MỘT MẦM “GORBACHEV VIỆT NAM” BỊ DIỆT
source: http://www.createforum.com/exodusforvietna/viewtopic.php?p=2773&mforum=exodusforvietna#2773
Nguyễn Thanh Giang
Cách hành xử của đảng CSVN đối với ông Trần Xuân Bách làm cho hầu hết
những ai quan tâm đến chính trường không khỏi sững sờ. Giáo sư Carl
Thayer – một chuyên gia Úc uyên thâm về nền chính trị Việt Nam hiện đại –
trong buổi phỏng vấn của đài BBC, khi được hỏi: “Ông có ngạc nhiên
trước cách thức người ta đối xử với ông Bách hay không? Từ một
lãnh đạo cao cấp, sau đó bị đưa ra ngoài rìa mà chẳng có sự
giải thích gì cả?”, đã nói:
“Điều làm cho nhiều người giật mình khi đọc qua thông cáo của
Đảng thì ông này bị cách chức và sa thải ngay lập tức. Tuy
nhiên nếu nhìn lại có lẽ chúng ta không thấy ngạc nhiên vì
cũng có một số nhân vật lãnh đạo khác tại Việt Nam như Võ
Nguyên Giáp và Nguyễn Cơ Thạch cũng đã bị cho về vườn theo
kiểu như vậy” .
Trường hợp tướng Võ Nguyên Giáp ( 1 ), dư luận cho rằng ông bị Lê Duẩn
“triệt hạ” để loại bỏ một người mà uy tín và tài năng có thể lấn át
mình. Đây là một nỗi éo le đau đớn, làm ảnh hưởng xấu đến cách mạng Việt
Nam ( 2 ).
Trần Xuân Bách thì bị sát thủ Đào Duy Tùng cầm đầu bọn giáo điều, thần phục Trung Quốc phang đòn chí mạng ( 3 ).
Không thể không khinh bỉ, căm giận bọn gian thần. Hãy bình tâm thẩm xét
lại để thấy: Trần Xuân Bách không những không chống ĐCSVN mà không chống
chủ nghĩa Marx, không chống chủ nghĩa xã hội, cũng chưa hề đòi đa đảng.
Chẳng những thế, ông thành kính tạ tội: “Ta phải nhận lỗi trước Mác vì
đã làm méo mó chủ nghĩa Mác”. Ông viết: “Lịch sử đang thay đổi mạnh. Mác
trao cho chúng ta vũ khí biện chứng duy vật và biện chứng lịch sử, chớ
không phải trao ta Kinh Thánh! Việc vận dụng những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử đương thời như Mác nói.
Mác sống thời chủ nghĩa tư bản cổ điển, ngày nay là chủ nghĩa tư bản
hiện đại, có nhiều cái khác với thời Mác. Ngay thời Lê-nin, khi đề ra
chính sách kinh tế mới (NEP), cũng đã đổi khác. Phải có tư duy khoa học.
Tụng từng câu “Kinh Thánh“ trong sách Mác không bảo vệ được chủ nghĩa
Mác đâu” ( 4 ).
Ông tìm cách cứu chủ nghĩa xã hội và tìm đường xây dựng một thứ CNXH
hiện đại, nhân ái: “Cho đến nay ta thấy có nhiều kiểu chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa xã hội kiểu Staline, chủ nghĩa xã hội kiểu Mao Trạch Đông,
kiểu Pôn Pốt. Bây giờ đang có nhiều ý kiến khác nhau về chủ nghĩa xã
hội. Những dòng ý kiến khác nhau là quá trình trưởng thành, không sợ gì
cả. Ở Liên Xô, người ta đang tranh luận Liên Xô ở vào thời kỳ nào của
chủ nghĩa xã hội, và khái niệm chủ nghĩa xã hội phát triển bị bác bỏ vì
nó được dùng để che đậy cho tình trạng trì trệ.
Vấn đề của mọi vấn đề hiện nay là tư duy khoa học. Đại hội 6 đã khởi
động theo hướng này và phải tiếp tục hoàn thiện thêm. Đại hội 6 đúc kết
bốn bài học có tính lý luận, tuy mới ở dạng sơ chế, lấy dân làm gốc, nắm
vững quy luật khách quan, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Đảng phải ngang tầm nhiệm vụ lịch sử. Bản thân Đảng phải trở thành
trí tuệ tiên phong của cả dân tộc, muốn thế phải có lý luận tiên phong.
Những gì đang diễn ra ở thế giới chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là tất yếu
khách quan, là sự phát triển tiến bộ, là thời kỳ thai nghén chủ nghĩa xã
hội đích thực (dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại)” ( 4 ).
Ông hướng theo con đường cải tổ của Gorbachev: “Ở Liên Xô, Gocbachốp coi
cải tổ là cuộc cách mạng với các thành phần và các nhân tố khác nhau,
đan xen nhau, thống nhất với nhau và độ dài của cải tổ có thể là hàng
chục năm. Đồng chí Gocbachốp nêu lên ba vấn đề chính của cải tổ dân chủ
hóa, hạch toán kinh tế và cải tổ Đảng, cải tổ để có chủ nghĩa xã hội
nhiều hơn. Đặt vấn đề như vậy là đúng chứ không sai. Kinh tế Liên Xô năm
1989 phát triển chậm. Nhưng theo Rưgiơcốp, mặc dù căng thẳng, song
không thể quay lại con đường cũ, vì đó là ngõ cụt. Năm 1989 là năm khó
khăn nhất của Liên Xô, nhưng rồi sẽ trở lại bình thường. Liên Xô rất
thận trọng trong vấn đề xử lý giá và tỉ giá, vì đây là một nước rất lớn”
( 4 ).
Và nghi ngờ tư duy bảo thủ, giáo điều của Trung Quốc: ”Ở Trung Quốc,
Giang Trạch Dân đọc diễn văn coi là đã giải quyết được cơ bản vấn đề ăn
no mặc ấm. Tôi rất nghi ngờ điều đó, Giang lại nêu lên độc lập tự chủ,
tự lực cánh sinh, kế hoạch hóa tập trung và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Cuộc cải cách của Trung quốc như vậy là đi theo chu kỳ vòng tròn, không
phải theo đường xoáy trôn ốc. Sau vụ đàn áp Thiên An Môn, Trung Quốc
không tuyên truyền về cải tổ ở Liên Xô nữa” ( 4 ).
Tội lớn của Trần Xuân Bách đối với Đảng chỉ là do ông đã hô hào phải đổi mới chính trị:
“ …vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là thế nào?
Có nước tự cho mình không cần đổi mới, đã bị bục vỡ. Có nước coi đổi mới
kinh tế phải làm nhanh, còn đổi mới chính trị thì chầm chậm cũng bục
chuyện. Có nước chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị, đã bục to.
Có nước làm cả hai, nhưng không nhịp nhàng, gặp khó khăn. Hai lãnh vực
này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một
chân” ( 4 ).
“Vấn đề đặt ra lúc này là phải đổi mới đồng bộ, tổng thể, cả cơ chế kinh
tế lẫn cơ chế chính trị. Hai vấn đề chủ yếu của cơ chế kinh tế là vấn
đề sở hữu và vấn đề thị trường (luận đề: Kế hoạch nằm trong chứ không
nằm ngoài và đứng trên thị trường). Hai vấn đề chính của cơ chế chính
trị là: quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh, vai trò lãnh đạo của
Đảng và quyền lực của nhân dân (luận đề: Đảng nằm trong chứ không nằm
ngoài và đứng trên xã hội )” ( 4 ).
Tội càng nặng hơn khi ông cổ súy dân chủ rất mạnh mẽ:
“Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng).
Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là
ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia.
Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo
gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại” ( 4 ).
Ông đòi phải để nhân dân tham gia quyết đinh vận mệnh dân tộc, chứ không chỉ mình ĐCSVN:
“Chỉ còn 10 năm nữa là bước sang thế kỷ XXI, dân tộc nào bị tụt hậu vào
giữa thế kỷ XXI là nguy hiểm vô cùng, vì đây là thời đại của cách mạng
khoa học kỹ thuật, của bùng nổ thông tin và giao lưu quốc tế.
Xử lý vấn đề này không thể một nhóm, một người nào làm được. Cả dân tộc phải chuẩn bị và làm công việc này” ( 4 ).
Bài viết này thắp một nén hương thơm kính viếng hương hồn ông nhân tưởng niệm 87 năm sinh của ông vì lẽ đó.
Trần Xuân Bách tên thật là Vũ Thiện Tuấn, sinh ngày 23 tháng 5 năm 1924
tại xã Nam Ninh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định ( ông cùng tuổi Tý nhưng
hơn tôi một giáp), đã từng giữ các chức vụ: Phó Bí thư Tỉnh ủy Ninh
Bình, Giám đốc Công an Khu III, Chánh Văn phòng Liên khu ủy III, Bí thư
Tỉnh ủy các tỉnh: Nam Định, Sơn Tây, Nam Hà, Trưởng Ban Tôn giáo vận
Trung ương, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Trong chiến dịch tấn công Campuchia năm
1979 ông tham gia Bộ chỉ huy tối cao với tư cách là Phó Chính ủy, sau
đó ông ở lại làm trưởng Ban B68 của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỉ đạo bộ
máy hành chính của Campuchia.
Ông là Bí thư Trung ương Đảng từ khóa V (1982). Tại Đại hội VI (1986),
ông được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và được
giao nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận.
Do lâm bệnh nặng, ông đã mất hồi 15 giờ 34 phút, ngày 1 tháng 1 năm 2006. Thọ 82 tuổi.
Trong tang lễ, Hà Sỹ Phu đã viếng đôi câu đối:
° Đường XUÂN đã hướng đa nguyên, sao để ước mơ về Chín suối?°
Chiếc BÁCH giữa dòng đơn độc, âu đành duyên nợ với Ba sinh!
Có một thời, Trần Xuân Bách làm bí thư tỉnh ủy Hà Nam Ninh (gồm ba tỉnh
ghép lại: Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình). Với hai giáo phận nổi tiếng:
Bùi Chu ở Nam Định và Phát Diệm ở Ninh Bình, cùng với những giáo xứ trải
dài ở các huyện duyên hải: Kim Sơn, Vụ Bản, Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Xuân
Trường, Giao Thủy, vùng đất này được mệnh danh là thủ đô của công giáo
miền Bắc. Lúc đó sự xung đột giữa công giáo và chính quyền xảy ra thường
xuyên ở khắp nơi. Nhưng riêng ở Hà Nam Ninh, dưới sự lãnh đạo mềm mỏng,
khôn khéo, và khoáng đạt của Trần Xuân Bách, đường làm ăn tương đối
thông thoáng, giá trị tinh thần của các tôn giáo tương đối được tôn
trọng hơn các nơi khác nên không có cuộc va chạm đáng tiếc nào xẩy ra.
Trình độ của ông nổi trội hơn hẳn đại đa số ủy viên Bộ Chính trị và Ban
Bí thư cùng nhiệm kỳ. Ngay thời đó, vợ tôi trong cương vị Chánh Văn
phòng Trung ương Liên hiệp Hội Phụ nữ Việt Nam, sau các buổi giao ban ở
Trung ương về đã đánh giá cao và rất ca ngợi Trần Xuân Bách.
Ông có tiếng là giản dị, trong sạch, thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và rất tôn trọng trí thức.
Năm 1987, trong không khí hồ hởi của Đổi mới, tôi gửi một bản kiến nghị
12 điểm lên một số nhà lãnh đạo (Nguyễn Văn Linh, Trần Xuân Bách, Võ văn
Kiệt, Võ Chí Công, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Khánh). Thư hồi âm duy nhất
tôi nhận được là của Trần Xuân Bách. Cuối 1999, người dẫn tôi đến nhà
Trần Xuân Bách lần đầu là lão thành cách mạng Phạm Hiện, người đã từng
là cận thần của Trần Xuân Bách trong cương vị Chánh Văn phòng Ban B68
của Đảng tại Campuchia. Từ bấy có thể nói chúng tôi đã trở nên khá thân
thiết. Trần Xuân Bách cùng phu nhân đã từng nhận lời mời đến ăn cơm ở
nhà tôi. Khi nhạc phụ Trần Xuân Bách qua đời, tôi có được báo tin và đã
cùng Trần Dũng Tiến sang tận Gia Lâm dự tang lễ. Mỗi khi tôi đến nhà,
Trần Xuân Bách thường ngồi sát vào tôi (ông hơi nặng tai). Một đôi khi
tôi quá sôi nổi, ông nắm tay tôi rất nhẹ. Cho đến giờ tôi vẫn không
khẳng định được đấy là cử chỉ tán thưởng hay sự nhắc nhở cần chừng mực.
Có điều là hôm nào ông cũng tiễn tôi ra tận cổng. Có lần còn níu tôi
lại, đi một vòng quanh sân để nói chuyện thêm. Thỉnh thoảng ông gửi đến
tôi một bài thơ mời họa, qua bưu điện; phong bì do ông cắt dán cầu kỳ,
tẩn mẩn.
Cuối 1989, trong quá trình chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam Trần Xuân Bách tập hợp một nhóm nghiên cứu gồm 5 người: Lê Hồng Tâm,
nhà kinh tế, tên thật là Phó Bá Doanh, em ruột của giáo sư Phó Bá Long
(Ông Phó Bá Long trước 1975 là Hiệu trưởng Trường Chình trị Kinh doanh,
Đại học Đà Lạt, sau là giáo sư Đại học Georges Town, Hoa Kỳ); Vũ Cao
Đàm, viện trưởng Viện nghiên cứu Chính sách thuộc Bộ Khoa học và Công
nghệ; Bùi Thế Vĩnh, viện trưởng Viện Hành Chính học, Học viện Hành chính
Quốc gia; Nguyễn Mạnh Tôn, chuyên viên Ngân hàng Ngoại thương và Nguyễn
Thanh Sơn, chuyên viên Ban Công nghiệp Trung ương ĐCSVN.
Từ những kết quả tư vấn của nhóm này, ông đã rút ra những kết luận cơ bản:
Một là, cần mạnh dạn thực hành chính sách kinh tế theo kiểu chính sách
kinh tế mới của Lênin, và gọi tên là “kinh tế thị trường”, với sự tham
gia của mọi thành phần xã hội;
Hai là, theo kinh tế quyết định luận của Marx, đã đa thành phần kinh tế,
tức là “đa nguyên kinh tế”, thì tất yếu sẽ dẫn đến “đa thành phần”
trong xu hướng chính trị, tức là “đa nguyên chính trị”.
Ba là, khẳng định rằng: “Thị trường và đa nguyên là những thành tựu nổi bật của nhân loại”.
Bốn là, cần quan tâm thực sự đến vấn đề hàn gắn vết thương dân tộc. Đấu
tranh cho công bằng xã hội là lý tưởng cao cả của người Cộng sản, nhưng
đáng tiếc, cải cách ruộng đất và cải tạo tư sản lại là hai cuộc vận động
đã mắc những sai lầm dẫn tới sự chia rẽ dân tộc lớn nhất trong lịch sử
nước nhà.
Năm nhà nghiên cứu này về sau đã ghi lại những ấn tượng rất tốt đẹp trong bài viết “ Ông Trần Xuân Bách – Một tấm lòng son”:
“Trong suốt những ngày làm việc với anh Bách, chúng tôi học được ở anh
tấm gương làm việc nghiêm túc. Anh đọc và trao đổi ý kiến rất tỉ mỉ về
tất cả những công trình của các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước
mà chúng tôi giúp anh sưu tầm. Anh rất thích những tài liệu nguyên gốc
bằng tiếng Pháp … Anh luôn luôn tự viết tất cả những bài anh cần phát
biểu trên các diễn đàn.
… Tuy là những người có nhiều cơ hội làm việc với các nhà lãnh đạo,
nhưng chúng tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng vì cách làm việc của anh: khi
anh cần gặp riêng một người nào đó trong chúng tôi, anh hầu như không
cho thư ký gọi chúng tôi lên văn phòng, mà chính anh đến tận nơi chúng
tôi làm việc, với chiếc xe Peugeot 404 đã cũ, không có bảo vệ và cần vụ
đi cùng (cần vụ là cách gọi những người phục vụ sinh hoạt cho các nhà
lãnh đạo), mặc dầu khi đó anh đã là nhà lãnh đạo rất cao cấp của ĐCSVN.
Những lần làm việc như thế, thường khi anh ngồi riêng với chúng tôi cả
buổi, cũng không có thư ký, không có bảo vệ và cần vụ, chỉ một mình anh.
Có lần ngồi quá trưa, chúng tôi lo anh đói, hỏi anh có muốn ăn chút gì
không, và anh đã rất hào hứng ăn nắm xôi gói lá dong riềng mà các chị
trong cơ quan chúng tôi ra phố mua ở các quán bán xôi dành cho dân
nghèo.
… Trong số những kỷ niệm còn lưu đọng mãi trong chúng tôi, là hồi tết
nguyên đán năm 1990, anh chị mời chúng tôi đến biệt thự mà anh chị được
Văn phòng Trung ương Đảng bố trí trên phố Phan Đình Phùng (thời Pháp có
tên là phố Carnot, một trong những phố đẹp nhất của Hà Nội hiện nay).
Chúng tôi vô cùng sững sờ: Trong căn biệt thự sang trọng, chúng tôi nhận
ra toàn một loại đồ gỗ tồi tàn, mà thời đó được gọi là bàn ghế “tài
chính”, tủ “tài chính”, giường “tài chính”, nghĩa là những đồ gỗ do Bộ
Tài chính đóng hàng loạt bằng gỗ tạp để phân phát đồng loạt cho cán bộ
nhà nước các cấp từ khi vào tiếp quản các thành phố lớn, năm 1954. Chúng
tôi nhìn quanh bàn làm việc của anh, thấy dán chi chít những bài thơ
mộc mạc với nét chữ nắn nót mực tím của các cháu viết tặng bố mẹ. Chúng
tôi được anh chị tiếp đón với những món mứt đơn sơ truyền thống, nhưng
thật ấm áp như những người trong nhà. Tuy là vợ một nhà lãnh đạo cao
cấp, nhưng chị xử sự thật khiêm nhường, chị giản dị xưng “em” với chúng
tôi, không thể hiện chút gì là cao xa theo kiểu các mệnh phụ phu nhân”.
Hà Nội 23 tháng 5 năm 2011
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý
Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Mobi: 0984 724 165
Phụ lục:
( 1 ) Đã từng nổi lên cuộc tranh luận: Tướng Giáp có được quốc tế xem là
một trong các tướng tài của nhân loại không? Một vài bài đăng trên một
số báo Đảng khẳng định là không. Đại tá Phạm Quế Dương phản bác và điều
này trở thành một trong những lý do để ông bị trù dập. Sự thật là như
sau:
Tháng 2 năm 1994 hội Hoàng gia Anh tổ chức một Hội thảo Quốc tế lớn có
sự tham gia của 478 nhà khoa học về lịch sự quân sự nổi tiếng từ các
nước. Tại đây 10 vị tướng soái kiệt xuất trong lịch sử nhân loại đã được
bầu chọn.
Thời cổ đại 3 vị: Hannibal (Hy lạp), César (La mã), Alexandre (Nam tư). Cả 3 vị đều được 100% số phiếu.
Thời trung đại: Hưng Đạo Vương Trần quốc Tuấn, 100% số phiếu.
Thời cận đạị 4 vị: Cromwell (Anh) 70% số phiếu. Pierre đại đế (Nga) 70%
số phiếu, Napoléon (Pháp) 100% số phiếu, Cutujov (Nga) 72% số phiếu.
Thời hiện đại 2 vị: Jukov (Liên xô) 100% số phiếu, Võ nguyên Giáp 100% số phiếu.
( 2 ) Nếu bộ ba Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ( tôi không
kể thêm Trường Chinh ) thực sự chi phối được ĐCSVN thì cuộc chiến Nam
Bắc đã kết thúc một cách khác; Việt Nam không phải đánh nhau với
Campuchia và Trung Quốc; cũng không bị cấm vận và quan hệ với Hoa Kỳ đã
được thiết lập sớm hơn.
Lê Duẩn sử dụng cánh tay phải Lê Đức Thọ chơi đòn hiểm: vu cáo Võ Nguyên
Giáp là con nuôi mật thám Pháp để trù diệt vị tướng này. Mặc dù quý
trọng người tài đã giúp mình lập nên sự nghiệp nhưng Cụ Hồ không dám bảo
vệ vì chính cụ cũng bị liên minh ma quỷ Duẩn – Thọ khống chế nghiệt
ngã. Chuyện tình dục giữa Cụ với bà Nông thị Xuân nhẽ ra có thể bình
thường hóa, song họ đã biến vụ này thành một cái tròng ngoắc vào cổ để
họ vô hiệu hóa và hoàn toàn điều khiển được Cụ. Ông Vũ Kỳ - cận thần của
cụ Hồ - còn kể rằng cụ Hồ suýt bị liên minh Duẩn – Thọ hạ sát.
( 3 ) Đào Duy Tùng nổi tiếng là “đao phủ” của “Đổi mới”.
Bản tin BBC ngày 4 tháng 1 năm 2006 viết: “Ông Trần Xuân Bách, một trong
những nhà chính trị nổi bật của Ðảng Cộng Sản Việt Nam vừa từ trần hôm
mùng 1 tháng Giêng ở Hà Nội sau gần 2 tuần lễ bị bệnh nặng, thọ 83 tuổi.
Trong những năm cuối thập kỷ 1980 và đầu 1990, ông Bách được các nhà
quan sát chính trị Châu Á coi là nhân vật có tư tưởng cởi mở nhất của
Ðảng Cộng Sản Việt Nam, và từng có tin nói ông có triển vọng được chọn
làm Tổng Bí Thư”.
Tác giả Alejandro Reyes, trong một bài viết đăng trên Asiaweek năm
1996, thì cho rằng ông Trần Xuân Bách bị loại khỏi ban lãnh đạo
đảng còn ông Đào Duy Tùng, một người “bảo thủ về ý thức hệ”
đã vận động mạnh sau hậu trường để lên cao hơn.
Người ta còn kể rằng, nghe Đào Duy Tùng mách Trần Độ đã phát biểu: “Đánh
giá một tác phẩm nghệ thuật thì ý kiến của TBT cũng giống như ý kiến
của một công chúng bình thường”, ông Linh đã nổi giận mắng Trần Độ rằng
“Anh nói thế là anh xúc phạm tôi nặng nề”. Cuối cùng TBT Linh viết thư
cho Trần Độ “Dạo này tôi bận lắm, vì vậy có chuyện gì về văn hóa văn
nghệ anh nói với anh Đào Duy Tùng, chứ đừng nói chuyện với tôi nữa”.
( 4 ) Trần Xuân Bách – Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?:
“Chủ nghĩa xã hội thế giới đang đứng trước những thử thách lớn
Một điểm rất thống nhất của toàn xã hội, toàn thể nhân dân hiện nay là
trăn trở với tình hình trên thế giới và trong nước. Muốn đưa dân tộc ta
tiến lên. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu ta bình chân như vại trước
tình hình hiện nay là thiếu trách nhiệm.
Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang đứng trước những thử thách lớn và
những triển vọng lớn. Do từ những thử thách của thời đại và những triển
vọng lớn cũng là do thời đại. Tất cả các dân tộc đều trong hoàn cảnh bức
xức, cả chủ nghĩa tư bản, cả chủ nghĩa xã hội, cả loài người đều như
vậy. Có hai lý do của sự bức xúc:
Chỉ còn 10 năm nữa là bước sang thế kỷ XXI, dân tộc nào bị tụt hậu vào
giữa thế kỷ XXI là nguy hiểm vô cùng, vì đây là thời đại của cách mạng
khoa học kỹ thuật, của bùng nổ thông tin và giao lưu quốc tế.
Xử lý vấn đề này không thể một nhóm, một người nào làm được. Cả dân tộc phải chuẩn bị và làm công việc này.
Diễn biến chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa đang căng thẳng, phức
tạp và dây chuyền. Vì sao có tính dây chuyền? Vì ta ở trong thời đại
thông tin, không thể bưng bít thông tin được. Ai bưng bít thông tin là
lạc hậu nhất. Phải cung cấp thông tin đầy đủ để người ta lựa chọn.
Không thể nghĩ rằng ở châu Âu thì sôi sục, còn châu Á thì ổn định. Không
thể chủ quan cho mình là ổn định. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều
nằm trong sự vận động để tiến lên, đều có những mâu thuẫn lớn, đều phải
phá vỡ sức đè nén của những cái cũ, không anh nào có thể yên trí mình ổn
định được. Có khi tuần này còn huênh hoang, tuần sau đã bị đảo lộn.
Tình hình chung hiện nay là biểu hiện của tư duy khoa học đang lấn át tư
duy giáo điều, tư duy khoa học đang thay thế tư duy giáo điều. Lịch sử
đang thay đổi mạnh. Mác trao cho chúng ta vũ khí biện chứng duy vật và
biện chứng lịch sử, chớ không phải trao ta Kinh Thánh! Việc vận dụng
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử
đương thời như Mác nói.
Mác sống thời chủ nghĩa tư bản cổ điển, ngày nay là chủ nghĩa tư bản
hiện đại, có nhiều cái khác với thời Mác. Ngay thời Lê-nin, khi đề ra
chính sách kinh tế mới (NEP), cũng đã đổi khác Phải có tư duy khoa học.
Tụng từng câu „Kinh Thánh“ trong sách Mác không bảo vệ được chủ nghĩa
Mác đâu. Ngay cả về chủ nghĩa xã hội hiện nay đang có những cuộc tranh
luận để hiểu nó thế nào cho đúng. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản là đi tới một xã hội, trong đó sự phát triển toàn diện
của mọi người là điều kiện cho sự phát triển toàn diện của xã hội [1]
như Mác và Ănghen nói trong „Tuyên ngôn Cộng sản“. Còn cụ thể như thế
nào thì ta phải tìm. Trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7, có thảo luận
một vấn đề thú vị: Ban Văn hoá Tư tưởng đề nghị nêu những thuộc tính của
chủ nghĩa xã hội, nhưng bị bác bỏ.
Ta phải nhận lỗi trước Mác vì đã làm méo mó chủ nghĩa Mác
Cho đến nay ta thấy có nhiều kiểu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội
kiểu Staline, chủ nghĩa xã hội kiểu Mao Trạch Đông, kiểu Pôn Pốt. Bây
giờ đang có nhiều ý kiến khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Những dòng ý
kiến khác nhau là quá trình trưởng thành, không sợ gì cả. Ở Liên Xô,
người ta đang tranh luận Liên Xô ở vào thời kỳ nào của chủ nghĩa xã hội,
và khái niệm chủ nghĩa xã hội phát triển bị bác bỏ vì nó được dùng để
che đậy cho tình trạng trì trệ. Ta phải nhận lỗi trước Mác vì đã làm méo
mó chủ nghĩa Mác. Ta đã chọn một mô hình, mà mô hình đó là sự lai ghép
chủ nghĩa xã hội phương Tây với chủ nghĩa xã hội phương Đông. Bây giờ ta
phải gỡ ra khỏi hai thứ giáo điều ấy.
Phải tiếp tục hoàn thiện tư duy khoa học của Đại hội 6
Vấn đề của mọi vấn đề hiện nay là tư duy khoa học. Đại hội 6 đã khởi
động theo hướng này và phải tiếp tục hoàn thiện thêm. Đại hội 6 đúc kết
bốn bài học có tính lý luận, tuy mới ở dạng sơ chế, lấy dân làm gốc, nắm
vững quy luật khách quan, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Đảng phải ngang tầm nhiệm vụ lịch sử. Bản thân Đảng phải trở thành
trí tuệ tiên phong của cả dân tộc, muốn thế phải có lý luận tiên phong.
Những gì đang diễn ra ở thế giới chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là tất yếu
khách quan, là sự phát triển tiến bộ, là thời kỳ thai nghén chủ nghĩa xã
hội đích thực (dân chủ, khoa học,nhân đạo, hiện đại)
Hai xu thế chủ yếu chuyển sang kinh tế hàng hóa và dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa, đó cũng là hai cái mà Đại hội 6 khởi động.
Dân chủ không phải là ban ơn
Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng).
Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là
ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia.
Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo
gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại.
Từ hai vấn đề đó, xẩy ra một vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị là thế nào? Có nước tự cho mình không cần đổi mới, đã bị
bục vỡ. Có nước coi đổi mới kinh tế phải làm nhanh, còn đổi mới chính
trị thì chầm chậm cũng bục chuyện. Có nước chỉ đổi mới kinh tế, không
đổi mới chính trị, đã bục to. Có nước làm cả hai, nhưng không nhịp
nhàng, gặp khó khăn. Hai lãnh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước
chân sau, không tấp tểnh đi một chân.
Từ nay đến hết thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội thế giới sẽ hoàn thiện và
trưởng thành một bước lớn. Trong quá trình biến động này, mất đi cái gì?
Mất chủ nghĩa xã hội kiểu quan liêu–hành chánh, bao cấp, mất tư duy
giáo điều. Và như thế là đúng lý luận của Mác, là phủ định của phủ định.
Đây là thời kỳ thai nghén chủ nghĩa xã hội đích thực. Phải có bà đỡ là
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có bà đỡ khéo tay, có bà đỡ vụng tay, nhưng
phải có bà đỡ.
Cần phải khách quan, bình tĩnh và đổi mới
Ở Trung Quốc, Giang Trạch Dân đọc diễn văn coi là đã giải quyết được cơ
bản vấn đề ăn no mặc ấm. Tôi rất nghi ngờ điều đó, Giang lại nêu lên độc
lập tự chủ, tự lực cánh sinh, kế hoạch hóa tập trung và tư tưởng Mao
Trạch Đông. Cuộc cải cách của Trung quốc như vậy là đi theo chu kỳ vòng
tròn, không phải theo đường xoáy trôn ốc. Sau vụ đàn áp Thiên An Môn,
Trung Quốc không tuyên truyền về cải tổ ở Liên Xô nữa.
Ở Liên Xô, Gocbachốp coi cải tổ là cuộc cách mạng với các thành phần và
các nhân tố khác nhau, đan xen nhau, thống nhất với nhau và độ dài của
cải tổ có thể là hàng chục năm. Đồng chí Gocbachốp nêu lên ba vấn đề
chính của cải tổ dân chủ hóa, hạch toán kinh tế và cải tổ Đảng, cải tổ
để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Đặt vấn đề như vậy là đúng chứ không
sai. Kinh tế Liên Xô năm 1989 phát triển chậm. Nhưng theo Rưgiơcốp, mặc
dù căng thẳng, song không thể quay lại con đường cũ, vì đó là ngõ cụt.
Năm 1989 là năm khó khăn nhất của Liên Xô, nhưng rồi sẽ trở lại bình
thường. Liên Xô rất thận trọng trong vấn đề xử lý giá và tỉ giá, vì đây
là một nước rất lớn.
Trước cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, cần phải khách quan,
bình tĩnh và phải đánh giá theo quan niệm đổi mới. Sau hội nghị 7 của
trung ương, chúng tôi đã rút kinh nghiệm. Ngày 25-11-1989 Bộ Chính trị
chúng tôi đã họp và đánh giá tình hình các nước Đông Âu theo quan điểm
đổi mới. Cuộc khủng hoảng ở các nước đó diễn ra trong bối cảnh khoa học
kỹ thuật và giao lưu quốc tế phát triển mạnh, ý thức độc lập và dân chủ
tăng nhanh và thông tin bùng nổ. Tập thể Bộ Chính trị phân định có hai
loại mâu thuẫn cần chú trọng: mâu thuẫn nội tại tích tụ lâu ngày của chủ
nghĩa xã hội và mâu thuẫn giữa hai hệ thống. Nguyên nhân khủng hoảng là
lãnh đạo sai lầm, vi phạm dân chủ, duy ý chí, bảo thủ trì trệ, đổi mới
lệch lạc, đội ngũ đảng viên cán bộ thoái hóa, hư hỏng. Trong khi đó thì
chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động triệt để lợi dụng. Bọn đế quốc ngay
từ khi chủ nghĩa cộng sản ra đời, đã kịch liệt chống lại và luôn nói tới
cái chết của chủ nghĩa cộng sản, không có gì mới.
Thái độ của Đảng ta là rút kinh nghiệm hội nghị 7, cần tránh cả hai thái
độ hốt hoảng (cho chủ nghĩa xã hội đang có nguy cơ mất ở Đông Âu) và
chủ quan (cho mình chẳng có vấn đề gì lớn, vẫn giả định). Bộ Chính trị
quyết định: Phải tiếp tục đổi mới, phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ trong
Đảng từ trên xuống dưới, từ Bộ Chính trị trở đi. Cần quán triệt và thực
hiện nghị quyết Đại hội 6, nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về công tác
đối ngoại và nghị quyết trung ương lần thứ 6 về cơ cấu kinh tế.
Không thể dùng quyền lực thay cho năng lực
Vấn đề năng lực của Đảng nổi lên hàng đầu trong lúc này. Không thể dùng
quyền lực thay cho năng lực. Thời đại nào có trí tuệ của thời đại ấy.
Đảng phải có năng lực trí tuệ.
Xã hội ta đã chớm vui vì sức ép lạm phát và thị trường có giảm đi nhưng
lòng dân vẫn còn chưa yên. Dân đang đòi hỏi dân chủ hóa, đòi hỏi công
bằng xã hội, đòi hỏi cán bộ, đảng viên và Đảng phải vươn lên vị trí tiên
phong. Đảng phải kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại,
không như thế thì không giữ được vai trò lãnh đạo.
Đừng đổ lỗi cho cải tổ, đổi mới, cải cách. Đổi mới là cái gương để ta
soi. Nếu mặt bị nhơ chỉ rửa mặt chứ không phải là đập vỡ gương.
Vấn đề đặt ra lúc này là phải đổi mới đồng bộ, tổng thể, cả cơ chế kinh
tế lẫn cơ chế chính trị. Hai vấn đề chủ yếu của cơ chế kinh tế là vấn đề
sở hữu và vấn đề thị trường (luận đề: Kế hoạch nằm trong chứ không nằm
ngoài và đứng trên thị trường). Hai vấn đề chính của cơ chế chính trị
là: quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh, vai trò lãnh đạo của Đảng và
quyền lực của nhân dân (luận đề: Đảng nằm trong chứ không nằm ngoài và
đứng trên xã hội )”.
Các bài trong Blog được collect từ nhiều nguồn & các bài viết trong blog này không thể hiện quan điểm của chủ BLog!
Tổng số lượt xem trang
Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011
Nếu xung đột không bên nào thắng 07 June 2011
Nếu xung đột không bên nào thắng
VietnamDefence - Vừa trở về từ Đối thoại Shangri-La, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, lại chuẩn bị chuyến công du Indonesia dự Hội nghị quốc phòng khu vực ASEAN vào ngày 7.6.
Muốn giải quyết được những vấn đề tương tự, chúng ta phải bằng chính nỗ lực, nội lực của mình và giải quyết với chính nước có vấn đề với Việt Nam, cụ thể ở đây là Trung Quốc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đóng cửa.
Last Updated ( 11:03 AM, 07/06/2011)
Dành cho Tuổi Trẻ cuộc trao đổi tối 6-6, ông nói: Tại Đối thoại Shangri-La, vấn đề Biển Đông được dư luận quốc tế hết sức quan tâm.
Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh trong buổi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ
ngày 6.6 sau khi trở về từ Đối thoại Shangri-La (Việt Dũng) |
Có hai lý do: Thứ nhất là lợi ích trên Biển Đông ngày càng phát triển, can dự của các nước lớn vào đây ngày càng nhiều. Thứ hai, tuy cho rằng, tình hình Biển Đông về cơ bản là ổn định, các nước đều mong muốn hòa bình để phát triển, nhưng những sự kiện gần đây cho thấy Biển Đông là khu vực không hề yên tĩnh.
Về phía nước ta đã mang đến Đối thoại Shangri-La thông điệp rất rõ ràng. Trước hết bày tỏ mong muốn Biển Đông là khu vực hòa bình, ổn định, nhưng phải trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng luật pháp quốc tế. Việt Nam giải quyết các vấn đề trên Biển Đông bằng giải pháp hòa bình và công khai, minh bạch. Việt Nam cũng đề nghị cần phải chấm dứt, không để tái diễn các sự kiện trên Biển Đông có thể dẫn đến leo thang về tranh chấp, đặc biệt có thể làm ngòi nổ cho các cuộc xung đột.
Nếu có xung đột trên Biển Đông thì không bên nào thắng, thiệt hại trước hết cho các nước tham gia xung đột và ảnh hưởng đến tất cả những nước có lợi ích ở khu vực.
Trên cơ sở quan điểm chính thống như vậy, Đoàn Việt Nam đã nêu sự kiện ngày 26.5 (sự kiện tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam - PV) như là một báo động cho việc không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Quan điểm của Việt Nam là các nước có xung đột giải quyết với nhau trên tinh thần cùng lợi ích nhưng công khai, minh bạch và tôn trọng luật pháp quốc tế. Không nước nào, không thế lực nào được quyền tự đặt ra những luật lệ riêng của họ, không có nước nào được bước qua luật lệ quốc tế đã được thừa nhận hoặc là những thông lệ trong hành xử của thế giới hiện đại ngày nay.
* Với những diễn biến gần đây trên Biển Đông, theo ông, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cần thiết cho Việt Nam?
- Đối với những vấn đề cụ thể như sự kiện ngày 26.5, chúng ta phải nhìn nhận đúng bản chất trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đây là vụ việc nghiêm trọng về tính chất cũng như hệ lụy lâu dài. Việc tàu chấp pháp của nước ngoài vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam để hoạt động mang tính chất pháp luật là hiếm có trong quan hệ trên biển. Việc này vừa gây thiệt hại kinh tế cho Việt Nam, vừa là một hành động bạo lực dưới danh nghĩa dân sự.
Nếu bạo lực đó không được kiềm chế thì sẽ phát triển leo thang. Trung Quốc dựa trên cơ sở nào để có hành xử như vậy?
Nếu về luật quốc tế thì chỉ có duy nhất “đường 9 khúc” mà Trung Quốc tự đưa ra, mà theo tôi được biết chưa có nước nào hay tổ chức quốc tế nào thừa nhận và chưa có chứng lý nào khả dĩ để chứng minh. Như vậy, phải chăng Trung Quốc đang đi những bước đầu tiên để hiện thực hóa “đường 9 khúc”? Nếu vấn đề này là có thật thì rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến lợi ích không chỉ Việt Nam mà nhiều nước khác.
“Điều tôi mong muốn nhất là làm sao người dân hiểu chỉ có dựa vào chính mình mới giải quyết được việc của mình, không thể dựa vào ai để giải quyết được vì đó chỉ là nhân tố bên ngoài.
Chúng ta tin rằng, có thể giải quyết được trong hòa bình và vẫn giữ được chủ quyền lãnh thổ. Quá khó khăn nhưng nếu phân tích dưới góc độ lợi ích, chúng ta hy vọng. Hy vọng đó xuất phát từ sự tin tưởng vào lãnh đạo các nước lớn tính toán lợi ích chiến lược của chính họ...
Người có quyền quyết định là người lãnh đạo, nhưng người có tiếng nói lại là nhân dân. Như lời Đại tướng Lê Đức Anh (nguyên Chủ tịch nước - PV) nói tôi rất phục, đối tượng ta cần tuyên truyền đầu tiên chính là nhân dân ta và người dân Trung Quốc”.
|
Chúng ta giải quyết trực tiếp với nước có tranh chấp, không lôi ai vào đây để cùng giải quyết, không nhờ vả ai để tạo lợi thế trong giải quyết vấn đề. Nhưng chúng ta công khai, minh bạch, ví dụ như những phát biểu tại Đối thoại Shangri-La của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sẽ làm cho cộng đồng thế giới hiểu được ai đúng, ai sai và họ sẽ phán quyết về mặt lương tâm là lẽ phải thuộc về bên nào.
Tiếp theo, chúng ta giải quyết bằng biện pháp hòa bình, và chúng ta có cơ sở để kiên trì giải pháp hòa bình trên tinh thần tăng cường đoàn kết, hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Trong thế giới toàn cầu hóa, Trung Quốc cần một hình ảnh tốt đẹp để phát triển quan hệ ngoại giao, kinh tế, xã hội...
Trong không gian phát triển của Trung Quốc, phía Nam là hướng tương đối ổn định, khu vực ASEAN là cửa ngõ để Trung Quốc vươn ra xa hơn. Liệu Trung Quốc có thể “cắt” cái cửa này được không, làm cho khu vực này có những quốc gia không bằng lòng với chính sách của Trung Quốc được không?
Chúng ta tin tưởng các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu được vấn đề này. Trên cơ sở nhận thức như vậy, nhưng giải pháp của chúng ta sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta và lợi ích cho chính Trung Quốc, và có thể sẽ được hiện thực hóa trong tương lai, tất nhiên nó sẽ vô cùng lâu dài và khó khăn, nhưng phải kiên trì.
Vấn đề cần thiết nữa là chúng ta phải tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau với Trung Quốc. Chúng ta muốn hòa bình, hòa hiếu, chỉ muốn giữ mảnh đất, vùng biển của chúng ta theo điều luật quốc tế quy định, và chúng ta cần giữ được độc lập tự chủ về đường lối.
Khi nói để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm và là nét đặc trưng. Chúng ta phải tăng cường các hoạt động đánh cá vùng biển xa, kêu gọi hợp tác đầu tư ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, hình thành lực lượng kiểm ngư, phát triển Trường Sa ngày càng tốt lên, giao lưu giữa biển đảo và bờ...
Một điểm nữa là tuyên truyền trong nhân dân. Nhân dân ta rất yêu nước, sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ Tổ quốc. Cần tuyên truyền để dân ta hiểu Công ước Luật biển 1982 là thế nào, Biển Đông của chúng ta đến đâu, chúng ta phải hành xử thế nào, các nước hành xử ra sao... để mỗi người đều có tinh thần đấu tranh nhưng phải trên cơ sở luật pháp quốc tế, đấu tranh chính xác để các nước tâm phục khẩu phục, chứ không phải chỉ là những lời nói suông. Chúng ta cũng phải tuyên truyền rộng rãi để cộng đồng thế giới biết ai đúng ai sai.
Trở lại câu chuyện tại Đối thoại Shangri-La, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nói: "Có người hỏi tôi: Ngài có thất vọng không trước phát biểu của một số nước năm trước rất cứng rắn, năm nay dịu giọng khác hẳn?”. Tôi đáp: Tôi nhận thấy điều đó, nhưng tôi không thất vọng. Trước hết là vì chúng tôi không đặt cược vào phát biểu của các nước đó. Thứ hai, tôi nghĩ do sự kiện ngày 26.5 mới diễn ra ngay trước thềm hội nghị nên thông tin về vụ việc cũng như hệ lụy của nó chưa được hiểu đầy đủ. Tôi tin một thời gian nữa khi họ hiểu đầy đủ, họ sẽ nhắc lại vấn đề này”.
Trong thế giới mở, toàn cầu hóa hiện nay, khi có xung đột, không nước nào đứng ngoài được. Không nước nào trục lợi được cả, có chăng là trục lợi cục bộ, trục lợi tham lam. Còn nếu muốn tìm kiếm lợi ích thật sự cho đất nước mình một cách chính đáng và lâu dài thì xung đột không đem lại lợi ích cho ai cả.
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh ấy là sức mạnh chính nghĩa, được thế giới thừa nhận và ngay chính nội bộ, nhân dân đất nước gây hấn với chúng ta cũng đồng tình với chính nghĩa của chúng ta. Đó là quyền lực mềm, trong thế giới ngày nay điều đó vô cùng quan trọng. Quyền lực mềm ấy chi phối mọi hành động từ chính trị, kinh tế tới văn hóa, xã hội...
Điểm cuối cùng là chúng ta cần quan tâm xây dựng quân đội tinh gọn, hiện đại. Không trang bị vũ khí có tính chất tấn công mà chỉ mang tính tự vệ. Không tham gia các liên minh quân sự. Đặc biệt không gây lo ngại cho bất kỳ quốc gia nào về đe dọa sử dụng vũ lực. Vừa rồi chúng ta mua tàu ngầm, máy bay... hoàn toàn là để phòng thủ.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Đối thoại Shangri-La nói rằng tàu ngầm của chúng tôi chỉ hoạt động ở vùng biển Việt Nam. Đó là điều rất hiếm, rất đặc sắc Việt Nam.
* Năng lực quân sự hiện nay đã đủ đáp ứng yêu cầu về phòng thủ Biển Đông, thưa ông?
- Tôi xin nói ngay với tư cách chuyên gia quân sự rằng, không bao giờ là đủ đối với trang bị quân đội bất kỳ nước nào. Trang bị quốc phòng bao giờ cũng ở tình thế cần phát triển. Chúng ta trang bị vũ khí vừa đủ theo đường lối quân sự Việt Nam, cách đánh của Việt Nam. Tin rằng, với sức mạnh tổng hợp như đã nói, chúng ta có thể giành chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
* Nhưng vấn đề là chúng ta kiểm soát toàn bộ vùng biển thuộc chủ quyền của ta ra sao để có thể phát hiện và ngăn chặn kịp thời sự xâm nhập và xâm nhập rất sâu vào vùng chủ quyền Việt Nam để gây hấn của tàu nước ngoài?
- Việc kiểm soát vùng biển của mọi quốc gia đều vô cùng khó khăn. Chúng ta đang cố gắng kiểm soát tốt nhất vùng biển của mình. Nhưng như sự việc ngày 26.5 vừa qua, việc lưu thông vô hại là quyền của các nước, ta không có quyền ngăn cấm, ngược lại ta còn phải bảo vệ họ. Tàu hải giám Trung Quốc vi phạm là khi bắt đầu lao vào tàu Bình Minh 02 cắt cáp.
* Sự phối hợp giữa các lực lượng như hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, kiểm ngư... như thế nào để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh an toàn cho ngư dân?
- Chủ trương của ta trong các va chạm dân sự thì các chủ thể dân sự giải quyết với nhau trên cơ sở giám sát của các cơ quan pháp luật, cơ sở luật pháp quốc tế và nước mình. Quân đội theo dõi, giám sát chặt chẽ không để vụ việc leo thang, nhưng không tham gia giải quyết. Như vụ tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 vừa rồi, ta không đưa Hải quân trở thành chủ thể giải quyết. Khác nhiều nước ở chỗ ấy.
Có người hỏi tôi: sao ngư dân ta bị các nước bắt thì bị phạt tiền, xử nặng nhưng khi ngư dân họ vi phạm pháp luật, chủ quyền của ta, ta không hành xử như thế? Ngư dân các nước cũng là người lao động, là dân nghèo. Lỗi của họ chỉ là phần nhỏ. Lỗi chính là ở người quản lý họ. Nếu vi phạm mình lập biên bản, bắt viết cam kết không tái phạm, nếu tái phạm sẽ xử lý trước pháp luật. Rồi mình cung cấp dầu, nước, lương thực mời họ ra. Cái đó là truyền thống dân tộc mình.
Nếu ngư dân mình vi phạm luật pháp nước khác, mình đồng tình xử lý theo pháp luật, nhưng một điều không chấp nhận được là đối xử vô nhân đạo với ngư dân. Cắt dầu, cắt nước, cắt lương thực, tháo dỡ các phương tiện đi biển, phương tiện thông tin liên lạc... Đó là cách hành xử thô bạo, gây nguy hiểm tính mạng ngư dân. Chúng ta kiên quyết phản đối nhưng ta cũng không lấy hành động tương tự để trả đũa.
* Liệu cách hành xử của Philippines có giá trị tham khảo đối với Việt Nam: lập hồ sơ những vụ việc để đưa lên Liên Hiệp Quốc?
- Ở đây có hai câu hỏi. Câu hỏi 1, Philippines đưa Hải quân, Không quân ra, sao Việt Nam không đưa ra? Tôi nói quan trọng nhất là chúng ta đạt được mục đích, đó là mời tàu vi phạm luật pháp về. Tàu Bình Minh 02 được bảo vệ để tiếp tục khảo sát thăm dò chính ở vùng biển ấy. Và chúng ta phản ứng ở các kênh với Trung Quốc và công khai minh bạch với các nước khác để thấy đúng sai. Như vậy, mục đích đạt được, không cần huy động lực lượng quân sự. Cái đó mới lâu bền, thể hiện sự kiềm chế của chúng ta, quyết tâm không để xảy ra xung đột.
Câu hỏi 2, xây dựng hồ sơ đưa lên tòa án quốc tế cũng là một lựa chọn. Nhưng xét cho cùng, Việt Nam và Trung Quốc vẫn phải giải quyết với nhau. Tòa án quốc tế đem lại chính nghĩa về mặt lương tâm, tiếng nói của cộng đồng thế giới để Trung Quốc tự nhìn nhận lại mình. Còn về thực địa, không ai “sờ” vào được. Mình không cự tuyệt lựa chọn này. Nhưng chủ trương của ta hiện nay, theo tôi là đúng đắn, chưa cần thiết tới sự lựa chọn ấy.
* Ông đánh giá thế nào về khả năng ra đời COC (Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông)?
- COC là văn kiện cần thiết cho ASEAN và Trung Quốc, được nhiều nước quan tâm để cải thiện mối quan hệ trên Biển Đông. ASEAN cam kết thực hiện tốt DOC (Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông) và tiến tới COC. Như Indonesia tuyên bố cố gắng cuối năm nay có được COC. Thủ tướng Campuchia Hun Sen mong muốn năm sau kỷ niệm mười năm DOC tại Phnom Penh sẽ ký luôn COC. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN.5 cũng khẳng định cần khẩn trương xây dựng COC.
Tuy nhiên còn nhiều khó khăn. ASEAN và Trung Quốc chưa xác định được lộ trình tiến đến COC, còn tùy thuộc vào sự thống nhất trong ASEAN và sự đồng tình tham gia của Trung Quốc. Nhưng trước hết, việc tạo được sự đồng thuận trong ASEAN về cố gắng xây dựng COC cũng là sức mạnh để đấu tranh.
* Đã có người ví ASEAN cần như bó đũa?
- Chúng ta không thể trông chờ ASEAN đồng thuận trong mọi vấn đề. Sự can dự của các nước vào ASEAN rất khác nhau. ASEAN chọn những vấn đề chung nhất để tạo sự đồng thuận và rất may mắn trong đó có vấn đề Biển Đông, vấn đề hòa bình ổn định, DOC...
Tôi rất mong có COC nhưng không coi COC là trang bị pháp lý tuyệt đối, đầy đủ để giải quyết mọi vấn đề ở Biển Đông. Cái mà chúng ta chờ đợi là hành động của chính mình, giải quyết trực tiếp với những quốc gia có khác biệt, tranh chấp với chúng ta như đã đề cập. Không thể trông chờ vào một nước nào đó, một diễn đàn đa phương nào đó, bởi những yếu tố này chỉ là hỗ trợ. Ngay cả Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển họ còn coi thường thì cũng không lấy gì đảm bảo COC giải quyết được vấn đề.
* Việc đầu tư nghiên cứu Biển Đông, xây dựng Luật biển có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?
- Chúng ta phải luật hóa, dân sự hóa, kinh tế hóa, xã hội hóa, quốc tế hóa các hoạt động kinh tế xã hội trên vùng biển của chúng ta. Cái đó là biện pháp cơ bản, lâu dài khẳng định chủ quyền của chúng ta.
* Xin cảm ơn thứ trưởng.
* Những vụ việc gần đây trên Biển Đông cho thấy giữa tuyên bố của lãnh đạo Trung Quốc với hành động thực tế rất khác biệt, nói không đi đôi với làm, thậm chí việc làm đi ngược lại với lời nói. Ông nghĩ sao về việc này?
- Cái đó thời gian sẽ trả lời. Bộ trưởng Lương Quang Liệt phát biểu tại Shangri-La rất tầm cỡ, rất hòa hiếu, thiện chí. Chúng ta chờ những hành động cụ thể thể hiện thiện chí đó. Còn với một đất nước có một sự quản lý chặt chẽ như Trung Quốc, việc cấp dưới đi ngược lại ý kiến cấp trên là điều khó xảy ra. Vụ tàu Bình Minh 02 nghiêm trọng ở chỗ trước đây Trung Quốc cũng đã đâm tàu và cắt cáp rồi, nhưng khu vực xảy ra là ở vùng ngoài 200 hải lý hoặc vùng tranh chấp. Còn đây là vào rất sâu vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Thứ hai, không phải tàu cá đâm tàu cá mà đây là tàu chấp pháp xử lý một tàu dân sự trong vùng biển Việt Nam. Thứ ba, đó là hành vi bạo lực.
|
- Nguồn: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh: Nếu xung đột không bên nào thắng / Đà Trang, Võ Văn Thành // TTO, 7.6.2011.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)