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor...Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland...

Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (gần 3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng (2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều. Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 10-12 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giá phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 150.000 buổi, với khoảng 900.000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.

Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai họa của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại cồng kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách môi giới chạy chọt dự án. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì mua sắm tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày... Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ thăng tiến theo tuổi tác. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng...đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách...biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.

Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ.

Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?
Tạ Duy Anh
(Rút từ cuốn Làng quê đang biến mất, NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa truyền thông Nhã Nam ấn hành tháng 5-2014.)
Tác giả gửi Quechoa với sự cho phép của Nhã Nam
(Quê Choa)

Cầu Tiêu & Quốc Hội

Cách tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt nam có quá nhiều điều bất cập, có lẽ đấy chính là nguyên nhân khiến cho kết quả việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội là một việc làm vô ích và không có hiệu quả như mong muốn. Kết quả cuối cùng thì cũng đã thấy, tức là chẳng có ai mất chức, hay bị cách chức như nhiều người kỳ vọng, nghĩa là mọi cái vẫn giữ y nguyên. - Kami
Tôi có việc phải trở lại Singapore, chút xíu. Ai nói gì thì nói, tôi cứ Vietnam Airlines mà chọn mặt gửi vàng.

 Đi hãng hàng không của ta, ít ra, cũng có ba cái lợi: khỏi phải nói tiếng nước người, được nghe mọi thông báo của phi hành đoàn bằng tiếng nước mình, và vừa bước chân vào khoang máy bay là các em tiếp viên  phát ngay cho vài ba tờ báo tiếng Việt. Đọc báo nhà nước không chỉ đỡ mệt mà còn thấy khoẻ thêm vì thường chỉ có những tin tức (cùng hình ảnh) vô cùng lạc quan về đồng bào và tổ quốc.

Y như rằng, ngay trang đầu đã có  tin vui:

8h45 sáng, thay mặt ban kiểm phiếu, Trưởng ban Đỗ Văn Chiến đã lần lượt công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt...

Chủ tịch Quốc hội nhận định, những vị trong danh sách lấy phiếu đều có trọng trách liên quan tới vấn đề lớn. “Đối với những lĩnh vực nóng như ngân hàng, giáo dục, y tế, xây dựng thì Quốc hội đòi hỏi trách nhiệm cao hơn. Phiếu tín nhiệm cao của Quốc hội là sự động viên khích lệ đồng thời là sự đánh giá kết quả đất nước đạt được thời gian qua. Còn phiếu tín nhiệm thấp thể hiện sự đòi hỏi nghiêm túc đối với người được lấy phiếu để các vị này có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao”, Chủ tịch Quốc hội nhận xét.

Cũng theo ông, Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu. Đây sẽ là cơ sở để các lần sau rút kinh nghiệm khi tiến hành quy trình này ở các cấp HĐND.

 “Kết quả cuối cùng rất tốt”, người đứng đầu cơ quan lập pháp chốt.

Thật là là “phấn khởi” và yên tâm biết mấy: “Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu”  và tất cả “47 chức danh chủ chốt” đều vẫn được tín nhiệm như thường, dù tỉ số (thấp/cao) cũng có xê xích phần nào hay chút đỉnh.

Phải uống mừng với được, dù chỉ là mừng thầm. Đợi máy bay bình phi, tôi nói nhỏ với một em tiếp viên:
  • Cho chú hai chai Vodka Smirnoff nha.
Nói là “chai” cho nó oai, chớ dung tích chỉ 50ml nhỏ xíu xiu hà, ngó thấy “thương” lắm. Nốc xong hết trơn vẫn chả thấy bõ bèn gì mà niềm vui (về “trọng trách do nhân dân giao phó cho quốc hội đã hoàn thành”) vẫn cứ còn âm ỉ nên tôi nói khẽ với một em tiếp viên khác, vừa chợt đến:
  • Khi nào rảnh, cho chú hai lon Heineken.
  • Hai lận sao?
  • Thì khỏi mất công cháu phải đi tới đi lui, mỏi cẳng, chớ sao!
Tôi nhâm nhi đậu phụng với bia xong thì sự “hồ hởi” cũng nguôi dần nên ngủ thẳng một giấc cho đến khi máy bay đáp xuống phi trường Changi, Singapore.

Đến lúc này mới thấy là bụng hơi nằng nặng. Đúng là mình có hơi quá chén nhưng chả lẽ trước nềm vui “vỡ oà” của cả nước mà mình giữ thái độ lạnh lùng (không uống giọt nào) thì coi sao được, đúng không.

Vừa bước ra khỏi máy bay là đi ngay đến W.C. Dù hơi vội vã trong việc “xả bầu tâm sự” nhưng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên là sao cầu tiêu, cầu tiểu của họ trắng tinh và sạch bóng vậy nè – Trời?

Phần lớn restroom ở trong tất cả những sân bay quốc tế đều sạch sẽ nhưng sạch quá cỡ thợ mộc, sạch như lau như li thì thiệt là chưa từng thấy, và có lẽ chỉ có ở cái phi trường này thôi.

Tôi chỉ bớt kinh ngạc khi bước ra, và nhìn thấy trên bức tường bên phải lối đi có bức hình một phụ nữ chừng đã đứng tuổi (đeo bảng tên Loh Kam Beng) đang cầm chổi tươi cười, với câu chào (“Good Afternoon”) cùng hàng chữ “Please rate our toilet - Xin chấm điểm nhà vệ sinh của chúng tôi,” và bên dưới là 5 cái nút tròn ghi thang điểm theo thứ tự: tuyệt hảo, tốt, trung bình, tệ, rất tệ.

Thường dân Loh Kam Beng và thường dân Tưởng Năng Tiến ở phi trường Changi. Ảnh: NCB
Chỉ có chuyện vệ sinh trong cầu tiêu mà sao thiên hạ lại thực hiện một cách đàng hoàng, rõ ràng, minh bạch, và tiện dụng dữ vậy cà? Không dưng tôi bỗng nhớ lại chuyện lấy phiếu tín nhiệm (kín) của quốc hội ở nước ta, bữa rồi, và chợt cảm thấy có hơi ... ngường ngượng!

Nhìn kỹ bức ảnh với nét tự tín và tươi vui của người phụ trách việc chùi rửa phòng tiêu tiểu ở Singapore, rồi liên tưởng đến bức hình (chụp sáng 14 tháng 11) của ông Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam – trông âu lo và ngượng ngập ra mặt – khiến tôi cũng có đôi chút ... lăn tăn: Quả là không có nghề nào đê tiện hay hèn hạ, chỉ có tư cách của người hành nghề mới là điều cần phải quan tâm.

Thì cũng “lăn tăn đôi chút” thế thôi chớ một anh già nát rượu (cỡ  tôi) mà “quan tâm” nhiều quá về chuyện triều đình (e) cũng không... tiện lắm. Không khéo lại còn rách việc thêm ấy chứ. Phát biểu linh tinh là tù tội như không chớ đâu phải chuyện giỡn, mấy cha?

Chui vào taxi, lục xục một hồi mới kiếm ra cái địa chỉ của nơi tạm trú ngụ lần rồi: Hotel 81 Gold, 20 Lorong 20 Geyleng, Singapore 398738.

Gọi là khách sạn cho nó sang chứ thực ra đây chỉ là một thứ phòng ngủ rẻ tiền, với một cái giường bé xíu xiu, và cái phòng tắm nhỏ chưa bằng một nửa ... cái giường. Đất ở Singapore không rẻ, và riêng ở Phố Đèn Đỏ Geyleng (chắc) phải mắc cũng cỡ kim cương nên phòng chật, và giá cả “không nhân nhượng” là chuyện tất nhiên.

Biết vậy nhưng tôi vẫn muốn trở lại khu này, trở lại những quán cà phê ở hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) với hy vọng được gặp lại những khuôn mặt đồng hương cũ – những phụ nữ mà tôi đã có dịp tiếp chuyện mấy tuần lễ trước, và đã giới thiệu họ (cũng trên diễn đàn này) như Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng.

Sở dĩ họ trôi dạt đến đây vì Việt Nam không còn chỗ chen chân cho những người bán hàng rong hay bán vé số nữa. Singapore tuy cũng chật hẹp nhưng lòng người, xem chừng,vẫn còn rộng rãi.

Đây là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Dân bản xứ không ai phải đi làm điếm, bán hàng rong, hoặc đi ăn xin nên họ “nhường”  việc làm này cho những người Việt tha hương – đang bị đẩy đến bước đường cùng.

Người Singapore không chỉ hào phóng mà còn vô cùng cởi mở.  Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.

Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.

Thực khách ở Singapore không ai cần giấy chùi miệng nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến thần tình, rất đáng được hoan nghênh.

Tắm rửa xong, tôi ngủ một giấc cho đến khuya rồi lò dò ra quán đầu đường kêu hai chai bia Carlsberg và một đĩa cơm gà Hải Nam. Cơm giá chỉ ba đô Singapore thôi, nghĩa là chưa tới 2 đồng 50 xu tính theo Mỹ Kim bản vị. Chỉ có điều là hơi ít nhưng  với tôi thì ăn không thành vấn đề, uống mới là ... chủ yếu!
Chưa kịp nhấp môi đã nghe tiếng gọi:
  • Ủa, chú còn ở Sing hả? Qua đây ngồi chơi với tụi con đi...
Bàn góc bên kia già trẻ toàn là đàn bà, con gái. Tôi cầm chai bia xề lại, với cái cảm giác dễ chịu như vừa gặp lại người thân:
  • Sao không ai làm ăn buôn bán gì ráo trọi mà tụ tập hết cả xóm ở đây vậy cà?
  • Tụi con ngồi chơi với con Bẩy chút xíu, mai nó về rồi.
  • Sao vậy?
  • Visa hết hạn chú à.
  • Kỳ này Bẩy đi kiếm “bộn” không?
  • Không dám “bộn” đâu! Trừ tiền ăn, tiền ghép phòng chưa chắc còn ngàn đô mà đi bộ ròng rã cả tháng trời thiếu điều muốn “gớt” cái cẳng ra luôn. Làm gái như hai con này mới khá, chớ bán giấy thì cũng như đi ăn xin thôi, được nhiêu đó cũng mừng muốn chết rồi.
  • Đợt sau qua lại nhằm mùa Noel với tết Tây chắc đỡ hơn nhiều.
  • Không chắc có qua được nữa không đó. Nghe nói họ sắp “xiết” lại rồi. Người mình qua mỗi lúc một đông và qua liền liền như vậy mà ai chịu cho thấu ...
  • Thiệt, nếu không qua đây được nữa thì ở nhà riết biết làm gì ra mà ăn ...
Câu chuyện giữa chúng tôi dù lan man tới đâu, cuối cùng, vẫn dẫn vào một cái ngõ cụt. Tương lai, rõ ràng, không rộng mở cho những cô gái và những người đàn bà Việt Nam mà tôi gặp lại khuya nay – ở Geyleng.

Họ là những người mẹ, người chị đã tảo tần thương khó để giữ cho dân tộc này chưa đến nỗi bị diệt vong. Tôi nhớ là đã có đọc (đâu đó) câu này của Solzhenitsyn khi ông nhắc đến phụ nữ của nước Nga, vào thời Stalin.

Ở Geleyng dường như người ta không ngủ nhưng dù sao thì đêm vẫn cứ tàn dần,   rồi trời bắt đầu hửng sáng. Chúng tôi, cuối cùng, rồi chia tay. Ai đi đường nấy.
Khu Đèn Đỏ Geyleng. Ảnh: NCB.

Tôi mệt mỏi lê bước trở lại khách sạn mà lòng nặng trĩu. Tuy uống khá nhiều bia nhưng trong cái váng vất của hơi men tôi vẫn cứ còn nhớ đến “kết quả tốt đẹp của cuộc lấy phiếu tín nhiệm của quốc hội, đối với 47 chức danh chủ chốt” vừa qua. Tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp gì cũng vẫn cứ còn tín nhiệm như thường. Nghĩa là vẫn vẫn ... y như cũ. Tuyệt nhiên chả có chút thay đổi nào ráo trọi.

Lại chợt nghĩ đến lời của ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. ”Nhà đương cuộc Hà Nội vẫn chưa tiến đến giai đoạn đổi mới (thật) nên sẽ còn rất nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy, nếu người dân của đất nước  láng giềng vẫn còn tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.

Thiệt là quá đã, và quá đáng!
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
(RFA Blog)

Putin là tù binh của những huyền thoại của chính mình về Ukraine

Chuyên gia người Thụy Điển, ông Jan Leyunyelm, cựu trưởng phòng nghiên cứu nước Nga (FOI) trực thuộc Viện nghiên cứu quốc phòng của Thụy Điển, bình luận về kết quả Hội nghị thượng đỉnh G20 và việc ra về sớm của Tồng thống Nga Vladimir Putin.

Tình hình nguy hiểm khi một người như Putin, ở chức vụ như vậy lại bỏ về sớm vì ông ta cho rằng người ta đã cư xử không đúng với ông và không hiểu nước Nga. Điều đó làm mọi người lo lắng.

В.Путин принимает участие в саммите "Группы двадцати"Trong thời gian Hội nghị Thượng đỉnh, Nga đã có thái độ thách thức khi đưa đến bờ biển Autralia bốn chiếc tàu chiến. Điều này đã không tạo thuận lợi cho một sự khởi đầu tích cực. Nước Nga đã thể hiện cho thế giới thấy sức mạnh quân sự và trước hết là tầm hoạt động của các đơn vị vũ trang của mình.

Và lí do cho việc ông Putin rời bỏ sớm cũng hơi kỳ quặc. Tất nhiên là đường đi khá dài, nhưng đường của đa số những người khác cũng không ngắn hơn. Dĩ nhiên là ông ta rời bỏ Hội nghị Thượng đỉnh vì cho rằng phải nghe quá nhiều lời chỉ trích… Có thể nói rằng ông ta là tù binh của những huyền thoại của chính mình về Ukraine, khi ông ta từ chối công nhận rằng quân nhân Nga đã hành động ở đấy.

Trong mấy năm gần đây, ban lãnh đạo cũng như – và trước hết là nhân dân Nga, đã dần dần bị lèo lái về mặt thông tin đến mức làm thay đổi cả thế giới quan của họ và tất cả những lời phê phán Nga đều bị coi là thái độ bài Nga hay là cố gắng của Mĩ nhằm làm mất ổn định tình hình đất nước.

Quan điểm của Putin – khẳng định “não trạng lô cốt” do chính ông ta tạo ra: Cả thế giới chống lại Nga. Tình hình kinh tế Nga hiện nay cho thấy rằng cần phải liên tục đưa ra thêm những bóng ma của chiến tranh và đe dọa của thế giới.

Nga được rất ít nước ủng hộ, điều này khẳng định một thành ngữ cũ: Nước Nga chẳng có bạn bè nào hết, chúng ta chỉ có lục quân và hải quân mà thôi.
Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Sverigesradio
Dịch từ bản tiếng Nga tại địa chỉ: http://inosmi.ru/world/20141118/224335199.html
Dịch giả gửi BVN
(Bauxite VN)

Bùi Văn Phú - Tín nhiệm hay không?

Quốc hội Việt Nam tuần qua đã bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo. Sau nhiều ngày bàn luận và chất vấn, 484 đại biểu đã đánh giá việc làm của 50 lãnh đạo từ Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội đến các bộ trưởng, thủ trưởng ban ngành.

Phiếu đánh giá có 3 chọn lựa: “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp”. Các đại biểu không có lựa chọn “không tín nhiệm” dành cho bất cứ lãnh đạo nào.

Kết quả, tất cả các lãnh đạo cao cấp đều nhận được đại đa số phiếu “tín nhiệm cao” hay “tín nhiệm” của các đại biểu.
Bỏ phiếu tính nhiệm ở Quốc hội Việt Nam

Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đạt 380 phiếu tín nhiệm cao (78.51%) và 84 tín nhiệm (17.36%) trên tổng số 484 phiếu, tức 95.87% tín nhiệm cao và tín nhiệm cộng lại. Năm ngoái ông được tổng cộng 94.3%.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đạt 340 (70.25%) và 93 (19.21%), tổng cộng 89.46%. Năm ngoái ông được 94.92%.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đạt 320 (66.12%) và 96 (19.83%), tổng cộng 85.95%. Năm ngoái ông được 67.48%.

Ông Dũng có tiến bộ nhiều nhất so với năm ngoái và cả ba người đứng đầu nước năm nay đều đạt trên 85% tín nhiệm từ đại biểu quốc hội.

Trong kỳ bỏ phiếu này, một số quan chức bị nhiều phiếu “tín nhiệm thấp” là bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến với 192 phiếu tức 40%, bộ trưởng giáo dục Phạm Vũ Luận với 149 phiếu tức 31%.

Bà Tiến trong năm qua bị chỉ trích vì vụ việc thuốc tiêm chủng gây tử vong cho nhiều thiếu nhi. Ông Luận bị điểm xấu liên quan đến xuất bản sách giáo khoa, bằng cấp và tiến sĩ giấy trong ngành giáo dục. Tuy nhiên hai vị vẫn không từ chức.

Nhìn vào số phiếu, với mức tín nhiệm thấp là 40% và 31% thì bà Tiến và ông Luận vẫn còn được tín nhiệm cao và tín nhiệm ở mức 60% và 69%.

Như thế dù có dư luận bức xúc muốn họ từ chức thì không lãnh đạo nào làm thế vì quốc hội toàn là người của đảng. Đảng bố trí nhân sự lãnh đạo, cả quốc hội là người của đảng vẫn đồng ý tín nhiệm thì tại sao họ lại phải từ chức.

Nhìn chung, trừ một vài quan chức như bà Tiến hay ông Luận, còn lại 50 lãnh đạo các bộ, ban ngành đều được quốc hội tín nhiệm trên 70%. Một con số mơ ước cho lãnh đạo các quốc gia tự do dân chủ trên thế giới.

Vấn đề đặt ra là mức tín nhiệm các đại biểu dành cho lãnh đạo Việt Nam có phản ánh được lòng dân hay không?

Tổ chức chính trị và lãnh đạo nhà nước tại Việt Nam là cơ chế độc đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền cai trị đất nước, như ghi trong Điều 4 Hiến pháp.

Các ứng viên đại biểu quốc hội phải được cơ sở ngoại vi của Đảng Cộng sản là Mặt trận Tổ quốc đề cử. Rất ít người dám tự ứng cử vì làm thế sẽ bị sách nhiễu, trấn áp. Có hai ứng viên độc lập là luật sư Lê Quốc Quân và tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã rơi vào trường hợp như thế. Vì tự ra ứng cử và tham gia những hoạt động dân chủ, ông Vũ đã bị kết án nhiều năm tù và nay phải sống lưu vong ở Mỹ. Luật sư Quân hiện bị tù vì trốn thuế.

Lần bầu quốc hội mới nhất là năm 2011 có gần 900 ứng viên được Mặt trận Tổ quốc chấp thuận để tranh 500 ghế đại biểu.

Như thế, đại biểu quốc hội chỉ phản ánh ý của đảng viên Đảng Cộng sản. Việc bỏ phiếu tín nhiệm cao thấp cũng là vì quyền lợi của đảng và các phe nhóm trong đảng.

Trong các chế độ tự do dân chủ, như ở Thái Lan, Nhật, Ấn Độ hay ở Anh quốc, nếu thủ tướng, cũng là người đứng đầu một đảng, thấy không còn được sự ủng hộ trong quốc hội thì sẽ tuyên bố giải tán quốc hội để dân bầu chọn lại.

Khi đó, các đảng sẽ vận động cử tri để họ chọn người của đảng mình vào quốc hội. Đảng nào chiếm được đa số đại biểu sẽ chọn người làm thủ tướng để lãnh đạo đất nước.

Tại Hoa Kỳ, một nước theo chế độ tổng thống, đầu tháng này đã có bầu giữa nhiệm kỳ tổng thống. Hôm 4/11 cử tri Mỹ đã bầu chọn 36 trong tổng số 100 thượng nghị sĩ và toàn thể 435 hạ nghị sĩ ở cấp liên bang và hàng nghìn dân cử các cấp khác.

Thăm dò dư luận của Viện Gallup vào cuối tháng 10 cho thấy số người ủng hộ Tổng thống Barack Obama là 42%, số không ủng hộ là 53%.

Sự bất đồng của dân Mỹ đối với các chính sách của Tổng thống Obama phản ánh qua kết quả bầu cử vừa rồi.

Tại hạ viện, cộng hòa vẫn chiếm đa số và tăng lên đến 243/435. Tại thượng viện, cộng hòa đạt 52/100 giành luôn đa số đang do đảng dân chủ nắm giữ.

Trong hai năm tới, tổng thống và quốc hội sẽ phải làm việc sao cho được lòng dân. Nếu không những lá phiếu của cử tri lại làm thay đổi chính trường Mỹ trong kỳ bầu chọn năm 2016.

Sinh hoạt chính trị ở Nam Triều Tiên, Indonesia, Mexico, Philippines cũng thế, tổng thống và quốc hội được dân bầu lên qua các kỳ bầu cử với ứng viên của nhiều đảng.

Tại những quốc gia tự do dân chủ, tiếng nói của dân được phản ánh trong các cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.

Ở Việt Nam chưa có bầu cử đa đảng và quyền tự do phát biểu quan điểm chính trị còn bị đe dọa bởi những bản án tù.

Đơn giản nếu có ai thực hiện thăm dò ý kiến mức tín nhiệm của dân với lãnh đạo thì sẽ vào tù ngay. Năm ngoái, dịp quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên, nhà báo tự do Trương Duy Nhất đưa ra thăm dó ý kiến đánh giá lãnh đạo, trong đó có cả lựa chọn “không tín nhiệm”. Sau đó ông bị bắt giam và đầu năm nay bị kết án 2 năm tù vì “lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước” theo điều 258 luật hình sự.

Năm 2000, báo Tuổi Trẻ Xuân công bố một thăm dò dư luận xem ai là người được ái mộ. Kết quả Chủ tịch Hồ Chí Minh được điểm cao nhất, kế đến là Tướng Võ Nguyên Giáp, rồi đến Tổng thống Bill Clinton, Thủ tướng đương nhiệm Phan Văn Khải. Hệ lụy của việc thăm dò này là số báo xuân bị thu hồi và tổng biên tập bị kỷ luật.

Vì thế kết quả bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo của quốc hội Việt Nam tuần qua chỉ là hình thức để cho có vẻ dân chủ, chứng tỏ lãnh đạo có ít nhiều trách nhiệm với dân.

Trên thực tế, hiện nay người dân Việt vẫn chưa có quyền định đoạt tương lai chính trị của đất nước và thay đổi lãnh đạo quốc gia qua các cuộc bầu cử tự do, đa đảng.

Lãnh đạo có được tín nhiệm hay không, tất cả đều là sự sắp xếp trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bộ Chính trị và hai triệu đảng viên. Hơn 80 triệu người dân vẫn đứng bên ngoài.
  Bùi Văn Phú