Chủ tịch Nước VN Trương Tấn Sang nhìn nhận sai lầm chính sách lúa gạo
xuất phát từ tư duy phải quyết liệt xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới,
nhưng thực chất không mang lại lợi ích về kinh tế cũng như thu nhập của
nông dân.
Sai lầm trong chính sách
Người đứng đầu Nhà nước Việt Nam đã phát biểu như vừa nêu trong dịp gặp
mặt 40 đại biểu Hội Doanh nhân trẻ tại Hà Nội vào ngày 31/8 vừa qua.
Theo VnEconomy, ông Trương Tấn Sang đã bày tỏ sự quan tâm tới vấn đề lúa
gạo, sau khi ông Nguyễn Hữu Thái Hòa, Giám đốc chiến lược của Tập đoàn
FPT phát biểu về chủ đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Ông Hòa
nhận định, đất nước 60 triệu dân đang sống ở nông thôn như Việt Nam mà
để tam nông tụt hậu thì thật sự rất nguy hiểm.
Chủ tịch Trương Tấn Sang được VnEconomy trích lời nguyên văn: “Đi khảo
sát đồng bằng sông Cửu Long 2-3 ngày, thì thấy lúa thóc khí thế xuất
khẩu nhất nhì thế giới, mình ca ngợi suốt ngày, nhưng xuất 3 tỷ đô thì
nhập ngô, đậu tương hơn hai tỷ, trời ơi nghe mà thiểu nảo luôn.” Ông
Sang cũng đặt câu hỏi một cách buồn lòng: “ Bớt lúa trồng ngô, đậu
tương, vừa giữ giá gạo, tuy không xuất khẩu 2-3 tỷ đô, nhưng dân có việc
làm tốt, tạo thêm 2-3 tỷ đô ở trong nước thì không làm, cứ phải khí thế
tiến lên quyết liệt phải đứng đầu thế giới mới được. Đứng đầu, đứng
giữa, mức độ thôi, khí thế quyết liệt mà mở túi chả có đồng bạc nào.”
Ông Trương Tấn Sang nhìn nhận theo nguyên văn “ cái này tụi tôi có lỗi
trước,” ông không trách doanh nghiệp cũng không đổ thừa cho dân chúng.
Với cách nói của Chủ tịch Nước thì cả hệ thống chính trị từ Đảng tới Nhà
nước và Chính phủ đã phạm sai lầm trong chính sách phát triển nông
nghiệp.
Trong dịp trò chuyện với chúng tôi GSTS Võ Tòng Xuân một nhà nông học có uy tín ở đồng bằng sông Cửu Long nhận định:
“Ông Nhà nước nhất là Bộ Nông nghiệp thường bị thương đâu chích đó,
chứ không có lo cho thân thể khỏe mạnh. Cái gốc của vấn đề là muốn làm
sao cho nông dân có lợi tức, đáng lẽ phải nghĩ tới từ đầu hay từ ít nhất
từ khi mới bắt đầu xuất khẩu gạo thì nên nghĩ tới cái tình huống bây
giờ. Ai cũng biết trồng lương thực không thể nào giàu được, trên thế
giới nước nào cũng vậy, cho nên phải tìm cách làm sao cho nông dân có
lợi tức cao hơn. Nếu mỗi địa phương họ nghĩ tới cái GDP của họ thay vì
nghĩ tới cây lúa thì cục diện khác liền. Cái đầu óc cây lúa nó ăn sâu vô
từng ông nông dân cho tới những người từ nông dân ra làm chính quyền ở
trên.”
Nông dân vẫn nghèo
Một người nông dân thu hoạch lúa trên cánh đồng ở ngoại ô Hà Nội vào ngày 11 tháng 10 năm 2012. AFP photo
Câu chuyện nông dân nghèo nhất xã hội sau hơn 25 năm đổi mới và vấn đề
tái cơ cấu nông nghiệp trở nên sôi nổi, sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng phê duyệt đề án của Bộ NN-PTNT ngày 10/6 vừa qua. Thanh Niên Online
ngày 4/9 đưa lên mạng bài “Đề án tái cơ cấu nông nghiệp: Nông dân chưa
được ‘tái’thu nhập”. Các chuyên gia nông nghiệp được tờ báo trích lời đã
cho người đọc báo có cảm tưởng rằng, Bộ NN-PTNT soạn ra một đề án tái
cơ cấu đi ngược lại quyền lợi nông dân khi rất lập lờ về thu nhập của
nông dân.
Theo Thanh Niên Online, GSTS Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa
học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, cho rằng cái cần phải thay đổi nhất
hiện nay là làm sao để nông dân có thu nhập cao, nhưng trong đề án lại
không rõ lắm. GSTS Bùi Chí Bửu nhận định, khó giữ nông dân với đồng
ruộng vì ngay ở đồng bằng sông Cửu Long, thu nhập bình quân đầu người
của nông dân chỉ đạt 535.000đ một tháng, tính ra một ngày chỉ có 17.800
đồng tương đương 0,81 USD hay chỉ bằng giá nửa tô phở hiện giờ. Một số
liệu so sánh khác được nêu ra, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam
khoảng hơn 1.600 USD/năm nhưng thu nhập bình quân đầu người của nông
dân mới chỉ đạt 480 USD/năm.
Theo Thanh niên Online, trong toàn bộ Đề án Tái cơ cấu Nông nghiệp được
Thủ tướng phê duyệt dài 16 trang, thu nhập của người nông dân chỉ được
đề cập đến một lần là “đến năm 2020, thu nhập của hộ gia đình nông thôn
tăng 2,5 lần với năm 2008. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại so với năm
2008 mà không cập nhật hơn như mốc thời gian 2012-2013. Tại sao lại
không phải là thu hẹp khoảng cách với mức bình quân chung của cả nước.
Tờ báo nêu ý kiến là nếu như đề án tái cơ cấu nông nghiệp được thực hiện
thành công thì đến năm 2020 thu nhập của người dân nông thôn vẫn nghèo
như hiện nay.
Người nông dân ngay tại đồng bằng sông Cửu Long nơi được tiếng là vựa
lúa, vựa tôm cá xuất khẩu nuôi cả nước, giờ đây cũng cay đắng với cuộc
sống.
Lúa bây giờ nó rẻ rề làm bị sụt hoài, hai chục công đất chẳng ra gì làm
cho có cái no bụng thôi chứ ăn xài này kia thì khỏi…tình hình khó khăn
nguy hiểm lắm.
- Một nông dân
“Lúa bây giờ nó rẻ rề làm bị sụt hoài, hai chục công đất chẳng ra gì
làm cho có cái no bụng thôi chứ ăn xài này kia thì khỏi…tình hình khó
khăn nguy hiểm lắm.”
Liên quan tới vấn đề tái cơ cấu, tờ báo Đảng Saigon Giải Phóng ngày 5/9
đóng khung phát biểu của ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng NN-PTNT theo đó, đã
đến lúc Việt Nam phải chuyển từ nền nông nghiệp tập trung cho sản lượng
sang một nền nông nghiệp tập trung nâng cao chất lượng, đặc biệt là giá
trị gia tăng làm tăng thu nhập cho nông dân. Ông Bộ trưởng nhấn mạnh là
vấn đề này thể hiện rất rõ trong Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
Tuy vậy các chuyên gia đã nhận xét rằng Đề án tái cơ cấu nông nghiệp mà
ông Bộ trưởng vừa đề cập vẫn mang nặng tư duy chạy theo số lượng. Nội
dung Đề án cho thấy, lĩnh vực trồng trọt sẽ duy trì và sử dụng linh hoạt
3,8 triệu ha diện tích đất trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực, sản
lượng lúa đạt 45 triệu tấn vào năm 2020. Tập trung cải tạo giống lúa để
nâng cao năng suất, chất lượng. Đồng thởi mở rộng diện tích trồng bắp
để đạt sản lượng 8,5 triệu tấn nhằm cung cấp nguyên liệu sản xuất thức
ăn chăn nuôi. Thanh Niên Online ngày 4/9, trích lời GSTS Bùi Chí Bửu
nhận xét, Bộ Nông nghiệp vẫn suy nghĩ phải trồng lúa, diện tích 3,8
triệu ha, làm 3 vụ liên tục, vẫn muốn tăng năng suất song song với tăng
chất lượng….Tái cơ cấu như vậy thì quả thật quá khó thành công.”
Hướng giải quyết
Hai phụ nữ gánh lá xương rồng vừa thu hoạch. AFP photo
Trao đổi với chúng tôi về hướng giải quyết tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa, GSTS Bùi Chí Bửu phát biểu:
“Hiện nay phải giải quyết một cách đồng bộ và có định hướng lâu dài
chứ không thể giải quyết theo chiều rộng như trước đây được. Tôi nghĩ là
phải đưa bà con nông dân vô làm hợp tác theo mô hình hợp tác xã hiện
đại, bởi vì qui mô ruộng đất quá nhỏ chỉ khoảng 5.000m2 tới 1 ha cho một
nông hộ, không thể làm gì cho kế hoạch lâu dài được. Cho nên muốn làm
với đầu tư lớn thì chính phủ tập trung rất mạnh trong mô hình cánh đồng
mẫu lớn, xây dựng tổ hợp tác rồi dần dần trở thành hợp tác xã bậc cao
như ở Hàn Quốc, Đài Loan hay Nhật, ở đó họ đầu tư rất nhiều về tín dụng,
có thể trở thành công ty lớn thì mới có thể giải quyết vấn đề đời sống
chứ nông dân không thể nào dựa vào cây lúa mà tăng thu nhập được. Lâu
dài mà muốn công nghiệp hóa ngành trồng lúa thì phải theo hình thức đó.”
Đề án tái cơ cấu nông nghiệp bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng hiện nay các
cuộc hội thảo chú trọng nhiều về lĩnh vực trồng trọt. Có lẽ liên quan
đến thời sự nóng trong thời gian qua vì sản lượng lúa dư thừa, xuất khẩu
gạo vẫn được tiến hành không ngừng, dù giá rẻ nhất thế giới và doanh
nghiệp xuất khẩu hưởng lợi vì bán giá thấp thì mua thấp. Chỉ có khâu đầu
tiên trong sản xuất lúa là người nông dân bị thiệt thòi, còn các thành
phần trung gian như thương lái, doanh nghiệp xay xát cung ứng và nhà
xuất khẩu, mỗi người đều có phần lời của mình nhiều hoặc ít. Hơn nữa
doanh nghiệp thực hiện mua tạm trữ gạo mỗi khi thu hoạch rộ còn được
chính phủ cấp bù lãi suất vay vốn mua gạo.
Câu chuyện lúa gạo, doanh nghiệp và nông dân đã cuốn hút cả lãnh đạo cấp
cao như Chủ tịch Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
cho đến doanh nhân Việt Kiều không chuyên về nông nghiệp. Ngày 3/9 trang
mạng Phunutoday phỏng vấn TS Alan Phan, một người có 47 năm kinh nghiệm
ở các thị trường phát triển như Mỹ, Trung Quốc. Mặc dù tự nhìn nhận là
không hiểu biết về lãnh vực nông nghiệp lúa gạo, nhưng ông Alan Phan
nhìn thấy ngay được sự bất thường trong khâu tiêu thụ xuất khẩu gạo ở
Việt Nam.
Hiện nay phải giải quyết một cách đồng bộ và có định hướng lâu dài chứ không thể giải quyết theo chiều rộng như trước đây được.
- GSTS Bùi Chí Bửu
Đó là cơ chế độc quyền ngầm thông qua vai trò của VFA Hiệp hội Lương
thực Việt Nam. Theo ông Alan Phan, muốn hành động để cho thị trường tốt
hơn thì điều cần làm vẫn là phá thế độc quyền của VFA, để trăm hoa đua
nở. Lúc đó VFA muốn cạnh tranh họ cũng phải đưa ra chính sách mua và bán
hợp lý không có chuyện bị lỗ. Theo TS Alan Phan, muốn dẹp bỏ nhóm lợi
ích thì cần cởi mở nền kinh tế thị trường đích thực, nếu cứ làm theo
kiểu hiện nay thì tạo ra nhiều vấn đề. Nếu mọi người cùng nhau cạnh
tranh thì đương nhiên nhóm lợi ích sẽ bớt quyền đi.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của
Thủ tướng Phan Văn Khải từng có nhận định về vấn đề độc quyền kinh doanh
những mặt hàng quan trọng. Bà nói:
“Điển hình nhất là lúa gạo giao cho Hiệp hội Lương thực (VFA) có
quyền quá lớn trong việc quyết định về giá cả, quyết định về các thương
vụ kinh doanh lớn, họ dùng vị thế của họ như vậy làm cho Hiệp hội nằm
trong sự chi phối của một số Tổng công ty Lương thực lớn của Nhà nước
như Tổng Công ty Lương thực I, Tổng Công ty Lương thực II. Như vậy cũng
có phần nào lấn áp các doanh nghiệp khác cũng kinh doanh lúa gạo và như
vậy kết quả thua thiệt cuối cùng bao giờ cũng là nông dân.”
Tái cơ cấu nông nghiệp ở Việt Nam với đề án của Bộ NN-PTNT có vẻ còn quá
nhiều câu hỏi đầy hoài nghi của giới chuyên gia. Dù mới chỉ đánh giá sơ
bộ về lĩnh vực trồng trọt. Các chuyên gia ví von đây vẫn là hình thức
sơ cứu, băng bó tạm thời, chứ chưa có hướng điều trị lâu dài. Bởi vì
điều cốt lõi là vấn đề ruộng đất được phân chia nhỏ lẻ và nông dân không
thực sự sở hữu ruộng đất của mình, khiến cho việc sản xuất tập trung
qui mô lớn trở thành một nan đề.
Nam Nguyên, phóng viên
RFA
2013-09-06
|
Chuyên gia tài chính ngân hàng Bùi Kiến Thành. |
Sau 1/4 thế kỷ thành lập và phát triển tính từ khi ngân hàng thương mại
đầu tiên ra đời (1988), có thể nói hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam đã đi trọn một chu kỳ phát triển từ sơ khai đến phát triển, cực
thịnh rồi thoái trào và trở lại quá trình tái cơ cấu, điều chưa có tiền
lệ ở bất cứ đâu trên thế giới.
Gặp lại chuyên gia tài chính ngân
hàng Bùi Kiến Thành, chúng tôi đã có những trao đổi thẳng thắn với ông
xung quanh trọng tâm này...
Thưa ông, đâu là những đặc điểm nổi bật nhất của hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam kể từ giai đoạn đổi mới đến nay?
Từ
năm 1988, ngân hàng thương mại đầu tiên được cấp phép, từ đó đến nay có
khoảng 49 ngân hàng thương mại cổ phần, hoặc ngân hàng liên doanh với
nước ngoài, ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hoạt động.
Tuy
nhiên, theo tôi trên thực tế số lượng ngân hàng thương mại cổ phần của
Việt Nam nhiều như vậy nhưng những đơn vị hoạt động, kinh doanh tốt,
hoặc tương đối không nhiều. Theo Ngân hàng Nhà nước báo cáo thì 10 ngân
hàng dẫn đầu chiếm đến 85% thị phần, còn lại khoảng 15% thị phần chia
cho 39 ngân hàng còn lại.
Như vậy sau hơn 20 năm phát triển, với
hệ thống ngân hàng như vậy, những ngân hàng nhỏ khó mà vươn lên được.
Sau này có một số ngân hàng nhỏ sáp nhập lại cũng có một số sáng kiến
mới như SHB - Habubank, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt nhưng cũng chưa
thấy có gì gọi là đột phá.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng
khoanh vùng 9 ngân hàng lãi suất yếu kém để cấu trúc lại, trong đó có 3
ngân hàng hợp nhất lại, còn lại một số khác ngân hàng nhà nước đang đỡ
đầu để tìm cách sáp nhập nhưng cũng chưa có giải pháp.
Như vậy, ta thấy những hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần bao nhiêu năm nay không như chúng ta kỳ vọng.
Tại
sao như thế? Có lẽ ngay từ bước đầu thì cái việc cho rằng chúng ta lập
ngân hàng không theo một tiêu chuẩn nào thật sự là nghiêm túc, và khi
lập ra rồi những cái ngân hàng đó đi huy động vốn trong nhân dân, đẩy
lãi suất lên quá cao, gây hại cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp nói
chung, một số ngân hàng không làm đúng chức năng ngân hàng, mà chỉ được
giấy phép của ngân hàng rồi đi huy động vốn trong nhân dân rồi đi phục
vụ cho những dự án riêng tư của mình là chính, vì thế có nhiều ngân hàng
theo như báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đã tự cho những cổ đông của
mình, hay cho những người quen biết của mình vay tới 60% - 70% tổng dư
nợ. Nhiều ngân hàng có nợ xấu, nợ khó đòi lên tới 40% - 50% - 60%.
Xét
về mặt kỹ thuật thuần túy, có thể nói hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa
đạt được chất lượng của một hệ thống ngân hàng thực sự. Ngoài ra, mục
đích làm ngân hàng quá nặng về quyền lợi riêng tư của một nhóm làm ngân
hàng nào đấy thay vì là một tổ chức tài chính phục vụ lợi ích của cộng
đồng doanh nghiệp.
Nghĩa là hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam “chẳng giống ai”, thưa ông?
Đúng như vậy, hai nét đặc thù nổi bật của ngân hàng thương mại Việt Nam theo tôi là sở hữu chéo và cách thức cho vay.
Về
sở hữu chéo, khi chúng ta cho ra mấy chục ngân hàng thì phải có vốn
điều lệ tối thiểu (ví như ban đầu là 3.000 tỷ đồng, sau nâng lên 5.000
rồi sẽ là 10.000 tỷ đồng) nhưng các nhà sáng lập không đủ tiền để đóng
vốn điều lệ, phải đi huy động nơi này nơi kia, có một số ngân hàng
thương mại quốc doanh tham gia vào những ngân hàng thương mại cổ phần.
Ngoài
ra, còn có những tập đoàn tư nhân tham gia vào, nhưng số thực sự có
tiền nhiều thì lại rất có hạn nên người ta đầu tư chéo rất nhiều.
Ví
như 1 ngân hàng A có vốn 500 tỷ thì mua lại cổ phiếu của ngân hàng B,
rồi ngân hàng C thì đầu tư vào ngân hàng A, số tiền thực chất chỉ có vậy
nhưng chạy lòng vòng hết ngân hàng này sang ngân hàng khác.
Tình
trạng sở hữu chéo như vậy làm mỏng và yếu đi thực lực thật của một ngân
hàng, hơn thế những thành viên có tham gia sở hữu chéo lại được đưa vào
điều lệ và có thể để khống chế cho vay, giải ngân tín dụng... để cho
vay những món không đúng với qui định của pháp luật.
Ví như một
ngân hàng có thể cho một đơn vị nào đó vay bao nhiều % của vốn điều lệ,
nhưng người ta lách luật bằng 5-7 ngân hàng cùng cho một đơn vị vay và
đơn vị đó lại lách luật bằng cách lập ra nhiều công ty con trực thuộc
của mình.
Như vậy, một nhóm người thậm chí một cá nhân có thể
đứng ra vay một ngân hàng rất nhiều tiền, đặt ngân hàng đó vào một thế
rất nguy hiểm và dễ trở thành nợ xấu.
Hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại Việt Nam có thể nói ngay từ đầu đã không phù hợp. Ở
mình ai tới vay cái gì, các ngân hàng đâu có xem xét, giám định các dự
án sản xuất kinh doanh của người ta xem có khả thi và phát triển trong
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn hay không... mà chỉ hỏi có tài sản thế
chấp không.
Tài sản thế chấp là thành phần chính của quyết định
cho vay, đến khi khách mang tiền về dùng không đúng mục đích, sai mục
đích thì ngân hàng cũng không giám định xem số tiền họ cho vay đó đi
đâu, theo hướng nào.
Điều nguy hiểm, là không giám định được cái
rủi ro của đồng vốn. Vì thế, cái thiếu sót lớn nhất của các ngân hàng
Việt Nam là không giúp cho doanh nghiệp xây dựng nên những dự án khả thi
và không giúp doanh nghiệp lập lịch trình thu hồi vốn thế nào cho phù
hợp với vốn mà mình cho vay: làm ra sản phẩm nào, thị trường ra sao và
từng giai đoạn tháng, năm phát triển ra sao.
Ở nước ngoài, người
ta không làm như vậy khi cho vay họ yêu cầu khách hàng trình bày lý do
vay để làm gì, nếu là vốn lưu động hay vốn trung hạn thì sẽ trả thế
nào... Họ cũng phải có lịch sử sử dụng vốn chi như thế nào, thu như thế
nào rõ ràng.
Người ta nói các ngân hàng thương mại đang như
những tiệm cầm đồ, cứ mang đồ đạc tài sản đến rồi cho vay cũng không
quá. Ông Bùi Kiến Thành.
Hoặc khi doanh nghiệp có dự án mới, ngân
hàng sẽ nghiên cứu sản phẩm ấy có thị trường hay không... vì lỗ hổng
này nên việc các ngân hàng thương mại cứ nhắm vào sản phẩm, tài sản thế
chấp để cho vay để cắt ngắn khâu giám định dự án.
Nên người ta nói các ngân hàng thương mại đang như những tiệm cầm đồ, cứ mang đồ đạc tài sản đến rồi cho vay cũng không quá.
Nhiều
ý kiến nhận định rằng, chỉ trong vòng khoảng 1/4 thế kỷ hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam đã đi trọn một “vòng đời” mà nền tài chính ngân
hàng ở các nước phát triển đã phải trải qua hàng trăm năm từ sơ khai,
đến phát triển, cực thịnh rồi thoái trào và nay lại đang phải tái cơ
cấu, theo ông trên thế giới đã từng có những tiền lệ nào như vậy?
Thực
ra, không có tiền lệ bởi chúng ta xuất phát từ nền kinh tế tập trung
không có ngân hàng thương mại, không có doanh nghiệp tư nhân. Từ năm
1985, khi đổi mới thì mới có nền kinh tế nhiều thành phần, mới có doanh
nghiệp tư nhân. Mà doanh nghiệp tư nhân muốn hoạt động thì phải có tín
dụng ngân hàng, tiếp theo là cho phép các ngân hàng tư nhân ra đời.
Nhưng
các ngân hàng ra đời cũng chưa có kinh nghiệm về hoạt động tài trợ tín
dụng cho doanh nghiệp, những người được đưa ra làm ngân hàng tư nhân
cũng được đưa ra từ những ngân hàng thương mại quốc doanh thôi, chứ cũng
chưa có kinh nghiệm phát triển một ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân
được.
Soi sang các nước Đông Âu cũng có tiền lệ này nhưng họ đã
có sẵn cả lịch sử về phát triển ngân hàng hàng trăm năm của họ rồi. Nên
có thể nói Việt Nam là độc nhất vô nhị và rất độc đáo.
Trước
đây ở miền Nam có nguyên một nền kinh tế thị trường, phát triển tương
đối tốt, nhưng sau 1975, đất nước thống nhất chúng ta đã áp dụng chính
sách quốc hữu hóa các doanh nghiệp và cải tạo tư sản...
Sau
1985, một số doanh nghiệp mới được lập nên và đi với đó là những ngân
hàng thương mại được thành lập. Nhưng như đã nói những ngân hàng này
cũng chưa có kinh nghiệm hoạt động theo cơ chế thị trường.
Như
vậy, ngân hàng thương mại Việt Nam hình thành và phát triển không có
tiền lệ, và vì không có tiền lệ nên nó cứ phát triển tự phát. Và ngay cả
cơ quan quản lý nhà nước cũng không có cách nào để xây dựng nền móng
cho một hệ thống ngân hàng thương mại thực sự tốt.
Và vì không
có kinh nghiệm nên đã không thực hiện trách nhiệm về quản lý các đơn vị.
Trên thực tế, cho đến năm 2007-2008 thì các ngân hàng thương mại còn
nằm trong vùng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, nhưng sau đó từ 2009,
2010, 2011... nó đã bùng phát mà Ngân hàng Nhà nước không có vai trò
quản lý như trong qui định của pháp luật.
Từ đó ngân hàng cứ
phát triển lên mà vô kiểm soát, vô kỷ luật, nó đẩy lãi suất huy động từ
7-8% lên 17-19% từ đó đã gây ra đại họa cho nền kinh tế, bởi thực tế
không doanh nghiệp nào có thể hoạt động hiệu quả với lãi suất đi vay lên
tới hơn 20%.
Giai đoạn 2009 -2011 có thể nói các ngân hàng
thương mại đã cho các doanh nghiệp “uống thuốc độc” với lãi suất cao như
thế, khiến họ chết dần, chết mòn...
Tất nhiên, phía ngân hàng
cũng có những lý giải ví như phải có lãi suất dương cho người gửi tiền,
lãi suất phải cao hơn lạm phát... nhưng đây là những lý thuyết không phù
hợp và thiếu tích cực, thiếu sự năng động của một người quản lý nhà
nước tức là tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững
chứ không phải chạy theo cách làm việc của một số ngân hàng thương mại
hoạt động không có qui củ...
Hai năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà
nước tuyên bố đẩy mạnh cải tổ, tái cơ cấu sắp xếp lại hệ thống ngân hàng
thương mại, theo ông lộ trình này còn có những điểm gì hợp lý và bất
hợp lý?
Cho đến nay tôi chưa thấy có cái gì được cả, hiện các
ngân hàng thương mại của chúng ta vẫn đang ở trong tình trạng bế tắc,
những đơn vị lớn gọi là 10 ngân hàng hàng đầu, thậm chí cả trong top 3
vẫn ảnh hưởng bởi suy thoái rất nhiều, thậm chí bị nạn như ACB,
Sacombank, những đơn vị khác thì bị nạn khác như đầu tư chéo vào các
ngân hàng nhỏ và các ngân hàng nhỏ này đã lôi kéo các ngân hàng lớn vào
vũng lầy nợ xấu do những món vay không đủ tiêu chuẩn, không đúng qui
định.
Từ góc độ vĩ mô mà nhìn vào, hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam hiện hoạt động mà không còn vốn điều lệ nữa, không đáp ứng
được vấn đề gì về an toàn cho cả hệ thống. Ông Bùi Kiến Thành
Hiện
nay, thực tế chúng ta vẫn chưa biết nợ xấu là bao nhiêu (chỉ riêng bất
động sản là 350 ngàn tỷ đồng) mà chừng nào chưa giải quyết được món nợ
xấu thì không chỉ các ngân hàng nhỏ mà các ngân hàng lớn cũng bị ảnh
hưởng và suy yếu đi nhiều, bởi vốn điều lệ của tất cả các ngân hàng
thương mại tại Việt Nam cũng không lớn bằng số nợ xấu đó.
Từ góc
độ vĩ mô mà nhìn vào, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện hoạt
động mà không còn vốn điều lệ nữa, không đáp ứng được vấn đề gì về an
toàn cho cả hệ thống.
Việc Ngân hàng Nhà nước đưa ra công ty mua
bán nợ Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
với nguồn vốn 500 tỷ đồng và quyền phát hành tín phiếu để mua các món
nợ xấu, nợ khó đòi theo tôi không giải quyết được vấn đề gì cả.
Vì
nói mua, nhưng có mua hết 350 ngàn tỷ đồng không? Và khi mua thì làm gì
với món nợ khổng lồ này, liệu đã có giải pháp hay chưa? Thực sự chưa
thấy lối ra cho những nợ xấu, nợ khó đòi ở Việt Nam, mà đây không chỉ là
lỗi của mỗi một Ngân hàng Nhà nước...
Hay như việc tái cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng thương mại, theo tôi phải đi ngay vào việc xử lý
dứt điểm những đơn vị yếu kém. Như đã nói, Ngân hàng Nhà nước đã khoanh
vùng 9 ngân hàng yếu kém để cấu trúc lại, trong đó có 3 ngân hàng hợp
nhất lại còn lại một số khác ngân hàng nhà nước đang đỡ đầu để tìm cách
sát nhập nhưng cũng chưa có giải pháp.
Đáng lý, những ngân hàng
đó đáng lý phải giải quyết xong vào cuối năm 2012, nhưng bây giờ đến gần
cuối 2013 rồi cũng chưa làm xong.
Ngoài ra, chúng ta lại có một
chính sách sẽ không để một ngân hàng nào phá sản cả, đó là một chủ
trương chính sách có phù hợp hay không đối với vấn đề muốn làm sạch hệ
thống ngân hàng?
Từ thập niên nay, tấm biển « Tiên học lễ hậu học văn » được xuất hiện
trở lại tại nhà trường Việt Nam sau nhiều năm vắng bóng trên dãy đất
hình chữ S. Huấn từ này đã đưa Tiến sĩ Nguyễn Dư, nguyên là giáo sư
trường kỹ sư « Centrale » Lyon trở về thời thơ ấu khi ông tình cờ đọc
được ở một trường tiểu học tại Nha Trang. Một hiện tượng khác đáng nghi
ngờ hơn là « xóm văn hóa, văn minh ». Với lối viết lúc trào phúng lúc
nghiêm túc, nhà giáo Nguyễn Dư chia sẻ những hy vọng và hoài nghi của
ông qua bài « Tiên học lễ hậu học văn » mà RFI xin trân trọng giới thiệu
dưới đây.
Thật bất ngờ ! Đang lang thang, dạo chơi tại Nha Trang bỗng thấy câu «
Tiên học lễ, hậu học văn » được chăng tại sân chơi của một trường học.
Lâu lắm rồi mới thấy lại câu nói của thời xa xưa. Xưa ơi là xưa. Xa lắc
xa lơ. « Tiên học lễ, hậu học văn » dắt tôi về thăm lại cái lớp năm
trường tiểu học Quang Trung năm 1949-1950 ngoài Hà Nội.
Trường Quang Trung, bố mẹ quen gọi là trường Hàng Kèn, nằm tại ngã tư
Trần Quốc Toản và Quang Trung. Gần hồ Ha-Le (Halais, tên cũ của hồ Thiền
Quang). Từ nhà 112 phố Lê Lợi đến trường cũng không xa lắm. Đủng đỉnh
qua ngã năm Gia Long, xuống hết cái dốc Trần Quốc Toản là đến. Trường có
một toà nhà chính, sân chơi, thêm một gian ở góc sân. Văn phòng của
thầy hiệu trưởng (ông giáo Thành mặc áo dài ta, bố mẹ bảo ông có họ với
Mợ Cả) và các lớp học khác chia nhau « chiếm » toà nhà chính. Trừ lớp
năm, bị đẩy ra ở cái gian cuối sân. Một mình một cõi.
Tôi không nhớ năm ấy mình có bao nhiêu « đồng môn ». Chắc cũng xấp xỉ 60
đứa. Sở dĩ tôi đưa ra con số 60 là vì từ tiểu học cho đến hết trung
học, ngoài Bắc cũng như trong Nam, chưa năm nào tôi có dưới 50 bạn học.
Chẳng phải lớp học nước ta vĩ đại, chứa được nhiều của quý cho đời. Tất
cả chỉ là nhờ vào tài sắp xếp, nhồi nhét của người kê bàn, đặt ghế. Có
nghe ai phàn nàn gì đâu. 100% cha mẹ có con học trường công, trường nhà
nước đều hài lòng. Có điên mới chê cái này, đòi hỏi cái kia.
Lớp học đầu đời của tôi có gì hay ho, dễ thương hơn các lớp khác không ?
Nếu được phép nói thẳng, nói thật thì tôi nói huỵch toẹt là không. Tất
cả mọi chuyện đều bình thường. Nhưng tôi thích cái lớp học bình thường
ấy.
Buổi học đầu tiên, thầy cầm thước vừa chỉ vừa đọc câu « Tiên học lễ, hậu
học văn » dán phía trên cái bảng đen. Rồi thầy giảng nghĩa. Giảng xong,
thầy gõ thước xuống bàn, dặn cả lớp :
- Ở nhà phải lễ phép với bố mẹ, ra đường phải lễ phép với mọi người. Hiểu chưa?
- Dạ, hiểu rồi ạ !
Suốt tháng đầu tập đánh vần và tập viết. Trọ trẹ. Sai lên sai xuống.
Giun bò, gà bới đầy trang vở. Tháng sau tiến lên… học thuộc lòng, viết
chính tả. Rồi ì ạch leo lên đỉnh cao của… tính cộng, tính trừ. Bắt đầu
chỉ có một số, sau tăng lên hai số, ba số. Vất vả quá.
Chẳng có gì đặc biệt. Thế mà cách xa gần nửa trái đất, hơn nửa đời
người, tại sao đôi lúc vẫn còn nhớ… Bốn năm học ở trường Quang Trung,
chỉ nhớ một mình cái lớp ấy ? Nhớ thầy Ân. Nhớ thằng Việt, thằng Huyền…
Chập chờn. Lung linh.
Nhớ hai cái thước của thầy. Cái to để kẻ hàng bảng đen. Cái nhỏ để… đánh
học trò ! Eo ơi ! Đứa nào cũng sợ cái thước này. Không tin cứ hỏi thằng
Việt.
Thằng Việt to lớn nhất lớp. Nó cao hơn tôi cả cái đầu. Chẳng mấy đứa ưa thằng này vì nó cậy khoẻ hay bắt nạt bạn bè.
Hôm ấy cũng như những ngày khác. Giờ ra chơi, sân trường ồn ào như vỡ
chợ. Chỗ này chơi bi, chơi quay. Chỗ kia đánh đáo, đuổi nhau. Thằng Việt
không chơi gì cả. Nó kéo « đàn em » đi phá thối. Ván bi của tôi đang
sôi nổi hào hứng thì thằng Việt từ đâu chui ra, lững thững đi ngang chỗ
chơi. Nó « lỡ » đụng văng hòn bi của tôi. Thằng mất dạy toét miệng ra
cười… xin lỗi. Trông thật là đểu. Một lát sau nó lại đi qua. Lại đụng
văng bi của tôi. Tức quá, tôi chồm lên vừa chửi vừa đấm một cú vào mặt
nó. Nhưng, có lẽ nó đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ dịp để ra tay. Lập tức
nó quơ tay trái siết cổ tôi, tay phải đấm liên tiếp ba bốn quả vào má
vào mồm tôi. Đau quá. Tôi chỉ còn nước khóc gào lên để cầu cứu. Thấy
vậy, cả đám đứng xung quanh xúm vào ôm thằng Việt, gỡ tôi ra. Cà cuống
chết đến đít vẫn còn cay, tôi mắm môi, lấy hết sức thụi một cú vào mồm
thằng… đáng ghét.
Một hồi trống nổi lên. Hết giờ chơi. Xếp hàng vào lớp.
Vẫn còn đau. Mồm sưng, suýt chảy máu. Trong đầu tôi bỗng loé lên một
cách trị thằng Việt. Phen này ông cho mày… biết tay ông. Xin lỗi, đang
hăng tiết vịt nên ăn nói… vô tội vạ. (Viết hồi kí mà!). Xin sửa lại. Ông
vừa được… biết tay mày. Ông không thèm… cho mày biết tay ông. Phen này
ông cho mày… mắc bẫy. Diệu kế của ông như vầy… như vầy… Hạ hồi sẽ biết
tay nhau!
Tất cả lục đục vào chỗ ngồi. Thầy gõ thước lên bàn. Cả lớp im lặng.
Sân khấu kéo màn. Tôi độc diễn trò… ấm ức khóc. Không to quá, không nhỏ
quá. Vừa đủ… đến tai thầy. Quả nhiên, thầy trợn mắt nhìn tôi. Thế là
trúng kế! Chết mày rồi, Việt ơi. Thầy đập thước xuống bàn, quát to :
- Dư, tại sao khóc ?
- Thưa thầy, anh Việt đánh con.
- Có ai thấy anh Việt đánh anh Dư không ?
- Thưa thầy có ạ. Anh Việt cậy khoẻ bắt nạt anh Dư, đánh anh Dư sưng vù cả mặt.
- Việt, lên đây !
Hoá ra thằng Việt cao to, khoẻ như thế mà cũng biết sợ. Nó cúi mặt, lấm lét đi lên, khoanh tay đứng trước mặt thầy.
Thầy Ân mắng thằng Việt « Có học phải có hạnh ». Thầy giảng :
- Đi học bắt nạt bạn, mai sau ra đời bắt nạt, ức hiếp người khác, như
thế là người có học nhưng không có hạnh kiểm. Chỉ là một thằng khôn vặt,
du côn. Không tốt. Từ nay phải nhớ, bắt nạt bạn là một thói xấu. Cả lớp
nghe chưa?
- Nghe rồi ạ !
Thầy bắt thằng Việt chìa bàn tay ra.
- Bắt nạt bạn, bị phạt ba thước.
Thước đầu, thằng Việt nhăn mặt, xoa xoa bàn tay bị đánh vào mông. Thước
thứ hai, nó vừa xoa vừa khóc rống lên. Nó khóc có lẽ còn to hơn tôi khóc
lúc bị nó đánh. Thước thứ ba, cả lớp im phăng phắc nhìn thằng Việt co
rúm người. Khóc không ra tiếng. Bàn tay bị đánh rơi thõng xuống, nó phải
lấy tay kia đỡ lên.
- Lần sau còn bắt nạt bạn sẽ bị phạt gấp đôi, nghe rõ chưa !
Thằng Việt mếu máo, gật đầu lia lịa.
Sau trận đòn, thằng Việt đổi tính. Hết hung hăng. Hiền lành… như cục
đất. Cả lớp, không còn đứa nào dám bắt nạt đứa nào. Thầy nghiêm. Phạt
nặng. Khôn hồn thì đừng đùa với kỉ luật của thầy.
Tôi thích cái lớp học ấy có lẽ vì cảm thấy được an toàn, được cái thước
của thầy bảo vệ. Từ ngày không còn sợ bị bắt nạt, tôi đâm ra… thích đi
học. Nhưng phải nói ngay rằng thích đi học vì đến trường được chơi bi,
đánh đáo chứ không phải để cắm đầu vào học.
Thằng Việt bị bạn bè ghét bao nhiêu thì ngược lại thằng Huyền được bạn
bè thích bấy nhiêu. Thằng Huyền hay cười, viết chữ đẹp. Thầy Ân cho nó
làm trưởng lớp.
Gần đến Tết ông Công ông Táo, thằng Huyền đưa ra ý cả lớp chung tiền mua
bánh chưng, mứt, hạt dưa, « mừng tuổi » thầy. Mỗi đứa đóng một đồng.
Đứa nào không có đủ thì đóng năm hào cũng được. Không đóng thì thôi,
không sao cả. Mấy ngày sau, thằng Huyền đưa tiền nhờ mẹ mua các thứ.
Cuối buổi học tất niên thằng Huyền giơ tay xin phép thầy. Rồi « phái
đoàn » do nó bàn tính, sắp đặt, lễ mễ bưng đồ lên chúc Tết thầy. Thằng
Huyền ấp úng nói :
- Cả lớp xin kính chúc thầy sang năm mới khoẻ mạnh « bằng năm bằng mười năm nay » để tiếp tục dạy dỗ chúng con.
Thầy Ân cám ơn. Giọng thầy hơi run run. A ha, học trò được thầy cám ơn.
Làng nước ơi, trẻ con được người lớn cám ơn kia kìa. Cả lớp mặt mày đứa
nào cũng hớn hở. Thầy chúc tất cả sang năm mới chăm học, ngoan ngoãn «
bằng hai bằng ba năm nay ».
Buổi học đầu năm mới thầy Ân mang một gói kẹo đến mừng tuổi cả lớp.
Thằng Việt được thầy sai phát cho mỗi đứa một cái. Việt ta hãnh diện
lắm. Có ngoan mới được thầy sai như thế chứ ! Thầy bảo cất kẹo vào túi.
Tan học mới được ăn.
Gần cuối năm học, phải học thuộc lòng bài :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Thầy nói núi Thái Sơn ở bên Tàu. Cao lắm. Đứa nào cũng thuộc làu làu bài
Công cha. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết, nói đúng hơn là chẳng
cần biết núi nằm ở đâu, cao bao nhiêu.
Người Việt có một đặc tính là hay tự hào. Tự hào có non sông gấm vóc.
Rừng vàng biển bạc. Người Việt tự hào dùng hàng Việt. Đề nghị thêm…tự
hào dùng sông núi Việt để dạy trẻ con Việt. Dạy rằng :
Công cha như dãy Hoàng Liên
Nghĩa mẹ như nước Hương, Tiền chảy xa
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Dãy núi Hoàng Liên (Hoàng Liên Sơn, Phăng-Xi-Păng) thuộc tỉnh Lào Cai
miền Bắc. Núi cao 3142m. Cao nhất Việt Nam. Cao hơn cả ngàn lần núi Pi
của các nhà Toán học (Pi = 3,14). Sông Hương thơ mộng của thành phố Huế,
miền Trung. Sông Tiền tấp nập tàu ghe của thành phố Mỹ Tho, miền Nam.
Công cha, nghĩa mẹ Việt Nam bao trùm cả ba miền đất nước. Khỏi phải dùng hàng Made in China.
Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Sài Gòn. Được đi máy bay. Máy bay thật chứ không phải máy bay giấy.
Lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây, Thị Nghè không đủ chỗ để nhận hết
đám Bắc kì. Phải… thi tuyển. Lần đầu đi thi. Hồi hộp. Rồi cũng xong.
Cũng trót lọt. Tôi háo hức hội nhập. Học nói giọng Sè-Goòng. Bập bẹ học
vồ cá bụi tre (vocabulaire, ngữ vựng). Chả vồ được con nào. Chữ cô trả
cô. Em quên ráo trọi rồi, cô à!
Hết năm học phải thi bằng tiểu học. Thi vào đệ thất Trần Lục. Thi hoài
dzậy ! Tập tễnh bước sang một thế giới khác. Thế giới của người lớn làm
chính trị. Học trò làm… hậu thuẫn. Đi « truất phế Bảo Đại ». Đi « bài
phong, đả thực ». Đi « tố Cộng ». Đi đón Lý Thừa Vãn…
Thứ hai hàng tuần thầy Cương mặc đồng phục « Thanh Niên Cộng Hoà » làm lễ chào cờ, « suy tôn Ngô Tổng Thống ».
Rồi thời gian lặng lẽ trôi. Tôi trôi qua Hồ Ngọc Cẩn, Chu Văn An, Đại
học Khoa Học, Đại học Sư Phạm. Học hành bê bối, chẳng đâu vào đâu.
Năm 1964, tấp tểnh người đi tớ cũng đi. Đi du học bên Pháp. Hoàn toàn xa
lạ. Ù ù cạc cạc. Cha mẹ ơi ! « Ai bảo đi tây là khổ, Đi tây sướng lắm
chứ ! ». Một thằng vừa câm, vừa điếc, vừa không có tiền thì… đến Tết
Congo mới sướng.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Bấm đốt tay, bỗng giật mình. Người
khác thì phải thuê nhà rộng mới đủ chỗ để chứa những cái khôn học được.
Còn mình thì… sao vẫn chưa khôn ? Uổng cơm cha mẹ. Uổng bánh mì của
Pháp. Nhưng cũng tự an ủi, vớt vát một tí. Không học được cái khôn nhưng
thỉnh thoảng cũng học được cái hay của thiên hạ.
Có lần, học được một bài học đáng đồng tiền bát gạo.
Lần ấy, bài làm đúng mà lại bị điểm xấu. Chuyện gì lạ vậy ? Làm sai…
được điểm tốt à ? Sống ở hành tinh nào vậy ? Xin báo cáo như sau :
Bài làm đúng, ban đầu được 16 điểm. Nhưng bị ông trợ giáo ghi bằng mực
đỏ « giống bài của… », chỉ còn 8 điểm. Mất một nửa. Thấy tôi ngạc nhiên,
ông nói : « Tôi biết là bạn anh chép bài của anh. Nhưng hai bài giống
nhau thì cả hai người đều có lỗi. Tôi phạt đồng đều cả hai ».
Tôi bực mình nhưng đành cứng họng. Ông trợ giáo có lí. Tôi phải trả giá (rẻ như bèo) cho một bài học hay. Học được một điều :
Ăn hối lộ và đút lót hối lộ, cả hai cùng có tội. Phải bị trừng phạt (thật nặng) như nhau. Không có lửa làm sao có khói.
« Tiên học lễ, hậu học văn » ngày xưa bị nhiều người xấu lợi dụng.
« Người ta ở đời nhờ có cha mẹ sinh ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy
cho mình thì mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho
nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một mối
luân thường của Á Đông ta.
Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dở. Kìa như các bực
đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hoá nhuần thấm đến
người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học
hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi
về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trướng, gõ đầu năm ba đứa để hộ khẩu
cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho
đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào
khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt
gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ » (1).
Con sâu làm rầu nồi canh. Mấy thầy khôn vặt, sinh sống bằng nghề bắt nạt học trò. Thật đốn mạt !
Đến thời bị Pháp cai trị, các ông làm nghề godautre (gõ đầu trẻ) cũng
được xã hội coi trọng. Nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng làm nghề này trong
một thời gian dài. Không biết Nguyễn Công Hoan hồi nhỏ được các thầy dạy
dỗ ra sao. Đến lượt mình đi dạy học thì thầy Hoan dạy dỗ học trò những
gì ? Không ai biết rõ đời tư của Nguyễn Công Hoan. Ông được cả nước công
nhận là một nhà văn lớn, tác giả của rất nhiều truyện ngắn, truyện dài
nổi tiếng.
Sau này Nguyễn Công Hoan có dịp viết hồi kí. Thể loại khác, bút pháp
khác. Đôi lúc Nguyễn Công Hoan đốp chát thẳng thừng, quên cả « Tiên học
lễ, hậu học văn ».
« Khải Định là một thằng vô học, chỉ chơi bời. Năm 1919, nó đã ''ngự giá Bắc tuần''.
Nó nghĩ ra cách ăn mặc rất ngộ nghĩnh : Vàng từ đầu đến chân.
Nón lợp vải vàng, có đính long ly quy phượng bằng vàng. Khăn vàng. Áo màu vàng, thêu kim tuyến, ngắn trên đầu gối.
Hai vai đeo ngù quan binh Pháp bằng vàng. Thắt lưng to bản giát vàng.
Ghệt đính vàng. Giày tây da vàng, có gài cái sắt thúc ngựa bằng vàng.
Tay đeo bốn chiếc nhẫn vàng mặt đá màu lớn.
Ra Hà Nội, nó ngồi cùng xe với toàn quyền Sa-rô. Mình cứ tưởng đống rơm, không biết là người.
(…)
Nó ra Bắc để ký nhường cho Tây Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng làm nhượng địa » (2).
Trong cùng cuốn sách, ở một trang khác Nguyễn Công Hoan lại nói « Ngộ
nghĩnh nhất là bộ quần áo nó (chỉ vua Khải Định) mặc ra thăm Bắc Kỳ năm
1917, gọi là ngự giá Bắc tuần ».
Nguyễn Công Hoan nhớ hai năm khác nhau, 1917 và 1919. Tôi tò mò muốn
biết vua Khải Định ngự giá Bắc tuần năm nào? Khải Định nhường Hà Nội,
Hải Phòng, Đà Nẵng cho Pháp ngày nào?
Về chuyện nhường đất, Cao Xuân Dục chỉ chép vắn tắt :
- Tháng 8 năm Mậu Tý (1888) đem xứ Hàn (Tourane) làm đất nhượng địa Đại Pháp (3).
Trần Trọng Kim chép đầy đủ hơn :
- Tháng 8 năm Mậu Tí (1888) Triều đình ở Huế ký giấy nhường hải cảng Đà
Nẵng, thành thị Hà Nội và Hải Phòng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa
nghĩa là từ đó việc cai trị và pháp luật ở ba thành thị ấy thuộc về nước
Pháp, chứ không thuộc về nước Nam nữa (4).
Sử của ta không chép ngày. Tài liệu của Pháp cho biết rõ ràng hơn.
- Ngày 1/10/1888 dương lịch, vua Đồng Khánh kí giấy nhường đứt Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cho Pháp (5).
Chuyến tuần thú Bắc hà (inspection impériale) của Khải Định được Orband
tường thuật chi tiết. Xe lửa chở phái đoàn rời Huế lúc 12g30 ngày
19/4/1918 (nhằm ngày 9/3 âm lịch), đến ga Hà Nội lúc 17g ngày 26/4 và
trở về đến Huế vào chiều ngày 9/5/1918 (6).
Sử của ta cũng chép đầy đủ chuyến ngự giá Bắc tuần của vua Khải Định.
Chuyến đi diễn ra từ ngày mồng 9 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm Đinh Tị
(1918) (7).
Vua Khải Định ra Bắc năm 1918 (chứ không phải 1917 hay 1919 như Nguyễn
Công Hoan nhớ). Mục đích của nhà vua là tham quan, thăm dân cho biết sự
tình. Việc kí nhường cho Pháp ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng
làm nhượng địa đã được vua cha Đồng Khánh làm từ 30 năm trước rồi
(1888).
Nguyễn Công Hoan có lẽ vì nóng giận, mất bình tĩnh, đã vu oan cho vua Khải Định.
Ngoài thằng vô học Khải Định, Nguyễn Công Hoan còn điểm mặt một xâu
những thằng tai to mặt lớn khác như thằng công sứ Thái Bình Minault,
thằng chánh lục lộ Đông Dương Puyane, thằng toàn quyền Sarraut…
Mẹ tôi sốt ruột cắt ngang:
- Cụ nào mà ăn nói hăng thế? Giậu đổ bìm leo, đánh võ miệng thì ai đánh
chả được! Các cụ vẫn nói: Đánh giặc mà đánh tay không, Thà về xó bếp
giương cung bắn mèo.
Bọn trẻ sinh sau đẻ muộn không có được cách xưng hô của nhà văn viết hồi kí, kể chuyện chống phong kiến, thực dân, đế quốc.
Thời Pháp còn tạm chiếm Hà Nội tụi nhóc con phải ê a:
Hỡi các cậu bé con
Đang lúc tuổi còn non
Các cậu phải chăm học
Có học mới nên khôn.
Muốn nên khôn thì phải học. Dạ. Muốn học thì phải nhờ thầy. Dạ. Không
thầy đố mày làm nên. Dạ. Trở về làng cũ học cày cho xong. Không được !
Sao thầy khinh nhà nông thế. Tay chân thầy như thế kia thì cày bừa cái
gì ? Không biết chữ thì chỉ phải chịu tiếng ngu. Không có ăn thì thầy
cũng chết nhăn răng.
Phong kiến cho thầy ngồi chiếu cao. Thôi thì… trăm sự nhờ thầy. Thầy ra
thầy thì may ra trò nên người. Thầy không ra thầy thì… bỏ mẹ cả lũ.
Xưa cũng như nay, nhà nào phúc đức thì gặp được « Nhất tự vi sư, bán tự
vi sư ». Vô phúc thì vấp phải « Nhất tự…tiên sư, bán tự… tiên sư nhà
thầy» !
Có người nghĩ rằng xã hội bây giờ tiến nhanh quá, « đổi mới » chóng cả
mặt. Tuổi trẻ thích ứng không nổi. Vì vậy mới phải đặt ra « xóm văn hoá
», « tuyến phố văn minh ». Dò hỏi thì được biết « gia đình văn hoá » là
gia đình vợ chồng không chửi nhau, bố con không đánh nhau, không làm
phiền láng giềng. « Văn minh » là ra đường không vứt rác, không đái bậy,
không lấn chiếm lề đường… Suy diễn một cách gián tiếp là khuyến khích
mọi người tìm đọc « Quốc văn giáo khoa thư » và « Luân lý giáo khoa thư »
của trẻ con ngày xưa.
Nhiều phụ huynh trẻ ngày nay bỡ ngỡ trước cái khuôn vàng thước ngọc lạc
hậu « Tiên học lễ, hậu học văn » của giáo lí phong kiến. Ta đã mất nhiều
thời gian, nhiều thế hệ mới phá bỏ được nó. Bây giờ lại có người muốn
đi giật lùi sao?
Có điên mới đi giật lùi. Phải tiến, phải « chồm lên phía trước » chứ. Miễn là đừng chồm như ngựa bất kham.
Nguyễn Dư
(Lyon, 7/2013)
(1)- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp tái bản, 1990, tr. 212.
(2)- Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004, tr. 140-142.
(3)- Cao Xuân Dục, Quốc triều sử toát yếu, Văn Học, 2002, tr. 526.
(4)- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, Miền Nam tái bản, tr. 345.
(5)- Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, tr. 225).
(6)- Richard Orband, Voyage de S.M. Khải Định dans le Nord-Annam et au Tonkin, BAVH, Juillet-Septembre 1918.
(7)- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh, Khải Định chính yếu, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Thời Đại, 2010, tr. 275-276.
Tú Anh (
RFI)
Sự suy thoái toàn diện của xã hội Việt Nam hôm nay đang lao xuống, ầm ầm như thác đổ.
Không thể ngăn cản.
Không thể biện hộ, bằng sự hồ đồ mạ lỵ.
Chân lý không thuộc về kẻ nói to, nói nhiều, nói mạnh. Không ai có thể quản lý được chân lý, vì chân lý không có chủ nhân.
Chân lý thẩm thấu vào kẻ biết lắng nghe với trái tim có sức chứa.
Sự
kiện anh Lê Hiếu Đằng – tự nó không phải là sự cố cho hệ thống cầm
quyền của đảng –đang lan tỏa, nhẹ nhàng và đơn giản, đã tạo nên sự cộng
hưởng tích cực, rộng lớn cho những ai biết lắng nghe.
Đó là một
lời mời đối thoại với tấm lòng chân thật và thiện chí. Nhưng nó được đón
nhận cách phản ứng rất “vật lý” từ phía công quyền, từ hệ thống
Chuyên-Chính-Vô-Sản, từ não trạng đậm quán tính, từ niềm tin có tính
giáo điều về những tiền đề mang màu thần thánh.
Như lời TBT
Nguyễn Phú Trọng nói, sự “suy thoái/thoái hóa về tư tưởng – chính trị”
trong đảng CS với một bộ phận không nhỏ. Đúng như thế. Sư suy thoái biểu
hiện bằng sự bắt đầu căn bản nhất, nguồn cội nhất, là thái độ không
chấp nhận đối thoại, và tâm lý không ưa thích đối thoại. Tệ hơn thế, là
thái độ vùi dập đối thoại bằng đại bác, như tiếng đại bác của Kim yung
Un nã vào kẻ tử tội. Tiếng hô xung phong phản kích đồng loạt nổ ra từ
các phương tiện truyền thông chính thức, từ các tờ báo lớn chính thống,
kế tiếp là những cuộc rì rầm trong hệ thống ngầm ở địa phương. Những tay
xạ thủ là “Giáo sư”, “Tiến sĩ”, “Viện sĩ” và cả những “khất sĩ” dư luận
viên…Như một cơn mưa lớn trút xuống, nặng hạt, nhưng lại qua nhanh,
chẳng đọng lại điều chi đáng suy nghĩ, ngoài việc làm rõ thêm những vết
nứt loan lỗ vốn có. Phài chăng đây là biểu tượng căn cơ về suy thoái
trong tư tưởng-chính trị mà TBT muốn nói ?!
Trao đổi, hay là đối
thoại, phải chăng là hành vi giao tiếp đầu tiên của loài người để khởi
đầu sự từ bỏ thế giới mông muội, tiến tới thế giới văn minh?. Vì văn
minh nên có dân chủ. Dân chủ, chính là đối thoại. Độc tài thì không có
đối thoại, chỉ có tiếng kèn xung trận thay lời. Không đối thoại và tự
cho là mình có chân lý, thế thì lưng dựa của tư duy là quyền lực ?
Theo
phương châm của Mao: “Quyền lực ở trên đầu mũi súng”, nhưng Chân lý
thì không nằm ở đó ! Người ta có thể thừa nhận “lý lẽ thuộc về kẻ mạnh”,
nhưng không ai nói “chân lý là của kẻ mạnh”.
Mặt khác, những
người bên kia bờ đại dương, trong số những người yêu nước và yêu sự
chống Cộng, thì có một số mà người trên mạng gọi tạm là “Chống Cọng cực
đoan” cũng đã tích cực lên tiếng mạ lỵ Lê Hiếu Đằng, nói rất nhiểu kiểu,
nhiều cách, cũng gọi tạm là những cuộc “ném đá’. Có lẽ ném đá đã trở
thành một nghề, hay một cách chơi, hay một loại sinh hoạt cần thiết của
đời sống tinh thần,? Tất nhiên đều được và đều có quyền. Tuy nhiên, một
sáng thức dậy, những cục đá ném, phát ra từ bên kia hay bên nầy, chúng
nằm trơ ra đấy mà chẳng thấy ông Lê Hiếu Đằng nằm đâu. Vẫn chỉ là những
cục đá lớn nhỏ. Có thể một mai kia, những cục đá sẽ cựa quậy trong tâm
của người ném, may thay, vì sự hổ thẹn. Có điều, những người mang danh
là cực đoan nầy hay bày tỏ sự thông thái quá khổ của mình : họ hiểu Cộng
đến tận ruột gan, từ khi họ mới tượng hình người ! Họ đã chống Cọng
quyết liệt, từ hơn nửa thế kỷ qua, họ đặt Cộng sản “ngoài vòng pháp
luật”, và tiếp tục chống đến mức không còn cái Hiến Pháp để nhân danh !
Thế thì rõ ràng không giỏi rồi, đừng khoe sự thông thái mà thóa mạ kẻ
khác. Thôi đi! Nói về mất mát đau thương thì ai cũng rõ, là nổi đau
chung, không bản thân thì cũng gia đình, bà con họ hàng, người yêu…chưa
chắc “Bên thắng cuộc” đã không nhiều hơn “bên không thắng cuộc”! Bên
thắng cuộc tuy đông, nhưng người thắng thì ít lắm. Nói như vị nào đó :
Dù bên nào thắng, thì nhân dân vẫn lãnh đủ…Phe “Chống Cộng cực đoan” và
phe “Cọng sản triệt để” có thể đồng dạng với nhau về mặt tính cách, họ
“đối trọng” nhau để sinh thành và tồn tại. Vì thế, nên thôi đi! Cũng bởi
vì, thế hệ trẻ hiện nay đang trị giá khác về các giá trị của thời đại !
Một
xã hội công dân mà Lê Hiếu Đằng thay cho hàng vạn con người đã nói lên,
tuy không mới nhưng luôn cần thiết cho mọi người, là giải pháp cấp
bách, cũng là giải pháp lâu dài của Việt Nam, cho phe “cực đoan” hay phe
“triệt để”, và cả cho con cháu họ. Chẳng lẽ con cháu họ sẽ sinh ra và
lớn lên cũng đều có máu “triệt để” hay máu “cực đoan” hết cả sao ? Nếu
thế thì rất khó tưởng tượng về tương lai của đất nước!
Hãy gác
lại cuộc mạ lỵ, bôi bẩn, vu khống, hồ đồ, vô bổ …để cùng đối thoại,
hướng tới xây dựng một xã hội công dân, bình đẳng, hội nhập, và văn
minh, mà ở đó những ông bạn “cực đoan” và những đồng chí “triệt để” sẽ
chỉ còn tồn tại, và được trân trọng chăm sóc, trong các bệnh viện tâm
thần.
Những ngày tháng đang trong cơn bão đá từ các bên, Lê Hiếu
Đằng vẫn đi cà phê buổi sáng như thường lệ. Dù chỉ nhấm nháp qua loa một
cách rất “không đáng kể”, anh vẫn rất vui vẻ và hân hoan về những điều
mình đang nghĩ đang làm. Có lẽ anh đã ký thỏa thuận nào đó về một hòa
ước với Thần chết nên rất bình yên, không có vẻ gì là “kẻ bất mãn” hay
“tên âm mưu” như đá ném..
Thân xác thì tạm không cần nói tới,
nhưng linh hồn anh thì không ai chạm vào được.! Anh đã trung thành với
nhiệt huyết tuổi thanh niên của mình, với tính cách “Liên minh Dân tộc
Dân chủ và Hòa bình”. Trước và sau, anh là thống nhất.
Như thế là hạnh phúc, vì còn gì đẹp hơn !
Hạ Đình Nguyên