Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Sân chơi thượng lưu và thói quen nửa mùa

Hà Huy Sơn - Tư tưởng, ngôn luận không phải là đối tượng của giám định tư pháp

1. Pháp luật khẳng định công dân có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận:
- Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966, Việt Nam tham gia năm 1982, quy định:

“Khoản 1, Điều 18:           

1. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.”

Ls Hà Huy Sơn
“Khoản 1, 2 Điều 19:
1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.

2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.”
- Tuyên ngôn nhân quyền Liên hợp quốc 1948, quy định:

“Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.”
- Hiến pháp năm 2013, điều 25, quy định:

“Điều 25.

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Vì vậy, tư tưởng, ngôn luận là quyền tự do của con người, quyền của công dân nó không phải là đối tượng của bất cứ hoạt động giám định nào.
2. Đối tượng của giám định tư pháp:
- Luật giám định tư pháp 2012:
+ Khoản 1 điều 2, quy định:

Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này.”
+ Khoản 1 điều 3 “Nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp”, quy định:

“Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn.”
+ Khoản 2 điều 41 “Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp”, quy định:

“Ban hành quy chuẩn giám định tư pháp hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý.”
- Thông tư số 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông:

Khoản 1 điều 10 “Áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp;”, quy định:

“Hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông được thực hiện căn cứ vào quy chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện hành (bao gồm Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực thông tin và truyền thông) và các văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung cần giám định.”
Như vậy, giám định tư pháp nói chung là việc sử dụng các kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn để xác lập chứng cứ vật chất liên quan nhằm mục đích phục vụ giải quyết vụ án. Nói riêng về giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông là áp dụng Tiêu chuẩn quốc gia, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực thông tin và truyền thông để xác định, kết luận các chứng cứ được yêu cầu trưng cầu giám định để phục vụ việc giải quyết vụ án. Đối tượng của giám định tư pháp nói chung và trong trong lĩnh vực thông tin và truyền thông nói riêng phải là những chứng cứ vật chất.
Việc phát biểu quan điểm; bao gồm tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác (internet…) là quyền tự do của con người. Nội dung của các tư tưởng, tin tức là những giá trị phi vật chất, không thể đo lường được bằng một tiêu chuẩn kỹ thuật, phương tiện vật chất hay một chuyên môn nào. Nói cách khác tư tưởng, tin tức không phải là đối tượng của giám định tư pháp và không thể sử dụng làm chứng cứ cho việc giải quyết một vụ án.
Hà Nội, ngày 17/11/2014.
Hà Huy Sơn
(Bauxitevn)

Bộ trưởng Khoa học nói về Đại tướng quân 'Hai lúa'

Nếu cơ chế cho phép hỗ trợ ở mức như Chính phủ Campuchia thì chắc chắn người dân có thể sáng tạo ngay trên quê hương mình - Bộ trưởng KHCN Nguyễn Quân chia sẻ với báo chí bên hành lang QH ngày 17/11.
- Chuyện hai cha con ông Trần Quốc Hải sửa thiết giáp ở Campuchia được phong Đại tướng quân và thưởng lớn đang được công chúng rất quan tâm. Theo Bộ trưởng, tại sao những người có khả năng như vậy không thể sáng tạo và cống hiến ngay trên đất nước mình?
Bộ trưởng Khoa học Công nghệ, Nguyễn Quân, Trần Quốc Hải, Campuchia, xe bọc thép, tàu ngầm, Hai lúa, Đại tướng quân
Bộ trưởng Nguyễn Quân. Ảnh: Minh Thăng
Sự sáng tạo dù của nhà khoa học hay người dân bình thường đều đáng trân trọng, vấn đề là sự sáng tạo ấy có thị trường hay không. Nếu có thị trường, có sự đặt hàng, những sáng tạo ấy có khả năng được áp dụng, ứng dụng và trở thành sản phẩm của xã hội.
Trong lĩnh vực quốc phòng, sửa chữa thiết bị, xe máy là việc rất quan trọng. Tôi cảm nhận là các nhà máy công nghiệp quốc phòng của chúng ta đều đang làm rất tốt, chưa có nhu cầu đặt hàng từ những người dân.
Chính sách của ta trong lĩnh vực này cũng còn nhiều bất cập. Chính phủ từ năm 2013 đã có nghị định về sáng kiến, nhưng do vướng mắc về hệ thống luật pháp mà nguồn lực để hỗ trợ sáng kiến, sáng tạo của người dân là rất khó khăn. Chưa có điều khoản nào trong các văn bản luật pháp cho phép các cơ quan nhà nước dùng ngân sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân, phải trông vào xã hội hóa.
Nếu cơ chế cho phép Nhà nước hỗ trợ ở mức như Chính phủ Campuchia thì chắc chắn người dân của ta có thể sáng tạo ngay trên quê hương mình.
Tỉ lệ tiến sĩ làm khoa học không cao
- Vậy Bộ trưởng nghĩ thế nào về việc nước ta có đầy đủ hệ thống trường đại học, viện nghiên cứu, số lượng giáo sư, tiến sĩ rất nhiều, nhưng nhiều sáng tạo thực sự gắn với đời sống lao động sản xuất lại đến từ những người nông dân không bằng cấp?
Ta phải nhìn nhận vô cùng khách quan là có rất nhiều sản phẩm được ứng dụng thành công mà không được để ý. Các nhà khoa học của chúng ta đã làm được rất nhiều sản phẩm có giá trị cho đất nước. Như hệ thống vắc-xin, VN là 1 trong 4 nước trên thế giới làm được vắc-xin phòng bệnh tiêu chảy.
Hay chúng ta đang làm chủ việc thiết kế, chế tạo giàn khoan tự nâng 90 mét nước và 120 mét nước tiêu chuẩn quốc tế, đã hạ thủy thành công, trở thành một trong 3 quốc gia châu Á làm được điều đó. 
Những thành công của người dân không bằng cấp được đề cập nhiều hơn. Đấy là điều đương nhiên phải khuyến khích. Không phải Chính phủ hay các bộ không quan tâm, mà cơ chế chưa phù hợp để hỗ trợ họ tối đa. 
Số lượng giáo sư, tiến sĩ của VN có phải nhiều nhất khu vực không còn phải thực chứng, nhưng chắc chắn trong số 25.000 tiến sĩ, tỉ lệ người làm khoa học không cao, thực sự làm khoa học thì còn ít nữa, nhiều người đã chuyển sang làm quản lý, doanh nghiệp… 
Tôi cũng xin khẳng định, nhiều người nông dân tuy không bằng cấp nhưng thực sự là những nhà khoa học. Vì có nhiều người nghiên cứu, đam mê nhiều hơn cả những người có bằng cấp. 
- Nhưng họ lại phản ánh là không được khuyến khích, tạo điều kiện, thậm chí bị gây khó khăn. Ví dụ những người tự chế tàu ngầm bị cản trở khi đem đi thử nghiệm.
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, người dân muốn làm gì nên hợp tác với cơ quan khoa học, quản lý. Nếu chỉ làm tàu ngầm cho gia đình, để trong ao, hồ nhà mình thì không ai ngăn cản. Nhưng đem ra thử nghiệm ngoài biển, hoặc chế tạo máy đem thử nghiệm trên trời, chắc chắn phải có sự cho phép của cơ quan quản lí nhà nước, vì liên quan đến tính mạng, tài sản của người dân và chính người chế tạo, chưa kể vấn đề an ninh quốc phòng của quốc gia.
Họ nên hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lí, khoa học từ đầu. Thiết bị, máy móc phải có quy chuẩn, tiêu chuẩn, nếu là phương tiện giao thông thì phải đăng kiểm. Đấy là điều bắt buộc. 
Các cơ quan muốn cấp phép thì phải căn cứ theo tiêu chuẩn, đăng kiểm để khẳng định mức độ an toàn. Nếu hợp tác ngay từ đầu, các chuyên gia có thể kiểm định từ thiết kế cho đến từng mối hàn, thiết bị, mới có thể xác nhận để cấp phép, đăng kiểm.
Do ngân sách hiện dành cho việc này gần như không có, nên nhiều khi người dân đến các cơ quan nhà nước mong tìm kiếm sự hỗ trợ về tài chính thì không đạt được, thất vọng không tìm đến nữa. Nhưng bà con phải hiểu rằng, hỗ trợ tài chính chỉ là một phần, điều quan trọng là hỗ trợ về chính sách, về những quy định quản lí, để sản phẩm của bà con có có thể được cấp phép và lưu hành.
- Nhưng thực tế ngân sách dành cho khoa học công nghệ hàng năm đều dùng không hết, cớ gì không đầu tư cho những nghiên cứu mang tính ứng dụng cao như vậy của người dân?
Trước đây việc sử dụng phần ngân sách này phải được lập kế hoạch, cái gì không đúng dự toán thì không chi được, mà sáng kiến của người dân thì nảy sinh đột xuất.
Luật Khoa học Công nghệ sửa đổi có một điểm mới là cơ chế quỹ, tức là dự toán ngân sách sau khi được QH phê chuẩn sẽ được Chính phủ giao cho các quỹ về khoa học công nghệ. Khi có nhiệm vụ, đề tài, hay thiên tai dịch bệnh, hay sáng kiến của người dân… nảy sinh bất kì thời điểm nào đều có thể cấp phát kinh phí để triển khai ngay, không phải chờ năm sau. Chờ đợi thì người dân chán nản, các nhà khoa học cũng thấy đề tài của mình lạc hậu.
Hiện nghị định về sáng kiến nói trên vẫn đang chờ thông tư hướng dẫn.
Nhà khoa học VN đâu phải toàn tiến sĩ giấy

Những nhà khoa học đổ mồ hôi, dồn trí tuệ trong các phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, trường đại học, làm được rất nhiều cho đất nước, nhưng luôn bị mang tiếng “mấy chục ngàn tiến sĩ không bằng mấy bác nông dân”. Tôi không muốn xã hội hiểu thiên lệch như vậy. Những người làm khoa học của chúng ta không phải toàn tiến sĩ giấy, vô dụng, bất tài.

Người dân có sáng tạo, sáng kiến cũng nên hợp tác với các nhà khoa học, để cùng tạo ra sản phẩm cho xã hội. Chứ bây giờ mạnh ai người nấy làm và trách móc lẫn nhau.
C.Hoàng - T.Vũ ghi
VNN

Trung tướng Campuchia nói về ông Hải ‘máy bay’

Nông dân Trần Quốc Hải được biết đến với biệt danh “ông Hải máy bay”, gần đây lại gây sốt với sự kiện cải tiến thành công xe bọc thép cho quân đội Campuchia.

Hai cha con ông Hải và Trung tướng Soy Narit bên xe bọc thép. Ảnh: TL
 (Xem bài “Ông Hải máy bay được nước bạn vinh danh” số báo ngày 12-11 trên Pháp Luật TP.HCM), được Thủ tướng Hun Sen đích thân trao tặng huân chương Đại tướng quân.
Mối duyên để ông Hải làm việc với đất nước Campuchia bắt đầu từ cuộc gặp gỡ đoàn khách đặc biệt do Trung tướng Soy Narit, Chỉ huy phó Lữ đoàn 70 của quân đội Hoàng gia Campuchia, dẫn đầu. Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trao đổi với trung tướng.
. Phóng viên: Thưa trung tướng, vì sao ông biết đến ông Trần Quốc Hải?
+ Trung tướng Soy Narit: Ban đầu tôi liên hệ với ông Hải bởi vì biết ông ấy làm ra máy trồng mì, máy cày, máy bón phân, máy xới… Khi làm việc với ông Hải, tôi biết ông ấy còn có khả năng sửa chữa các loại máy móc, động cơ. Tôi trao đổi với ông về việc sửa chữa, cải tiến xe của đơn vị, làm thế nào để cải tiến động cơ từ tiêu thụ xăng thành động cơ tiêu thụ dầu. Máy đã cũ tiêu hao rất nhiều nhiên liệu nên việc cải tiến giúp tiết kiệm kinh phí rất lớn. Ông Hải đã giúp chúng tôi làm được điều này.
. Ông nhận xét gì về năng lực của ông Hải?
+ Ông Hải là thợ máy có năng lực rất tốt. Sau khi kiểm tra, giám sát và thử nghiệm lại các loại máy móc thì chúng tôi thừa nhận ông Hải làm rất hiệu quả. Làm không tốt thì không được công nhận đâu.
. Đã có nhiều người Việt Nam được nhận huân chương Đại tướng quân như ông Hải không, thưa ông?
+ Chính quyền Campuchia trao huân chương, bảng công nhận, giấy khen, thư cảm ơn cho những người có thành tích, người có công, người giúp đỡ đất nước. Ngoài ông Hải, chính phủ Hoàng gia còn trao tặng huân chương cho những người đã giúp xây dựng đất nước, giúp đất nước tiết kiệm được ngân sách. Những việc đó đều được chính phủ ghi nhận và trân trọng.
. Tôi có nghe nói rằng khi ông Hải ở Campuchia, ông ấy có xe hơi riêng, được tặng biệt thự và 18 mẫu xoài. Những thông tin này thực hư như thế nào?
+ Đây là vấn đề riêng tư và tôi không thể trả lời. Tôi chỉ quan hệ với ông Hải trên phương diện công việc và về vấn đề nông nghiệp thôi, vấn đề khác tôi không nói được.
. Xin cám ơn ông.
MINH MINH - CHAN THI thực hiện
(Pháp Luật)

Sự tráo trở của một người từng là... luật sư !

Sau hơn ba năm chấp hành án vì "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", ngày 6-2-2013, Lê Công Định được ra tù trước thời hạn. Ngỡ rằng sau khi được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước, Lê Công Định sẽ rút ra bài học để làm lại cuộc đời, song qua một số ý kiến đã công bố, lại thấy dường như anh ta đang muốn chứng minh mình là con người tráo trở?
Năm 2010, trước khi tòa nghị án, Lê Công Định đã thành khẩn nhận tội, tỏ ra ân hận vì "đi ngược lại những đóng góp của gia đình trong hai cuộc kháng chiến". Đến hôm nay, vi-đê-ô clip và lời nhận tội của Lê Công Định vẫn còn nguyên trên internet, cho thấy việc làm "có mục đích tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam, hành vi của tôi đã vi phạm pháp luật Việt Nam, cụ thể là Điều 88 Bộ luật Hình sự, như tôi bị khởi tố. Tôi rất hối hận về sai lầm của mình mà vì đó mà tôi đã bị bắt tạm giam như ngày hôm nay. Do vậy, tôi đã hợp tác khai báo đầy đủ về việc làm của mình cho cơ quan điều tra, mong muốn được hưởng các tình tiết giảm nhẹ và sự khoan hồng theo quy định của pháp luật".
Lê Công Định
Sau hơn ba năm, do chấp hành tốt nội quy trại giam trong quá trình thụ án, Lê Công Định đã được ra tù trước thời hạn. Trở về với gia đình, với xã hội, thời gian đầu, Lê Công Định khá im hơi lặng tiếng, nhưng từ ngày 3-2-2014, sau khi trả lời phỏng vấn của BBC với những dòng phác họa "Từ năm lên bảy tuổi, tôi đã bắt đầu quan tâm đến chính trị. Năm lên 14 tuổi, tư tưởng tôi dần định hình. Đến năm 20 tuổi, khi sự kiện Đông Âu diễn ra, tôi xác định phải làm gì đó để thay đổi đất nước theo hướng xây dựng một quốc gia pháp trị và xã hội dân sự. Hơn 20 năm nay vẫn như vậy, không lý do gì để biến cố của bốn năm vừa qua có thể thay đổi lý tưởng của tôi" thì dường như anh ta bắt đầu hoạt động trở lại thông qua facebook, qua những bài viết, bài trả lời phỏng vấn trên một số diễn đàn của các thế lực thù địch, hoặc thiếu thiện chí với Việt Nam?
Ai cũng hiểu một điều đơn giản, một người có bản lĩnh sẽ rất khó có thể bị lôi kéo. Song theo lời khai của Lê Công Định với Cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an) vào năm 2009 thì anh ta lại liên tục bị lôi kéo, lúc thì: "Với sự lôi kéo của Nguyễn Sĩ Bình, tôi đã tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam và là thành viên Ban Thường vụ tổ chức này và đã tham gia các việc làm tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam", lúc thì "Đầu tháng 3-2009, tại Pattaya, Thái-lan, tôi đã bị tổ chức Việt tân lôi kéo tham gia lớp huấn luyện đấu tranh bất bạo động"! Và đâu là sự chín chắn khi một người từng mang danh "luật sư" mà khi bàn về tự do ngôn luận, tự do báo chí trên BBC lại chỉ dẫn lại điều luật quốc tế hay điều luật nước này, nước khác có lợi cho mình (như để lòe bịp người chưa đọc các văn bản đó?), tảng lờ các nội dung có tính chế định và ràng buộc: "Trong khi thực hiện những quyền và quyền tự do cho cá nhân, mọi người chỉ phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng được các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ" (khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế); "Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (...) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tôn trọng các quyền tự do và thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý" (khoản 3 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị); "việc thực thi các quyền con người phải được xem xét trong bối cảnh khu vực và quốc gia, tính đến hoàn cảnh khác nhau về chính trị, kinh tế, pháp lý, xã hội, văn hóa, lịch sử và tôn giáo" và "Việc thực thi nhân quyền và các quyền tự do cơ bản sẽ chỉ được giới hạn theo quy định của luật pháp nhằm mục đích bảo đảm việc thừa nhận nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của những người khác, và để đáp ứng các yêu cầu chính đáng về an ninh quốc gia, trật tự công cộng, y tế công cộng, an toàn công cộng, đạo đức công cộng, cũng như phúc lợi chung của tất cả mọi người trong một xã hội dân chủ" (Điều 7, Điều 8 Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN)?
Đồng thời với việc đưa ra ý kiến không hoàn chỉnh về tự do ngôn luận, tự do báo chí, Lê Công Định còn có xu hướng "hoài cổ", soi mói lịch sử nhằm xuyên tạc (hay mê hoặc người đọc thiếu am hiểu lịch sử?). Thí dụ, để hạ thấp ý nghĩa trọng đại của ngày 2-9, mấy tháng trước, trong khi nhân dân cả nước hồ hởi đón chào Quốc khánh thì Lê Công Định công bố trên facebook, sau đó gửi đăng trên BBC ý kiến cho rằng, ngày 11-3-1945 "Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ" là "thời điểm đáng lưu ý... xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11-3-1945"! Viết như vậy, Lê Công Định tự chứng tỏ anh ta hoặc là người rất kém hiểu biết lịch sử, hoặc cố tình xuyên tạc lịch sử để phủ nhận một sự kiện, một giá trị quan trọng của đất nước Việt Nam. Bởi người Việt Nam am hiểu lịch sử dân tộc đều biết ngày 11-3-1945 Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", ra tuyên bố này khác,... là do sức ép của phát-xít Nhật, qua đó chấp nhận thay thế thế lực ngoại xâm đô hộ này (Pháp) bằng thế lực ngoại xâm đô hộ khác (phát-xít Nhật). Để sáng tỏ, Lê Công Định nên tìm đọc hồi ký của ông Trần Trọng Kim cùng các tài liệu liên quan để hiểu quan hệ của ông với người Nhật như thế nào, tại sao lại có ý kiến cho rằng "Trần Trọng Kim bị người ta dùng làm con bài, mà vẫn tưởng là họ cho ông ra đóng góp với dân tộc"!
Phát ngôn bừa bãi về ngày độc lập của dân tộc xong, Lê Công Định chuyển sang ca ngợi... chế độ Sài Gòn trước đây! Như muốn hùa theo mấy kẻ chống cộng người Mỹ gốc Việt đang sống ngày tàn nơi đất khách quê người và tự huyễn hoặc, tự an ủi nhau về "quá khứ oai hùng", Lê Công Định làm thơ "kính tặng" một viên tướng vì bại trận phải tự sát và "tướng lĩnh, binh sĩ VNCH", mà qua câu thơ "Từng thao lược, can trường xông trận mạc - Giặc thù phơi xác, máu loang chân" (!) là có thể hiểu anh ta đứng về phía nào. Sau đó, nhân "ngày giỗ Ngô chí sĩ" và kỷ niệm sự kiện Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại, Lê Công Định vừa viết trên facebook coi Ngô Đình Diệm là "nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20..., nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam" (!), vừa đưa lên internet bức ảnh chụp anh ta đứng bên mộ Ngô Đình Diệm như muốn khẳng định không nói suông!? Thậm chí mới đây, trong một status đăng trên facebook cá nhân, trong khi xưng xưng viết "lịch sử phải khách quan", anh ta lại bất chấp sự thật lịch sử, ngang nhiên coi việc chính quyền Ngô Đình Diệm "lê máy chém" giết hại nhân dân miền nam là "vu cáo... luận điệu tuyên truyền của nhà nước"! Bàn về một vấn đề hệ trọng như thế, nhưng không tìm hiểu lịch sử, hay anh ta cố tình bỏ qua lịch sử để "làm đẹp thần tượng Ngô chí sĩ"!? Rất nhiều tài liệu về tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm do chính người Mỹ và nhiều người nước ngoài viết đã xuất bản, chẳng lẽ Lê Công Định không đọc? Còn về máy chém, mọi người đều biết đó là một công cụ man rợ mà chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng để giết hại đồng bào, mà cái chết của Ba Cụt (tức Lê Quang Vinh, bị chém ở Cần Thơ năm 1956), Hoàng Lệ Kha (Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh, bị chém ở Tây Ninh năm 1960),... là những sự kiện đủ chứng minh Lê Công Định cố tình đổi trắng thay đen, phớt lờ sự thật lịch sử. Nếu là người cầu thị, Lê Công Định cần đọc mấy dòng của tác giả Cao Hữu Tâm khi trao đổi với một số người đang lao xao "hoài Ngô" đã viết trên trang mạng sachhiem.net: "Cụ đã mục xương lâu rồi, đừng mang cái xác thối của cụ ra bắt người khác ngửi mùi tử khí "anh minh" nữa. Cụ do Mỹ cho về, cũng lại do Mỹ bứng đi, đó là quy luật của nhờ cậy rồi phản bội, thôi. Còn muốn chống cộng, không phải chỉ văng tục chửi thề tục tĩu là cộng sản chết đâu, mà kết quả ngược lại, tức là bị phản ép - phê rồi đó!".
Tuy nhiên, sự tráo trở của Lê Công Định thể hiện rõ nhất khi anh ta viết: "Chính biến cố bắt giam tôi ngày 13-6-2009 đã đẩy tôi vào con đường chính trị một cách bất đắc dĩ"! Viết như thế, chẳng hóa ra là Lê Công Định tự "vả" vào những gì anh ta nói khi trả lời phỏng vấn của BBC như đã dẫn ở trên? Từ sự thành khẩn nhận tội của anh ta trước tòa, thử hỏi ai đã tham gia "ban thường vụ" của cái gọi là "đảng dân chủ Việt Nam" của Nguyễn Sĩ Bình ở Hoa Kỳ, và nếu không bị bắt giữ thì còn giữ chức "tổng thư ký" của cái "đảng" bịp bợm này? Thử hỏi, ai đã tham gia "khóa huấn luyện" của tổ chức khủng bố "Việt tân" năm 2009 ở Pattaya (Thái-lan)? Thử hỏi, ai đã lấy các bí danh Nguyên Kha, Paul, C4 (Chị Tư) để liên lạc với đồng bọn, soạn thảo 33 tài liệu công kích chế độ? Thử hỏi, ai đã công khai thừa nhận "Tôi thấy những việc làm của tôi đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Tôi rất ân hận với hành vi sai trái của mình"? Chẳng lẽ đó không phải là hoạt động chính trị? Bằng các câu chữ này, Lê Công Định không chỉ tráo trở sổ toẹt lời khai mà qua đó như muốn đổ lỗi cho chính quyền đã đẩy anh ta vào "con đường chính trị". Phải chăng Lê Công Định muốn dọn đường để tiếp tục đi trên con đường cũ bằng cách thức khác? Phải chăng anh ta muốn đánh tiếng về "lòng trung thành" với ai đó? Tiền hậu bất nhất, nhưng lời khai, vi-đê-ô clip nhận tội của anh ta thì vẫn còn rành rành trên internet. Thiết nghĩ, từng là một "luật sư" được ca ngợi có "tài năng", nhưng Lê Công Định lại công khai thể hiện thái độ tráo trở như vậy thì thử hỏi, đâu là con người đích thực của anh ta?
VŨ HỢP LÂN
(Nhân Dân)

Sân chơi thượng lưu và thói quen nửa mùa

Chuyện văn hoá golf chỉ là một phần trong cuộc chơi của các golfer, còn chuyện về kỹ năng chơi cũng là một vấn đề. Với cách chơi golf theo kiểu “cuốc đất… trồng khoai”, nhiều tay golf vụt những nhát gậy không thương tiếc vào thảm cỏ xanh mịn.
Từ một môn thể thao sang trọng lịch lãm với vô số chuẩn mực văn hoá, khi du nhập vào Việt Nam, với không ít người, golf đã trở thành môn thể thao… “cuốc đất” đúng với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Chiều muộn tấp qua sân Long Biên gặp mấy anh bạn bỗng gặp một golfer to béo đang ra sức cầm gậy vụt lấy vụt để, quả trúng quả không, bóng bay tung toé. Thấy tôi đến gần, anh dừng lại phân trần: Tranh thủ quật mấy quả rồi còn ra sân, mấy ông bạn đang đợi. Hỏi thăm mới biết, anh là nghị sỹ “chuyên trách”, khi kỳ họp Quốc hội vừa tan, tranh thủ ra đây “cuốc đất” tý cho đỡ căng thẳng.
Golf, cuốc đất, trồng khoai, Phan Thế Hải, hội nhập, Việt Nam, nghị sĩ, chuyên trách
Ảnh: golf.vn
Đem chuyện này trao đổi với anh Hoàng Tiến Đỗ, một chuyên gia của sân Golf Tam Đảo, anh cho biết, hiện tượng chơi golf như “cuốc đất” chính là nỗi lo ngại của các sân golf. Bản chất của golf là môn thể thao cao cấp với hàng trăm quy định chưa được luật hoá và đã được luật hoá nhưng khi vào Việt Nam, hệ thống quy định đó bị rơi rụng dần. Tình trạng golfer nửa mùa học hành theo kiểu bắt chước rồi cầm gậy ra sân đã trở nên khá phổ biến.
Sự hiểu biết không đầy đủ về luật lệ và văn hoá golf cũng là nguyên nhân gây ra những cuộc cãi vã trên sân, khiến những cuộc chơi từ chỗ văn hoá đến phản văn hoá. Chuyện golfer đếm thiếu gậy để tự nâng thành tích của mình lên trở thành một hiện tượng phổ biến. Nặng nề hơn, có trường hợp một golfer “tung chưởng” với caddie thậm chí dùng gậy đánh vào đầu caddy khiến cô này phải nhập viện.
Mới đây Hiệp hội golf của Thừa thiên Huế đã ra quyết định đình chỉ thi đấu với một golfer chỉ vì sự gian lận có hệ thống. Ông Đinh Văn Minh, một golfer của thành phố Vũng Tàu cho biết, với những cuộc chơi “trà xanh không độ” thì khỏi bàn, còn khi đã có tý cá cược, gian lận đã trở thành công nghệ. Một golfer bị bạn chơi cạch mặt chỉ vì khi ra sân, anh này chỉ dùng đúng 01 loại bóng, cùng một số như nhau. Khi bóng rơi vào đường biên, không thể tìm thấy thì anh ta moi sẵn một quả dấu sẵn trong bít tất rồi bỏ xuống cỏ: Đây rồi… bằng cách đó, anh ta sẽ tránh được không ít gậy phạt.
Chuyện văn hoá golf chỉ là một phần trong cuộc chơi của các golfer, còn chuyện về kỹ năng chơi cũng là một vấn đề. Với cách chơi golf theo kiểu “cuốc đất… trồng khoai”, nhiều tay golf vụt những nhát gậy không thương tiếc vào thảm cỏ xanh mịn vốn được đầu tư chăm sóc rất kỹ, những mảng cỏ được tung lên nham nhở. Hơn thế là việc vụt bóng bay lung tung khiến tốc độ chơi bị chậm lại, làm ảnh hưởng đến những nhóm chơi sau đó.
Người viết bài này cũng đã dính vào một trận golf kéo dài hơn 05 tiếng chỉ vì nhóm chơi trước đó đánh quá tệ. Không chỉ đánh nhiều gậy, bóng bay lung tung khiến caddie phải mất công tìm bóng mà khi lên green, setup những cú put quá lâu. Khi bày tỏ sự sốt ruột muốn vượt thì được caddie trả lời: Các bác toàn là VIP, các bác không đồng ý đành phải chịu.
Trở lại chuyện của đồng chí nghị sỹ “cuốc đất” như đã nói ở trên, chuyện chơi golf, từ hay đến dở, ai cũng phải trải qua quá trình ấy. Tuy nhiên với golf là môn thể thao mà đòi hỏi sự vận động hợp lý đến từng chi tiết của các bộ phận trên cơ thể, nếu không được học hành bài bản sẽ rất rủi ro.
Rủi ro đầu tiên chính là sự bong gân, thậm chí sai khớp do sự căng cứng quá sức của các cơ. Rủi ro thứ hai là khi đánh quả bóng không như mong muốn, dễ gây ra tai nạn cho những người đứng gần đó. Cùng với đó là sự phá hỏng mặt cỏ của sân như đã nói ở trên.
Chúng ta đang ở trong thời kỳ hội nhập mạnh mẽ với thế giới văn minh. Để có thể chủ động vươn lên và không bị tụt hậu, không có cách nào khác là phải nắm vững luật lệ và tự hoàn thiện mình trong những chuẩn mực ấy. Golf là môn thể thao kỳ diệu giúp cho con người tự hoàn thiện mình một cách tốt nhất, nhưng để nhập môn golf, tiền thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là hiểu về nó và trang bị cho mình những kỹ thuật cần thiết trước khi cầm gậy bước vào sân thi đấu.
  Phan Thế Hải
(Tuần Việt Nam)

Tại sao CS giết Phạm Quỳnh

Cộng Sản Việt Nam (CSVN) giết Phạm Quỳnh hai lần: Lần đầu hạ sát, che giấu và phi tang thân xác ông tại Huế ngày 6-9-1945.  Lần thứ hai bóp méo lịch sử, hủy diệt luôn sự nghiệp và thanh danh của ông.  Một câu hỏi được đặt ra là lúc đó Phạm Quỳnh đã rút lui khỏi chính trường, tại sao CS lại giết Phạm Quỳnh, trong khi không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những người đang còn hoạt động?  Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:

Thứ nhứt :  Năm 1945, Việt Minh cộng sản (VMCS) cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19-8, nhưng còn yếu, nên rất sợ Pháp trở lui, và rất sợ Pháp tái lập chế độ quân chủ để quy tụ lực lượng chống lại VM.  Lúc đó, trên toàn quốc đảng CSĐD chỉ có khoảng 5,000 đảng viên.  (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 182.)

Tại Huế, VM tìm cách cô lập vua Bảo Đại.  Cách tốt nhất là cách ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận chung quanh  nhà vua, trong đó hai nhân vật quan trọng là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945.  Đồng thời VM sắp đặt những người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai, hù dọa nhà vua, phóng đại về VM.  Phạm Khắc Hòe lúc đó đang làm tổng lý Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại.  Ông rất thân thiết và báo cáo với Tôn Quang Phiệt, một đảng viên CS đang dạy tại trường Thuận Hóa (Huế), mọi sinh hoạt của vua Bảo Đại, triều đình và nội các Trần Trọng Kim. (Phạm Khắc Hòe, Những ngày cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn, Huế: Nxb Thuận Hóa, 1994, tt. 18, 52, 53)

Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power , sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can thiệp một cách yếu ớt và không hiệu quả.  Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam triều.  Lúc đầu, VM địa phương tưởng là người của phe Đồng minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power, University of California Press, tt. 452-453.)

pquynh

Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó.  Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và “xử lý thích đáng” Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh, nghĩa là giết các ông tại phía trước lò dầu tr àm, gần ga xe lửa Hiền Sĩ, làng Cổ Bi, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. (Trần Huy Liệu, Hồi ký [Hà Nội, 8-1960], Phạm Khắc Hòe trích đăng trong sđd. tr. 102.)

Theo một người Huế, lúc đó có mặt tại Phong Điền, thì toán ngưòi Pháp có 8 người, nhảy dù xuống làng Phù Ốc, huyện Phong Điền.  Trong số 8 người nầy, có một người Pháp lai làm thông ngôn, là chồng của cô Lạc ở Cầu Kho, Huế. (Nói chuyện với ông Phan Văn Dung, tháng 8-1997, tại Houston, Texas.) Nếu theo quốc lộ 1, từ Huế đi Quảng Trị, đến cột cây số 21, , theo tay mặt đi vào là ga Hiền Sĩ, làng Cổ Bi.

Trong khi đó vua Bảo Đại cô đơn tại Huế, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, nên nhà vua tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8 với sự hiện diện của đại diện VM là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.

Việc người Pháp muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.  Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9, ra Hà Nội làm cố vấn.  Hơn nữa, nếu người Pháp có trở lui, cũng không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho là thân Nhật.

Thứ hai :  Để độc tôn quyền lực, VM chủ trương “giết tiềm lực”, tức tiêu diệt tất cả những ai có khả năng, có tiềm lực, nhưng không cộng tác với VM, để ngăn chận ngay từ đầu những người về sau có thể đối kháng với VM.  Việt Minh nghĩ ngay đến Phạm Quỳnh vì những lý do sau đây:

*   Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội, trong khi VM chủ trương độc tài đảng trị.  Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi VM muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.

*   Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa, theo lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị.  Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc.  Đây là lối mà người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ ” (Giết một người, mười ngàn người sợ.)

*   Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ.  Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan theo Liên Xô của HCM.

*   Hồ Chí Minh (HCM) muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với HCM, để cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình HCM mới xứng đáng lãnh đạo đất nước.  Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ lại, đứng đầu triều đình Huế.  Đặc biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài “Ce que sera l’ Annam dans cinquante ans” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2].  Nhờ thế, uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.  Ông có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của HCM, nên HCM quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về sau.

*   Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, HCM và Mặt trận VM tuyên truyền rằng HCM là người yêu nước chứ không phải là đảng viên CS, và HCM ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời HCM giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại, và nhất là việc HCM xin vào hội Tam Điểm Pháp ngày 14-6-1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale”, Revue française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.)

Khi qua Pháp diễn thuyết năm 1922, Phạm Quỳnh là người biết rõ sinh hoạt của HCM ở Paris.  Phạm Quỳnh gặp gỡ Nguyễn Ái Quốc (HCM) hai lần, ngày 13 và 16-7-1922 tại Paris, tức chỉ khoảng một tháng sau khi Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm.  Hội Tam Điểm là kẻ thù của đảng CS trên thế giới.  Chính vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về HCM mà  Phạm Quỳnh bị HCM giết hại.

Do những lẽ trên, nếu không có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh.  Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc.  Trần Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài.  Nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt.  Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng: xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao trình độ văn hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau.

Phạm Quỳnh tham gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.  Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức Nho học đến cả lớp trí thức tân học.  Tạp chí Nam Phong được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ đường.  Đó là điều mà CS chẳng những không chấp nhận mà cũng không dung thứ, vì CS muốn nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.

Chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và  bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ bắt ông.  Ông bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết sau khi nhóm Trần Huy Liệu đến Huế dự lễ thoái vị của vua Bảo Đại.  Khi đã có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ VM địa phương không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương.  Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc nầy.  Như vậy chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế giết Phạm Quỳnh, và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ HCM?

Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp HCM.  Sau đây là lời kể của bà Thức: “…Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!…Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh].  Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về…Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình do bà Phạm Thị Hoàn thông tin.) Những điều nầy cho thấy rõ tính ngụy biện của HCM.   Lúc Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945, HCM đã về Hà Nội lập chính phủ (2-9-1945).   Nếu HCM cho rằng giết Phạm Quỳnh là sai sót của địa phương, HCM giải thích thế nào về chủ trương của đảng CS bôi lọ lâu dài Phạm Quỳnh sau khi Phạm Quỳnh từ trần?  Tác giả Bernard Fall, trong quyển Les deux Viet-Nam, Nxb. Payot, Paris, 1967, tr. 102 đã viết: “Người ta biết rằng Hồ là một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại.

Giết xong Phạm Quỳnh, CS tính việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói nhà văn hóa Phạm Quỳnh.  Cộng sản liền quy chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản quốc, làm tay sai cho Pháp“.  Gần 40 năm sau, trong Từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”.  Khi viết về các nhóm văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.  Nói đến  nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút, phản động“.  Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân…Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ, t.[tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”

Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những người không theo khuynh hướng của mình là phản động, phản quốc, trong khi chính vì HCM khăng khăng đi theo CS Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945.  Cũng chính vì đảng CS chủ trương ý thức hệ quốc tế mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.  Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng CSVN đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt trong một thời gian dài.

Nếu nói rằng:  Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang, còn CSVN theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước thì không phải là tay sai ngoại bang?   Phạm Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, còn VM theo CS Nga Hoa, thì không phản quốc?  Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn CSVN phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì?  Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng / thương mình thương một thương ông thương mười” thì không bồi bút?   Không ai quên rằng Tố Hữu là người đã giữ chức chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa của VM tại Huế năm 1945 khi Phạm Quỳnh bị giết, thăng dần lên làm trưởng ban Tuyên Văn Giáo trung ương, uỷ viên bộ Chính trị đảng CSVN, phó thủ tướng chính phủ Hà Nội.

Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân loại toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.  Trong khi đó HCM là “một người học trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin“. (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160)  và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là thảm họa độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.

Dầu sao, việc tuyên truyền của CS một thời gây nhiễu xạ không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân tộc.  Phạm Quỳnh đã từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con đường của tôi.  Tôi là một người ở buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông…”. (Phạm Quỳnh, Hành trình nhật ký, Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, trong phần “Dẫn nhập” không đề trang.)

Câu nói nầy làm chúng ta liên tưởng đến tâm sự của Nguyễn Du qua hai câu thơ chữ Nho:”Bất tri tam bách dư niên hậu,/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như “. (Không biết hơn ba trăm năm sau,/ Trong thiên hạ có ai khóc Tố Như? “  Nguyễn Du (Tố Như), tác giả truyện Kiều, cũng sống trong buổi giao thời giữa hai chế độ nhà Lê và nhà Nguyễn.

Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời sự, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.   Chủ trương văn hóa của Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mãi mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự nô lệ tinh thần.

Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao.  Những vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá trị.  Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước.  Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời hiện đại.

Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông.  Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu.  Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động.  Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.

Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ … Riêng hai cường quốc ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam là Trung Hoa và Ấn Độ đều đã từng chống ngoại xâm, và chuyển đổi sang thể chế dân chủ theo hai con đường khác nhau.  Trung Hoa tranh đấu bạo động để lật đổ nhà Thanh năm 1911 và từ đó chìm đắm trong những tranh chấp đẵm máu; trong khi Ấn Độ tranh đấu bất bạo động, đạt được nền độc lập trong thể chế quân chủ lập hiến một cách ôn hòa trong Liên Hiệp Anh.

Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế.  Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VMCS cướp chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau theo những quan điểm khác nhau.  Do đó, trong hoàn cảnh của ông, Phạm Quỳnh cũng có  phần hữu lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.

Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông trên con đường phụng sự quê hương.  Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước.  Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của mình.  Đó là điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.

Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức hành xử của Phạm Quỳnh, nhờ theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc.  Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và không hề gây tội ác giết hại đồng bào.

Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để trục lợi cầu vinh.  Đây là điều cần phải được tách bạch.

Trong việc hợp tác với Pháp, có hai hạng người.  Hạng thứ nhứt là những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào.  Hạng thứ hai ra tham chính, làm việc với Pháp, nhưng không dựa vào quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu người vô danh khác… Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu được tâm trạng và sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.
 
Trần Gia Phụng
(Toronto, Canada)

© Đàn Chim Việt

Tác giả vẽ “Công Lý mặc quần nhỏ” lên tiếng

TTO - Anh N.V.L. (23 tuổi), tác giả hình ghép diễn viên Công Lý trên bìa sách Bộ luật dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành 2014, cho biết "chỉ thiết kế để vui".
Hình thiết kế gốc diễn viên hài Công Lý đứng trên quả cầu lửa đăng trên Vietdesigner.net
Theo tìm hiểu của Tuổi Trẻ, bìa sách Bộ luật dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành 2014 có in hình diễn viên Công Lý là một sản phẩm đồ họa được đăng tải bởi thành viên có tài khoản là Rainy Warrior trên diễn đàn Vietdesigner.net cách đây 2 năm.

Tên thật của tác giả bức ảnh là N.V.L. (23 tuổi), người Hà Nội và hiện đang làm việc tại Dầu Tiếng, Bình Dương.

Theo anh L., vào ngày 28-11-2012, L. tạo ra một chủ đề trên diễn đàn Vietdesigner với tên gọi Cán cân “Công lý”  và đăng tải bức ảnh thể hiện diễn viên hài Công Lý đứng trên quả cầu lửa, hai tay cầm hai cán cân.

Bức ảnh đã được cắt, ghép, chỉnh sửa bằng phần mềm Photoshop và anh L. cũng đưa ra những hình ảnh chi tiết của tác phẩm để tham khảo ý kiến các thành viên khác về thiết kế của mình.

Để có được bức hình photoshop đầu tay, với ý tưởng hài hước, L. lựa chọn các nguyên liệu cho mình gồm hình các vật dụng: chảo chống dính, sợi xích, vận động viên thể hình, quả cầu, hình nền núi lửa và một bức ảnh diễn viên Công Lý…

Sau đó, các thành viên chủ yếu trao đổi, đóng góp ý kiến về vấn đề sử dụng phần mềm Photoshop và ý tưởng thiết kế của tác giả. Bức hình đó ra đời và tồn tại trên diễn đàn này đến sáng 17-11.

Và đến 17-11 trên topic này các thành viên đã chia sẻ bài viết “Diễn viên Công Lý lên bìa sách luật” của báo Tuổi Trẻ và đặt câu hỏi “chỉ là thiết kế vui, sao nhà in lại mang đi làm bìa sách?”.

Anh N.V.L. chia sẻ: “Hình này tôi thiết kế cách đây 2 năm và đưa lên diễn đàn Vietdesigner. Tôi chỉ thiết kế cho vui chứ không có mục đích gì cả. Bức ảnh mình làm cho vui vậy mà trở thành bìa cuốn sách về luật, buồn cười quá!”.
Một số bức ảnh, thiết kế được dùng để tham khảo  - Ảnh từ Vietdesigner.net.
Nói về ý tưởng thiết kế bức ảnh, anh L. cho biết: “Tôi thiết kế bức ảnh này dựa trên một câu nói đùa. Chỉ vậy thôi, chứ tôi không có mục đích chế ảnh diễn viên Công Lý”.

Khi được hỏi NXB Lao Động - Xã Hội có liên lạc với anh để trao đổi về việc sử dụng bức ảnh do anh thiết kế hay không thì anh L. cho biết không nhận được sự liên lạc nào cả, hôm nay là lần đầu tiên anh thấy ảnh mình thiết kế xuất hiện trên bìa sách.

H.ĐIỆP - TRẦN KIM ANH
(Tuổi trẻ)

Có thực sự tín nhiệm được cuộc "Bỏ phiếu tín nhiệm"?

Có thực sự tín nhiệm được cuộc "Bỏ phiếu tín nhiệm"?

Các quan chức lãnh đạo nhà nước tham gia bỏ phiếu tín nhiệm
Các quan chức lãnh đạo nhà nước tham gia bỏ phiếu tín nhiệm (15 tháng 11, 2014)
Quốc hội Việt Nam vừa công bố kết quả tín nhiệm đối với 50 chức danh chủ chốt và trong ba ngày 17,18 và 19 tháng 11 cơ quan này cũng tiến hành chất vấn một số bộ trưởng và thủ tướng chính phủ về công tác điều hành đất nước.

Đối với người dân thì các hoạt động như thế có thực sự hiệu quả không và cần phải làm gì hiện nay để đưa đất nước vượt qua những khó khăn để phát triển.
Hoạt động hình thức
Truyền thông trong cũng như ngoài nước đều loan tin nhanh chóng kết quả bỏ phiếu tín nhiệm diễn ra tại Quốc hội Việt Nam vào chiều ngày 15 tháng 11 vừa qua ở Hà Nội. Có nhận định cho rằng việc làm đó là vô nghĩa vì hai lý do thứ nhất hầu hết những đại biểu tham gia đều là đảng viên cộng sản và thứ hai trong ba lựa chọn bỏ phiếu không có lựa chọn ‘không tín nhiệm’.
Giáo sư- Tiến sỹ y khoa Nguyễn Văn Tuấn tại Australia trên trang blog cá nhân có bài phân tích về kết quả bỏ phiếu tín nhiệm tại quốc hội Việt Nam vừa qua. Ông viết ‘Kể ra cách thức soạn thang điểm như thế này chẳng những phi khoa học mà còn thể hiện một sự ngạo mạn và khinh thường công chúng. Ngạo mạn vì thang điểm là cách nói ‘Chúng tôi làm như thế các anh làm gì được tôi. Khinh thường là vì có thể người soạn thang điểm có thể nghĩ rằng công chúng đều ngu dốt nên mới dám cho ra thang điểm một chiều’.
Nhà báo Phạm Thành tại Hà Nội thì cho rằng lần thứ hai quốc hội Việt Nam bỏ phiếu tín nhiệm như vừa qua cũng chỉ là một việc làm hình thức nhằm chứng tỏ cơ quan lập pháp này của chính phủ Việt Nam có hoạt động. Tuy nhiên ông đánh giá:
Về mặt hình thức trên bề nổi thì có thể mới: mới ở việc tiến hành một số nội dung, và mới ở phát biểu của đại biểu này, đại biểu kia. Ví dụ như trước đây chỉ có mỗi ông Nguyễn Tiến Dũng đưa ra thông điệp dân chủ, đổi mới, hội nhập với thế giới văn minh phương Tây. Bây giờ thêm được ông nữa là ông Bùi Quang Vinh, bộ trưởng Bộ Kế hoạch- Đầu tư. Ông này có tư tưởng mới nói rằng muốn thay đổi thể chế mà cứ giữ con người như thế này thì chẳng thay đổi được.

Rồi việc lấy phiếu tín nhiệm đương nhiên không có gì mới, cũng như mọi khi thôi. Có thể những người còn đang gắn bó với với đất nước này như ông Lê Đăng Doanh, bà Phạm Chi Lan theo dõi rất sát các diễn biến của những ông ấy, cũng như tình hình kinh tế. Họ phân tích ngược, phân tích xuôi để tìm ra sự thật, nhưng theo tôi nghĩ những điều đó cũng chẳng đi đến đâu, chẳng tác động gì đến các ông ở trên đó hoặc các nguyên thủ lãnh đạo. Họ có những chủ đích rõ ràng của họ, cho nên bản thân tâm thế của tôi cũng rất chán nản vì bản chất của họ cũng chẳng có gì thay đổi đâu. Như ngày xưa người ta nói ‘voi bắn súng sậy’ thế thôi. Bản chất họ không thay đổi đâu!
Chị Lê thị Kim Thu, một dân oan khiếu kiện đất đai và bị tù tội do phản ứng trước cách làm trái luật của chính quyền địa phương, cho rằng những đại biểu quốc hội đang họp ở Hà Nội không hề được người dân bầu lên một cách tự nguyện nên hoạt động của họ cũng không đại diện cho quyền lợi người dân. Chị này bày tỏ:
Họ phân tích ngược, phân tích xuôi để tìm ra sự thật, nhưng theo tôi nghĩ những điều đó cũng chẳng đi đến đâu, chẳng tác động gì đến các ông ở trên đó hoặc các nguyên thủ lãnh đạo. Họ có những chủ đích rõ ràng của họ, cho nên bản thân tâm thế của tôi cũng rất chán nản vì bản chất của họ cũng chẳng có gì thay đổi đâu
Nhà báo Phạm Thành
Tôi hoàn toàn không còn tin tưởng nữa, từ năm 2006 tôi không hề cầm phiếu đi bầu họ. Vì từ năm 2001 tôi đã ra Hà Nội để kêu oan. Trong một ngày từ 7 giờ sáng chúng tôi phải ‘đón’ đoàn xe đại biểu quốc hội đi dự họp tại quảng trường Ba Đình Hà Nội. Rồi trưa 11 giờ họ trở ra ăn cơm và 1:30 trở lại họp; một ngày chúng tôi đón bốn lần như thế. Quốc hội (nguyên tắc) do dân bầu nhưng họ đâu làm gì được cho dân đâu. Một năm quốc hội họp hai lần nhưng họ cũng không giải quyết được gì cho dân. Nếu họ giải quyết thì những người dân như tôi ở lâu ngày, lâu năm tại Hà Nội khiếu kiện về đất đai đã được giải quyết lâu rồi. Họ đâu giải quyết, mà ‘tàn nhẫn’ hơn nữa khi họ ngồi trên xe, nhìn xuống thấy công an đánh dân đi ‘đón’ đại biểu quốc hội, họ cười.
Trong khi đó thì một trí thức lớn tuổi như giáo sư Nguyễn Đình Cống, thuộc Đại học Xây Dựng Hà Nội thì cho rằng việc quốc hội Việt Nam tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm không thu hút được sự quan tâm của bản thân ông. Ông nói:
Xin lỗi, tôi không quan tâm, không quan tâm chuyện phiếu tín nhiệm. Trên facebook của tôi, tôi có viết một bài ngắn nói về cách đưa tin thế thôi, chứ còn nội dung, kết quả ông này được bao nhiêu phần trăm tôi không quan tâm lắm. Tôi cũng chỉ biết rằng có một số ông như ông Đinh La Thăng có tăng lên, rồi Nguyễn Kim Tiến vẫn ở hạng bét, một số người làm bên Quốc hội có vẻ cao, còn bên này ( chính phủ) thì thấp… Tôi xem chuyện đó không đáng quan tâm.
Khả năng và yêu cầu thay đổi
Trước tình hình đất nước hiện nay, nhà báo Phạm Thành đưa ra nhận định về khả năng dẫn đến những thay đổi cho tình hình tại Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất là sự đấu đá trên thượng tầng phải quyết liệt hơn nữa, các phe nhóm phải phân rã mạnh hơn nữa thì mới dẫn đến một sự thay đổi thực sự. Hai nữa là nguyên nhân đấu đá đó phải là một nền kinh tế bị khủng hoảng, bị be bét đẫn đến đời sống của người làm công ăn lương, nông dân cùng cực thì mới có thể thay đổi được. Đó là một trong những đặc điểm của dân Việt Nam, không bị dồn đến chân tường thì không vùng lên. Chứ còn người ta không khao khát đấu tranh cho một xã hội tiến bộ, dân chủ của của xã hội Việt Nam ngày càng tốt hơn thì tâm lý đó của người Việt Nam còn rất ít. Bản chất của họ là mưu cầu đời sống vật chất tối thiểu thôi; chứ để lý tưởng hóa đưa dân tộc Việt Nam lên, ý thức về quyền của mình thì dân Việt Nam ít lắm.
Chị Lê thị Kim Thu thì cho rằng cần phải có những người đại biểu thực sự do dân bầu ra thì những người đó mới làm việc vì quyền lợi của dân:
Phải thay đổi từ bộ máy đảng cộng sản. Tất cả quyền lực đều do đảng nắm, đảng chỉ đạo hết nên cơ quan quốc hội cũng không phải là cơ quan độc lập, cũng phải dưới sự chỉ đạo của đảng vì ‘đảng cử, dân bầu’; nên đảng cử ra, dân không bầu họ vẫn ngồi được ‘ghế’ đó. Chỉ khi nào họ là người được thực sự dân cử, dân bầu thì lúc đó họ mới làm được theo tâm tư, nguyện vọng của người dân.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống nhận định chủ nghĩa cộng sản Mác- Lê ninh đã lỗi thời cần phải bỏ đi, ông phát biểu:
Càng ngày càng thấy rõ con đường mà đảng theo, chủ nghĩa mà đảng theo; nói toẹt ra chủ nghĩa Mác- Lê nin, con đường cộng sản sai quá rồi. Có dám thay đổi không, có dám đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hay không?
Trong thời gian qua, một số quan chức Việt Nam như thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng lên tiếng thừa nhận những khuyết điểm trong điều hành đất nước; thế nhưng việc sửa chữa những khiếm khuyết như thế vẫn không hiệu quả. Chưa có cá nhân quan chức nào phạm khuyết điểm, làm sai tự giác từ chức. Mọi lỗi phạm đều bị quy cho cơ chế, nhưng rồi cơ chế gây ra bao sai phạm như lâu nay vẫn tồn tại không được thay đổi.
Gia Minh
(RFA)

15/11 – Phép thử xoa dịu và PR chính trị

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ngày 15/11 đã diễn ra “thành công tốt đẹp”, theo đúng nghĩa mà các vị đại biểu quốc hội (ĐBQH) và bản thân phần lớn các vị lãnh đạo chủ chốt kỳ vọng.
Lấy phiếu chính là xoa dịu
15/11 là kết quả của việc Nghị quyết 35 không được “sửa, bổ sung, và thông qua” tại kỳ họp thứ 7 (tháng 6/2014) trước đó vì “những bất cập, hạn chế vướng mắt” khiến cho các “ĐBQH thấy cần có thời gian để nghiên cứu kỹ hơn”, dù rằng, Nghị quyết 35 là cơ sở văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất cho việc lấy phiếu tín nhiệm.
Nhưng rõ ràng, đã có sự thống nhất cao trong việc bỏ phiếu tín nhiệm.
Ít nhất, một số dư luận cho là vài con chốt đã được thí. Điển hình là trung tâm của bão dư luận – Bộ trưởng Bộ Y tế!
Như việc Bộ trưởng Ngoại giao có số phiếu “tín nhiệm cao” cao hơn Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Công an.
Nhiều cơ quan truyền thông cho đó là “kết quả rất hay”. Điều này không thể chối bỏ, bởi nó phản ánh đúng sự kỳ vọng của ĐBQH đối với các chức danh lãnh đạo trong việc xử lý các vấn đề của đất nước. Tất nhiên, đều trên nền tảng quán triệt tinh thần mà ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở vào chiều ngày 6/6/2014 rằng: “Lấy phiếu tín nhiệm là để thăm dò, tham khảo trong đánh giá cán bộ. Bỏ phiếu tín nhiệm là bỏ phiếu bất tín nhiệm, làm tiếp hoặc thôi.”
Và quan trọng hơn cả là, thuật ngữ “lấy phiếu tín nhiệm” bắt đầu từ hội nghị TƯ 4 với ý muốn thường xuyên có những động tác cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa, để cho mỗi cán bộ khi làm chức trách của mình thì tự soi, tự sửa là chính.”
Trưởng Ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Nương, cũng đã từng đọc tờ trình về sửa đổi, bổ sung nghị quyết của QH lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm trong tháng 6 trước đó, nhấn mạnh ưu điểm của lấy phiếu tín nhiệm chính là “tạo được cơ chế giúp cho người được lấy phiếu tín nhiệm có thời gian, điều kiện để khắc phục hạn chế, thiếu sót trong công tác”.
Chính điều đó đã bác bỏ cái đa số “đề nghị 2 mức độ” trong lấy phiếu tín nhiệm là: tín nhiệm và không tín nhiệm. Dù gọn gàng, rõ ràng, nhưng lại thiếu tính thực tế, ít nhất là nó trái cái tinh thần của Nghị quyết Hội nghị TƯ 4. Điều đó thật khôi hài, nhưng biết làm sao được, khi “Cương lĩnh Đảng quan trọng hơn cả Hiến pháp”.
Việc làm đó là bình thường, đặt trong thể chế Việt Nam. Và không nên hóa lạ nó.
Cái hay nữa của cuộc lấy phiếu tín nhiệm là 15/11 đã thể hiện sự nhanh nhạy của các ĐBQH, thông qua việc xoa dịu tạm thời đối với các nỗi bức xúc xã hội trong thời gian qua. Và cũng là để báo chí nhà nước có cơ hội biện bạch rằng, cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đã diễn ra công bằng, công tâm và dân chủ.
Do đó, ở một mức độ nào đó, hãy nhìn 15/11 bằng cái nhìn “tích cực” thay vì “hình thức”. Đừng kỳ vọng một cái gì đó đột phá, tất cả buộc phải theo một quy trình cho phép, đảm bảo sự an toàn về mặt nhân sự cấp cao. Đó cũng là lý do vì sao, dù quyền bỏ phiếu tín nhiệm được bổ sung vào điểm 7, Điều 84 của Hiến pháp 1992, nhưng đến năm 2013, mới bước đầu đi vào “hiến định”.
Lại nhân chuyện cao thấp, qua kỳ lấy phiếu tín nhiệm này. Nó cho thấy một khía cạnh lý tình của các ĐBQH.
Nếu tháng 6/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình với 209 phiếu. Người đứng thứ hai về số phiếu tín nhiệm thấp là Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận với 177 phiếu và bản thân ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đội sổ thì năm nay, hai ông đã vượt lên.
Tại sao lại thế? Lý do không nằm ở các ĐBQH có xu hướng đánh giá theo chiều hướng tích cực – nghĩa là sửa sai của các chức danh lãnh đạo hơn là cách họ điều hành công việc. Cái lý của ĐBQH cao hơn cái tình. Thực vậy, giả như các ĐBQH cho ông Thủ tướng thấp, thì chẳng những không kiềm chế được ông ta, mà ngược lại một số người e rằng càng thúc đẩy ông ta phá nát chế độ. Do đó, “động viên, khuyến khích” đối với những tín hiệu khả quan, dù nhỏ, là một sự lựa chọn đúng đắn.
ĐB Đỗ Mạnh Hùng (Thái Nguyên) nhận định, “Mỗi ĐBQH thể hiện chính kiến của mình trong phiếu tín nhiệm, nhưng thái độ chung là sự động viên và mong muốn QH, cử tri sẽ hỗ trợ để mỗi ngành đó sẽ có chuyển biến trong thời gian tới”.
Nói đi cũng phải nói lại, cái quy trình chính là đi từng bước, chậm mà chắc, “gỡ dần chứ không thể gỡ ngay”, như ĐB Bùi Thị An (Hà Nội) nhận xét. Trong tình trạng hình thức lấy phiếu, thời điểm lấy phiếu, cũng như quy trình xử lý hệ quả của việc lấy phiếu vẫn giữ nguyên trạng.
Ngay như việc các vị ĐBQH thể hiện sự tín nhiệm với Thống đốc NHNN, cũng là thể hiện cái nhu cầu muốn có sự cải thiện dần về nợ công và nền tài chính quốc gia, vốn gây nóng trên bàn nghị trường thời gian qua mà thôi.
Trong hoàn cảnh mà đến bản thân các vị ĐBQH cũng chưa được thông tin đầy đủ về cá nhân lãnh đạo thì làm sao họ có thể đánh giá đầy đủ, khách quan, công tâm cho được.
Do đó, không lạ khi các ĐBQH lắng nghe ý kiến cử tri, “rồi những người ở gần những vị ấy”, sau cùng mới tới “sự quan sát của bản thân”, như ĐB Trần Ngọc Vinh (TP Hải Phòng) thừa nhận khi đánh giá những người được lấy phiếu.
Suy cho cùng, tự trọng đối với chức danh chủ chốt không bằng trách nhiệm và lương tri của ĐBQH.
Lấy phiếu tín nhiệm là PR chính trị
Câu hỏi được đặt ra tiếp sau cuộc lấy phiếu tín nhiệm ngày 15/11/2014 có “phản ánh đúng” tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, mong đợi của cử tri không?
Có, nhưng không thực chất và thiếu tính lâu dài. Bởi kết quả của số phiếu trồi sụp phiếu tín nhiệm có thể được định hướng bởi yếu tố chính trị gia quyền lực nhất Việt Nam (Nguyễn Tấn Dũng) và sức mạnh của truyền thông, khả năng PR chính trị của mỗi người, trong đó ông tư lệnh ngành GTVT quá tài, trong khi “O Tiến” thì quá kém. Sự định hướng truyền thông chính trị phát huy tác dụng mạnh mẽ trong môi trường mà các vị ĐBQH trở nên “phụ thuộc” vào nó, ngay như ĐBQH Dương Trung Quốc cũng chia sẻ rằng, nguồn đánh giá của mình là thông tin qua báo chí, dư luận xã hội.
Nó cho thấy rằng, tính trách nhiệm hay không trách nhiệm trong lá phiếu cũng phụ thuộc một phần vào tính đúng sai của truyền thông.
Ai làm chủ được truyền thông, người đó sẽ nắm một phần cơ hội thắng. Bộ trưởng Thăng đã làm rất tốt điều đó, khi ông từng có vết chàm khi làm bên Tập đoàn dầu khí, nhưng từ khi làm tư lệnh ngành GTVT, ông đã “ý thức” bằng sự năng nổ trong công tác kiểm tra, giám sát ngành. Ở góc độ nào đó, thì đấy chính là sự PR chính trị trước thềm Đại hội Đảng hơn là một sự quan tâm thực sự. Nó giống như việc ông kiểm tra đường bằng tay, để rồi sau đó, con đường ấy nứt toác ra.
Ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là người “được lòng” các vị đại biểu quốc hội (ĐBQH) lẫn những người dân, bởi những lời nói hoa mĩ vì dân, vì nước của ông. Nhưng cái địa vị hữu danh vô thực không cho phép ông làm được nhiều như thế. Dù sao ông cũng đem lại chút hứng khởi tạm thời trong lòng dân đang ly tán.
Một ông Thủ tướng Chính phủ với sai phạm hàng loạt về điều hành kinh tế và cuộc chiến chống tham nhũng, cam kết nợ công dưới mức trần 65%, nhưng ngay sau đó đã có cảnh báo nâng mức trần lên 67%. Nhưng có sao đâu, vì ông ta vẫn là chính trị gia quyền lực nhất Việt Nam hiện nay.
Tất cả cho thấy tính tạm thời, nhưng dù sao, “những hình thức gì mà nó có một chút tiến bộ, thì đó là một điều chúng ta nên hoan nghênh,” ông Alan Phan nói.
“Các vị ĐBQH đã thực hiện trọng trách cao cả của mình, vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa mang ý nghĩa pháp lý, làm việc thận trọng, khách quan, công tâm và chính xác khi tiến hành lấy phiếu”, ông Chủ tịch Quốc Hội nhấn mạnh.
Chúng ta đã chờ hơn 70 năm để thấy cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đầu tiên, thì chờ thêm một thời gian nữa cũng không có gì quá đáng. Nhất là sự thay đổi của Nghị Quyết 35 trong kỳ họp lần sau.
Trong gian phòng mang cái tên kiêu hãnh một thời – Diên Hồng, nằm trong tòa nhà Quốc Hội trị giá 7.000 tỷ, người ta tiến hành vở kịch công phu có tên “lấy phiếu tín nhiệm”. Nhưng kịch cũng đem lại những tiếng cười sảng khoái, chứ không đến nỗi vô dụng lắm. Điều đó tốt trong tình trạng mà sức người tàn, lực nước kiệt qua nền kinh tế với nạn thất nghiệp tràn lan, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, nợ công nâng trần…
Liên Sơn
(Việt Nam Thời Báo)

Lá phiếu tín nhiệm: Đại biểu Quốc hội sao ông dốt thế?

Trước một ngày khi tiến hành việc lấy phiếu tín nhiệm 50 lãnh đạo cao cấp tại Nghị trường, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng có đăng đàn phát biểu với nội dung mang đến cảm giác là “răn đe” các ông nghị.
Nhạy cảm nên cấm cửa truyền thông
Theo đó, “các vị đại biểu cần cảnh giác với thông tin không chính thức, loại ra thông tin chưa đủ căn cứ để đánh giá tín nhiệm”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, “các chức danh được lấy phiếu do Quốc hội bầu và phê chuẩn là những đồng chí được Quốc hội tin tưởng giao nhiệm vị lãnh đạo nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta nên có thể nói là rất nhạy cảm”.
“Do tính chất nhạy cảm như vậy, nên đồng bào cử tri cả nước đặt niềm tin ở từng vị đại biểu, nên phải tiến hành rất thận trọng khách quan, công tâm”, Chủ tịch nói.
Đầu giờ sáng ngày 15-11, có lẽ do khuyến cáo “nhạy cảm” của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nên trong một thông cáo báo chí được phát đi từ trung tâm báo chí kỳ họp thứ 8 của Quốc hội, các cơ quan thông tấn báo chí được đề nghị không tham dự và đưa tin khi ban kiểm phiếu công bố kết quả kiểm phiếu lấy phiếu tín nhiệm sẽ diễn vào chiều 15-11. 
Chỉ sau ít phút các báo đưa tin về đề nghị không đưa tin khi công bố kết quả kiểm phiếu lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, đề nghị này đã được gỡ khỏi thông cáo báo chí của Trung tâm Quốc hội.
Đổi mới… như cũ
Nhắc lại vụ việc trên để bình tâm thấy rằng kết quả về những con số “tín nhiệm thấp” cao nhất với 192 phiếu là Bộ trưởng Bộ Y tế, thấp nhất là Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân với 9 phiếu, Chủ tịch Quốc hội nhận 52 phiếu “tín nhiệm thấp”, Thủ tướng nhận 68 phiếu còn Chủ tịch nước là 20 phiếu…, đều mang tính… “tham khảo”, chứ không mấy liên quan đến năng lực của từng cá nhân mang trọng trách.
Trước tiên, với việc cả ba khối hành pháp – tư pháp – lập pháp được “trộn chung” cho lá phiếu tín nhiệm, thì góc nhìn khác nhau, yêu cầu khác nhau, nên so sánh “20 phiếu tín nhiệm thấp” của Chủ tịch nước với “68 phiếu tín nhiệm thấp” của Thủ tướng, rồi tạm kết là chức trách công vụ của Thủ tướng kém hơn Chủ tịch nước là một khập khiểng.
Đó là chưa nói đến chuyện lấy phiếu vẫn… “đổi mới như cũ”, tức là vẫn đánh giá tín nhiệm theo ba mức, thì có thể cử tri sẽ ngần ngại khi dành phiếu “tín nhiệm cao” cho Quốc hội.
Không nghe cử tri lẫn đại biểu Quốc hội thì làm sao tín nhiệm?
Trước khi diễn ra phiên họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có một tháng để tiếp xúc cử tri nơi ứng cử. Ghi nhận từ báo chí cho thấy, vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn nạn tham nhũng – đặc biệt là tham nhũng chính sách thể hiện ở lợi ích nhóm, luôn được cử tri lên tiếng và đòi hỏi Chính phủ lẫn Đảng Cộng sản phải quyết liệt hơn trong đối sách và biện pháp hữu hiệu.
Tuy nhiên khi nhìn vào kết quả lấy phiếu tín nhiệm 50 đại biểu cao cấp, tỷ lệ được ra khó thuyết phục đây chính là đại diện cho tiếng nói của cử tri.
Đơn cử Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, 340 phiếu “tín nhiệm cao”. Bốn tháng trước, phát biểu tại phiên họp Quốc hội sáng ngày 19-6, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) tha thiết đề nghị Quốc hội ban hành một nghị quyết về Biển Đông và “tha thiết đề nghị các đại biểu Quốc hội ủng hộ quan điểm của mình”.
“Nếu Quốc hội lần này không có tuyên bố nào về Biển Đông thì nhân dân sẽ rất hoang mang, còn dư luận thế giới thì sẽ băn khoăn về việc này và đặt ra câu hỏi tại sao nghị sĩ các nước lại phải lên tiếng về các vấn đề trên Biển Đông” - đại biểu Nghĩa bày tỏ.
Ông Nghĩa cho biết là toàn bộ chương trình ở Nghị trường không có mục nào dành cho Biển Đông.
“Tôi tin rằng nhân dân sẽ rất thất vọng nếu Quốc hội lần này không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức gì về Biển Đông. Không riêng tôi mà rất nhiều cử tri và các tầng lớp đồng bào, từ người dân bình thường đến cán bộ lão thành đều mong Quốc hội phải có một động thái chính thức”. Đại biểu Trương Trọng Nghĩa thiết tha “năn nỉ”.
Đại biểu Lê Nam (Thanh Hóa) và Bùi Thị An (Hà Nội) bày tỏ đồng tình với kiến nghị của luật sư Trương Trọng Nghĩa. Theo bà An, vừa qua có nhiều vấn đề lớn Thường vụ Quốc hội đã lắng nghe và tiếp thu ý kiến đại biểu. Vì vậy, bà hy vọng Thường vụ sẽ lắng nghe đề xuất của ông Nghĩa, nếu cần có thể phát phiếu thăm dò đại biểu.
Tuy nhiên người đứng đầu Quốc hội Việt Nam đã từ chối. Trong lúc đó, ngày 10-7, với toàn bộ phiếu thuận, Thượng viện Mỹ đã nhất trí thông qua Nghị quyết mang mã số S.RES.412 về Biển Đông yêu cầu Trung Quốc quay lại nguyên trạng trước ngày 1-5-2014.
Đại biểu Quốc hội sao ông dốt thế?
Cũng nói thêm, trên cương vị là người đứng đầu Quốc hội, cho thấy tiếng nói của cử tri thông qua người đại diện của mình ở Nghị trường cũng chưa được Chủ tịch Quốc hội lắng nghe.
Đại biểu Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) nói rõ rất đồng tình với nhiều đại biểu chỉ nên để hai mức. “Tôi không thể nào thông suốt được đối với giải thích việc để ba mức tín nhiệm nhằm thể hiện tính thận trọng trong công tác cán bộ”. Cũng theo đại biểu Cương, thận trọng hay không là ở mỗi đại biểu, mỗi người.
Đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) kể là cử tri rất khen việc lấy phiếu tín nhiệm, đây là bước tiến mới, thể hiện rõ quan điểm của Quốc hội để đánh giá, nhận xét cán bộ. Còn lấy phiếu tín nhiệm với ba mức thì cử tri rất chê, “có cử tri nói với tôi rằng là đại biểu Quốc hội sao ông dốt thế? Tôi hỏi tại sao dốt, cử tri trả lời phiếu nhiều là cao, phiếu ít là thấp, có gì đâu phải ghi tín nhiệm cao, tín nhiệm thấp ở đây”.
Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn cũng cho biết, qua tiếp xúc cử tri, đại đa số ý kiến cho rằng chỉ lấy phiếu ở hai mức, nếu để 3 mức thì chỉ là cách dung hòa, “không ông nào quá 2/3 tín nhiệm thấp hết”. “Đại đa số cử tri cho rằng làm như thế không thực chất, chỉ nên để hai mức tín nhiệm và tín nhiệm thấp thôi”, Phó chủ tịch Quốc hội nói. Đề xuất này cũng nhận được sự tán thành của Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng.
Tuy nhiên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng không chỉ vẫn quyết “3 mức”, mà còn cho rằng “rất nhạy cảm” và xuýt chút nữa đã là trong nhà đóng cửa dạy nhau…
Người ta có quyền nghi ngờ lá phiếu tín nhiệm của các dân biểu trên Nghị trường.
    Nguyễn Cao
(Việt Nam Thời Báo)

Trung Quốc trấn đèo Hải Vân: Trách nhiệm Thủ tướng

danang.gov.vn.jpg
Hầm Hải vân
Thừa Thiên-Huế đẩy quả bóng trách nhiệm cho Thủ tướng về việc cho phép nhà đầu tư Trung Quốc khai thác 200 ha đất ở vị trí chiến lược trên đèo Hải Vân.
Nhà phản biện độc lập TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho rằng, cho dù Thủ tướng chịu trách nhiệm vì đã phê duyệt qui hoạch, thì nay cũng là lúc phải thu hồi ngay lập tức giấy chứng nhận đầu tư cấp cho doanh nghiệp Trung Quốc, trao quyền cho họ thực hiện dự án nghỉ dưỡng nằm ở vị trí chiến lược, có thể khống chế vịnh Đà Nẵng và chia cắt đất nước. Từ Hà Nội TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh:
“Chắc chắn phải như vậy nếu ông ấy đã ký thì phải có trách nhiệm, về việc không nhìn ra thì có thể có nhiều lý do, một lý do là do sơ xuất vì sơ xuất là chuyện con người. Nếu mà là sơ xuất thì có thể bỏ qua mà chỉ có thể đánh giá là năng lực hơi kém. Còn nếu không phải là sơ xuất mà biết mà vẫn làm như thế thì trách nhiệm càng nặng hơn.”
Phát biểu gay gắt của TS Nguyễn Quang A được ghi nhận tiếp sau thông tin: ngày 14/11/2014 ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên-Huế khẳng định với VnExpress rằng Thừa Thiên-Huế làm đúng qui định của Nhà nước. Suốt hai tuần qua trên báo chí, Thừa Thiên-Huế đã lập luận rằng, dự án 200 ha ở mũi cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn xa nhất ra biển Đà Nẵng là nằm trong Qui hoạch chung về xây dựng Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế đến hết năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1771 ngày 5/12/2008.
Chính quyền Thừa Thiên - Huế không trả lời dư luận về việc Dự án mũi Cửa Khẻm giao cho nhà đầu tư Trung Quốc nằm ở vị trí chiến lược khống chế vùng trời, vùng núi, vùng biển Đà Nẵng và nếu xảy ra chiến tranh sẽ chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 16. Chính quyền Thừa Thiên-Huế chỉ biện giải về khu vực tranh chấp địa giới giữa Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng. Theo các chuyên gia địa phương nào quản lý mũi Cửa Khẻm không phải là điều quan trọng, cốt lõi ở đây Thừa Thiên-Huế đã bỏ qua vấn đề an ninh quốc phòng trao quyền khai thác 200 ha cho nhà đầu tư nước ngoài trong vòng 50 năm, mà cụ thể là doanh nghiệp Trung Quốc.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc hiện nghỉ hưu ở Hà Nội đã phản ứng mạnh mẽ về điều ông là góp phần làm tăng nguy cơ mất nước. Ông nói:
“Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”
Từ đầu tháng 11, chính quyền Đà Nẵng kiến nghị Thủ tướng rút giấy phép đầu tư mà Thừa Thiên-Huế cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc từ năm 2013 để xây dựng một quần thể nghỉ dưỡng du lịch chiếm 200 ha ở mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn ra xa nhất trên biển Đà Nẵng. Hai lý do Đà Nẵng đưa ra là vị trí chiến lược ảnh hưởng an ninh quốc phòng và dự án nằm trên vùng tranh chấp địa giới giữa hai địa phương.
Ngày 17/11/2014, Trung tướng Lê Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5 được VnExpress trích lời khẳng định đèo Hải Vân là khu vực trọng điểm quân sự  cấp độ 1 được Chính phủ quy định. Đất tại khu vực này muốn  làm bất cứ việc gì phải báo cáo và được sự nhất trí của Bộ Quốc Phòng để xin ý kiến của Thủ tướng. Tướng Chiêm nhấn mạnh, Thừa Thiên - Huế tự động cho doanh nghiệp nước ngoài vào xây dựng khu nghỉ dưỡng là “dứt khoát không được”.
Chuyện thu hồi giấy phép
31102-a2740-400.jpg
Vị trí dự án khu nghỉ dưỡng World Shine
Đáp câu hỏi của chúng tôi là chính quyền Việt Nam có vẻ không chú ý tới yếu tố an ninh quốc phòng khi kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế và để đến khi dư luận lên tiếng lúc đó mới tính chuyện sửa sai. Nhà phản biện TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Tôi nghĩ cũng không hẳn hoàn toàn như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam rất quan tâm tới vấn đề an ninh quốc gia, người ta có những qui trình rất chặt chẽ về những chuyện như vậy. Nhưng thực tế người ta có thể lách những qui trình ấy một cách rất ngoạn mục, hoàn toàn do ý định của người ta mà thôi. Ngay cả việc hủy một dự án, bất kỳ dự án nào cũng có hàng trăm điều kiện mà tôi tin là không có nhà đầu tư nào không vi phạm đến khoảng 30% các điều kiện qui định trong giấy phép. Nếu người ta muốn thì có thể dẫn chiếu bất kể một cái lỗi nào đấy của nhà đầu tư và người ta có thể hủy cái giấy phép ấy mà chẳng cần phải đền bù gì cả, bởi vì ông đã vi phạm qui định.”
Việt Nam có chính sách trải thảm đỏ mời gọi đầu tư để phát triển kinh tế, người Trung Quốc chọn được nhiều vị trí mà dư luận cho là nhạy cảm về an ninh quốc phòng là vì nhờ các mánh lới đặc biệt. Làm thế nào để giảm bớt tình trạng nguy hiểm này. TS Nguyễn Quang A trả lời câu hỏi này:
Nếu chúng ta kỳ vọng vào những người cánh hẩu với Trung Quốc để người ta bớt đi thì không bao giờ cả, số người như thế ở Việt Nam không phải là ít. Chỉ có mỗi một cách như vừa rồi là dư luận của công chúng, của các giới khác nhau, kể cả những người đương quyền mà còn thực sự lo lắng cho vận mệnh đất nước. Những người ấy, các thế lực ấy phải lên tiếng và chỉ có như thế mới có thể chặn được những sự móc ngoặc với những thế lực nước ngoài mà để làm tổn hại đến đất nước mà thôi.”
Được biết, Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp giấy chứng nhận đầu tư và giao 200 ha đất ở mũi Cửa Khẻm cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu từ tháng 10/2013 với thời hạn 50 năm. Thế Diệu đã giải ngân 80 tỷ để khởi sự thực hiện dự án khu nghỉ dưỡng du lịch có tổng vốn đầu tư 250 triệu USD. Tại Cửa Khẻm nơi núi Hải Vân vươn ra biển xa nhất, nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023, Thế Diệu đã xây dựng trụ sở điều hành dự án tại khu vực Cửa Khẻm. Còn tỉnh Thừa Thiên-Huế cho biết đã chi 50 tỷ đồng mở con đường 5 km vào Cửa Khẻm.
Cho tới ngày 17/11/2014 chưa có thông tin về việc thu hồi giấy phép dự án đầu tư trên núi Hải Vân của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng báo chí phản ứng dư luận hết sức gay gắt đòi dừng ngay dự án vì ảnh hưởng an ninh quốc phòng, đặc biệt có yếu tố Trung Quốc. Theo ý kiến chuyên gia một quyết định hợp lòng dân là điều Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ phải tính tới trong giai đoạn này.
Nam Nguyên
(RFA)

Lê Diễn Đức - Công Lý chỉ là diễn viên hài thật

Cuốn sách "Bộ luật dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành 2014", của Nhà xuất bản Lao Động -Xã Hội, phát hành năm 2014, có trang bìa được minh hoạ bằng ta61m hình photoshop một người đàn ông cơ bắp mặc quần sà lỏn được ghép khuôn mặt của diễn viên hài Công Lý, tay cầm cán cân công lý, đã làm xôn xao lư luận xã hội.
Khi có sự phản ứng của dư luận, người chịu trách nhiệm xuất bản, ông Nguyễn Huy Chánh, Trưởng đại diện Nhà xuất bản Lao động - Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết, cuốn sách đã có lệnh thu hồi từ cách đây mấy tháng!
Còn ông Nguyễn Hoàng Cầm, Giám đốc Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, cho hay cuốn sách này do chi nhánh Nhà xuất bản ở thành phố Hồ Chí Minhthực hiện, nên ông đang chờ báo cáo của lãnh đạo chi nhánh phía Nam.
Ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục Xuất bản cho biết, đây là lần đầu tiên Cục Xuất bản xử lý sự cố kiểu này và đã yêu cầu Nhà xuất bản Lao động - Xã hội thu hồi toàn bộ những cuốn sách đã in, đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm đội ngũ biên tập và sẽ ra văn bản kết luận xử lý vụ việc này trong ngày 18 tháng 11, 2014.
Ông Vũ Anh Tuấn, Phó Giám đốc NXB Lao động – Xã hội cho biết, Nhà xuât bản Lao động - Xã hội có liên kết với Nhà sách Lao động để xuất bản và phát hành cuốn: “Tìm hiểu Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành”. Ngay sau khi nhận được bản lưu chiểu thì phát hiện ra các sai sót nên đã yêu cầu Nhà sách Lao động không được phát hành và thu hồi toàn bộ sách hồi bằng văn bản ngày 22/7
Thế nhưng cuốn sách đã in vẫn ung dung có mặt trên thị trường 1.000 cuốn và đến ngày 17 tháng 11 chỉ mới thu hồi được 270 cuốn.
Của cấm là của ngon, càng cấm người ta càng háo hức muốn biết. Chỉ cần tới tay người đọc, dù chỉ một ngày cũng đã đạt mục đích.
Trong hệ thống kiểm duyệt khắt khe của chế độ cộng sản Việt Nam vẫn thường có những lỗ hổng mà một số người trong ngành xuất bản tận dụng được.
Nhiều tờ báo có bài về chủ đề nhạy cảm, đụng đến "vật thiêng" của chế độ, ví dụ như tờ Tuổi Trẻ từng nói Hồ Chí Minh có vợ, hoặc một lần khác công bố một cuộc thăm dò dư luận xã hội cho thấy giới trẻ yêu thích Bill Gates nhiều hơn hắn Hồ Chí Minh hay tướng Giáp, phát hành ra, báo đã nằm trên các quầy bán lẻ, mới có lệnh thu hồi.
Nhiều cuốn sách cũng có số phận tương tự, ví dụ như "Xách ba lô lên và đi" của Huyền Chip, "Sát thủ đầu mưng mủ", "Đồng dao dành cho trẻ mầm non" hay thậm chí “Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh” của tác giả Vũ Chất.
Một số sách có nhiều liên hệ xấu đối với chính sách của đảng Cộng sản Viêt Nam, thuộc vùng cấm, cũng lọt lưới kiểm duyệt, được đưa ra thị trừơng vài ngày mới có lệnh thu hồi, ví dụ như "Thời của thánh thần" của Hoàng Minh Tường.
Tôi không cho đây là một "tai nạn nghề nghiệp" như vị lãnh đạo nhà xuất bản nói, mà là một việc làm có chủ tâm rõ ràng. Tác giả của trang bìa cuốn sách muốn biến văn bản pháp luật của nhà nước Việt Nam thành một trò cười, mỉa mai vào cái thứ công lý chẳng bao giờ thấy trên mảnh đất này.
Nụ cười châm biếng cũng là thứ vũ khí sắc bén mà người dân thường vận dụng trong các chế độ toàn trị. Nó cũng tựa như những câu thơ dân gian, những bài hát đồng giao hoặc chuyện tiếu lâm.
Chả thế mà trên Facebook bạn "Mai Hằng" chia sẻ: "Hay ý nhà xuất bản là 'Công Lý' ở nước ta chỉ là diễn viên hài". 
"Minh Nguyen" rất ủng hộ ý tưởng độc đáo này: "Hay quá! Người biên tập chọn một danh hài để làm bìa cho công lý ở nước ta, ai cũng chê, còn mình thì thấy được cái tâm của người biên tập. Rất cám ơn!".
"V. Nguyễn" lại cho rằng người biên tập đã "quá dũng cám, dám nói lên sự thật"!
Công lý của nhà nước cộng sản VIệt Nam là cái án tù chung thân về tội giết người "có tính chất côn đồ" bằng tra tấn, ép cung cho ông Nguyễn Thanh Chấn của Toà án tỉnh Bắc Giang. Sau 10 năm ngồi tù ông mới được minh oan. Không có sự thật nào bi hài hơn!
Công lý là tất cả các phiên toà xét xử những người tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền, được thông báo công khai nhưng an ninh mật vụ dày đặc ngăn chặn, đánh đập, bắt giữ những người muốn đến tham dự, thậm chí cả người thân trong gia đình. Các bản án thì tuỳ tiện với cùng một tội danh bị áp đặt, được quyết định trước cho từng trương hợp cụ thể, đưa từ trên xuống!
Công lý ở đâu khi những người nông dân bị mất đất không nơi ăn ở, khốn khổ đi khiếu nại và trở thành nhửng kẻ ăn mày (công lý) chuyên nghiệp!
Luật sư Ngô Bá Thành, cựu Phó Chủ tịch Hội luật gia Việt Nam, Uỷ viên Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Vịet Nam, Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật Quốc hội, Đại biểu Quốc hội từ 6, khóa 8 và khóa 10 đã có một câu nói nổi tiếng mô tả một thứ công lý man rợ của nhà nước cộng sản Việt Nam: "Ở Việt Nam ta đã có cả một rừng luật nhưng khi xét xử lại dùng luật rừng!".
Còn cựu Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao Trịnh Hồng Dương, cựu Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá IX và khoá X, đã từng phát biểu trước Quốc hội rằng: “Luật của ta xử thế nào cũng được”. Câu phát biểu này đã đi vào huyền thoại trong nền pháp lý cộng sản Việt Nam.
Vậy, bìa của cuốn sách muốn nói Công Lý là diễn viên hài, đã thể hiện rõ thực chất nền tư pháp của chế độ, chính xác 100% cả nghĩa đen và nghĩa bóng!
© Lê Diễn Đức
(Blog RFA)

Trần Vinh Dự - Bong bóng chứng khoán trở lại?

Thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn khá non trẻ so với thế giới và quy mô của thị trường này còn rất nhỏ (khoảng trên dưới 50 tỷ USD so với con số này ở thị trường chứng khoán Hong Kong là 3150 tỷ USD). Thế nhưng nó cũng đã trải qua một số thời kỳ thăng giáng rất mạnh, và rất đặc trưng ở những thị trường mới nổi.
Nếu như những năm 2004-2007 là những năm “vàng” của chứng khoán Việt Nam thì 2008-2012 là những năm đen tối. Sau khi bị cú sụp đổ ngoạn mục khiến VnIndex giảm từ hơn 1000 điểm về chỉ còn hơn 200 điểm, trong suốt 5 năm trời, chỉ số này chỉ loanh quanh ở ngưỡng 350 tới 500. Gần đây nhất là vụ suy sụp của thị trường năm 2012 trực tiếp do vụ bắt nhà tài phiệt Nguyễn Đức Kiên và cựu Tổng Giám đốc ngân hàng ACB ông Lý Xuân Hải. Các vụ bắt giữ này khiến chỉ số VnIndex trên thị trường chứng khoán Việt Nam chìm sâu dưới mức 400 điểm trong một thời gian dài.
Giờ đây, có vẻ như các nhà đầu tư đã lấy lại được sự bình tĩnh và lạc quan vốn có. Thị trường chứng khoán trong 2 năm 2013 và 2014 đã tốt lên rất nhiều, đặc biệt là năm 2014. Từ đầu năm đến nay tốc độ tăng trưởng của thị trường đạt 19% (VN-Index) và 28% (HNX-Index), đưa VN vào top đầu các thị trường chứng khoán tăng trưởng tốt nhất thế giới của năm 2014.
Sự phục hồi cũng thể hiện qua mức tăng giá trị giao dịch với giá trị giao dịch bình quân mỗi ngày trong 9 tháng đầu năm của toàn thị trường đạt 2.900 tỷ đồng/ngày, tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Điều này đã dẫn đến sự bứt phá ngoạn mục về doanh thu của các công ty chứng khoán. Đơn cử như công ty chứng khoán SSI trong 9 tháng đầu năm 2014 đã đạt mức doanh thu 1.300 tỷ đồng, tăng 134.2% so với cùng kỳ năm 2013. Tỷ lệ này ở công ty chứng khoán HSC cũng đạt 47%.
Nhiều nhận định cho rằng lực đẩy của TTCK của giai đoạn này là các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền nước ngoài đổ thêm vào TTCK VN đang tăng lên nhanh chóng. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2014, tổng khối lượng mua ròng của khối ngoại đã đạt tới 328 triệu cổ phiếu, tương đương giá trị mua ròng đạt hơn 7.084 tỷ đồng (hơn 337,35 triệu USD), gấp 2,8 lần so với mức mua ròng 2.472 tỷ đồng của 6 tháng cuối năm 2013, và tăng 62,6% so với mức 4.356 tỷ đồng của cùng kỳ năm 2013.
Theo nhiều nhà đầu tư nước ngoài, thí dụ Mark Mobius, TGĐ của Templeton Emerging Market Group (hiện đang quản lý khoảng 40 tỷ USD đầu tư, trong đó có 7% ở Việt Nam) thì lý do chính của sự hứng khởi trên thị trường chứng khoán VN là, thứ nhất, giá cả rẻ hơn tương đối so với các thị trường trong khu vực, thứ hai, kinh tế vĩ mô ổn định và tốt dần, và thứ ba, doanh nghiệp trả cổ tức cao.
Thế nhưng nếu nhìn vào thực lực của khu vực doanh nghiệp “nội”, kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, thì điều dễ thấy là “sức mạnh” của các doanh nghiệp này chưa được cải thiện là bao. Vì thế khó lý giải việc giá chứng khoán ở VN tăng nhanh trong thời gian qua từ nguồn gốc sức mạnh nội tại của các doanh nghiệp niêm yết. Đặc biệt từ đầu năm 2014 trở lại đây, sự thăng giáng mạnh của giá cổ phiếu trở nên thường xuyên hơn. Có vẻ như TTCK Việt Nam đang hướng vào một thời kỳ bong bóng mới.
Một quan sát khác là trong số 3 khu vực kinh tế (tư nhân, nhà nước, và nước ngoài), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực khởi sắc nhất. Thế nhưng tại chính khu vực này, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) lại giảm so với các năm trước (mặc dù số vốn FDI giải ngân thực tế tăng). Điều này trong ngắn hạn chưa có gì phải lo nhưng nếu kéo dài thành xu thế thì chắc chắn sẽ là một mảng tối cần phải khắc phục của kinh tế Việt Nam.
Trần Vinh Dự
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)

Đại Vệ Chí Dị - Ném xương cho chó cắn nhau

Đại tướng phủ Vương là Trăm Xanh, đương tung hoàng mãnh liệt trên mọi chiến trường, bỗng nhiên bị đổ bệnh. Bệnh vừa hiểm nghèo lại vừa nghi nguyên nhân do thích khách gây ra. Vệ Kính Vương bèn bí mật nhân lúc đêm không trăng cho người đưa Trăm Xanh đi sang nước Cờ Hoa chữa bệnh.
 Trăm Xanh lâm bệnh, khiến triều thần ai cũng e dè. Vệ Vương không chọn được ai làm đại tướng công phá nhà Chúa. Bấy giờ quân Tề lại hoành hành ngoài khơi, Vương thấy bất lợi nếu tấn công Chúa lúc này nên đóng cửa nghĩ mưu, người rạc cả đi. Mới dăm bữa mà mắt mũi lờ đờ, nói năng phều phào, đi lại khó nhọc.
Đại thần trấn thủ kinh thành là Sáng Quyết, mặt mũi vuông vắn, sáng sủa vốn là kẻ đa mưu túc trí. Thu nạp được nhiều bầy tôi trong thiện hạ về dưới trướng làm môn khách. Quyết nuôi mộng lớn làm chủ thiên hạ, nhưng không ra mặt đua tranh đấu đá trong triều. Chỉ lặng lẽ tích trữ lương thảo, rèn luyện quân lính, chọn những chỗ ngon lành để lập chiến công. Quyết âm thầm kết giao với đai thần bộ binh là Quảng Phệ, mặt khác lại kết giao với bọn đại thần tuyên huấn Đường Hoang. Hòng mưu định việc lớn.
Vốn lo xa, Quyết còn sai phó tướng là Không Trận ra hải ngoại, công du đến đất Bá Linh chiêu mộ bọn tay chân, lập mạng lưới thân cận để sau này trong ngoài nhất hô bá ứng.
Quyết cũng đón ý được của Vệ Kính Vương, nên cũng hay chọn việc gì vừa lòng Tề để làm. Lại còn xây chùa trên núi thiêng ở quê nhà để giữ  long mạch, mọi việc đều chu đáo, cặn kẽ.
Việc lớn cũng đã hòm hòm, chỉ tội kinh tài trong thiên hạ chúa Bạo còn nắm giữ nhiều khoản. Đại tướng Trăm Xanh đánh mấy trận mở màn, thế đang công như vũ bão. Đánh xong thành nào bọn Điền Lan đi theo tiếp quản kho lương thảo nhà Chúa. Nhưng Trăm Xanh bị hành thích bất ngờ đổ bệnh, mạng sống lay lắt chưa biết ra sao, lòng quân trễ nải. Việc lớn đình trệ cả ở đó.
Quyết nóng lòng ngày đêm lo nghĩ, ngày đại hội nhân sự chả còn là bao. Uy tín nhà Chúa vẫn mạnh. Không khéo gần ngày việc lớn lại hỏng vì không đâu. Có kẻ bầy tôi mới hiến kế '' ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi ''. Quyết mừng lắm, mang kế ấy vào tâu với Vệ Kính Vương. 
Lại nói về Vệ Kính Vương đang ủ rũ lo lắng cho cơ nghiệp nhà Sản mai đây rơi vào tay nhà Chúa ắt sẽ phai nhạt lý tưởng của Tiên Đế, lòng Vương đau như cắt. Gặp được kế hay, mới bàn thực hiện cả đêm. Vương nói.
- Kế ngao cò tranh nhau dễ lộ mặt ngư ông, thêm nữa là kế này hợp tính khí người Tề, không hợp tính khí người Vệ. Nay ta tiếp thu kinh nghiệm của họ, nhưng phải sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh nước mình. Dựa trên kế sách này ta đổi thành kế '' ném xương cho chó cắn nhau''.
Quyết hỏi.
- Thế nào mà lộ mặt ngư ông.?
Vương đáp.
- Ngao cò tranh nhau thì ầm thầm, êm ả. Người ngoài dễ nhìn thấy ngư ông trên bờ đang trông. Chứ chó cắn nhau thì ầm ĩ, tiếng sủa kinh động thiên hạ, người ta bị thu hút vào tiếng sủa, tiếng gầm gừ, tiếng bị cắn đau kêu oăng oẳng. Ai mà để ý đến người nào ném xương. Kế này lại hợp tính tranh giành khốc liệt của người Vệ ta, cứ thế  tìm người mà làm.
Quyết về sai bọn sư sãi bấm độn tìm người. Sau tìm được người mênh Bính Tuất, tính khí phù hợp với kế sách, dâng lên cho Vệ Kính Vương. Vương xem ra là đại thần quản bọn dân biểu tên là Sanh Hường ưng lắm.
Sanh Hường tính nết tham lam , háo sắc vô độ. Ỷ thế dòng dõi Nguyễn Sinh ở Châu Hoan nên giữ chức đại thần nghị chính mấy khoá. Được Vệ Kính Vương gọi tới mật đàm, hứa hẹn kỳ tới sẽ không sắp được chức tốt thì cũng được chia phần của cải, kho tàng nhà Chúa.
Hường về phủ, kiểm điểm binh mã, cầm ấn tổng quản dân biểu, gióng trống , phất cờ ra trận. Đích thân Hường kéo  quân đến phủ Chúa bày trận '' tín phiếu '', khai tên bắn rào rào.
Bữa ấy Chúa đi xa về, mệt mỏi đang nghỉ, nghe quân báo, bèn ra trên cổng thành ngắm. Thấy Hường đi lại múa may như phường chèo. Chúa cười nhạt nói.
- Cái thằng môi mỏng, già dái non hột này làm được tích sự gì. Liệu được ba cái sóng cồn.
Nói rồi hạ lệnh cho quân sĩ phòng bị cẩn mật, không được mở cổng thành nghênh chiến. Đêm ấy Chúa vạch kế '' rút củi đáy nồi '' sai một toán quân âm thầm bí mật lẻn về hậu phương của Hường, tóm sống tên thủ hạ lo việc binh lương là Sông Đỏ.
Sáng sau cơm nước no nê, nai nịt người ngựa, giáp đen hùng vĩ, giáo nhọn sáng ngời. Hường dẫn quân đến phủ Chúa tìm chỗ yếu để đánh. Nào ngờ khi trời vừa rõ mặt người, trên cổng thành phủ Chúa có kẻ bị trói kêu thảm thiết.
- Tướng công, về lo  cho hiền muội kẻo không kịp.
Hường thấy giọng quen, lại gần nhìn rõ thì ra tâm phúc Sông Thắm, chân tay rụng rời, lòng như lửa đốt, quay ngoắt ngựa chỉ kịp nói với lại.
- Ngươi cứ im miệng, có gì ta sẽ lo.
Nói rồi chạy miết ngày đêm về phủ, đóng cửa chặt lại. Sai người đưa quân đến phủ hiền muội canh phòng cẩn mật ngày đêm.
Chúa bấy giờ ung dung đi vào giữa trận '' tín nhiệm '' nhếch mép cười hỏi các tướng dân biểu.
- Nào thì khởi trận cho sớm, về còn làm việc khác chứ.
Các tướng dân biểu tâm phục, khâủ phục trước oai của Chúa, nhất loạt chống giáo, cài gươm. Tôn Chúa '' tín nhiệm cao ''
Hường bỗng dưng mang hoạ, đang lúc yếu thế lo lắn đủ bề, bọn bộ binh biết thóp ấy, bèn dâng biểu đòi phong tướng, danh sách dài lê thê. Hường cực chẳng đã phải phê duyệt để lấy lòng chúng cho yên, không bọn chúng lại '' tâm tư '' theo kẻ khác thì hoạ càng thêm hoạ.
Chúa thắng trận '' tín phiếu '' danh tiếng vang lừng trong thiên hạ. mở tiệc khoản đãi bầy tôi có công. Có kẻ tâu.
- Bọn Sanh Hường chỉ là lũ chó cắn càn, sủa bậy không thâm sâu. Tất cả chỉ do bọn kinh thành xui vương phủ mà ra. Sao chưa trị bọn ấy.?
Chúa cười nhạt nói.
- Bọn ấy dựa thế Tề bấy lâu nay, lực chúng còn mạnh,đánh thẳng vào chúng chưa phải lúc. Giờ phải cho thiên hạ thấy bộ mặt xâm lược của bọn Tề, qua đó mà người ta oán bọn thân Tề. Lúc đó mới tính chuyện tiếp được.
Chúa phái đại thần sang Cờ Hoa bàn chuyện mua vũ khí, mặt khác thân chinh đi các nước có hiềm khích với Tề kết giao hữu hảo. Lại cho người vạch các thủ đoạn, tội ác của bọn Tề.
Bọn Sáng Quyết, Vệ Kính Vương thấy Sanh Hùng thất trận, bên ngoài Tề lại lăm le chiếm biển đảo, bèn bàn nhau rằng vận chưa đến, thua keo này sẽ bày keo khác. Nhưng trước mắt không vì tan vỡ âm mưu mà lại trễ nải việc thờ phụng thiên triều, nhất quyết xác định mục tiêu chiến lược là gắn bó với Đại Tề để làm chỗ dựa. Bởi thế lại âm thầm cho người đi ca ngơi Tề và hăm doạ những ai trong dân đen chỉ trích phê phán Tề.
Chưa biết nhà Sản thế nào, xin đợi hồi sau sẽ rõ.
Người Buôn Gió
(Blog Người Buôn Gió)