(RFI). –
(ANTĐ). “Phản ứng” cái gì? Đặc phái viên Lê Hồng Anh qua Bắc Kinh, đã đồng ý
”
với người “đồng chí, anh em, bạn vàng, bạn tốt” rồi còn “phản ứng” gì
nữa? Có lẽ “phản ứng” chỉ nhằm mục đích đối phó với dư luận trong nước
thôi.
(VOA).
(RFI). “
(Blog 5xu). –
(FB Thái Bá Tân). “
“.
(DLB). “
(RFI). –
(DLB).
(Đức Mẹ TV).
(DLB).
(DLB).
(Blog VOA). “
“.
(Blog RFA). “…
(Việt Báo).
(Việt Báo). – Mời xem lại bài của Đại tá, Thạc sĩ NGUYỄN ĐỨC THẮNG trong mục Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”:
(QĐND).
(TNM).
(Việt Báo). “
“.
(Blog VOA). “
“.
(BĐX). “
(VNN).
(BBC). –
(NLĐ). “
“. Ngày càng có nhiều kẻ lừa đảo, lưu manh được khen thưởng, vinh danh, được tặng huân chương. Mời xem lại: –
(MTG).
(NLĐ). Không sếp nào nhận đã được “lại quả”, có lẽ phải nhờ những kẻ
trộm giúp khám phá khối tài sản của mấy sếp để tìm ra số tiền “lại quả”
kia. Lúc đó biết đâu lại có “
- (VnMedia). Bạch Ngọc Chiến, PCT Nam Định: “
“.
Tưởng lãnh đạo Nam Định lên mạng “báo cáo” cái gì, hóa ra chỉ để nhận
công và khoe thành tích. Một người lãnh đạo đúng nghĩa phải là người
biết nghĩ đến người khác trước khi nghĩ tới bản thân mình. Lãnh đạo luôn
vinh danh các cộng sự của mình khi có được thành quả, thay vì cho rằng
nhờ tài lãnh đạo của mình mới gặt hái được những thành quả đó. Khi thất
bại, lãnh đạo phải là người đầu tiên đứng ra nhận lỗi trước công chúng,
thay vì đổ lỗi cho “cậu đánh máy” hay nhân viên dưới quyền của mình. Bao
giờ Việt Nam xuất hiện những người lãnh đạo có được những tố chất của
một người lãnh đạo phải có, thì may ra đất nước này mới ngóc đầu lên
nhìn các nước láng giềng.
(GDVN). Bí thư tỉnh ủy mà lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, đưa tỉnh nhà đi lên mới là bất thường…
(TN). “
(NLĐ).
(ĐSPL) (chứ không phải để thượng tôn pháp luật....?).
(ANTĐ).
(KP).
(KP).
(MTG). –
(KDPL).
(RFI).
(TBKTSG).
(TN).
(RFI).
- (Tễu).
- Ảnh: (Hiệu Minh).
(RFA). “
“.
(ĐTCK). –
(Báo XD).
(VN Review).
(StockBiz).
(TTXVN/ QĐND). Báo QĐND không chống “Diễn biến hòa bình” à?
(VNE). Thất nghiệp luôn giảm, GDP luôn tăng, mà đất nước thì ngày càng tụt hậu.
- (Da Màu).
- (Da Màu).
(BBC). “
(GĐVN).
(Nguyễn Đình Đăng).
(PNTP).
(TTXVN).
(HNM).
(Văn Việt).
(NLĐ).
(GDVN).
(TT).
(VNN).
(ANTĐ).
(GDVN).
(ĐSPL).
(GDVN).
(KT).
(ĐSPL).
(NLĐ).
(ĐSPL).
(GDVN).
(KT).
(VOA). –
(VOA). –
(KP).
(NLĐ).
(RFI). –
(KT).
(Blog VOA). “
“.
(RFI).
(VOA).
(RFI).
(VOA).
(RFI).
(VOA).
Có lẽ không cần phải bình luận gì thêm nữa. Bài viết đã dài, Trực Ngôn xin dừng bút, để bạn đọc tự phán xét.
TRỰC NGÔN
2953. Cải cách ruộng đất: Lệ thuộc Nga – Tàu?
GS Nguyễn Văn Tuấn
12-09-2014
Có
lẽ chẳng phải là một “phát hiện” vì hai lá thư dưới đây đã xuất hiện
khá lâu trên mạng. Đó là hai lá thư cụ Hồ Chí Minh gửi cho Stalin vào
ngày 30/10/1952 và 31/10/1952. Nội dung thư vừa báo cáo vừa xin ý kiến
chỉ đạo của Stalin về cuộc “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ). Hai lá thư là
chứng từ cho thấy thời đó miền Bắc VN quá lệ thuộc vào Tàu và Nga (Liên
Xô).
Lá thư thứ nhất đề ngày 30/10/1952 báo
cáo cho Stalin biết rằng ông (Hồ Chí Minh) đang soạn đề án CCRĐ. Ngoài
việc xin viện trợ về thuốc men và vũ khí, ông xin được “chỉ thị” của
Stalin về vấn đề CCRĐ.
Lá thư thứ hai thì ngắn hơn thư thứ
nhất. Đáng chú ý trong thư này là chương trình hành động CCRĐ có sự trợ
giúp của Lưu Thiếu Kỳ (?) và một người Tàu khác tên là Văn Sha San (*). Thư ghi rõ ràng là xin được “chỉ dẫn”.
Miền Nam cũng có cải cách điền địa dưới
cái tên (tôi nghĩ) hay hơn: “Người cày có ruộng”. Nhưng khác với CCRĐ ở
ngoài Bắc, người cộng sản du nhập “đấu tranh giai cấp” vào công cuộc cải
cách, ở miền Nam người ta thực hiện một cách êm thắm, không có ai chết
hay bị oan ức (ít ra là trên báo) và cũng chẳng có đấu tố man rợ như vụ
CCRĐ ngoài Bắc. Chính quyền miền Nam lúc đó chẳng xin chỉ thị hay xin
hướng dẫn của ai. Có thể đọc bài của Ts Nguyễn Tấn Hưng để biết thêm chi
tiết và thống kê thời “Người cày có ruộng”.
Hai lá thư của cụ Hồ thêm những chứng từ
về sự lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô của chính quyền ngoài Bắc. Không ai
ngạc nhiên về sự lệ thuộc ngoại bang thời đó. Nhưng vấn đề là chính
quyền ngoài Bắc tuyên truyền rằng chính quyền miền Nam lệ thuộc vào Mĩ.
Nói theo cách nói của Tây là vườn nhà mình không sạch mà chõ miệng sang
chê vườn nhà người ta dơ.
====
Thư ngày 30-10-1952
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
- Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới
Việt Nam để làm quen và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí
đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh
tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100
du học sinh, với trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có
người là Đảng viên và cũng có ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của
họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng
chí 10 tấn thuốc kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có
nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn,
tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.(b) Pháo trận địa
76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi
khẩu(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952 (đã ký)
(Trong bức thư thứ 1, Hồ Chí Minh ký tên Tàu.)
=====
Thư ngày 31/10/1952
Đồng chí Stalin thân mến:
Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam.
Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San (*).
Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.
Hồ Chí Minh, 31/10/1952
Nguồn: FB Nguyen Tuan
——
(*) Lưu Shao Shi và Văn Sha San là Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường
2954. Cải cách ruộng đất: Mưu Thầy thâm ghê!
Dương Trọng Đông - Cựu sĩ quan QĐND
Cải cách ruộng đất là chuyện bị xúi bẩy. Một
thứ Cao Biền dậy non. Tưởng “hậu sinh khả úy”, ai ngờ vẫn cứ mở mắt theo
tiếp… Đúng là “hai lần dại thành bốn”.
09-12-2014
Dù
không muốn nhắc lại cụm từ “cải cách ruộng đất” (CCRĐ), tôi vẫn hoan
nghênh quyết định sáng suốt nhưng muộn màng của Ban Tổ chức đã đóng cửa
cái triễn lãm (thâm độc) không mấy người vui nhưng chắc chắn có ức
triệu… ức triệu… người hờn, kể cả những linh hồn đã khuất.
“Mua hột mà nuốt”
Trong quê tôi, người dân gọi việc nghe
theo ai đó xui dại làm chuyện bất cẩn như mở ra cái triển lãm vừa rồi là
mua hột (tức là ‘mua hạt trái cây’) về mà nuốt.
Dân xứ Nghệ nói trúng phắp cho cái triển lãm này.
CCRĐ là vết thương “long trời lở đất”
trong lòng dân tộc-quốc gia. Ông bác sĩ “Thời gian” còn lâu mới khỏa lấp
được hết cái khoảng trống huyếch, trống hoác trong tâm thức những người
Việt từ khắp mọi góc bể chân trời.
Dù bên mé ngoài, vết thương đôi chỗ có
chút lên da non, nhưng với cái triễn lãm này, ai đó đã chọc vào trung
tâm cái “hố đen” ấy, ngoáy nó lên để gây lại nhiễm trùng.
Việt Nam đang dùng công nghệ truyền
thông của thế kỷ 21 để quảng bá cho cái triết lý “Trí, Phú, Địa, Hào…”
mà chắc Khơ me Đỏ từ xứ Chùa Tháp cũng phải thán phục.
Và nếu cứ tiếp tục như vậy, một bộ phận nào đó trên cơ thể của quốc gia này không chừng sẽ dẫn đến hoại tử.
“Đơn giản như đan rổ!” CCRĐ vốn là
chuyện bị xúi bẩy, Cao Biền dậy non. Việt Nam hồi đó vốn vướng bận vào
cuộc trường kỳ kháng chiến nên “phụng mệnh ý chỉ” chậm. Lãnh đạo cao
nhất đã từng phải sang tận nơi kiểm thảo (không phải trước dân ta đâu
nhé!).
Tưởng “hậu sinh khả úy”, ai ngờ vẫn cứ
mở mắt theo tiếp… Đúng là “hai lần dại thành bốn”. Thế kỷ trước làm ẩu
(nên phải sửa), thế kỷ này “bới” ra để “ngửi” lại (rồi sửa tiếp).
Đúng là “sai đâu sửa đấy” cho dù “sửa đâu sai đấy”.
“Nhất cử lưỡng tiện”
Nếu “Địa chủ ác ghê” thì “Mưu Thầy cũng thâm ghê”.
Tin cho hay cuộc triển lãm CCRĐ bị
đóng cửa vì lý do thiếu ánh sáng trong chiều hôm qua. Lại đúng
phắp, nhưng phải kết thúc câu trong thông báo cho trọn vẹn, đó là “do
thiếu ánh sáng… trí tuệ” và không chỉ là trong chiều hôm thứ Năm!
Để “công đồn” vào cái “ý Đảng lòng Dân”
ta vẫn thường hay tuyên truyền thì cái triển lãm này đã hoàn thành “sứ
mệnh lịch sử” của nó ngay hôm khai mạc.
Chưa bao giờ ý Đảng lòng Dân lại lệch
pha như hôm ấy. Cứ nghe mấy cái tuyên bố “vòng vo tam quốc” của Tiến sĩ
này, Giáo sư nọ về triển lãm ngay trên các báo lề phải thì cũng thấy mọi
chuyện thật là… “lợi bất cập hại”.
Đừng nói xứ ta không có dân chủ mà oan. Ở
Bắc Triều Tiên chẳng hạn, vỗ tay tỏ ra không nhiệt tình cũng đã đủ để
“chu di tam tộc”.
Nhưng chuyện gì xẩy ra nếu như Thầy vẫn cứ bắt “tái khai” cái triển lãm đang nửa đóng nửa mở ấy?
Đằng nào thì cũng một công đôi việc. Sẽ
tổ chức ra một số kẻ “đóng thế” bà con Dương Nội, gây rối ở triển lãm.
Vừa lấy đó để dẹp đám Dương Nội thật, vừa có lý do để đóng cửa vĩnh viễn
cái triển lãm hồ đồ ấy.
Cũng như đã “trừng trị” tuy không dám xử
công khai “người biểu tình” đập phá các công ty nước ngoài (mà tuyệt
nhiên Công an Việt Nam, cảnh giác cách mạng là thế, “còn đảng còn mình”
là thế, mà từ Nam ra Bắc chẳng biết gì hết trọi).
Nhưng nhờ mấy kẻ đập phá hôi của ấy mà dẹp được các cuộc biểu tình yêu nước vì biển đảo quê hương.
Thật là “một hòn đá giết hai con chim”.
D.T.Đ
2955. Cải cách ruộng đất: Lợi bất cập hại!
AFR Dân Nguyễn
12-09-2014
Thật là lợi bất cập hại… Không hiểu vì
động cơ gì và do Ban Bệ nào chủ xướng mà Triển lãm về Cải cách ruộng đất
(CCRĐ) được tổ chức tại HN; Có lẽ những người chủ trương bày đặt ra
triển lãm này là nhằm “khôi phục” lại một chính sách hợp lòng dân:
Người cày có ruộng do CCRĐ đem lại (dù rằng ngay sau đó không lâu, tất
thảy ruộng đất mà người cày có do được cách mạng chia đã bị gom ngay vào
các hợp tác xã (HTX). Thật nực cười, là thông tin chính thống hầu như
chẳng có gì để vẽ, ngoài một vài hình ảnh được bày đặt trong phòng triển
lãm, mà mục đích là cố tình tố khổ bần cố nông- đối tượng chiếm tuyệt
đại trong Dân chúng trước và sau CM, tố cáo tội ác địa chủ, và kể công
cuộc cách mạng “long trời lở đất” đem lại: Người cày có ruộng”…,trong
khi không hề đả động tới hậu quả khủng khiếp mà cuộc CCRĐ do đảng , nhà
nước cs đã gây ra .
“Sửa sai”, “xin lỗi”, thút thít… là
những thứ được đem ra để chuộc cho hàng vạn những oan hồn chết thê
thảm, chết tức tưởi, chết nhục nhã. Sửa sai mà không hề có ăn năn về lỗi
(thực ra phải gọi là tội ác) là điều khó có thể dung thứ! Vô vàn những
trường hợp được “sửa sai”, nhưng rất chậm, qua loa chiếu lệ và không hề
thỏa đáng. Bắn người cũng có chỉ tiêu! Và thật khủng khiếp, để đạt cho
được “chỉ tiêu”, nhiều cái chết được rút ra từ sự sống.
Cho rằng, về vật chất người làm sai, kẻ
gây ra tội ác có thể “sửa”; nhưng mạng sống và danh dự, nhất là những
tổn thương về tinh thần, tình cảm và đạo lý thì không một hành động “sửa
sai” nào khắc phục nổi. Chỉ có lòng tha thứ của Chúa mới có thể xoa dịu
nỗi đau…
Những kẻ gây ra cuộc tao loạn mang tên
CCRĐ, ngồi trên đỉnh cao quyền lực không dừng bàn tay tội ác ở đó. 20
năm sau CCRĐ, lúc họ đoạt được nửa nước còn lại từ tay chính quyền MN,
họ đã gây thêm một tội ác kép: đó là cuộc “cải tạo tư sản” và đưa hàng
vạn quân cán binh chế độ cũ ở MN đi “Học tập cải tạo”, mà thực chất là
bỏ tù, là trả thù…
Đối với cuộc “cải tạo tư sản”, tuy
không tàn bạo đến mức man rợ như những gì đã xảy ra trong CCRĐ, không có
xử bắn hàng loạt, nhưng đó là vụ cướp boc trắng trợn dựa vào quyền lực,
là cuộc đại phá hoại nền kinh tế một đất nước. Ở lĩnh vực văn hóa, tư
tưởng, nhiều cuộc “ Cải cách ruộng đất” cũng được tiến hành nhằm triệt
hạ những tư tưởng tiến bộ, nhằm củng cố quyền lực của cái gọi là nhà
nước của “giai cấp vô sản”.
Thật ghê sợ là 20 năm sau CCRĐ, thế giới
có biết bao sự thay đổi về nhận thức, về tư tưởng, nhưng những bộ não
làm nên cuộc CCRĐ thì vẫn không có chút thay đổi. Họ đi từ sai lầm này
tới sai lầm khác. Sai lầm này chồng lên sai lầm kia. Sai lầm sau nghiêm
trọng hơn sai lầm trước. Chính những cán bộ của chế độ (cán bộ hàng
tỉnh, thành phố) nhiều lúc ăn nhậu hay lúc du hý, hứng chí thường nói
đùa khôi hài “sai đâu sửa đấy. Sửa đâu sai đấy!)… Thật bi hài cho chế độ
“ưu việt” này… Còn mọi hệ quả thì dân đen gánh chịu…
Nhân vụ triển lãm về những hình ảnh liên
quan tới CCRĐ đang diễn ra, báo “mạng” no nê tin, bài vở. Toàn là những
dữ liệu xác thực. Đó là những hình ảnh đau thương và oan khuất tày
đình, mà những kẻ thủ ác bôi xóa tội ác chỉ bằng dăm ba lời xin lỗi
(ngay cả những lời xin lỗi cũng chưa thực tâm, chưa ăn năn). Và người ta
biết chắc một điều, cuộc triển lãm về CCRĐ cũng sớm phải đóng cửa.
Người viết những dòng này cũng ít nhiều
lưu giữ vài hình ảnh liên quan tới cái gọi là CCRĐ- một cuộc tắm máu
thật sự. ”Nhất Đội nhì giời…”. Đó là câu mà thuở nhỏ người viết thường
nghe được từ bậc sinh thành. Tuy nhiên hồi đó do còn nhỏ nên không hiểu
ý nghĩa của câu nói như một thành ngữ đó. Sau này lớn lên, tìm hiểu về
“cuộc cách mạng long trời lở đất”, biết quyền lực mà Đội được trao vào
tay, mới thấy câu nói trên “chuẩn khồng cần chỉnh”. “Cóc ngóe nhảy lên
làm người!” cũng được dùng để mô tả về “một thời đã qua”- thời của các
ông Đội được quyền bắn người.
Rồi sau này, một người bạn là cán bộ an
ninh có phẩm hàm (mà người viết vẫn thường gọi đùa là “Công an trí
thức”) cho mượn cuốn tiểu thuyết “Chuyện ba người khác” của nhà văn Tô
Hoài. Từ đầu tới cuối cuốn tiểu thuyết không đề cập gì khác ngoài một
Đội về làm công tác CCRĐ tại một làng quê. Cái thứ quyền lực như ngựa
hoang không ai kiểm soát đã tác yêu tác quái ra sao. Mấy “ông đội” (điển
hình là nhân vật Cự), văn hóa chưa qua lớp bình dân học vụ, nhưng bỗng
dưng một thứ siêu quyền lực trao vào tay. Đó là thứ quyền sinh quyền sát
mạng sống con người. Một ve thuốc lào, một lời ngọt nhạt có thể một
mạng người được tha. Và ngược lại…
Đảng đã cất nhắc họ, từ những kẻ thất
học, dốt nát, nghèo kiết xác vào vị trí của kẻ ngồi trên cao phán xét
mạng sống con người. Và nhờ có thứ quyền lực đảng trao cho cách thừa
mứa, họ- những “ông Đội” đã biết hủ hóa rất sớm. Cái Đơm, một thôn nữ
phốp pháp và lành như đọn rơm, là đồ chơi của Đội. Các nữ dân quân ngủ
đêm, Đội thích cứ việc mò vào. Đội không chỉ biết mỗi việc bắn người
theo sở thích của kẻ thất học, nhưng còn đầy mánh qué, mưu ma chước quỷ
của cán bộ cs thực thụ trong việc đấu đá, đạp đồng chí xuống để mình
vươn lên đỉnh cao quyền lực…
Một tội hình sự rất bình thường, với cái
án tối đa có thể chỉ là một vài ba năm tù, mà tòa án theo đúng nghĩa,
phải xử theo các cấp, từ sơ thẩm, tới phúc thẩm…, trong phiên tòa còn có
sự tranh tụng “nảy lửa” giữa các luật sư…rồi nghị án cách cẩn trọng của
tòa…; rồi nhân chứng, bằng chứng, rồi bị cáo còn được quyền kháng
cáo…;nhưng với cuộc cách mạng “long trời lở đất”- cuộc CCRĐ, một tòa án
nhân dân với kiến thức trẻ trâu về luật pháp của những kẻ ngồi ghế quan
tòa, lại được trao vào tay quyền uy tối thượng, được kích động và giật
gây bởi “cố vấn” nước ngoài có truyền thống sát nhân…, thì máu chảy đầu
rơi, oan khuất tày trời là điều khó tránh khỏi…
“Ôn cố tri ân” là điều nên làm; Nhưng
bảo thủ đến cùng, và bằng mọi giá lấp liếm sự thật là điều đáng lên án,
đáng đưa ra tòa công luận luận tội.
Người chết không thể sống lại.
Và những oan hồn không siêu thoát, những
hệ lụy về một xã hội bị băng hoại, đạo lý suy đồi bởi cuộc tao loạn
nồi da xáo thịt mang tên CCRĐ, là điều cần viết cho tới khi không còn
“trúc Nam Sơn” nữa…
Việt Nam 1945-1995 – Phụ Lục
Phụ Lục A: Tờ Chiếu của Vua Bảo Đại sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh
Ba ngày sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và hai ngày trước khi Việt
Minh giành được chính quyền ở Hà Nội, Vua Bảo Đại tuyên cáo với quốc
dân, xác định tư cách độc lập của Việt Nam, nhưng tiên liệu việc Pháp có
thể theo chân Đồng Minh về tái chiếm Đông Dương. Ông kêu gọi tất cả mọi
người yêu nước giúp ông lập chính phủ
mới để “đương đầu với một cuộc tái hồi ngoại thuộc. ” (Khi đó, chính
phủ Trần Trọng Kim vừa từ chức.) Trước tình hình chính trị sôi động ở
trong nước, Vua Bảo Đại đã có một lời nói lịch sử: “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”
VIỆT NAM HOÀNG ĐẾ BAN CHIẾU
Cuộc chiến tranh thế giới đã kết liễu. Lịch sử nước Việt Nam hiện tới một thời kỳ nghiêm trọng vô cùng.
Đối với dân tộc Nhật Bản, Trẫm có nhiệm vụ tuyên bố rằng: Dân tộc ta
có đủ tư cách tự trị và nhất quyết huy động tất cả lực lượng, tinh thần
và vật chất của toàn quốc để giữ vững nền độc lập cho nước nhà.
Trước tình thế quốc tế hiện thời, Trẫm muốn mau mau có nội các mới.
Trẫm thiết tha hiệu triệu những nhà ái quốc hữu danh và ẩn danh đã nỗ
lực chiến đấu cho quyền lợi dân chúng và nền độc lập nước nhà mau mau
ra giúp Trẫm để đối phó với thời cuộc. Muốn củng cố nền độc lập của nước
nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc, Trẫm sẵn sàng hi sinh về tất cả
các phương diện.
Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm.
Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hi sinh như Trẫm.
Trong sự chiến đấu mà ta cần phải đương đầu với một cuộc tái hồi
ngoại thuộc, toàn thể dân tộc Việt Nam chắc chắn ở sự đắc thắng của công
lý và nhân đạo và tin rằng chỉ một nước việt Nam độc lập mới có thể
cộng tác một cách có hiệu quả với tất cả các nước để gây dựng một nền
hòa bình vững chắc ở hoàn cầu.
Khâm thử,
Phụng ngự ký:
Bảo Đại
Ban chiếu tại Thuận Hoá ngày 10 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (Dương lịch ngày 17 tháng 8 năm 1945)
Số 181 CT Ngự tiền Văn phòng cung lục Thuận Hoá ngày 11 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (Dương lịch ngày 18 tháng 8 năm 1945)
Quan Tổng Lý
Ký tên: Phạm Khắc Hòe
———-
Phụ lục B: Tờ Chiếu Thoái Vị của Vua Bảo Đại
Ngày 25 tháng Tám, 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị để trao quyền cho chính phủ Hồ Chí Minh vừa được thành lập trước đó một ngày. Ông nhấn mạnh rằng “sự hi sinh của trẫm phải có bổ ích cho tổ quốc” Ông đưa ra ba điều mong ước cho chính phủ mới, đối với tông miếu và tăng tẩm nhà Nguyễn, đối với các đảng phái quốc gia, và đối với quốc dân, tất cả đều hướng về chủ đề “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết ”
VIỆT NAM HOÀNG ĐẾ BAN CHIẾU
• Hạnh phúc của dân Việt Nam
• Độc lập của nước Việt Nam
Muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố: Trẫm sẵn sàng hi sinh hết cả
mọi phương diện, và cũng vì phương diện ấy nên Trẫm muốn sự hi sinh của
Trẫm phải có bổ ích cho Tổ quốc.
Xét thấy điều bổ ích cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc
dân, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi rằng: trong giờ nghiêm
trọng này đoàn kết là sống, chia rẽ là chết.
Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm
cứ ngồi yên mà đợi quốc hội thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam, Bắc
phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người lợi dụng.
Cho nên, mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ đến công lao liệt thánh,
vào sinh ra tử trong gần 400 năm để mở mang giang sơn đất nước từ
Thuận-hoá tới Hà-tiên.
Mặc dầu trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong 20 năm, mới gần
gũi quốc dân được mấy tháng, chưa làm được gì ích lợi cho quốc dân như
lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển
quốc dân lại cho một chính phủ dân chủ cộng hòa.
Trong khi trao quyền cho chính phủ mới, Trẫm chỉ mong ước có ba điều này:
1. Đối với Tông Miếu và Lăng Tẩm của Liệt Thánh, chính phủ mới nên xử trí thế nào cho có sự thể.
2. Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền độc lập quốc gia
nhưng không đi sát theo phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ
lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến
thiết quốc gia và tỏ rằng chính phủ dân chủ cộng hòa nước ta đã xây đắp
ở trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân.
3. Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết cả các giai cấp, các đảng phái,
cho đến cả người Hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt
để chính phủ dân chủ, giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng
quyến luyến Trẫm và Hoàng gia mà sinh ra chia rẽ.
4. Còn về phần Trẫm, sau 20 năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao ngậm
đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước
độc lập, chứ Trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của
Trẫm hay của Hoàng gia để lung lạc quốc dân nữa.
Việt Nam độc lập muôn năm!
Dân chủ cộng hòa muôn năm!
Khâm thử
Phụng ngự ký: Bảo Đại
Ban chiếu tại lầu Kiến Trung ngày 18 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 20 (25 tháng 8 năm 1945)
Số hiệu 1871 GT
Ngự tiền văn phòng cung lục
Dấu Ngự tiền văn phòng
——-
Phụ Lục C: Qua Những Sai Lầm Trong cải Cách Ruộng Đất
XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), năm 23 tuổi đă đậu hai bằng Tiến sĩ Văn khoa và Luật khoa ở Đại học Montpellier, Pháp. Sau khi về nước, ông dạy học tại trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat). Bất
mãn vì chính sách kỳ thị của Pháp, ông bỏ nghề dạy ra mở văn phòng luật
sư. Năm 1946, ông tham dự Hội nghị Việt-Pháp tại Đà-lạt nhưng không được cử đi dự Hội nghị Fontainebleau. Ông theo chính phủ Hồ Chí Minh kháng chiến chống Pháp tới ngày ký Hiệp định Genève 1954 thì trở về Hà Nội dạy học ở trường Đại Học Văn Khoa. Với tư cách thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, L.S. Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn này trong một phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội, ngày 30 tháng Mười, 1956. Cũng nên nhắc lại rằng bài diễn văn
này được đọc sau khi Trung ương Đảng hạ lệnh chấm dứt chiến dịch Cải
cách Ruộng đất ngày 20.7.1956 và sau đó ban hành các biện pháp sửa sai.
Vì bài diễn văn này, ông Tường bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề
nghiệp và phải sống một cuộc đời vô cùng thiếu thốn. Năm 1991, nhân dịp
được phép sang Pháp, ông đưa cho nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris in và phát hành cuốn sách tự thuật “L’excommunié ”(Kẻ bị Khai trừ) năm 1992. Ông trở về Hà- Nội và mất năm 1996, thọ 87 tuổi.
Thưa các quí vị,
Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải
cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc
kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đã
trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí
thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử
nước nhà.
Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông Trường
Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi
của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai
lầm đã phạm trong công cuộc cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được
kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan,
không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến
anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với
trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết
tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn
thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc cải cách
Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh.
Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài
nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái
khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được? Nếu chúng ta
duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại thì một phần nào ta chuộc lại
được tội lỗi của ta. Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là
duy vật. Do đó, cái nỗi khổ cực của họ ta biết rõ rằng bây giờ ta không
thể nào thủ tiêu được nữa. Quyền hạn của ta không tới đó. Nhưng cái gì
ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn
thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thìa nỗi đau khổ của họ
khi họ từ trần là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa
chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân.
Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân
đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép
trình bày mấy ý kiến xây dựng. Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên
các sai lầm trong cải cách Ruộng đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này
chỉ là biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự
lãnh đạo của Đảng Lao Động. Do đó tôi xin được góp ý kiến xây dựng quan
điểm lãnh đạo của Đảng Lao Động.
Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong cải cách Ruộng
đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác
nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần
chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm,
chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm
khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao Động, với sự
mong đợi của toàn dân. Chúng ta phải kiên quyết không cho các sai lầm ấy
tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với
các người đã chết oan.
Tinh hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không? Đó
là vấn đề nhận định thôi. Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình
ấy với con mắt bi quan. Vậy sự thật khách quan như thế nào? Nhìn vào
nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến. Vì
thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp
nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng. Trong khi đập
tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê
thảm những người hoặc già cả hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu
diệt. Ta chỉ cần đọc lại các bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn trong
báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện giờ ra sao. Nhìn vào
các công xưởng, công trường, ta thấy gì? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta
thấy Chính phủ gửi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, ủy
lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đã ban ra. Nghĩa
là thế nào? Nghĩa là giai cấp công nhân đã phải lao động sản xuất hai
năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư luận đồng bào Hà
Nội thôi, ta được biết rằng có it ra một doanh nghiệp quốc gia lãng phí
bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy
mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ.
Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết.
Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu
trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao
động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến
tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá
mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật
giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể
nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch.
Về hộ khẩu thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an
ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một
đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng
cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay
đắng của đồng bào Thủ đô trong Đại hội lần thứ ba của nhân dân Hà Nội
vừa họp cách đây hai tháng.
Nói về chính sách khôi phục kinh tế, ta thấy gì? số vốn mà các nhà
công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm
việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì. Trái lại ta
thấy tất cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc
“chuyển hướng” bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài
thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến sở Lao
động vì vấn đề công nhân, với sở Công thương vì vấn đề đăng ký và nguyên
liệu sản xuất, với sở Tài chính vì thuế khoá đặc biệt. Thuế bổ xung đã
đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát. Các người
tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tụy trong phố
cũng “được” nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở
hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vài thước kiếm thêm tiền độ thân.
Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước
đây sống bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến,
chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần
uống độc dược để quyên sinh.
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không? Ta cứ trông mặt mũi,
quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh,
các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta
đủ hiểu khổ cực của họ.
Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con
cái họ ở Hà Nội, Hải Phòng, số phận chính của họ bi đát quá nỗi! Khổ cực
nhất cho các anh chị em là không nương tựa được vào một đời sống gia
đình đề khuây khỏa trong lúc thảm sầu.
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo
Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội
sau Đại hội lần thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng,
nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các vị là các vị đủ hiểu
rồi. Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ,
của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ
cực? Phải chăng vì cán bộ của chúng ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý
luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người và đòi hỏi chính
đáng của nó? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách
mạng? Các điều đó là có, ta không hề cũng không thể chối cãi được. Nhưng
nhận định như vậy vẫn còn . Ta phải đi sâu hơn nữa. Khi trong cải cách
Ruộng đất của ta, ta thấy nhiều người bị tù tội, bị giết oan, trong đó
bao nhiêu người dân ưu tú từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách
mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi
ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận
định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc cải cách Ruộng đất này chỉ là
những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy
nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn
đề lãnh đạo của Đảng Lao Động.
Do đó, tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm
trong cải cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, đề đạt mấy ý
kiến về vấn đề lãnh đạo.
I
Vấn đề Pháp lý trong cải cách Ruộng đất
Ta đã sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, ta có thể tránh
được sai lầm ấy mà vẫn bảo đảm được đường lối căn bản của cách mạng
không? Tôi giả nhời cương quyết rằng có.
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì? Ruộng phải trở về người cày.
Điều này rất đúng không ai có thể chổi cãi được. Nông dân là đại đa số
trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định
cách mạng không thể nào thành công được nếu ta không thỏa mãn nhu cầu
thiết yếu và cấp bách của nông dân. Không cần phải là một nhà chính trị
cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy. Chỉ cần nhìn lịch
sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi.
Như vậy về nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất.
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không? Nhất định là
không. Nông dân ta trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột
phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ bóc lột thực dân. Đồng bào
nông thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người. Ta cần khôi
phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông
trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ
để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền
thế ở nông thôn.
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm này, ông
Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính
quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách
sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa
làm ta đau khổ hiện thời.
Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường
chính trị. Các anh em tôi là những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn
và lý luận trên cơ sở chuyên môn thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ
khi chính sách phát động và cải cách được đề ra. Tại sao? Vì giải pháp
chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của
cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.
Ta muốn gì ? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó.
Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công
lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng,
phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu
“thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch”
thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách
mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế :
kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt
cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng.
Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn:
“Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan. ” Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì
ta
nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách
mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt
vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ : không một người oan nào bị
kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh nghiệm pháp lý của hàng
nghìn năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta có phương pháp để tìm
đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội. Tôi xin
phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lý nêu lên để
đạt mục đích ấy.
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu
rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó
giải quyết được, tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có
người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích. Hơn nữa, sở đĩ hình luật
phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm phạm vào trật tự xã hội: tác hại
cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng. Nhưng khi tội đã phạm
quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau
khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương.
Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng
kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết. Chính
xã hội thấy “quên” lợi hơn là “nhớ”.
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình
phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia
đình. Nếu trách nhiệm truơc hình luật của các người “có quan hệ” với
phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích
trong xã hội. Hơn 400 năm nay không một nước Tây phương nào làm việc đó
nữa. Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà
thôi. Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá
già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niên được chiếu cố.
Một nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người phải có bằng chứng xác
đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung
khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ,
ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được
coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và
trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lý,
sát hợp với kết quả do cuộc điều tra mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền
lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình,
và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Tòa phải
cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở
trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước tòa,
quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công
tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan.
Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử
giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét xử phải là vô
tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới
nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai
trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào
tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội.
Ngươi thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không
sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn,
tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ
bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi
ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên
tòa trên. Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm trước vị
Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố
và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước tòa thì
không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với
họ.
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một
người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật. Tác hại
cho ai thì chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi
thường thôi — của người đã tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành
hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hấn phạm một tội, nghĩa
là phạm vào một điều khoản nào qui định trong hình luật, và hình luật
không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một
người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì
ngươi ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm
một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét xem rằng
lúc phạm tội ấy bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là
vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là
phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn
giết người vô tội không? Nếu không thì không thể nào làm khác được. Hơn
nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một
người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở một cương vị
chính quyền.Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất
sáng tỏ, không những ta đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố
gắng tìm hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị
chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc cải cách ruộng đất của
ta, ta sẽ làm thế nào? Thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị
bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một
tòa án nhân dân,
đặc biệt như ta đã làm với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lý
mà ta đã biết. Trái lại, sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ
nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm
toà án nhân dân thường
lập các hồ sơ, để tòa án, với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục
điều tra, kiểm tra, lấy cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử. Ta đảm
bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật
sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố
nhân. Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt tội của nó đã phạm thôi. Ta
tin tưởng ở tòa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự
điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ
không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết
quả của cuộc thẩm vấn.
II
Các nguyên nhân sai lầm
Theo như tôi nhận định, với chủ quan của tôi, các nguyên nhân sai lầm
thuộc hai loại, có loại trực tiếp, nhưng nếu ta phân tích loại này thì
ta sẽ đi tới một loại thứ hai mà theo tôi là những nguyên nhân chính, ta
cần chú ý.
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay, sở dĩ mà khi nghiên cứu
chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lý đưa ra để điều
hòa với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải pháp
pháp lý? Nếu không thì là sự thiếu sót nghiêm trọng của cấp lãnh đạo.
Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ý đến giải
pháp pháp lý là vì ba lý do:
1. Quan điểm ta-địch, thù-bạn của ta rất mơ hồ
2. Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý
3. Ta bất chấp chuyên môn
Quan điểm bạn-thù, ta-địch mơ hồ — Các hiện tượng trên trường quốc tế và trong nước rất nhiều và rõ rệt.
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy
những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hi
sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách
mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống
giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người
ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị, người nào bị kết án
tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ
quốc ghi tên muôn đời.
Trong nước ta, qua cuộc cải cách ruộng đất ta thấy bao nhiêu các
chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy
chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường
hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình. Ấy là
không nói đến các người trong quần chúng bị hi sinh oan. Đối với các nạn
nhân này, ta có thể một phần nào hiểu các sai lầm đã phạm, vì họ thiếu
hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các
đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì
ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì mà ta gọi là lý
tính không? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn
hóa, chỉ sử dụng cái lẽ phải của mình thôi, cũng không thể nào hỗn hợp
người xấu với kẻ tốt như vậy được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ
trên xuống dưới, tham gia cải cách mộng đất, không phải là người điên
cuồng, cũng không phải là người chủ mứu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế
thì ta sẽ gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến công
tố viện của các tòa án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do
đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các các cán bộ ấy có
một quan điểm rất mơ hồ về ta-thù, bạn-địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe
“ta đánh cả ta nữa”.
Nếu như vậy thì ta cần phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và
thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các đồng chí
bị xử trí oan, hoặc các đồng chí ấy nói, hoặc không nói, nhưng ta đều
hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không
phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên
đánh cả bạn, qiết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải
chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả
khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không
phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta
nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất
mơ hồ. Nếu ta không kịp sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù
bạn, một ngày kia ta sẽ lại phải khóc trên kỷ niệm của những vị có công
nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để tình
trạng ấy tái diễn ra được.
Bất chấp pháp luật— Giáo sư Ba-lan Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư
pháp, cho ta biết rằng bên Ba-lan, khi cách mạng thành công, các nhà
chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm
nhận các cương vị lãnh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục
vụ triệt để chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của
pháp lý. Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những
không củng cố được chính thể cách mạng, ngược lại, tác hại quá nhiều gây
bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy được uốn nắn
kịp thời: hoàn cảnh khách quan đã dạy một bài học cho chủ quan các nhà
chính trị, để lãnh đạo chuyên môn phải nhập trường học tập, trước non 2
năm, sau 5 năm, để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đọan đầu tiên,
chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu —và dĩ nhiên các thắng lợi ấy
vĩ đại— lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện.
Nhưng quản trị một nước, đặc biệt một nước đang xây dựng chính quyền
cách mạng, nghĩa là một cái gì vô cùng mới mẻ và khó khăn— không giống
như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần
chúng làm cách mạng. Hai khu vực hoạt động ấy tuy quan hệ mật thiết với
nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà
chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu
của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện
thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự mãn ấy, các nhà
chính trị đã bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý và tin
rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái
lại, chính pháp lý giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là
chính trị tự đặt mình lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính
trị sau khi đặt mình lên trên pháp luật, còn giữ vững thái độ chân
chính, cũng đã gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những
cái gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững
tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi
nào quần chúng biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc
nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ gò bó quần chúng mà không gò
bó nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà
quần chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái gì hôm qua
làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền có thể bị coi là
phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái
độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà là ảnh
hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền, lúc tự đặt
mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mực, huống hồ là
khi nhà cầm quyền xử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như
ông Trường Chinh đã nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như
vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu
mà các người xử dụng quyền ấy lại không xử dụng với tinh thần chính sách
của lãnh đạo, xử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện
thời ta đã trông thấy rõ.
Bất chấp chuyên môn — Các nhà chính trị bất chấp pháp luật.
Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép
các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu
các nhà chính trị nên chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ
cách mạng.
Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái
gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta
mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường
như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó.
Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ
nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và
đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường. Vì vậy,
để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti –
của một giai cạp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách
mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những sự việc nhự sau
đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở; khi chọn một người
vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao
năm, ta chỉ hỏi : “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay,
riêng trong thủ đô Hà-nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái
ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một
bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân
thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để
nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do
B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì
chính trị
chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta
mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các
chân lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho
chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra
chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn mới là phải. Nhưng không. Chính trị
nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn
là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là
một sai lầm nghiêm trọng các người tin như vậy chưa đọc Lê-nin). Lúc thì
cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở tầng lớp cơ bản,
công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng chừng, lập trường
lỏng lẻo, dù là 10 năm nay họ đã bước chân vào đường cách mạng và chứng
minh nhiệt tình của mình đôi với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến
thiết quốc gia.
Theo ý tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng
chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ
mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng
bao nhiêu hi sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin ở họ.
Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ
đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các
cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà
chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả năng
chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ
thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do
tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức
mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Ngươi trí thức là vốn quí
của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi
thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có
ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nhìn
chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ
nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? tác dụng
“hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương
vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, ngươi trí thức có một trách
nhiệm gì không, có quyền nói gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn
tôi giả nhời.
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào? xua đuổi ngươi trí thức ra
ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh
nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì
chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm
1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên
đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công
với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến.
Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có một điều làm ta
suy nghĩ: sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu một chính sách
cho trí thức? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta
chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm
thế nào khai thác được tất cả khả năng của ngươi trí thức để họ mang
chuyên môn ra phục vụ nhân dân?
Trên đây, tôi nói về ngươi trí thức từ chiến khu trở về. Đối với
người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn
trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy
phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước đã khắc
phục mọi lo sợ do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng ta. Ta
để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm
cách nào sửa chữa sai lầm ta đã phạm đối với anh em. Ở các công sở tình
trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ
bi đát làm cho ta đau lòng:
“họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết
được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như
vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em. Ta không
hiểu rằng làm như vậy, ta bất công với các anh em, ta không tôn trọng
lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt Trận, ta đẩy các
anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn
của các anh em trí thức trong Thủ đô.
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa, ta thấy rằng sở
dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua chỉ vì
sự Lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lìa quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của
các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào, các vị đó làm được những
gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy
phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công
việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ,
công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu, Ta cũng biết rằng chủ trương
của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác,
mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận
thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng
cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù
sao có “dư luận” không ai chối cãi được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng
không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế
nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ
kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối cãi
được, là các vị Bộ bay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước Quốc
hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa
bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm
đặc biệt nghiêm trọng trong cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút
lui khỏi Hội đồng Chính phủ, Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ
ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập Hội đồng Chính phủ, vì các
vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực
tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ. hơn nữa. Mười năm Quốc hội đã thành
lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng
không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề.
Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc
chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp
của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng
10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồi. Dĩ nhiên trong
thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều không làm được. Và
hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội
cũng là khó khăn. Nhưng đù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta
chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất định ta phải cho
phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở lại, 2 năm đã qua, mãi
bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ
đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ xung Quốc hội.
Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có
thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới
họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các
báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội
tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra
đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm
của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính
phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần
chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà
thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông
qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức
cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan
nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời,
quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là
tổ chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta
có để nó đóng vai trò của nó không? Không. Tác dụng của nó là động viên
quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về
phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm
của Đảng và Chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều
thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất
của nó. Nó có thể là liên lạc “hai chiều” giữa quần chúng và Đảng, Chính
phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện
các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác, nó có thể là cơ
quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc, nguyện vọng
của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của
quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ
cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo
và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải “dân chủ”
đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói
lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định
của cấp lãnh đạo. Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy. Ta thấy
khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ thôi— những lời làm ta một phút
chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì
vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán đồng
ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân
chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho
cấp lãnh đạo.
Thiếu dân chủ là gì? Là xa rời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục
thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai
lầm nghiêm trọng như vậy được?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất
ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén
sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ 3
của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn
đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước
mắt mà trở về Hà-nội. Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh
phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn vì cách mạng?
Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại
thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân. Thế thì
đâu là chân lý? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không
giải quyết được.
Bây giờ sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, sau các
cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề,
ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại
hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua
là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lìa quần chúng, thiếu
dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh
lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tài.
Thái độ một chiều không muốn, không cho phép ai nói cái gì trái ngược ít
nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào
mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại
của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở
ta. Trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động,
quả thật con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí,
khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta
làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch. Sở
đĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thây địch, chẳng
qua là vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi. Bây giờ ta
biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời thì
trách nhiệm chính là Stalin phải chịu. Vì tự cao, tự đại, tự phụ, tự
mãn, Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy
địch. Kết quả thế nào ta đã biết: khẩu hiệu nêu lên, thét lên, gào lên
là; đề cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm
những gì, phạm tội ác như thế nào.
Nếu không có quyết nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, nếu
không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong cải cách, ta chưa mở mắt
được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao
nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau sót rời bỏ cách mạng. Tuy ta
phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau
khổ của ta:
ta thiếu dân chủ.
III
Phương hướng sửa chữa các sai lầm
Qua lịch sử tranh đấu của quần chúng hai nghìn năm nay, ta thấy cái
gì mà nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất, đó là một đời sống
vật chất tương đối đầy đủ êm ấm, đó là một đời sông tinh thần tương đối
ổn định, có đảm bảo và tự do. Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ
sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền.
Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề
dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời
là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính
đáng của nhân bản. Từ cuộc Cách mạng tư sản Hoa Kỳ cuối thế kỷ 18, Cách
mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga, quần
chúng nổi giậy, mang xương máu để dành kỳ được chế độ dân chủ. Sau cuộc
đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những thành
quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ và đặt các nước văn
minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc
dân chủ. Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ
thực hiện với những thiếu sót quan trọng. Nhưng ta có quyền ngạc nhiên
khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đã hoàn thành
cuộc Cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ 6
của Hội Quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại
Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư
bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố
trịnh trọng, tôn trọng thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân
chủ, tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dày xéo. Vì vậy trong tất cả
các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
Ớ nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như
trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố Nhưng
qua phong trào phát huy dân chủ mà Chính phủ chủ trương, qua đại hội
nhân dân thủ đô lần thứ 3, các Đại hội Mặt trận Trung ương, Mặt trận
Thành, qua thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao
động, của Chính phủ v.v., nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như Chính phủ
xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiều. Vì các thiếu sót ấy,
ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất như tôi đã
trình bày trên đây. Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể
quy kết được. Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc
nào ta cũng nơm nớp lo sợ các hành động “lộng quyền” của nhà đương cục,
là vì ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và
quyền lợi của mọi người, đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữa. Sở dĩ cấp
lãnh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng
đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín
của Đảng và Chính phủ, là vì người dân không có quyền, không có phương
tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính
phủ.
Do đó, phương hướng sửa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.
Một chế độ pháp trị chân chính — Ở đây, chưa phải lúc và chỗ
để tôi trình bàỵ ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. Ở đây,
tôi chỉ muốn trình các quí vị một nhận xét.
Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách
sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải “tăng cường chế độ pháp trị”
của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp
trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một “bà con
nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có
một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như
không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi
trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính.
Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây đựng.
Một chứng minh khác trong chính sách sửa sai trong Cải cách này, tôi
vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết bức thư của ông Hồ Viết
Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một
giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến
họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông” về ý kiến và biện pháp
ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần tôi là một nhà luật học,
tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách
nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ, Đứng trên tinh thần pháp lý sự
nhận tội lỗi của một người không đủ để qui định trách nhiệm của người
ấy. Trong cải cách, khi những đảng viên ưu tú bị đoàn cải cách gán cho
là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi biết
là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không phải là phạm
các sai lầm khác. Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính,
tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội,
Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp,
giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định,
trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách,
trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc
điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm
pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến
thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các
tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều
tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa.
Có người hỏi làm thế để làm gỉ? Tôi xin phép trả lời. Làm thế để rút
kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm
đâu. Chính trị không những lãnh đạo pháp lý —đó là đúng— nhưng vẫn lấn
át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ Viết
Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn
nữa. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản con
người văn minh. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt
gián tiếp vì các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý.
Một biện pháp chính trị xuề xoà không thỏa mãn được ai. Bằng chứng ở
nông thôn, ta được biết tình hình “căng thẳng”. Phong trào trả thù, tự
xử diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn
như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ
cần đọc lại báo nhân Dân. Tuy rằng các anh em kết thúc các bài tường
thuật lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi, nhưng các lời này
không làm ta quên được các lời phẫn uất, chua xót, cay đắng mà các anh
em nói lại với ta từ đầu bài. Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn
trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những
bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thổn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu
quạnh, các ngày cúng giỗ nhắc lại hàng năm bi kịch thê thảm đã diễn ra
trong gia đình vì cuộc cải cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được
thưởng và các người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi
người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được qui định rõ ràng,
dứt khoát. Như thế mới yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân
tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấy. Trong chính sách sửa chữa sai
lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ
công lý
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò
của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua bó buộc ta
phải xây dựng lại quan điểm “địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các
sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về
địch. Quan điểm ấy linh động quá, “biện chứng” quá, nên ta không biết
phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữa. Muốn tránh các sai lầm
hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo hình luật thế nào
là địch. Lúc đó ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng
cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì lại trật tự và an ninh ở thôn
quê, kiến thiết lại đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân ở thôn quê cũng
như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi
mọi sự đe dọa của “lộng quyền”, bênh vực các quyền căn bản và thiết yếu
của con người.
Tóm lại, nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp lý, thiết
lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng
đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định
chính trị khôi phục được uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ.
Một chế độ thực sự dân chủ — Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ?
Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không
những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa. Đây không phải là lúc,
là chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai
đoạn hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu
có một điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên
cấp lãnh đạo, ý kiến về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị
lãnh tụ đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật. Bằng chứng là
điều tôi vừa nhắc lại đây. Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một
chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có một yêu cầu mà ai cũng
phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có cái yêu cầu nhũn nhặn
ấy mà thôi? Là vì nhân dân thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với
bao khó khăn. Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có một yêu cầu, yêu cầu ấy
thiết yếu, Tôi tin rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậy. Tôi không
quên lời của ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao động tại Hội
nghị này. Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước Hội nghị rằng Trung
ương Đảng đã phạm sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng
qua báo cáo của các cán bộ đảng viên mà thôi. Ta phải nhận định rằng đây
là một sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cuộc cải cách ruộng đất của ta đã
gặp các thất bại cay đắng. Trái với lời ta thường nói, ta đã thiếu dân
chủ với nhân dân.
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữa. Tôi
xin phép Hội nghị góp một số ý kiến để chấm đứt tình trạng đó. Tôi không
đặt vấn đề dân chủ nói chung. Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất
hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý
tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba
giải pháp.
1. Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán
bộ. Đúng! không tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ
báo cáo trước trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành
sự thực với các khía cạnh của nó, với các ưu và khuyết điểm của nó, rất
tai hại. Cấp lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các
động cơ bất chính của cán bộ muốn thi đua thành tích, vưà mị dưới, vừa
lừa trên, do đó đưa ra một hình ảnh quá hẹp của thực tế, Ta phải tiến
tới giải pháp nhận định rằng người nào hữu ý xuyên tạc sự thật vì động
cơ bất chính, có thể bị truy tố về tội giả mạo được.
2. Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng mà họ tập hợp.
Từ trước tới nav, ta có thể ví Đảng Lao động như một cây rất to, lá
rừom rà che hết ánh sáng của mặt trời, khiến ngay một ngọn cỏ cũng không
mọc dưới chân nó được, Vì vậy, Quốc hội cũng như Mặt trận không thể
đóng được vai trò của mình. Ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của
ta thôi. Các vị đã thấy rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến
Mặt trận Tổ quốc, chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi
hành chính sách mà thôi. Đó là một nhiệm vụ. Nhưng dù sao chỉ có một
chiều. Ta là giây liên lạc giữa các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nếu
ngược lại, ta có quyền liên lạc giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa
là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ý kiến thắc mắc, nguyện vọng của quần
chúng, công tác của ta thế nào cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ta gắn
liền lãnh đạo và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế hơn. Tôi
xin phép đặt mỗi vị ủy viên trước trách nhiệm của mình. Chúng ta ủng hộ
Chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. Công tác của
chúng ta có hai mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về một bên được. Quần
chúng không cho phép chúng ta làm như vậy, muốn theo rõi công việc ta
làm vì chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm.
Quần chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự ủy
quyền ấy. ta xử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đòi kiểm soát ta.
Để đạt mục đích này, tôi xin phép đề nghị: một là mỗi ủy viên phải có
nhiệm vụ phản ánh lên Mặt trận ý kiến của quần chúng. Mặt trận phải có
nhiệm vụ đề đạt lên cấp lãnh đạo những phản ảnh của các ủy viên và báo
cho các vị ấy thái độ của cấp lãnh đạo giải quyết vấn đề ra sao, xử dụng
các phản ảnh ấy như thế nào. khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép
quần chúng đến bàng thính: để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt
trận làm và thái độ của các ủy viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy
không có quyền tham gia thảo luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi
hết số ghế dành cho quần chúng, và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị.
Ngoài ra, báo chí, đặc biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc, phải
phản ảnh trung thành nội dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham
luận của các vị ủy viên.
3. Một chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí — Ta
phải đề phòng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các ủy viên Mặt trận
không phản ảnh ý kiến của quần chúng. Do đó, ta thấy cần thiết phải cho
phép quần chúng nói lên tiếng nói của mình qua báo chí. Có người lo ngại
rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng thấy cần thiết có thể bị xử dụng
một cách bừa bãi. Về điều này ta phải suy nghĩ. Mối lo ngại trên đây
xuất phát từ động cơ nào? Nếu là động cơ tốt —nghĩa là do một nhiệt tình
đối với cách mạng gây ra— ta hoan nghênh. Nhưng ta cũng sẽ trả lời rằng
trong một chính thể dân chủ muốn xử đụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu
trách nhiệm của người xử đụng tự do ấy trước pháp luật. Nếu xử dụng với
tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền kêu ca gì, trái lại,
ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng một cách vô trách nhiệm, ta đã có tòa án để
nghiêm trị. Vậy ta không lo ngại. Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ
một động cơ bất chính, nhắm mục đích thủ tiêu các tự do dân chủ, thì tôi
chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các phong
trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay. Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao
giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu
đòi các tự do dân chủ.
Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại còn cung cấp
phương tiện để thực hiện các tự do ấy. Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các
báo của Chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư
nhân, ta giúp đỡ cho các báo ấy giây và mực in đầy đủ, ta lại còn quảng
cáo cho các báo ấy là đàng khác nữa. Các cơ quan tuyên truyền, báo chí
của ta không bao giờ tìm khó dễ cho các báo ấy, và khi nào các báo đó
được hàng vạn độc giả hoan nghênh, ta rất lấy làm sung sướng vì trong
thâm tâm ta, ta là những người dân chủ.
Các biện pháp tôi đề nghị trên đây đều nhằm mục đích cống hiến các
cấp lãnh đạo một nhận thức đúng và sát thực tế mà cấp lãnh đạo không có
điều kiện biết đến một cách trực tiếp. Sát với thực tế của quần chúng,
cấp lãnh đạo thông cảm với quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng,
được quần chúng tín nhiệm, ủng hộ, mến yêu.
Thưa các quý vị,
Tôi nói đã quá lâu
, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, VI
biết
rằng tôi là một người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ
của dân tộc. Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề
đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng
chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất
nước.
Luật sư NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Hà-nội, ngày 30-10-1956
—-
Phụ lục D: Thư của Tổng Thống Lyndon B. Johnson gửi Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và Thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đây là một trường hợp mà cả Hoa Kỳ và VNDCCH đều bị chê trách là đã
bỏ lỡ cơ hội hòa bình. Johnson bị trách là đã làm hỏng kế hoạch hòa bình
Wilson-Kosygin chỉ vì ông đã “đổi thì của động từ,” (xem trang 369)
nhưng Johnson đã cho thấy lý do là mỗi lần Mỹ ngưng ném bom thì việc
chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam tấp nập “như một ngày Chủ Nhật
trên xa lộ New Jersey Turnpike”
1. Nếu đọc kỹ thư trả lời của
Hồ Chí Minh thì không thấy có dấu hiệu ông phản ứng về chuyện những
chuyến thâm nhập này “sẽ ngưng” hay “đã ngưng”. Lời lẽ cứng rắn trong
thư không phản ánh con người Hồ Chí Minh vốn có tài ngoại giao, uyển
chuyển, biết nắm bắt thời cơ. Năm 1954, sau khi thắng Pháp, ông đã nhắc
tổng biên tập báo
Nhân Dân là không nên làm Pháp bị mất mặt vì
“sau chiến tranh, chúng ta còn cần Pháp giúp đỡ”. Có thể thái độ cứng
rắn này là do sự điều động của Lê Duẩn, người đã nắm thực quyền từ khi
làm Tổng Bí thư năm 1959. Hồ Chí Minh thường bị đau yếu trong mấy năm
cuối đời (ông mất năm 1969).
Ngày 8 tháng Hai 1967
Kinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Thưa Ngài,
Tôi viết cho Ngài với niềm hi vọng là cuộc chiến Việt Nam có thể chấm
đứt. Cuộc chiến này đã gây tổn thất nặng nề — về sinh mạng, về thương
tích, về tài sản và tình trạng khốn khổ của con người. Nếu chúng ta
không tìm được một giải pháp hòa bình và công chính, lịch sử sẽ nghiêm
khắc phán xét chúng ta.
Vì vậy, tôi tin rằng cả hai chúng ta đều có một nghĩa vụ nặng nề là
sốt sắng tìm kiếm con đường đưa đến hoà bình. Chính vì cần đáp ứng nghĩa
vụ đó mà tôi trực tiếp viết cho Ngài.
Từ mây năm qua, chúng tôi đã cố gắng bằng nhiều cách và qua một số
đường liên lạc chuyển đến Ngài và các cộng sự viên của Ngài điều mong
muốn của chúng tôi đạt được một giải pháp hòa bình. Vì những lý do nào
đó, những nỗ lực đó đã không đem lại kết quả nào.
Có thể là những ý nghĩ của phía chúng tôi và của phía Ngài, thái độ
của chúng tôi và của phía Ngài, đã bị bóp méo hay ngộ nhận khi chúng đi
ngang những đường liên lạc khác nhau ấy. Quả thật việc thông tin liên
lạc gián tiếp luôn luôn nguy hiểm.
Có một cách vượt qua được khó khăn này để tiến tới việc tìm kiếm một
giải pháp hòa bình. Đó là việc chúng ta thu xếp những cuộc hội đàm trực
tiếp giữa những đại diện được tin cậy trong một khung cảnh yên ổn và xa
cách mọi nguồn quảng bá. Những cuộc hội đàm này sẽ không được dùng như
một hoạt động tuyên truyền mà phải là một nỗ lực nghiêm túc để tìm kiếm
một giải pháp khả thi và có thể được cả hai bên chấp thuận.
Trong hai tuần qua, tôi có ghi nhận những điều công bố bởi các đại
diện chính phủ của Ngài, gợi ý rằng phía Ngài sẵn sàng thương thuyết
song phương trực tiếp với các đại diện của chính phủ Hoa Kỳ, với điều
kiện là chúng tôi ngưng các cuộc oanh tạc “vô điều kiện” và vô thời hạn
trên xứ sở của Ngài và cũng ngưng mọi hoạt động quân sự. Vào ngày chót,
có những giới đứng đắn và có trách nhiệm đã đoan chắc với chúng tôi một
cách gián tiếp rằng đây quả thật là đề nghị của Ngài.
Tôi xin thành thật nói rằng tôi thấy có hai khó khăn lớn trong đề
nghị của Ngài. Vì lập trường công khai của Ngài, một hành động như thế
từ phía chúng tôi sẽ không tránh khỏi gây nên sự suy đoán khắp nơi trên
thế giới rằng các cuộc thảo luận đang diễn ra, và sẽ làm phương hại đến
tính cách riêng tư và kín đáo của những cuộc thảo luận ấy. Thứ hai là se
không tránh khỏi mỗì quan ngại sâu sắc về phía chúng tôi là liệu chính
phủ của Ngài có lợi dụng hành động ấy của chúng tôi để tăng cường vị thế
quân sự của phía Ngài hay không.
Mặc dù những khó khăn đó, tôi vẫn chuẩn bị tiến đến việc chấm dứt
xung đột, xa hơn cả điều chính phủ Ngài đã đề nghị trong những lời tuyên
bố công khai hay qua những đường dây ngoại giao riêng. Tôi chuẩn bị ra
lệnh ngưng oanh tạc trên xứ sở của Ngài và ngưng gia tăng các lực lượng
quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam ngay khi tôi được cam kết là sự thâm nhập
miền Nam bằng đường bộ hay đường biển đã ngưng. Tôi tin rằng những hành
động kiềm chế này của cả hai bên sẽ khiến chúng ta có thể có những cuộc
thảo luận riêng tư và nghiêm chỉnh sớm dẫn đến hòa bình.
Tôi đưa đề nghị này cho Ngài bây giờ với một cảm nghĩ khẩn cấp rõ rệt
vì những ngày nghỉ Tết sắp tới ở Việt Nam. Nếu Ngài có thể chấp nhận đề
nghị này thì tôi không thấy có lý do gì mà nó không có hiệu lực vào
cuối những ngày nghỉ Năm Mới hay Tết. Đề nghị của tôi sẽ được thêm nhiều
sức mạnh nếu các nhà lãnh đạo quân sự của Ngài và các nhà đối tác bên
Chính phủ miền Nam Việt Nam có thể mau chóng thương thảo về một cuộc gia
hạn đình chiến ngày Tết.
về địa điểm cho những cuộc thảo luận song phương, tôi đề nghị có
nhiều nơi. Chẳng hạn, chúng ta có thể cho các đại diện của chúng ta gặp
nhau ở Mat-scơ-va là nơi đã có những cuộc tiếp xúc. Họ có thể gặp nhau ở
một nước khác như Miến Điện. Có thể Ngài đã nghĩ đến những cách thu xếp
hay địa điểm khác, tôi sẽ cố thoả thuận với đề nghị của Ngài.
Điều quan trọng là chấm dứt một cuộc xung đột đã chồng chất gánh nặng
lên hai dân tộc chúng ta, và trên hết là đân chúng miền Nam Việt Nam.
Nếu Ngài có những ý kiến gì về những điều mà tôi đề nghị, tôi rất cần
nhận được những ý kiến đó sớm chừng nào hay chừng nấy.
Trân trọng kính chào,
Lyndon B. Johnson
Ngày 15 tháng Hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời:
Kính gửi Tổng Thống Lyndon B. Johnson
Hợp Chủng Quôc Hoa Kỳ
Thưa Ngài,
Tôi nhận được thư của Ngài ngày 10 tháng Hai 1967. Đây là phúc đáp của tôi:
Việt Nam ở cách xa nước Mỹ hàng chục ngàn dặm. Dân Việt Nam chưa bao
giờ làm điều gì hại cho nước Mỹ. Nhưng trái với những lời hứa của đại
diện nước Mỹ tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Chính phủ Mỹ đã không
ngừng can thiệp vào Việt Nam; chính phủ đó đã mở một cuộc chiến tranh
xâm lược miền Nam Việt Nam và gia tăng cường độ nhằm kéo dài sự chia cắt
Việt Nam và biến Nam Việt Nam thành một tân thuộc địa và một căn cứ
quân sự của nước Mỹ. Đã hơn hai năm nay, Chính phủ Mỹ đã dùng các lực
lượng không quân và hải quân để gây chiến với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
một nước độc lập có chủ quyền.
Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác chiến tranh, tội ác chống lại hòa bình và
chõng lại loài người. Ở Nam Việt Nam, một nửa triệu binh sĩ Mỹ và chư
hầu đã sử dụng những vũ khí vô nhân đạo nhất và những phương pháp chiến
tranh dã man nhất, như bom lửa, chất độc hóa học và hơi ngạt, để tàn sát
đồng bào chúng tôi, phá hủy mùa màng và san bằng các làng mạc.
Ớ miền Bắc Việt Nam, hàng ngàn máy bay Mỹ đã trút hàng trăm ngàn tấn
bom, phá hủy các thành phố, làng mạc, nhà máy, đường xá, cầu cống, đê
điều, đập nước, và ngay cả nhà thờ, chùa chiền, nhà thương, trường học.
Trong thông điệp của Ngài, Ngài tỏ vẻ buồn phiền về những nỗi đau khổ và
tàn phá ở Việt Nam. Tôi xin hỏi Ngài: Ai đã gây ra những tội ác ghê tởm
này? Đó là binh sĩ Mỹ và chư hầu. Chính phủ Mỹ hoàn toàn chịu trách
nhiệm về tình trạng cực kỳ nghiêm trọng ở Việt Nam.
Chiến tranh xâm lược Mỹ chống nhân dân Việt Nam là một thách thức đối
với các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa, một đe dọa đối với phong trào
dân tộc độc lập vã một mối nguy cho hòa bình ở Á châu và thế giới.
Nhân dân Việt Nam yêu chuộng độc lập, tự do và hòa bình. Nhưng trước
cuộc xâm lược của Mỹ, họ đã đứng lên, đoàn kết muôn người như một. Không
sợ hi sinh và gian khổ, họ quyết tâm kháng chiến cho đến khi giành được
độc lập, tự do và hòa bình thật sự. Chính nghĩa của chúng tôi được nhân
dân toàn thế giới bày tỏ thiện cảm và ủng hộ mạnh mẽ, kể cả những thành
phần rộng lớn của nhân dân Mỹ.
Chính phủ Mỹ đã mở cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Chính phủ ấy
phải chấm dứt xâm lược. Đó là cách duy nhất để khôi phục hoà bình.
Chính phủ Mỹ phải ngưng vĩnh viễn và vô điều kiện những cuộc oanh tạc và
tất cả mọi hành động gây chiến chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rút hết
quân sĩ Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, và để cho nhân dân
Việt Nam giải quyết lấy các vấn đề của họ. Đó là nội dung căn bản của
lập trường bốn điểm của Chính phủ VNDCCH, thể hiện những nguyên tắc- căn
bản và những điều khoản dự liệu của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Việt
Nam. Đó là cơ sở của một giải pháp chính trị đúng đắn cho vấn đề Việt
Nam.
Trong thông điệp của Ngài, Ngài đề nghị những cuộc hội đàm trực tiếp
giữa VNDCCH và Hoa Kỳ. Nếu Chính phủ Mỹ thật sự muốn có những cuộc hội
đàm này, trước hết chính phủ ấy phải ngưng vô điều kiện các vụ oanh tạc
và mọi hành động gây chiến khác chống VNDCCH. Chỉ sau khi có sự chấm dứt
vô điều kiện các vụ oanh tạc và các hành động gây chiến khác của Mỹ
chống VNDCCH thì VNDCCH và nước Mỹ mới ngồi vào bàn thương thuyết và
thảo luận các vấn đề liên quan tới hai bên.
Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ chịu khuất phục trước sức mạnh, họ
sẽ không bao giờ chấp thuận thương thuyết dưới sự đe dọa của bom đạn.
Chính nghĩa của chúng tôi tuyệt đối đúng. Hi vọng rằng Chính phủ Mỹ sẽ hành động theo lý trí.
Hồ Chí Minh
——-
Phụ lục E: Quyền Tự quyết của Nhân dân miền Nam Việt Nam và Vấn đề Thống nhất hai miền Nam, Bắc
(Trích Hiệp định Paris 1973)
Hiệp định Paris, được hai bên bốn phái đoàn ký ngày
27 tháng Giêng 1973 trên ba bản riêng (Hoa Kỳ và VNDCCH ký chung một bản
nhưng VNCH và CPCMLT ký hai bản riêng), đã cho thấy điềm gở của thoả
hiệp về “hoà giải và hòa hợp dân tộc”. Giả thử hai bên miền Nam Việt Nam
đã tiên liệu được tình trạng miền Nam sau khi được miền Bắc “giải
phóng” và thật tình thi hành các điều khoản trong Hiệp định về quyền tự
quyết của nhân dân miền Nam và điều kiện thống nhất đất nước, thì chiến
tranh đã không tàn phá thêm hơn hai năm nữa, và tình hình đất nước có
thể đã đổi khác. Chính các nhà lãnh đạo ở Hà Nội, vào thời điểm của Hiệp
định Paris 1973, cũng “coi thống nhất là một tiến trình
từng bước một, ” và thời gian chuyển tiếp được phỏng định là “từ mười
đến hai mươi năm, ” như lời nhà ngoại giao miền Bắc Nguyễn Khắc Huỳnh đã
tiết lộ tại Hội nghị Việt-Mỹ năm 1997.
1
CHƯƠNG IV
VIỆC SỬ DỤNG QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM
Điều 9
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cam kết
tôn trọng những nguyên tắc sau đây về việc sử dụng quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam Việt Nam:
a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, không thể chuyển nhượng, và phải được mọi quốc gia tôn trọng.
b) Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định tương lai chính
1 Xem chương 913 , trang 361..
trị của Nam Việt Nam qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giấm sát của quốc tế.
c) Các nước ngoài không được áp đặt bất cứ một khuynh hướng hay nhân vật chính trị nào lên nhân dân miền Nam Việt Nam.
Điều 10
Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngưng chiến và duy trì
hoà bình ở miền Nam Việt Nam, giải quyết các vấn đề còn tranh cãi qua
thương thuyết, và tránh mọi xung đột vũ trang.
Điều 11
Ngay sau khi ngưng chiến, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
• thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, chấm dứt
hận thù, cấm đoán mọi hành động trả thù và kỳ thị đối với các cá nhân và
đoàn thể đã hợp tác với bên này hay bên kia;
• bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự
do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ
chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng,
tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm việc, quyền tư hữu, và quyền tự do kinh doanh.
Điều 12
a) Ngay sau khi ngưng chiến, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ tham khảo
với nhau trong tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn
nhau, và không loại trừ nhau để thành lập một Hội đồng Quốc gia Hoà giải
và Hoà hợp Dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ hoạt động
trên nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hoà hợp
Dân tộc đảm nhận nhiệm vụ, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ tham khảo việc
thành lập những hội đồng ở các cấp thấp hơn. Hai bên miền Nam Việt Nam
sẽ ký một thoả hiệp về các vấn đề nội bộ của Nam Việt Nam càng sớm càng
tốt và cố gắng hết sức để hoàn tất thoả hiệp này trong vòng chín mươi
ngày sau khi cuộc ngưng chiến có hiệu lực, đúng với nguyện vọng của nhân
dân miền Nam Việt Nam về hòa bình, độc lập và dân chủ.
b) Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc có nhiệm vụ thúc đẩy
hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định này, hoàn thành được hoà
giải và hòa hợp dân tộc và bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Hội đồng
Quốc gia Hòa hợp và Hòa giải Dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và
dân chủ được dự liệu trong Điều 9 (b) và ấn định các thủ tục và thể thức
của những cuộc tổng tuyển cử này. Những định chế do các cuộc tổng tuyển
cử này thành lập sẽ được thỏa thuận qua những cuộc tham khảo giữa hai
bên miền Nam Việt Nam. Hội đồng Quốc gia Hoà giải và Hoà hợp Dân tộc
cũng sẽ ấn định các thủ tục và thể thức của những cuộc bầu cử ở địa
phương mà hai bên miền Nam Việt Nam đã đồng ý.
Điều 13
Vấn đề quân lực ở miền Nam Việt Nam sẽ được giải quyết bởi hai bên
miền Nam Việt Nam trong tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù
hợp với tình trạng hậu chiến. Trong số những vấn đề được thảo luận bởi
hai bên miền Nam Việt Nam là những bước cắt giảm quân số và giải ngũ số
binh sĩ được cắt giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn tất việc này
càng sớm càng tốt.
Điều 14
Miền Nam Việt Nam sẽ theo đuổi một chính sách ngoại giao hòa bình và
độc lập. Miền đất này sẽ được chuẩn bị để thiết lập quan hệ với tất cả
các nước bất kể hệ thống chính trị và xã hội của các nước đó trên căn
bản tôn trọng lẫn nhau về độc lập và chủ quyền và nhận viện trợ kinh tế
và kỹ thuật từ bất cứ nước nào không có điều kiện chính trị đi kèm. Vấn
đề miền Nam Việt Nam nhận viện trợ quân sự trong tương lai sẽ thuộc thẩm
quyền của chính phủ được thành lập sau những cuộc tổng tuyển cử ở miền
Nam Việt Nam được dự liệu bởi Điều 9 (b).
CHƯƠNG V
THỐNG NHẤT VIỆT NAM VÀ QUAN HỆ GIỮA BẮC VÀ NAM VIỆT NAM
Điều 15
Vấn đề thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng đường
lối hòa bình trên căn bản thảo luận và thỏa hiệp giữa hai miền Bắc và
Nam Việt Nam, không có sự ép buộc hay sát nhập bởi bên nào, và không có
sự can thiệp của nước ngoài. Thời gian thống nhất sẽ được thỏa thuận bởi
Bắc và Nam Việt Nam.
Trong khi chờ đợi thông nhất:
a) Lằn ranh quân sự giữa hai miền ở vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và
không phải là một biên giới chính trị hay lãnh thổ, như được qui định
trong đoạn 6 của Bản Tuyên ngôn Cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954
b) Bắc và Nam Việt Nam sẽ tôn trọng Vùng Phi Quân sự ở hai bên của Lằn Ranh Quân sự Tạm thời.
c) Bắc và Nam Việt Nam sẽ mau chóng khởi sự thương thuyết để tái lập
quan hệ bình thường trên những lãnh vực khác nhau, trong số những vấn đề
được thương thuyết là những thể thức về sự đi lại của dân chúng qua Lằn
Ranh Quân sự Tạm thời.
d) Bắc và Nam Việt Nam sẽ không gia nhập bất cứ liên minh quân sự hay
khối quân sự nào và sẽ không cho phép thế lực ngoại quốc nào duy trì
căn cứ quân sự, quân sĩ, cố vấn quân sự, và nhân viên quân sự trên lãnh
thổ của mỗi bên, như đã qui định trong Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngoài những sách, báo đã lưu hành trên thị trường và một số nhân
chứng có quan hệ tới các sự kiện lịch sử trong giai đoạn 1945-1975, ba
nguồn tài liệu chính được tác giả tham khảo là:
1. Thư Viện Quốc Hội Mỹ, đặc biệt là sách báo Việt Nam tại Asian Reading Room và hai bộ
Foreign Relations of the United States, 1950- 1968 (U.S. Department of State: GPO, 1976-1998) và
The Pentagon Papers (Gravel edition, Boston: Beacon Press, 1971) tại Main Reading Room.
2. Woodrow Wilson Center, đặc biệt là
Working Paper No. 22: 77 Conversations Between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, Cold War International History Project (Virtual Archive).
3. Centre des Archives d’Outre-Mer (CAOM), đặc biệt là hồ sơ của Cao
Ủy Pháp tại Sài-gòn, đã hoặc chưa được giải mật, lưu trữ dưới ký hiệu
HCI (Haut Commissariat de France en Indochine).
Những sách hay bài viết của các tác giả liệt kê dưới đây đều là
những tài liệu có liên quan đến các đề mục trong sách nhưng không nhất
thiết là những tài liệu được trích dẫn:
Amiral Decoux.
A la Barre de l’Indochine (Paris: Pion, 1949).
Anderson, Jack. “The Washington Merry-Go-Round” column,
The Washington Post, July 21, 1967.
Bảo Đại.
Le Dragon d’Annam (Paris: Pion, 1980).
Boudarel, Georges.
Cent Fleurs Eclores dans la Nuit du Vietnam. (Paris: Éditions Jacques Bertoin, 1991).
Boudarel, Georges et Francois Caviglioli. “Comment Giap a failli perdre la bataille de Dien Bien Phu”,
Le Nouvel Observateur (Paris, 8 Avril 1983).
Bùi Diễm.
Gọng Kìm Lịch Sử (Paris: Cơ sở Xuất bản Phạm Quang Khai, 2000).
Bùi Tín.
Mây Mù Thế Kỷ (California: Đa Nguyên, 1998).
- “Về Nhân Vật Hồ Chí Minh”, tài liệu phổ biến trên internet, 30.12.2003.
Bunker, Ellsworth.
Oral History-Interview, Lịu Library.
Burchett, Wilfred G.
Vietnam: inside Story of the Guerilla War (New York International Publishers, 1958).
Buttinger, Joseph.
The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam (New York: Frederick A. Praeger, 1958).
Cao Văn Lượng (chủ biên).
Lịch sử Việt Nam 1954-1965.
Caputo, Philip.
A Rumor of War (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1978).
Césari, Laurent.
L’Indochine en Guerres 1945-1993 (Paris: Éditions Bélin, 1995).
Chaffard, Georges. “Le gouvernement nord vietnamien doit affronter à son tour le mécontentement populaire”,
Le Monde (Paris, 5.12.1956).
Chanda, Nayan.
Brother Enemy (New York: Harcourt Brace Jovanovich Publishers, 1986).
Oscar Chapuis.
A History of Vietnam: from Hong Bang tứ Tu Duc (Westport, CT:
Greenwood Press, 1995).
Chính Đạo.
Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Houston: Văn Hoá, 1996, tập A, B, C)
Cole, Allan B., ed.
Conflict in Indochina and International Repercussions: A Documentary History, 1945-1955 (Ithaca: Cornell University Press, 1956).
Cooper, Chester L.
The Lost Crusade: America in Vietnam (New York: Dodd, Mead, 1970)
Richard Critchfield.
The Long Charade: Political Subversion in the Vietnam War (New York: Harcourt, Brace and World, 1968).
De Folin, Jacques.
Indochine 1940-1’945: La Fin d’Un Rêve (Paris: Perrin, 1993).
-“Les belligérants à la table des négociations”, trong
La Guerre d’Indochine 1945-1954. (Paris: Les Dossiers Historia, Éditions Tallandier, 1990).
De Gaulle, Chartes.
Allocution prononcée à l’occasion de l’ouverture de la Conférence Brazzaville, 30 Janvier 1944.
Devillers, Philippe.
Histoire du Vietnam de 1940 à 1952 (Paris; Editions du Seuil, 1952).
-
Paris-Saigon-Hanoi: Les Archives de la Guerre, 1944-1947 (Paris: Gallimard/Julliard, 1988)
Doãn Quốc Sỹ,
Khu Rừng Lau.
Dooley, Thomas A.
Deliver Us from Evil: the Story of Vietnam’s Flight to Freedom (New York: Farrar, Straus and Cudahy, 1956)
Duiker, William J.
Ho Chi Minh (New York: Hyperion, 2000).
-
Sacred War: Nationalism and Revolution in a Divided Vietnam (New York: McGraw Hill, 1995).
Elliot, David W.P., ed.
The Third Indochina Conflict (Boulder, CO: Westview Press, 1981).
Falk, Richard, ed.,
The Vietnam War and International Law: A Symposium Sponsored by the American Society of International Law (New Jersey: Princeton University Press, 1969).
Fall, Bernard.
The Two Vietnams: A political and military analysis (New York, London: Frederick A. Praeger, 2
nd edition, 1968).
-
The Vietminh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam (Westport, Connecticut; Greenwood Press, 1975).
Fitzgerald, Françis.
Fire in the Lake (Boston: Little, Brown and Company, 1972).
Gaiduk, Ilya.
The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee, 1996).
Hammer, Ellen J.
A Death in November (New York: E.p. Dutton, 1987).
-
The Struggle for Indochina 1940-1954 (California: Stanford University Press, 1954).
Hampton, Jane. ed.
Internally Displaced People: A Global Survey (London: Earthscan Publications Ltd., 1998).
Harrison, James Pinckney.
The Endless War: Fifty Years of Struggle in Vietnam (New York: Free Press, 1982).
Hess, Gary R.
The United States’ Emergence as a Southeast Asia Power (New York: Columbia University Press, 1987).
Hilsman, Roger. “The situation and short-term prospects in South Vietnam”,
Memorandum to Secretary’ of State Dean Rusk, December
3, 1962.
Hoàng Văn Chí.
Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc (Sài-gòn; Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, 1959).
Hoàng Văn Đào.
Việt Nam Quốc Dân Đảng: Lịch sử tranh đấu cận đại,
1927-1954 (Saigon: VNQDĐ tái bản kỳ II).
Hoàng Văn Hoan.
Giọt Nước Trong Biển Cả (Portland, OR: NXB Tìm hiểu Lịch Sử, 1991).
Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh Toàn Tập (Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, 1995).
Hunt, Michael H.
The Genesis of Chinese Communist Foreign Policy (New York: Columbia University Press, 1996).
Hữu Ngọc và Nguyễn Đức Hiền (sưu tầm).
La Sơn Yên Đỗ Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1998).
Johnson, Lyndon B.
The Vantage Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1971).
Karnow, Stanley.
Vietnam: A History (New York: Viking, 1991).
Keating, Susan K. “The Draft”,
The Washington Times, 30 September 1992).
Kissinger, Henry.
Ending the Vietnam War (New York: Simon & Schuster, 2003).
-
Years of Renewal (New York; Simon & Schuster, 1999).
Lacouture, Jean.
Ho Chi Minh (New York: Penguin Books, 1969).
-
Pierre Mendès France (Paris: Editions du Seuil, 1981).
- et Philippe Devillers,
La Fin d’Une Guerre (Paris: Editions du
Seuil, 1960).
Lâm Quang Thi.
Autopsy: The Death of South Vietnam (Phoenix, AZ: Sphinx Publishing, 1986).
Langguth, A.G.
Our Vietnam (New York: Simon & Schuster, 2000).
Lansdale, Edward G.
In the Midst of Wars (New York: Harper & Row, 1972).
Lê Giản.
Những Ngày Sóng Gió (Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, tái bản năm 2000).
Lê Mậu Hãn (chủ biên).
Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, 1945-2000 (Hà Nội: NXB Giáo dục, 2001).
Lénine, V.I.
La Révolution Prolétarienne et le Renégat Kautsky (Paris, Éditions sociales, 1953).
Lewey, Guenther.
America in Vietnam (Oxford, England, 1978).
Louis, William R.
Imperialism at Bay 1941-1945: The U.S. and the Decolonisation of the British Empire (Oxford University Press, 1977).
Lữ Giang.
Những Bí ẩn Lịch sử Đàng sau Cuộc chiến Việt Nam (Cali fornia, 1998).
Mann, Robert.
A Grand Delusion: America’s Descent into Vietnam (New York: Basic Books, 2001).
Marr, David.
Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1995).
Marty, L.
Le “Việt Nam Quốc-Dân-Đảng” ou “Parti National Annamite” au Tonkin, 1927-1932 (Hanoi: Gouvernement de l’Indochine.) Documents Vol. II, 1933.
McCortnich, Thomas J.
America’s Half Century: United States Foreign Policy in the Cold War and After (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1995).
McNamara, Robert s.
Argument Without End (New York: Public Affairs, 1999).
-
In Retrospect: The Tragedy and Lessons of War (New York: Vintage Books, 1995).
Nguyễn Thế Anh. “The Formulation of the National Discourse in 1940- 45, Vietnam”,
Journal of International and Area Studies, Vol. 9, No. 1, June 2002.
Nguyễn Phú Đức.
Pourquoi les Etats-Unis ont-ils perdu la guerre? (Paris: Godefroy de Bouillon, 1996).
-
The Vietnam War, Vol. I (unpublished)
Nguyen Cao Ky with Marvin J. Wolf.
Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York; St. Martin’s Press, 2002).
Nguyễn Khắc Ngữ.
Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hoà (Montréal: Tủ sách Nghiên cứu Sử-Địa, 1979).
Nguyễn Minh cần. “Xin đừng quên nửa thế kỷ trước: Vấy máu Cải cách Ruộng đất”, phổ biến trên internet, tháng Giêng 2003.
Nguyễn Văn Trấn,
Viết cho Mẹ và Quốc hội (California: Văn Nghệ, 1995).
Ninh, Kim N.B.
A World Transformed: The Politics of Culture in Révolu~ tionary Vietnam,1945-1965 (The University of Michigan Press, 2002).
Nixon, Richard M.
No More Vietnams (New York: Arbor House, 1985).
-
RN: The Memoirs of Richard Nixon (New York: Grosset and
Dunlap, 1978).
Nye Jr., Joseph s.
Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (New York: Basic Books, 1990)
O’Connor, Rev. Patrick. “Violations of Article 14 of the Geneva Agree ment”,
Terror in Vietnam: A Record of Another Broken Pledge (Washington, D.C: National Catholic Welfare Conference, 1955).
Paterson, Thomas G. and Dennis Merrill, ed.
Major Problems in American Foreign Policy, vol. II: since 1914, 4
th edition (Lexington, MA: D.c. Health and Company, 1995).
Patti, Archimedes L.
Why Vietnam? (University of California Press, 1980). Phạm Huấn.
Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 (San Jose, CA: Phạm Huấn, 1987).
Phan Lạc Phúc.
Bè bạn gần Xa (California: Văn Nghệ Xuất Bản, 2000). Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn.
Cuộc Di cư Lịch sử tại Việt Nam (Sài-gòn, 1957).
Pike, Douglas, ed.
The Bunker Papers (Berkeley: University of California, 1990).
Porter, Gareth.
A History of Documents (New York: New American Library, 1981.
- “Vietnamese Policy and the Indochina Crisis”,
The Third Indochina Conflict, Pratt, John c.
Vietnam Voices: Perspectives on the War Years, 1941-1975 (Georgia: The University of Georgia Press, 1999).
Sainteny, Jean.
Histoire d’une Paix Manquée: Indochine 1945-1947 (Paris: Fayard, 1967).
-
“Ho Chi Minh and His Vietnam: A Personal Memoir, translated by Herma Briffault (Chicago: Cowles, 1972)
Schoenbrun, David, Av
France Goes (New York, 1957).
Schulzinger, Robert D.
A Time for War: The United States and Vietnam, 1941-1975 (New York: Oxford University Press, 1997).
Sorley, Lewis. A
Better War (San Diego: A Harvest Book, Harcourt Inc., 1999).
Summers Jr., Haưy. “Lingering Fiction About Vietnam”,
The Washington Times, 5 February, 1993.
Sutter, Valerie O’Connor.
The Indochinese Refugee Dilemma (Baton Rouge and London: Louisiana State University Press, 1990).
Taussig, H.c. “Land Reform Abuses”,
South China Morning Post (Hong Kong, 28.11.1956).
Taylor, Maxwell.
Swords and Plowbares (New York; Norton, 1972). Thành Tín.
Mặt Thật (California, Saigon Press, 1993).
Tôn Thất Đính.
20 Năm Binh Nghiệp (San Jose, CA: Tuân Báo Chẫnh Đạo xuất bản, 1998).
Trần Văn Đôn.
Our Endless War Inside Vietnam (San Rafael, CA: The Presidio Press, 1978).
Trần Trọng Kim.
Một Cơn Gió Bụi (Sài-gòn: Vĩnh Sơn, 1969).
-
Nho Giáo (California: Cơ sở Đại Nam tái bản, Tập I, không đề năm).
Trần Thục Nga (chủ biên).
Lịch sử Việt Nam (Hà Nội: NXB Giáo Dục, 1991).
Trần Ph\ương. “The Land Reform”,
Vietnamese studies: Pages of History 1945-1954 (Hanoi: 1966).
Trần Quang Vinh.
Hồi Ký Trần Quang Vinh và Lịch sử Quân đội Cao Đài (Washington, D.Cư Thánh Thất vùng Hoa Thịnh Đôn tái bản, 1997).
Trịnh Đình Khải.
Décolonisation du Vietnam:
Un Avocat Témoigne (Paris: L’Harmattan, 1994).
Trương NhưTảng.
A Viet Cong Memoir (New York: Vintage Books, 1986).
Tucker, Spencer c., ed.
The Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Oxford University Press, 2000).
Vũ Thư Hiên.
Đêm Giữa Ban Ngày (California: Văn Nghệ, 1977).
Võ Nguyên Giáp.
Đường tới Điện Biên Phủ (Hà Nội: NXB Quân Đội Nhân Dân, 1999).
-
Điện Biên Phủ: Điểm hẹn Lịch sử (Hà Nội: NXB Quân Đội Nhân Dân, 2000).
Zhai, Qiang.
China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: The North Carolina University Press, 2000).
Người Việt lạc quan và những số 9 'trong mơ'
-Để có niềm lạc quan vững bền dựa trên những thành tích thực sự của
nền kinh tế, phải chăng chúng ta hãy bắt đầu từ những con số 1 thực tế,
thay vì từ những con số 9 đẹp đẽ nhưng xa vời?
Nhanh hơn, cao hơn, xa hơn và sánh vai các cường quốc năm châu là
những gì người VN mơ ước. Thế nên lắm khi chúng ta thường hân hoan trước
những cái nhất "quả đất" rồi nuôi niềm lạc quan và hy vọng. Nhưng sự
thực thì sao?
Con số vàng 9999
Chẳng thế mà năm 2011, Việt từng dẫn đầu danh sách các quốc gia lạc
quan nhất thế giới. Từ đó đến nay, tuy chưa được xếp hạng nhất thêm lần
nào nữa nhưng ta vẫn có nhiều cơ sở để duy trì... lạc quan. Một trùng
hợp thú vị là khá nhiều con số dẫn đến cơ sở lạc quan đều liên quan đến
số 9, con số may mắn và lạc phúc theo quan niệm phương Đông.
Ví dụ đầu tiên là tỷ lệ thất nghiệp ở VN hiện đứng hàng thấp nhất thế
giới với 1,84% theo công bố mới nhất từ Viện Khoa học Lao động và xã
hội (Bộ LĐTBXH) trong quý 2/2014. Con số này được coi là thấp nhất trong
vòng một năm qua và Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ thất
nghiệp thấp nhất thế giới. Theo số này thì tức là có đến
98,16% dân ta trong độ tuổi lao động có việc làm.
Tiếp đến, nền hành chính công của Việt Nam được coi là có những
chuyển biến mà các quốc gia khác phải gờm. Bởi theo công bố ngày 20/8
của Bộ Nội vụ và WB thì hơn 80% số người dân tham gia khảo sát tại Phú
Thọ, Thanh Hóa và Bình Định đã bày tỏ sự hài lòng với dịch vụ hành chính
công. Như vậy chỉ có vẻn vẹn 20% không hài lòng.
Một cuộc khảo sát tương tự diễn ra ở TP.HCM gần đây cũng cho thấy 99%
người dân hài lòng với các dịch vụ hành chính công liên quan đến giao
thông công chính, 90% liên quan đến tài nguyên môi trường, 94,3% liên
quan đến nông nghiệp và phát triển nông thôn và riêng các dịch vụ liên
quan đến LĐTBXH thì 100%. Đúng là... mười phân vẹn mười.
Trước đó, vào tháng 9/2013, theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ tổng hợp từ báo
cáo của các địa phương trong cả nước thì ở VN chỉ có 1% số công chức
không hoàn thành nhiệm vụ. Tức là 99% đã hoàn thành và hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao.
Quả là những số đẹp, quá đẹp, toàn là đầu 9 và thậm chí là hai hay ba số 9 cả.
Nhưng đẹp nhất, như trong mơ có lẽ là con số của ngành giáo dục. Bộ
Giáo dục hồi tháng 6/2014 công bố tỷ lệ học sinh tốt nghiệp PTTH của
Việt Nam là 99,02%. Con số của năm 2013 có kém cạnh một chút là 98,97%.
Năm nay sẽ có thay đổi trong kỳ thi tốt nghiệp và kỳ thi đại học, nên
chưa biết con số kết quả hết năm học 2014-2015 ra sao. Chứ cứ như đà
"phương trưởng" cũ thì khả năng cao là sẽ vượt khỏi con số 99,9% để đi
đến 100%, tức cũng lại "mười phân vẹn mười".
|
Ảnh minh họa |
Điều quan trọng là người dân, và ngay cả các nhà quản lý, chỉ sau vài
phân tích nhỏ hẳn cũng đều băn khoăn hoài nghi những con số đẹp đẽ này.
Ví như tỷ lệ thất nghiệp 1,84% vừa công bố. Trong khi Tổ chức Lao
động quốc tế cũng cho biết năng suất lao động ở VN đang rơi vào mức thấp
nhất của châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, năng suất lao động của VN
chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia và 2/5 so với Thái Lan. Tổng cục
Thống kê cũng cho biết trong vòng 8 tháng đầu năm 2014, VN có đến 44.500
doanh nghiệp bị giải thể hoặc tạm ngưng hoạt động, tăng 12,9% so cùng
kỳ năm trước.
Con số báo cáo thì chỉ có 1% số công chức không hoàn thành nhiệm vụ.
Trong khi chính Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng chỉ ra: "Trong bộ
máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc
theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về".
Rõ ràng khoảng cách từ các con số vàng mười này đến thực tế là khá
xa. Thế nên, để duy trì tinh thần lạc quan nếu chỉ dựa vào các con số đã
được công bố trên bề mặt quả là một thử thách vô cùng gian nan.
Đổi số 1 lấy số 9
Tuy nhiên, để "bộ sưu tập" số 9 đầy đủ, cũng cần bổ sung những con số 9 gây đau đầu.
Báo cáo VN 2030 mà Chính phủ VN cùng thực hiện với Ngân hàng thế giới
vừa được công bố cho thấy, để có thể theo kịp nền kinh tế như Hàn Quốc,
Đài Loan (TQ), Việt Nam đang cần tăng trưởng 9% liên tục trong vòng 20
năm.
Trong khi đó, báo cáo đề dẫn của WB tại cuộc họp công bố cho thấy, 20
năm qua kinh tế Việt Nam tăng trưởng trung bình 5,7%/năm, cao thứ hai
thế giới. Trong trường hợp chỉ tăng trưởng trung bình 5-6%/năm, Việt Nam
sẽ nằm trong bẫy thu nhập trung bình.
Điều đáng nói là muốn đạt con số 9 % tăng trưởng /năm, một con số
thực sự nằm trong mơ, thì VN sẽ phải cải cách, cải tiến rất mạnh mẽ,
quyết liệt, trong đó có cả việc đưa lại những số thống kê ảo, thống kê
để báo cáo thành tích trở về con số thực.
Và thay vì những số 9 mơ hồ, ta chỉ cần các số 1 nhưng hiệu quả. Theo
ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương thì
"Cắt giảm được 1 ngày làm thủ tục cho xuất nhập khẩu sẽ tiết giảm được
chi phí xuất nhập khẩu tương đương 1% tổng kim ngạch. Như vậy, tính ra
nếu năm nay tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam khoảng 300 tỷ
USD, nếu giảm được 1 ngày làm thủ tục đối với hoạt động xuất nhập khẩu
thì cả xã hội tiết giảm được 3 tỷ USD chi phí".
Thứ trưởng Bộ Tài chính, ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho hay những chi phí
cả xã hội, mà chủ yếu là các DN phải chịu do kéo dài thời gian thực hiện
các thủ tục một cách không cần thiết, trung bình vào khoảng 0,8 - 0,9%
GDP. Như vậy, nếu GDP của cả nước năm nay đạt khoảng 164 tỷ USD thì
những chi phí tương đương mà DN phải chịu là gần 1,5 tỷ USD! Chỉ cần
tiết kiệm được khoản vô lý chưa đến 1% GDP này ta đã có thêm biết bao
nhiêu tiền của cho xã hội.
Còn theo ông Olin MacGill, chuyên gia quốc tế về phát triển môi
trường kinh doanh của Dự án quản trị Nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện
(GIG), một công ty mới thành lập tại Việt Nam có thế tiết kiệm được
khoảng 1,1 triệu USD/năm nếu các cơ quan quản lý cắt giảm được số giờ
thực hiện các thủ tục đăng ký và thành lập DN.
Như vậy, để có niềm tin và niềm lạc quan lâu bền dựa trên những thành
tích thực sự của nền kinh tế, phải chăng chúng ta hãy bắt đầu từ những
con số 1 thực tế thay vì từ những con số 9 đẹp đẽ nhưng xa vời?
Nguyễn Anh Thi
2952. Bắt mạch Hiến… nháp
Hoàng Xuân Phú
10-09-2014
Cuối tháng 3 năm 2013 dân cư mạng bỗng xôn xao về việc Báo Điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), báo Nhân dân (Cơ quan Trung ương của
ĐCSVN), trang VOV Online (Đài Tiếng nói Việt Nam) cùng nhiều báo chí và
trang mạng
“lề phải”, như Tiền phong, Tuổi trẻ, Văn nghệ Quân đội, Vietnamnet… đồng loạt viết
“Hiếp pháp” thay cho “Hiến Pháp”. Trước đó, ngày 22 tháng 11 năm 2011, Văn phòng Chính phủ cũng gửi công văn số 8298/VPCP-PL
“V/v thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng về cuộc họp trực tuyến tổng kết Hiếp pháp”.
Trong hoàn cảnh Nhân dân bị áp đặt một bản Hiến pháp trái với nguyện
vọng và có hại cho phía dân, lại tạo điều kiện dễ dãi cho bộ máy thống
trị, thì cách chơi chữ này quả là ý nhị và thâm thúy.
Trên bàn phím thông thường, hai phím
“N” và
“P” nằm cách xa nhau, vì vậy khó mà vô tình gõ nhầm. Chẳng hiểu nguyên do thực sự là gì, nhưng việc họ thay chữ cái
“N” bằng
“P” gợi ra cách làm ngược lại, là thay
“P” bằng
“N” nhằm tạo ra từ
“Hiến… nháp“, để gọi tắt
bản Hiến pháp đã được Quốc hội khóa XIII long trọng thông qua vào ngày 28/11/2013, khi
chất lượng của nó mới đạt tầm bản nháp.
Hai bài
“Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?” và
“Hiến pháp vi hiến” đã góp phần làm sáng tỏ nhận định
“… mới đạt tầm bản nháp”.
Bài này bổ sung thêm một số chứng cứ. Hy vọng chúng sẽ có ích, giúp các
đại biểu Quốc hội hiểu rõ hơn cái sản phẩm mà họ đã nhất trí chọn làm
Hiến pháp, và cũng giúp các cử tri hiểu rõ hơn năng lực của những người
mà họ đã bầu làm đại biểu cho mình.
Một ngày không xa, chắc chắn Hiến pháp sẽ được sửa chữa lần nữa, hoặc
được viết lại từ đầu. Hy vọng những người sẽ tham gia vào công việc
trọng đại ấy đọc kỹ mấy bài viết này, để rút kinh nghiệm mà khắc phục
một số chứng bệnh kinh niên, thường mắc phải trong các Hiến pháp của chế
độ đương thời.
Để dễ theo dõi, bài này được cấu trúc theo kiểu phân loại
“chứng bệnh” mắc phải. Đó là các chứng
“tất định” (phần 1),
“lắm lời” (phần 2),
“ít chữ” (phần 3),
“tuyên giáo” (phần 4),
“lan man” (phần 5),
“đại ngôn” (phần 6),
“bất chấp” (phần 7), và
“vu vơ” (phần 8).
Bài này khá dài. Chẳng phải vì người viết quá tham lam, ôm đồm, không biết chọn lọc, mà do
tâm lý “dọn vườn”:
Đã phải xắn tay lên dọn cỏ, thì chẳng nỡ dừng tay khi mảnh vườn vẫn còn um tùm cỏ dại.
Dù đã cố gắng chọn cách trình bày, nhưng bài viết không tránh khỏi rời
rạc, khô khan, vì phải đề cập đến nhiều nội dung tẻ nhạt. Mong bạn đọc
dành thời gian và kiên trì đọc đến cuối, đặc biệt là những người quan
tâm, muốn hiểu rõ hơn thực trạng của bản Hiến pháp đang chi phối cuộc
sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam.
- Chứng “Tất định”
Trên đỉnh cao quyền lực, các nhà độc tài dễ mắc chứng
“tứ tưởng“:
Tưởng quyền lực của mình vô biên, bao trùm thiên hạ, và
tưởng dân chúng thuộc quyền sở hữu của họ, nên luôn phải ngoan ngoãn, tuân thủ vô điều kiện mọi mệnh lệnh mà họ ban ra.
Tưởng trí tuệ của mình cao ngất trời, và
tưởng hiểu biết của dân chúng chỉ thấp lè tè ngọn cỏ. Do đó,
làm người thế nào,
sử dụng quyền con người ra sao, thì muôn dân đều phải đợi nhà cầm quyền cho phép và hướng dẫn thực hiện. Cũng vì vậy nên nhiễm phải chứng
“tất định“, nghiện đem
tất cả mọi thứ ra để quy
định hay
định nghĩa, rồi coi đó là chuẩn mực, khuôn phép, và áp đặt lên toàn dân. Buồn thay, chuẩn mực mà thường phi lý, cứ sai hoài sai mãi…
1.1.
Một biểu hiện của
chứng hoang tưởng quyền lực, coi thường người dân, là không chịu thừa nhận quyền con người thuộc phạm trù đương nhiên, như sự tồn tại của con người, mà
coi quyền con người là thứ do thế lực cầm quyền ban cho dân chúng. Ban cho bao nhiêu thì dân chúng chỉ được hưởng bấy nhiêu, không được đòi hỏi hay thắc mắc. Có điều, giữa thời buổi nhãn hiệu
“nhà nước pháp quyền” đã trở thành mốt, thì sự ban phát tùy ý được hợp pháp hóa thông qua thủ thuật hiến định.
Trong các Hiến pháp của chế độ này, từ
“quyền con người” xuất hiện lần đầu tiên và chỉ đúng một lần tại
Hiến pháp 1992, nhưng không phải để thừa nhận, mà để phủ định:
“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.” (Điều 50)
Nghĩa là
“các quyền con người” không được thừa nhận như giá trị phổ cập, mà
chỉ được “thể hiện ở các quyền công dân”, và chúng cũng
chỉ “được quy định trong Hiến pháp và luật”.
Sang
Hiến pháp 2013, từ
“quyền con người” xuất hiện 9 lần, không còn bị đồng nghĩa mà được song hành với
“quyền công dân”, nhưng cả hai đều không thoát nổi số phận
chỉ “được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật”:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” (Khoản 1 Điều 14)
Vậy là cả những quyền con người hiển nhiên cũng không được thừa nhận, nếu không vượt qua
“cửa ải hiến định”. Điều đó cho thấy chứng
“tất định” giống như một thứ bệnh ung thư đã di căn, tác động xấu tới cuộc sống của mọi người dân.
1.2.
Một căn nguyên khác của chứng
“tất định” là bệnh
ấu trĩ nghề nghiệp trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. Ấy là tưởng rằng
quy định càng kỹ, càng cụ thể thì càng chặt chẽ, càng ít bị lợi dụng.
Nhưng cuộc sống quá bao la, đến mức không một tấm lưới pháp lý nào có
thể bao trùm hết mọi hoàn cảnh thực tế, nên càng cố căng ra để phủ thì
càng sơ hở, rồi kéo căng quá thì rách cả lưới.
Khi sa đà vào cụ thể,
thì cũng đánh mất tính tổng quát, nên có thể trở nên sai hoặc để sót
nhiều trường hợp, và đôi khi còn dễ bị lợi dụng hơn. Chẳng hạn,
Điều 153 Bộ luật hình sự số 15/1999/AH10 quy định về
“Tội buôn lậu”, nhưng chỉ đề cập đến hành vi
“buôn bán trái phép qua biên giới“. Khi đã viết cụ thể
“qua biên giới”, thì không thể coi
“buôn bán trái phép” trong nội địa Việt Nam là phạm
“tội buôn lậu” (theo Điều 153) nữa. Vậy thì cứ việc
“buôn bán trái phép”, nhưng tránh vượt
“qua biên giới” là thoát được tội này, mặc dù
buôn bán hàng cấm hoặc hàng trốn thuế (kể cả trong nội địa) thường được coi là “buôn lậu”.
1.3.
Khi đã nghiện quy định, nghiện định nghĩa, cố định nghĩa cả những thứ
không cần định nghĩa, hay không thể định nghĩa chính xác, thì khó tránh
khỏi những kết quả ngây ngô. Ví dụ đơn giản là Khoản 1
Điều 13 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
“Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.”
Có thể rút ra điều gì từ đây? Khi đã viết cụ thể là
“hình chữ nhật”,
“chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”, và
“ở giữa có ngôi sao”, thì có nghĩa các nhà lập hiến rất chú trọng chi tiết và tính chính xác, đặc biệt là coi trọng
hình dáng,
tỷ lệ kích thước và
vị trí của ngôi sao.
Do đó, khi đã quy định tỉ mỉ như thế, thì tỷ lệ nào không được nhắc tới
có thể coi là không quan trọng và có thể chọn tùy ý. Chẳng hạn, nếu
“hình chữ nhật” (với
“chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”) to bằng mặt bàn và
“ở giữa có ngôi sao”… nhỏ xíu như con ruồi,
thì vẫn phù hợp với mọi tiêu chuẩn được quy định chi tiết trong Hiến
pháp. Nhưng có thể coi cái thứ hợp hiến ấy là Quốc kỳ của nước CHXHCN
Việt Nam hay không? Cũng theo tiêu chuẩn
hình dáng,
tỷ lệ kích thước và
vị trí của ngôi sao đã được hiến định, thử hỏi có thể chấp nhận các biến tướng của Quốc kỳ như trong
Ảnh 1,
Ảnh 2 và
Ảnh 3 hay không? Có cần phải xử lý các tổ chức và cá nhân đã vi phạm Hiến pháp thông qua hành vi xuyên tạc Quốc kỳ hay không?
Ảnh 1: Quốc kỳ hình chữ nhật, nhưng tỷ lệ kích thước sai, với ngôi sao bị búa liềm chèn dạt sang một phía (Nguồn: Internet)
Ảnh 2: Quốc kỳ hình… thang lõm một cạnh, với ngôi sao theo búa liềm phiêu bạt lên trên (Nguồn: Internet)
Ảnh 3: Quốc kỳ hình… méo – Không phải do gió bay, vì ngôi sao vẫn ngay ngắn, không bị méo theo nền cờ (Nguồn: Internet
1.4.
Khoản 2
Điều 13 Hiến pháp 2013 viết như sau:
“Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn,
nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở
dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ ‘Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam’.”
Tức Quốc huy phải là
“hình tròn”, nghĩa là
hình phẳng, được giới hạn bởi một đường biên có khoảng cách không đổi (được gọi là
bán kính)
so với một điểm cố định (được gọi là
tâm). Xin hỏi: Trong hai hình ở
Ảnh 4 và
Ảnh 5, cái nào giống
“hình tròn” hơn? Trong số những người đã học xong chương trình giáo dục tiểu học (được hiến định
“là bắt buộc” tại
Điều 61 Hiến pháp 2013), ai dám nói rằng cái hình chỗ lồi chỗ lõm trong
Ảnh 5 là
“hình tròn”? Ấy vậy mà Hiến pháp lại gọi nó là
“hình tròn”, và
486 đại biểu Quốc hội đã bấm nút “tán thành”, chỉ có 2 người bỏ phiếu trắng, không có ai phản đối.
Ảnh 4: Quốc huy hình tròn?
|
|
Vốn dĩ,
Hiến pháp 1946 không hề hiến định Quốc kỳ và Quốc huy.
Hiến pháp 1959 bắt đầu hiến định chúng, đã quy định
“Quốc huy… hình tròn”, nhưng không đề cập đến hình dáng và tỷ lệ kích thước của Quốc kỳ, mà chỉ viết
“ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.
Hiến pháp 1980 bổ sung thêm quy định
“Quốc kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”. Sau đó, nội dung hiến định
“Quốc kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài… ở giữa có ngôi sao” và
“Quốc huy… hình tròn” được tiếp tục duy trì trong
Hiến pháp 1992 và
Hiến pháp 2013. Như vậy,
suốt hơn nửa thế kỷ, cả 13 khóa Quốc hội đều “kiên định lập trường” cho rằng Quốc huy như trong Ảnh 5 là “hình tròn”.
Nội dung đơn giản như vậy mà còn hiến định sai, thì sao
có thể hiến định đúng những vấn đề phức tạp? Lỗi sơ đẳng, hiển nhiên như
vậy mà còn không nhận ra, thì sao có thể phát hiện nổi những sai sót
không tầm thường trong Hiến pháp?
Hiến pháp Mỹ không đề cập đến
Quốc kỳ và
Quốc huy.
Hiến pháp Đức cũng không nhắc đến
Quốc huy, và chỉ viết gỏn gọn về
Quốc kỳ như sau:
“Cờ Liên bang là Đen-Đỏ-Vàng.” (Nghĩa là chỉ nhắc đến
bộ màu Đen-Đỏ-Vàng, thường được dùng làm tên để gọi Quốc kỳ CHLB Đức, chứ không đưa ra
quy định mang tính định nghĩa về Quốc kỳ.) Thế nhưng sự
“thiếu vắng”
ấy không hề cản trở hai quốc gia đó phát triển, trở thành cường quốc
hàng đầu thế giới. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến Việt Nam phải làm
khác đi, cố hiến định một cách chi tiết về Quốc kỳ và Quốc huy, để rồi
lại tạo ra sản phẩm ngây ngô như vậy?
1.5.
Điều 17 Hiến pháp 2013 định nghĩa:
“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.”
Ấy là tiếp tục duy trì truyền thống hiến định tại
Điều 53 Hiến pháp 1980 và
Điều 49 Hiến pháp 1992. Với bản năng
“tất định”, đương nhiên đặt ra câu hỏi:
Vậy “người có quốc tịch Việt Nam” là ai? Khoản 1
Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam (Số 24/2008/QH12) cho câu trả lời… ngược lại:
“Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam.”
Sử dụng quy tắc bắc cầu cho cặp mệnh đề trên, ta thu được
“chân lý”:
“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân Việt Nam.”
Chỉ
“luận quẩn” những thứ hiển nhiên, để rồi tòi ra đặc sản
“đèn cù” như vậy, thì có nhất thiết phải viết vào Hiến pháp và luật hay không?
- Chứng “Lắm lời”
Lời nói đầu của
Hiến pháp Mỹ chỉ vẻn vẹn 52 chữ và của
Hiến pháp Đức chỉ có 79 chữ. Còn ở Việt Nam, Lời nói đầu của
Hiến pháp 1959 dài 1276 chữ, của
Hiến pháp 1980 dài 1706 chữ và của
Hiến pháp 1992
dài 532 chữ. Nghĩa là dài, rất dài, nhưng càng dài thì càng… sai, nên
chưa đầy 70 năm đã phải trải qua 5 đời Hiến pháp. Có lẽ nhận thức được
phần nào hạn chế ấy, nên Lời nói đầu của
Hiến pháp 2013 đã được viết gọn hơn, chỉ còn 290 chữ. Tiến bộ ấy dễ nhận thấy, song không có nghĩa là Hiến pháp đã khắc phục xong chứng
“lắm lời”. Sau đây là mấy ví dụ về biểu hiện của hội chứng đó trong Hiến pháp 2013.
2.1.
“Công đoàn Việt Nam… là… tổ chức chính trị – xã hội được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của thành viên” – Nội dung này được hiến định đến hai lần. Lần thứ nhất tại
Điều 9:
“Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ
chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình…”
Lần thứ hai sát ngay sau đó, tại
Điều 10, với từ
“người lao động” thay cho từ
“thành viên”:
“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…”
2.2.
“Cơ quan… cán bộ, công chức, viên chức phải… chống tham nhũng, lãng phí” – Cái này được quy định tại
Điều 8:
“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải
tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”
Không nhất thiết phải viết ở đó như vậy, vì nội dung
“Cơ quan… cá nhân phải… chống lãng phí… chống tham nhũng” cũng xuất hiện trong
Điều 56:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế – xã hội và quản lý nhà nước.”
Chẳng nhẽ phải đề cập hai lần, vì Quốc hội cho rằng
“các cơ quan nhà nước” không phải là
“cơ quan”, và
“cán bộ, công chức, viên chức” không phải là
“cá nhân”, hay sao?
2.3.
Đặc biệt, chỉ trong nội bộ
Điều 58 mà ý
“Nhà nước, xã hội… bảo vệ, chăm sóc sức khỏe…” đã được viết hai lần:
“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân,
thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức
khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng
có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.”
Chẳng nhẽ phải viết hai lần vì Quốc hội cho rằng
“người mẹ, trẻ em” không thuộc vào
“Nhân dân”?
2.4.
Và đây nữa, cùng trong
Điều 15, Khoản 2 đã quy định:
“Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.”
Vậy mà Khoản 4 còn viết:
“Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”
Chẳng nhẽ, Quốc hội cho rằng, mặc dù đã
“tôn trọng quyền của người khác” theo Khoản 2, nhưng vẫn có thể
“xâm phạm quyền của người khác”, nên phải dùng Khoản 4 để quy định
“không được xâm phạm quyền của người khác”, hay sao? (Xem
Phụ lục I.)
Nếu cho rằng Khoản 4
Điều 15 là cần thiết, thì tại sao không bổ sung thêm vào
Điều 4 Hiến pháp 2013 Khoản 4 với nội dung tương tự? Cụ thể như sau:
“Việc thực hiện quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội không được xâm phạm lợi ích Quốc gia, Dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.”
Thậm chí, nên viết thêm rằng:
“Nghiêm cấm việc đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích Dân tộc, vì quyền lợi của đảng mà hy sinh quyền lợi Quốc gia.“
Thực tế chỉ ra rằng:
Hiến định như vậy không thừa, mà còn hết sức cần thiết.
- Chứng “Ít chữ”
Phải chăng đã quen
“lắm lời” thì hiến định cái gì cũng kỹ lưỡng? Không, trái lại, khi đã tốn
“lắm lời” cho những chuyện không đâu, thì chỉ còn lại
“ít chữ” cho những điều cần thiết.
Hiến pháp 2013 quy định (tại Điều 25):
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định.”
Vẻn vẹn 33 chữ cho 3 nhóm quyền tự do quan trọng:
Tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin;
tự do tụ họp và biểu tình;
tự do lập hội.
Vốn dĩ, vào thuở sơ khai của trình độ lập hiến,
Hiến pháp 1946 (Điều 10) chỉ dành 21 chữ cho 3 nhóm quyền này, dưới hình thức
“khoán trắng”, nghĩa là không kèm theo bất kỳ cam kết hay ràng buộc nào cả. Sau đó,
Hiến pháp 1959 (Điều 25) tăng lên thành 44 chữ, chủ yếu vì bổ sung thêm cam kết:
“Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”
Sang đời thứ ba,
Hiến pháp 1980 (Điều 67) sử dụng số chữ kỷ lục là 79, do bổ sung tiếp hai ràng buộc
“… phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân”
và
“Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.”
Đến đời thứ tư,
Hiến pháp 1992 (Điều 69) rút xuống còn 31 chữ, trong đó bỏ hẳn cam kết
“Nhà nước bảo đảm bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”, và thay điều kiện
“phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân” bằng ràng buộc
“theo quy định của pháp luật”.
Việc hủy bỏ cam kết
“Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó”, vốn tồn tại trong
Điều 67 Hiến pháp 1980 và
Điều 25 Hiến pháp 1959, không chỉ đơn thuần là khước từ trách nhiệm của nhà cầm quyền, mà còn thể hiện
quyết tâm không cho “công dân sử dụng các quyền đó”. Chính vì mưu đồ vi hiến ấy, mà họ đã dựng lên trong
Điều 69 Hiến pháp 1992 rào cản
“… theo quy định của pháp luật”,
rồi cố tình trì hoãn, dứt khoát không chịu ban hành văn bản pháp luật
quy định việc thực hiện, để công dân không thể thực thi các quyền tự do.
Sau khi nhận ra rào cản ấy không đủ kín về mặt pháp lý, họ đã thay thế
nó trong
Điều 25 Hiến pháp 2013 bằng bức tường thành kiên cố hơn:
“Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tiếc thay, đi lạc nước cờ lập hiến nên lâm vào ngõ cụt, như phân tích trong bài
“Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”.
Dân gian dùng từ
“xin đểu” để chỉ kiểu
“giả vờ xin, nhưng thực chất là ngang ngược ép buộc người khác phải cho”. Phải chăng, tương tự như vậy, từ
“cho đểu” cũng phù hợp với kiểu
“giả vờ cho, nhưng thực chất là ngang ngược cản cấm người khác nhận”?
Cũng chính vì ý đồ không cho
“công dân sử dụng các quyền đó”,
nên mấy quyền tự do được hiến định một cách đơn giản, mang tính chiếu
lệ, và chỉ sử dụng ít chữ. Để hiểu hơn bản chất này, ta hãy so sánh với
hiến pháp của vài nước khác.
Hiến pháp Mỹ (Tu chính I, bổ sung vào năm 1791) quy định:
“Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, hoặc quyền tự do báo chí, hoặc quyền của người dân tụ họp (assemble) một cách hòa bình (peaceably) và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.”
Như vậy, Hiến pháp Mỹ cũng chỉ dùng ít chữ để hiến định các quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí và
tự do tụ họp. Không phải vì các nhà lập hiến Mỹ thiếu chữ, mà vì cho rằng không cần thiết phải viết quá nhiều về
những quyền được họ quan niệm là hiển nhiên, hiển nhiên đến mức chỉ còn cần hiến định việc
cấm Quốc hội ban hành các đạo luật nhằm hạn chế các quyền đó. Mặc dù
“hào phóng” như vậy, nhưng quyền
tụ họp không được
“khoán trắng” như trong Hiến pháp 1946 hay Hiến pháp 2013 của Việt Nam, mà bị Hiến pháp Mỹ hạn chế trong khuôn khổ
“tụ họp một cách hòa bình“.
Đòi hỏi
“tụ họp một cách hòa bình” cũng xuất hiện cùng với điều kiện
“không mang theo vũ khí” trong
Điều 8 Hiến pháp Đức, hiến định về quyền
tự do tụ họp (bao gồm cả quyền
biểu tình):
“(1) Mọi người Đức đều có quyền tụ họp một cách hòa bình và không mang theo vũ khí, mà không cần phải trình báo hay được chuẩn y.
(2) Đối với các cuộc tụ họp ngoài trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của một luật.”
Bên cạnh đó, Hiến pháp Đức còn dành
Điều 5 để quy định về các quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin và
Điều 9 để quy định về quyền
tự do lập hội (xem
Phụ lục II). Như vậy, để thể hiện nội dung của
Điều 25 Hiến pháp 2013 (với 33 chữ) về 3 loại quyền
tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin;
tự do tụ họp và biểu tình;
tự do lập hội, Hiến pháp Đức phải sử dụng
Điều 5,
Điều 8 và
Điều 9, với tổng cộng 215 chữ tiếng Đức và có thể dịch ra 294 chữ tiếng Việt, nghĩa là
nhiều gấp gần 9 lần so với Hiến pháp hiện hành của Việt Nam. Đấy là chưa kể
Điều 18 (quy định về việc
tước bỏ quyền cơ bản nếu lợi dụng chúng để chống lại trật tự dân chủ tự do) và
Điều 19 (quy định về
nguyên tắc ban hành luật hạn chế quyền cơ bản nếu hiến pháp cho phép hạn chế).
Một ví dụ khác là điều hiến định về
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Trong khi
Hiến pháp Việt Nam 2013 (Điều 22) sử dụng 46 chữ cho mục đích này, thì
Hiến pháp Đức (Điều 13) sử dụng 334 chữ tiếng Đức, tương đương khoảng 450 chữ tiếng Việt, tức là
nhiều gấp hơn 9 lần so với Hiến pháp 2013.
Hai ví dụ trên cho thấy Hiến pháp 2013 dành
rất ít chữ để hiến định
quyền con người, quyền công dân. Tại sao?
Phải chăng là để nhà cầm quyền
dễ hạn chế hay
dễ phủ định các quyền đó?
Hay do
không có ý định chấp nhận chúng trên thực tế, nên cũng
chẳng cần phải phí chữ cho chúng, đến mức bỏ qua cả cái ràng buộc đã trở thành kinh điển, là quyền
tự do hội họp, biểu tình gắn liền với điều kiện là chúng phải
diễn ra “một cách hòa bình”?
- Chứng “Tuyên giáo”
Chứng
“lắm lời” không chỉ thể hiện ở chỗ lặp đi lặp lại một số nội dung, mà cả ở việc nhồi vào Hiến pháp những mệnh đề thuần túy
“tuyên giáo”. Cứ như thể Hiến pháp là nơi để các tác giả thể hiện tài viết văn chính trị hay khả năng thuyết giáo.
4.1.
Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:
“Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam…”
Vậy
“đội tiên phong” là gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ
thống văn bản pháp luật? Thuật ngữ này chứa thuộc tính pháp lý nào, mà
lại lạc vào Hiến pháp? Ngay cả ý nghĩa đời thường của nó cũng đã bị mất
tiêu sau khi chiến tranh kết thúc, cái thuở
“tiên phong” còn có nghĩa là
đi đầu ra mặt trận, gương mẫu xông pha nơi lửa đạn… Còn bây giờ, khi lý tưởng quan trường là
leo thật cao và kiếm thật nhiều tiền, với vũ khí là
lợi dụng quyền lực, bất chấp pháp luật, thì
“tiên phong” trên
“mặt trận thi đua… tham nhũng”, hay sao?
4.2.
Khoản 1
Điều 15 Hiến pháp 2013 viết:
“Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.”
Mệnh đề này hay được tua lại trong các bài tuyên giáo. Nó có thể dùng để dạy con nít, giáo dục chúng
đừng chỉ nghĩ đến quyền lợi mà quên nghĩa vụ. Nhưng khi
“bị lạc” vào Hiến pháp, thì mệnh đề đó trở nên vô nghĩa. Nó hoàn toàn thừa, vì
“trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ” của công dân đã được hiến định rõ ràng và đầy đủ tại Khoản 3 của chính
Điều 15:
“Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.”
Hơn nữa, trong khuôn khổ một văn bản pháp lý, thì thuật ngữ
“không tách rời” chỉ có thể hiểu một cách
“trần trụi” theo
nghĩa đen, khiến câu văn bóng bẩy ấy trở nên sai về nội dung. Đang ăn, đang ngủ, hay đang làm tình, chẳng nhẽ cũng phải
thực hiện đồng thời một
“nghĩa vụ công dân” nào đó, để thỏa mãn điều kiện
“không tách rời”, hay sao? Đối với trẻ sơ sinh, người tàn tật nặng và cụ già nằm liệt giường, cần được chăm sóc tuyệt đối, thì
“quyền” được chăm sóc của họ
“không tách rời nghĩa vụ công dân” nào đây?
4.3.
Điều 45 Hiến pháp 2013 viết:
“Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.”
Hiện thân đích thực của
“Tổ quốc” ra sao, khi các bên xung đột đều nhân danh
“Tổ quốc”, giống như thời đất nước còn chia đôi thành hai miền Nam, Bắc? Bao giờ thì
phải hay
được “bảo vệ Tổ quốc”, và
“bảo vệ”
như thế nào? Khi Tổ quốc bị xâm lấn và đồng bào ngư dân bị ngoại bang
bắt bớ, cướp bóc ngay trên vùng biển quê hương, thì công dân
có nghĩa vụ và
có quyền “bảo vệ” hay không? Tại sao nhà cầm quyền lại sử dụng
“quyền cao quý” để đàn áp những người biểu tình phản đối hành vi bành trướng của ngoại bang, nhằm thực thi
“nghĩa vụ thiêng liêng”? Ôi Tổ quốc, chúng con phải bảo vệ Người thế nào đây, khi Tổ quốc của họ khác Tổ quốc của chúng con?
Tại sao không viết gọn, rằng
“Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ và quyền của công dân”, mà cố nhồi thêm vào đó hai tính từ
“thiêng liêng” và
“cao quý” ?
“Thiêng liêng” và
“cao quý”
hay không là cảm nhận của mỗi người. Tình cảm đó bị chi phối bởi hình
hài mà Tổ quốc hiện ra trong con mắt của từng số phận. Đối với thế lực
núc ních nhờ tham nhũng, thì có lẽ Tổ quốc giống như
bò cái thả rông, không mất công nuôi vẫn ngày ngày cho sữa – Yêu yêu quá đi thôi! Còn đối với dân oan lang thang trong vô vọng, thì có lẽ Tổ quốc giống như
người mẹ mải theo người tình mà bỏ rơi con cái – Sao mẹ nỡ vô tình làm vậy? Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái tình cảm đương nhiên cũng khác nhau. Không thể đòi hỏi
người bị đè đầu cưỡi cổ cũng phải hưng phấn như
kẻ đang đè, đang cưỡi. Đừng đòi những phận đời đang chới với trong biển khổ phải dày vò thêm với câu hỏi
“thiêng liêng”:
“Ta đã làm gì cho Tổ quốc?” Hãy để lương tâm
“cao quý” của các đức ông, đức bà thường nhân danh Tổ quốc trả lời câu hỏi:
“Tổ quốc đã làm gì cho dân đen?” Và phía lập hiến hãy trả lời câu hỏi:
Quốc hội lấy đâu ra cái quyền và cái lý để hiến định cả tình cảm của công dân, buộc mọi người phải coi đòi hỏi “bảo vệ Tổ quốc” theo kiểu nhà cầm quyền ấn định là “thiêng liêng” và “cao quý”?
4.4.
Điều 68 Hiến pháp 2013 viết:
“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân.”
“Phát huy tinh thần yêu nước” như thế nào?
Tổ
chức khiêu vũ nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quân bành trướng Trung Quốc
tấn công vào các tỉnh biên giới phía bắc, nhằm ngăn cản buổi lễ tưởng
niệm hàng vạn đồng bào và chiến sĩ đã ngã xuống, có phải là cách
“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước” hay không?
“Chủ nghĩa anh hùng cách mạng” là cái gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Nó khác với
“chủ nghĩa anh hùng” (chung chung) hay
“chủ nghĩa anh hùng không cách mạng” như thế nào? Cái
“chủ nghĩa anh hùng cách mạng” ấy có thực sự là
“của Nhân dân” hay không?
4.5.
Những mệnh đề
“tuyên giáo” trong Hiến pháp 2013, như mấy ví dụ kể trên, thường có chung đặc điểm là
mơ hồ về nội dung, rỗng và vô dụng về pháp lý, không cần thiết và cũng không nên xuất hiện trong một bản hiến pháp đích thực. Đó là kết quả của việc
“tuyên giáo hóa” hệ thống giáo dục và đào tạo, khiến một số người đã
“tu đủ các lò” có thể
“đắc đạo”
đến mức, dù đi đâu về đâu cũng không quên bản năng và trách nhiệm
thuyết giáo. Kể cả khi tham gia viết Hiến pháp (là văn bản pháp lý lẽ ra
chỉ chứa đựng những quy định cơ bản về quyền lợi và trách nhiệm của
công dân, về nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức tổ chức của bộ máy nhà
nước, và biện pháp kiểm soát nó), thì họ cũng không quên truyền giáo, và
nhầm tưởng Hiến pháp cũng là giảng đường để triển khai công tác
“tuyên giáo”.
- Chứng “Lan man”
Một đặc điểm phổ biến trong các bài
“tuyên giáo” là hay
“lan man”, nên
ôm đồm về nội dung và
tùy tiện về ngôn ngữ. Đáng tiếc thay, khi các nhà
“tuyên giáo”
nhúng tay vào Hiến pháp, thì nó cũng bị lây nhiễm căn bệnh ấy. Thành
thử, lẽ ra văn bản pháp luật phải được viết một cách mạch lạc, rõ ràng
và chính xác, thì Hiến pháp 2013 lại chứa nhiều câu
“lan man” kiểu
“con cà con kê”, và lắm lúc kết thúc trong vô nghĩa.
5.1.
“Lan man” đến mức rơi vào thế
quẩn, như trong
Lời nói đầu của Hiến pháp 2013:
“Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân.”
Nếu
“Nhân dân… đấu tranh… vì hạnh phúc của Nhân dân”, thì đó chỉ là chuyện thường tình,
đấu tranh vì hạnh phúc của bản thân thì có gì đáng nói? Hơn nữa,
“Nhân dân” đã
“hy sinh… vì hạnh phúc của Nhân dân”, thì còn ai để hưởng
“hạnh phúc” nữa đây? (Có lẽ các tác giả muốn gắn từ
“hy sinh” với chữ
“đầy”, để chỉ
“cuộc đấu tranh… đầy… hy sinh”, nhưng với câu viết lan man như thế, người đọc vẫn có quyền hiểu rằng
“hy sinh” là động từ gắn trực tiếp với chủ ngữ
“Nhân dân”.)
5.2.
“Lan man” đến mức đọc
“mệt nghỉ”, như Khoản 3
Điều 5 Hiến pháp 2013:
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn
bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá
tốt đẹp của mình.”
Và nếu nghỉ giữa chừng, chưa kịp đọc hai chữ
“của mình” nấp ở tận cuối câu, thì có thể thu được thông tin ngây ngô, chẳng hạn:
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết…”
5.3.
“Lan man” đến mức
quên cả… chủ ngữ, như trong Khoản 2
Điều 35 Hiến pháp 2013:
“Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.”
Vâng, nếu không quên mất đang viết về chủ ngữ
“Người… ăn lương“, thì tại sao lại bỏ công hiến định rằng họ
“được hưởng lương“? Hơn nữa, nếu
“người làm công…” không nghiễm nhiên
“được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi”, nên vẫn phải đem cái thứ hiển nhiên ấy ra mà hiến định, thì hóa ra đây là
chế độ chiếm hữu nô lệ hay sao?
5.4.
“Lan man” đến mức
lạc hướng, khiến không chỉ người đọc bị nhầm
, mà người viết cũng bị lẫn, như trong Khoản 1
Điều 37 Hiến pháp 2013:
“Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.”
Ở đây,
“trẻ em” không còn là một từ đơn, có thể đứng riêng
lẻ và được vận dụng một cách độc lập, mà đã là một bộ phận cấu thành,
không thể tách rời của từ ghép
“quyền trẻ em“. Thành thử,
“vi phạm quyền trẻ em“ thì có nghĩa, nhưng
“hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động… quyền trẻ em“ thì hoàn toàn vô nghĩa.
5.5.
“Lan man” đến mức
“tắc ngôn”, lâm vào
“nghẽn ý”, như trong Khoản 1
Điều 37 Hiến pháp 2013:
“Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.”
“Trẻ em… được tham gia vào các vấn đề về trẻ em“ – Nghe mới… âm u làm sao. Với xu hướng
“phát triển dân chủ” này, liệu có ngày
“thai nhi được tham gia vào các vấn đề về thai nhi” hay không?
Hiến định như vậy thì trẻ em được thêm cái gì? Và nếu không hiến định
như vậy thì trẻ em bị mất đi cái gì? Thực tế trả lời ngắn gọn là KHÔNG!
Vậy thì hiến định để làm gì?
Cái cao kiến ấy xuất xứ từ đâu? Có người giải thích rằng ý
“trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” được cóp từ
“Công ước về Quyền trẻ em”. Nếu quả đó là giáo án, thì e rằng đã túm nhầm phao (xem
Phụ lục III).
5.6.
“Lan man” đến mức sa đà vào
ngạo mạn, đem cả những
“gánh nặng không đâu” ra để
“ban phát”, như trong Khoản 2 và Khoản 3
Điều 37 Hiến pháp 2013:
“2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội
tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ,
bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.”
“3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
“Thanh niên được… đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.” Và
“Người cao tuổi được… phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Phải
“được” Hiến pháp (tức là
“được” nhà cầm quyền) cho phép, thì
“thanh niên” và
“người cao tuổi” mới
“được” gánh vác cái của
“trời ơi” ấy hay sao?
5.7.
Vì sao Hiến pháp 2013 lại phạm phải những lỗi như đã trình bày trong phần
5
này? Không thể phủ nhận được sự ôm đồm và hạn chế trình độ của những
người liên quan. Nhưng có lẽ còn một nguyên nhân khác là hiệu ứng
“đẽo cày giữa đường”.
Mỗi người, xuất phát từ vị trí, nhận thức và mối quan tâm của bản thân,
đều cố đưa vào Hiến pháp vài ý nào đó. Nhiều người tham gia thì phải
dung nạp nhiều ý, có thể không tương thích với nhau. Muốn người khác
chấp nhận ý của mình, thì mình cũng phải tôn trọng ý của người khác. Vả
lại, khi mỗi người chỉ được phát biểu trong một thời gian ngắn, đấu
tranh để thực hiện và bảo vệ ý tưởng của mình chưa chắc đã xong, còn đâu
thời gian để bàn sang chuyện của người khác. Thêm vào đó là sự bất lực
cá nhân trước tập thể quá đông, cùng với sự lép vế trước
“bề trên”. Và cả tâm lý
“cha chung không ai khóc”, cộng hưởng với thói quen ỷ lại:
“Dưới” thì nghĩ
“đã có Trên lo”, còn
“Trên” thì đinh ninh
“đã có bọn Dưới làm”. Thành thử dễ sinh ra sản phẩm… hổ lốn.
- Chứng “Đại ngôn”
Một trong những điểm đặc trưng của Hiến pháp Việt Nam là hay dùng
những từ to tát, toàn mỹ, để chỉ những điều phi thực tế, mà nhà cầm
quyền chưa hay không bao giờ thực hiện được, hoặc thậm chí cũng chẳng hề
có ý định thực hiện.
Để khắc họa chứng
“đại ngôn” của Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần khảo sát sự vận dụng của từ
“bảo đảm”, vốn dĩ chỉ xuất hiện khiêm tốn có 2 lần trong
Hiến pháp 1946, nhưng tăng lên 17 lần trong
Hiến pháp 1959, nhiều nhất là 35 lần trong
Hiến pháp 1980, rồi lại giảm xuống còn 26 lần trong
Hiến pháp 1992.
Theo
“Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1997), từ
“bảo đảm” có nghĩa là:
-
Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.
-
Nói chắc chắn và chịu trách nhiệm về lời nói của mình để cho người khác yên lòng.
-
Nhận chịu trách nhiệm làm tốt.
Từ
“bảo đảm” xuất hiện 28 lần trong
Hiến pháp 2013. Đáng nói là, nhiều thứ được hiến định là
“bảo đảm” lại không hề được
“bảo đảm”, thậm chí còn bị chính bộ máy chính quyền xâm phạm thô bạo.
6.1.
Điều 34 Hiến pháp 2013 viết:
“Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.”
Đây chính là Điều 35 trong
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013. Bài
“Teo dần quyền con người trong hiến pháp” đã phân tích và kết luận rằng:
“Quyền được bảo đảm an sinh xã hội” thuộc loại
“quyền hư quyền ảo”, tức là
“một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả thi”.
Theo
Công ước số 102 của
Tổ chức Lao động Quốc tế (
International Labour Organization), thì 9 lĩnh vực chính của
“an sinh xã hội” (
social security) là:
Chăm
sóc về y tế, trợ cấp khi ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già,
trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ
cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất. Chẳng cần khảo sát xem chất lượng thực hiện đã đạt mức gọi là
“được bảo đảm“ hay chưa, vì có thể khẳng định rằng:
Không một thứ nào trong số đó được triển khai ở Việt Nam trên quy mô toàn xã hội. Nếu có phần nào đó được thực hiện, thì chỉ dừng lại ở bộ phận tương đối nhỏ, mang tính
“đặc ân”, trước hết dành cho những người được coi là có công với chế độ.
Đôi khi, một số hoạt động mang tính từ thiện cũng được tổ chức cho
đối tượng dân thường, nhưng không phải chỉ vì tình thương bao la, mà còn
nhằm trang trí cho chế độ.
Theo thông tin được đăng tải trên Báo Điện tử ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Từ năm 2011- 2013 nguồn lực dành cho hộ nghèo tăng lên khoảng 120 nghìn tỷ đồng/năm. Chỉ riêng
“nguồn lực dành cho hộ nghèo” mà đã tương đương với 14,7%
tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước (816 nghìn tỷ đồng cho năm 2013), thì không phải là ít. Song tiêu chí đánh giá không thể dừng lại ở chỗ
chi bao nhiêu, mà phải là:
Chi thế nào? Số tiền đó đi đâu? Có đến tay người nghèo hay không?
Theo
bài “Ai giám sát tiền hỗ trợ giảm nghèo?” của Nguyên Khánh, đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 29/9/2013, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đã thừa nhận rằng:
“Bộ máy quản lý các chương trình, dự án giảm nghèo quá đồ sộ. Tỷ lệ chi cho hành chính, sự nghiệp chiếm hơn 63% tổng số tiền giảm nghèo huy động được… Thế nên mới có chuyện tiếng
là các nguồn hỗ trợ người nghèo lên tới gần 200 triệu/hộ/năm, nhưng
thực tế thì mỗi hộ nghèo chỉ tiếp cận được từ 10 – 15 triệu đồng/năm.”
Qua đó, có thể hình dung ra mục tiêu và hiệu quả của một số chính sách giúp đỡ người nghèo và phục vụ
“an sinh xã hội” (ví dụ như xây nhà ở xịn giữa đô thị đắt đỏ để bán cho người nghèo).
Rõ ràng, những hoạt động kiểu ấy không chỉ là
lấy tiền ngân sách chi cho người nghèo, mà còn là cách
lấy tiền ngân sách nhân danh người nghèo. Kết quả là: Đã tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng
“an sinh xã hội” còn cách rất… rất xa cái mức có thể coi là
“bảo đảm”.
Hãy lấy việc
chăm sóc về y tế làm ví dụ. 4-6 người bệnh phải chung nhau một giường, như được phản ánh trong
bài “Một năm viện phí mới: Giường ghép, nỗi khổ chưa chấm dứt” của Lan Anh và Quỳnh Liên, đăng trên báo Tuổi trẻ Online ngày 26/9/2013. Như thế có lẽ vẫn còn may mắn hơn so với những
“Bệnh nhân ‘bò từ gầm giường’ ra đón Bộ trưởng Y tế”, như được mô tả trên báo Người đưa tin ngày 15/1/2013. (Xem thêm
“Chùm ảnh: Bệnh nhân ‘bò’ ra đón Bộ trưởng Y tế”, với
Ảnh 6 và
Ảnh 7 được lấy từ đó.)
Ảnh 6: Bệnh nhân ‘lóp ngóp’ dưới gầm giường (Nguồn: Người đưa tin)
|
Nhẫn tâm thay,
“bất chấp hậu quả khôn lường cho bệnh nhân, một phiếu xét nghiệm
huyết học ở Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) được khoa Xét nghiệm
“nhân bản” để dùng luôn cho 2-5 bệnh nhân… 1.000 kết quả xét nghiệm
huyết học được dùng cho ít nhất 2.000 bệnh nhân (trung bình một kết quả
phiếu xét nghiệm được sử dụng cho 2-5 bệnh nhân)… Thí dụ, một kết quả
xét nghiệm huyết học vào hồi 9h3 phút ngày 19.2.2013 được dùng cho 4
bệnh nhân: Nguyễn Thị Nguyên – 70 tuổi, chẩn đoán lao phổi; Nguyễn Trung
Nghĩa – 27 tuổi, chẩn đoán áp-xe cạnh hậu môn; Lý Thị Vân – 61 tuổi,
chẩn đoán viêm phế quản của người bệnh cao huyết áp đang nằm ở khoa Hồi
sức cấp cứu và cháu Lương Kiều Trang – 12 tuổi, chẩn đoán viêm ruột
thừa.”
Đấy là điều
mà Vương Hà đã thuật lại trong bài đăng trên báo Dân trí ngày 5/8/2013.
Bao chuyện tiêu cực xảy ra hàng ngày, hàng giờ, ở khắp nơi, từ địa
phương đến trung ương, nhiều không kể xiết… Thêm vào đó là những vụ vô
tình… làm chết người, như
tiêm nhầm thuốc gây co bóp tử cung khiến 3 trẻ sơ sinh tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa… Thử hỏi, tình hình
“chăm sóc về y tế” (lĩnh vực số một của
“an sinh xã hội”) bi đát như vậy, thì có thể coi là
“được bảo đảm“, tức là được
“làm tốt” và
“có đầy đủ những gì cần thiết”, hay không?
Muốn
“bảo đảm an sinh xã hội” thì
phải có đủ tiền của,
để chăm sóc chu đáo về y tế cho mọi người; để trợ cấp đáng kể cho người
ốm đau, người thất nghiệp, người già, người bị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp; để trợ cấp cho người tàn tật… Và điều đó
phải tiến hành trên quy mô toàn xã hội, dành cho cả những người nghèo không có khả năng đóng các loại bảo hiểm. Mấy chục năm nữa, chưa chắc xã hội Việt Nam mon men đến được cái đích ấy. Vậy thì tại sao bây giờ lại
đại ngôn mà viết vào Hiến pháp là
“bảo đảm an sinh xã hội” cho mọi công dân?
Bạn đừng tưởng đó là sơ hở pháp lý, để rồi tận dụng mà kiện chính quyền. Bởi
Điều 34 Hiến pháp 2013
đã được viết với kỹ năng chính trị cao cường, nên đem lại dáng dấp oai
phong, mà vẫn chẳng tạo ra gánh nặng nào cho Nhà nước. Nó chỉ hiến định
“công dân có quyền được được bảo đảm…”, nhưng không xác định
“ai phải bảo đảm…”,
nên nhà cầm quyền vẫn có thể lẩn tránh trách nhiệm. Chẳng hạn, nếu công
dân nào đó đòi được trợ cấp…, trong khuôn khổ của cái gọi là
“bảo đảm an sinh xã hội”, thì có thể nhận được câu trả lời theo kiểu
“Trời sinh voi thì Trời phải sinh cỏ”, rằng ai sinh ra ngươi thì phải
“bảo đảm” những quyền lợi ấy cho ngươi. Như vậy, Nhà nước vừa được ca ngợi, vừa vẫn
“vô can”.
6.2.
Khoản 3
Điều 55 Hiến pháp 2013 viết:
“Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.”
“Bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” – Nghe thật tuyệt đối và to tát, nhưng vấn đề là:
Nhà nước có “ổn định” nổi không? Lấy cái gì để đo mức “ổn định”?
Theo thông tin về
tỷ giá ngoại tệ trên website của Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank),
giá mua chuyển khoản ngày 10/2/2009 là 17.483 Đồng/USD, 22.372
Đồng/EUR, và ngày 10/2/2014 là 21.080 Đồng/USD, 28.569 Đồng/EUR. Như
vậy,
trong vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 83% so với USD và chỉ còn 78% so với EUR.
Theo thông tin trên Sài Gòn Giải phóng Online, giá mua vàng SJC
ngày 10/2/2009 là 18.610.000 Đồng/lượng và
ngày 10/2/2014 là 35.420.000 Đồng/lượng. Như vậy,
trong vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 53% so với vàng SJC.
Giá trị Đồng Việt Nam giảm nhiều như vậy, mà Quốc hội lại thông qua Hiến pháp viết rằng
“Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia”, thế thì có quá
đại ngôn hay không?
6.3.
Khoản 2
Điều 61 Hiến pháp 2014 viết:
“Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí…”
“Nhà nước… bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc“ có nghĩa là phải tạo điều kiện để mọi người đều có khả năng hoàn thành chương trình
“giáo dục tiểu học”.
“Nhà nước không thu học phí” là góp phần thực hiện mục tiêu ấy, nhưng đó mới chỉ là một phần tương đối nhỏ. Để có thể đi học, trẻ em phải được
ăn no,
mặc ấm,
phải có sách vở, giấy bút… Dù xã hội giàu đến đâu, thì vẫn có những bố
mẹ không đủ khả năng thỏa mãn những nhu cầu ấy của con cái. Trong trường
hợp đó,
chính Nhà nước phải trợ cấp phần thiếu hụt, để trẻ em có điều kiện sinh sống tối thiểu mà đi học tiểu học. Liệu Quốc hội đã nghĩ đến trách nhiệm này hay chưa? Liệu Nhà nước có định
“bảo đảm”
chu cấp nuôi hàng triệu trẻ em ở độ tuổi giáo dục tiểu học hay không?
Và có khả năng kinh tế để triển khai dự định ấy hay không? Hay chỉ
đại ngôn cho sướng, cho oai?
6.4.
Điều 96 Hiến pháp 2013 quy định
“Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây”:
“3. … thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;”
“6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;”
Theo giải nghĩa trong
“Từ điển tiếng Việt” về từ
“bảo đảm” (như đã trích ở trên), thì Điều 96 đòi hỏi
Chính phủ phải “chắc chắn giữ gìn được tính mạng, tài sản của Nhân dân” và
“chắc chắn giữ gìn được trật tự, an toàn xã hội”.
Trên thực tế,
“tính mạng, tài sản của Nhân dân” và
“trật tự, an toàn xã hội” được Chính phủ
“bảo đảm” như thế nào? Hãy nghe
Phương Bích tâm sự:
“Báo chí đưa tin nạn trộm chó hoành hành khắp các miền
quê. Người dân bảo vệ chó của mình thì bị trộm đánh trả. Thậm chí chỉ vì
bảo vệ chó mà chủ thiệt mạng. Kết quả là người dân hợp lực nhau lại,
đánh chết kẻ trộm chó trong cơn cuồng nộ.”
“Chuyện nợ nần trong làm ăn, người ta không mấy khi nhờ cậy đến
pháp luật giải quyết, vì họ biết thừa không có hiệu quả. Thế mới sinh ra
các nhóm đòi nợ xã hội đen đỏ tím vàng… Và lúc đó thì pháp luật lại ra
tay trị kẻ đi đòi nợ…”
“Tôi rất muốn hỏi các quý vị người nhà nước, dân chúng
tôi phải làm gì khi pháp luật không có tác dụng bảo vệ quyền lợi và tính
mạng của mình?”
Một trong những chuyện đau lòng mới xảy ra là
vụ
đứt cáp cầu treo nối bản Chu Va 8 với Chu Va 6 ở xã Sơn Bình (Tam
Đường, Lai Châu) vào sáng 24/2/2014, khiến hơn 40 người rơi xuống suối, 8
người chết và 33 người khác bị thương. Chẳng nhẽ đó cũng là kết quả
“bảo đảm” của Chính phủ hay sao?
Thực ra,
không một Chính phủ nào trên Thế giới này có thể “bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” và “bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”! Hùng mạnh như Chính phủ Mỹ mà cũng đành bất lực…
Không “bảo đảm” nổi tính mạng của Tổng thống, thì làm sao có thể
“bảo đảm” được tính mạng của người dân?
Không “bảo đảm”
nổi sự an toàn của tòa tháp đôi World Trade Center, biểu tượng tự hào
sừng sững giữa trung tâm thành phố New York, cùng với tính mạng của hàng
nghìn làm việc trong đó, thì làm sao có thể
“bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” và
“bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” ở những nơi hẻo lánh xa xôi?
Dù cố gắng đến đâu, thì vẫn buộc phải chấp nhận thực tế:
Luôn có những người bị thiệt mạng (vì tai nạn hoặc vì bị hãm hại).
Luôn có những tài sản của Nhân dân bị hủy hoại (vì thiên tai, hỏa hoạn… hoặc vì bị phá hoại).
Và luôn tồn tại những sự cố về trật tự, an toàn xã hội.
Nếu viết
“Chính phủ có nhiệm vụ… bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân, … bảo vệ trật tự, an toàn xã hội”, thì còn hợp lý và khả thi. Đằng này, thay vì dùng từ
“bảo vệ”, Quốc hội lại dõng dạc hiến định là
“bảo đảm”, vậy thì có quá
đại ngôn hay không?
Lỗi tương tự cũng xuất hiện trong
Điều 67 Hiến pháp 2013:
“Nhà nước xây dựng Công an nhân dân… làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.”
Một trong những ví dụ chỉ ra
“Công an nhân dân… bảo đảm trật tự, an toàn xã hội“ thế nào được mô tả trong bài
“Vết rạn sau vụ giết bạn chấn động” của Đàm Đệ.
Còn nhiều thứ
“bảo đảm” khác, sẽ được đề cập tiếp trong phần
7 và
Phụ lục IV.
6.5.
Đại ngôn là tập quán phổ biến ở mọi chính trường trên Thế giới. Nhưng
đại ngôn tràn lan cả trong hiến pháp, thì chỉ có thể
là đặc sản của nhà nước mà thế lực cầm quyền xa lạ với trách nhiệm. Nếu quan niệm rằng
“nói phét không mất tiền”, nghĩa là
không phải chịu trách nhiệm về những điều mình nói, thì tội gì mà không nói cho oai?
Đại ngôn bị vung vãi dễ dãi trong Hiến pháp khi thế lực cầm quyền
chỉ muốn tô vẽ để tự ngợi ca, mà
không hề có ý định thi hành trên thực tế. Tệ nạn ấy không chỉ bắt nguồn từ
tập quán hứa bừa, mà còn bám rễ trong
truyền thống mạo công.
Làm một kể mười, thậm chí không làm cũng điềm nhiên nhận công. Cái
chứng bệnh ấy lây lan khắp nơi, càng lên cao thì bệnh càng trầm trọng.
Hãy xem những bia đá được chưng ra nơi nơi, từ công viên đến đền chùa và
các loại di tích, để kể công vị này ngài nọ đã trồng cây, cái cây mà
nhiều người cùng trồng cùng tưới, nhưng công lao lại chỉ được gán cho
đúng một người – cái người đóng góp ít công sức nhất. Tệ hại hơn, có lẽ
để tương xứng với cái bia đá to đoành, hay vì sợ cây non không kịp lớn
trước khi vị nọ
“giải nghệ hoàn dân”, nên người ta
bứng cả những cây to đã tồn tại lâu năm, để diễn trò tái trồng mầm… già.
Quyền trong tay thì cứ việc ra tay, nhưng đừng quá chủ quan cho rằng
đại ngôn luôn vô hại. Về lý mà nói, một khi đã hiến định là Nhà nước hay Chính phủ
“bảo đảm” thứ gì đó, thì người dân có quyền kiện những người đứng đầu Nhà nước hay Chính phủ khi thứ ấy không được
“bảo đảm”. Nếu bịt tai phớt lờ hay trả thù người khiếu kiện thì lại bị dư luận lên án là chà đạp
“nhà nước pháp quyền”.
Đại ngôn có sướng đến mức đáng để chuốc lấy
“hậu quả không đâu” ấy hay không?
- Chứng “Bất chấp”
Khi
“đại ngôn” thì ít nhiều đã
“bất chấp”. Nhưng trong phần này, ta chỉ đề cập đến một số điều hiến định thuộc loại
rất bất chấp thực tế.
7.1.
Hai khoản đầu của
Điều 2 Hiến pháp 2013 là:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”
“2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
Nhà nước này có phải là
“nhà nước pháp quyền”,
“của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” hay không? Nước này có phải là
“do Nhân dân làm chủ” và
“tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” hay không? Thông qua thực tế, nhà cầm quyền đã liên tục đưa ra câu trả lời phủ định. Ở đây, chỉ cần đề cập một ví dụ:
Việc
cương quyết không chấp nhận để Nhân dân phúc quyết Hiến pháp đã chứng
tỏ, rằng Nhà nước này không phải “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân”! Và cái gọi là
“Nhà nước… do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” chỉ là chuyện hư cấu
bất chấp thực tế mà thôi.
Không phải hiến pháp nước nào cũng được đem ra phúc quyết toàn dân.
Khi không có ai đòi đem Hiến pháp ra phúc quyết, thì cũng chẳng nhất
thiết phải phúc quyết. Khi bộ máy cầm quyền thừa sức ngụy tạo ra kết quả
bỏ phiếu theo ý muốn của họ, thì cũng chẳng nên kỳ vọng vào giá trị
khách quan của việc phúc quyết. Nhưng
nếu một lực lượng công dân đòi hỏi phải đem Hiến pháp ra phúc quyết toàn dân, thì không ai có quyền phủ quyết đòi hỏi đó. Bởi về lý mà nói, dù có quyền cao, chức trọng đến đâu trong bộ máy cầm quyền, thì
bất cứ ai cũng chỉ là công dân bình đẳng với mọi công dân.
Giả sử các đại biểu Quốc hội được Nhân dân bầu ra một cách thực sự
dân chủ (tiếc rằng thực tế không phải như vậy), thì Nhân dân cũng chỉ
trao cho họ quyền đại diện về những điều mà họ đã thể hiện và tuyên bố
công khai trước toàn thể cử tri, từ trước khi họ được bầu, và cử tri đã
dựa vào đó để bầu họ. Nếu trước khi đắc cử tuyên bố sẽ ủng hộ
“phương án A”, thì sau đó không thể nhân danh đại biểu của Nhân dân để phản đối
“phương án A”.
Nếu trước khi bỏ phiếu, cử tri không được biết gì hơn về các ứng cử
viên ngoài mấy dòng lý lịch trích ngang vô hồn, thì người đắc cử không
thể nghiễm nhiên cho rằng mình đã được cử tri ủy thác quyết định bất cứ
việc gì.
Không thể quan niệm rằng Nhân dân đã trao cho đại
biểu Quốc hội quyền quyết định mọi vấn đề, như thể trao cho họ tập séc
khống, muốn ghi gì và ghi bao nhiêu vào đó cũng được.
Chưa bao giờ Nhân dân ủy thác cho Quốc hội phủ định quyền phúc quyết của Nhân dân. Vì vậy,
nếu
muốn phản đối việc phúc quyết Hiến pháp, thì đại biểu Quốc hội phải tổ
chức lấy biểu quyết cử tri mà mình đại diện, xem đa số cử tri có ủng hộ
dự định đó hay không. Chẳng hề xin ý kiến cử tri, mà Quốc
hội vẫn ngang nhiên bác bỏ đòi hỏi phúc quyết Hiến pháp của một lực
lượng công dân, thì đó là bằng chứng cho thấy:
Quốc hội đã bất chấp thực tế khi
khẳng định trong Hiến pháp rằng Nhà nước này là “của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”, “do Nhân dân làm chủ” và “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân”.
7.2.
Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam… đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…
- Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân
về những quyết định của mình.
- Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Như đã phân tích trong bài
“Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp“, tất cả các nội dung được trích ở trên đều thuộc dạng
“công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”. Thay vì viết rõ đó là những đòi hỏi mà ĐCSVN
phải chấp nhận và
phải thực hiện, thì họ lại cố tình bỏ đi mấy chữ
“phải”, biến các đòi hỏi pháp lý thành những mệnh đề khẳng định,
như thể ĐCSVN đã và đang đạt được những điều mà trên thực tế không hề đạt.
Vốn dĩ,
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng rằng:
“Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
Nay nội dung trên được
“hóa thân” tại
Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 như sau:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”
Vậy là trách nhiệm hiến định
“phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật” của
“các cơ quan Nhà nước” và
“đơn vị vũ trang nhân dân” không còn nữa. Thay vào đó, chỉ còn hiến định là
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”, tức không hề có từ
“phải“, hay tương tự, để thể hiện trách nhiệm hiến định. Nghĩa là, học theo tấm gương xấu của Điều 4,
Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 cũng trở thành dạng
“công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, như thể
“Nhà nước đang được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”,
bất chấp thực tế mà người người đều rõ.
7.3.
Điều 3 Hiến pháp 2013 viết:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”
“Quyền làm chủ của Nhân dân” là gì? Cái này mờ ảo như trời cao, nên thôi, không bàn ở đây. Còn
“quyền con người, quyền công dân” thì cụ thể hơn, thiết thân hơn, nên buộc phải đặt ra câu hỏi:
“Nhà nước… bảo đảm quyền con người, quyền công dân” như thế nào?
Như ta đều biết,
quyền con người, quyền công dân thường xuyên bị bộ máy cầm quyền xâm phạm, ví dụ như trường hợp
“Bốn công an dùng nhục hình, xát ớt bột vào hạ bộ một thanh niên”. Để tránh bị lên án, khi ra tay chỉ lớp quan chức dưới cùng mới xuất đầu lộ diện. Kín kẽ hơn, họ huy động cả đám
“quần chúng bức xúc” hay
“côn đồ tự phát” để
“ném đá dấu tay”. Thậm chí, cho cả sĩ quan công an giả dạng dân thường, như trường hợp
công
an giả làm thợ cưa đá dưới chân tượng Lý Thái Tổ vào sáng 19/1/2014, để
ngăn cản một số công dân dâng hương hoa, nhằm tưởng niệm các chiến sĩ
đã hy sinh, nhân kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc. Nhưng những màn kịch ấy không thể ngụy trang, che dấu được trách nhiệm của các cấp lãnh đạo. Ai cũng hiểu rằng:
Nếu
lãnh đạo cấp trên không đồng tình, không đứng sau những trò hề ấy, thì
họ đã chấn chỉnh, ra lệnh cho cấp dưới chấm dứt ngay những hành động vi
hiến, phi pháp, đàn áp người dân thực thi các quyền hiến định.
Điều khiến lãnh đạo tầng trên cùng, từ Bộ trưởng trở lên, không thể
phủ nhận trách nhiệm, là chính họ ký tên ban hành các văn bản pháp quy
vi hiến và phi pháp để phủ định
quyền con người, quyền công dân, như đã đề cập trong bài
“Lực cản Nhà nước pháp quyền”. Qua đó ta thấy rõ,
Điều 3 Hiến pháp 2013 bất chấp thực tế đến mức nào. Thiết tưởng cũng chẳng cần bàn thêm, nhưng tiện đây, xin bổ sung thêm một ví dụ tương đối mới.
Theo
thông tin trên trang Bauxite Việt Nam vào ngày 24/2/2014, Công an Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh đã phát đến từng hộ dân
“Phiếu Tố giác Tội phạm” (xem
Ảnh 8). Trong đó,
“Kích động, nói xấu chế độ” là
tội số một,
“Vận động khiếu kiện tập thể” là
tội đứng thứ hai, trên cả tội
“cướp của”. Đây là một bằng chứng hùng hồn về việc bộ máy cầm quyền vi phạm
quyền con người, quyền công dân.
Ảnh 8: Phiếu Tố giác Tội phạm do Công an phát cho các hộ dân (Nguồn: Bauxite Việt Nam) |
Lạ thay cái tội
“nói xấu chế độ”! Không ai có thể phủ định thực tế, là
chế độ này không thiếu biểu hiện xấu. Xấu đến mức
Chủ tịch nước Trương Tấn San phải gọi một số đồng chí là “bầy sâu”. Và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thi Doan cũng thừa nhận:
“Người ta ăn của dân không từ cái gì”. Nếu ai đó
nói về những cái xấu ấy của chế độ, thì cũng chỉ là
phản ánh cái sự thật mà muôn người đều biết, trong khuôn khổ
tự do ngôn luận, được hiến định tại
Điều 25 Hiến pháp 2013. Tại sao lại quy kết người
“nói xấu chế độ đúng sự thật” là
“tội phạm”, rồi ra tay trừng phạt? Đó là
“công lý xã hội chủ nghĩa” hay sao?
Lẽ ra, chỉ nên coi những người
“bịa đặt về chế độ” là
“tội phạm”. Song khi đó, phải kết tội tất cả những ai
“nói không thành có”, kể cả những vị thường
bịa đặt những chuyện tốt không có thật để gán cho chế độ, cái hành vi thường được coi là
“ca ngợi chế độ”. Tội bịa đặt để
“ca ngợi chế độ” rất đáng bị trừng phạt. Bởi nó làm hại người dân, khiến họ ấm ức, phải chịu đựng lâu hơn
những nỗi khổ bị thuyết minh là hạnh phúc.
Mặt khác, nó làm hại chính bản thân chế độ, vì thôi miên và đánh lừa bộ
máy cầm quyền: Đang mang trong mình những khối u ác tính, mà lại
bị lừa (và
tự lừa) là vẫn khỏe mạnh, nên chủ quan, không chịu điều trị kịp thời, đợi đến khi di căn khắp nơi, thì… vô phương cứu chữa.
Đặc biệt, trong
“Phiếu Tố giác Tội phạm”,
“Vận động khiếu kiện tập thể” bị coi là
“tội” thuộc phạm trù
“An ninh chính trị”. Trên thực tế,
“khiếu kiện tập thể” thường bắt nguồn từ lý do kinh tế, không vì mục tiêu chính trị. Tước quyền sử dụng đất của bao nông dân quanh năm
“bán mặt cho đất bán lưng cho trời”,
mà bồi thường không thỏa đáng, thì đương nhiên các nạn nhân phải cùng
nhau bảo vệ tài sản của mình. Và nếu tự vệ không nổi, thì phải
cùng nhau khiếu kiện, gọi là
“khiếu kiện tập thể”,
để đòi lại công bằng. Hành động hợp tình, hợp lý như vậy, mà lại bị
chính quyền cản cấm và đàn áp, thì dù ngu ngơ đến đâu cũng có thể đoán
ra vai trò giật dây của thế lực tham nhũng. Cho nên, nhiều khi
“vận động khiếu kiện tập thể” cũng là
“vận động tập thể chống tham nhũng”. Coi
“vận động tập thể chống tham nhũng” là
“tội” đe dọa
“an ninh chính trị”, tức là
“tội chống chế độ”, thì chẳng khác nào khẳng định rằng
“tham nhũng là bản chất của chế độ này”, nên
“chống tham nhũng là chống chế độ”. Hay đó chỉ là hành vi xuyên tạc của thế lực cầm quyền,
“nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng”?
Như đã chỉ ra trong bài
“Lực cản Nhà nước pháp quyền”,
Điều 74 Hiến pháp 1992 hiến định
“quyền khiếu nại” không hạn chế;
Luật khiếu nại, tố cáo số 09/1998/QH10 chấp nhận đích danh việc
“nhiều người khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung” và
“cử đại diện để trình bày”, nghĩa là chấp nhận những vụ khiếu nại của nhiều người cùng đứng tên. Cho nên, việc Chính phủ ban hành
Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và Thanh tra Chính phủ ban hành
Thông tư số 04/2010/TT-TTCP, trong đó
không chấp nhận “đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người”, là hành vi vi phạm thô bạo Hiến pháp và luật.
Điều 30 Hiến pháp 2013 tiếp tục hiến định
“quyền khiếu nại” không hạn chế. Thêm vào đó,
Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật“. Vì nghị định và thông tư không phải là
luật, nên tính vi hiến của
Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và
Thông tư số 04/2010/TT-TTCP càng trở nên rõ ràng hơn. Như vậy, không có bất kỳ văn bản pháp lý hợp hiến nào cho phép nhà cầm quyền khước từ
“khiếu kiện tập thể”.
Việc
“vận động khiếu kiện tập thể” thuộc
quyền công dân, trong khuôn khổ
tự do hội họp, lập hội, được hiến định tại
Điều 25 Hiến pháp 2013. Thế thì tại sao công an lại coi hành động ấy là
tội, thậm chí là
trọng tội?
“Phiếu Tố giác Tội phạm” có vi hiến, phi pháp hay không? Điều đó đã quá rõ, nhưng các tác giả khoác áo công an hoàn toàn không quan tâm. Họ chỉ viết ra
những tư duy sai trái đã ngấm sâu vào tiềm thức và hóa thành bản năng. Đó mới là điều đáng lo ngại.
Độc tài có nghĩa là
phi dân chủ. Đã
phi dân chủ thì thường
vi phạm quyền con người, quyền công dân. Cho nên, nếu nói
bộ máy độc tài “bảo đảm quyền con người, quyền công dân”, thì quả là
hoang đường, bất chấp thực tế.
7.4.
Khoản 2
Điều 35 Hiến pháp 2013 viết:
“Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn…”
Để hiểu
“điều kiện làm việc công bằng” như thế nào, hãy đọc
bài của Hữu Công đăng trên VnExpress ngày 27/8/2013:
“Công ty TNHH một thành viên Thoát nước đô thị chi lương cả năm
2012 cho Giám đốc là 2,6 tỷ đồng (hơn 200 triệu đồng mỗi tháng), Chủ
tịch Hội đồng thành viên 1,6 tỷ đồng, Kế toán trưởng 1,67 tỷ đồng, Phó
giám đốc 969 triệu đồng. Trong khi đó, lương bình quân người lao động
mùa vụ tại công ty này là 5,4 triệu đồng mỗi tháng.”
Ai là người phải trả giá cho mức lương
“công bằng” của các vị Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Kế toán trưởng, Phó giám đốc? Hiển nhiên, những người lao động
“thấp cổ bé họng” thuộc vào số đó:
“Công ty Thoát nước đô thị bị kết luận “vi phạm quy định của Bộ
luật Lao động” khi ký hợp đồng mùa vụ với thời hạn dưới 3 tháng đối với
163 người lao động thường xuyên và ký hợp động có thời hạn 3 năm đối với
355 trường hợp đủ điều kiện ký hợp đồng không xác định thời hạn.”
Thật là
“công bằng” hết chỗ nói!
Để đánh giá
“điều kiện làm việc… an toàn” đến mức nào, hãy nhớ lại
vụ sập cầu Cần Thơ vào sáng ngày 26/7/2007, khiến
hơn 50 người bị chết và gần 200 người bị thương. Một năm sau tai nạn khủng khiếp đó, ngày 2/7/2008
Ủy ban Nhà nước Điều tra sự cố sập hai nhịp cầu dẫn cầu Cần Thơ đã công bố
Báo cáo tóm tắt về kết quả điều tra, rằng
“việc
xảy ra lún lệch trong phạm vi hẹp của một đài móng trụ tạm, nguyên nhân
chính khởi nguồn gây ra sự mất an toàn kết cấu trong trường hợp này, có
thể xem là tình huống rủi ro, khó lường trước trong thiết kế thông
thường.”
“Tình huống rủi ro, khó lường trước” có nghĩa là
“lỗi tại Trời”.
Không phải do thiết kế sai. Không phải do thi công sai. Không phải do
bớt xén nguyên liệu. Vậy là hòa cả làng. Chỉ các nạn nhân là có lỗi, do
xuất hiện không
“đúng nơi, đúng lúc”, nên đành phải
“chết… đúng quy trình”. Một công trình phức tạp như thế, mà
“Trong
số gần 200 nạn nhân đó hầu hết là những nông dân, người lao động phổ
thông làm công nhật tại những chợ lao động quanh tỉnh Vĩnh Long và Cần
Thơ, có cả những người bị nạn “oan” khi mượn thẻ lao động của công nhân để đi làm chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật cơ bản…”
Sử dụng cả
“nông dân mặc áo công nhân”,
“chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật cơ bản”, để xây cầu
“siêu cấp”, thì không bị sập mới là chuyện lạ.
Nếu ai cho rằng đó chỉ là chuyện của quá khứ xa xôi, thì nên xem thêm
bài tổng hợp “Những sự cố xây dựng nghiêm trọng năm 2012″ của Đỗ Tuyết trên báo Giáo dục Việt Nam (đăng ngày 24/12/2012), để ôn lại vụ sập giàn giáo tại Khu đô thị mới Mỗ Lao ở Hà Nội vào ngày 21/2/2012 (khiến
“nhiều công nhân rơi từ tầng 7 cao ốc – 6 người thương nặng, 1 người chết”); vụ sập giàn giáo tại công trường xây dựng nhà Nam Đô Complex ở Hà Nội vào ngày 5/11/2012 (khiến “hai công nhân rơi từ tầng 18″ và tử vong)… Trong bài đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 26/2/2014), Nguyễn Dân viết: “Năm
2013, toàn quốc đã xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 627 người
chết, hơn 6.000 người bị thương, gây thiệt hại về vật chất lên tới hơn
70 tỉ đồng.”
Hiển nhiên, trong một nền kinh tế thị trường, được cộng hưởng bởi
tham nhũng hoành hành, thì không có cái gọi là
“điều kiện làm việc công bằng”.
Cũng hiển nhiên không kém, trong mọi chế độ, tai nạn lao động là điều
khó tránh khỏi một cách tuyệt đối. Vậy thì tại sao Quốc hội lại
bất chấp thực tế mà hiến định rằng
“Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn”?
7.5.
Khoản 5
Điều 103 Hiến pháp 2013 viết:
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.”
Ngay cả với chế độ này, thì
“tranh tụng trong xét xử” cũng không phải khái niệm quá xa lạ.
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ban hành ngày 2/1/2002, đã xác định:
“Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định.”
Nhưng nghị quyết nào cũng tỏ ra vô dụng, nguyên tắc
“tranh tụng trong xét xử” hầu như không được tôn trọng trên thực tế. Để minh họa, chỉ cần nhắc đến trường hợp của
ông
Nguyễn Thanh Chấn, trú tại xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang, người còn may mắn được minh oan sau 10 năm chấp hành án phạt
chung thân về tội “giết người”. Nguyên nhân dẫn đến án oan sai đã được
Nguyễn Trường thuật lại trên báo Tiền phong ngày 7/11/2013:
“Luật sư Nguyễn Đức Biền, người được chỉ định bào chữa
cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10 năm trước, từng chỉ ra 5 điểm thiếu sót
trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, các ý kiến của ông không được xem
xét thỏa đáng…”
Và ông Biền đã khẳng định:
“Tôi cho rằng, đây là sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng, nhưng đáng tiếc Hội đồng xét xử không hề để ý gì đến các lập luận của luật sư cũng như sự phản cung của bị cáo tại phiên tòa.
Điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới kết luận một cách phi lý của Hội
đồng xét xử, khẳng định ông Chấn giết người một cách oan ức.”
Đây không phải là trường hợp cá biệt, mà là một ví dụ điển hình. Khi phán quyết theo
“bản án bỏ túi” đã trở thành thông lệ, thì hiển nhiên quan tòa không chấp nhận
“tranh tụng trong xét xử”. Vậy nên, khẳng định trong Hiến pháp rằng
“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm“ là hoàn toàn
bất chấp thực tế.
7.6.
Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:
“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.“
Vốn dĩ, trong
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013, thì điều này chỉ chứa đúng 5 chữ:
“Điều 21 Mọi người có quyền sống.”
Bài
“Teo dần quyền con người trong Hiến pháp” đã chỉ ra rằng: Đó là một mệnh đề vừa vô nghĩa, vừa giả tạo, nếu nhà cầm quyền vẫn có ý định duy trì án tử hình, bởi vì
tử hình bất kỳ ai cũng là vi phạm “quyền sống” của người ấy.
Phải chăng nội dung
“nghe rất kêu” ấy được chép từ
Điều 3 của
The Universal Declaration of Human Rights (
“Tuyên bố chung về Quyền con người”, thường được dịch ra tiếng Việt là
“Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền”), được
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948? Có điều,
“Tuyên bố” hay
“Tuyên ngôn”
không nhất thiết có giá trị pháp lý, tức là không bắt buộc mọi quốc gia
đều phải thực hiện, nên một số nước đã ký tán thành vẫn tiếp tục duy
trì án tử hình. Còn nếu mệnh đề
“Mọi người có quyền sống” đã được ghi vào Hiến pháp của nước nào (ví dụ như trong
Khoản 2 Điều 2 của Hiến pháp Đức), thì Nhà nước đó
không thể duy trì án tử hình.
Lý lẽ ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình không chỉ xuất phát từ lý do tín
ngưỡng hay nhân đạo, mà còn vì trên thực tế không hiếm những bản án oan
sai. Nếu còn sống thì còn có cơ hội được minh oan, nhưng nếu xử tử rồi
mới phát hiện oan sai, thì sửa sai bằng cách nào? Theo thông tin của tổ
chức
Amnesty International (
Ân xá Quốc tế), tính đến năm 2012 có
khoảng
2/3 các nước trên Thế giới đã xóa bỏ án tử hình ra khỏi luật, hoặc xóa
bỏ án tử hình trên thực tế (98 nước xóa bỏ án tử hình trong luật đối với
mọi tội, 7 nước xóa bỏ án tử hình trong luật cho các tội thông thường,
35 nước xóa bỏ án tử hình trên thực tế).
Nếu thuộc vào số 1/3 các nước trên Thế giới vẫn duy trì án tử hình, thì có thể coi quy định về
“Quyền sống” trong
European Convention on Human Rights (
Công ước châu Âu về Nhân quyền) là một hình mẫu đáng tham khảo:
“Điều 2 Quyền sống
- Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng luật. Không được cố ý
tước mạng sống của bất kỳ ai, trừ trường hợp thi hành án tử hình, do
tòa tuyên án đối với tội danh mà luật có quy định án tử hình.
- Việc tước mạng sống không bị coi là vi phạm điều này, nếu nó bị
gây ra bởi sử dụng vũ lực không vượt quá mức tuyệt đối cần thiết, nhằm:
(a) bảo vệ ai đó trước bạo lực phi pháp;
(b) tiến hành bắt giữ đúng luật, hay ngăn cản người bị giam giữ đúng luật bỏ trốn;
(c) dẹp tắt một cách đúng luật một cuộc nổi loạn hay nổi dậy.”
Quy định này không hề khẳng định
“Mọi người có quyền sống”, mà chỉ có mệnh đề
“Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng luật”. Đáng lưu ý là:
“Bảo vệ” chứ không phải là
“bảo đảm”!
Lẽ ra, sau khi được góp ý, thì đơn giản nhất là loại bỏ mệnh đề
“Mọi người có quyền sống” ra khỏi bản
Dự thảo. Song có thể vì quá sĩ diện, họ vẫn cố bảo lưu nó đến cùng, rồi bổ sung hai mệnh đề
“Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ” và
“Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” để
“chữa cháy”. Nhưng càng chữa càng cháy, càng sửa thì càng sai…
Nội dung và ý nghĩa của mệnh đề
“Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ” là gì? Khi tuyên bố như thế thì pháp luật sẽ có thêm quy định hay thủ thuật gì khác, so với trường hợp
“tính mạng con người không được pháp luật bảo hộ”? Những đặc điểm nhận dạng nào có thể giúp ta phân biệt loại
“pháp luật bảo hộ” với loại
“pháp luật không bảo hộ tính mạng con người”? Với những điều khoản
“bảo hộ” bổ sung thì tính mạng con người có an toàn hơn hay không? Câu trả lời sẽ cho thấy
“nồng độ pháp lý” của mệnh đề
“… được pháp luật bảo hộ” chỉ xấp xỉ… 0%. Và đó cũng là đặc điểm điển hình của nhiều điều khoản
“ưu việt” trong Hiến pháp Việt Nam.
Có lẽ
“sứ mạng” của mệnh đề
“Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” chỉ là
“đánh tiếng”, rằng tuy tuyên bố
“Mọi người có quyền sống”, nhưng thực ra
vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Với lối
“nói lấy được”, bất chấp nội dung câu chữ,
Điều 19 Hiến pháp 2013 trở thành “siêu vi hiến”, bởi vì nó mâu thuẫn với chính nó.
Trớ trêu thay, hàng ngày trên toàn quốc có bao người
“bị tước đoạt tính mạng”, do cố ý
giết người để cướp của hay vì
ân oán, do
ngộ sát hay
tai nạn giao thông…
Nhà
nước, với tất cả các thủ thuật pháp luật và bộ máy vũ trang khổng lồ,
không thể “bảo đảm” các nạn nhân tránh được cái chết. Ngược lại, một số người dân còn bị chính công an hãm hại.
Hãy xem bài
“Khởi tố 4 công an xã đánh chết người tại trụ sở” đăng trên Phụ nữ Online ngày 4/9/2012 và
Ảnh 9 để thấy được
“hiệu quả làm việc” vào ngày 30/8/2012 của công an (ở huyện Đông Anh, Thủ đô Hà Nội) trên thi thể của ông Nguyễn Mậu Thuận.
Hãy xem bài
“Chiếc dùi cui quật vào đâu?” trên báo Lao động ngày 28/3/2014, bình luận về
“những lời khai rất khủng khiếp” của
“5 công an dùng nhục hình đánh chết… nạn nhân Ngô Thanh Kiều” (vào ngày 13/5/2012 tại Thành phố Tuy Hòa).
Ngày 13/2/2014, lại “Thêm một người chết sau khi làm việc với công an”, như Tuổi trẻ Online đã tường thuật (xem
Ảnh 10). Đó là chưa kể những vụ bị coi là
“tự tử” ngay khi đang
“làm việc” với công an, ví dụ như Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở Bình Định)
“treo cổ tự tử chết trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh” vào tối 11/3/2014; Bùi Thị Hương (42 tuổi, ở Bình Phước)
“chết trong tư thế treo cổ bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính” vào ngày 17/3/2014…
Đó chỉ là mấy ví dụ đại diện cho bao cái chết oan uổng, được tường
thuật công khai trên báo chí chính thống. Vậy mà họ vẫn ngang nhiên
khẳng định trong
Điều 19 Hiến pháp 2013 rằng
“Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.” Quả là
bất chấp thực tế
đến tột cùng, tới mức khó có thể tìm được một từ thích hợp mà vẫn còn
lịch sự để đánh giá. Chẳng nhẽ họ dự định sẽ ban hành luật để hợp pháp
hóa, biến tất cả những oan hồn thành diện
“bị tước đoạt tính mạng phù hợp với luật“ hay sao?
Ảnh 10: Thân thể tử thi sau khi “làm việc” với công an (Nguồn: Tuổi trẻ Online) |
7.7.
“Bất chấp” là tính cách khá phổ biến trong giới cầm quyền. Song không phải mọi thể hiện
“bất chấp” trong Hiến pháp đều bắt nguồn từ tính cách ấy.
Hãy xem lại mệnh đề
“Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” trong
Điều 19 Hiến pháp 2013. Hai chữ
“trái luật” cho thấy câu này thực ra là một
ràng buộc, đòi hỏi đối với phía Nhà nước, bởi chẳng có luật nào cho phép dân thường
“tước đoạt tính mạng” của người khác. Như vậy, theo thông lệ lập hiến có thể viết rằng:
“Không ai bị Nhà nước tước đoạt tính mạng trái luật” – tức là viết như một
cam kết của Nhà nước. Song trên thực tế thì Nhà nước không thực hiện được cam kết này. Nên phải viết một cách chính xác là:
“Nhà nước không được tước đoạt tính mạng của bất cứ ai một cách trái luật” – tức là viết như một
đòi hỏi hiến định đối với Nhà nước.
Nhưng có lẽ họ cho rằng viết như vậy sẽ ảnh hưởng đến sĩ diện của Nhà
nước, hoặc đã rắp tâm sẽ lẩn tránh trách nhiệm, nên dở chiêu
“mập mờ”, xóa tên của chủ thể
“tước đoạt tính mạng”. Bị mất đối tượng đích thực là
“Nhà nước”, nội dung hiến định trở nên lệch lạc, không còn là
cam kết hay
đòi hỏi, mà trở thành
mệnh đề khẳng định một trạng thái hoàn toàn trái với thực tế. Chứng
“mập mờ” gây ra chứng
“bất chấp” là vậy.
Chứng
“mập mờ” là một căn bệnh cố hữu trong Hiến pháp Việt Nam. Cũng vì sĩ diện hay lẩn tránh trách nhiệm, nên cố tình bỏ đi một số chữ
“phải“ (hay tương tự), khiến các
đòi hỏi, ràng buộc hiến định trở thành những mệnh đề
“công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, như đã phân tích trong bài
“Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp”. Chỉ cần thành tâm thêm chữ
“phải“ vào một số nơi cần thiết, thì khắc phục được ngay trạng thái
“khẳng định bất chấp thực tế” của một số điều khoản liên quan. Ví dụ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết
với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.”
“Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
“Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”
“Nhà nước phải bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử phải được bảo đảm.”
Tuy nhiên, thêm chữ
“phải” vẫn chưa đủ để chứng
“bất chấp” biến khỏi vòng Hiến pháp. Nó chỉ thay vai, đổi chỗ mà thôi: Nếu không
thể hiện trong Hiến pháp một số nội dung dưới dạng bất chấp thực tế, thì
trên thực tế lại bất chấp Hiến pháp. Có lẽ, do không thể tránh khỏi
“bất chấp”, và
“bất chấp” khi lập hiến an toàn hơn
“bất chấp” khi thi hành Hiến pháp, nên
“mập mờ” trong Hiến pháp vẫn hơn. Ấy là nguyên do khiến chứng
“bất chấp” cũng có thể gây ra chứng
“mập mờ”.
Nếu
bất chấp cái
Hiến pháp
do thế hệ tiền nhiệm để lại thì có thể thông cảm phần nào, vì không
phải mọi quy định trong cái Hiến pháp đã trở nên lỗi thời đều phù hợp
với hoàn cảnh hiện tại. Nhưng nếu
đem Hiến pháp ra sửa đổi
mà vẫn duy trì hay bổ sung thêm những nội dung mà thế lực đương quyền
đã, đang và sẽ không muốn, hay không thể thực hiện, thì đó là hành vi
hiến định bất chấp thực tế. Chủ động
hiến định bất chấp thực tế và sau đấy lại chủ động
bất chấp Hiến pháp – đó là thái độ
“bất chấp” không thể chấp nhận được!
- Chứng “Vu vơ”
Để mô tả căn bệnh này, ta chỉ cần dựa vào danh từ
“chủ nghĩa xã hội” và tính từ
“xã hội chủ nghĩa” trong Hiến pháp Việt Nam. Ban đầu, chúng không hề tồn tại trong
Hiến pháp 1946. Sang
Hiến pháp 1959, mỗi từ này xuất hiện đúng 6 lần. Nhiều nhất là trong
Hiến pháp 1980, với 23 lần
“chủ nghĩa xã hội” và 86 lần
“xã hội chủ nghĩa”. Sau khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bị sụp đổ,
Hiến pháp 1992 chỉ còn chứa 3 từ
“chủ nghĩa xã hội” và 43 từ
“xã hội chủ nghĩa”. Sự biến thiên này cũng tương ứng với quá trình thăng trầm của một giấc mơ…
8.1.
Hiến pháp 2013 giữ nguyên 3 danh từ
“chủ nghĩa xã hội”, tại những vị trí tương tự như ở Hiến pháp 1992, trong đó có đoạn thứ ba của
Lời nói đầu:
“Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và
Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến
pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Thử hỏi,
“Cương lĩnh…” của ai? Của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, hay của
Đảng Lao động Triều Tiên? Tại sao lại dấu tên chủ nhân của
“Cương lĩnh…”?
Phải chăng các nhà lập hiến hiểu ra, rằng không đảng nào có quyền lạm
dụng Hiến pháp để áp đặt cả Dân tộc? Hay tránh nhắc tên, để khỏi gây
phản cảm?
Nếu
“Cương lĩnh…” của ĐCSVN, thì
“Cương lĩnh…” nào? Là
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN thông qua ngày 27/6/1991? Hay là cái
“Cương lĩnh…” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉnh sửa, và hóa trang bằng mỹ từ “Bổ sung, phát triển năm 2011″? Phải chăng, không thể nói rõ bản
“Cương lĩnh…” nào, vì biết trước sẽ còn phải tẩy xóa, chỉnh sửa nhiều lần nữa? Lấy đâu ra cái quyền để
bắt cả Dân tộc phải răm rắp làm những điều mà bản thân họ cũng không dám tin là đúng?
Hiến định
“Cương lĩnh…” một cách
vu vơ như vậy phỏng có ích gì?
8.2.
Hiến pháp 2013 chứa 39 tính từ
“xã hội chủ nghĩa”, trong đó 33 lần thuộc về tên nước
“Cộng hòa từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Gán nó cho tên nước có hợp lý hay không? Điều này đã được đề cập trong bài
“Quốc hiệu nào hội tụ lòng dân?” nên không cần nhắc lại ở đây nữa. 6 lần xuất hiện còn lại có thể chia thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất bao gồm:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.” (
Điều 2)
“Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” (
Điều 51)
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là gì? Trong
“Nhà nước pháp quyền”,
không cá nhân và tổ chức nào có quyền đứng trên hay đứng ngoài Hiến
pháp và luật, mọi quyền lực nhà nước đều bị ràng buộc và giới hạn bởi
Hiến pháp và luật. Còn ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quyền lực của ĐCSVN mới là cao nhất, không bị khống chế bởi bất cứ điều
khoản cụ thể nào trong Hiến pháp và luật. Hiến pháp chỉ
“thể chế hóa Cương lĩnh…”
của ĐCSVN, và luật phải tuân theo Hiến pháp, nên về thực chất lãnh đạo
ĐCSVN mới đóng vai trò quyết định và còn đứng cao hơn Hiến pháp và luật.
Chẳng nhẽ đó là đặc trưng của
“pháp quyền xã hội chủ nghĩa” hay sao?
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì?
“Xã hội chủ nghĩa” mù mờ bao nhiêu, thì
“định hướng xã hội chủ nghĩa” luẩn quẩn bấy nhiêu. Càng tung hô
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, thì càng tỏ ra
chẳng có định hướng nào cả.
Phải chăng hai khái niệm trên cũng tương tự như phạm trù
“dân chủ xã hội chủ nghĩa”? Thường thì chế độ
“phi dân chủ” hay được khẳng định là
“dân chủ xã hội chủ nghĩa”, tức là:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa“ =
“Phi dân chủ”.
Nếu như vậy thì cái đuôi
“xã hội chủ nghĩa” được gắn sau từ
“dân chủ” có ý nghĩa như chữ
“phi” được gắn trước từ
“dân chủ” (để phủ định). Áp dụng quy tắc ghép từ này, ta thu được:
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa“ =
“Nhà nước phi pháp quyền”,
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“ =
“Kinh tế thị trường phi định hướng”.
Bạn thấy kết quả suy luận này có phù hợp với thực tế hay không?
Nhóm thứ hai bao gồm:
“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân.” (
Điều 64)
“Lực lượng vũ trang nhân dân… có nhiệm vụ… bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa…” (
Điều 65)
“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (
Điều 102)
“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (
Điều 107)
Nếu áp dụng quy tắc ghép từ ở trên, thì
“Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” có thể phiên dịch thành
“Tổ quốc phi Việt Nam”. Nghe có vẻ bất thường, nhưng nếu liên hệ với lối tư duy
“truyền thống”,
coi lý tưởng và quyền lợi của giai cấp vô sản quốc tế cao hơn lợi ích
của Tổ quốc Việt Nam, thì kết quả phiên dịch có phù hợp hay không?
Hãy bỏ qua ý phụ vừa rồi, để tập trung vào ý chính, mà chúng ta muốn trao đổi về nhóm thứ hai. Đó là:
Có hay không cái gọi là “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và “chế độ xã hội chủ nghĩa”?
Khi xuất hiện trong cụm từ
“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì từ
“xã hội chủ nghĩa” đóng vai trò
tên gọi, được hiến định trong Hiến pháp. Nó chỉ để
trang trí, không nhất thiết phải tương thích với thực trạng. Cũng tương tự như việc đặt tên
“Cao” cho
người lùn, tên
“Mạnh” cho
người yếu, tên
“Tài” cho
người thiểu năng… Dù không phù hợp với trạng thái, tính cách, thì người ấy vẫn tồn tại với tên gọi đó, không ai có thể phủ định.
Nhưng khi xuất hiện trong hai cụm từ
“Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và
“chế độ xã hội chủ nghĩa” thì
“xã hội chủ nghĩa” không hề đóng vai trò
tên gọi (được hiến định hay luật định), mà chỉ đơn thuần là một
tính từ, phản ánh
tính chất, đặc điểm thực tại của
“Tổ quốc” và
“chế độ”.
Vậy
“Tổ quốc” và
“chế độ” này có phải là
“xã hội chủ nghĩa” hay không? Nếu trước năm 2013 mà trả lời phủ định, thì có lẽ phải hứng chịu những đợt sóng thịnh nộ từ phía các
“chiến binh cầm bút”
của ĐCSVN. Nhưng may thay, trong buổi thảo luận của Quốc hội về Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp vào sáng 23/10/2013, Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú
Trọng đã thẳng thắn khẳng định cái điều mà bao người vẫn nghĩ, nhưng
thường tránh nói ra:
“Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.“
Xin cảm ơn! Vậy là cả ngài cũng đã thừa nhận, rằng
hiện tại và nhiều chục năm nữa, không thể coi “Tổ quốc” và “chế độ” này là “xã hội chủ nghĩa”. Nói cách khác, thực tế
không tồn tại cái gọi là “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và “chế độ xã hội chủ nghĩa” trên đất nước Việt Nam!
Hóa ra, Hiến pháp 2013 quy định
“Bảo vệ Tổ quốc không tồn tại là sự nghiệp của toàn dân”
và
“Lực lượng vũ trang nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chế độ không tồn tại.”
Tại sao Quốc hội lại hiến định loại nhiệm vụ “vu vơ” đến như vậy?
*
* *
Vẫn còn rất nhiều điều đáng bàn, song bài viết đã dài, và bằng ấy nội dung cũng đã đủ để cùng với hai bài
“Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?” và
“Hiến pháp vi hiến” khắc họa
chất lượng tầm bản nháp của cái văn bản mà 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII đã nhất trí tán thành chọn làm Hiến pháp.
Tại sao lại bất chấp mọi khuyên can, thông qua bằng được một bản dự thảo Hiến pháp với chất lượng như thế?
Hiến pháp ấy có xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn
hiến của Dân tộc, với trí tuệ của hơn 90 triệu khối óc, với tầm tư duy
của thời đại hay không?
Nhân dân ta có đáng phải chấp nhận một bản Hiến pháp như vậy hay không?
Câu hỏi chất chồng câu hỏi, băn khoăn quấn rối băn khoăn… Song buồn thay, những người đáng phải giải đáp lại cứ làm thinh.
* * * * * * * * * *
Phụ lục I
Điều 15 Hiến pháp 2013 là biến tướng của Điều 16 trong
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013), viết rằng:
“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.”
Như đã phân tích trong bài
“Teo dần quyền con người trong Hiến pháp“, đó là
thủ đoạn lợi dụng… từ “lợi dụng” để biến những hoạt động chính đáng và hợp pháp của công dân thành tội lỗi, nhằm
hạn chế trên lý thuyết và phủ định trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Để tránh bị phê phán như vậy, họ đã bỏ bớt từ
“lợi dụng” trong mệnh đề
“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm…”
và thay nó bằng
“Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm…”
Phụ lục II
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin,
Hiến pháp Đức quy định:
“Điều 5
(1) Mọi người có quyền tự do phát biểu và phổ biến quan điểm của
mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và tự do tìm hiểu thông tin từ
các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí và tự do thông tin
được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền này bị hạn chế bởi các quy định trong các luật phổ quát, bởi các quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu niên, và bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân.
(3) Nghệ thuật và khoa học, nghiên cứu và giáo dục là tự do.
Quyền tự do giáo dục không miễn trừ trách nhiệm trung thành với Hiến
pháp.”
Về quyền tự do lập hội, Hiến pháp Đức quy định:
“Điều 9
(1) Mọi người Đức có quyền lập hiệp hội và đoàn thể.
(2) Cấm các hội đoàn mà mục đích và hoạt động của chúng trái với
Bộ luật hình sự, hoặc chống lại trật tự hiến định hay sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc.
(3) Quyền thành lập hội đoàn nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện
lao động và kinh tế được bảo đảm cho mỗi người và mọi ngành nghề. Những
thỏa thuận nhằm hạn chế hay cản trở quyền này đều không có hiệu lực, các
biện pháp nhằm vào chúng đều là phi pháp. Các biện pháp theo Điều 12a, Điều 35 Khoản 2 và 3, Điều 87a Khoản 4 và Điều 91
không được chống lại các hoạt động đình công nhằm bảo vệ và thúc đẩy
điều kiện lao động và kinh tế của các hội đoàn được đề cập tại Khoản 1.”
Phụ lục III
“Convention on the Rights of the Child”, thường được dịch ra tiếng Việt là
“Công ước về Quyền trẻ em”, chỉ có điều sau đây là có vẻ gần nhất với nội dung
“trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”:
“Article 12
- States Parties shall assure to the child who is capable of forming his or her own views the right to express those views freely in all matters affecting the child, the views of the child being given due weight in accordance with the age and maturity of the child.
- For this purpose, the child shall in particular be provided the
opportunity to be heard in any judicial and administrative proceedings
affecting the child, either directly, or through a representative or an
appropriate body, in a manner consistent with the procedural rules of
national law.”
Trong
văn bản tiếng Việt tại
website của tổ chức UNICEF (
Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc), điều này được dịch như sau:
“Điều 12
- Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách phù hợp với tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em.
- Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em,
trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp,
theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp
luật quốc gia.“
Có lẽ ý
“trẻ em được… phát biểu… quan điểm… về tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em” trong đoạn dịch trên đã hóa thân thành cụm
“trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” trong Khoản 1
Điều 37 Hiến pháp 2013. Trước khi lý giải nguyên do hình thành, xin lưu ý ba khía cạnh mà người đọc có thể hiểu lầm qua
bản dịch tiếng Việt của UNICEF.
Thứ nhất, từ
“trẻ em” bóng bẩy có thể khiến người đọc hiểu lầm rằng nó dành cho cả
“giới trẻ em”, giống như từ
“thanh niên” dành cho cả
“giới thanh niên” và từ
“người cao tuổi” dành cho cả
“cộng đồng những người cao tuổi”. Thực ra,
“the child” (số ít) chỉ là dành riêng cho
cá nhân từng “đứa trẻ” cụ thể.
Thứ hai, người đọc có thể hiểu lầm, rằng Điều 12 đòi hỏi
“các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em” hai thứ: Một là
“có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình”; hai là
“được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em”. Vì hiểu như thế, nên trong
văn
bản tiếng Việt tại website của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền
con người và Quyền công dân (thuộc Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh), người ta đã dùng thêm dấu phẩy để phân tách hai thứ đó:
“Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em…”
Nhưng không phải như vậy! Điều 12 chỉ đòi hỏi
“các quốc gia thành viên phải bảo đảm” một thứ thôi, đó là
“cho trẻ em… được quyền tự do phát biểu những quan điểm…”, và
“quyền tự do phát biểu” đó chỉ cần được bảo đảm cho loại
“trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình” mà thôi.
Thứ ba, cụm từ
“mọi vấn đề tác động đến trẻ em” dễ khiến người đọc hiểu lầm là
“mọi vấn đề tác động đến” cả giới
“trẻ em” nói chung, trong khi
“all matters affecting the child” chỉ có nghĩa là
“tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến đứa trẻ”, tức là
” ảnh hưởng đến” chính bản thân cá nhân “đứa trẻ” (đang được đề cập).
Thực ra, Điều 12 của
“Công ước về quyền trẻ em” chỉ quy định về trách nhiệm
phải quan tâm đến nguyện vọng của đứa trẻ khi quyết định những chuyện liên quan đến bản thân nó, chứ không phải là
quan điểm của trẻ em về những vấn đề chung, liên quan đến cộng đồng trẻ em. Để tránh hiểu lầm, nên dịch Điều 12 của
“Convention on the Rights of the Child” một cách
“trần trụi” như sau:
“1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho những đứa trẻ nào có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng được quyền tự do phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân, và ý kiến của đứa trẻ phải được coi trọng thỏa đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của nó.
- Đặc biệt, vì mục đích đó, đứa trẻ phải được tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến nó,
trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp,
theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp
luật quốc gia.“
Sở dĩ ta dành thời gian để bàn kỹ về đoạn dịch trên, là để tìm hiểu cái lô-gíc hình thành của một loại
“chân lý” sai
lạc lưu truyền ở Việt Nam. Chúng vốn xuất hiện trong văn bản ngoại ngữ
nào đó, khi du nhập vào Việt Nam, được người dịch chọn những từ hoa mỹ
để chuyển ngữ một cách
“hào phóng”, thay cho cách thể hiện chính xác nhưng bị coi là thiếu văn vẻ. Ví dụ, có thể dịch
“the child” thành
“đứa trẻ”,
như vậy vẫn giữ nguyên được trạng thái số ít. Nhưng có lẽ người dịch e
rằng như vậy hơi thô thiển, nên đã dịch nó một cách văn vẻ thành
“trẻ em”. Hậu quả là: Người đọc dễ hiểu lầm sang số nhiều, không chỉ là một
“đứa trẻ” cụ thể, mà có thể là nhiều
“đứa trẻ” chung chung, thậm chí là cả cộng đồng các
“đứa trẻ”, tức là cả giới
“trẻ em”.
Tương tự như vậy, nếu dịch
“all matters” thành
“mọi chuyện” hay
“mọi thứ” thì có vẻ mộc mạc quá, nên chọn cách chuyển ngữ là
“các vấn đề”. Khi đã gọi là
“các vấn đề”, chứ không còn là
“các chuyện nhỏ”, nếu viết rằng
“phát biểu quan điểm về” chúng thì chưa đủ phong độ chính trị, nên chọn cụm từ
“tham gia vào”. Với tập quán tư duy văn vẻ theo định hướng chính trị như vậy, mệnh đề
“the child… the right to express those views in all matters affecting the child”
không được dịch thành
“đứa trẻ… được quyền phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân.”
Mà nó được dịch thành
“Trẻ em… được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.”
Phải chăng đó là cách tư duy đã đẻ ra cái cao kiến được hiến định tại Khoản 1
Điều 37 Hiến pháp 2013?
Phụ lục IV
Ngoài những trường hợp đã được đề cập trong hai phần
6 và
7, các tác giả của Hiến pháp 2013 còn
“lạm phát” ra nhiều thứ
“bảo đảm” khác.
Có những thứ
không hề được “bảo đảm” trên thực tế. Chẳng hạn:
“Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.” (Khoản 1
Điều 21)
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.” (Khoản 7
Điều 103)
“Chính quyền địa phương… bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương…” (Khoản 1
Điều 112)
Có những thứ
“bảo đảm” quá chung chung, không thể định lượng, hay xác định trạng thái, để xem đã
“bảo đảm” hay chưa. Ví dụ:
“Nhà nước… bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ…” (Khoản 2
Điều 62)
“Nhà nước… bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân…; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức…” (
Điều 68)
“Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ… hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội.” (Khoản 5
Điều 74)
“Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.” (Khoản 3
Điều 82)
Có những thứ
“bảo đảm” mơ hồ:
“Ngân sách nhà nước… bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia.” (Khoản 2
Điều 55)
Mọi chi tiêu của quốc gia đều được tính vào
ngân sách nhà nước, vậy chẳng nhẽ
“ngân sách nhà nước… bảo đảm” những thứ được tính vào ngân sách, hay sao? Còn nếu quan niệm
“bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia” là
“thỏa mãn nhu cầu chi của quốc gia”, thì mức độ
“đại ngôn” còn tệ hại hơn nữa.
“Tòa án nhân dân tối cao… bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.” (Khoản 3
Điều 104)
“Áp dụng thống nhất pháp luật” có nghĩa là gì? Vì tòa án áp dụng sai pháp luật là chuyện không hiếm, nên
“Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật” một cách sai trái hay sao?
Có những thứ
“bảo đảm” không kèm theo trách nhiệm, như:
“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ… góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.” (Khoản 3
Điều 107)
Nghĩa là chỉ cần
“góp phần bảo đảm” thôi, còn có
“bảo đảm” được hay không thì còn phụ thuộc vào các đối tác và các yếu tố khác. Hay:
“Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.” (Khoản 1
Điều 26)
“Quốc hội có những nhiệm vụ… Quyết định… các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia.” (Khoản 13
Điều 70)
Có nhiệm vụ quyết định các biện pháp, chính sách nhằm “bảo đảm…” không có nghĩa là
phải “bảo đảm…”. Trong chế độ mà
đường lối luôn được coi là đúng, mọi sai lầm đều thuộc khâu thực hiện, thì bộ máy hoạch định chính sách chẳng phải chịu trách nhiệm nào cả.
Có những thứ
“bảo đảm” vô thưởng vô phạt, chẳng kéo theo hệ quả cụ thể nào cả:
“Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, … bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.” (
Điều 52)
“Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ… bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia. (Khoản 2
Điều 98)
“Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.” (Khoản 6
Điều 103)
Và có cả thứ
“bảo đảm” không phải… “bảo đảm”, mà là được “bảo đảm”:
“Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được
giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các
điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.” (Khoản 3
Điều 112)
Tức là
“chính quyền địa phương” không phải “bảo đảm” điều gì, mà ngược lại, chỉ cần
“thực hiện một số nhiệm vụ… với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”.
Đặc biệt, Khoản 1
Điều 14 quy định rằng:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân… được… bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Nếu chỉ đọc qua, thì dễ tưởng rằng nội dung này trùng lặp với cái được
“bảo đảm” ở
Điều 3 Hiến pháp 2013. Song đây không phải là cam kết
“bảo đảm”, mà là
một thủ thuật để hạn chế quyền con người, quyền công dân, như đã phân tích trong bài
“Hiến pháp vi hiến”.
“Bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật“ không phải là
“bảo đảm” theo nghĩa thông thường, như mọi người vẫn hiểu, mà có nghĩa là
chỉ “bảo đảm” ở mức độ cụ thể theo quy định trong Hiến pháp và pháp luật mà thôi.
Ngày 10/9/2014
Bản gốc được lưu trữ tại trang
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=differentwritings
(với định dạng HTM và PDF)