Tự do cho dân, hòa giải dân tộc và dân chủ cho đất nước
Sáng 11/5/2013, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn tổng kết trong đó ông
tuyên bố :
"Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới thể chế kinh tế."
Nghe "Đổi mới", mừng quá!, tưởng đã đến lúc Đảng chấp nhận đổi mới tư duy chính trị để đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Nhưng không! Khi đọc văn kiện chính thức "KẾT LUẬN HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI :
Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở"
mới vở lẽ ra rằng "Đổi mới" kèm với "Hoàn thiện" chỉ có ý nghĩa trên
vấn đề tổ chức nội bộ của Đảng, không mảy may chút gì dính đến một tư
duy chính trị thông thoáng hơn mà cơ chế kinh tế thị trường đòi hỏi phải
đồng bộ. Thực tế kết luận này chỉ nhằm
"Hoàn thiện tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa".
Thế thì phải hiểu như thế nào, khi một thời gian gần đây, trước khi có
Thông điệp đầu năm của Thủ tướng, Bộ trưởng Kế Hoạch-Đầu tư (KH-ĐT) Bùi
Quang Vinh, đi nhiều nơi tôn vinh kinh tế thị trường là "
tinh hoa của nhân loại" mà không có một chữ nào nói đến "
định hướng xã hội chủ nghĩa"?.
Hoặc Bộ trường Vinh qua mặt Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung
ương khóa XI do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, hoặc Bộ trường
Vinh được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo
"cứ thế...cứ thế..."
Ai đã bật đèn xanh cho Bộ trưởng Vinh tuyên bố rõ ràng, trái ý Tổng Bí thư như thế?
Có hay không việc chạy đua nước rút chiếm lĩnh quyền lực?
Ai cũng còn nhớ rằng tại Hội nghị lần thứ 5, khi Bộ chính trị đề nghị
Ban Chấp hành Trung ương kỷ luật đồng chí X và đã bị ban này nói KHÔNG.
Tại Hội nghị lần thứ 7, hai ông Vương Đình Huệ (Ban kinh tế Trung ương),
và Nguyễn Bá Thanh (Ban nội chính) được TBT Nguyễn Phú Trọng đề nghị
vào Bộ Chính trị nhằm tăng uy tín và quyền lực cho hai ông trong công
tác, Ban Chấp hành Trung ương cũng nói KHÔNG.
Hai ông này không vào được Bộ Chính trị nên không có quyền quyết định
trên các cấp Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Thủ tướng, Bộ trưởng, và
một số cấp UBND tỉnh.
Việc nói KHÔNG của Ban Chấp hành Trung ương có ý nghĩa rõ rệt:
1- Nếu Thủ tướng mà còn bị kỷ luật vì dính đến tham nhũng thì sự kỷ luật
cũng sẽ treo lơ lửng trên đầu các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
2- Các Ủy viên phần lớn dính đến những chương trình kinh tế của các
tỉnh, mà quan trọng nhất là đầu tư công, nơi xảy ra tham nhũng và thất
thoát nhiều nhất, không muốn Đảng dây dưa vào việc "làm ăn" kinh tế của
họ. Họ không bầu cho ông Vương Đình Huệ.
3- Các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương không muốn "lấy đá ghè chân
mình" nên không bầu cho ông Nguyễn Bá Thanh, người đảm trách thực tế Ban
chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng.
Từ đó có thể khẳng định mà không sợ sai lầm quá đáng rằng, cho đến giữa
nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã lập bàn 1-0 trước TBT Nguyễn Phú
Trọng.
Tuy tình hình đã như thế, nhưng khó mà nói được phe nào với phe nào.
Để có cái nhìn tường tận hơn, chúng tôi thử khảo sát Đảng theo "nhóm lợi ích".
1 - Nhóm lợi ích thứ nhất gồm phía Thủ tướng, người nắm trong tay tiền
thuế của dân, số tiền này được chi tiêu: trả lương cho bộ máy nhà nước,
cho bộ máy Đảng và các tổ chức ngoại vi như Mặt trận Tổ quốc, hội Liên
Hiệp Phụ nữ..., quan trọng nhất là đầu tư công, ...
2- Nhóm lợi ích thứ hai gồm các Bí thư Tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh, phần
lớn các vị này đều nằm trong Ban Chấp hành Trung ương. Nhóm này lấy tiền
từ nhóm lợi ích thứ nhất trong các vụ đầu tư công ở tỉnh.
3- Nhóm thứ ba gồm bộ máy của TBT Nguyễn Phú Trọng, Quân Ủy Trung ương,
quân đội, cũng lấy nguồn tài chánh từ nhóm thứ nhất. Tuy nhiên quân đội
có cơ sở kinh tế quan trọng riêng mà nhóm thứ nhất không có quyền kiểm
soát.
Hiện nay, do không thu thuế đủ nên Thủ tướng nghe theo bộ trưởng KH-ĐT
Bùi Quang Vinh ra chỉ thị 1902 về đầu tư công nhằm cắt nguồn tài trợ cho
nhóm lợi ích thứ hai, lấy lý cớ đầu tư không hiệu quả và để minh chứng
cho quyết định của mình, ông Vinh đưa ra vài thí dụ:
1- Ví dụ dự án thủy lợi lúc đầu vẽ ra bảo là tưới tiêu cho 1.000ha,
suất đầu tư 2 tỉ đồng/ha, nhưng khi hoàn thành thì chỉ tưới tiêu cho
500ha và tổng vốn đầu tư vẫn là 2.000 tỉ đồng, rất kém hiệu quả nhưng
không ai bị xử lý.
2- ví dụ xây cái chợ không có người đến, gây lãng phí rất lớn nhưng không ai chịu trách nhiệm”.
3- có tỉnh làm đường rộng 70 mét mà không có người đi.
Và Bộ trưởng Vinh tiết lộ:
"Khi thực hiện,(chỉ thị 1902 về đầu tư
công) có người đã nói với tôi: Bộ trưởng làm như thế này là lấy đá tự đè
chân mình. Cả một thời gian dài sau đó, cũng vẫn còn rất nhiều ý kiến
trái chiều kiến nghị kêu khó khăn, mất quyền lợi..."
Nhóm lợi ích thứ 2 do đó bị đụng chạm. Nhóm này sống ngon lành nhờ những
vụ đầu tư công, vụ nào cũng đem lại lợi nhuận riêng hàng triệu đô la
cho các vị, chỉ cần nhìn Dương Chí Dũng khai ông ta và Tập đoàn Vạn
Thịnh Phát (TP.HCM) do bà Trương Mỹ Lan làm chủ tịch, đã "mua" Thượng
tướng công an Phạm Qúy Ngọ bằng 5 trăm ngàn, triệu đô thì cũng hiểu nhóm
lợi ích thứ hai bị thiệt thòi với chỉ thị 1902 như thế nào. Phần lớn họ
có mặt trong Ban Chấp Hành Trung Ương nên khó có thể nói họ sẽ không có
tác động nào trong những lần họp tới, nhất là chuẩn bị nhân sự cho Đại
hội XII vào năm 2015. Và ở đây cái khôn ngoan không nói ra của "chỉ thị
1902 về đầu tư công" được ban hành bởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là sẽ
tạo thêm một việc "xin, cho". Anh Trung ương nào được cho sẽ phải uống
nước nhớ nguồn.
Tóm lại, tuy là ba nhóm lợi ích, nhưng thực tế chỉ có hai khuynh hướng:
một bên che đậy bằng ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lê trong các hoạt động kinh
tế, còn bên kia nói "định hướng xã hội chủ nghĩa" cho có lệ, nhưng làm
huỵch toẹt ra là kinh tế thị trường với "
Chiếc phong bì không còn chứa đủ tiền hối lộ "
Hai khuynh hướng này sẽ làm cho Đảng dậy sóng và đất đước cũng sẽ chao
đảo theo. Dù khuynh hướng nào thắng hay bại, đất nước cũng sẽ thua
thiệt.
Trong cuộc chơi giữa hai khuynh hướng này, các lão thành cách mạng, các
đảng viên về hưu chỉ có cái sổ lương hưu chả thấm vào đâu so với 10
ngàn, 20 ngàn đô mà Dương Chí Dũng vứt ra cho các cán bộ công an đương
quyền cấp dưới. Còn các đảng viên, ngoài số lương rất thấp so với công
dân các nước quanh vùng, có kiếm chác được món tiền còm thêm cũng chỉ
vừa đủ sống. Tất cả thu nhập của những phần tử nói trên chả thấm vào đâu
trước những thất thoát to lớn mà đất nước phải gánh chịu. Nếu có một sự
thay đổi thể chế chính trị ôn hòa, chẳng ai thèm đụng đến thu nhập kém
cỏi của họ.
Nếu họ còn chút lương tâm, họ thừa biết họ phải làm gì để giúp đất nước thoát ra khỏi vũng lầy hiện nay.
Khi nói về đảng cộng sản, có khuynh hướng cho rằng phải nói đến công và
tội của đảng này. Chúng tôi cho rằng, khi đất nước đang quằn quại trong
vũng lầy và cần phải thoát ra bằng mọi giá thì có nói đến công lao cũng
bằng thừa. Không công lao nào chuộc được cái tội tày trời hiện nay là
làm cho đất nước ngày càng nghèo đi, để cho biển đảo bị Trung quốc chiếm
mà không bảo vệ, cấm người dân tuyên truyền cho lòng yêu nước, yêu biển
đảo...trái lại lúc nào cũng trâng tráo đòi nhân dân phải chấp nhận
quyền lãnh đạo của mình, bằng Hiếp Pháp sửa đổi, bằng bạo lực quân đội,
công an.
Dù sao, công lao của đảng cộng sản cũng sẽ có cơ hội được đề cập đến, khi họ phải trả lời trước tòa án nhân dân.
Ngày 19/01/2014 là ngày kỷ niệm 40 năm Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, đúng
vào sáng ngày này không một tờ báo trung ương nào của Đảng nhắc đến hai
chữ Hoàng Sa, mãi đến chiều tối mới có vài tờ báo e dè đưa tin triển lảm
về Hoàng Sa ở Đà Nẵng, tờ Đại Đoàn Kết chỉ dám nói thoáng qua rằng 74
người Việt(không dám nói họ là chiến sĩ VNCH) đã ngã xuống.
Một tháng trước đó, vài tờ báo trong hệ thống này liên tục phóng sự về
cuộc hải chiến bảo vệ Hoàng Sa của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, Chủ
tịch huyện đảo Hoàng Sa đã thông báo tổ chức "Chương trình ca nhạc hát
về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa" ở Đà Nẵng
nhưng cuối cùng ngày 17/1 do lệnh trên phải thông báo hủy bỏ.
Ai đã ra lệnh cho báo chí không được nhắc đến Hoàng Sa trong sáng ngày
19/01/2014 này, ai đã cấm tổ chức tưởng niệm thắp nến ở Đà Nẵng? Nguyễn
Phú Trọng, Trương Tấn Sang hay Nguyễn Tấn Dũng? Người dân chúng tôi đòi
hòi trong các ông, ai là người đã đánh mất lòng tự trọng dân tộc tối
thiểu để ra lịnh cấm đoán hèn mạt này.
Tự do cho dân, hòa giải dân tộc và dân chủ cho đất nước
Chúng tôi mong muốn thấy những nguyên tắc dưới đây được ghi trong Hiến pháp:
- Hiến Pháp phải bảo đảm cho mọi công dân các quyền: ứng cử, bầu cử,
biểu tình, lập hội, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại, xuất
ngoại, tự do kinh doanh, làm ăn, quyền tư hữu và trực tiếp quản lý về
nhà cửa, ruộng đất ...
- Hiến pháp phải quy định một nhà nước pháp quyền thay mặt nhân dân
trong việc quản trị đất nước, khác xa hoàn toàn với quan niệm cai trị
người dân. Quân đội chỉ có bổn phận bảo vệ đất nước, biển đảo. Hiến Pháp
không được quyền ghi tên bất cứ đảng phái nào.
- Hiến pháp phải quy định Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp tuyệt đối độc lập với nhau.
- Hiến pháp phải quy định tất cả điều khoản về quyền con người, ít nhất
là theo công ước quốc tế, không thể bị bất cứ ai xâm phạm, vì bất cứ lý
do gì.
Đặc biệt về vấn nhân quyền,
chúng ta có khả năng giương cao ngọn cờ
này trước thế giới nếu chúng ta quyết tâm. Nó không tốn kém bao nhiêu,
nó hợp với thời đại và lòng bao dung của chúng ta, nó chỉ đòi hỏi tự
chúng ta tôn trọng thực sự con người.
Thông điệp của Thủ tướng nói đến giương cao ngọn cờ dân chủ chỉ là một
kiểu nói mị dân . Dân chủ càng ngày càng tiến triển trên thế giới, Dân
chủ lại là một quá trình chứ không phải ngày một ngày hai như mì ăn
liền. Chúng ta tụt hậu về lối sống dân chủ, lối suy nghĩ dân chủ từ ngày
đảng cộng sản Đông Dương được thành lập cho đến nay cũng đã 80 năm và
hiện nay vẫn lặn ngụp trong kiểu "dân chủ xã hội chủ nghĩa" tức là vẫn
độc tài. Cho nên cùng lắm là giương cao khẩu hiệu như bà phó Đoan của
Hội đồng lý luận Trung ương là "dân chủ xã hội chủ nghĩa cao hơn gấp vạn
lần dân chủ tư bản chủ nghĩa" để mà tiếp tục dối dân chứ có cờ đâu mà
phất.
Hiến pháp sửa đổi 2013 hoàn toàn trái với tinh thần nói trên vì chỉ thể hiện cương lĩnh của một đảng độc tài.
Theo chúng tôi hiểu, bản Hiến pháp do nhóm 72 nhân sĩ (gọi tắt là Kiến
nghị 72) đề nghị trong năm 2013 đã có sẵn những tinh thần mà chúng tôi
mong muốn, có thể thảo luận thêm để thành bản Hiến pháp mới của một nước
Việt Nam tự do, dân chủ, thật sự của mọi công dân.
Ngày 20/10/2013, Tiến sĩ Trần Nhơn, đảng viên, nguyên thứ trưởng Bộ Thuỷ Lợi, trong một đề nghị
Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (Do Công ty Hỗ trợ Phát triển và Hội nhập
Toàn Cầu đề xuất trên nền tảng của nguyên bản dự thảo Kiến nghị 72), được đăng trên site Tự Đổi Mới (tudoimoi.org) có một đề nghị sửa đổi quan trọng về điều 11:
Điều 11. Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô:
Quốc hội chuẩn bị đề án quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô, trình nhân dân phúc quyết.
Đề nghị của Tiến sĩ Trần Nhơn vừa can đảm, vừa khai phá và nếu được chấp
nhận sẽ là một bước hòa giải dân tộc chưa có tiền lệ, mở cửa cho một sự
đoàn kết dân tộc rộng lớn mà đất nước đang chờ đợi.
Sau thời kỳ toàn dân ta đấu tranh chống phướng Bắc để có một đất nước
Việt Nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta đã trải qua trong thế kỷ
20, hai cuộc chiến tranh đẫm máu khốc liệt. Trong cuộc chiến tranh thứ
nhất, toàn dân một lòng đã dũng cảm và thành công trong việc giải phóng
dân tộc đánh đổ thực dân.
Tiếc thay, miền Bắc sau năm 1954, đảng Lao Động Việt Nam (thực chất là
đảng cộng sản đổi họ đổi tên nhưng không đổi tư duy cộng sản), đã đứng
trong hàng ngũ quốc tế cộng sản, với tất cả những tồi tệ của chủ nghĩa
độc tài hiện nay.
Vì thế cuộc chiến tranh lần thứ hai từ năm 1960 đến năm 1975 tuy có một
số lý do, nhưng nổi bật lên cả là màu sắc cuộc chiến Quốc-Cộng, giữa tự
do và độc tài, giữa dân chủ và chuyên chính, giữa hai quan niệm cuộc
sống khác nhau, không thể thống nhất được.
Sau 1954 với một triệu người di cư vào Nam thì đến năm 1975 và những năm
sau đó, từ 1 đến 3 triệu người cũng bỏ nước ra đi tìm tự do. Cho đến
những năm gần đây, 2013/2014 số người lợi dụng các tours du lịch rồi bỏ
trốn cũng rất cao buộc Tổng cục Du lịch Việt Nam vừa có công văn số 17
cho biết sẽ kiên quyết ngăn chặn hành vi lợi dụng con đường du lịch để
đưa người Việt Nam ra nước ngoài bất hợp pháp (thực tế là vượt biên
chính thức). Nếu đất nước hòa bình, tiến bộ, tươi đẹp thật sự thì chẳng
có ai bỏ quê cha đất tổ mà đi.
Sự phân ly này đòi hỏi chúng ta phải tìm cách hoà giải giữa dân tộc
chúng ta để cùng nhau chung sống hài hòa trên giải đất của tổ tiên. Hiện
nay vấn đề lá cờ đang gây nhiều chia rẽ, chúng ta không thể để hai lá
cờ cứ tiếp tục đánh nhau trong lòng người.
Chúng tôi nghĩ rằng cha ông ta đã mấy lần, chẳng đặng đừng, chống quân
Bắc triều để giữ bờ cõi. Chắc lúc đó đã có những lá cờ phất phới bay và
chiến thắng, nhưng đến nay, thử hỏi ai còn biết, hoặc nhớ đến những lá
cờ mà cha ông ta đã phất lên trước mặt quân xâm lược? Bản thân tôi chỉ
còn nhớ đến những chiến thắng hào hùng của cha ông mà không được lịch sử
dạy cho lúc đó cha ông đã dùng những lá cờ nào? Và dù lá cờ nào thì nay
cũng đã biến mất.
Trong chiến tranh vừa qua, có hai lá cờ: Đỏ sao vàng và Vàng ba sọc đỏ.
Cờ nào cũng thấm máu của anh hùng liệt sĩ, cờ nào cũng linh thiêng tùy
theo anh ở phía nào. Có thể nói gia đình nào cũng có con em thấm máu
không trên lá cờ này thì cũng trên lá cờ nọ. Cờ nào cũng mang vinh quang
cùng tội ác. Chính vì thế mà chúng ta phân tán, chia rẽ vì một biểu
tượng lá cờ.
Hơn 40 năm qua, sự chia rẽ, thù hận không những không mờ nhạt mà càng
sâu đậm trong bối cảnh đất nước lún sâu vào tụt hậu, xã hội mất lẽ sống
cao đẹp đáng có, con người bần cùng hóa và tiếp tục bị kềm kẹp về tư
tưởng. Về phía những thành phần vượt biển để thoát khỏi chế độ cộng sản,
họ đã thành công ở những nước được xem là tổ quốc thứ hai của họ, tạo
ra được một cộng đồng người Việt giàu có, tiến bộ, thành đạt, chưa có
tiền lệ trong lịch sử dân tộc, nhờ đó khẳng định được rằng chế độ tự do
dân chủ đã giúp cho con người từ tay trắng có thể đạt được ước vọng của
mình. Không huy động được một cộng đồng như vậy trong vấn đề ngoại
thương chứng tỏ sự yếu kém của những người cầm quyền hiện nay.
Nếu cứ tiếp tục áp đặt một lá cờ là tiếp tục duy trì sự chia rẽ. Đất
nước chúng ta đang trong tình trạng bi đát đòi hỏi công sức của mọi
người, vì thế nếu người dân phúc quyết lá cờ một cách dân chủ thì thiểu
số sẵn sàng chấp nhận. Trong cuộc sống dân chủ, chỉ có kẻ độc tài mới
không chấp nhận mình là thiểu số một khi quần chúng đã phúc quyết.
Những suy nghĩ nói trên cho phép chúng tôi kết luận rằng đề nghị về
điều 11
của TS Trần Nhơn là can đảm, đặt đúng vấn đề trong mong muốn hòa giải
dân tộc. Nếu Đảng không muốn hòa giải vì luôn muốn có "lực lượng thù
địch" để làm bình phong cho những thất bại của họ, thì ngược lại người
dân chúng ta phải hòa giải được với nhau, bất chấp chính quyền, càng sớm
càng tốt. Mong độc giả cùng suy nghĩ với chúng tôi.
Nguyễn Trung Chính
20/01/2014
Cuộc chiến chống tham nhũng: Hô hào và Hiệu quả?
|
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Đối tác Phát triển 2013 hôm 05/12/2013 được tổ chức ở Hà Nội. (Ảnh minh họa) World Bank Photo/Việt Tuấn
|
Hiệu quả hạn chế
Trong thời gian qua các cấp lãnh đạo Chính phủ và Đảng CSVN có nhiều
phát biểu và hô hào chống tham nhũng, thế nhưng thực tế cho thấy hiệu
quả của công tác này trong năm qua còn quá hạn chế.
Sau gần 2 tháng bế mạc kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 13, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng vừa ra văn bản trả lời chất vấn của 11 đại biểu Quốc hội
về hiệu quả thấp trong công cuộc chống tham nhũng trong thời gian qua,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận công tác phòng chống tham nhũng luôn
được Đảng, Nhà nước quan tâm, có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn
chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra, tiếp tục gây bức xúc trong xã hội.
Văn bản trả lời của Thủ tướng VN được người dân trong nước đang phải
chịu đựng tình trạng tham nhũng tràn làn đến từng ngõ ngách trong đời
sống cho là giống như một điệp khúc nhàm chán của một bài hát buồn.
Bộ máy hoạt động chống tham nhũng chưa có
kết quả. Bởi vì chỉ mang tính chất hô hào, chưa đi vào hoạt động một
cách có trách nhiệm hoặc có hiệu lực. -Ô. Lê Văn Cuông
Dư luận vẫn chưa quên lời tuyên bố nhậm chức Thủ tướng của ông Nguyễn
Tấn Dũng hồi cuối tháng 6/2006 rằng “tôi kiên quyết và quyết liệt chống
tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay”.
Dẫu biết rằng “một con én không làm nên mùa xuân” nhưng với lời tuyên
bố hùng hồn của vị Thủ tướng mới mang đến ít nhiều niềm tin “quốc nạn
tham nhũng” sẽ được đẩy lùi trong tình cảnh như Phó Chủ tịch nước Nguyễn
Thị Doan nhận định “Người ta ăn của dân không từ thứ gì”.
Kể từ thời điểm ông Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức Thủ tướng VN cho đến
nay hơn 7 năm, công tác phòng chống tham nhũng luôn được Đảng CSVN cùng
cả hệ thống chính trị thường xuyên lãnh đạo và chỉ đạo trên tinh thần
như tuyên bố của cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh “Đảng kiên quyết chống
tham nhũng đến cùng để làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước”. Tuy
nhiên, trong kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 13 hồi tháng 11 năm ngoái, các
đại biểu cho rằng cơ quan phòng chống tham nhũng do Chính phủ dựng lên
dày đặc nhưng hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế cũng như các vụ tham
nhũng được phát hiện nhưng xử lý còn chậm và những đối tượng phạm tội
trong các vụ án tham nhũng thường được xử lý nhẹ. Phó Chủ nhiệm Ủy ban
Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng, ông Lê Như Tiến phát biểu
rằng trong kế hoạch phòng chống tham nhũng, cả nước được yêu cầu bày
binh bố trận rầm rộ, súng đạn sẵn sàng nhưng kết quả không đạt yêu cầu,
tham nhũng chưa bị sát thương.
|
Ảnh minh họa tham nhũng |
Mặc dù vấn nạn tham nhũng được các đại biểu thảo luận thẳng thắn ở
các kỳ họp quốc hội cũng như có nhiều kiến nghị với các cấp chính quyền
thuộc Đảng ĐCSVN và Nhà nước phải tiến hành giải quyết một cách triệt
để, nhưng trong thực tế việc chỉ đạo chống tham nhũng của Chính phủ
dường như không mang lại hiệu quả. Nguyên Đại biểu Quốc hội Lê Văn Cuông
nhận định về tình hình chống tham nhũng ở VN:
“Hiện nay các văn bản quy định pháp luật tương đối đầy đủ và bộ
máy từ trên xuống dưới cũng rất hùng hậu nhưng tình trạng tham nhũng vẫn
xảy ra khá phổ biến, chưa được ngăn chặn đẩy lùi mà ngày càng diễn biến
phức tạp, tinh vi và gây nên sự bất bình cũng như giảm niềm tin trong
nhân dân. Điều đó cho thấy bộ máy hoạt động chống tham nhũng chưa có kết
quả. Bởi vì chỉ mang tính chất hô hào, chưa đi vào hoạt động một cách
có trách nhiệm hoặc có hiệu lực. Do đó, cần phải có một cách thức chỉ
đạo cũng như giải quyết quyết liệt và hiệu lực hơn. Nếu cứ như lâu nay
thì tình trạng rất khó có sự chuyển biến mang tính chất đột phá”.
Người dân bi quan
Hôm 8/1 vừa qua, Thanh tra Chính phủ VN công bố báo cáo cho biết đã
phát hiện 45 vụ có hành vi tham nhũng trong năm 2013. Cùng ngày, qua
cổng thông tin điện tử Chính phủ, Bộ Công an VN đã phát hiện hơn 400 vụ
tham nhũng trong năm ngoái, nhiều hơn khoảng trên 100 vụ so với năm
2012. Trong năm 2013, có 10 vụ tham nhũng được cho là “đại án” mà dư
luận đặc biệt quan tâm, thế nhưng chỉ có 2 trong số 10 vụ “đại án tham
nhũng” được đưa ra xét xử với tổng cộng 4 bản án tử hình.
Thuật ngữ nhóm lợi ích ngày càng lộ rõ,
bây giờ những nhóm lợi ích đã lớn lên thành tội phạm mafia, nghĩa là gắn
kết giữa các nhóm tội phạm, nhóm kinh tế và những người có chức có
quyền. -LS Trần Quốc Thuận
Trong khi người dân ngày càng tỏ ra bi quan trước tệ trạng tham nhũng
năm sau nhiều hơn năm trước, không những không đẩy lùi được mà lại
giống như một dịch bệnh nguy hiểm ngày càng lây lan với tốc độ không thể
kiểm soát như trong các báo nhận định “tình hình tham nhũng tiếp tục
diễn biến phức tạp, tinh vi ở nhiều cấp, nhiều ngành”, phải buột miệng
than rằng “càng chống càng tham” thì người đứng đầu Đảng CSVN hiện nay,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định việc tham nhũng của các quan
chức trong bộ máy Nhà nước là hành vi có tổ chức, tuyên bố rằng có dấu
hiệu cho thấy việc tham nhũng có sự thống nhất và chỉ đạo từ các lãnh
đạo có cương vị cao nhất trở xuống. LS Trần Quốc Thuận, một đảng viên kỳ
cựu, từng 14 năm ở cương vị Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết
vì sao Tổng Bí thư ĐCS lại nhận định như vậy:
“Thuật ngữ nhóm lợi ích ngày càng lộ rõ, bây giờ những nhóm lợi
ích đã lớn lên thành tội phạm mafia, nghĩa là gắn kết giữa các nhóm tội
phạm, nhóm kinh tế và những người có chức có quyền. Đây là biểu hiện rất
xấu của chế độ hiện nay”. Mới đây nhất, hôm 12/1, trả lời TTXVN về việc xử lý những vụ án tham
nhũng lớn trong thời gian gần đây, ông Nguyễn Phú Trọng quả quyết “Tốt
nhất là đừng để xảy ra…Còn khi đã xảy ra rồi thì phải kiên quyết xử lý,
xử lý thật nghiêm”. Tuyên bố vừa nêu của Tổng Bí thư Đảng CSVN chỉ vài
ngày sau khi Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội quyết định khởi tố vụ án “cố ý
làm lộ bí mật Nhà nước” liên quan đến Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ
trưởng Bộ Công an nhận số tiền 1.510.000 USD qua lời khai của tử tội
Dương Chí Dũng.
Dư luận đang chờ xem Đảng Cộng Sản và Nhà nước nghiêm trị vụ án “cố ý
làm lộ bí mật Nhà nước” cũng như 8 vụ “đại án” còn tồn đọng như một
phép thử để chứng minh hiệu quả chống tham nhũng trong thời gian tới.
Bằng ngược lại, “quốc nạn tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe
dọa sự tồn vong của chế độ” như chính khẩu hiệu hô hào của Chính phủ VN
bấy lâu nay.
Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-01-20
Cơ sở pháp lý nào cho việc lập Hội ở Việt nam?
Chưa có Luật về Hội
Anh Vũ: Thưa luật sư, xin ông cho biết, đến nay
quyền tự hội họp và quyền tự do lập hội của công dân được luật pháp của
Việt nam qui định cụ thể hóa như thế nào?
LS Hà Huy Sơn: Theo bản Hiến pháp mới nhất của Việt nam hiện
nay, Điều 25 quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”, và Hiến pháp cũng quy
định “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo pháp
luật hiện nay tuy chưa có Luật về Hội, nhưng dưới luật đã và đang có 02
Nghị định, đó là Nghị định số 45/2010/N Đ-CP, ngày 21 tháng 4 2010 quy
định về việc Tổ chức và Quản lý Hội và Nghị định Sửa đổi Bổ xung Nghị
định 45 là Nghị định số 33/2012/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 13 tháng 4 năm
2012. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày
21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản
lý hội.
Cơ sở của việc lập Hội theo tôi thì dựa vào Nghị định 45/2010/N Đ-CP,
tại Điều 02 có quy định những công dân tự nguyện và có chung một mục
đích để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình và các lợi ích hợp pháp khác
của các thành viên thì có quyền lập hội. Theo tôi hiểu cái cơ sở căn bản
thì dựa vào các văn bản như thế.
Anh Vũ: Được biết trước đây, để cụ thể hóa quyền tự
hội họp và quyền tự do lập hội được qui định tại điều 10 Hiến pháp năm
1946. Ngày 20 tháng 5 năm 1957, ông Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
101/SL-L-003 ban hành Luật về quyền tự do hội họp. Vậy đến nay Sắc lệnh
đó vẫn còn hiệu lực thi hành hay không thưa LS?
Theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật, cũng
như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trong thông điệp đầu năm mới 2014 là
công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
-LS Hà Huy Sơn
LS Hà Huy Sơn: Các văn bản đó thì Nhà nước cũng chưa có các văn bản nào hủy bỏ các Sắc lệnh này. Nhưng theo tôi thì cái chính thì nên dựa vào
Điều 25 của
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định cụ thể và 02 văn bản Nghị định
45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 và Nghị định 33/2012/NĐ-CP của
Chính phủ, ngày 13 tháng 4 năm năm 2012 và hướng dẫn cụ thể của Thông tư
03 năm 2013. Là những cơ sở để các công dân muốn lập hội thì dựa vào
các văn bản đó.
Anh Vũ: Thưa Luật sư, hiện nay luật pháp Việt nam chưa chính thức có Luật về Hội thì công dân có quyền hội họp và lập hội hay không?
LS Hà Huy Sơn: Theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật, cũng như
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trong thông điệp đầu năm mới 2014 là công
dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Và theo kinh nghiệm và
quan điểm của tôi thì những quyền của con người hay quyền của công dân
thì không có một nhà nước nào người ta chủ động đem lại cho người dân
cả. Do đó người dân phải chủ động có yêu cầu hoặc đòi hỏi, nói ngắn gọn
tức là phải đấu tranh giành lấy cái quyền đó, buộc nhà nước phải thừa
nhận quyền đó bằng pháp luật và yêu cầu nhà nước phải thực thi các văn
bản đó. Quan điểm của tôi là như vậy.
Anh Vũ: Theo Luật sư, việc ra đời của các Hội tự phát vừa qua ở Việt nam có bị coi là vi phạm pháp luật hay không?
LS Hà Huy Sơn: Trong 02 Nghị định của Chính phủ quy định nói
trên thì việc lập hội nếu ở trong phạm vi một địa phương - tỉnh thì do
chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh – Thành phố phê chuẩn. Còn nếu hội hoạt
động trên nhiều các tỉnh thành khác nhau thì phải do Bộ trưởng Bộ Nội vụ
phê chuẩn điều lệ của Hội và khi người ta chính thức phê chuẩn chấp
nhận việc thành lập Hội đấy thì về mặt pháp luật việc thành lập hội mới
được coi là hợp pháp.
Còn trong quá trình chưa được pháp luật thừa nhận, thì quan điểm của
cá nhân tôi các hội viên nếu có nhu cầu hoạt động thì họ nên lập những
cái Ban trù bị thành lập Hội như hướng dẫn trong Nghị định của Chính
phủ. Rồi có thể họ có các Dự thảo về Điều lệ của Hội, nếu mà họ đã thống
nhất với nhau về các Dự thảo đó thì họ có thể tự nguyện chấp hành cái
Điều lệ đó để cùng nhau vận động để Chính phủ cộng nhận cái hội của
mình. Còn tất nhiên bao giờ Chính phủ chấp nhận hay Bộ Nội vụ chấp nhận
thì nó đòi hỏi cả một quá trình.
Anh Vũ: Xin cảm ơn LS Hà Huy Sơn đã dành thời gian trao đổi cùng Đài Á Châu Tự do.
Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-01-20
Vấn nạn biếu quà Tết cho cấp trên
Trong giai đoạn sắp tới Ngày Tết Giáp Ngọ 2014, nhiều ý kiến trên
mạng và báo chí trong nước, kể cả những nhà có tâm huyết với quê hương,
đã nhắc tới và cảnh báo về điều gọi là “vấn nạn rầm rộ biếu quà Tết cho
cấp trên”. Như vậy, “vấn nạn” này ra sao?
Ăn Tết quanh năm
Trong khi nhà báo Bùi Hoàng Tám qua báo Dân Trí thắc mắc rằng “ Sao
lại có loại sếp như thế nhỉ”, và đi vào chi tiết là từ nhiều năm nay,
chuyện “đi Tết sếp” luôn là “nỗi ám ảnh” mỗi khi năm hết, Xuân về, nhất
là đối với các nhân viên, công nhân nghèo, thì nhà báo Nguyên Hồ trên
báo mạng Gia Đình nêu lên câu hỏi “làm sao kết liễu vấn nạn quà Tết?”,
vì, nhà báo lưu ý, trong dịp Xuân về, những người có chức, có quyền, từ
trung ương đến địa phương, đều nhận được một khối “quà khổng lồ” trong
dịp này. Từ Hà Nội, TS Nguyễn Xuân Diện thuộc Viện Hán Nôm VN lên tiếng:
“Nạn quà Tết trở thành tục lệ rất xấu trong những năm gần đây – tệ
nạn xấu lắm. Nó là một căn bệnh xấu xa của xã hội VN. Những món quà Tết
này không phải ở góc độ tình cảm nữa, mà nó là cuộc mua bán, đổi chác
hay là cuộc hối lộ được gói mỹ miều dưới cái tên gọi là “quà biếu Tết.”
Thực ra, quanh năm, cấp dưới phải cung
phụng cho các sếp những món quà, món hàng trong những dịp cần phải cầu
cạnh, xin-cho, tạo điều kiện làm ăn hay móc ngoặc với cán bộ đảng. -GS Nguyễn Thanh Giang
Cũng từ Hà Nội, GS Nguyễn Thanh Giang nhận xét rằng:
“Chuyện quà Tết thì chỉ là cái dịp để cho người ta bàn bạc thế
thôi. Thực ra, quanh năm, cấp dưới phải cung phụng cho các sếp những món
quà, món hàng trong những dịp cần phải cầu cạnh, xin-cho, tạo điều kiện
làm ăn hay móc ngoặc với cán bộ đảng, thì những món quà ấy vô cùng lớn.
Tức là đảng và những đảng viên được điều kiện “ăn Tết quanh năm”, chứ
không phải chỉ có dịp Tết không đâu.”
Theo nguyên Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Đình Hương thì
nhiều khi nhân viên biếu quà Tết “theo phong trào, chưa biếu sếp thì
chưa yên tâm ăn Tết”. Và như thế là người ta “đo tình cảm bằng phong bì
dày mỏng” và biến phong tục tặng quà của cha ông ngày xưa thành một loại
hủ tục, góp phần sa đọa xã hội khi người nhận quà cáp từ đó làm giàu,
còn người “đi Tết sếp” thì trở thành “khổ chủ” hoặc cho mục tiêu trục
lợi nào đó.
|
Một gian hàng bán đồ trang trí Tết tại Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO. |
Mặc dù có ý kiến cho biết nền kinh tế trong nước đang gặp nhiều khó
khăn, nhiều gia đình thiếu thốn nhưng Tết đến vẫn nhộn nhịp, vẫn “tặng
quà cho nhau”, thì TS Nguyễn Xuân Diện nhận xét rằng Tết năm nay, tình
trạng này có vẻ không “rầm rộ” lắm, không có biểu hiện “ghê gớm” như
những năm trước, hay là nó chưa đến ngày “rầm rộ” chăng? Bởi vì sao ? TS
Nguyễn Xuân Diện giải thích:
“Bởi vì kinh tế VN hiện suy sụp quá rồi. Hiện nay, dân nguyên một
tỉnh của VN xin xét, cấp cứu gấp về vấn đề ăn Tết. Vì họ thiếu gạo, họ
đói quá! Công nhân ở các khu công nghiệp cũng đói kém quá, thất nghiệp
rất nhiều. Còn người nông dân bây giờ thì mất hết đất, bị chính quyền
các cấp cướp hết đất rồi. Cho nên họ chẳng còn cái gì nữa cả. Làng xóm
thì trở nên tiêu điều. Do đó, họ cũng chẳng có cái chuyện đi biếu xén gì
nữa. Còn các doanh nghiệp thì đang gặp vô vàn khó khăn. Nhiều doanh
nghiệp phải giải thể; làm ăn khó khăn lắm. Những đại gia về bất động sản
và chứng khoán coi như “chết rồi” khiến nhiều người phải đi bệnh viện
tâm thần. Cho nên năm nay không có chuyện biếu quà Tết “rầm rộ” như mọi
năm nữa.”
Chỉ thị không ai dám theo?
Được biết nhân dịp Tết Giáp Ngọ này, Ban Bí thư lại chỉ thị “thực
hiện nghiêm chủ trương của đảng và nhà nước” về việc tiết kiệm, chống
lãng phí, nhất là “nghiêm cấm mọi hình thức tặng quà Tết cho cấp trên” –
điều mà công luận thắc mắc “Hà Nội năm nào cũng có yêu cầu như vậy”,
trong khi GS Trần Ngọc Thêm thuộc Đại học Quốc gia TP HCM nêu lên câu
hỏi rằng phải chăng chuyện tặng quà Tết ngày nay đang “biến tướng” khiến
“kẻ yếu cống nạp, luồn cúi kẻ mạnh” không thể kiểm soát nỗi nên phải
cấm? TS Nguyễn Thanh Giang cho rằng:
“Những “lời răn dạy” như vậy đối với các quan chức đâu phải bây
giờ mới diễn ra, mà nó là chuyện xưa cũ lắm rồi. Người ta nói để mà nói,
chứ ngay cả người nói cũng sẽ nhận quà, được biếu xén không dưới hình
thức này cũng bằng hình thức khác; thậm chí những người ra công văn đó,
những người hô khẩu hiệu đó, còn được những món quà đút lót to hơn những
người không nói.”
Ở VN hiện nay, cái gì cũng là hình thức; học tập tư tưởng, đạo đức của
HCM cũng là một hình thức thôi chứ chả hiệu quả gì cả. -TS Nguyễn Xuân
Diện
Theo TS Nguyễn Xuân Diện thì bây giờ, những công văn như thế, những
chỉ thị như thế, có ai làm theo đâu? Thực sự ra những người mà tìm
những cái lợi gì đấy trong cuộc đút lót, hối lộ này, họ có thiếu gì cách
để mà đút lót, hối lộ. Và những cái văn bản cấm biếu quà Tết hay là cấm
không “đi Tết cấp trên” hoặc các cơ quan nọ kia, thì đó chỉ là hình
thức thôi. TS Nguyễn Xuân Diện giải thích:
“Vì Tết đến, các bộ phận văn phòng, những nơi ban bố ra cái lệnh
như vậy chẳng lẽ không ra cái lệnh gì? Nên thực chất, họ ra văn bản đó
chỉ là hình thức thôi chứ cũng không cấm đoán được gì đâu. Và ở VN hiện
nay, cái gì cũng là hình thức; học tập tư tưởng, đạo đức của HCM cũng là
một hình thức thôi chứ chả hiệu quả gì cả. Hiện càng ngày cán bộ càng
sa đọa, càng yếu kém về đạo đức, mất nhân cách nhiều; và các đội ngũ
công chức nhà nước - những người gọi là “cơ quan công quyền” - thì càng
hư đốn nhiều. Trong những năm gần đây, người ta thấy rất rõ như thế. Cho
nên những điều vừa nói chỉ là hình thức mà thôi.”
GS Trần Ngọc Thêm khẳng định rằng nếu cấp trên không thích nhận quà,
tỏ thái độ dứt khoát, kiên quyết không nhận thì còn ai dám biếu nữa.
Theo GS Nguyễn Thanh Giang thì việc biếu quà và nhận quà có liên quan
nhiều hạng người khác nhau. Cái gọi là tội lỗi về vụ này cũng ở chừng
mực khác nhau và sự khinh bỉ dành cho những đối tượng ấy cũng nên khác
nhau. Nhưng nói chung, theo GS Nguyễn Thanh Giang, những người nhận quà
tội lỗi hơn những người đưa quà, thì những mức độ tội lỗi đó cũng nên
xem xét từng trường hợp một.
GS Nguyễn Thanh Giang cũng không quên đề cập tới nhiều loại quà: quà
sạch và quà bẩn, có quà đáng lên án, quà đáng trân trọng. Thí dụ như
người học trò nhớ ơn thầy, con cái nhớ ơn cha mẹ, việc tặng quà cho
thầy, tặng quà cho cha mẹ để bày tỏ lòng biết ơn thì người tặng quà và
người nhận quà đều đáng trân quý. Còn trong trường hợp mấy xếp ra “lệnh
ngầm” để thuộc cấp phải tặng quà hoặc chính những người cấp dưới đó tặng
quà cho lợi ích không trong sạch thì những trường hợp này đáng lên án.
Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-01-20
Đảng trước, Xuân sau
|
Một bức tranh cổ động trên đường phố Đà Nẵng, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO |
|
Khẩu hiệu gây tranh cãi
Tại VN trong nhiều năm nay, cứ mỗi độ Xuân về, thì khẩu hiệu “mừng đảng,
mừng xuân” lại rộ lên và tiếp tục gây nhiều tranh cãi. Như vậy, vấn đề
này “tranh cãi” ra sao, và hiện có cải thiện gì không?
Trong những ngày qua, trước khi tới Ngày Tết Giáp Ngọ 2014, báo chí
trong nước xem chừng như ngày càng rộ lên chuyện “mừng đảng” rồi mới
“mừng Xuân”. Chẳng hạn như báo Văn Hiến VN quảng bá “Nhiều hoạt động
Mừng Đảng - Mừng Xuân Giáp Ngọ 2014”; báo Nam Định “Sôi nổi hoạt động
văn hóa, văn nghệ mừng Đảng, mừng Xuân”; trong khi các báo khác thì có
“Chương trình ‘Mừng Đảng - Mừng Xuân Giáp Ngọ”, hay “ Giải bóng chuyền
Mừng Đảng Mừng Xuân 2014”… Đó là chưa kể các báo phổ biến chuyện nhiều
địa phương khắp nước đều có sinh hoạt “mừng đảng mừng xuân” để cái khẩu
hiệu ấy luôn trong tinh thần “Bài ca mùa Xuân 61” của “thi bá” Tố Hữu,
rằng:
Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Thiên nhiên thì đã có từ khi khai thiên lập địa rồi; đất nước thì
cũng đã có ngàn tuổi rồi. Còn đảng thì mới có mấy chục năm. Họ tự đề cao
như thế là không được.
-Phạm Đình Trọng
|
Cái khẩu hiệu “mừng đảng mừng Xuân” khiến nhà báo Bùi Đức Lại qua bài “
Nhân chuyện tranh cãi xung quanh một khẩu hiệu” có nhắc đến “một vị
tiếng nói vốn có trọng lượng” nêu lên ý kiến đại khái rằng khẩu hiệu này
không ổn về phương diện “thứ tự trọng khinh”, bởi vì “xuân là chuyện
của muôn lòai vạn thuở, sao lại xếp sau đảng là cái hữu hạn ?”.
Nhà báo Nguyễn Tôn Hiệt có lẽ gay gắt hơn qua bài “Những khẩu hiệu quái
đản”, thắc mắc rằng tại sao lại có cái khẩu hiệu đó, “chả lẽ đảng có
trước rồi Xuân mới có sau ?”, mà như vậy, “trước khi có đảng, dân tộc
ta suốt 4.000 năm không có mùa Xuân hay sao ?”.
Nhà báo Trần Nhương thì lưu ý tới sự “phản cảm”, nhấn mạnh rằng “Viết
như thế này rất hại cho đảng” vì “đảng trong dân sao họ cứ tâng đảng
lên trên tất cả”, mà “ yêu nhau như thế bằng mười hại nhau…”.
Nhận xét về khẩu hiệu “mừng đảng mừng Xuân”, GS Nguyễn Thế Hùng từ Đà Nẵng nhận xét:
“Chuyện này không hợp lý. Và nhiều người cũng đã nói rồi. Thí dụ như
Xuân là Xuân của Đất Trời. Xuân về là vạn vật đâm chồi, nảy lộc. Và
con người là một sinh vật rất nhỏ bé được Tạo Hóa ban ơn. Lẽ ra mỗi buổi
sáng mở mắt ra là chúng ta phải cảm tạ Thượng Đế. Như vậy thì đầu năm,
chúng ta phải mừng Xuân trước rồi mới mừng đất nước. Ông bà mình ngày
xưa có câu “Cung Chúc Tân Xuân”, tức là chúc mừng mùa Xuân đã trở về.
Như thế nó mới hợp vấn đề mùa Xuân rồi sau đó đất nước, rồi sau đó là
cái gì nữa thì nó mới hợp lý, theo lẽ thường tình.”
Từ Saigòn, nhà văn Phạm Đình Trọng có vẻ “gay gắt” hơn trước điều mà
ông gọi là “ tự đề cao, không còn biết Trời Đất” trong cái khẩu hiệu đó
của đảng:
|
Một bức tranh cổ động trên đường phố Sài Gòn, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO. |
|
“Tất nhiên là không đúng rồi. Bởi vì thiên nhiên của đất nước, thiên
nhiên thì đã có từ khi khai thiên lập địa rồi; đất nước thì cũng đã có
ngàn tuổi rồi. Còn đảng thì mới có mấy chục năm. Họ tự đề cao như thế
là không được. Nó lố bịch. Đây là sự tự huyễn hoặc, tự đề cao một cách
quá đáng, không còn biết đến Trời Đất, lẽ phải nữa. Một thời đảng quá
hợm hĩnh, quá ngạo mạn, tự đề cao mình như thế. Đây là cái mà có lẽ đến
bây giờ nó vẫn chưa chấm dứt, và kéo dài kể từ khi xuất hiện người CS
đến giờ. Việc tự cho mình là cứu đất nước, mang mùa Xuân đến cho dân
tộc, rồi “mừng đảng, mừng Xuân”, tức cái gì cũng đều đưa đảng lên trên
cả. Đấy là một sự ngang ngược, ngạo mạn của người CS.”
Nhạc sĩ lão thành trong nước, nhạc sĩ Tô Hải, cũng cảnh báo:
“Người dân chỉ cần nói hai chữ dân chủ thôi, hoặc chỉ cần nói
“mừng Xuân” trước rồi mới nói “mừng Đảng” là không được rồi. Mà phải
nói “mừng Đảng, mừng Xuân”. Ở nước ta, bất cứ chuyện gì cũng có thể trở
thành tội phạm, cho nên việc đàn áp thì nhậy bén lắm.”
Theo GS Nguyễn Thanh Giang từ Hà Nội thì cái tư duy “đảng trên hết”
chẳng khác nào giẫm lên dân tộc để “tô son điểm phấn” cho mình. GS
Nguyễn Thanh Giang xem chừng như không dằn được bực tức:
“Tư duy đó là tư duy của kẻ cướp. Đảng luôn luôn giành lợi ích dân
tộc đem về cho mình, kể cả giành xương máu của nhân dân, của đồng bào
về để tô son vẽ phấn cho đảng. Tức là đảng không phải là người đem lại
quyền lợi cho dân tộc, mà bắt dân tộc hy sinh đổ xương đổ máu để tô điểm
cho cái gọi là vinh quang hảo của đảng.”
“Thứ tự trọng khinh”
Nhưng cái “thứ tự trọng khinh”, “phản cảm”, “yêu nhau như thế bằng mười
hại nhau”… ấy của khẩu hiệu “mừng đảng” trước rồi mới “mừng Xuân” sau
khiến hồi năm 2000, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên
Giáo) đã phải chỉ thị không được “mừng đảng” trước mừng Xuân cùng nhân
dân, đất nước vào mỗi độ Xuân về. Tuy nhiên, nhà báo lão thành Hữu Thọ
trong nước lưu ý rằng “sau Tết, nghe phản ánh cũng chỉ 3 hay 4 địa
phương thực hiện” cái chỉ thị này thôi, và “rồi quan sát trong thực tiễn
thì phổ biến lại quay về nếp cũ…”.
Blogger Trần Nhương cũng đề cập tới chuyện “… Hà Nội vẫn chơi kiểu cũ,
không chịu thực hiện chỉ thị từ lâu rồi”. Về vấn đề này, nhà văn Phạm
Đình Trọng nhận xét:
Chuyện khẩu hiệu “mừng đảng mừng Xuân” có thay đổi hay không thì điều
này tôi nghĩ nó phụ thuộc vào từng chỗ, từng nơi, tùy cái chỗ người ta
hiểu được hay không.
-GS Nguyễn Thế Hùng
|
“Trước phản ứng của nhiều người dân thì đảng họ cũng bắt đầu nhìn
nhận, đã thấy vấn đề rồi. Do đó, hiện có một số nơi, ngày Tết, họ sửa
lại là “mừng Xuân, mừng đảng”. Một số nơi họ đã thay đổi thứ tự chữ như
thế. Nhưng hiện còn rất nhiều nơi, họ vẫn theo trật tự cũ là “mừng
đảng, mừng Xuân”!
GS Nguyễn Thế Hùng tin là những người “có trí tuệ” thì họ nghĩ là phải
mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới; hoặc là mừng mùa Xuân trở về, hay
nói cách khác, “Cung Chúc Tân Xuân”, thế thôi. Còn vấn đề có “cải
thiện” hay không còn tùy chỗ “người ta hiểu được” hay không:
“Chuyện (khẩu hiệu “mừng đảng mừng Xuân”) có thay đổi hay không thì
điều này tôi nghĩ nó phụ thuộc vào từng chỗ, từng nơi, tùy cái chỗ
người ta hiểu được hay không. Thí dụ, tôi ở Đà Nẵng, thì có trường họ đề
là “Mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới”, rồi có chỗ vẫn “mừng đảng, mừng
Xuân”. Họ đề rất là lộn xộn.”
GS Nguyễn Thế Hùng tin rằng vấn đề càng ngày càng tỏ, để sau này lịch
sử phán xét thôi. Ông lưu ý là sử kiện thì xảy ra một lần, nhưng người
viết sử thì họ viết nhiều lần. Nhưng lịch sử sau này rất công bằng, để
những gì đúng thì nó sẽ “lắng đọng lại”, còn những gì không đúng thì hậu
thế sẽ lên án. GS Hùng khẳng định rằng những người trí thức chân chính
thì bao giờ cũng có tầm suy nghĩ có giá trị đến một trăm năm hay hàng
ngàn năm về sau, còn những người bình thường thì họ chỉ biết ngày nay,
ngày mai mà thôi.
Chuyện “đảng trước, Xuân sau” khiến blogger Hiệu Minh bỗng nhớ lại
trước kia khi “Đảng đã cho ta một mùa Xuân” ra rả trên loa phường:
Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng
Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi
Đảng đã đem về tuổi xuân cho nước non
Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời
Nhưng rồi blogger Hiệu Minh thắc mắc “Nếu đảng lãnh đạo theo đường lối
hiện nay thì cái mùa Xuân năm nao chẳng còn, mà có khi dân lại ‘ước
vọng’ mùa xuân khác, thì hỏi rằng lúc đó, đảng tự bỏ điều 4 trong Hiến
pháp có muộn lắm không?”
Thanh Quang,
phóng viên RFA
‘Khai hỏa để chứng minh chủ quyền’
Cựu Phó Đề đốc quân lực Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH), Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải,
một trong các chỉ huy trận Hải chiến Hoàng Sa 40 năm về trước, nói về
quyết định khai hỏa vào lực lượng của hải quân Trung Quốc tại Hoàng Sa
mà quân lực VNCH khi đó đang quản lý và thực hiện chủ quyền.
|
Hộ tống hạm HQ-10 Nhựt Tảo |
Nhân dịp bốn mươi năm sự kiện bi hùng này, cựu Phó Đề đốc hồi tưởng lại bối cảnh của trận hải chiến.
“Năm 1973 mặc dù lực lựợng chiến đấu của Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam nhưng
tinh thần chiến đấu của quân lực VNCH rất cao, sau chiến thắng ở An Lộc,
tái chiếm Quảng Trị vào năm 1972.
“Các căn cứ hải quân Mỹ đều được bàn giao lại cũng như các chiến hạm cỡ
lớn như tuần dương hạm, khu trục hạm để hoạt động tại Biển Đông.
Khi được hỏi về quyết định khai hỏa, Phó Đề đốc Thoại mô tả rằng quyết
định này là do điều ông gọi là "từ quyết định của Tổng thống VNCH ông
Nguyễn Văn Thiệu."
Khai hỏa
Tổng thống Thiệu Đồng ý dùng vũ lực'
|
Khi ngồi trong phòng họp của Bộ Tư lệnh Quân 1 duyên hải, có các tướng
lãnh của Bộ Tổng tham mưu cũng như có vị Trung tướng Quân đội 1 thì sau
khi nghe tình hình và tin tức tình báo thì ông [ông Nguyễn Văn Thiệu]
quyết định rằng tôi phải làm tất cả những gì để chứng minh chủ quyền.
“Trước hết là phải dùng các biện pháp ôn hòa như đèn hiệu, cờ hiệu, loa để mời họ ra khỏi lãnh hải và lãnh thổ VNCH.
“Tuy nhiên nếu tất cả các biện pháp ôn hòa không thành công thì ông cho
phép tôi dùng vũ lực để chứng minh chủ quyền của VNCH trên những đảo đó
nên các chiến hạm đã làm tất cả các biện pháp đó rồi nhưng không được
nên phải nổ súng.
Phó Đề đốc Thoại cũng xác nhận rằng không có lệnh nào không cho nổ súng.
“Nếu mà tôi không thi hành đúng lệnh đó [dùng vũ lực để chứng minh chủ
quyền] thì sau cuộc hải chiến rồi cũng sẽ có người hỏi tôi từ Bộ Tổng
tham mưu hay từ Phủ Tổng thống.
Trước câu hỏi về có thông tin không quân VNCH lúc đó ở thế sẵn sàng để
tái chiếm đảo Hoàng Sa nhưng đã không xảy ra việc này, Phó đề đốc Thoại
nói rằng ông “thực sự không nhớ có kế hoạch gì để đưa không quân VNCH ra
tái chiếm”.
|
Ông Thoại nói Tổng thống Thiệu cho phép ông dùng vũ lực để chứng minh chủ quyền. |
|
“Riêng tôi thì tôi không được biết. Những gì trao đổi ở Sài Gòn, nếu có
xảy ra, thì không được thông báo. Ông Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân cũng
như Tư lệnh Quân khu 1 là Trung tướng Ngô Quang Trưởng với tôi là ba
người chỉ huy và chịu trách nhiệm những gì xảy ra ở Quân khu 1 thì tôi
không được nghe biết và tôi cũng không nhớ rằng tôi có nghe những kế
hoạch nào từ trong Sài Gòn dùng không quân để tái chiếm lại Hoàng Sa.
“Quyết định đó có thể có và cũng có thể không.
“Nhưng có một điều tôi biết là Sư đoàn 1 Không quân, phi đoàn khu trục
phản lực F5 lúc nào cũng sẵn sàng ở phi trường để cất cánh khi có lệnh
để bảo vệ các chiến hạm của Hải quân VNCH.”
Phó Đề đốc Thoại cho biết thêm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc,
nhiều tài liệu tiết lộ cho thấy tình báo quân đội Mỹ biết về các cuộc
thao tập của Trung Cộng tại các hòn đảo phía đông bắc Hoàng Sa từ tháng
9/1973 để chuẩn bị cho các cuộc tấn công vào các hải đảo Hoàng Sa.
“Họ chỉ cho mình những tin tức tình báo thôi còn những quyết định làm gì
thì do phía Chính phủ VNCH quyết hết. Họ cũng không khuyên mà cũng
không cản việc gì cả," ông Thoại cho biết.
'Nguy hiểm tột cùng'
|
|
Người Việt hiện tại hay mai sau nếu
còn muốn có một quê hương và muốn giữ mảnh đất mồ mả ông cha mình thì
nên sớm thức tỉnh và thấy rõ sự nguy hiểm tột cùng của sự lấn chiếm mỗi
ngày một thêm của Trung Cộng"
Cựu Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
|
|
Trước câu hỏi về có ý kiến cho rằng phía chính phủ VNCH chưa làm hết để bảo vệ cho Hoàng Sa, ông Thoại nhận xét:
“Tôi không hiểu chưa làm hết là như thế nào. Mình phải nhớ rằng vào giai
đoạn 1973-1974 khi không còn lực lượng quân đội Mỹ thì quân lực VNCH có
trách nhiệm rất lớn.
“Ngoài những nhiệm vụ có sẵn rồi thì còn đảm nhận thêm nhiệm vụ của 500
ngàn quân Mỹ đã rút đi thì lực lượng của VHCH bị xé lẻ ra rất nhiều.
“Thành ra nhiệm vụ chính là làm sao cho miền Nam không bị tràn ngập hơn
là những các hải đảo ngoài khơi cần phải có lực lượng để chiếm đóng.
Khi được đề nghị gửi ra thông điệp cho thế hệ trẻ người Việt ở trong nước cũng như tại hải ngoại, Phó đề đốc Thoại nói:
“Kinh nghiệm cho thấy từ Đệ nhị Thế chiến cho thấy cuộc xâm lăng của một
quốc gia mạnh với những nước nhược tiểu, nếu không được một cường quốc
khác can thiệp ngay từ lúc đầu, thì cuộc xâm lấn sẽ bành trướng thêm và
sự thiệt hại là rất lớn đối với các quốc gia liên hệ.
“Riêng về phần Việt Nam thì người Việt hiện tại hay mai sau nếu còn muốn
có một quê hương và muốn giữ mảnh đất mồ mả ông cha mình thì nên sớm
thức tỉnh và thấy rõ sự nguy hiểm tột cùng của sự lấn chiếm mỗi ngày một
thêm của Trung Cộng.
“Cùng nhau có hành động thích ứng và khẩn cấp trước khi quá trễ và để cả
thế giới và con cháu mình thấy là sự hy sinh của 74 chiến sỹ ở Hoàng Sa
năm 1974 là một ngọn đuốc, biểu tượng cho sự can trường của người chiến
sĩ hải quân và là phát súng khởi đầu cho một cuộc chiến chống ngoại xâm
từ phương Bắc trong vùng Đông Nam Á và trong thế kỷ 21.
"Tôi cũng nhân dịp này nghiêng mình trước anh linh của 74 tử sĩ VNCH và
tôi xin có lời hỏi thăm tới các gia đình tử sĩ và nhất là các chiến hữu
còn ở lại Việt Nam cũng như các chiến hữu ở khắp năm châu đã tham dự hải
chiến Hoàng Sa lời hỏi thăm và lời chúc chân thành nhất của tôi,” Cựu
Phó Đề đốc nói thêm.
Cuộc phỏng vấn với ông Hồ Văn Kỳ Thoại, hiện ở Houston Texas Hoa Kỳ,
do nhà báo kiêm đạo diễn Trần Nhật Phong, một cộng tác viên của BBC Việt
ngữ đang sống làm việc tại Nam California.
Trần Nhật Phong
Theo BBC
Người Việt ở Nhật xuống đường nhân 40 năm “hải chiến Hoàng Sa”
(NCTG) Người Việt Nam ở Nhật cũng biểu tình tuần hành
và gửi văn bản phản đối chính quyền Trung Quốc vì sự cưỡng chiếm quần
đảo Hoàng Sa, diễn ra cách đây tròn bốn thập niên.
Tờ “Sankei” (Sản Kinh) dẫn nguồn từ Hãng Thông tấn Nhật Kyodo
cho hay,
khoảng một trăm người, là những viên chức và lưu học sinh Việt Nam tại
Nhật đã tổ chức diễu hành biểu tình ở khu Minato (nơi tập trung nhiều
đại sứ quán nước ngoài ở thủ đô Tokyo), đồng thanh hô vang khẩu hiệu
“Trung Quốc hãy cút khỏi Tây Sa, Hòa bình cho biển Đông” (*).
Những
người tham dự đã tập trung lại qua lời kêu gọi trên mạng xã hội
Facebook. Cuộc tuần hành khởi đầu lúc 10 giờ sáng ở đoạn đường gần ĐSQ
Trung Quốc, và diễn ra trong khoảng 45 phút. Trên quãng đường dài chừng
1,7 km, biểu ngữ “Các bạn Nhật và các nước ASEAN, Việt Nam vì hòa bình
trên biển Đông, sẽ cùng hành động với các bạn” đã được giơ cao.
Đoàn
biểu tình cũng đã bỏ vào hộp thư trước cửa ĐSQ Trung Quốc văn bản phản
đối việc Trung Quốc đưa ra luật cấm đánh bắt cá trên biển Đông. Trao đổi
với báo chí, một thanh niên (29 tuổi) đang du học tại một trường đại
học quốc lập ở Tokyo, đã chia sẻ: “
Việt Nam là một đất nước nhỏ bé
nhưng cả chúng tôi, thế hệ trẻ, muốn khẳng định với cộng đồng quốc tế
rằng Hoàng Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của đất nước chúng tôi”.
*
Trở
lại lịch sử, vào ngày này cách đây tròn bốn mươi năm, đã xảy ra một
trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc trên
quần đảo Hoàng Sa, khi đó do Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được
chủ quyền. Trận chiến này, về sau được gọi bằng cái tên “Hải chiến Hoàng
Sa 1974”, và gắn liền với tên tuổi của 74 quân nhân Việt Nam Cộng hòa
đã hy sinh khi bảo vệ tổ quốc.
Kể từ năm 1975,
“Hải chiến Hoàng Sa” trở thành một “điểm trắng” trong lịch sử Việt Nam
khi nó ít được nhắc tới trong sách vở và dần dần trở thành một đề tài
“cấm kỵ” trong “chính sử”. Phải tới dịp hồi tưởng năm nay, nhân tưởng
nhớ bốn mươi năm mất Hoàng Sa, báo chí trong nước mới có dịp đăng tải
những chuỗi bài vở về sự kiện Quân đội Cộng sản Trung Quốc dùng vũ lực
cưỡng chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974.
Cuộc
biểu tình của người Việt tại Nhật Bản nói trên là một trong số nhiều nỗ
lực của người Việt trên toàn thế giới hướng về Hoàng Sa. Trong khuôn
khổ chương trình
“Nhịp cầu Hoàng Sa” do một số cá nhân chủ trương, chỉ sau 12 ngày, hơn 500 triệu đồng đã được quyên góp để ủng hộ phần nào “
cho thân nhân những người lính đã hy sinh ở Hoàng Sa và cho những người lính từ Hoàng Sa trở về sống âm thầm suốt 40 năm qua”.
Bên cạnh đó, trong vòng 8 ngày, đã có hơn 16 ngàn người trên thế giới
ký tênvào một lá thư gửi Liên Hiệp Quốc nhân 40 năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa. “
Đây cũng là dịp để cả thế giới nhìn lại sự kiện này và cũng là dịp để Trung Quốc có thể sửa chữa sai lầm của mình trong quá khứ” -
lá thư được soạn thảo bởi hai tổ chức dân sự độc lập Quỹ Nghiên cứu Biển Đông và Nhóm Biển Đông tại Pháp nhấn mạnh.
Với
những tâm nguyện yêu nước mạnh mẽ như thế, người dân Việt Nam có quyền
mong mỏi và đòi hỏi một thông điệp rõ ràng, cương quyết và trước sau như
một hơn nữa từ phía chính quyền, nhất là khi đúng vào dịp tưởng niệm,
Chương trình ca nhạc hát về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa ở Đà Nẵng đã
bị hủy vào phút chót vì
những lý do không được nêu rõ, loạt bài viết trên báo chí về “Hải chiến Hoàng Sa” thì đột ngột bị ngừng và cho “ẩn” vào trong những trang báo mạng... (**)
Ghi chú:
(*) Tây Sa là tên mà chính quyền Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.(**) Tham khảo clip một số hình ảnh trong lễ tưởng niệm bốn mươi năm Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm bất hợp pháp (Hà Nội, ngày 19-1-2014).NCTG
Nguồn:
http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=4030Xem thêm hình ảnh cuộc biểu tình tại Tokyo:
Nguồn: dttl-nguoilotgach.blogspot.com
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về báo chí
Đến tháng 1/2014, cả nước có 838 cơ quan báo chí in, tăng 25 cơ quan;
375 báo, tạp chí, trang thông tin điện tử; 67 đài phát thanh, truyền
hình và một Hãng thông tấn quốc gia là ngân hàng tin đối nội, đối ngoại,
chủ quản nhiều bản tin, báo, tạp chí, kênh truyền hình thông tấn.
Thứ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông Nguyễn Minh Hồng cho biết năm 2014,
Bộ tập trung đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước về báo chí; tăng cường
phổ biến Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.
Cùng với việc khắc phục có hiệu quả hiện tượng một số tờ báo xa rời tôn
chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, Bộ tập trung chấn chỉnh thông tin sai
sự thật, thiếu chính xác, thông tin không phục vụ lợi ích đất nước, nhân
dân.
Bộ cũng tăng cường quản lý, cung cấp thông tin, sử dụng dịch vụ
Internet, đặc biệt là đưa thông tin trên các trang điện tử, blog, mạng
xã hội vào nề nếp; tiếp tục triển khai chiến lược phát triển thông tin
đối ngoại giai đoạn 2011-2020, các nhiệm vụ thuộc chương trình mục tiêu
quốc gia đưa thông tin về cơ sở và Đề án Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển đảo Việt Nam.
Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, quán triệt quan điểm, chủ
trương của Đảng, các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, Bộ chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường truyên truyền
chủ trương của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ để định hướng, xây dựng lòng tin trong nhân dân, tạo
sự đồng thuận trong xã hội, nhất là việc thực hiện Hiến pháp và Luật
đất đai sửa đổi.
Năm 2013, công tác quản lý thông tin, tuyên truyền chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước có nhiều tiến bộ.
Bộ Thông tin Truyền thông thường xuyên chỉ đạo các cơ quan báo chí thực
hiện đúng tôn chỉ, mục đích; bám sát sự kiện, chủ động thông tin rõ quan
điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước; thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Bộ cũng phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam tổ
chức tốt giao ban báo chí hàng tuần, các hội nghị báo chí toàn quốc;
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý sai phạm trong hoạt động
báo chí; kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh các thông tin sai lệch của một số
cơ quan báo chí.
Các cơ quan báo chí đã tập trung truyền thông về những sự kiện hoạt động
kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước; thông tin, phản ánh toàn diện
về những vấn đề xã hội, dư luận quan tâm cũng như về cơ chế, chính sách,
những mô hình, điển hình tiên tiến, những thành quả đạt được.
Đặc biệt, các cơ quan báo chí đã thông tin tốt về cuộc đời, sự nghiệp
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Lễ quốc tang, tình cảm của nhân dân trong
nước, bạn bè quốc tế dành cho Đại tướng.
Các cơ quan báo chí cũng tập trung thông tin, tuyên truyền về Nghị định
của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông
tin trên mạng ở cả trong nước và quốc tế; phổ biến Quy chế phát ngôn,
cung cấp thông tin cho báo chí; triển khai hiệu quả các đề án tuyên
truyền được Chính phủ giao như: an toàn giao thông, an toàn vệ sinh lao
động, Cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam… và các dự án
thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.
Tuy nhiên công tác chỉ đạo, quản lý báo chí thời gian qua vẫn đôi lúc chưa chủ động, lúng túng, chạy theo sự vụ.
Một bộ phận cán bộ quản lý hạn chế về năng lực, nhận thức chưa đầy đủ về
các văn bản chỉ đạo, quy phạm pháp luật về báo chí. Vai trò của cơ quan
chủ quản chưa được phát đầy đủ, còn có hiện tượng né tránh trách nhiệm
với sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền./.
(TTXVN)
Đại gia trốn nợ, mặc bố mẹ già tủi nhục đón Tết
Mang tiếng con rể làm giám đốc công ty BĐS trên Hà Nội nhưng cả năm nay
ông bà Hải không thấy mặt con, những tháng cuối năm ông bà bấm bụng bỏ
tiền tự mua quà gắn mác con rể tặng.
Sát Tết, đại gia nhập viện trốn nợ
Cách đây hai năm, đám cưới con gái ông bà Hải với cậu giám đốc công ty
BĐS trên Hà Nội được cho là linh đình nhất làng. Cái làng quê nghèo được
một phen bàn tán xôn xao bởi danh tính cậu rể mới làm ăn khấm khá, mấy
nhà biệt thự trên Hà Nội, đi xe hơi, tiêu tiền quyển. Đây không chỉ là
ước mơ của bao cô gái ở thôn quê cũng như không ít ông bố bà mẹ phải
thèm thuồng. Con gái ông bà Hải lấy chồng ai cũng bảo như chuột sa chĩnh
gạo. Ông bà Hải được nở mày nở mặt, ít ai có được cái vinh đự đó.
Ấy vậy mà trong lòng ông bà Hải đang phải ngậm cay đắng. Đám cưới tổ
chức xong chưa được bao lâu, cô con gái đã nức nở gọi điện về báo tin
chồng có nguy cơ vỡ nợ. Hai căn biệt thự thế chấp ngân hàng có nguy cơ
bị thu hồi, còn lại mấy lô đất chưa kịp bán lại không có sổ đỏ. Trong
lúc đang mang bầu, con gái ông bà Hải lúc nào cũng lo lắng vì có thể bị
đuổi ra đường bất cứ lúc nào.Từ xe hơi nhà lầu, bỗng chốc, gia đình con
rể đã trở về con số 0.
Không ít đại gia ngao ngán vì sắp Tết
Cái tin vỡ nợ khiến bà Hải nghẹn lòng, ông bà bàn nhau giữ kín bí mật
này không chỉ giữ thể diện cho con mà cũng lo cho mình. Ở cái làng quê
này, vỡ nợ vài chục triệu đã xôn xao khắp xóm, nay mà có tin vài chục tỷ
đồng chắc chắn ông bà cũng muối mặt không dám ra đường.
Con gái sinh nở, bà lên trông cũng phải sống trong căn chung cư chật
chội. Lắm lúc bà buồn rầu: “Con rể làm giám đốc nghe thì oai chứ giờ
chẳng được nước non gì, lên chăm con còn phải mang đồ lên, rồi bỏ tiền
lương ra mà nuôi cháu mình. Làm ăn có thời cũng không trách chúng nó
được, bố mẹ nào mà không lo cho con cho cháu.”
Ông bà Hải mỗi tháng cũng trả nợ cho con vì vay mượn hơn bốn trăm triệu
từ năm ngoái. Từ đó tới nay, ông bà Hải phải gồng sức mình vì phải lo
thêm cho con. Thỉnh thoảng hàng xóm xung quanh vẫn thấy ông bà lên thủ
đô vài ngày rồi về mang lỉnh kỉnh đồ đạc. Hàng xóm vẫn tin rằng, ông bà
được nhờ con rể.
Tết không dám về quê
Tết đến ai cũng nghĩ về quê hương gia đình, nhưng đối với ông Trung đó
lại là một nỗi ám ảnh. Lên Hà Nội lập nghiệp xa quê cũng chừng chục năm
nhưng mấy năm gần đây ít thấy gia đình ông về. Cuối năm 2011, tình hình
kinh doanh bết bát, số tài sản hàng chục tỷ đồng của gia đình ông vơi
dần, giờ chỉ còn cái nhà trên tận Hòa Lạc. Cũng vì vậy mà gia đình không
dám về quê bởi mỗi lần như vậy cũng tốn tiền triệu.
Hồi làm ăn khấm khá, từ 27 Tết, chiếc xe BMW đã về làng mang theo đủ
thứ, từ việc mua sắm đồ ăn, rượu ngoại chưa kể cây cảnh quất đào, rồi
tiền biếu ông bà, lì xì cho con trẻ. Nhà ông lúc nào cũng ăn uống nhậu
nhẹt hát hò linh đình từ đó cho tới qua Tết.
Kinh tế khó khăn, ông Trung bắt đầu cắt giảm những khoản lễ nghi, từ
việc ít về giỗ, đám cưới họ hàng nay thì Tết cũng không. “Tết quê về lắm
thủ tục, mỗi lần tốn cả vài chục triệu ấy chứ, giờ không phải là lúc
tiêu hoang. Năm nay lại cáo lỗi ông bà ở quê vì không về được”, ông
Trung tâm sự.
Theo chia sẻ của ông Trung, so với nhiều bạn bè làm ăn cùng thời, ông
cũng còn may bởi vẫn còn có nhà, tiền thì đang còn ở đất. Không ít đối
tác của ông giờ còn đang ở nhà thuê, đi xe mượn.
Cũng như ông Trung, vợ chồng chị Thảo kết hôn mấy năm nay cũng chưa một
lần về quê ăn Tết. Quê Nam Định, chị vào TP HCM học rồi lấy chồng. Tới
nay, chỉ có bố mẹ chị biết mặt con rể và hiểu được gia cảnh. Người làng
vẫn đồn nhau, chị lấy được chồng giàu, mải làm ăn không có thời gian về
ngoại.
Thị trường BĐS gặp khó khăn, vẫn mác giám đốc nhưng chồng chị nợ nần đủ
kiểu, mấy mảnh đất bán rẻ cũng không ai mua. Chính vì thế, bảo về quê ra
mắt họ hàng nhà ngoại quả là một điều khó khăn, tốn kém. Chị Thảo tính
sơ sơ: “Tiền vé máy bay cho ba người, rồi tiền quà cáp, chi tiêu cũng
phải chục triệu, thôi đành không lễ nghĩa gì”.
Năm ngoái, gia đình chị kiếm cớ trời lạnh con nhỏ không về được ăn Tết
bắc, vợ chồng chị cũng chỉ gửi cho ông bà ngoại một triệu sắm Tết. Tết
này cũng đang tìm cách trì hoãn để về quê ngoại.
Làm ăn khó khăn, chính vì thế mà Tết vui bỗng trở thành nỗi ám ảnh của
nhiều người. Đâu đó, có đại gia lấy lý do bận đi công tác, con nhỏ,… đó
là những cách để trốn quê, trốn nợ.
Khánh Chi
(VEF)
Thượng tá công an trong clip "công an túm cổ cụ già" lên tiếng
(ĐSPL) - Đoạn clip xuất hiện trên mạng xã hội và đã có sự lan
tỏa trên các trang báo. PV đã có buổi trao đổi với người có mặt trong
clip và cũng như cơ quan nơi quản lý người Công an mặc sắc phục trong
clip xuất hiện ngày 17/1 vừa qua.
Đoạn
clip lan truyền trên mạng xã hội vào ngày 17/1 kéo dài hơn 1 phút đồng
hồ với lời chú thích: “Công an Thanh Hóa… đánh bà già”. Ngay sau khi
đoạn clip xuất hiện trên Facebook của người đăng tải, đã có hàng nghìn
lượt chia sẻ và những bình luận trái chiều về đoạn clip.
Ngay
sau khi đoạn clip trên xuất hiện, PV đã tìm hiểu thực tế, bà lão bị
người Công an túm cổ áo tên là Nguyễn Thị Chút (sinh năm 1930), trú ở
đội 8, thôn Quyết Thắng, xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, TP Thanh
Hóa. Theo thông tin bà Chút cung cấp, bà giờ chỉ còn một mình, vì một số
khúc mắc với chính quyền sở tại, nên bà vẫn chưa thể hưởng chế độ cho
người có công. Hiện bà cụ rất khó khăn, đã nhiều năm nay bà luôn đi
khiếu kiện ở nhiều nơi xong vẫn bị các ban ngành chức năng nơi đây từ
chối không giải quyết cho bà với lý do là bà có vấn đề về sức khỏe.
|
Bà Nguyễn Thị Chút cùng chiến sĩ Công an đang giằng co ngay cổng Công an TP Thanh Hóa. |
Theo
những hình ảnh trong đoạn Clip thì bà Chút đứng trước cổng Công an TP
Thanh Hóa thì bất ngờ một một người mặc sắc phục Công an với dáng dấp
cao to từ trong trụ sở Công an TP Thanh Hóa đi ra. Bà Chút đã la lối và
chửi bới người Công an này, sau lời la ó không mấy thiện cảm thì bất ngờ
người Công an này đã túm cổ áo của cụ bà lôi thẳng ra ngoài khiến cụ
ngã nhào xuống đường phố…
Sau khi
clip này được báo chí đăng tải, chiều ngày 20/1, PV đã có cuộc trao đổi
với Đại tá Trần Văn Thực, Chánh VP Công an tỉnh Thanh Hóa, đồng thời là
người phát ngôn báo chí. Ông Thực xác nhận, sự việc xảy ra vào khoảng
16h ngày 17/1 vừa qua. Người trong clip là Thượng tá Nguyễn Văn Chung,
Phó phòng cảnh sát bảo vệ cơ động của Công an Thanh Hóa. Hôm đó, anh
Chung có đi tham dự một cuộc họp ở Công an TP Thanh Hóa, sau khi họp
xong, khoảng tầm 16h anh Chung đi ra cổng thì gặp bà Chút đứng ở cổng
Công an TP Thanh Hóa.
Cũng theo Đại
tá Thực, bà Chút đã đến nhiều các ban ngành chức năng để đòi hỏi giải
quyết chế độ cho con của bà đi bộ đội trước đây. Bà Chút là người có
biểu hiện của bệnh tâm thần từ trước năm 1997, những năm đầu bà hay đến
tỉnh đội, nhưng đến thời gian gần đây tất cả các cơ quan. Đã có lần cơ
quan chức năng đưa bà vào trại giáo dưỡng nhưng rồi bà lại trốn về và
tiếp tục đi khiếu kiện, hễ cứ thấy ai là người có tuổi ở các cơ quan
công quyền là bà lại gọi và chửi bới lăng mạ. Còn anh Chung là phó phòng
bảo vệ cơ động nên đã nhiều lần giải thích cho bà, nhưng bà vẫn không
nghe và tiếp tục đến các cơ quan công quyền để đòi hỏi yêu sách của
mình.
"Anh Chung là người rất hiền
lành. Cho đến nay cơ quan Công an tỉnh Thanh Hóa vẫn chưa có ý kiến chỉ
đạo gì đối với anh Chung nhưng đã có báo cáo bằng văn bản với văn phòng
của Bộ Công an. Theo như anh em có báo cáo lại là hôm nay, anh em tập
trung lực lượng của các ban ngành để vận động đưa bà Chút vào lại trung
tâm giáo dưỡng'', người phát ngôn của Công an tỉnh Thanh Hóa cho biết.
Khi hỏi Đại tá Thực về người gốc của clip đó thì ông cho hay, vẫn chưa xác minh được nguồn gốc xuất xứ của clip.
|
Đại tá Trần Văn Thực, Chánh VP Công an tỉnh Thanh Hóa trao đổi với báo chí. | | |
Mang
đoạn clip này đến gặp Thượng tá Nguyễn Văn Chung, Phó phòng cảnh sát
bảo vệ cơ động tỉnh Thanh Hóa, là người trong clip cho biết, anh chỉ
phản xạ theo tự nhiên chứ không có ý đồ xấu đối với bà Chút cả.
“Thật
sự tôi rất bất ngờ trước vụ việc, thực ra tôi cũng không có ý đồ gì xấu
xa, đó chỉ là phản xạ tự nhiên cảu tôi, khi cụ giơ tay đẩy vào ngực
tôi. Đã nhiều lần tôi đưa cụ về nhà nhưng không hiểu sao cụ lại lang
thang trên phố nhiều đến thế. Hôm ấy tôi vừa họp trong cơ quan ra thì
bất ngờ cụ bà lao vào túm lấy cổ áo tôi rồi nói: “Đây! Thằng Chung đây
rồi! Mi chạy đi mô?”. Do phản xạ theo bản tính tự nhiên nên tôi gạt tay
cụ và vô tình làm ngã cụ chứ không có ý gì đâu. Họp xong tôi đang có
công việc gấp nên phải đi ngay”, anh Chung phân trần.
Đã
khoảng hai mươi năm nay cụ Chút thường đi đến các cơ quan, gặp ai cũng
chửi bới. Trước kia, bà cụ có một người con đi quân đội bị kỷ luật đuổi
ra khỏi nghành. Sau khi bị đuổi, người con này bỗng đi đâu mất tích bên
Campuchia, đến nay chưa trở về nhà nên bà vẫn đi đến các công sở để thắc
mắc.
Phong Trần
Những ‘hổ báo’ dũng mãnh trong đám đông
Khác với lúc đứng riêng rẽ một mình, cái vô danh trong đám đông
đem lại cho người ta một sự an toàn và cảm giác được bảo vệ nhất định.
Cuối năm nhìn lại, ngỡ ngàng vì năm cũ đã qua với không ít câu chuyện giật mình.
Nào những người dân bình thường hiền lành, thân ái
với nhau, lại trong tích tắc trở nên khác hẳn, hăm hở lao vào núi bia
đổ, lễ mễ khuân ra mấy bịch, rồi háo hức quay lại làm đợt nữa. Điều gì đã xảy ra?
Điều gì làm cho một số thanh niên, đang đi chơi với bạn gái,
bỗng hăng lên lao vào "đánh hôi" kẻ trộm chó như đi trẩy hội?
Lý do gì
làm những người công dân xây dựng hàng ngày chăm chỉ mang
cơm đi làm, bỗng trở nên hung hãn và đập phá chính ngay công
việc đem lại miếng cơm manh áo cho họ?
Sẽ hời hợt nếu chỉ đưa
ra những bình luận chung chung về sự xuống
cấp của xã hội, về niềm tin bị đánh mất, về người Việt thiếu văn hoá.v.v...
Để hiểu được những hiện tượng này và truy tìm
nguyên nhân, chúng ta cần nhìn sâu hơn vào tâm lý đám đông và
xem họ vận hành.
Đám đông là... vô danh
Một đám đông có những yếu tố đặc biệt.
Thứ nhất,
trong đám đông, các thành viên của nó vô danh. Khác với lúc đứng riêng
rẽ, cái vô danh trong đám đông đem lại cho người ta sự an
toàn và cảm giác được bảo vệ nhất định.
Thứ hai, đám đông gây
phấn khích. Những người đã từng ở trong một sân vận động khổng lồ đều
biết cảm giác đó khác với cảm giác khi xem trận bóng trước màn hình
TV. Số đông cộng hưởng và tạo ra một năng lượng đặc biệt, sự hưng phấn có sức lây lan lớn. Lúc đó, cô gái nhút nhát nhất cũng
có thể văng tục ngon ơ và cho ngón tay vào mồm, cùng huýt sáo la ó trọng
tài.
|
Và
cuối cùng, đám đông rùng rùng chuyển động và trăm người như một cùng
làm một hành vi nào đấy, khi họ được một sự kiện bất ngờ châm ngòi.Ảnh VTC |
Đám đông cũng đem lại cho các cá nhân trong nó cảm giác
về quyền lực. Trong đám đông, những người vốn thấp cổ bé họng bỗng có
cảm giác mình mạnh mẽ. Chúng ta hẳn còn nhớ một người đàn ông Đồng Nai
vừa bê bia vừa trừng mắt quát người tài xế xe tải: "Báo công an đi, ông thách đấy!"
"Không
có gì nguy hiểm hơn là xây dựng một xã hội mà trong đó một nhóm lớn có
cảm giác là họ không được can dự, rằng họ không có gì để mất. Nếu người
ta có quyền lợi trong xã hội, người ta sẽ bảo vệ xã hội, nhưng nếu
không, họ sẽ vô thức muốn phá huỷ nó." | |
Và
cuối cùng, đám đông rùng rùng chuyển động và trăm người như một cùng
làm một hành vi nào đấy, khi họ được một sự kiện bất ngờ châm ngòi.
Giả
sử như trăm thùng bia xếp ngay ngắn ven đường,
thì kể cả chỉ có một người trông coi thôi, chắc cũng không ai nghĩ tới
chuyện xông vào lấy. Bia đổ tung toé ra đường tạo ra một tình huống lạ,
một điều bất thường, và sự kết hợp của sự vô danh, phấn chấn lây lan,
cảm giác quyền lực và an toàn, làm giảm đáng kể ý thức trách nhiệm của
mỗi người về hành vi của mình, biến một bà mẹ mẫu mực thành một người
hớn hở gom bia mặc dù trong nhà không có ai uống, để tới lúc tỉnh cơn
say mới hối hận về hành động của mình.
Trong đám đông, con người dễ đánh
mất bản thân.
Nhưng, chen chúc lượm bia hay bẻ mấy cành hoa trong một hội chợ vẫn khác xa với việc
xông vào đánh tới chết một kẻ trộm chó, hay châm lửa đốt rụi hàng
chục xe máy. Điều gì khiến đám đông trở thành sức mạnh phá huỷ -
nhiều khi phá chính môi trường sống của họ?
Nguyên cớ có vẻ gần giống như chuyện các CĐV bóng đá ở Anh bỗng nhiên hỗn
chiến và giật tung ghế của sân vận động, hay xa hơn là làn sóng đập phá
và hôi của ở London năm 2011 làm toàn thế giới kinh ngạc, lý do của 6
ngày bạo lực và cướp bóc ở Los Angeles năm 1992 làm 53 người tử vong.
Đám đông ngoài lề?
Có
một điểm chung ở tất cả các sự kiện nói trên, đó là, tất cả đều là đám
đông những người ngoài lề, những người thấp bé trong xã hội, thu nhập
thấp
hoặc thất nghiệp, và không có cơ hội.
Họ mang sẵn trong mình sự cáu kỉnh và chán nản. Họ bực bội với bản thân, với
cuộc đời, với những thứ xung quanh. Khi họ nhập vào một đám
đông, như Gustave Le Bon nhận xét trong Tâm lý học đám đông, họ đánh mất tính cá
nhân, tính độc lập, khả năng đánh giá và phán xét đạo đức. Họ bị cuốn
vào ảnh hưởng phi lý của xung quanh.
Đám đông có
thể làm những việc mà mỗi cá nhân, nếu đứng
riêng biệt, sẽ không bao giờ nghĩ là họ có thể làm. Chỉ cần một sự kiện
nhỏ xảy ra...
|
Do đó, đám đông có
thể làm những hành động phá huỷ và bạo lực mà mỗi cá nhân, nếu đứng
riêng biệt, sẽ không bao giờ nghĩ là họ có thể làm. Ảnh VTC |
Ở khía cạnh tâm lý, đó thực chất là cảm giá bất lực, đứng ngoài lề, không làm chủ cuộc đời mình. Họ thấy
họ như những kẻ lạ trên chính mảnh đất của mình, bị bỏ rơi. Họ thấy họ kém cỏi, vô giá trị. Vì thế, họ dễ dàng ngấm cái say
của một đám đông nổi loạn...
Ít nhất, trong khoảnh khắc đó,
họ có cảm giác mình là người thắng, người mạnh, rằng cuộc sống thú vị,
sôi động, làm họ quên đi cái mòn mỏi hàng ngày. Đám đông cho họ
một bản sắc, cho họ một nơi để thuộc về.
Đám đông "mới" của ngày
nay khác đám đông "cũ" năm xưa. Đám đông cũ, qua quá trình được
"vận động" tham gia cách mạng, đã phát triển cho mình một nhận thức.
Còn ngày nay?
Những công nhân và người nghèo bây giờ đơn giản bị kẹt trong
cái bẫy nghèo. Những người, mà như Oscar Lewis đã định nghĩa
trong Văn hoá của nghèo khổ năm 1998, "có rất ít ý thức về lịch
sử. Họ là những người bên lề, chỉ biết tới những vật lộn của bản thân,
chỉ biết được hoàn cảnh của địa phương họ, thế giới hẹp của họ, cách
sống riêng của họ. Thông thường, họ không có kiến thức, tầm nhìn hay ý
thức hệ để nhận ra những điểm tương đồng giữa những vấn đề của họ và vấn
đề của những người giống họ trên thế giới. Nói một cách khác, họ không
có ý thức giai cấp, mặc dù họ rất nhạy cảm với sự phân biệt về đẳng
cấp".
Phải kinh ngạc để nói rằng,
những đám đông nổi loạn bây giờ không có quan
điểm xã hội hay thông điệp chính trị gì. Những công nhân đập phá ở
Samsung không đưa ra một đòi hỏi cụ thể gì cho doanh nghiệp hay công
đoàn; những người dân đánh trộm chó không có yêu cầu gì với
công an hay chính quyền.
Chính vì vậy, sự hung hãn bùng phát thường bất ngờ
với các nhà bình luận xã hội và các nhà chức trách, lúc đó họ mới bối
rối đi tìm lý do và lời giải thích.
Lời giải thích đơn giản nhất có lẽ đến từ Martin Luther King: "Không
có gì nguy hiểm hơn là xây dựng một xã hội mà trong đó một nhóm lớn có
cảm giác là họ không được can dự, rằng họ không có gì để mất. Nếu người
ta có quyền lợi trong xã hội, người ta sẽ bảo vệ xã hội, nhưng nếu
không, họ sẽ vô thức muốn phá huỷ nó."
Một xã hội ổn định là xã hội không chỉ dành cho các nhóm lợi ích;
những nhóm lớn cũng phải được tiếp cận một phần tử tế của miếng bánh,
một cảm giác xã hội là của họ, phục vụ họ thực sự chứ không phải chỉ
trên các khẩu hiệu và văn kiện.
(Phó giám đốc CECODES - Trung tâm Hỗ trợ Cộng đồng và Nghiên cứu Phát triển)
(VNN)
Ông Sam Rainsy trả lời BBC về Việt Nam
Mở bằng chương trình nghe nhìn khác
Quan hệ Việt Nam – Campuchia lần nữa lại vào tâm điểm chú ý
của báo chí và giới quan sát sau các chuyến thăm hai bên của
thủ tướng Campuchia và Việt Nam.
Mới đây, đặc phái viên nhân quyền của Liên Hiệp Quốc phát biểu
quan ngại về ngôn từ bài Việt Nam của lãnh đạo đối lập
Campuchia. Chiêu bài chống Việt Nam thực ra đã được các đảng
phái ở nước này sử dụng nhiều lần.
Hồng Nga của BBC vừa có chuyến đi Campuchia và phỏng vấn riêng lãnh đạo đảng Cứu nguy Dân tộc đối lập Sam Rainsy.
(BBC)