- Tổ chức đoàn công tác thăm khám, cấp thuốc cho quân dân Trường Sa (QĐND). – 12 tỷ đồng giúp ngư dân bám biển (ND).
<- CLB BÓNG ĐÁ NO-U FC RA SÂN LẦN THỨ 72 CHIỀU 23/06/2013 (Thành). - Từ năm 2007 nhạc sĩ Tô Hải đã chỉ rất trúng đích về kẻ “Quyết Tâm” làm tay sai cho Khựa? (Boxitvn).
- Việt-Trung kiên trì đàm phán giải quyết tranh chấp biển (VNN). Giải quyết dùm vấn đề này: TQ xuất bản phi pháp sách về cái gọi là ‘TP.Tam Sa’ (VTC). – ĐÀ NẴNG, THÀNH PHỐ CỦA BẮC KINH BÊN BỜ BIỂN ĐÔNG (TNM). Trong bài, nhiều thông tin đưa ra khó kiểm chứng, nhận định bừa, ngô nghê, lại có mùi vu khống chính trị. Ví dụ: “Đại hội XI, cục Tình báo Hoa Nam đã hết sức vận động đưa Thanh vào bộ chính trị nhưng thất bại”, hay: ”Blogger Trương Duy Nhất, công an mật vụ chính gốc, …”.
- Việt – Mỹ: góp phần gìn giữ môi trường hoà bình (SGTT).
- Philippines hoan nghênh Mỹ không để xảy ra ‘cưỡng chế và bắt nạt’ ở Biển Đông (PT). – Philippines bắt tàu Trung Quốc xâm nhập lãnh hải (NLĐ). – Tàu chiến cận duyên Mỹ USS Freedom tập trận với Malaysia (RFI).
- Tàu khảo sát Trung Quốc hoạt động tại đảo Senkaku/Điếu Ngư (VOV).
- Việt Nam: Một thanh niên Công giáo tuyệt thực trong tù để phản đối cách đối xử hà khắc (RFI). “Nhật nói là em sẽ tuyệt thực từ ngày 21 đến cuối tháng. Hôm bữa em đi thăm ngày 10/06, nó nói em sẽ tuyệt thực phản đối những hành vi của công an đã làm. Nó kêu là ở trong này kham khổ quá, thiếu thốn hết mọi sự. Cho nên nó quyết tâm tuyệt thực để phản đối cái sự đó”. – ĐỐI ĐẦU BẤT BẠO ĐỘNG (TNM). “Chủ trương triệt để đấu tranh bất bạo động, Gandhi nổi tiếng với câu nói ‘Nếu cứ trả thù theo cách mắt đổi mắt thì cả thế giới này rồi ai cũng bị mù‘.”
- Luật sư Lê Quốc Quân tịch cốc (Nguyễn Tường Thụy). “Gia đình Luật sư Lê Quốc Quân cho biết, Ls LQQ đã quyết định tịch cốc (không ăn, chỉ uống nước) 7 ngày, từ ngày 23 đến ngày 29/6/2013 để tri ân những người quan tâm, ủng hộ và cầu nguyện cho anh“. FB Lê Quốc Quyết: “Anh còn nhắn rõ rằng, đây la tịch cốc chứ không phải tuyệt thực, vì lần này anh tịch cốc, tịnh tâm để tri ân, chứ không phải tuyệt thức để phản đối hoặc đưa ra yêu sách nào cả!“. – Hai Bài thơ mới của Lê Quốc Quân.
- ‘Ông Hà Vũ có quyền kiện vụ clip VTV’ (BBC). “… luật sư Nguyễn Văn Đài từ Hà Nội nói với BBC cho rằng phóng sự của VTV có tính chất bôi nhọ danh dự đối với ông Hà Vũ. Ông cho rằng nếu phóng sự được dựng và truyền bá mà không được ông Hà Vũ đồng ý, thì ông Vũ hoàn toàn có quyền kiện, hoặc ủy quyền cho luật sư của mình kiện Đài Truyền hình Việt Nam“. – Phỏng vấn LS Dương Hà: Bà Dương Hà: sẽ kiện nhưng chờ thời điểm (BBC). “Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà nói Truyền hình Việt Nam, VTV, đã sai khi quay lén, quay trộm chồng và thân chủ của bà, Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ ở trong trại giam, trong phóng sự hôm 15/6“.
Vậy là vụ tuyệt thực của TS Cù Huy Hà Vũ có vẻ như còn tiếp diễn theo một chiều hướng khác.- ĐƠN YÊU CẦU ĐIỀU TRA VÀ TRẢ LỜI CÔNG DÂN (Thành). “V/v: Điều tra và trả lời về việc công an mặc áo thường phục giả danh côn đồ đánh dân… Chúng tôi đề nghị cơ quan điều tra Bộ Công an trả lời chúng tôi, đại diện là ông Trương Văn Dũng – Địa chỉ: Nhà 69 ngõ 73 phố Nguyễn Lương Bằng – Đống Đa – Hà Nội bằng văn bản. Nếu quý cơ quan không trả lời, chúng tôi có quyền cho rằng việc những chiến sĩ công an giả danh đánh người là có thật và đang được bao che. Chúng tôi sẽ tiếp tục phản đối các quyết định xử phạt của cơ quan công an“. CAND hãy tập “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” trước khi kêu gọi người dân.
.
Chuyện có thể kiện, nên kiện là quá rõ và quá thuận lợi cho “bên nguyên”, xét riêng về khía cạnh “tuyên truyền”. Ngược lại, phía trại giam sẽ “giải quyết” đơn tố cáo của ông Vũ về ý đồ ám hại mình như thế nào, trả lời “không có” cho qua chuyện, hay rồi lại nhân thể có một động thái kiểu “trả đũa” nào đó dưới cái cớ là để tránh cho ông Vũ bị đe dọa tính mạng như trong đơn ông nêu?
.
Thế nhưng, nếu ông Vũ và các luật sư khởi kiện VTV, thì việc “trả đũa” sẽ khó có thể thực hiện, bởi càng dễ mang tiếng xấu hơn, lại thổi bùng thêm sự chú ý và phẫn nộ của dư luận vừa mới nổi lên chưa nguôi.
.
Có lẽ những người có trách nhiệm trong vụ này sẽ phải vắt óc để rút kinh nghiệm ngay từ những diễn biến ban đầu của vụ việc. Phối hợp giữa trại ở nơi xa xôi hẻo lánh, lực lượng cảnh sát (trại giam) với bên an ninh (nơi “quản” ông Vũ về tinh thần) đã khó, thì phối hợp với đám truyền thông quốc doanh quen thói cưỡng bức dư luận, nhưng lại “trà trộn” trong đó là những nhà báo muốn tận dụng cơ hội hiếm có để làm rõ sự thật một cách khéo léo, lại càng khó hơn.
- Bắc Phong – Chuyện đã quen sống nhục (Dân Luận). – Thái Bá Tân – Trách nhiệm của Đảng (Dân Luận). “Đảng lãnh đạo tuyệt đối,/ Tức tuyệt đối cầm quyền./ Nhờ sự tuyệt đối ấy/ Khối anh kiếm bộn tiền./ Đất nước giờ nát bét./ Ta phải trách ai đây?/ Đảng lãnh đạo tuyệt đối,/ Phải chịu trách nhiệm này./… Tôi muốn đảng, nhà nước/ Ý thức trách nhiệm mình./ Đã lãnh đạo tuyệt đối,/ Thì tuyệt đối công minh“.
- GỬI THỦ TƯỚNG BA DŨNG (Nguyễn Trọng Tạo).
- Cận cảnh Công An cưỡng chế đất – dân kêu: Chúng mày về hại dân à? Chúng mày về giết dân à? (Truong Van Dung/ NVYN). – Video: Dân Trịnh Nguyễn họp bàn đối phó với bọn cướp đất (Thanh Tran). – Dân Oan Việt Nam – người dân có bằng tổ quốc ghi công phản đối chính quyền làm sai pháp luật (Truong Van Dung/ NVYN). – Mời xem lại: Dân Oan VN – bà con chống CA cưỡng chế đất tại Xã Từ Sơn, Bắc Ninh 18-6-2013 – Phần 1 (Lê Thiện Nhân/ NVYN). – Dân Oan VN – bà con chống CA cưỡng chế đất tại Xã Từ Sơn, Bắc Ninh 18-6-2013 – Phần 2
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=D1zd_gIFHgE
View on YouTube
View on YouTube
- Khiếu kiện đất đai: Ung thư mãn tính (RFA’s blog). – Gia hạn giao đất để an dân (NLĐ).- Xuân Quan ngày hội lên đồng (Nguyễn Tường Thụy).
- Lấy phiếu tín nhiệm – Trọng trách này đặt lên vai HĐND (ĐBND). –
Lấy phiếu tín nhiệm – một tiền lệ đã hoàn thành đáng ghi nhận trong
hoạt động của Quốc hội, là bước đi ban đầu phù hợp với văn hóa Việt Nam (ĐBND). – Thiếu tá Nguyễn Văn Minh: Khẳng định bước tiến quan trọng trong hoạt động của Quốc hội.
Khác với tất cả các báo cũng với cùng một sự việc, dường như báo QĐND
cứ phải lên giọng “chửi đổng” quen thuộc, chỉ trích, chụp mũ những ý
kiến nào đó, được trích dẫn theo kiểu cắt xén, không địa chỉ, thì mới
chứng tỏ mình đang đi đầu trong cuộc “Làm thất bại chiến lược ‘Diễn biến
hòa bình’ “? Hung hăng và quáng tới mức ám chỉ bất cứ ai “hạ thấp kết quả cuộc lấy phiếu tín nhiệm” như kẻ “cố tình xuyên tạc thành công của cuộc lấy phiếu tín nhiệm”.- Việt Nam và mạng xã hội (BBC). “Mặc dù cũng giống như số người tham gia biểu tình trên đường phố, những người dùng Facebook như những nhà hoạt động chỉ là thiểu số. Nhưng một cựu quan chức trong guồng máy của Đảng Cộng sản đã chỉ ra rằng chính quyền sợ ‘lửa nhỏ’ có thể dẫn tới ‘cháy to’.” – Tại sao Facebook bị chặn ở Việt Nam? (PT).
- Thời kỳ khó khăn và sụp đổ chế độ: Phản ứng của chế độ chuyên chế với suy thoái kinh tế (NCQT). “Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi không cho rằng những nhà cầm quyền độc tài chỉ đơn giản là nạn nhân của số phận kinh tế. Thay vào đó, chúng tôi lập luận rằng trong những thời kỳ thành tích kinh tế kém cỏi, giới cầm quyền độc tài vẫn có những công cụ có thể sử dụng khác cho phép họ tác động trở lại và thay đổi nền chính trị và chính sách thường ngày“.
- “Cộng sản” vẫn còn là từ bẩn trong cộng đồng người Việt tị nạn: ‘Communist’ Is Still a Dirty Word in Vietnamese Immigrant Enclaves (NYT). – Hồ sơ vụ này ở Tòa án bang Washington: IN THE SUPREME COURT OF THE STATE OF WASHINGTON. – Mời xem lại: ỦY BAN CHỐNG CỜ VC ĐÃ THẮNG KIỆN TẠI TÒA PHÚC THẨM TB. WASHINGTON (Minh Tân). – Tòa Phúc Thẩm Tiểu Bang Washington Đơn Vị II Đảo Ngược Phán Quyết Về Vụ Kiện Phỉ Báng Của Tòa Thượng Thẩm Quận Thurston Và Truyền Bãi Bỏ Vụ Kiện.
- Nguyễn Tường Tâm: Bác sĩ Nguyễn Tường Bách – Người Kết Thúc Chiến Tranh Quốc Cộng 1945 (Dân Luận). “Thực ra, Việt Minh Cộng Sản không đủ cán bộ để làm cuộc biểu tình đông như vậy, họ chỉ cướp công và dấu mặt cộng sản để cướp chính nghĩa mà thôi. Tâm sự tiếc nuối của cụ Nguyễn Tường Bách đã được mô tả ngắn gọn trong tựa đề của một bài phỏng vấn cụ Bách đăng trên tuần báo Saigon USA của Luật Sư Nguyễn Tâm xuất bản tại San Jose, California, Hoa Kỳ ngày 11-1-1999; tựa đề đó là: ‘Lỡ Một Bước, Hận Ngàn Thu‘.” – Mời xem lại: TS. LÂM LỄ TRINH: BS. NGUYỄN TƯỜNG BÁCH (Sơn Trung). – Người con út của ‘gia đình Nguyễn Tường thế hệ Tự Lực Văn Ðoàn’ qua đời (Người Việt). =>
- HỒI KÝ của Một Người Hà Nội 1954… (Viet Land/ Trần Hoàng).
- Trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa (RFA). Ông Nguyễn Đạc Thành: “Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa và tôi cũng xin nói rõ đó là cái kết quả mà chúng tôi đi theo kết quả của ông thượng nghị sĩ James Webb”.
- Phát biểu của Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry tại buổi công bố Báo cáo Thường niên về Nạn Buôn người (BNG Mỹ/ Defend the Defenders). – Báo cáo thường niên về nạn buôn người – Phần tổng quát: Trafficking in Persons Report (BNG Mỹ). – Phần cụ thể từng nước – Việt Nam: xem từ trang 392-395
- Về cái chết bất ngờ của anh Nguyễn Vũ Vỹ, người từng tham gia nhiều cuộc biểu tình yêu nước: Thông tin mới vụ người đàn ông bị giết trong căn nhà kín (PLXH/ Tin tức).
- Hội thánh Công giáo VN bổ nhiệm Giám mục Phụ tá cho Giáo phận Vinh và Hưng Hóa (RFA). Giám mục Phê rô Nguyễn Văn Viên: “Giáo hội Công giáo không thể sống bên lề xã hội, nhưng là men, là muối, là ánh sáng làm cho xã hội ngày càng tốt hơn; để tất cả sống đúng hơn với quyền và phẩm giá của mình”.
- TA THỜI…CÒN XEM! (Bùi Văn Bồng).
- Đi từ đâu và đi về đâu? (FB Hoàng Ngọc Diêu).
- TIN BÁO NGÀY 23/6 (Sơn Thi Thư). – Hỏi các người (Lê Khả Sỹ). “Mới trên một báo, mà đã thấy màu xám xịt phủ lên luân thường đạo lý thế này, xin hỏi các người lãnh đạo xã hội có đau lòng không ? Có nên bớt tuyên truyền lý luận lăng nhăng để bắt tay vào phục hưng tình đời nghĩa thế, cho người ra người, hay chỉ cần ‘ổn định chính trị’ ???”
- Thủ tướng chỉ thị thực hiện giải pháp cấp bách ngăn chặn TNGT (CP).
- Kiểm tra một phó Bí thư huyện ủy vì vi phạm kỷ luật (VOV).
- Tôi đi kiện “ông điện” (TT).
- Vũ Duy Chu: HÀ NỘI TIẾU LÂM TRUYỀN KỲ (KÌ 132 : BÔI TRƠN) (Trần Mỹ Giống).
- Yếu tố con người trong xây dựng đập thủy điện ở VN (RFA). Tiến sĩ Nguyễn Bách Phúc: “Chỉ cần điều duy nhất là qui định rõ trách nhiệm chứ không phải chung chung, phải là trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị, từng chức danh. Bên cạnh đó phải có chế tài cụ thể như vị phạm thế nào phải chịu hình phạt bao nhiêu năm tù… Theo tôi như qui định hiện hành, nếu đập thủy điện Sông Tranh vỡ không ai phải chịu trách nhiệm, không ai phải đi tù, không ai phải bồi thường cả! Người ta sẽ đổ là tại Trời”.
- Luật sư nhân quyền mù Trần Quang Thành tới Đài Loan (VOA).
- Trung Quốc : Dâng cao phong trào phụ nữ đấu tranh bằng cách thoát y (RFI). “Trên bộ ngực trần có ghi hàng chữ bằng tiếng Hoa với nghĩa là : ‘Hãy ngủ với tôi và để yên cho cô Diệp Hắc Yên’.”
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh: Việt – Trung thống nhất xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển bằng các biện pháp hòa bình (SGGP). - Tăng cường hợp tác toàn diện Việt Nam – Trung Quốc (TN). – Việt – Trung lập đường dây nóng về hoạt động nghề cá (TT).
- Philippines tạm giữ tàu hàng Trung Quốc (PLTP). – Philippines: “Cưỡng chế và bắt nạt” là những thách thức ở Biển Đông (GDVN).
- Nhật cắt đứt lối ra Thái Bình Dương, bóp nghẹt hải quân Trung Quốc ở Senkaku (ANTĐ). - Nhật cáo buộc tàu nghiên cứu TQ xâm phạm EEZ (TTXVN). – “Kẻ hủy diệt” của Nhật có chiếm uy thế trước TQ? (ĐV). – Diễn tập Nhật-Mỹ: Quân Mỹ đánh chiếm xong đảo sẽ bàn giao cho Nhật Bản (GDVN).
- Mỹ không bảo vệ Nhật Bản và Philippines? (PT). – Mỹ sẽ làm hết sức để làm yên lòng các đồng minh ở châu Á? (GDVN).
- Nga và tranh chấp biển Đông – Bài 1: Nga trở lại biển Đông (PLTP). - Vào nơi chế tạo lá chắn phòng không tương lai cho VN (PN Today).
- Chỉ nên lấy phiếu quan chức có “vấn đề” (GTVT).
- Kinh tế buồn, y tế, giáo dục “lên ngôi” (VnEco). – Bộ trưởng Tài chính giải đáp 3 vấn đề “nóng” (Infonet).
- Vật cản của cải cách hành chính (TVN). - Rắc rối khi làm hộ khẩu (TN). - Bộ Tư pháp “lên tiếng“ vụ “người dân yêu cầu UBND huyện Vân Đồn bồi thường“ (PLVN).
- Cán bộ có dấu hiệu bảo kê cho các cơ sở kinh doanh vận tải: Sẽ bị đình chỉ chức vụ (TP).
- Chú Tư Dương Quang Trung đã ra đi! (NLĐ).
- Trung Quốc: 3 cách xử với Triều Tiên (KP). – Hàn Quốc bắt tay Trung Quốc kiềm chế Triều Tiên (Infonet).
KINH TẾ- Bộ trưởng Tài chính giải đáp 3 vấn đề “nóng” (CP). – Bộ trưởng Tài chính: Tập trung công tác điều hành ngân sách (VOV). – Sẽ công khai việc sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu (TTXVN).
- Tái cơ cấu DNNN: Liệu có mẫu số chung? (TQ).
- Sáu tháng, nhập siêu hơn 1 tỉ đô la Mỹ (TBKTSG).
- VN: Hai thành phố lớn tăng trưởng chậm (BBC).
- Khu kinh tế Vân Phong ế ẩm (NLĐ).
- Phá giá VNĐ sẽ là “mồi lửa” (NLĐ).
- Huy động vàng trong dân không thể vội (ĐBND). – Giá vàng tuần tới: Hy vọng ở lực “săn hàng” giá rẻ (VnEco). – Thiệt hại vì tâm lý đám đông (NLĐ). – “Đáy” của giá vàng sẽ là 21 triệu đồng/lượng? (VnM). – Vàng giảm giá, cẩn trọng khi “bắt dao rơi” (SGTT).
- Bộ Xây dựng sẽ thí điểm phát triển nhà cho thuê (TTXVN). – Video: Mỗi tuần một chuyện: Biến động bất động sản (VTV).
<- Vụ bắp lai cho năng suất thấp: Nhiễm bệnh bạch tạng trên bắp (DV). – Nông dân Lai Vung loay hoay bỏ lúa, trồng màu (SGTT). – Mua tạm trữ gạo: Chìa không vừa ổ khoá (SGTT).
- Trung tâm thương mại bán quần áo theo kg (VNE).
- ‘Rửa’ cá tầm nhập lậu từ Trung Quốc (TP).
- 9 lý do kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục thống trị thế giới (TN).
- Trung Quốc sắp chịu khủng hoảng tài chính? (Nguyễn Vạn Phú).
- 24 TCTD thua lỗ trong 5 tháng đầu năm (CafeF). – Khơi dòng chảy tín dụng: Chờ mốc 1 tháng 7 (DV).
- Khi Thống đốc mạnh tay (NCĐT).
- Cứu đại gia, ai cứu người nghèo (TVN).
- Vàng giảm giá, cẩn trọng khi “bắt dao rơi” (SGTT). - Chọn thời điểm nào mua vàng? (TP).
- Thận trọng khi bắt đáy chứng khoán (TN). – Tái cấu trúc CTCK: Lặng lẽ làm, ồn ào kết quả (CafeF).
- Mở bán dự án mới đông nam Đà Nẵng giá bình quân 210 triệu/nền (DĐDN). – Sẽ thí điểm phát triển nhà cho thuê (PLTP).
- Doanh nghiệp thờ ơ với luật lao động – Bài 1: Những bài học tốn kém (PLTP). - Đại chúng một nửa (NCĐT).
- Chìa không vừa ổ khóa (SGTT).
- Cạnh tranh cam go hàng tiêu dùng nhanh (PLTP).
- Du lịch kích cầu “ảo” (TN).
VĂN HÓA-THỂ THAO- BÁC BA PHI ĐI THĂM MỸ (KỲ 47) (Nhật Tuấn).
- Từ thiên kiến tùy tiện trong việc tìm hiểu về người đến dễ dãi và vơ vào khi nói về mình (Vương Trí Nhàn).
- NHẬT KÝ BÁC SĨ HÓA 3: NGÀY GIỖ (Nguyễn Trọng Tạo).
- Trần Thị Kim Anh: Trao đổi tiếp về cột đá chùa Dạm (Tễu). =>
- Đề nghị xếp hạng rừng Trần Hưng Đạo là di tích quốc gia đặc biệt (TQ).
- Du lịch Văn hóa: Hỗ trợ hay phá hoại báu vật thế giới? (VNN). – Di sản văn hóa chưa được bảo tồn (NLĐ). – Di sản, mười nghìn đồng và một lô đất (TN). =>
- Sân khấu buồn, thượng đế quay lưng (SK&ĐS).
- Nhạc sĩ Nguyễn Cường: Đến Tây Nguyên bằng một suất đi… ké (PL&XH).
- ĐD Phan Hoàng: “Tôi luôn giữ cho mình một chữ tâm” (PNTP).
- Clip “phù thuỷ” âm thanh biến tấu tiếng đàn bầu đầy cuốn hút (DT).
- LỖ TẤN: CỎ DẠI (Trần Đình Sử).
- UNESCO công nhận Kaesong là di sản thế giới (RFI).
- Phát hiện thành phố cổ tại Cam Bốt nhờ tia Laser (RFI). “Thành phố cổ Mahendraparvata đã có 1.200 tuổi, hiện nằm không xa cố đô Angkor thuộc tỉnh Siêm Riệp vùng Tây Bắc”.
- “Thòng lọng” của tháp G (TN).
- Đoạn kết chuyện “Con trâu” (TP).
- Không thể hủy Confed Cup (ANTĐ).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC- Làm gì để trẻ em miền núi đến trường nhiều hơn? (VTC). – Hỗ trợ gạo cho học sinh khu vực đặc biệt khó khăn (PNTP).
<- Sĩ tử không lo thiếu chỗ trọ (VOH).
- Vĩnh biệt viện sĩ – bác sĩ Dương Quang Trung (TN). – Bác sĩ Dương Quang Trung: Sáng ngời hai chữ Nhân Tâm (SGTT).
- Video: Công nghệ – Đời sống: Diễn đàn cấp cao Công nghê thông tin- truyền thông ICT Summit 2013 (VTV).
- Thần Châu 10 lắp ghép thành công với Thiên Cung 1 (TTXVN).
-Những tấm bằng đại học…“thiu” (VNN). – Những người trẻ không thích làm thuê (TN).
- Chàng thủ khoa hệ giáo dục thường xuyên (SGGP).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG- Vội vàng dùng lại Quinvaxem! (NLĐ).
- Cầu bộ hành bị… ‘quên’ (PT).
- Bi kịch trong gia đình kẻ trộm chó bị đánh chết (DV). – Phán quan rùng mình (SGTT).
- Sóc Trăng: Cô giáo tố bị chồng bạo hành (PNTP).
- Chuyện tình cổ tích của người đàn ông tật nguyền (PT). =>
- Bệnh viện cho thú quý (NLĐ).
- Phố giã cua đồng (SGTT).
- Bão Bebinca đổ bộ vào đất liền sớm 9 tiếng (VNE). – Bão số 2 gây thiệt hại nhiều nơi (NLĐ). – Hải Phòng chìm trong biển nước (VNN). – Nhiều người “hồn nhiên” đi xem bão số 2 (TN). – Ngư dân chủ quan muốn ra khơi khi bão vào gần bờ (TN). – Một tàu thu mua cá gặp tai nạn trên biển Lý Sơn (VOV).
- Ấn Độ: 1.000 người có thể đã chết vì lũ lụt (NLĐ). – Lũ lụt ở Ấn Độ: Hơn 40.000 người vẫn mắc kẹt ở vùng núi (PNTP). – Thời tiết xấu cản trở nỗ lực cứu hộ lũ lụt ở Ấn Độ (VOA).
- Một người Guinea bị bắt ở Thái Lan vì buôn lậu sừng tê giác (VOA).
- Malaysia tuyên bố tình trạng khẩn cấp vì khói mù ở Indonesia (VOA). - Malaysia, Singapore khốn đốn vì khói bụi từ Indonesia (TQ). – Indonesia làm mưa nhân tạo chữa cháy rừng (RFI). “Một cơn mưa lớn đã dập xuống vùng rừng rậm Sumatra đang bị thần hỏa thiêu đốt từ nhiều ngày qua”.
- Hà Nội đề nghị tăng giá viện phí (ANTĐ).
- Tiêu hủy gần 1 tấn heo sữa nhiễm khuẩn (TN). - Sao họ ác thế (TN).
- Ấm lòng người con của quê hương (DT).
- “Cẩu tặc” phạm lỗi, người dân phạm tội (ANTĐ).
- Lòng đường thành sân phơi thóc (?) (HNM).
- “Bó tay” với ô nhiễm môi trường? (SGGP).
- Hải Phòng ngập nước vì cơn bão số 2 (VTV). – Người dân chủ quan với bão số 2 (TN).
- “Sóng thần” trên dãy Himalaya làm 5.000 người chết (TTXVN). - “Khủng hoảng quốc gia” ở Ấn Độ (SGGP).
QUỐC TẾ- “Hỗ trợ khẩn cấp” phe đối lập Syria (NLĐ). – Các nước chuyển xe tăng cho phe đối lập ở Syria (TTXVN). - Quân nổi dậy Syria sẽ được hỗ trợ (BBC). – Nhóm « Các nước bạn của Syria » trợ giúp quân sự cho đối lập (RFI). - Phe nổi dậy Syria tấn công đồn cảnh sát Damascus (VOA). – Iran chỉ trích việc vũ trang cho quân nổi dậy Syria (TTXVN). – Hamas tiến thoái lưỡng nan trong cuộc chiến Syria (ĐBND). – Thế giới 7 ngày: Mâu thuẫn Nga- Mỹ vì Syria (VOV).
- Xung đột tiếp diễn ở Brazil (BBC). – Brazil : Phong trào phản kháng vẫn tiếp diễn (RFI). “Khoảng 70.000 người xuống đường tại thủ phủ bang Minas Gerais”. - Brazil : Giá phải trả cho Cúp bóng đá thế giới 2014 (RFI). – Biểu tình lớn tiếp diễn tại Brazil (VTV). – Brazil: Người dân tiếp tục phản đối nạn tham nhũng (TTXVN). – Cầu cứu người tiền nhiệm (NLĐ).
- Quân đội Ai Cập sẽ ‘can thiệp’ nếu biểu tình trở thành bạo động (VOA).
- Snowden rời Hong Kong sang Moscow (BBC). – Edward Snowden rời Hong Kong đi Moscow (VOA). – Edward Snowden rời Hồng Kông sang Nga? (RFA). – Cựu gián điệp Mỹ Edward Snowden rời Hồng Kông qua tỵ nạn ở Venezuela ? (RFI). – Edward Snowden sẽ tới Venezuela xin tị nạn chính trị (VOA). “Hãng máy bay Aeroflot nói rằng ông Snowden sẽ từ Moscow đáp máy bay sang thủ đô Havana của Cuba vào ngày thứ hai, trước khi đáp một chuyến bay khác để tới thủ đô Caracas của Venezuela”. - Snowden đến Cuba hoặc Venezuela? (NLĐ). – Snowden sẽ bay đến Cuba và tới Venezuela (TT). – Edward Snowden tiết lộ Mỹ tấn công vào mạng di động Trung Quốc (TN). – Snowden : Công cụ Trung Quốc dùng để đánh Mỹ (RFI).
- Các tay súng ở Pakistan giết chết 9 du khách nước ngoài (VOA). – Taliban Pakistan thảm sát 9 du khách nước ngoài (RFI). – 10 khách du lịch bị giết ở Pakistan (BBC).
<- Văn phòng Taliban ở Qatar có thể bị đóng cửa (VOA). – Taliban thừa nhận việc sát hại du khách nước ngoài (TTXVN).
- Al-Qaida Bắc Phi thông báo 8 con tin Châu Âu còn sống (RFI).
- Ngoại trưởng Mỹ đến Ấn Độ dự cuộc đối thoại chiến lược hàng năm (VOA).
- Philippines : Tàu Mỹ bị mắc cạn tại Tubbataha là do lỗi của thủy thủ (RFI). “Tai nạn đau đớn này là hoàn toàn có thể tránh được, và sở dĩ nó xẩy ra là do việc xác định hải trình sai”.
- Nhật bầu Hội đồng thành phố Tokyo (RFI). “Kết quả của cuộc bỏ phiếu sẽ được nhìn nhận như một cuộc tổng diễn tập trước kỳ bầu cử Thượng viện cuối tháng 7. Thắng lợi trong cuộc bỏ phiếu tháng 7 mang tính quyết định đối với Thủ tướng Shinzo Abe, vì nếu giành chiến thắng, Thủ tướng Nhật có thể tiếp tục điều hành đất nước mà không gặp trở ngại”.
- Cử tri Albania đi bầu quốc hội (VOA).
- Tổng thống Palestine chấp nhận đơn từ chức của Thủ tướng (VOA). – Thủ tướng Palestine rút lại đơn từ chức (NĐT).
- Thế giới 24h: Xả súng đẫm máu ở Trung Quốc (VNN).
- Financial Times tiên đoán cho Obama tương lai của Gorbachev (Kichbu).
- Thùng thuốc súng Syria sắp được châm ngòi? (PN Today). - Hội nghị Thượng đỉnh G8: “Nóng” chiến sự Syria (DV). - Qatar C-17 đã chở 3 chuyến hàng vũ khí từ Libya tới biên giới Syria (GDVN).
- Snowden rời Hong Kong sang Nga (TP). - Mỹ cảnh cáo Nga “hậu quả nghiêm trọng” về vụ Snowden (KT). - Mỹ sẽ tìm mọi cách dẫn độ Snowden về nước (VOV). – Động thái mới nhất của Snowden: xin tị nạn tại Ecuador (TT).
- Washington cảnh báo rò rỉ phóng xạ (ANTĐ).
- Cựu Tổng thống Nelson Mandela đang nguy kịch (Tin tức).
- Khẩu chiến trong khói mù (ANTĐ). - Singapore, Indonesia căng thẳng vì khói bụi (TN).
* RFA: + Sáng 23-06-2013; + Tối 23-06-2013* RFI: 23-06-2013
* VTV: + Chào buổi sáng – 23/06/2013; + Nhịp đập 360 độ Thể thao – 23/06/2013; + Báo chí toàn cảnh – 23/06/2013; + Khoảnh khắc cuối tuần – 23/06/2013; + Cuộc sống thường ngày – 23/06/2013; + Toàn cảnh thế giới – 23/06/2013; + Dân hỏi Bộ trưởng trả lời – 23/06/2013; +Thời sự 12h – 23/06/2013; + Thời sự 19h – 23/06/2013.
Quyền lực
Lê Phan -Nguoiviet
Từ mấy tuần nay, hai
nền dân chủ của hai quốc gia đang lên đã đụng độ với chính dân chúng của
mình. Từ Thổ Nhĩ Kỳ ở bên lề Âu Châu đến Brazil ở Châu Mỹ La Tinh, các
lãnh tụ dân chủ, được người dân bầu lên, đã chứng kiến một sự phản đối
lan rộng của chính người dân mà họ đại diện. Và cả hai nơi đều đã chứng
minh quyền lực có thể làm hại đến mức nào.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, người dân xuống đường, nguyên thủy, để bảo vệ một trong những công viên hiếm hoi của thành phố Istanbul, công viên Gezi, khỏi bị xe bulldozer của Thủ Tướng Recep Tayyip Erdogan san bằng để xây dựng thêm một kiến trúc theo ý muốn của ông. Người dân xuống đường vì thủ tướng, đã chế ngự chính trị Thổ từ 11 năm nay, và vẫn được sự hưởng ứng của nửa nước Thổ bảo thủ và sùng đạo, đã bóp nghẹt đối lập. Dùng những thủ đoạn như luật thuế, ông Erdogan đã uy hiếp báo chí và đối lập để làm họ im tiếng.
Nhưng ông Erdogan quên mất là ông đang sống trong Thế kỷ 21. Khi đài CNN Thổ Nhĩ Kỳ sợ hãi không dám tường thuật về cuộc biểu tình ngay bên ngoài phòng tin của họ, chiếu phim về loài chim penguins, thanh niên Thổ đã dùng Twitter và Internet để thay thế lập nên một hệ thống tin tức độc lập. Khi các vị dân cử đối lập thu mình sợ sệt, thanh niên đã biến Công viên Gezi và Quảng trường Taksim thành một thứ quốc dân nghị viện và từ đó họ nay đã trở thành đối lập thực sự.
Và trong cái thế giới thông tin của thế kỷ này, những giới hạn cổ truyền đã bị san bằng. Những thanh niên xuống đường, những nhà trí thức đang đứng im lặng biểu tình phản đối, đã đòi hỏi một điều mà ông Erdogan đã quên mất kể từ ngày lên nắm quyền. Họ đòi chính quyền phải đối thoại với người dân, tham khảo ý kiến của dân, chứ không phải chỉ ngồi trên ra lệnh. Thủ tướng, sau hơn một thập niên cai trị đã quên mất phải làm gì khi có người từ chối tuân lệnh ông.
Hơn thế, ngày nay khi ông nói sai sự thật, ngay lập tức đã có đính chính. Khi ông Erdogan dở luận điệu bài ngoại, chỉ trích những kẻ “dạy đời” ông về sự đàn áp người dân, bảo là cuộc đàn áp phong trào chiếm đóng Wall Street đã làm cho 17 người thiệt mạng vì hơi cay, ngay lập tức Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Ankara tweet bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Thổ là không có ai chết vì hành động của cảnh sát trong các vụ chiếm đóng.
Ðiều đáng buồn là sự kiêu căng, độc đoán của ông đã làm hoen ố điều mà đáng lẽ là một thành tích lãnh đạo nổi bật. Ông và đảng Hồi Giáo quá khích của ông đã cải thiện hệ thống y tế, nâng lợi tức cá nhân, xây dựng hạ tầng cơ sở, cải thiện việc cai trị và đẩy được quân đội ra khỏi quyền lực. Nhưng thành công đã làm ông say men chiến thắng. Ông bắt đầu giới hạn quyền của người dân, buộc họ chỉ được uống rượu nơi nào và khi nào ông cho phép, và một phụ nữ chỉ được quyền có ba đứa con, đòi cấm phá thai, cấm việc sinh nở giải phẫu Caesarean, và ngay cả đến những phim truyện mà người dân được quyền xem. Hôm Thứ Hai, Nhật báo Zaman xuất bản cuộc thăm dò dư luận cho thấy 54.4% dân Thổ nói chính quyền đã can thiệp vào cuộc sống cá nhân.
Và thanh niên, lớn lên trong hình ảnh của các quảng trường ở Ai Cập, Tunisia, đã không còn sợ hãi nữa. Họ đã đổ xuống đường để bảo cho ông Erdogan biết là ông phải nhường bước. Một kỹ sư không gian bảo với một nhà báo Tây phương một câu thật chí lý “Họ đang tìm cách làm luật lệ về tôn giáo và ép mọi người phải theo. Dân chủ không phải chỉ là về những gì đa số muốn. Dân chủ còn là về những gì thiểu số muốn nữa. Dân chủ không phải chỉ là về bầu cử.”
Ở Brazil, mọi sự bắt đầu với những vé xe bus đã leo thang vì các lãnh tụ cũng đã mất liên hệ với dân chúng của mình.
Cách đây hơn một tuần, Ðô Trưởng Fernando Haddad của Sao Paulo đã không có mặt ở thành phố khi nó bùng nổ. Ông đang ở Paris để vận động tổ chức World Fair 2020, chính những biến cố quốc tế tốn kém và phi lý mà dân chúng của ông đòi hỏi chấm dứt. Tuần này, ông Haddad, 50 tuổi, đã trốn trong phòng của mình trong khi bên ngoài những người biểu tình đập bể cửa kiếng, tức giận vì ông đã từ chối không gặp họ chứ đừng nói nhượng bộ yêu cầu của họ, hủy việc tăng giá xe bus.
Ðiều đáng nói hơn nữa là ông Haddad đang được coi là một ngôi sao đang lên của đảng cầm quyền, người đang có những đồn đoán có thể là ứng cử viên tổng thống tương lai của đảng cánh hữu đã lên nắm quyền nhờ những cuộc biểu tình phản đối trước đây. Việc ông và toàn thể chính phủ và đảng cầm quyền không đọc đúng được sự bực tức của dân chúng đã chứng tỏ là giữa một chính phủ tự hào về những chính sách được hưởng ứng rộng rãi và một đa số ngày càng tăng trong dân chúng đã mất liên hệ.
Ðảng Công Nhân, lên cầm quyền nhờ đáp ứng ước vọng dân chủ của người dân, nay lại đang phải đối diện với một làn sóng chống đối khổng lồ vì dân chúng đã chứng kiến với ngày càng nhiều bất bình tham nhũng gia tăng, giáo dục, hạ tầng cơ sở, y tế ngày càng tệ hại trong khi chính phủ vẫn còn đuổi theo giấc mơ làm sao nâng cao vị thế của Brazil trên trường quốc tế qua việc đăng cai tổ chức World Cup 2014 và Thế Vận Hội 2016.
Sự thất vọng của dân chúng lộ rõ khi bên ngoài một sân vận động vừa mới xây nơi đang có cuộc đua vòng loại của Cúp Confederation, những người biểu tình mang biểu ngữ đòi trường học và bệnh viện “theo tiêu chuẩn FIFA”. Và càng lộ rõ hơn khi người biểu tình leo lên tòa nhà Quốc Hội để nhảy múa hô khẩu hiệu phản đối các vị dân cử bên trong là tham nhũng và hối mại quyền thế.
Với sự ủng hộ cho phong trào biểu tình ngày càng tăng, khi một cuộc thăm dò mới cho thấy 77% dân chúng Sao Paulo ủng hộ biểu tình, hai ông đô trưởng của Sao Paulo và đô trưởng của Rio de Janeiro thuộc đảng đối lập, thụt lùi rút lại việc tăng giá xe bus.
Nhưng giá xe bus chỉ là cái cớ để diễn tả sự bực tức ngày càng gia tăng của dân chúng. Và phản ứng mãnh liệt của họ đã làm chính phủ sửng sốt. Một phụ tá cao cấp của Tổng Thống Dilma Roussef đã phải công nhận là “Chúng ta không hiểu chuyện gì đang xảy ra.”
Vấn đề như Giáo Sư Marcos Nobre giải thích cho The New York Times “Ðảng Công Nhân nghĩ là họ đại diện cho mọi thành phần tiến bộ trong nước, nhưng họ đã nắm quyền một thập niên nay rồi. Họ đã làm được rất nhiều, nhưng nay họ thành cơ chế và thẩm quyền, không còn là của người dân nữa.”
Với tăng trưởng kinh tế vốn đã thúc đẩy tham vọng quốc tế của Brazil nay đang chậm hẳn lại và lạm phát, vốn đã là vấn nạn của nhiều thập niên cho đến giữa năm 1990, lại ngóc đầu lên lại tạo lo ngại cho người dân.
Nhưng hơn tất cả là điều mà các nhà chính trị học gọi là “cuộc cách mạng của những trông đợi ngày một gia tăng” (revolution of rising expectation). Nhờ chính phủ thành công giảm thiểu bất bình đẳng, nâng mức sống, số sinh viên đại học đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Thất nghiệp vẫn còn ở mức thấp kỷ lục, nhưng các sinh viên mới tốt nghiệp đòi hỏi không những công ăn việc làm mà còn công ăn việc làm tương xứng với học lực và kỳ vọng của họ, nhất là khi họ thấy các lãnh tụ chính trị ăn lương quá cao và tham nhũng tràn lan.
Sự cứng rắn của ông Erdogan ở Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tạo thêm bất mãn để rồi sẽ có ngày tức nước vỡ bờ. Sự nhượng bộ của các chính trị gia ở Brazil có lẽ quá trễ để làm dịu dư luận. Vấn đề là ở cả hai nơi, các chính trị gia dân chủ đã quên mất lắng nghe và đối thoại với dân mình.
Rồi những bài viết ca ngợi thành tựu của nền báo chí cách mạng, phản
bác những lời chỉ trích của thế giới về tình trạng không có tự do ngôn
luận, tự do báo chí ở Việt Nam.
Cứ như thể nghề báo thật sự được coi trọng, báo chí có thể làm đúng chức năng phản ánh sự thật, là quyền lực thứ tư trong xã hội.
Thực tế ai cũng biết trong một chế độ độc tài độc đảng như ở Việt Nam, báo chí chỉ là công cụ của nhà cầm quyền, hoạt động dưới sự quản lý và giám sát của Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam, và dưới sự định hướng của ban tuyên giáo trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam.
Do vậy, mặc dù ở Việt Nam có hơn 700 tờ báo in, 67 đài phát thanh-truyền hình trung ương và địa phương, 34 báo điện tử, hàng ngàn trang thông tin điện tử nhưng “chỉ có một tổng biên tập” mà thôi.
Việc phải luôn luôn viết trong tâm thế có thể bị bật đèn đỏ thổi phạt bất cứ lúc nào khiến các nhà báo dần dần có thói quen tự kiểm duyệt, tự biên tập, né tránh tất cả mọi đề tài bị nhà nước xếp vào loại “nhạy cảm”.
Bên cạnh đó, trong một môi trường mà đạo đức xã hội ngày càng tha hóa, đạo đức nghề nghiệp của nhiều nhà báo dường như cũng ngày càng xuống thấp.
Xã hội đã lắm ung nhọt, rác rưởi, nhưng chính một số nhà báo, bằng những bài viết vô lương tâm, vô trách nhiệm của mình, đã ném thêm rác vào đời sống tinh thần của người đọc.
Loại rác rưởi dễ thấy nhất là những bài báo “lá cải”, chạy theo những đề tài, yếu tố gợi dục, bạo lực để câu khách.
Trên một số trang tin, báo mạng và cả báo giấy, ngày nào cũng tràn ngập tin tức về các vụ “cướp, giết, hiếp” các kiểu, trong và ngoài nước. Vấn đề không chỉ nằm ở số lượng mà còn ở cách khai thác thông tin, từ cách giật tít nhằm câu khách cho đến nội dung đi sâu quá chi tiết vào những vụ án, nhất là án tình, hiếp dâm hoặc giết người man rợ.
Có những vụ án được báo chí khai thác liên tiếp hàng chục bài, từ lúc mới xảy ra cho đến khi bắt được hung thủ, ra tòa, kết án, thậm chí khi hung thủ đã vào trại giam một thời gian báo chí cũng xới lại.
Trong cách đưa tin của báo chí Việt Nam nhiều khi phải nói là rất thiếu lương tâm. Những vụ bán dâm, hiếp dâm, giết người, kẻ phạm tội bị phơi bày tên tuổi mặt mũi đã đành, còn nạn nhân, tuy cũng có để tên tắt, tên giả nhưng lại tiết lộ thông tin về quê quán, nhà cửa, nơi học, nơi làm việc… nên nếu bà con làng xóm, bạn bè quen biết với nạn nhân thì cũng dễ đoán ra.
Các nhà báo dường như không hề nghĩ đến chuyện nạn nhân hay kể cả người thân, con cái của kẻ thủ ác sẽ sống tiếp cuộc đời của họ ra sao.
Ðời tư của các nghệ sĩ, giới biểu diễn cũng là một đề tài được báo chí lá cải thường xuyên khai thác. Những thông tin kiểu ngồi lê đôi mách, dòm qua lỗ khóa, rồi nào những hình ảnh “lộ hàng”, khoe thân…
Thật ra dân chúng ở đâu trên thế giới thì cũng thích tìm hiểu những thông tin về giới nghệ sĩ, những người nổi tiếng, và báo chí lá cải ở đâu thì cũng rất biết cách khai thác đề tài này. Nhưng ở các nước dân chủ pháp trị, có luật pháp hẳn hoi, nếu báo chí đưa tin không đúng sự thật sẽ bị kiện ra tòa, có khi sập tiệm.
Vấn đề của Việt Nam là báo chí cứ tha hồ viết, một số người nhiều khi bị đưa tin không đúng hoặc bị xâm phạm đời tư quá đà cũng ít khi muốn kiện. Bởi vì cũng đã có vài vụ nghệ sĩ kiện báo chí nhưng rồi mất thời gian, mệt mỏi mà cũng chẳng đi đến đâu.
Ðó là chưa kể cứ đưa tin các người đẹp tậu xế hộp siêu sang, ở những ngôi nhà lộng lẫy, mặc những chiếc váy hàng hiệu đắt tiền, cặp bồ với các đại gia… là vô tình cổ xúy cho lối sống chạy theo vật chất, coi chuộng bề ngoài.
Nhưng đáng nói hơn là những bài viết có liên quan đến những nhân vật, những vụ án có yếu tố chính trị, chẳng những không khách quan mà còn xuyên tạc sự thật, bôi nhọ, vu khống đủ kiểu.
Từ những vụ biểu tình phản đối Trung Quốc cũng bị đài truyền hình nhà nước xuyên tạc thành gây rối trật tự công cộng, đi biểu tình vì nhận tiền của các thế lực thù địch xúi giục… cho đến những người yêu nước, bất đồng chính kiến.
Từ nhà văn Dương Thu Hương, Tướng Trần Ðộ, thượng tọa Thích Quảng Ðộ… trước kia cho đến Luật Sư Lê Thị Công Nhân, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, Luật Sư Lê Công Ðịnh, thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung, các blogger Ðiếu Cày, Anh Ba Sài Gòn, Công Lý và Sự Thật, sinh viên Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Ðinh Nguyên Kha… đều là nạn nhân của hệ thống báo chí truyền thông làm theo lệnh đảng.
Báo chí bôi nhọ đời tư, xuyên tạc mục đích đấu tranh của họ vì yêu nước, vì mong muốn Việt Nam sẽ thay đổi trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, thoát khỏi sự lạc hậu đói nghèo và nguy cơ xâm lược từ Trung Quốc. Trong khi họ hoàn toàn không có điều kiện để tranh luận, chứng minh ngược lại.
Mới đây nhất là vụ tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực để phản đối cách hành xử của một số cán bộ, giám thị trại giam số 5 Thanh Hóa. Sau nhiều ngày im lặng không đếm xỉa gì đến vụ tuyệt thực và yêu cầu của ông Vũ, khi thấy dư luận ngày càng căng, cộng với phong trào tuyệt thực đồng hành cùng Cù Huy Hà Vũ lan rộng trong và ngoài nước, nhà cầm quyền đã đối phó bằng cách cho báo chí, truyền hình đồng loạt đưa tin ông Vũ không hề tuyệt thực, vẫn béo khỏe.
Báo chí “lề dân” đã nhanh chóng vạch trần những điểm không thuyết phục, phi lý, chứng tỏ một sự cắt dán, xảo trá của những bài báo, clip nói trên. Nhưng những thông tin do báo, đài của nhà nước tung ra cũng làm cho một số người dân, ngay cả những người từng ủng hộ ông Vũ, hoang mang, nửa tin nửa ngờ.
Sự thật vẫn là sự thật. Cuối cùng lá thư của ông Cù Huy Hà Vũ tuyên bố kết thúc cuộc tuyệt thực sau 25 ngày, khi trại giam số 5 Bộ Công An buộc phải ra văn bản giải quyết đơn của ông đã chứng minh ông thật sự tuyệt thực.
Ông Cù Huy Hà Vũ cùng gia đình và những người ủng hộ đã hai lần chiến thắng nhà cầm quyền và cả mạng lưới truyền thông “lề đảng” hùng hậu. Lần thứ nhất, nhà cầm quyền định bôi nhọ ông bằng “2 bao cao su”, nhưng khi trò bẩn thỉu hèn hạ này bị vạch trần thì chính họ cũng phải đánh bài lờ, không nhắc đến trong phiên tòa xử ông Vũ. Và lần này, âm mưu bôi nhọ ông Vũ không tuyệt thực cũng đã thất bại.
Không hiểu những “nhà báo” và cả những ông tổng biên tập, giám đốc của những tờ báo, đài đã ra lệnh cho cấp dưới viết, làm những video clip xảo trá như vậy có khi nào cảm thấy tự xấu hổ, nhục nhã? Và đội ngũ những dư luận viên, blogger tay sai tư cách mạt hạng thi nhau bôi bác, cười cợt vụ tuyệt thực này nữa.
Thực tế, không phải nhà báo “lề đảng” nào cũng bán rẻ lương tâm. Vẫn còn đó những nhà báo có thực tâm thực tài, đau đáu với vận mệnh đất nước, với thực trạng xã hội nát bét và số phận còn quá thiệt thòi của dân tộc Việt Nam trong một thể chế chính trị lạc hậu, sai lầm như hiện nay.
Có những người trong số họ đã chấp nhận bỏ báo để làm người viết lách tự do, gia nhập hàng ngũ báo chí “lề dân”, hoặc nếu chưa thể bỏ nghề được vì miếng cơm manh áo thì cũng cẩn trọng với ngòi bút, hoặc chọn những cách viết khiến người đọc có thể hiểu được sự thật “giữa hai hàng chữ”.
Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ. Dù sớm dù muộn.
Nhân ngày Nhà Báo Việt Nam, chỉ muốn nhắn với tất cả những người mang danh nhà báo nhưng không có lương tâm nghề nghiệp, hoặc chấp nhận làm bồi bút cho nhà cầm quyền bôi nhọ những người yêu nước, kể cả những kẻ đến giờ này vẫn còn viết lách, làm phim tiếp tục xuyên tạc sự thật lịch sử, bưng bô cho chế độ… Rằng trong thời buổi công nghệ kỹ thuật tiên tiến này, không một bài báo, video clip, bộ phim… nào đã đưa ra có thể xóa sạch không dấu vết.
Nếu không còn biết xấu hổ là gì thì cũng nên biết sợ cho điều này và tương lai của chính mình.
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 20/6/2013
TTXVN (Angiê 19/6)
Trong khi cộng đồng quốc tế hướng về Xyri, thì Mỹ do ngày càng không muốn sa lầy một lần nữa ở Trung Đông, đã chuyển hướng sang châu Á-Thái Bình Dương. Trong cuộc gặp ngày 16/5 với Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan, Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định không muốn can thiệp quân sự vào Xyri. Đó có phải là lời thú nhận Mỹ rút khỏi Trung Đông không, hay do Mỹ không còn quan tâm đến khu vực này nữa?
Lý giải vấn đề này trên tạp chí “Đại Tây Dương”, ông Francois Géré, chuyên gia địa chiến lược, cho biết trong chiến lược, điều thận trọng đầu tiên trong những điều cần thận trọng là tránh bất kỳ một hành động hấp tấp nào. Điều này lại đặc biệt đúng trong một thời kỳ khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy (kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1929). Không nước nào có khả năng đánh giá được hậu quả xã hội ở nước mình và tác động chính trị của nó. Do vậy, cần đặt lập trường đó trong bối cảnh những tuyên bố mới đây của Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng John Kerry về tình hình kinh tế của nước Mỹ.
Một cường quốc muốn có được vai trò thủ lĩnh thế giới trước hết phải quan tâm đến nền tảng kinh tế của mình, thực trạng của nước mình, tăng trưởng của nước mình trong các lĩnh vực chủ chốt đóng vai trò quyết định đối với sức mạnh thực sự của mình về lâu dài. Mỹ bị tác động rất mạnh bởi Irắc và Ápganixtan và hiểu mình không được đưa quân đến đất Hồi giáo nữa. Vậy Mỹ phải tìm kiếm các đồng minh trong vùng có khả năng cung cấp lực lượng, cụ thể là trên thực địa. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, một thành tố của NATO, một quân đội từng cho thấy họ có năng lực ở Ápganixtan, là một đối tác hàng đầu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Oasinhtơn hoàn toàn không còn lợi ích ở Trung Đông lại càng không ở châu Âu.
Được hỏi các cường quốc nào có thể thay thế Mỹ ở Trung Đông và liệu đó có phải là mối đe dọa tiềm tàng đối với Ixraen không, chuyên gia Francois Géré đồng thời là chủ tịch sáng lập Viện phân tích chiến lược Pháp (IFAS), khẳng định Mỹ vẫn là nước không thể thay thế được về trung hạn, mặc dù trước mắt phải lui về phía sau một chút. Một khi các yếu tố tạo nên sức mạnh của Mỹ được điều chỉnh lại, cụ thể và đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền tin, sức mạnh của Mỹ sẽ lại được triển khai.
Trong khi chờ đợi, trước mắt, điều chỉnh chiến lược của Mỹ có thể diễn ra theo hai hướng ở Trung Đông.
Thứ nhất là các nước Arập nắm vận mệnh của mình trong tay. Điều không may là tình trạng không đồng nhất trong tình hình khiến công cuộc xây dựng một sự nghiệp chung là rất khó. Có quá nhiều sự chia rẽ về chính trị, lãnh thổ, sắc tộc và tôn giáo đang băm nhỏ vùng này. Cái được mất về năng lượng gây ra quá nhiều căng thẳng. Liên đoàn Arập luôn cho thấy họ không có khả năng vượt qua được những chia rẽ này.
Các nước giàu có nhất như Cata và Arập Xêút có thể đầu tư có lợi cho các nước nghèo hơn. Nhung tung tiền ra vẫn là chưa đủ, kể cả khi số tiền là rất lớn. Điều quan trọng là cần tạo ra một hình thức hỗ trợ đào tạo năng lực. Thế nhưng các nước này thậm chí không có cả khả năng tự mình giải quyết vấn đề này. Sự phát triển không chỉ giới hạn ở hạ tầng cơ sở: đường sá, sân bay, hải cảng… Hiện nay, cái cần được xây dựng chính là các xa lộ thông tin-truyền tin, cái cần được bảo đảm an toàn chính là không gian mạng. Sau khi đã bỏ lỡ cuộc Cách mạng công nghiệp, nguy cơ đối với Trung Đông có thể là bỏ lỡ cả kỷ nguyên phát triển mới. Đó là thông tin- truyền tin.
Con đường thứ hai dường như hứa hẹn hơn trong thời gian trước mắt. Các nước Trung Đông có thể thay thế các đối tác phương Tây của mình bằng các đối tác mới đến từ Thế giới mới vừa hoàn thành công cuộc phát triển của mình và được gọi là BRICS. Giữa các nước này lại không hề có tranh chấp lịch sử nào, cũng không hề có bất cứ mối nghi ngờ thực dân mới nào. Điều không may là các nước này lại không hề có động cơ tiến hành hoạt động ở đây và không có nhiều khả năng mang đến đây các yếu tố cần cho sự phát triển của khu vực này. Trung Quốc chỉ quan tâm đến năng lượng, Nga tìm cách khôi phục lại ảnh hưởng của Liên Xô, nhưng không ai biết lợi thế cụ thể mà Nga có thể có được từ đó là gì.
Như vậy, không thể dự báo mối đe dọa trực tiếp đối với Ixraen sẽ gia tăng. Trái lại, việc khẳng định một thế giới Arập bị thống trị bởi Arập Xêút, Cata và một số nước khác theo tư tưởng Hồi giáo cực đoan, sẽ là yếu tố lớn gây nguy hiểm. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Ixraen chấp nhận các phi vụ bán vũ khí của Mỹ cho Arập Xêút.
Việc ông Barack Obama tái đắc cử là dịp để xác định lại một cách rõ ràng hơn chính sách đối ngoại của Mỹ, từ nay sẽ hoàn toàn tập trung vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược được gọi là “xoay trục” sang châu Á đó liệu có phải là tái định hướng chiến lược thực sự không, hay chỉ là lời thú nhận suy yếu có nghĩa là Mỹ không thể cùng một lúc tham chiến trên nhiều mặt trận?
Theo chuyên gia Francois Géré, đồng thời là cộng tác viên của Viện nghiên cứu cao cấp quốc phòng (IHEDN), khái niệm “tái điều chỉnh” đúng hơn khiến người khác nghĩ ngay đến “tái cân bằng” mà ông gọi là “điều chỉnh chiến lược”. Điều đó không có nghĩa là Mỹ bỏ mặc châu Âu và Trung Đông để đầu tư mạnh tay vào châu Á. Do khối lượng trao đổi thương mại và đầu tư trực, tiếp quá lớn nên sẽ là vô lý nếu nghĩ rằng châu Âu, kể cả khi bị suy yếu lâu dài, không còn là bộ mặt thịnh vượng của nền kinh tế Mỹ nữa. Còn Trung Đông cũng sẽ chứng kiến một sự điều chỉnh, nhưng cần có thời gian và sẽ dẫn đến nhiều biến đổi.
Điều quan trọng là cần thận trọng đối với những thông báo ồn ào nhìn chung chỉ nhắm đến Quốc hội Mỹ để biện minh cho chi phí và tránh bị phê phán đối với lợi ích của một số nước và một số tổ hợp công nghiệp lớn. Như vậy, sẽ là quá sớm nếu nói rằng chiến lược của Mỹ là “hoàn toàn” tập trung vào châu Á. Những “chiến lược lớn” dài hạn đó trở nên mong manh ở các nước dân chủ, nơi yếu tố ngắn hạn có xu hướng lấn át tất cả.
Trả lời câu hỏi mối đe dọa Trung Quốc liệu có phải là yếu tố duy nhất khiến Mỹ áp dụng chính sách kiên quyết hướng sang châu Á hay không, chuyên gia Francois Géré, Giám đốc nghiên cứu thuộc trường Đại học Pari III (Pháp), khẳng định chắc chắn là không. Khái niệm “xoay” được một số người am hiểu văn hóa địa chiến lược đưa ra. Họ tìm đến lý thuyết gia về “xoay”, được biết đến rất ít ở Pháp, Mac Kinder, người đưa ra một luận thuyết vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Luận thuyết đó là nguồn cảm hứng giúp Tổng thống Truman soạn thảo chiến lược kiềm chế đối với Liên Xô.
Việc thuật ngữ này được sử dụng trở lại ngay lập tức được Trung Quốc coi là một chiến lược thù địch với mình. Thực tế một phần đúng là như vậy. Nói vậy, nhưng mục tiêu lớn của Mỹ vẫn là tăng cường vị thế của Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương mà họ xem là thị trường năng động và hứa hẹn nhất đối với lợi ích kinh tế của Mỹ. Thị trường Trung Quốc thực sự là đối tác hấp dẫn nhất. Hơn nữa, thông qua “trái phiếu Kho bạc Mỹ”. Trung Quốc đã đứng chân được vào nền kinh tế Mỹ, từ đó tạo ra mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nước và giải thích tại sao họ quan tâm đến tỷ giá giữa các đồng ngoại tệ.
Thế giới nhận thấy ràng một cuộc tranh giành quyết liệt đang diễn ra để có được tiền nhằm phát triển không gian mạng. Lầu Năm Góc muốn mình cũng có phần trong đó. Và người ta tung ra mối đe dọa Trung Quốc như một con ngoáo ộp để biện minh cho những đòi hỏi về tiền.
Tổng thông Obama trở lại với những nguyên lý trong chính sách đối ngoại của Bill Clinton khi nói với Georse Bush cha: “Thật ngu ngốc, đó là kinh tế!” Chắc chắn đó không phải là chủ nghĩa biệt lập, mà trái lại là quyết tâm giới hạn sức mạnh quân sự ở thực tế nhu cầu an ninh quốc gia.
Tóm lại, chiến lược đó không quá khác với định hướng chiến lược vĩ mô được Chủ tịch Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979: trước hết vẫn là kinh tế, tiếp đó mới đến quân đội. Về ngắn hạn, quân đội sẽ được hưởng thành quả của tăng trướng. Đó là những gì đang diễn ra hiện nay, từ đó giải thích mối lo ngại trước việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự. Nhưng ở đây Mỹ cũng đang phải đối mặt với một vấn đề mang tính cơ cấu: đó là tầm quan trọng quá mức của tổ hợp quân sự-công nghiệp trong nền kinh tế Mỹ rốt cuộc tạo ra gánh nặng cho khả năng nghiên cứu trong các lĩnh vực hàng đầu hay đưa các lĩnh vực đó trở lại với những mục tiêu quân sự thuần túy không mang lại cái gì.
Về khả năng Mỹ có thể mất đi vị thế “sen đầm thế giới” để chỉ là “sen đầm khu vực”, chuyên gia Francois Géré cho rằng sen đầm thế giới đã chết ở Irắc và Ápganixtan rồi. Ý tưởng về một thế giới đơn cực cũng đã bị triệt tiêu rồi. Giống như “kết cục của lịch sử” và sự lên ngôi toàn cầu của nền dân chủ phiên bản Mỹ như phái tân bảo thủ từng mơ ước và không may đã không thành (nếu căn cứ vào số người chết). Mỹ đã bước vào một giai đoạn điều chỉnh chiến lược trên diện rộng. Tất cả các cường quốc thế giới hay khu vực cũng vậy, và điều cơ bản là các thể chế quốc tế (Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới…) đều có sứ mệnh phải điều hòa thị trường.
Chừng nào cuộc khủng hoảng còn chưa chấm dứt, chừng nào hệ quả xã hội của cuộc khủng hoảng đó còn chưa hết, thế giới vẫn sẽ phải sống trên một ngọn núi lửa đang phun trào. Chính phủ các nước và các thể chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế vẫn sẽ phải hy vọng. Họ cần liên tục điều chỉnh các biện pháp của mình để tránh nổ ra các cuộc cách mạng xã hội, đặc biệt là ở châu Âu, nhưng cũng để làm giảm hệ quả gián tiếp ở Trung Đông./.
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 20/6/2013
TTXVN (Niu Yoóc 19/6)
Tờ “As-Sharki Al-Ausat” (Trung Đông) vừa có bài viết đề cập việc Mỹ lợi dụng các cuộc chiến chống khủng bố để vi phạm nhân quyền và bảo vệ những lợi ích chiến lược sâu xa của họ. Nội dung như sau:
Trong khi Chính phủ của Tổng thống Barack Obama vừa bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình với vô số lời tán dương về những triển vọng của hành động theo xu hướng tiến bộ, thì các sự kiện diễn ra gần đây một lần nữa đã chứng tỏ rõ ràng rằng vị tổng thống thuộc đảng Dân chủ vẫn tiếp tục các hành động tội ác đối với con người của người tiền nhiệm và thậm chí còn tồi tệ hơn thế nữa.
Trong suốt 4 năm của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, ông Obama và Bộ trưởng Tư pháp Eric Holder đã hành động để chấm dứt tất cả các cuộc điều tra về các vụ tra tấn mà CIA đã thực hiện và về những tội ác khác được thực hiện nhân danh “cuộc chiến chống khủng bố”. Họ đã can thiệp vào hết vụ việc này đến vụ việc khác để làm thất bại những lời chỉ trích, tố cáo các hành động của họ là đã bắt cóc và tra tấn bất hợp pháp hàng nghìn người. Nhân danh bí mật quốc gia, họ đã thẳng thừng bác bỏ những yêu cầu hợp pháp đòi công khai những thông tin về các tội ác này. Kết quả của chính sách này là những kẻ tra tấn và nhũng kẻ đã ra lệnh, từ những nhân viên thẩm vấn của CIA cho đến Nhà Trắng, đều được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn. Tuy nhiên, theo một bài báo của tờ Washington Post số ra gần đây, các hành động này của Nhà Trắng dưới thời Obama không chỉ nhằm mục đích che giấu và miễn trừ các tội ác trong quá khứ, mà có thể còn khiển cho các hành động này tiếp diễn ở mức trầm trọng hơn.
Tờ Washington Post đưa tin về số phận của 3 người – trong đó có 2 công dân Thụy Điển và 1 công dân Anh, tất cả đều là người gốc Xômali – đã bị bắt trong chuyến đi của họ tới nước Gibuti nhỏ bé ở miền Đông châu Phi và đang bị giam giữ, bị các nhân viên thuộc cơ quan tình báo Mỹ chất vấn liên tục trong nhiều tháng. Những người này bị CIA buộc tội ủng hộ Al- Shabab (Tuổi trẻ) – tổ chức dân quân Hồi giáo đã kiểm soát nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam Xômali. Dù tổ chức này không dính líu gì đến một cuộc tấn công nào chống Mỹ, nhưng nó vẫn bị Mỹ coi là tổ chức khủng bố nước ngoài và CIA đã treo giải thưởng đắt giá để bắt các thủ lĩnh của Al- Shabab. Đằng sau quyết định này là âm mưu của Chính phủ Mỹ muốn lợi dụng cái cớ “cuộc chiến chống khủng bố” để siết chặt sự kiểm soát của Mỹ đối với Xômali, một vùng lãnh thổ mang tính chiến lược, nơi có eo biển Bab al-Mandab và là cửa ngõ tuyến đường hàng hải từ Ấn Độ Dương tới Địa Trung Hải, nơi phần lớn lượng dầu lửa thương mại của thế giới vận chuyển bằng đường biển phải đi qua. Bị bắt hồi tháng 8/2012, mãi đến ngày 21/2012 ba người này mới được đưa ra trước tòa án Liên bang. Tờ báo trên còn dẫn ra một vụ khác, xảy ra vào năm 2011, khi một người mang quốc tịch Êritơria, mạo xung là thành viên của AI – Shabab, bị bắt rồi bị đưa tới một nhà tù của Nigiêria để người Mỹ hỏi cung. Nhân vật này đã phải chịu những phương pháp hỏi cung bất hợp pháp, và bị bức cung trước một tòa án của Mỹ, không được tiếp xúc với bên ngoài, bị tra tấn, không được chăm sóc y tế. Tất cả là nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để “làm mệt mỏi” tù nhân. Dưới thời Bush như vậy, và dưới thời Obama vẫn như vậy.
Để đề cử người vào vị trí giám đốc CIA thay tướng David Petraeus do vụ bê bối tình ái, trong một lần xuất hiện trên truyền hình ở căn phòng phía Đông của Nhà Trắng, Tổng thống Obama đã nói: “Ông ấy (John Brennan) đã làm việc nỗ lực trong một khuôn khổ pháp lý vững chắc. Ông hiểu rằng chúng ta là một dân tộc pháp quyền. Trong thời gian diễn ra các cuộc tranh luận và đưa ra những quyết định, ông đã đặt ra nhũng câu hỏi khó và nhấn mạnh đến việc tôn trọng các chuẩn mực cao và ông là con người rất nghiêm túc”. Tổng thống Obama đã miêu tả như thế về người mà ông đã lựa chọn vào chức Giám đốc CIA, John Brennan, hiện đang là cố vấn an ninh nội địa và chống khủng bố. Ông cũng đã ca ngợi sự liêm khiết của ông Brennan và những cam kết của nhân vật này về những giá trị của nước Mỹ.
Đây là lần thứ hai Tổng thống Obama muốn tiến cử ông Brennan, người có 25 năm phục vụ trong CIA, làm người đứng đầu cơ quan này. Tuy nhiên, sau khi nhậm chức vào năm 2009, Tổng thống thuộc đảng Dân chủ mới được bầu đã phải từ bỏ việc bổ nhiệm Brennan giữ chức đứng đầu CIA trước cơn bão phản đối từ những người có tư tưởng tự do và những người thuộc cánh tả ở trong nước và cả một số người trong đảng Dân chủ nữa. Vì đã phục vụ trong suốt nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Bush với chức vụ trương êkíp của George Tenet, khi đó là giám đốc CIA và Trung tâm chống khủng bố quốc gia, Brennan đã dính líu nhiều vào việc hành hình và bảo vệ các tội ác được tiến hành trong suốt thời kỳ này, từ tra tấn đến hỏi cung và theo dõi bất hợp pháp các công dân.
Mâu thuẫn giữa việc bổ nhiệm Brennan, biểu tượng cho sự tiếp tục “cuộc chiến chống khủng bố” của cựu tổng thống Bush, và bức thông điệp trong chiến dịch vận động tranh cử của ông Obama hồi năm 2008 về “niềm hy vọng và sự thay đổi” cũng như lời hứa của ông về một sự đoạn tuyệt với các chính sách tồi tệ của người tiền nhiệm, khi đó là quá lớn. Giờ đây, 4 năm sau, việc bổ nhiệm Brennan hầu như không gây ra ít tranh luận trong số những điều đang diễn ra đối với các phương tiện thông tin đại chúng có tư tưởng tự do.
Một phản ứng tượng trưng thể hiện trên tờ New York Times với bài viết về việc Tổng thống Obama bổ nhiệm Brennan làm người đứng đầu CIA và cựu thượng nghị sĩ thuộc đảng Cộng hòa Chuck Hagel làm Bộ trưởng Quốc phòng. Một nửa bài viết này đã dành để nói về những mối lo ngại liên quan đến những quan niệm về các quyền đồng tính của Hagel, còn đối với Brennan, thì đó là những mối lo ngại liên quan tới việc ông dính líu đến việc tra tấn, sát hại bằng máy bay do thám không người lái và các tội ác khác. Việc quyết tâm bổ nhiệm ông Brennan đã được tạo thuận lợi bởi Chính quyền Obama bảo vệ tất cả các nhà lãnh đạo thực hiện việc tra tấn và các tội ác chiến tranh khác đã phục vụ dưới thời cựu Tổng thống Bush. Đằng sau tuyên bố: “chúng ta hãy nhìn về phía trước chứ đừng nhìn lại đằng sau”, Tổng thống Obama và ngành Tư pháp Mỹ đã làm thất bại tất cả các vụ xét xử nhằm vào những kẻ thực hiện việc tra tấn của CIA, hoặc những kẻ đã giám sát các hoạt động của họ cho đến thời Bush. Họ thậm chí đã can thiệp, hết vụ này đến vụ khác, để phong tỏa các hành động tư pháp đòi bồi thường hoặc thậm chí chỉ là những thông tin về các tội ác này.
Những tội ác của Nhà Trắng dưới thời Obama đã che khuất những tội ác đã được tiến hành dưới thời Bush, và Brennan là trung tâm của điều đó. Hoạt động của các máy bay do thám không người lái mà ông này là người có liên quan, trên thực tế đã khủng bố những người dân thường, nhất là ở Pakixtan, Yêmen, Xômali và những nơi khác mà Mỹ tiến hành các hoạt động “chống khủng bố”. Ngoài ra, Brennan là người ủng hộ chính trong chính phủ việc Tổng thống Obama cho phép ra lệnh thực hiện các cuộc hành hình mà không cần tố cáo một tội ác nào, càng không cần chứng minh những lời tố cáo trước tòa. Sau khi ông Obama tái đắc cử vào năm 2012, người ta nghĩ tới khả năng sẽ có một chính sách “tiến bộ” hơn trong nhiệm kỳ hai của ông. Nhưng đến lúc này đã có những dấu hiệu cho thấy trong nhiệm kỳ hai này, ông Obama sẽ tiếp tục phải tuân theo một lịch trình chính trị do nhóm tài phiệt Mỹ cũng như bộ máy quân sự và cơ quan tình báo Mỹ chỉ đạo.
Tăng cường AFRICOM để bảo vệ lợi ích chiến lược ở châu Phi
Quân đội Mỹ đã thông báo sẽ triển khai một lữ đoàn đến châu Phi để tiến hành các hoạt động liên tục tại đây. Theo hãng tin AP, hành động này nằm trong một nỗ lực đang được tăng cường của Lầu Năm Góc đưa đất nước vào cuộc chiến chống các phần tử cực đoan và mở đường cho Mỹ có một lực lượng sẵn sàng tới châu Phi bất cứ lúc nào nếu các cuộc khủng hoảng ở đó cần phải có mặt quân đội Mỹ. Lữ đoàn thứ hai, sư đoàn bộ binh đầu tiên, được biết đến dưới cái tên “Lữ đoàn dao găm”, gồm khoảng 3.500 binh sĩ, được chỉ định để chuyên phục vụ những lợi ích của Mỹ ở châu Phi. Theo Lầu Năm Góc, 104 sứ mệnh riêng rẽ của các nhóm quân này, bắt đầu vào tháng 3, đã được lên kế hoạch. Việc triển khai các đơn vị từ các nhóm nhỏ đến các tiểu đoàn gồm 800 người đã được lên kế hoạch tại 35 nước ở khắp châu Phi. Việc triển khai lữ đoàn mới này chỉ là một phần nỗ lực để tăng cường cho Bộ Tư lệnh châu Phi (AFRICOM) của Lầu Năm Góc, được thành lập năm 2007. Tuy nhiên, cho đến nay, không một chính phủ châu Phi nào sẵn sàng cung cấp cho tổ chức này một căn cứ hoạt động tại châu lục này.
Việc tăng cường AFRICOM nằm trong một chiến lược quân sự mới của Mỹ được biết đến dưới cái tên “Các lực lượng liên minh khu vực” mà Lầu Năm Góc quyết tâm thực hiện trong khi họ vẫn tiếp tục rút quân khỏi Ápganixtan, sau khi buộc phải rút quân khỏi Irắc. Nói cách khác, tất cả các hoạt động quân sự của Mỹ, từ cứu trợ cho đến “viện trợ nhân đạo”, hay huấn luyện các lực lượng châu Phi, đều được sử dụng làm phương tiện để chuẩn bị thực địa cho một cuộc can thiệp trực tiếp bằng quân sự của Mỹ vào châu Phi bất cứ lúc nào, nếu tình hình đòi hỏi. Hồi năm 2007, J. Peter Pham, một cố vấn ở Bộ Ngoại giao và từng là một thành viên trong hội đồng tư vấn của AFRICOM, đã xác nhận sứ mệnh trọng tâm của bộ tư lệnh mới này. Ông đã mô tả sứ mệnh này bằng những từ ngữ trực tiếp nhất khi nói rằng đó là nhằm bảo vệ việc tiếp cận dầu lửa và các nguồn tài nguyên chiến lược khác mà châu Phi có trữ lượng dồi dào, bảo vệ mình (Mỹ) trước tính dễ bị tổn thương của các nguồn tài nguyên thiên nhiên này và làm thế nào để không một bên thứ ba nào liên quan, như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản hoặc Nga, có được độc quyền hoặc được đối xử ưu đãi hơn (Mỹ). Trong một chiều hướng rất cụ thể, việc xây dựng AFRICOM mạnh mẽ hơn cũng nằm trong chiến lược của Chính quyền Obama hướng tới châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ đã tìm cách sử dụng sự bao vây quân sự như một phương tiện để chống lại sự chi phối về kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc đối với khu vực chủ chốt này cũng như mối đe dọa ngày càng lớn của Trung Quốc đối với thế giới nói chung. Theo cách như vậy, ở châu Phi, Mỹ đang tìm cách sử dụng lực lượng quân sự của mình đế chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại châu lục này.
Trung Quốc đã vượt qua Mỹ cũng như Liên minh châu Âu với tư cách là đối tác thương mại số một của châu Phi. Thương mại song phương, lên tới 11 tỷ USD vào năm 2000, đã đạt 160 tỷ USD vào năm 2011 và khoảng 200 tỷ USD trong năm 2012. Trong số các dự báo có việc Mỹ sẽ phụ thuộc vào 25% nhập khẩu dầu lửa của Tây Phi, đấy là chưa kể đến tất cả các khoáng sản chiến lược và các nguyên liệu khác, vì vậy, cuộc cạnh tranh với Trung Quốc cũng như với các đối thủ kinh tế ở châu Âu trên thực tế đã dẫn đến một sự đổ xô mới tới châu Phi, cũng gay gắt và khẩn cấp như cuộc chinh phục thực dân đầu tiên. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho những hành động này của Mỹ ở châu Phi luôn được diễn ra dưới cái cớ là “Cuộc chiến chống khủng bố” và mối đe dọa của “chủ nghĩa cực đoan” đối với châu Phi.
Chỉ huy AFRICOM, Tướng Carter Ham, từng khẳng định rằng các nhóm tạp nham, từ mạng lưới Al Qaeda ở các nước thuộc khu vực Bắc Phi Hồi giáo ở Mali và Libi cho đến nhóm Al-Shabab ở Xômali và nhóm Boko Haram ở Nigiêria, đều đe dọa sẽ liên kết với nhau, phối hợp các hoạt động của chúng, điều này đang đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với lợi ích của Mỹ ở bên ngoài, thậm chí cả trong lãnh thổ của Mỹ. Mới đây, tờ Wall Street Journal đã đưa ra lý lẽ như vậy trong một bài báo mang tên “Cuộc chiến chống khủng bố đang hướng tới châu Phi”. Theo bài báo, Chính quyền Obama đang dự định yêu cầu Quốc hội Mỹ phê chuẩn quyền lực ngày càng tăng cho CIA và quân đội đế tiến hành các hoạt động quân sự chống khủng bố ở châu Phi. Một sự cho phép sử dụng vũ lực nhiều hơn, rộng rãi hơn đã từng làm cơ sở cho việc phát động cuộc chiến tranh ở Irắc và Ápganixtan. Và, nếu có được sự cho phép mới, bộ máy chiến tranh của Mỹ sẽ thỏa sức hoạt động tại Mali, Nigiêria, Libi và có thể tại các nước khác nữa ở châu Phi.
Các sự kiện ở Xyri, cũng như cuộc chiến tranh ở Libi trước đó, đã cho thấy rõ “Cuộc chiến chống khủng bố” của Mỹ là một sự dối trá trơ trẽn. Mỹ đã trở lại điểm xuất phát trong việc ủng hộ mạng lưới Al Qaeda, tổ chức khủng bố Hồi giáo mà ban đầu Mỹ đã khuyến khích làm cho chế độ thân Liên Xô ở Ápganixtan sụp đổ trong những năm 1980, khi Osama Bin Laden hợp tác mật thiết với CIA. Trong khi vẫn khẳng định đấu tranh chống khủng bố, Mỹ lại đang ủng hộ một cuộc chiến tranh khủng bố ở Xyri với các vụ khủng bố liều chết, các vụ đánh bom xe trong các khu dân cư. Và ai cũng biết những lời khẳng định trước đây của Mỹ về các cuộc chiến tranh ở Ápganixtan và Irắc là nhằm loại bỏ Al-Qaeda bản thân nó đã là những lời dối trá. Tại Ápganixtan, quân đội Mỹ và CIA đều đã từng, hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm thừa nhận rằng thực tế không hề có sự có mặt của AI Qaeda và ở Irắc, Mỹ đã can thiệp để làm sụp đổ một chế độ thế tục, một kẻ thù lớn của khủng bố Hồi giáo, có nghĩa là Mỹ đã giúp sức cho quân khủng bố bằng cách loại bỏ hộ chúng một kẻ thù. Các cuộc chiến tranh tại hai nước này, cũng như cuộc can thiệp quân sự cách đây chưa lâu ở Libi và nay là gián tiếp can thiệp vào Xyri, trên thực tế là đều để phục vụ âm mưu thiết lập sự bá quyền của Mỹ tại khu Vực Trung Á và vùng Vịnh Pécxích, nơi có tầm quan trọng chiến lược sống còn đối với nền kinh tế Mỹ, và là nơi bảo đảm nguồn năng lượng quan trọng nhất cho Mỹ.
Bằng cách lợi dụng cái cớ chống Ai Qaeda và các tổ chức khủng bố có liên quan, để Mỹ rộng đường can thiệp quân sự vào nơi này, nơi kia, nhưng, như trên đã nói, trên thực tế Mỹ lại đã và đang vũ trang và ủng hộ trực tiếp các nhóm có quan hệ thực sự với Al – Qaeda, trước tiên là ở Libi và hiện nay là ở Xyri. Gần đây nhất, sau khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc cho phép tiến hành một sự can thiệp của nước ngoài vào Mali, thì nơi đây đã trở thành mục tiêu rất quan trọng của Mỹ tại châu Phi. Nhưng, thật vô ích khi Mỹ coi mình là người cứu vớt Mali, vì tình hình rối ren, đói kém ở đất nước vùng Tây Phi này chính là hậu quả xuất phát từ chính sách của Mỹ trong vùng này. Chính cuộc xâm lược của Mỹ ở Libi là nguyên nhân khiến các lực lượng vũ trang cực đoan kéo tới Mali và chính quân đội Mỹ đã đào tạo Đại úy Amadou Haya Sanogo, người lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của nước này hồi tháng 3 năm 2012, dẫn đến cuộc chiến hiện nay ở đất nước này. Lầu Năm Góc đã huấn luyện nhân vật này tại các căn cứ quân sự của Mỹ ở George, ở Virginia và ở Texas.
Dựa trên những gì người Mỹ đã làm với châu Phi, người ta có cơ sở để lo ngại rằng sự phát triển hiện nay của AFRICOM và việc chuẩn bị các cuộc chiến tranh mới tại châu Phi cho thấy các cuộc can thiệp ở Libi và Xyri chỉ là khúc dạo đầu cho những cuộc tấn công lớn hơn nhiều trong tương lai trên thế giới, không nhằm cái gì khác ngoài việc phân chia lại lợi ích và tái thực dân hóa nhiều vùng rộng lớn của thế giới này.
Theo bài viết của tác giả Wayne Madsen đăng trên mạng tin “Toàn cầu hóa”: về mặt danh nghĩa, Mỹ thiết lập tại Nigiê một căn cứ máy bay không người lái chống tổ chức khủng bố Al Qaeda và các chiến binh Hồi giáo khác ở nước láng giềng Mali, nhưng trên thực tế nhằm thiết lập sự kiểm soát của Mỹ đối với urani và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác của Nigiê và đàn áp dân tộc thiểu số Tuareg trong việc đấu tranh đòi quyền tự chủ giống như thế hệ cha ông của họ ở miền Bắc Mali và Angiêri.
Căn cứ máy bay không người lái mới đầu được đặt tại thủ đô Niamây và sau đó sẽ được chuyển đến một vị trí tiền phương của chiến dịch, dự kiến được đặt tại Agadez, trung tâm của người Tuareg Nigiê… Căn cứ được thành lập để đối phó với các nhóm Hồi giáo khác nhau, bao gồm cả Ansar Dine, al-Qaeda ở Bắc Phi (AQIM), Boko Haram của Nigiêria và một nhóm mới, Phong trào Độc tôn và thánh chiến ở Tây Phi (MUJAO). MUJAO đã nắm quyền kiểm soát một thời gian ngắn ở miền Bắc Mali của người Tuareg đặt dưới sự lãnh đạo của Phong trào Dân tộc Giải phóng Azawad (MNLA), phong trào này đã lợi dụng một cuộc đảo chính ở Mali, để thiết lập một nhà nước Tuareg độc lập, gọi là Azawad.
Từ lâu Mỹ đã phản đối bất kỳ nỗ lực nào của người Tuareg để thiết lập một nhà nước độc lập riêng của họ tại sa mạc Xahara. Sự phản đối của Mỹ đi đôi với sự chống đối của Pháp trong lịch sử dân tộc của người Tuareg. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ và nhân viên Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã thảo luận về sự hiện diện của Mỹ ở Nigiê kể từ ngày 25/2/2010, khi một phái đoàn Mỹ gặp gỡ với Chủ tịch Hội đồng tối cao vì sự phục hồi dân chủ (CSRD), Tướng Souleyman Salou, đúng một tuần sau khi chính quyền quân sự tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Mamadou Tandja được bầu lên một cách dân chủ. Theo một kênh thông tin của Bộ Ngoại giao Mỹ bị rò rỉ từ Đại sứ quán Mỹ tại Niamây: Eric Whitaker, đại biện lâm thời Sứ quán Mỹ tại Nigiê đã gặp Tướng Souleyman Salou và Đại tá Moussa Gros, cố vấn quân sự cao cấp của CSRD, trong một phiên họp tràn đầy lời khen ngợi Salou và nhấn mạnh “tình hữu nghị giữa hai nước”. Salou cũng nói với các sứ giả Mỹ: “CSRD sẽ tiếp tục thông tin liên lạc song phương thông qua Tổng cục Tài liệu và an ninh đối ngoại (Cơ quan tình báo Nigiê – DGDSE)”. Ông nhấn mạnh rằng CSRD đã tìm cách hợp tác với Oasinhtơn trong các lĩnh vực hỗ trợ bảo mật, cuộc chiến chống al-Qaeda, và hỗ trợ cho chế độ. Mặc dù Mỹ có chính sách không công nhận các chính phủ giành quyền lực bằng đảo chính quân sự và vũ lực, nhưng Oasinhtơn đã nhanh chóng nắm lấy Chính quyền Nigiê giống như Mỹ đã từng hỗ trợ chính quyền quân sự ở Ônđurát và Paragoay thông qua CIA cài cắm ở hai nước này.
Tướng Salou mỉm cười khi nói rằng ông hiểu rõ Mỹ không ủng hộ cuộc đảo chính quân sự và khủng hoảng chính quyền. Rõ ràng, Salou là một bí mật nhỏ của Chính phủ Mỹ. Trong khi công khai phản đối, Oasinhtơn đã hỗ trợ một cuộc đảo chính ở Ônđurát, Paragoay, Libi, Xyri, và các nước khác. Theo thông tin bị rò rỉ từ Niamây, lý lịch tóm tắt của Salou đề cập nhiều tới việc đào tạo của mình tại Mỹ: “Chuẩn Tướng Salou đã từng là Tham mưu trưởng của Lực lượng không quân Nigiê, ít nhất là từ 2003. Ông tốt nghiệp Trường Đào tạo Tham mưu của Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ và được đánh giá là cực kỳ thân Mỹ… Đại tá Gros, trước khi đảm nhận vai trò cố vấn cho Chủ tịch của CSRD, là một cố vấn quân sự của Thủ tướng Nigiê cũng được đánh giá là thân Mỹ. Một trong những người con của ông đã theo học tại Mỹ và được báo cáo đã có một thời gian ngắn làm việc như một tùy viên quân sự tại Oasinhtơn vào năm 1987”.
Là một nước nghèo ở châu Phi, Nigiê chỉ có tầm quan trọng đối với Mỹ khi nước này được sử dụng như một con tốt trong vấn đề an ninh quốc tế rộng lớn hơn. Chính quyền George w. Bush trước đây đã sử dụng Nigiê như một lý do để biện minh cho cuộc xâm lược và chiếm đóng Irắc khi cáo buộc Tổng thống Saddam Hussein có âm mưu đoạt chiếc “bánh vàng” urani của Nigiê. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng đó là sự giả mạo các tài liệu của Chính phủ Nigiê về sự liên hệ về urani giữa Nigiê với Irắc do Tướng Nicolo Pollari, Giám đốc cơ quan tình báo Italia (SISMI) cung cấp cho Nhà Trắng theo lệnh của Thủ tướng Italia khi đó là Silvio Berlusconi.
Ngoài việc sử dụng urani của Nigiê là một nguyên nhân cho sự can thiệp vào nước này, Lầu Năm Góc và CIA còn để mắt tới các tài nguyên khoáng sản khác như nguồn dầu mỏ của Nigiê. Những người chống lại kế hoạch của các công ty phương Tây khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Nigiê đã phải trả giá bằng mạng sống của họ. Năm 1995, thủ lĩnh Mano Dayak, người Tuareg Nigiê đã bị sát hại trong một vụ tai nạn máy bay đáng ngờ ở phía Bắc Nigiê. Dayak đã tham gia các cuộc đàm phán hòa bình với chính phủ trung ương Nigiê và khi trên đường đến thủ đô Niamây, chiếc máy bay chở ông đã bị rơi ngay sau khi cất cánh. Tuy nhiên, chính phủ tự trị của người Tuareg ở miền Bắc Nigiê đe dọa làm hỏng kế hoạch của tập đoàn Exxon Mobil và công ty dầu khí khác của Mỹ trong việc khai thác dầu mỏ xung quanh Hồ Sát, dọc theo biên giới Sát-Nigiê. Nhiều người Tuareg tin rằng máy bay chở ông Dayak bị CIA phá hoại. Thật mỉa mai, vị trí của căn cứ máy bay không người lái của Mỹ trong tương lai ở Agadez, miền Bắc Nigiê, do các sĩ quan CIA và các nhân viên của lực lượng đặc biệt Mỹ hoàn thiện, sẽ là tại Sân bay Quốc tế Mano Dayak, được đặt tên của nhà lãnh đạo Tuareg tử vì đạo.
Sự hiện diện quân sự của Oasinhtơn khu vực Sahel đã tồn tại ít nhất hai thập niên. Cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ bắt đầu tuyển dụng những người có ảnh hưởng nhất trong đội quân 400 binh sĩ mà Nigiê đã gửi đi chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ chống lại lực lượng của Tổng thống Irắc Saddam Hussein trong chiến dịch “Bão táp Sa mạc”. Dưới chương trình Đối tác chống khủng bố xuyên Xahara (TSCTP) và với sự hỗ trợ của Bộ Tư lệnh tại châu Phi (AFRICOM), Mỹ đã bơm hàng trăm triệu USD hỗ trợ an ninh cho các cơ quan an ninh và tình báo, cũng như lực lượng quân sự của các quốc gia Tây Phi. TSCTP trước đây được biết đến như Sáng kiến Liên-Sahel (liên kết khu vực Sahel). Lực lượng an ninh Nigiê đã sử dụng các thiết bị quân sự không gây sát thương do Mỹ cung cấp, bao gồm thiết bị nhìn đêm, xe bọc thép có tính cơ động cao với bánh xe đa năng, hệ thống định vị toàn cầu và rađiô an ninh để trấn áp lực lượng ủng hộ quyền tự chủ của người Tuareg và những người biểu tình khác đòi dân chủ.
Huấn luyện quân sự của Mỹ cho quân đội Nigiê diễn ra hàng năm trong khuôn khổ các cuộc tập trận quân sự mang tên “Flintlock” của Lầu Năm Góc. Lực lượng Nigiê được Mỹ đào tạo cũng được sử dụng để bảo vệ các mỏ urani do công ty nhà nước Pháp Areva, sản xuất năng lượng điện hạt nhân, điều hành với sự hợp tác của các công ty Nhật Bản và Tây Ban Nha. Ngoài nhân viên quân sự tại Niamây, Mỹ còn có những căn cứ tại Uagađugu (Buốckina -Phaxô), Bamacô (Mali), Nuacsốt (Môritani), và Tamanrasset (Angiêri). Sự hiện diện của Mỹ tại Buốckina Phaxô được biết đến như tại Sand Creek. Từ các căn cứ bí mật, Mỹ đã cho máy bay không người lái vũ trang và không vũ trang lượn khắp sa mạc Xahara. Nigiê từng là một thuộc địa của đế quốc Pháp, bây giờ được đặt dưới sự bảo hộ toàn diện của đế quốc Mỹ.
Theo mạng “Tin châu Phi”, thông qua hàng loạt các tổ chức xã hội dân sự, Mỹ đã tài trợ cho các nhóm Chesnia ở các nước Cộng hòa tự trị thuộc Nga và ở nước ngoài. Tuy nhiên, phần lớn khoản tiền tài trợ của Mỹ đã khuyến khích các phần tử khủng bố Chesnia và các nhóm khác ở Bắc Cápcadơ mà Bộ Ngoại giao và Cơ quan tình báo Mỹ luôn cho rằng đó chỉ là “quân du kích ly khai”, “các phần tử dân tộc”, “quân nổi dậy”, “người chống đối” thay vì gọi là “những kẻ khủng bố”.
Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) liên tục từ chối công nhận các phần tử khủng bố người Chesnia và người Hồi giáo Nga là “những kẻ khủng bố”. Các báo cáo phân tích của Cơ quan tình báo tín hiệu (SIGINT) thuộc NSA thu được từ các hoạt động của cảnh sát Nga, Cơ quan an ninh liên bang (FSB), Cơ quan tình báo đối ngoại (SVR) và các phương tiện thông tin liên lạc quân sự của Nga như đài phát thanh, điện thoại cố định và di động, fax, tin nhắn văn bản từ năm 2003 đều gọi các phần từ khủng bố Chesnia và Bắc Cápcadơ là “những du kích”. Trước những năm đó, mật mã trong các Chỉ thị nội bộ NSA mang tính tuyệt mật đã khẳng định rõ các phần tử khủng bố Chesnia nên được gọi là “quân nổi dậy”.
Hãy tưởng tượng Mỹ ngạc nhiên đến chừng nào khi bắt đầu gọi Al Qaeda là các du kích Hồi giáo và quân “nổi dậy” thay vì khủng bố. Tuy nhiên, đó chính xác là những gì mà NSA và CIA đã gọi đối với các phần tử khủng bố ở Nga khi số này đã thực hiện hàng loạt cuộc tấn công tàn khốc vào sân bay, tàu hỏa, nhà ga tàu điện ngầm, trường học, rạp chiếu phim trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga.
Trong ba thập kỷ qua, việc các “hoạt động nhân đạo” và “các tổ chức dân sự” của Mỹ trợ giúp cho các nhóm Hồi giáo cực đoan đã giúp chúng có điều kiện xâm nhập vào chính lãnh thổ của nhà tài trợ Oasinhtơn và tự coi mình là “các chiến binh tự do”. Điển hình là sự ủng hộ của Mỹ đối với các nhóm chiến binh thánh chiến ở Ápganixtan thông qua “ủy ban vì một Ápganixtan tự do” trong suốt cuộc nổi dậy của các phần tử Hồi giáo chống lại Cộng hòa dân chủ nhân dân Ápganixtan trong những năm 1980 và Quỹ bảo vệ Bôxnia trong thập niên 1990. Đối với Ápganixtan, tiền của Mỹ và Arập Xêút đã rơi vào tay những kẻ nổi dậy mà sau này gọi là Al-Qaeda và quỹ tài trợ của Mỹ đối với Bôxnia thì đã được các phần tử Al Qaeda sử dụng chiến đấu chống lại Nam Tư và Cộng hòa Xécbi. Sau đó, các phần tử Al Qaeda ủng hộ Quân đội giải phóng Côxôvô (KLA) trong cuộc chiến chống Xécbia.
Sau những công bố về việc thành lập Quỹ Cápcadơ do Viện Jamestown Foundation có liên quan đến CIA sử dụng để tài trợ cho các hội thảo về Bắc Cápcadơ ở Tbilixi từ tháng 1 đến tháng 7/2012, Chính phủ Grudia đã đóng cửa trụ sở của quỹ này với lý do được họ đưa ra là tố chức này đã “hoàn thành nhiệm vụ đề ra”. Các sự kiện của Quĩ Cápcadơ và Viện Jamestown Foundation đều có sự tham dự của nghi can đánh bom cuộc đua Maratông ở Boston Tamerlan Tsarnaev (sinh ra ở Cưrơgưxtan và có cha mẹ ở Đaghextan). Trước đó, Jamestown Foundation đã tổ chức hội thảo ở Tbilixi với chủ đề “Các quốc gia ngầm” ở Cápcadơ và một trong những chủ đề ở đó là thúc đẩy “Đại Circassia” ở Cápcadơ. Sự hỗ trợ từ các tổ chức xã hội dân sự của Mỹ cho các phe nhóm kích động chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa ly khai và tư tưởng phục quốc ở Cápcadơ được thực hiện trực tiếp thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Mỳ (USAID) hay bí mật thông qua các tổ chức do Viện Xã hội Mở của George Soros. Có thể biết được nhiều thông tin về sự hậu thuẫn của Mỹ đối với các nhóm khủng bố hoạt động ở vùng Bắc Cápcadơ từ hàng triệu thông tin mật của Bộ Ngoại giao Mỹ bị rò rỉ trên mạng Internet.
Ngày 12/11/2009, một bức điện mật từ Đại sứ quán Mỹ ở Mátxcơva đã cho biết Trung tâm Carnegie Endowment, một tổ chức phi chính phủ (NGO) ở Mátxcơva, có thể tham gia ngăn cản các mục tiêu chính trị và kinh tế của Nga ở Bắc Cápcadơ, đặc biệt bằng việc tận dụng tỷ lệ thất nghiệp lên đến 50% tại khu vực Chesnia làm căn cứ để tuyển dụng các phần tử giáo sĩ cực đoan Wahhab và Salafi do Arập Xêút, Cata và Tiểu vương quốc Sharjah và Ras al Khaimah, tài trợ. Theo báo cáo của Đại sứ quán Mỹ tại Nga ngày 8/6/2009, nước cộng hòa Đaghextan là “đường kết nối yếu nhất” trong khu vực Cápcadơ.
Một bức điện mật khác của Đại sứ quán Mỹ tại Nga ngày 16/9/2009 viết rằng Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách châu Âu và Á-Âu Philip Gordon đã từng hối thủc thừa nhận Chính quyền Ramzan Kadyrov ở Chesnia là “không thể kiểm soát cũng như không ổn định”. Tổ chức phi chính phủ Caucasian Knot đã báo cáo với Gordon trong một cuộc gặp ở Đại sứ quán Mỹ tại Nga là “các chiến binh nước ngoài” đang tham gia một cuộc thánh chiến và rằng có một “sự lựa chọn bất đắc dĩ” giữa “phần tử khủng bố” và “chính quyền sở tại tham nhũng”. Rõ ràng, rất có thể với sự hỗ trợ mạnh mẽ và sau đó là sự ủng hộ của Giám đốc CIA John O. Brennan, Chính quyền Barack Obama đã quyết định lựa chọn những kẻ khủng bố. Từ việc rò rỉ thông tin bí mật đã cho thấy những thông tin về việc Mỹ, Anh, Na Uy ủng hộ cho các phần tử ly khai Chesnia-Ichkeria do Akhmed Zakayev, một người bạn thân với cố tài phiệt lưu vong người Nga gốc Do Thái Boris Berezovsky, lãnh đạo.
Ngày 29/7/2009, những thông tin bí mật từ Đại sứ quán Mỹ tại Ôxlô đã dẫn lời người đứng đầu phụ trách các vấn đề liên quan đến Nga tại Bộ Ngoại giao Na Uy Odd Skagestad nói với nhân viên sứ quán Mỹ rằng: “Zakayev là đại diện hợp pháp không chỉ của cộng đồng lưu vong Chesnia mà còn của người Chesnia ở Chesnia”, mặc dù ông cũng nhấn mạnh rằng “Zakayev có tên trong nhiều lệnh truy nã của INTERPOL” vì bị nghi ngờ có liên quan đến khủng bố. Skagestad tuyên bố Cơ quan an ninh của Na Uy đã bỏ qua các lệnh truy nã của INTREPOL và cho phép Zakayev đến Na Uy từ nơi đang sống lưu vong tại Anh. Zakavev cũng nhận được nhiều viện trợ từ chính phủ các nước Đan Mạch, Phần Lan, CH Séc, nơi có nhiều hoạt động lưu vong của cộng đồng người Chesnia. Trung tâm Kavakaz có một trang mạng về Tiểu vương quốc Cápcadơ làm cầu nối quan hệ quan trọng với các nhóm khủng bố của nhà lãnh đạo Doku Umarov ở miền Nam nước Nga.
Đại sứ quán Mỹ tại Na Uy cũng cho biết một công dân Na Uy đứng đầu “Diễn đàn hòa bình Chesnia” là Ivar Amundsen, một người hoạt động rất tích cực và có quan hệ thân thiết với nhân viên tình báo phản bội người Nga Alexander Litvinenko. Nhà chú của hai kẻ đánh bom Tamerlan và Dzokhar Tsahnaev là Ruslan Zaindi Tsamaev tại tiêu bang Maryland, Mỹ, chính là địa chỉ thành lập công ty Hội nghị các tổ chức quốc tế Chesnia (CCIO) vào ngày 17/8/1995 và Công ty này mở chi nhánh tại thủ đô Oasinhtơn vào ngày 22/9/1995. CCIO tại Maryland đã không còn hoạt động vì thiếu kinh phí. Còn chi nhánh tại Oasinhtơn đã đi vào hoạt động được 17 năm và 7 tháng. Điều thú vị là chi nhánh này bị giải thể đúng vào dịp xảy ra vụ đánh bom tại cuộc đua Maratông Boston. Công ty CCIO được thành lập nhằm tài trợ cho các phần tử khủng bố Hồi giáo Chesnia tại Liên bang Nga.
Ruslan Tsarnaev còn được gọi là Ruslan Tsami, tốt nghiệp trường Đại học luật Duke ở Bắc Carolina, làm việc cho USAID tại Cadắcxtan và các nước khác trong khu vực để chuẩn bị cho các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính tại đây.
Địa chỉ của công ty CCIO tại Maryland được ghi trong hồ sơ là 11114 Đường Whisperwood, Rockville, Maryland 20852. Đây cũng chính là địa chỉ của cựu sĩ quan CIA Graham E.Fuller. E.Fuller nói thành thạo tiếng Nga, từng là Trưởng trung tâm của CIA tại thủ đô Cabun – Ápganixtan và là Phó chủ tịch Hội đồng tình báo quốc gia trong những năm 1980, đồng thời dính líu nhiều đến vụ bê bối Iran-contra (Tháng 11/1986, dư luận Mỹ phát hiện Chính quyền Tổng thống Ronald Reagan bí mật tạo thuận lợi cho việc bán các loại vũ khí của Mỹ cho Iran để đổi lấy việc phóng thích các con tin của nước này – ND). Ngoài ra, E.Fuller cũng hoạt động tích cực trong các sự kiện được Viện Jamestown Foundation tài trợ đặc biệt là hội nghị ngày 29/10/2008 với khẩu hiệu: “Thổ Nhĩ Kỳ và Vùng Cápcadơ hậu Grudia”.
Con gái E.Fuller là Samantha Ankara Fuller mang hai quốc tịch Anh và Mỹ, được bồ nhiệm là Giám đốc công ty TNHH Insource Energe của Anh. Công ty này thuộc sở hữu của Tập đoàn Carbon Trust, một tổ chức phi lợi nhuận với mục tiêu “Đẩy nhanh tiến độ tiến tới một nền kinh tế có khí thải cácbon thấp”. Theo Qui định của ngân hàng Anh về việc đăng ký dịch vụ tài chính, tên trước khi kết hôn của Samantha Ankara Fuller là Samantha Ankara Tsarnaev. Samantha Ankara Tsarnaev chính là vợ của Ruslan Tsarnaev, chú ruột của hai kẻ đánh bom tại cuộc đua Maratông ở Boston, Theo đăng ký dịch vụ tài chính của Vương quốc Anh, tại thời điểm kết hôn với Ruslan Tsarnaev, Fuller là một cố vấn đầu tư của Ngân hàng Dresdner Bank của Tập đoàn JP Morgan Ltd tại Vương quốc Anh. Ruslan Tsamaev hiện là Phó chủ tịch phát triển kinh doanh của Tập đoàn năng lượng Big Sky, có trụ sở chính tại Calgary, Canada. Công ty này cũng có các trụ sở đặt tại Little Rock, Arkansas, Mỹ.
Hồ sơ tòa án Bắc Carolina cho thấy Ruslan Tsarnaev đã kết hôn ở Bắc Carolina năm 1995, cũng là năm Ruslan thành lập công ty CCIO tại Oasinhtơn, DC và Maryland. Việc ly hôn giữa Rusland Tsarnaev và Samantha Ankara Fuller diễn ra vào năm 1999 do toà án của hạt Orange, Bắc Carolina thụ lý.
Cũng cần lưu ý rằng địa chỉ của chi nhánh công ty CCIO tại Oasinhtơn DC chính là địa chỉ của công ty Prentice-Hall. Prentice-Hall thuộc sở hữu của Pearson, một công ty xuất bản về giáo dục có trụ sở tại Luân Đôn, sở hữu tờ Financial Times và có 50% cổ phần trong The Economist Group. Năm 1986, The Economist Group đã mua lại tờ Business International Corporation (BIC) có trụ sở tại Niu Yoóc, một công ty bình phong của CIA.
Một người chú khác của thủ phạm đánh bom tại Boston là Alvi s. Tsaranev sống tại Silver spring, Maryland, dường như liên quan đến một tổ chức lưu vong Chesnia tại Mỹ đó là “Liên minh Cộng hòa Chesnia” có địa chỉ tại 8920 Walden Road, Silver Spring, Maryland. Đây cũng là địa chỉ nhà riêng của AI vi s. Tsarnaev. Theo cơ quan Thuế vụ Mỹ, tổ chức này được đăng ký như một tổ chức từ thiện với chức năng là “Phát triển kinh tế quốc tế”.
Theo cuốn sách “Quyền lực và Mục đích” của hai tác giả James M. Goldgeier và Michael McFaul, “Chính sách của Mỹ đối với Nga sau Chiến tranh Lạnh được thể hiện qua các nhà hoạt động xã hội dân sự và đại sứ Mỹ tại Nga, những người đã trực tiếp dính líu đến các hoạt động chính trị để lật đố Tống thống Vladimir Putin, kích động ly khai, xung đột chính trị và tôn giáo trên toàn Liên bang Nga”, Cũng theo cuốn sách này, cựu cổ vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brezezinki là người tài trợ cho Usmanov tại Mỹ: “Brezezinki đã giúp thành lập và hỗ trợ tài chính cho tố chức Chesnia tại Mỹ do Usmanov đứng đầu”.
Một tổ chức của phong trào Chesnia khác có trụ sở tại Mỹ là ủy ban Mỹ vì hòa bình ở Cápcadơ (ACPC), trước đây gọi là ủy ban Mỹ vì hòa bình ở Chesnia. Năm 1999, ACPC được thành lập bởi Freedom House, một nhóm cánh hữu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh được tài trợ bởi Quỹ quốc gia vì Dân chủ (NED) và các tổ chức do USAID tài trợ. ACPC cũng hỗ trợ tị nạn chính trị cho cựu Ngoại trưởng Chesnia Akhmadov, người bị cáo buộc liên quan đến các hoạt động khủng bố.
ACPC, Freedom House đã hợp tác với Viện Jamestown Foundation, một tổ chức được Giám đốc CIA William Casey thành lập năm 1984 với sự tham gia của nhiều nhân viên tình báo đào ngũ của Liên Xô, Rumani, Ba Lan, Tiệp Khắc.
•Ngày 17/10/2008, một thông tin mật rò rỉ từ Đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cho thấy những ưu tiên của USAID và các NGO trong việc tổ chức các hoạt động tại Bắc Cápcadơ. Theo đó, Chương trình hành động khu vực Bắc Cápcadơ, được triển khai tại Bắc Ôxêtia và Kabardino- Balkaria, đang phối hợp tích cực với các NGO tại địa phương. Thông tin bị tiết lộ cũng cho thấy nhiệm vụ của USAID ở Bắc Cápcadơ là “thúc đẩy những lợi ích quan trọng của Mỹ”.
Chương trình Bắc Cápcadơ tập trung vào bốn khu vực chính: Chesnia, Inguxêtia, Bắc Ôxêtia, và Đaghextan, cùng với các khu vực khác như Krasnodarsky Krai, Cộng hòa Adygea, Karachay-Cherkessia, Stavropolsky Krai và Cộng hòa Kabardino-Balkarskaya.
Thông tin được tiết lộ cũng cho biết mạng lưới NGO trong khu vực của USAID gồm: ủy ban cứu trợ quốc tế (IRC); Tổ chức Tầm nhìn thế giới
-World Vision; Keystone; IREX; Quỹ trẻ em của Bắc Ôxêtia (CFNO); Trung tâm tài chính vi mô của Nga; ACDI/VOCA; Trung tâm tài nguyên khu vực phía Nam (SRAC); Trung tâm chính sách tài chính (CFP); Trung tâm quốc tế doanh nghiệp tư nhân (CIPE); Viện kinh tế đô thị; Trung tâm Đức tin, Hy vọng và Tình yêu (FHL); Hiệp hội Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế (IFRC); và Quỹ phát triển bền vững (FSD). Nhiều nhóm trong số trên có quan hệ chặt chẽ với CIA và Viện xã hội Mở George Soros, đặc biệt là Tổ chức Tầm nhìn thế giới và IRC.
Trong cuộc giao lưu trực tuyến với người dân vào ngày 25/4 vừa qua, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã khẳng định: “Nước Nga cũng là nạn nhân của chủ nghĩa khủng bố cho nên chúng tôi luôn bất bình khi các nước phương Tây luôn gọi nhũng kẻ có hành vi khủng bố tàn bạo ở Nga là ‘quân nổi dậy’. Đặc biệt, những kẻ khủng bố này luôn nhận được sự hỗ trợ tài chính, chính trị, thông tin một cách trực tiếp và gián tiếp. Sự hồ trợ của phương Tây luôn đi kèm với các hoạt động của họ trên lãnh thổ Liên bang Nga”.
Thế giới hiện nay vẫn có sự đồng thuận về khái niệm khủng bố và phương Tây chỉ lên án những kẻ đang dùng phương pháp khủng bố chống lại quyền lợi của họ. Nếu những lợi ích của phương Tây không có gì bị đe dọa thì các phương tiện truyền thông phương Tây vẫn gọi những kẻ khủng bố ấy là “quân nổi dậy” hay “chiến sĩ đấu tranh vì tự do”. Những kẻ tham gia đánh bom tại cuộc đua Maratông Boston và khủng bố ở Nga đều có liên quan đến các NGO do Quỹ George Soros tài trợ, các công ty bình phong của CIA, cơ quan tình báo nước ngoài và các công ty năng lượng phương Tây. Chính điều này đã làm cho cuộc chiến chống khủng bố của thế giới trong thời gian qua đã ngày càng đi vào bế tắc và chưa có lôi thoát./.
VRNs (22.06.2013) – Nghệ An – Ngày 21/6/2013, theo tin chính thức chúng tôi vừa nhận được từ sinh viên – tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật từ trại giam Nghi Kim, Nghệ An bắt đầu từ ngày hôm nay, thứ 6 ngày 21 tháng 6 năm 2013 Minh Nhật đã bắt đầu tuyệt thực để phản đối việc các cán bộ trại giam Nghi Kim liên tục xúc phạm nhân phẩm và tính mạng đối với Minh Nhật. Cụ thể là: điều kiện giam giữ hết sức hà khắc như: khẩu phần ăn không bằng một con chó, không thể nuốt được (từ nguyên văn Nhật thông báo); nước uống phải dùng nước lợ (nước được lấy trực tiếp từ ao hồ, giếng khoan); phòng giam quá chật hẹp trong khi thời tiết ở Nghệ An hiện nay nhiệt độ lên đến 39, 40 độ; không có điện thắp sáng; không cho nhận sách từ người thân gửi vào.
David Thiên Ngọc (Danlambao) - Nhân dân VN và các dân tộc trên thế giới nếu có quan tâm đến chính trường châu Á ở thập niên 90 thế kỷ trước thì chắc không lạ gì cụm từ “Hội nghị Thành Đô”. Đứng về mặt khách quan và những ai không đi sâu nghiên cứu nội tình về mối quan hệ Việt Nam-Trung Hoa đồng thời không quan trọng chú ý đến ngôn từ chính trị thì sự kiện Thành Đô tháng 9/1990 gọi là “Hội nghị” thì không có gì phải bàn luận. Riêng về chính giới và nhất là nhân dân VN có quan tâm trăn trở đến sự hưng vong của đất nước thì có thể coi sự kiện trên là “Chiếu chỉ Thành Đô”. Nói như thế có chủ quan và cực đoan lắm không? Để làm sáng tỏ luận điểm của mình tôi xin các bạn cho phép tôi đi hơi xa một chút.
Minh Dân (Danlambao) - Đã bước sang phút 150 của một ngày sau, có muộn ý nghĩa quá không khi thể hiện một lời chúc như là sinh nhật. Có thể sẽ sai ý nghĩa nhưng dù muộn dù sai tôi xin chúc:
Ts. Đặng Huy Văn - (Viết nhân chuyến thăm Trung Quốc của CTN Trương Tấn Sang)
Phạm Kỳ Đăng (Danlambao) – Có tìm thấy cái Ác không? Phóng sự video tức thời của cơ quan Thông tin và Truyền thông do ông Nguyễn Bắc Sơn đứng đầu, lắp ghép thiếu chuyên nghiệp,
đưa hình phản bác sự ngược đãi đối với Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Với góc
nhìn từ sau lưng người tù chiếu lên những khuôn mặt cán bộ quản giáo,
bác sĩ khiến tôi ngờ ngợ vừa lạ vừa quen. Vẫn là nhiều gương mặt phổ cập
gặp hàng ngày, tầm thường và vô hại.
Lê Dủ Chân (Danlambao) - “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam,” Phùng Quang Thanh đại tướng bộ ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản bộ trưởng bộ quốc phòng nước CHXHCN Việt Nam.
Sự ra đi của Bác sĩ Nguyễn Tường Bách ngày 11/5/2013 tại Fountain
Valley, Orange County, California, hưởng thọ 97 tuổi, đã hoàn toàn kết
thúc cuộc chiến tranh Quốc-Cộng 1945... (về phe Quốc Gia). Phe Quốc Gia ở
đây được định nghĩa là những người chống lại lý thuyết Mác Xít, chống
lại Cộng sản. Phe Cộng sản thì vẫn còn một người thuộc thành phần lãnh
đạo từ thời 1945 là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng nên biết thêm, cụ
Bách là cộng tác viên thân cận của nhóm Tự Lực Văn Đoàn từ ngày nhóm này
ra số báo Phong Hóa đầu tiên (thời gian này nhóm chưa lấy tên là TLVĐ).
Thực ra vào thời 1945, cụ Võ Nguyên Giáp chỉ là một Đại Tướng gần như tự phong, tức là do phe Cộng Sản của cụ phong cho cụ chứ cụ mới chỉ thành lập được một trung đội du kích; và lực lượng vũ trang của phe Cộng Sản lúc ấy cũng chỉ vài chục người. Lịch Sử đảng Cộng Sản cũng thừa nhận sau khi Nhật thất trận, các tù nhân chính trị được chính phủ Trần Trọng Kim trả tự do, trong đó có cả những tù nhân cộng sản, thì số lượng đảng viên cộng sản chỉ khoảng 5 ngàn người. Đấy là con số do cộng sản công bố; con số thực có lẽ ít hơn nhiều.
Phe Quốc gia gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đại Việt có lẽ số đảng viên cũng không nhiều hơn. Lúc đó Bác sĩ Nguyễn Tường Bách sáng lập lực lượng Quốc Gia Thanh Niên Đoàn, đồng thời chỉ huy lực lượng quân sự của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Bác sĩ Bách cũng thú nhận số đảng viên và lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng không nhiều và so với lực lượng của cộng sản có phần yếu hơn (xem hồi ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua và tập truyện Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn của Ng. Tường Bách).
Do tình cờ lịch sử, cả hai cụ Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Tường Bách đều có một số điểm tương đồng. Trước tiên, cả hai cụ cùng ở vị trí lãnh đạo cao cấp của hai lực lượng chống đối nhau thời 1945: Cụ Bách ở Việt Quốc, cụ Giáp ở Việt Minh, một tổ chức của Cộng Sản dựng lên để thu hút thành phần yêu nước cũng tương tự như tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau này được Cộng Sản Miền Bắc lập nên năm 1960, trá hình là một tổ chức yêu nước của nhân dân miền Nam. Cả hai cụ đều là nhân vật lãnh đạo lực lượng vũ trang của tổ chức của mình. Và thật lạ lùng, cả hai cụ cùng trường thọ và là hai vị cuối cùng thuộc giới lãnh đạo cao cấp trong cuộc tranh chấp Quốc Cộng 1945. Bác sĩ Bách vừa mãn phần ở tuổi 97; cụ Võ Nguyên Giáp vẫn còn sống và đã 103 tuổi.
Cả hai cụ cùng là trí thức tiểu tư sản. Cụ Võ Nguyên Giáp xuất thân cử nhân luật và là giáo sư sử tại trường trung học Thăng Long, một trường trung học nổi tiếng vì có nhiều giáo sư nổi tiếng nhất Hà Nội thập niên 1930. Trong thời gian đó cụ Nguyễn Tường Bách học đại học Y khoa Hà Nội và tốt nghiệp Bác sĩ năm 1944, ở tuổi 28, cùng lớp với Giáo Sư Thạc Sỹ Y Khoa Trần Đình Đệ, cựu Khoa trưởng Đại học Y khoa miền Nam. Cụ Võ Nguyên Giáp lớn hơn Bác sĩ Bách 5 tuổi nên hoạt động chính trị có lẽ trước Bác sĩ Bách cũng khoảng từng ấy năm. Vào thập niên 1930 - 1940 thanh niên Việt Nam hoạt động trong các tổ chức bí mật chống Pháp ở tuổi rất trẻ. Trong hồi ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua (hồi ký VNMTKQ) ở trang 36, cụ Bách cho biết tinh thần cách mạng chống Pháp của học sinh trường Bưởi như sau, "một bạn học năm thứ ba (ghi chú của người viết, tức là mới lớp 8) có đến tìm tôi (ghi chú của người viết, lúc đó cụ Bách mới 13 tuổi và học lớp 6), và đưa một tờ truyền đơn ký tên là "Thanh Niên Ái Quốc," rủ tôi vào một tiểu tổ lúc đó thành lập ngay trong trường. Tôi ngỏ ý tán thành." Sau này, Bác sĩ Bách khởi đầu hoạt động chính trị từ thời còn là sinh viên y khoa trong đảng Đại Việt Dân Chính do nhà văn Nhất Linh là anh ông thành lập khoảng 1939.
Cả cụ Võ Nguyên Giáp lẫn Bác sĩ Bách đều không được huấn luyện quân sự mà đều được tổ chức của mình trao nhiệm vụ lãnh đạo quân sự. Điều đó cho thấy lực lượng quân sự của cả hai bên lúc đó đều không đủ mạnh để đương đầu với thực dân Pháp. Cụ Bách từng cười mà nói với tôi, "Chú là bác sĩ mà anh em giao cho chỉ huy quân sự thì đủ hiểu là lực lượng mình không mạnh!"
Cả hai cụ đều là đại biểu trong Quốc Hội khóa 1 năm 1946. Cụ Giáp là đại biểu của Cộng sản (núp dưới danh xưng Việt Minh). Bác sĩ Bách là đại biểu của Việt Quốc.
Trong chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng cụ Giáp giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng. Bác sĩ Bách tuy không tham gia chính phủ Liên Hiệp nhưng khi tôi hỏi vấn đề này thì Bác Sĩ Bách cho biết cụ đã có hai người anh tham gia chính phủ Liên Hiệp với tư cách Bộ Trưởng rồi, đó là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là Bộ Trưởng Ngoại Giao và nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long làm Bộ Trưởng Kinh Tế nên đảng Việt Quốc trao cho cụ trọng trách tổ chức nội bộ đảng. Nhưng cụ cũng cho biết trong công tác chính phủ hàng ngày cụ cũng tham gia với tư cách đại biểu của Việt Quốc, do đó cụ cũng nhiều lần trực tiếp gặp cụ Hồ Chí Minh và cụ Võ Nguyên Giáp cũng như các thành viên khác của Cộng Sản trong Quốc Hội và Chính Phủ.
Cả hai cụ đều là những nhân vật lãnh đạo cuối cùng của tổ chức của mình còn sống sót từ thời 1945 cho tới đầu thế kỷ 21. Bác sĩ Bách tuy khoảng hai năm cuối sức khỏe đã yếu, không đi lại được, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn, vẫn còn trả lời những câu hỏi liên quan tới các hoạt động văn hóa của TLVĐ và các hoạt động vũ trang chống Cộng thời 1945 cho tới lúc cụ và lực lượng Việt Quốc thất bại phải bôn tẩu sang Trung Quốc năm 1946.
Trong hai, ba tháng cuối trước khi qua đời Bác sĩ Bách tuy còn tỉnh táo nhưng đã kém trí nhớ; cụ quên cả tên những người cháu tới thăm cụ, ngay cả tôi cụ cũng không nhớ tên, chỉ biết là cháu gọi bằng chú. Thời gian này chỉ kéo dài vài tháng và Bác sĩ Bách không phải trải qua giai đoạn dùng dụng cụ trợ sinh (life support) trước khi qua đời. Như thế Bác sĩ Bách đã có một sự ra đi mau mắn của người già, một điều mà những người già đều mơ ước. Đây là một may mắn cho cụ.
Cụ Võ Nguyên Giáp không may mắn bằng. Tuy "còn sống" nhưng nghe nói từ lâu cụ Giáp đã không còn biết gì hết, phải dùng dụng cụ trợ sinh (life support).
Là em út trong gia đình Nguyễn Tường, cụ Nguyễn Tường Bách đã là một trong những cây bút trẻ nhất góp mặt trong những số báo Phong Hóa đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Lúc đó cụ mới 17 tuổi, chưa xong trung học. Tôi hỏi cụ, "Lúc đó chú tới tòa báo với tư cách một chú em nhỏ tới chơi xem các anh của chú làm báo hay chú tới với tính cách ngang hàng của người cộng tác?" Cụ nói, "Tuy lúc đó chú nhỏ, nhưng chú tới với tính cách người cộng tác; chú viết mà."
Tuy sau này khi từ giã gia đình ra đi làm cách mạng, Bác sĩ Bách ở hoàn cảnh một gia đình khá giả như chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt hay Đôi Bạn, hai cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, nhưng khởi đầu cụ Bách sinh ra trong một gia đình nghèo. Có thể nói là cực nghèo (xem hồi ký về Gia Đình Nguyễn Tường của cụ Nguyễn Thị Thế, em gái cụ Nhất Linh). Tuy ông nội cụ làm tri huyện (tương đương quận trưởng hay chủ tịch huyện) Cẩm Giàng, nhưng qua đời đã lâu và gia đình trở nên túng quẩn. Bố cụ Bách lại hầu như cả đời không làm gì để nuôi gia đình. Mãi gần cuối đời bố cụ mới đi làm thông ngôn tòa sứ bên Lào. Theo gia phả bên họ Lê, tức bên họ mẹ các anh em Nguyễn Tường thì "ông Nhu làm thông ngôn ngạch tòa Công sứ". "Ông Nhu" ở đây chính là bố của các cụ Nguyễn Tường. Bố các cụ không phải làm người bẻ ghi (người gác) ga xe lửa Cẩm Giàng như một số sách sau 1975 viết. Hồi ký của cụ bà Thế ở trang 48 cho biết bố các cụ làm thông ngôn cho ông Công Sứ Hải Tường một thời gian. Sau đó ông ta được đổi sang làm Công Sứ tỉnh Sầm Nứa bên Lào. Năm 1917, tình cờ gặp lại ông Công Sứ đó ở Hà Nội, ông Công Sứ mời bố các cụ sang làm thông ngôn cho ông ở bên Lào và ngày 31-8-1917 bố các cụ lên đường (hồi ký của cụ Thế trang 59). Nhưng bố các cụ chỉ làm được tám tháng thì qua đời vì bạo bệnh.
Kể từ đó gia đình 9 người gồm mẹ, 7 anh chị em và bà nội chỉ trông vào việc buôn gạo của mẹ cụ. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 8, cụ Bách viết, "Cảnh nghèo nàn thiếu thốn trong gia đình, dù mẹ tôi và bà tôi cố gắng xoay sở, cũng chưa giải quyết được vì đông con." Trang 30, cụ lại viết về việc người con gái duy nhất trong gia đình, là chị Thế của cụ, không được đi học vì nhà nghèo, "Trong lúc gia đình khó khăn chị không được đi học nữa và về nhà giúp mẹ trong việc buôn bán...Chị cần cù đảm đương mọi việc trong gia đình, đã giúp đỡ không ít để các anh em yên tâm học hành, làm việc." Cảnh nghèo khiến nhiều năm gia đình Nguyễn Tường không ăn tết. Trang 57 của hồi ký cụ Thế ghi, "Tết năm nay nhà không gói bánh chưng. Bà ngoại thấy tôi hỏi nhà cháu đã gói bánh chưa, tôi đáp thưa bà năm nay mợ cháu không có tiền nên không gói ạ." Chẳng những không có tiền ăn tết mà mẹ các cụ có năm còn phải trốn nợ vào ngày cuối năm. Sau này vì lý do tuyên truyền chính trị, cộng sản lên án Tự Lực Văn Đoàn có cái nhìn xã hội của những kẻ thuộc giai tầng "bên trên" nhìn xuống. Thực ra không phải vậy. Quan niệm xã hội của anh em Nguyễn Tường trong Tự Lực Văn Đoàn đã hình thành từ cái huyện Cẩm Giàng nghèo khổ, cực kỳ nghèo khổ mà gia đình Mẹ Lê trong truyện của Thạch Lam là điển hình và gia đình các nhà văn này cũng không khá hơn các gia đình nghèo trong phố huyện, nơi theo sự kể lại trong gia đình và trong các hồi ký, chỉ có mấy gia đình giầu là gia đình mấy "chú Tầu" chủ tiệm trên phố chính của huyện. Có thể nói vào thời đó, gần như cả huyện Cẩm Giàng đều nghèo như Nhà Mẹ Lê cho nên ngoài anh em nhà Nguyễn Tường không gia đình nào có con ra khỏi phố huyện sau khi "tốt nghiệp" sơ cấp (ba năm đầu của bậc tiểu học) để tiếp tục học cao hơn. Trong hồi ký VNMTKQ, ở trang 9, cụ Bách mô tả cái nghèo của dân huyện Cẩm Giàng, "chung quanh, cảnh nghèo khổ, tiêu điều trong các gian nhà lụp xụp, cảnh chân lấm tay bùn của nông dân cặm cụi trên đồng ruộng lầm lội; những người chỉ có một cái khố che thân, cảnh chợ phiên lèo tèo...tất cả những cái đó đã ăn sâu vào trí óc chúng tôi. Về sau đã thúc dục chúng tôi muốn viết lên, muốn làm một cái gì để thay đổi tình trạng đó." Bà chị gái của cụ, bà Thế, ở trang 53 hồi ký của riêng mình cũng ghi, "Xóm chợ gần nhà tôi toàn là người làm ruộng quê ở Hà Nam, Phủ Lý vì bị lụt lội không đủ sống nên đưa nhau đến đây. Đa số gia đình làm nghề đi kéo xe hoặc làm mướn như nhà bác Đối, đánh cá vớt tép như nhà bác Lê và còn nổi tiếng nghèo vì quá đông con." Truyện ngắn Nhà Bác Lê nổi tiếng của Thạch Lam chính là dựa trên chuyện thực của gia đình bác Lê này. Và gia đình Nguyễn Tường cũng không khá hơn những gia đình trong xóm. Trong mấy tạp chí địa phương của Cẩm Giàng ngày nay, người dân địa phương cũng xác nhận cha ông họ thời trước 1945 thật là nghèo, không có tiền gửi con đi học ở bên ngoài phố huyện, nên toàn huyện không có người đỗ đạt, ngoại trừ mấy anh em nhà Nguyễn Tường. Cơ ngơi gọi là "Trang trại Nguyễn Tường, TLVĐ" tại Cẩm Giàng được tạo lập sau này, sau khi mấy anh em nhà Nguyễn Tường đã thành đạt ở Hà Nội, giúp mẹ trở về Cẩm Giàng lập trại để an dưỡng tuổi già (xem hồi ký về gia đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế).
Anh em nhà Nguyễn tường sống trong hoàn cảnh gần như đáy cùng xã hội. Ở trang 54 cuốn hồi ký, cụ bà Thế viết tiếp, "Những năm mất mùa đói kém, xe kéo chẳng ai đi những gia đình này bữa cơm bữa cháo. Nhà tôi chưa phải ăn thiếu nhưng cũng chả giầu gì hơn họ." Từ hoàn cảnh gần như đáy cùng xã hội đó, anh em Nguyễn Tường của cụ đã vươn lên qua sự thông minh và quyết tâm, và nhất là quyết tâm của một bà mẹ tuyệt vời. Trong hồi ký VNMTKQ, ở trang 30-31, cụ Bách vừa mô tả cái nghèo của gia đình vừa mô tả sự quyết tâm nuôi con ăn học của mẹ cụ qua đôi câu "cãi nhau" giữa mẹ cụ và Thạch Lam, ""Lâu nay không biết mày làm gì? Nhà đương túng bấn mà sao không mang được một đồng về? - Có lẽ vì anh bỏ trường rồi chưa làm việc gì. So với các anh lớn, có thể anh không làm cho mẹ vừa lòng lắm. Hai mẹ con cãi cọ một lúc, rồi không biết sao cả hai đều khóc. Ngạc nhiên, chúng tôi chạy ra ngoài. -Con xin lỗi mẹ, con sẽ đi làm." Anh vừa nói vừa gạt nước mắt, trông cũng đáng thương. Chắc anh nghĩ rằng mình cũng chưa làm gì giúp mẹ. -Ừ thì mẹ cũng tha lỗi cho con. Nếu muốn đi học, thì dù thiếu thốn, cả nhà cũng sẽ giúp.""
Tất cả mấy anh em của cụ từ những năm đầu đi học đã học ở ngôi trường duy nhất, chỉ có bậc sơ cấp (3 lớp đầu bậc tiểu học) trong cái huyện Cẩm Giàng cực kỳ nghèo khổ đó. Như đã kể, dân huyện quá nghèo, không ai đủ điều kiện cho con cái theo đuổi sách đèn ở mức vượt khỏi lũy tre làng. Chỉ có mấy anh em cụ, nhờ quyết tâm của bà mẹ, là thoát khỏi sau bậc tiểu học để lên Hà Nội tiếp tục theo đuổi sách đèn. Mẹ các cụ, sau khi chồng mất, một mình phải lo kiếm tiền nuôi gia đình tổng cộng 9 miệng ăn kể cả mẹ chồng. Để vượt qua nhiệm vụ khó khăn đó, mẹ các cụ rất cương quyết, cho các con bỏ việc mặc áo tang cho hết sầu thảm, không khóc lóc để có tinh thần mà làm ăn. Ở trang 52 hồi ký cụ Thế, có ghi: "Em Bẩy lúc đó mới có ba tuổi bà tôi cũng bắt đội khăn sô, tôi thì đầu chẳng có tóc cũng phải chít khăn như người lớn, quần may bằng vải chàm trông y mán vậy. Mẹ tôi bắt bỏ hết bảo chúng nó còn bé bắt để tang chi trông sầu thảm. Bà nội khóc thì mẹ tôi nói người chết đã yên phận rồi, bây giờ bà phải thương các cháu lo sao cho khỏi chết đói, để yên con phải lo buôn bán chứ cứ ngồi khóc hoài sao, người chết cũng chả sống lại được mà người sống thì chết đói."
Mẹ các cụ là người bà mà thế hệ chúng tôi luôn ngưỡng mộ là một phụ nữ rất cứng rắn và cương quyết trong mục tiêu theo đuổi, nhưng lại rất dịu dàng với các con cháu. Mục tiêu theo đuổi cả đời của cụ là sự học của các con trai. Khi cụ mang cốt của phu quân từ bên Lào về chôn tại Cẩm Giàng, cụ mẹ chồng nghĩ phải tìm ngôi đất nào cho phát phú ngay chứ nghèo quá đi thôi (Hồi ký cụ Thế trang 64). Nhưng cũng chính trang hồi ký này ghi, "Thầy địa lý cho mời mẹ tôi tới bàn cãi bà muốn phát phú thì con cháu học dốt, hay quý và thọ thì nghèo, bà tính sao. Mẹ tôi nói ngay quý và thọ thôi chứ phú trọc mà làm gì." Chẳng biết có phải nhờ ông thầy địa lý người Tầu đặt mộ hay không mà sau này mấy anh em ông đều phát Quí như độc giả đều biết (nhưng không phát Phú). Mặc dù nghèo gần như không đủ ăn, nhưng với chuyện học của các con thì cụ hết lòng, kể cả phải cho tiền mua sách từ bên Pháp về cho các con học. Và may mắn thay các con cụ đều học giỏi, người nào cũng từng nhiều lần đứng nhất lớp, nhất trường, hay nhất cuộc thi và cũng từng thi nhẩy hai lớp ở bậc trung học, rút ngắn được khá nhiều thời gian và tiền bạc. Trang 62 hồi ký của cụ Thế ghi, "Các anh tức lắm về bàn với mẹ tôi gửi mua bên Pháp đủ các thứ sách đem về học gấp. Năm sau đổi tuổi đi thi đậu thành ra đỡ được hai năm, đỡ tốn bao nhiêu công lao và tiền bạc. "
Mấy anh em của cụ rất quyết tâm và thông minh nên thường chiếm giải nhất hay học thi nhẩy lớp. Từ anh Cả, hầu như cụ nào cũng học nhẩy hai lớp (hồi ký cụ Thế trang 62). Trang 62 của cuốn hồi ký cụ Thế cũng ghi muốn học vượt lớp thì phải đổi giấy khai sinh cho thêm tuổi. Từ hồi bé, trong gia đình, nhiều lần tôi đã nghe chuyện tất cả các chú bác và bố tôi đều học giỏi nên phải khai thêm tuổi để đi thi, tôi thường thắc mắc làm thế nào để các anh em của bố tôi đổi tuổi? Mới đây, đọc kỹ trong hồi ký của cô tôi, ở trang 72, cụ Thế đã ghi, "Thỉnh thoảng chúng tôi lại sang chơi bên ấp Phiên Đình là ấp có ông lý trưởng đã đưa cả triện lý trưởng cho mẹ tôi muốn đóng vào đâu thì đóng. Chắc hẳn ông không thể ngờ được cái triện đó đã giúp cho mấy nhà văn nổi tiếng trong văn học sử sau này." Hóa ra, để đổi tên, đổi tuổi của mấy anh em nhà Nguyễn Tường, bà nội tôi cứ lấy cái triện của ông lý trưởng ấp Phiên Đình, huyện Cẩm Giàng mà "ịn" vào giấy khai sinh mới do chính cụ làm lại là xong(?) Cụ Bách cũng nhẩy hai lớp, và thường được giải nhất cuối năm. Phần thưởng mang về phải chở bằng xe kéo. Nghe vậy anh em chúng tôi thấy thực dân Pháp tuy thế mà rất chuộng sự học, cho dù là sự học của dân bản xứ.
Việc học của cụ Bách thật buồn cười, và sự đối xử của mẹ cụ cùng các anh cụ đối với việc học của cụ cũng rất thoáng; có thể nói là quá thoáng so với cả tiêu chuẩn giáo dục gia đình bây giờ. Theo dõi việc học của cụ Bách ở bậc trung học thôi cũng giúp hiểu thêm về sinh hoạt của Tự Lực Văn Đoàn ngay từ buổi đầu ra báo Phong Hóa. Năm 1929 cụ Bách thi vào trường Bưởi và đỗ thứ 28 trong khi nhà trường chỉ lấy có 130 người trong số rất đông học sinh dự thi. Cụ đỗ cao nhờ bài Pháp Văn (hồi ký VNMTKQ trang 33 và 35).
Nhưng ngay trong ngày khai trường, cụ Bách đã cảm thấy một bầu không khí ngột ngạt, khó thở, mà cụ cho là bầu không khí thực dân. Ở trang 35 cụ viết, "Một bầu không khí thực dân...tôi nghĩ. Tôi liên tưởng đến những truyền đơn, báo bí mật và những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp...Từ ngày ấy, đối với nhà trường, tự nhiên tôi đã không có thiện cảm." Cuối cùng, sau khi mới lên năm thứ hai, tương đương lớp 7 ngày nay, cụ bỏ trường về Cẩm Giàng tự học thi Tú Tài Tây. Ở trang 41 hồi ký VNMTKQ cụ viết, "1931. Suy nghĩ vài tháng rồi, tôi lấy một quyết định mạo hiểm: bỏ học về nhà. Tôi sợ nói ra, mẹ tôi và các anh chị sẽ phê bình tới tấp và sẽ ngăn cản. Vì có ai dại mà bỏ đi một trường học tốt như vậy, không dễ thi vào. Và nếu tự học thì có làm nổi không, bằng Tú Tài đâu phải dễ lấy; mà tôi lúc này mới lên năm thứ hai."
Gia đình cụ rất phóng khoáng, ngay cả trong việc học của con cái là việc quan trọng nhất trong mọi gia đình. Trang 44, cụ ghi nhận, "Khác hẳn với dự đoán của tôi, các anh tôi chẳng ai cho là việc đáng bàn, còn mẹ tôi sau khi do dự, cũng bằng lòng: "-Ừ thì mày về nhà mà học lấy. Nhưng phải chăm mới được."
Năm 1933 cụ thi Tú Tài Tây phần thứ I và trượt. Tưởng cũng nên nhắc lại, năm 1929 cụ Bách mới thi đỗ vào năm thứ nhất trường Trung học Bưởi, tức là vào lớp 6. Năm 1931, ở năm lớp 7 cụ xin bỏ học để về Cẩm Giàng tự học. Thế mà năm 1933, tức là đáng lẽ mới hết lớp 9 (đệ tứ niên trường Bưởi) cụ đã đi thi Tú Tài Tây phần thứ nhất, tức là vượt 2 lớp (10, 11). Các anh em khác đều học vượt hai lớp như cụ. Mặc dù thi trượt nhưng cụ cũng đã đỗ phần thi viết, tức là đỗ các môn chính. Và cụ chỉ bị trượt vì vào vấn đáp môn Anh Văn. Anh văn cụ tự học nên phần phát âm sai hoàn toàn. Cũng trang 57 cụ kể, "gặp giám khảo hắc búa, bắt tôi đọc một một đoạn truyện "David Copperfield" của Dickens. Tôi gân cổ đọc, còn ông chỉ ngồi cười. Sau tôi mới hiểu, vì ông nghe chẳng hiểu gì hết với cái tiếng Anh lạ tại của tôi. Tất nhiên là trượt, về nhà học lại." Đọc tới đây tôi lại nhớ tới kinh nghiệm của chính tôi. Năm 1962, tôi học đệ tam Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định, thi nhẩy tú tài I, cũng đỗ thi viết, rồi vào vấn đáp cũng trượt vì vấn đáp tiếng Anh. Ông giám khảo nói tiếng Anh với tôi rằng, "tiếng Anh của anh khiến tôi thất vọng". Như vậy chế độ thi cử của Pháp tuy khó về nội dung nhưng lại rất mềm dẻo về thủ tục, học sinh muốn thi là nộp đơn thi, không cần học bạ gì cả. Nhưng tại sao lại có vấn đề giới hạn tuổi đi thi thì tôi chưa tìm hiểu được. Tới thời Việt Nam Cộng Hòa thì thủ tục có khó hơn một chút, là muốn thi Tú Tài I thì phải có giấy đã học lớp 11 của một trường tư hay của bất cứ một tư nhân nào có bằng cử nhân chứng nhận. Việc chứng nhận chỉ cần ký tên rồi mang công chứng chữ ký, thủ tục không quá vài phút. Chế độ thi cử hiện nay thủ tục không được dễ như vậy, chặt chẽ hơn, nhưng trình độ học sinh lại kém hơn nhiều.
Một điều đáng ghi nhận là chính cái năm thi trượt Tú Tài phần I (hè 1933), tức là đáng lẽ mới học lớp 9, cụ Bách đã bắt đầu tham gia viết báo, làm thơ trên tờ Phong Hóa. Ở trang 57 hồi ký VNMTKQ, cụ viết: "Năm đó, thi bằng Tú Tài phần thứ nhất, tôi đã "trượt vỏ chuối," tuy đã cuốc bở hơi tai trước kỳ thi." Ở trang 58, cụ Bách viết tiếp, "Thế là lại phải cuốc một năm nữa...Cũng may, năm ấy, tôi bắt đầu bước vào nghề viết báo, làm thơ, nên thì giờ cũng dễ trôi qua."
Năm sau, 1934 cụ mới đỗ Tú Tài Tây phần I nhờ ông giám khảo thi vấn đáp tiếng Anh không quá khó. Như vậy sau hai năm học trong trường và ba năm tự học vất vả mới đỗ được Tú Tài Tây phần thứ I, cụ thấy không tự học được nữa mà phải vào trường. Và cụ không trở lại trường Bưởi mà xin vào trường tây Albert Sarraut. Ở trang 55 hồi ký VNMTKQ cụ kể: "Một cách chật vật, tôi cũng qua được phần thứ nhất bằng Tú Tài Tây...Nhưng phải đối diện với phần thứ hai làm sao đây? Theo ý kiến của các bạn, muốn ăn chắc, nên xin vào học trong trường Trung Học Albert Sarraut." Ông viết tiếp, "Mùi thực dân của trường này tất sẽ nặng nề, nhưng đành phải chịu."
Ông giỏi triết và học thi Tú Tài Triết. Trang 59 ông kể, "Vì trước kia, tôi đã ưa đọc những sách triết học, nên được giáo sư dạy môn triết mến, những tác văn của tôi thường thường ông chỉ sửa chữa rất ít và khuyến khích." Trong nói chuyện riêng tư cụ kể nửa năm đầu cụ vất vả vì tiếng Pháp thua đám học sinh gốc của trường và thua đám tây, đầm. Nhưng nửa năm sau thì cụ vượt lên đứng đầu. Cụ viết ở trang 55 hồi ký VNMTKQ: "Cuối năm, dù không dốc hết sức để ôn tập các bài vở, nhưng may mắn tôi cũng được giải nhất trong lớp và tương đối dễ dàng qua được phần thứ hai bằng Tú Tài..." Vị giáo sư Triết người Pháp rất thích cụ và cứ ngỡ sau này cụ sẽ theo ban triết trên đại học.
Như vậy cụ đỗ Tú Tài phần II vào năm 1935. Nhưng tại sao, mặc dù học giỏi, mãi 9 năm sau, năm 1944, cụ Bách mới đỗ Bác sĩ. Từng có nhiều dịp gần gũi cụ mà chúng tôi không để ý tới chi tiết này để hỏi. Thời gian này gia đình cụ đã vươn lên tới mức bề ngoài cũng không thua kém gia đình nào; mấy anh đầu đã đi làm có chức phận. Đặc biệt anh Tam của cụ (Nhất Linh) đã tốt nghiệp cử Nhân khoa học ở Pháp về và thành lập báo Phong Hóa.
Tuy gia cảnh đã thăng tiến cả về kinh tế lẫn tiếng tăm, nhưng cụ Bách lúc nào cũng đau nỗi đau "không duyên cớ" của chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt & Đôi Bạn, hai tác phẩm của Nhất Linh được giới trẻ thời đó ưa thích. Cái nỗi đau không rõ ràng vì không liên hệ trực tiếp tới cuộc sống của bản thân và gia đình mình. Nhưng lúc nào cụ cũng suy nghĩ, muốn làm một cái gì đó...không rõ ràng. Có thể nói, tâm trạng của cụ Bách lúc đó là tâm trạng chung của giới trẻ ở cái thời có nhiều cuộc chuyển mình của đất nước từ sau cuộc khởi nghĩa bất thành đưa tới đoạn đầu đài của lãnh tụ Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cái tâm trạng đó chắc chắn cũng là tâm trạng của Nhất Linh từ thời rất trẻ và ông đã đưa được vào văn chương. Tất cả những điều này đã được cụ Bách mô tả ở trang 32 hồi ký VNMTKQ: "Sau 1925, là một giai đoạn rung động mạnh trong xã hội Việt Nam và cũng rung động đến cả tầng lớp học sinh nhỏ...Những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp, về những truyền đơn bí mật như tờ "Hồn Nước", in bằng thạch mà chúng tôi truyền nhau đọc, những cuộc bãi công, biểu tình, cái tên Nam Đồng thư xã v.v... đều ít nhiều khơi dậy lòng yêu nước của những tâm hồn trẻ thơ." Và rồi cụ thể hơn, cụ viết rằng, chính cái đêm khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng mà các anh em cụ chứng kiến, hồi hộp theo dõi tại Hà Nội đã ảnh hưởng và tạo nên Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn sau này. Ở trang 37 hồi ký VNMTKQ, cụ Bách viết, "Một ngày tháng 2 năm 1930. Buổi tối, độ chín mười giờ...Bà, mẹ tôi đã đi ngủ. Nhớ lại còn ngồi trên gác đọc sách có anh Tam (Nhất Linh), anh Sáu (Thạch Lam) và tôi. Anh Cả đi làm ca đêm vắng nhà. Chung quanh im lặng. Bỗng đột ngột, vẳng từ xa đến mấy tiếng nổ, xem ra lớn hơn tiếng súng thường. Tiếng gì đây? mọi người sửng sốt. Súng? Bom, tạc đạn? Trong thời kỳ bất thường này chúng tôi nghĩ ngay tới một cuộc nổi dậy. Anh Tam chạy ra phía cửa sổ, hé mở cánh cửa nghe ngóng. Vài tiếng nổ thêm, lác đác. Trong thâm tâm, chúng tôi hi vọng đây sẽ là một cuộc tấn công lớn của cách mệnh; đều khát vọng cuộc khởi nghĩa sẽ đưa tới chấm dứt sự thống trị hung tàn của thực dân, dành được độc lập tự do cho dân tộc. Tiếng nổ hình như vọng tới từ trên, phía bờ sông. Nhưng rất nhanh, im lặng lại trở lại...Anh em chúng tôi chờ đợi một thời gian, không thấy có động tịnh gì khác, lại đặt mình xuống giường. Không ai nói với ai một câu nào, những đều biết là suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Có lẽ ai cũng đã cảm thấy thất vọng sâu xa...Mặc dầu thất bại, nhưng tấm gương anh hùng ấy vẫn luôn in mãi trong trí óc anh em chúng tôi." Và ở trang 39, cụ kết luận về ảnh hưởng của cái đêm "cách mạng Nguyễn Thái Học" đó đối với xã hội nói chung và đối với TLVĐ sau này như sau, "Tinh thần này không những sẽ phản ảnh trong các cuộc cách mệnh sau này, mà còn sẽ phản ảnh về các lãnh vực văn hóa, xã hội. Nếu không có tinh thần này, thì nói riêng, cũng sẽ không có Nhất Linh, Phong Hóa, và Tự Lực Văn Đoàn."
Lược qua tình hình vừa nêu, người ta có thể hiểu tại sao cụ Bách lúc đó tuy học trường Tây nhưng nỗi đau "vô cớ" vẫn ám ảnh khôn nguôi. Tình yêu và lý tưởng luôn luôn là cuộc sống và nỗi ám ảnh của tuổi trẻ. Với cụ Bách cũng vậy. Cụ Bách trẻ, đẹp trai, tài hoa, chơi nhạc hay, khiêu vũ giỏi, học cũng giỏi, lại thuộc gia đình đang nổi tiếng vì thành lập được nhóm TLVĐ, dĩ nhiên không thiếu cô mê. Trong mấy cô gái trẻ có một cô cùng lớp mà tới những ngày cuối đời mới đây, khi tới thăm cụ, tôi vẫn được nghe cụ nhắc lại. Cô ta là đầm lai, học cùng lớp. Mỗi chiều tan học cô ta thường đạp xe theo cụ trên đường về. Thời đó "Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường" (tên của Hà Nội do Thạch Lam đặt) còn yên tĩnh với những con đường chìm dưới hai hàng cây, với Hồ Gươm lóng lánh bên hàng liễu rủ, biểu tượng của thủ đô ngàn năm văn vật, với Nghi Tàm, Quảng Bá, hai tụ điểm của trai thanh gái lịch vào mỗi cuối tuần, với những nam thanh nữ tú ngày ngày đạp xe đạp từ từ dong duổi trên các ngã đường. Hà nội của những năm xưa đó chưa có khói xe, chưa có kẹt đường. Hà Nội của mơ và mộng. Bây giờ mỗi khi nói tới một Hà Nội thời êm ấm đó nhiều người Hà Nội trung niên trở lên thường nói, "Hà nội thời Tự Lực Văn Đoàn". Nhưng chàng thanh niên Nguyễn Tường Bách lúc nào cũng u-uẩn một tâm trạng. Trong đáy cùng tâm khảm, chàng tuổi trẻ Nguyễn Tường Bách luôn có một "chàng Dũng", sau này xuất hiện trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn. Không phải chỉ có cụ là có tâm trạng của chàng Dũng. Nhất Linh cũng vậy. Đã có một thời Nhất Linh trên đường lưu vong làm cách mạng đã đổi tên Nguyễn Tường Tam thành Nguyễn Tường Dũng để che dấu tung tích. Trong hồi ký VNMTKQ trang 140 cụ Bách kể: "Anh Tam lúc này lấy tên là Nguyễn Tường Dũng (đúng như tên anh chàng Dũng trong truyện Đoạn Tuyệt), bị giam vào một hang đá gần Liễu Châu..." Về cô đầm lai đó, cụ đã nói với tôi, "Cuối cùng chú nghĩ không thể yêu cô ta được, vì cô ta là đầm lai". Và từ đó cụ cắt đứt liên hệ với cô ta. Tuy cũng như Dũng của Đoạn Tuyệt, lúc đầu chưa biết phải làm gì, nhưng việc đầu tiên đối với cụ Nguyễn Tường Bách là phải cắt đứt một "mối tình mới chớm", chỉ vì cô ta có máu Tây.
Thế là con đường trước mặt của chàng Dũng Nguyễn Tường Bách đã khá được định hình: phải tìm cách đưa đất nước thoát vòng nô lệ thực dân Pháp. Cũng như Dũng đã giã từ Loan, dù chàng rất yêu, để lên đường làm một điều gì đó cho quê hương, chàng Dũng Nguyễn Tường Bách cũng cắt đứt một mối tình mới chớm để khởi đầu một con đường mới cho dân tộc. Ở hoàn cảnh của Cụ Bách, với 3 người anh đang mở tuần báo Phong Hóa cũng với ước vọng phải làm cuộc đổi mới cho quê hương, thì con đường hợp lý nhất và khả thi nhất đối với chàng Dũng Nguyễn Tường Bách là gia nhập cùng nhóm Phong Hóa với các anh để dùng tài văn chương của mình, qua các phóng sự, qua các bài viết, cho độc giả thấy được những nét đẹp về nước non và văn hóa dân tộc cùng những cảnh "Bùn Lầy Nước Đọng", những cảnh khốn cùng của người dân nô lệ để từ đó mỗi người dân tự ý thức phải tìm một con đường cứu nước. Tự Lực Văn Đoàn đã khởi đi như thế; và chàng Dũng Nguyễn Tường Bách cũng khởi đi như thế.
Cụ Bách có tài văn chương và cụ mê văn chương. Cụ đã có những bài phóng sự hay. Cụ đã có ít ra là một truyện ngắn viết về một đêm Giao Thừa ở nhà thương thực cảm động. Khi hỏi về truyện ngắn này cụ Bách không còn nhớ. Tám mươi năm rồi còn gì! Tôi và Bác sĩ Nguyễn Tường Giang, con trai thứ của Thạch Lam trong nhiều lần nói chuyện với cụ có hỏi, "Tại sao chú không vào TLVĐ?" Cụ trả lời, "Vào TLVĐ đối với chú thì không khó, nhưng lúc đó việc vào TLVĐ đâu có quá quan trọng." Chúng tôi hỏi tiếp, "TLVĐ lúc đó chưa nổi tiếng à?" Cụ cho biết, "Lúc đó TLVĐ cũng nổi tiếng rồi chứ, nhưng đâu ngờ nổi tiếng như sau này."
Cụ có khiếu viết văn và thích viết văn. Vả lại cụ thích đọc sách triết và giỏi về triết mà. Cụ viết văn ở tuổi rất nhỏ. Ở trang 32 cuốn hồi ký, cụ viết: "qua việc đọc những tác phẩm thời ấy, tôi cũng thấy ngứa tay, và viết bừa ra mấy truyện ngắn khi còn 11, 12 tuổi." Cụ cho biết cụ thích viết văn hơn làm bác sĩ nhưng cụ phải học đại học. Không thích nghề bác sĩ lắm nhưng cụ cho biết lúc đó toàn 3 nước Đông Dương (Việt, Miên, Lào) chỉ có một đại học Hà Nội. Mà đại học Hà Nội ngoài phân khoa Canh Nông cụ không thích thì chỉ còn lại có hai phân khoa Luật và Y. Cụ không thích Luật, học luật thời đó đa số chỉ để ra làm quan, quan huyện (quận trưởng) chẳng hạn. Tất cả các anh em cụ mặc dù có thừa điều kiện để đi vào quan trường nhưng không ai thích làm quan. Ở trang 29 hồi ký cụ viết: "Trong anh em chúng tôi, không ai thích làm quan, và cũng không thích quan. Chúng tôi không thích quan liêu, quyền quý, cũng như trọc phú chỉ biết trục lợi; không thích triều đình phong kiến và những kẻ cộng tác với bọn thực dân."
Và thế giới quan-trường đã bị một trong các tác giả của TLVĐ là Khái Hưng chỉ trích trong tác phẩm "Gia Đình". Như vậy cụ chỉ còn một con đường là học Y để ra làm bác sĩ. Cụ phải học bác sĩ nhưng cụ cũng luôn đau khổ vì không thích nghề này. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 97, cụ viết: "Trong đời tôi, có lẽ một sự lầm lẫn trong nhiều lầm lẫn khác, là việc vào học y khoa. Lấy nó làm một cái cần câu cơm hạng tốt, không hơn không kém. Vì tôi cũng như một số bạn hữu khác, lúc mới vào học, rất ít nghĩ đến tính chất "cứu nhân độ thế" hay là những câu châm ngôn của Hippocrate." Nhưng dù sao, nghề y đã cứu cụ và gia đình cụ trong suốt gần 40 năm lưu vong bên Trung Cộng. Cụ cho biết chính nghề Y đã giúp cụ và gia đình tồn tại tương đối nhàn hạ và bình an hơn các người dân Trung Hoa cùng thời tại địa phương trong suốt mấy chục năm kẹt lại tại Trung Cộng. Đặc biệt, cụ kể, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng (1966), những đồng nghiệp hay xếp của cụ bị Hồng Vệ Binh bắt mang đi diễu phố và đánh đập tàn nhẫn, thương tật, không ai giám cứu giúp, thì cụ, vì có qui chế ngoại kiều, nên không bị Hồng Vệ Binh hành hạ, do đó cụ có cơ hội kín đáo cứu chữa những người bị đánh đập. Sau này những người đó trở lại nắm quyền đều nhớ ơn cụ.
Khi hai chúng tôi hỏi sao cụ không tiếp tục vừa viết văn vừa học Y khoa thì cụ cho biết học y khoa rất bận rộn. Vào những năm chót y khoa thì tình hình chính trị lôi cuốn nên cụ càng bận rộn hơn. Đó là lý do cụ chấm dứt con đường văn chương ngoài việc sau khi đã tốt nghiệp y khoa cụ làm chủ nhiệm rồi chủ bút mấy tờ báo của Việt Quốc trong những năm đầu của cuộc tranh chấp Quốc Cộng 1945. Hồi ký của Hứa Bảo Liên ở trang 65 và 67 ghi rằng sau khi chế độ thực dân Pháp bị xụp đổ, tờ Ngày Nay bộ mới ra đời với cụ làm chủ nhiệm. Sau đó tờ này bị đình bản, tờ Bình Minh ra đời cụ lại làm chủ nhiệm. Không lâu sau tờ này lại bị đình bản, tờ Việt Nam Thời Báo ra đời, cụ làm chủ bút. Trong những tờ báo này chủ yếu cụ viết bình luận chính trị. Chẳng bao lâu sau, tờ Việt Nam Thời Báo lại bị đình bản, tờ Việt Nam ra đời. Tờ này là cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng đối chọi với tờ Cờ Giải Phóng của Việt Minh, cụ lại được anh em cử làm chủ nhiệm với sự cộng tác của các tác giả Khái Hưng, Hoàng Đạo. Hàng ngày cụ phải đọc kỹ tờ "Cờ Giải Phóng" của Việt Minh để đối chọi những quan điểm bất đồng. Ở trang 68, tác giả Hứa Bảo Liên (nàng Loan của Nguyễn tường Bách) viết tiếp, "Đầu năm 1946, anh Bách ở luôn nhà báo cho tiện làm việc. Mỗi khi ra ngoài phải có người bảo vệ. Anh bận rộn đến nỗi tóc không cắt, râu không cạo, đầu tóc bờm xờm như người "vô gia cư".
Trụ sở của mấy tờ báo này chính là trụ sở của TLVĐ, số 80 Quan Thánh Hà Nội (hiện nay tòa nhà to lớn này vẫn còn mang số cũ và có nhiều người cư trú, nhưng không ai biết đó là căn nhà gắn liền với những biến động văn hóa và lịch sử đất nước của một thời gian gần 15 năm cho tới 1946 khi Bác sĩ Bách chỉ huy lực lượng vũ trang Việt Quốc rút lui khỏi Hà Nội lên chiến khu của Việt Quốc ở Vĩnh Yên.
Trong thời gian sinh hoạt văn nghệ với TLVĐ cụ Bách thân với một số những cây bút trẻ như Huy Cận, Xuân Diệu...và đặc biệt cụ hay nhắc tới nhà thơ Huyền Kiêu, một nhà thơ to, khỏe và nghèo, là người bạn thân nhất của cụ. Cụ Bách đã phù rể trong đám cưới của Huyền Kiêu. Tường Bách, Đinh Hùng, và Huyền Kiêu là ba trong số những người trẻ nhất trong đám văn hữu thân cận TLVĐ. Trong số những người văn nghệ sĩ trẻ kia có thể kể thêm Xuân Diệu và Huy Cận. Đinh Hùng đã gọi nhóm 3 người bạn thân này là "ba tiểu quỷ". Có một giai thoại về Huyền Kiêu do Đinh Hùng kể, mà nghe qua vừa thấy bùi ngùi, vừa thấy được hết cái tình cảm thân thương của anh em văn nghệ sĩ thân cận với TLVĐ, vừa thấy được phần nào, cái "bề sâu" của TLVĐ. Giai thoại đó có tựa, "Khái Hưng và Nhất Linh trong thơ Huyền Kiêu" do nhà văn Quốc Nam thuật lại lời Đinh Hùng như sau (1):
"Huyền Kiêu vốn là bạn thân thuở nhỏ của Đinh Hùng, ở Hà Nội ... Là hàng xóm, gần nhà Thạch Lam nơi phường Trúc Bạch, tôi thường ghé thăm Thạch Lam, bàn chuyện thơ văn rất lấy làm tương đắc. Và rồi tôi dẫn Huyền Kiêu lại giới thiệu: "Huyền Kiêu, một nhà thơ rất có triển vọng! Tên thực anh ta là Bùi Kiều. KIÊU HUYỀN KIỀU! Huyền Kiêu, giản dị vậy!"
Thạch Lam cười xòa, vui vẻ dẫn hai bạn ... thơ vào thư phòng trò chuyện. Nơi cư trú của gia đình nhà văn Thạch Lam, trong Tự Lực Văn Đoàn, là một ngôi nhà tranh đặc biệt, cất theo kiểu Nhà Ánh Sáng, do phong trào Nhà Ánh Sáng mà báo Ngày Nay phát động từ mấy năm trước. Có phòng khách, phòng ngủ, với đầy đủ tiện nghi ...Tuy là nhà lợp tranh, vách bằng đất bùn nhồi rơm, láng xi măng, quét vôi sáng sủa, ngôi nhà trông thật bề thế vì vẻ cao ráo, thoáng mát của nó. Nhất là ở cạnh Hồ Tây quanh năm thoáng mát. Có vườn hoa trồng đủ cây cảnh lạ, đẹp. Một thú chơi tao nhã của tác giả "Hà Nội Băm Sáu Phố Phường"...
Một bữa vào cuối hè sang thu, Thạch Lam nhắn chúng tôi (vẫn lời Đinh Hùng) đến nhà anh dùng bữa cơm tối. Theo thông lệ, chúng tôi đến sớm, ngồi nơi vườn hoa, ngắm cảnh chiều tà trên gương hồ bát ngát ... "gió rung trăng". Thật thế đấy, nhằm đầu tháng ta, trăng mọc sớm, lơ lửng dưới làn nước trong; từng cơn gió nhẹ lướt mặt hồ, rung động ...
Thạch Lam cười vui:
- Huyền Kiêu làm thơ đi! Nếu cần, tớ gà cho.
Tôi chẳng mấy ngạc nhiên, vì đã hơn lần được nghe Thạch Lam nói chuyện về Thơ, phẩm bình về các trường phái Thơ ...
Tuy nhiên Huyền Kiêu vốn khiêm tốn, chỉ ậm ừ, cười bảo:
- Để lát nữa. Có lẽ sau bữa cơm tối nay, trong lúc tửu hậu trà dư ... chúng mình thơ thẩn ...
- Được lắm!
Đúng lúc, có tiếng chị Thạch Lam gọi. Và Khái Hưng, Nhất Linh ở đâu tới, cũng ào ra vườn. Một lát lại có cả Thế Lữ nữa.
Chủ nhà nhìn mọi người, khắp lượt, bảo:
- Quần hùng tề tựu gần đủ. Thôi mời quý vị vào dùng bữa, kẻo nguội cả.
Vào nhà thì đã thấy Nguyễn Tường Bách ở đấy từ bao giờ...
Cơm xong, chuyện vãn khá lâu. Mãi khuya đêm Nhất Linh mới bảo, vẻ thật trịnh trọng: "Lát nữa tôi sẽ phải rời xa các anh em, nên có thể đây là một đêm họp mặt để tạm biệt. Chuyến hành trình này sẽ không lâu đâu. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Bây giờ chúng ta có thể chia tay nhau được rồi. Riêng tôi, tôi còn có điều nói riêng với anh Khái Hưng, vậy các bạn ra vườn chơi, hoặc đi ngủ. Thành thật cảm ơn tất cả..."
Tôi nhớ đại ý thế, vì đã quá lâu ngày. Mọi người đều buồn nhưng không ai lên tiếng - không có can đảm lên tiếng hỏi, vì đều biết Nhất Linh là người hoạt động cách mạng. Đã đến lúc phải "mạnh tay" với thực dân Pháp, chứ không còn ở giai đoạn làm văn hóa để nâng cao dân trí người mình nữa ...
Ba đứa tôi cùng kéo nhau ra vườn, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi. Có lẽ Thế Lữ đã về nhà gần đấy. Quanh quẩn vẫn chỉ có Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi. Và Thạch Lam, lại chính là Thạch Lam, khơi mào sau khi đã nghĩ lung:
- Thơ ... ra rồi! Này, hãy nghe đây! và anh đặng hắng, ngâm:
"Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề ..."
Đấy câu mở đầu đấy! Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!
Huyền Kiêu và tôi ngơ ngác. Tôi không rõ vì sao bữa nay Thạch Lam lại nhiều ... thi hứng đến thế.
- Được! Huyền Kiêu nói. "Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề ..." Ờ, được đấy. Và anh ngẫm nghĩ. Câu mở của Thạch Lam thật tuyệt. Nó gợi ý cho tôi về một cái gì có thể gọi là ..."cổ kính". Một đêm tiễn đưa nhau chẳng hạn. Hệt đôi bạn Khái Hưng và Nhất Linh trong đêm khuya nay ... trước giờ ly biệt.
- A, khá! Thạch Lam cười. Anh nắm bắt được ý thơ rồi đấy. Vậy cứ thế mà tiếp nối. Tôi vào nhà đem trà nóng ra đây nhá. Nhân thể coi xem họ ra sao?
Một lát sau Thạch Lam đem bình trà và tách ra, bảo:
- Anh ba tôi và Khái Hưng im lìm ngồi trong thư phòng. Cả hai đều không nói năng gì cả. Phòng không đèn đóm nên bóng tối chan hòa. Ánh trăng mờ tỏ ... Có con mèo tam thể tôi nuôi quyện dưới ghế Nhất Linh ngồi. Bên cửa sổ sát vách tường, bức liễn trúc treo rung động dường như cảm thông cho đôi bạn đang nhấp chén rượu suông trong phút giờ sắp ly biệt ...
Tôi chợt lên tiếng:
- Buồn thật. Mà cổ nhân cũng đã từng than: "Ôi! biệt ly sao mà buồn thế!" thật là chí lý.
Chúng tôi uống trà. Trăng vừa lặn. Gà rền tiếng gáy phía xa. Sao dần rơi ... dần rơi và tôi chợt thấy lành lạnh.
Vẫn không thấy chút động tĩnh gì nơi Khái Hưng và Nhất Linh ở trên nhà. Tôi cảm nghĩ trong giờ phút thiêng liêng ấy, ta không nên vọng động. Cũng đừng hỏi han gì cả. Trời sắp sáng rồi.
Và quả thật, ở bên Hồ Tây bữa ấy, trong sân nhà Thạch Lam, ba đứa chúng tôi đều rất dè dặt, hạn chế từng câu nói, tiếng cười. Trong khi ấy Huyền Kiêu thầm lặng "làm việc": suy tư về ý thơ và ý nghĩa của sự chia tay của đôi bạn văn Tự Lực Văn Đoàn.
Chợt Huyền Kiêu nói:
- Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề "Tương Biệt Dạ". Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi dục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký, bất kể trời vừa sập tối lại vì trăng đã chẳng còn... Tình bạn thơ - văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó.
Ý sầu lên vút tới sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Lưu luyến người đi với kẻ về.
Ngồi suốt đêm trường không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng giăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Đã tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn dặm buồn
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Giăng mùa Xuân đó, ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu?
Bài "Tương Biệt Dạ" của Huyền Kiêu, sáng tác vào chớm thu năm Canh Thìn - 1940, chỉ mấy tháng sau là bước sang năm Tân Tỵ - 1941... Khi hoàn thành bài "Tương Biệt Dạ", vào nhà thì Nhất Linh đã lên đường từ lúc nào rồi ...
Trong giới sinh viên tích cực hoạt động bí mật chống Pháp cụ Bách thân với cụ Dương Đức Hiền, lúc đó làm chủ tịch Tổng hội Sinh viên, sau này là chủ tịch Đảng Dân chủ. Hai cụ Nguyễn Tường Bách và Dương Đức Hiền cùng trong đảng Đại Việt Dân Chính do Nhất Linh thành lập. Trong hồi ký, ở trang 123, tình bạn của hai cụ được cụ Bách mô tả như sau: "Một buổi tối sau, có người lên gác trọ tìm tôi. Nhìn rõ, mới biết là anh Dương Đức Hiền. Chúng tôi vui mừng xiết tay nhau...cả hai đều chưa bị khó dễ. Anh Tam (ghi chú của người viết: tức Nhất Linh) vẫn mất tích. Sau có tin báo là anh đã trốn ra ngoài nước, đi Quảng Châu. Hai chúng tôi đồng ý tạm thời hãy nằm im, xem tình thế biến chuyển ra sao."
Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, vì khác chính kiến, tình bạn thắm thiết đó tan rã. Trong hồi ký của Hứa Bảo Liên, trang 64 ghi lại mối quan hệ chặt chẽ giữa cụ Bách và Cụ Dương Đức Hiền. Tác giả cuốn hồi ký viết, "...có người bạn anh Bách là anh Dương Đức Hiền tỏ ý muốn gặp anh Bách để bàn chuyện. Hiền trước kia là bạn cùng một chí hướng và cùng tham gia vào một tổ chức quốc gia. Sau này tổ chức bị Pháp khủng bố, qua một thời gian sau đó, anh ta tham gia vào phong trào Việt Minh và sáng lập đảng Dân Chủ."
Một cách chi tiết hơn, trong hồi ký VNMTKQ ở trang 153 cụ Bách thuật lại: "Một hôm, vào tháng 6, tôi đương ngồi sửa bài tại tòa soạn thì ở dưới đưa lên một người lạ mặt. Anh ta bảo có thư riêng của một người bạn thân nhờ đưa đến. Rồi anh rút từ ống giầy ra một tờ giấy mỏng. Dưới ký tên một người mà tôi cũng không ngờ đến: Anh Dương Đức Hiền. Đã hơn một năm, tôi không được nghe tin tức gì về anh." Trong thư cụ Dương Đức Hiền trước cùng đảng Đại Việt Dân Chính với cụ Bách nhưng nay đã đại diện Việt Minh, hẹn gặp để bàn luận việc cộng tác chung. Cụ Bách và cụ Khái Hưng được đề cử đi gặp cụ Dương Đức Hiền. Nơi gặp cách Hà Đông độ năm cây số. Cụ Bách viết tiếp, "Chúng tôi đạp xe gần tới Hà Đông thì rẽ vào một con đường nhỏ, lầy lội, có khúc phải vác cả xe lên vai, lội bùn mà đi. Gần đến bờ sông Nhuệ, tới một tòa miếu cổ, thì thấy một người mặc quần áo nâu ra đứng đợi. Tuy quần áo khác, nhưng vẫn nhận ra được anh Hiền, gầy hơn, mặt đen sạm, nhưng hai hàm răng lại quá trắng, chẳng cần là mật thám cũng biết đây là một nông dân giả hiệu.
Chúng tôi ngồi trên thềm miếu, nhìn xuống giòng sông Nhuệ nhỏ nước chảy êm đềm, trông hao hao giống con sông Sen ở quê nhà. Chung quanh vắng không có bóng người, chỉ có một người ngồi sau miếu, có lẽ là một tay súng hộ vệ.
Sau vài lời hàn huyên, anh cho biết là đã gia nhập vào Việt Minh, với tư cách lãnh đạo đảng Dân Chủ, và khuyên chúng tôi cùng các anh em Đại Việt Dân Chính khác cũng nên tham gia Việt Minh, không nên đứng lừng khừng nữa. Anh cầm tờ Ngày Nay trong tay, phê bình chủ trương của nó không triệt để, không cách mạng theo đường lối công nông. Anh nói Việt Minh nay đã phát triển mạnh, có căn cứ quân sự, được Đồng Minh ủng hộ...Chúng tôi chỉ nghe, không giải thích gì. Có lẽ vì thế mà anh thất vọng, rằn giọng nói:
- Nếu các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!" Cụ Bách và Khái Hưng hơi ngạc nhiên, vì lời dọa dẫm lại do một đồng chí cũ đưa ra. Hai cụ chỉ cười, đưa mắt nhìn nhau. Cuối cùng cụ Bách đáp, "Cách mạng Việt Nam thì có nhiều con đường để đi, không nhất định là phải tham gia vào Việt Minh. Song về việc hợp tác, chúng tôi sẽ về bàn với các anh em rồi sẽ trả lời sau."
Cuộc hẹn gặp lại sau đó một tuần đã không thành, vì Cụ Hiền nhắn là cụ phải đi lên miền trên có việc cần và sẽ liên lạc lại sau. Hai bên không gặp lại cho tới mấy tháng sau, bất ngờ cụ Bách lại gặp lại cụ Hiền trong một buổi hợp tác đảng phái, mà từ bạn hữu đã trở nên đối địch. Cụ Bách viết tiếp ở trang 155, "Âu cũng là định mệnh. Chúng tôi cũng muốn hợp tác vì công cuộc chung, góp sức với nhau để đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Song thực ra, hai bên có thể chân thành cộng tác với nhau không, lại là một vấn đề khó giải."
Sự chia tay của hai cụ, chính là điển hình sự chia tay của cả một thế hệ cùng ôm mộng đánh đổ thực dân Pháp, nhưng theo hai con đường khác nhau. Thậm chí, còn có sự chia rẽ của những anh em ruột thịt cùng một gia đình, hay của hai cha con, chỉ vì lý do tương tự. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 100, cụ Bách viết, "Nhưng, trong hàng ngũ người Việt chủ trương giải phóng dân tộc, dành độc lập, đã có những chia rẽ sâu xa về ý thức hệ, về sách lược và đường lối hoạt động." Thế hệ 1945 là thế hệ của những người yêu nước, dù là cộng sản hay quốc gia. Tất cả đều có một điểm chung đẹp đẽ là đánh đuổi thực dân Pháp. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 101, cụ Bách viết, "Nhiều phần tử trí thức và sinh viên, bị thôi thúc bởi lòng yêu nước, sẽ kế tiếp nhau tham dự vào những phong trào chống Pháp, hoặc cộng sản hoặc không cộng sản."
Thế hệ thanh niên thập niên 1940-45 là một thế hệ "đẹp" với nhiều ước vọng dành độc lập cho tổ quốc. Đặc biệt thế hệ 1945, ở cả hai khuynh hướng Quốc, Cộng, trong tình hình thế chiến thứ II, các dân tộc thuộc địa vươn lên dành độc lập, đã là một thế hệ "huyền thoại" trong lịch sử cận đại của Việt Nam với nhiệt tình yêu nước không bờ bến, sẵn sàng từ bỏ gia đình, người yêu để lên đường cứu nước. Thế hệ 1945 huyền thoại đã được Đằng Phương (bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy) mô tả qua bài thơ Những Anh Hùng Vô Danh, mà những câu mở đầu thật cảm động và bi tráng: Họ là những anh hùng không tên tuổi - Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông, Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Nhưng thế hệ đó cũng trải qua nhiều bi thảm. Cái bi thảm thể hiện trong tình bạn của cụ Bách với những người bạn thân thương nhất của cụ, mà sau này, mỗi lần nhắc lại cụ vẫn bùi ngùi. Trong những chia rẽ của tình bạn, có lẽ sự chia tay với Dương Đức Hiền làm cụ ray rứt nhất. Cả hai đều có nhiệt tình chống Pháp, lúc đầu cùng chung một hướng, cùng chung một đoàn thể. Nhưng rồi sau cả hai lại theo hai con đường khác nhau: Quốc Gia và Cộng Sản. Thực ra, thế hệ thanh niên với những người như cụ Dương Đức Hiền mang bầu nhiệt huyết theo Việt Minh không phải là theo Cộng Sản. Ngày nay, khá nhiều các đảng viên Cộng Sản lão thành từ thời 1945 và cuộc kháng chiến 9 năm đã thú nhận lúc đó không biết Cộng Sản là gì, không biết chủ thuyết Mác Lê là gì, chỉ một lòng chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.
Người Cộng Sản đã thắng keo đầu khi họ chớp thời cơ, nhân một cuộc biểu tình của công chức Hà Nội ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim ăn mừng nước nhà Độc Lập, thoát khỏi ách thực dân Pháp. Cộng Sản đã nhanh tay biến cuộc biểu tình của nhân dân Hà Nội yêu nước thành cuộc biểu tình của Cộng Sản, dưới danh nghĩa Việt Minh. Và Cộng Sản đã cướp được chính nghĩa.
Chính phủ liên hiệp Quốc Cộng hình thành sau đó đã không có được điều cơ bản là sự tin tưởng lẫn nhau của cả hai phe. Cho nên sự liên hiệp sớm đi tới tan rã. Lịch sử hợp tan của gia đình Nguyễn Tường của cụ Bách cũng gắn liền với giai đoạn hợp tan này của lịch sử dân tộc. Một ngày, cụ Bách bất ngờ tới thăm người chị, bà Nguyễn Thị Thế, nhà ở đê Yên Phụ, cũng gần nhà Thạch Lam. Tuy cùng ở Hà Nội nhưng đã lâu rồi cụ Bách vì bận việc chính sự đã không tới thăm chị và mấy đứa cháu như thường xuyên trước kia. Lần tới thăm bất ngờ này khiến bà chị và mấy đứa cháu ngạc nhiên. Cuộc gặp gỡ đã được Thế Uyên, con của bà Thế, kể lại đại khái như sau: Bất ngờ thấy chú Bách tới sau một thời gian dài vắng mặt. Lần này lại thấy chú đi có một người hộ vệ đứng ở đầu ngõ. Cũng như mọi lần, Thế Uyên lục túi cụ Bách định tìm kẹo. Nhưng lần này chàng không thấy kẹo mà chỉ lôi ra được mấy viên đạn. Cuộc nói chuyện của cụ Bách với mẹ Thế Uyên lần này ngắn ngủi và có vẻ nghiêm trọng. Cụ cho chị cụ biết cụ phải ra đi, và ra đi khá lâu, không biết bao giờ về. Đi đâu thì cụ không nói. Dĩ nhiên cùng với sự chia tay với gia đình, cụ Bách cũng phải chia tay với "nàng Loan" của cụ.
Sau khi rời Hà Nội Cụ Bách lên chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Vĩnh Yên. Theo hồi ký của "nàng Loan của Bách", Cụ Bách ít gửi tin tức về. "Nàng Loan" của cụ Bách dự tính tiếp tục học đại học tại Trung Quốc. Trong hồi ký "Nguyễn Tường Bách và Tôi" của Bà Hứa Bảo Liên, phu nhân của Cụ Bách, "nàng Loan" của cụ Bách kể chuyện giã từ giữa "Loan và Dũng" ở trang 73 như sau:
Chẳng bao lâu sau sự chia rẽ của chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng đi tới chỗ tiêu diệt lẫn nhau một cách tàn khốc hơn. Tại làng Phượng Dực, quê của bà Nhất Linh, trong căn nhà của bà, Cộng Sản (dưới danh nghĩa Việt Minh), trên con đường truy lùng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và gia đình, đã bắt mang theo 4 người gồm có bà Nguyễn Tường Tam, con trai Nguyễn Tường Việt của cụ Nguyễn Tường Tam khi đó mới khoảng 14 tuổi, em ruột của bà Nguyễn Tường Tam, tên Tín, và bố tôi, cụ Nguyễn Tường Cẩm, anh thứ hai của cụ Nguyễn tường Tam. Cộng sản dắt 4 người tù họ gọi là "phản động" đi về vùng họ kiểm soát. Một hôm tình cờ, máy bay đồng minh tới bỏ bom. Văn phòng nơi giam giữ xụp đổ. Hai người tù đàn ông đang bị xích nên không thoát được. Chỉ có bà Nguyễn Tường Tam và người con trai 14 tuổi không bị trói nên thoát được. Lại vẫn là máu tiểu tư sản, anh Nguyễn Tường Việt mới đây kể lại, trước khi đi trốn, anh và mẹ đã nâng cái cây sườn nhà đổ xập đang đè lên một người cán bộ để cứu người cán bộ đang bị thương này. Sau đó hai mẹ con phải trốn 15 ngày dưới hầm trong căn nhà của một người giúp việc ngày xưa tốt bụng và trung thành mà chúng tôi gọi là anh Tí, trước khi anh giúp việc này tìm được cách đưa vợ con cụ Nhất Linh Nguyễn Tường Tam trốn về Hà Nội. Còn bố tôi và người em bà Nhất Linh, bị thủ tiêu mất tích kể từ đó. Cái sự bi thảm trong cuộc chiến Quốc Cộng đã xảy ra cho gia đình tất cả các anh em Nguyễn Tường của Cụ Bách cũng là những bi thảm tương tự xảy ra cho nhiều gia đình khác.
Khi bàn tới sự thất bại của phe Quốc gia trước đối thủ Cộng sản người ta thường nói tới sự quyết liệt và tài tổ chức khéo léo của phe Cộng Sản hơn hẳn phe Quốc Gia. Nhưng người ta ít bàn tới việc người Cộng Sản quyết liệt ra sao và họ tổ chức giỏi như thế nào.
Từ 1945 cho tới 1975 người Quốc Gia bị thua Cộng Sản vì thái độ "không quyết liệt với kẻ thù," trong khi Cộng Sản thì hoàn toàn trái ngược. Trong những thanh toán nhau giữa hai phe, người Cộng Sản quyết liệt hơn ở điểm họ truy lùng toàn bộ bố mẹ, anh, chị, em, vợ con, kể cả con còn niên thiếu của đối thủ chính trị để tiêu diệt. Họ gọi chung những người đó là "thành phần phản động". Một đòn hiểm ác hơn nữa là CS cô lập không những người bị cho là phản động mà còn cô lập cả gia đình họ. Cộng sản vận động, và đe dọa mọi người trong xóm, mọi bạn bè, họ hàng bà con không được quan hệ với cá nhân và gia đình của người bị họ cho lành "thành phần phản động". Ngay cả những người bạn thân, học trò ruột ra đường trông thấy họ từ xa cũng né tránh sang bên kia đường, không dám chạm mặt, không dám chào hỏi dù chỉ một câu, sợ bị liên lụy có thể mang họa vào thân, nhẹ thì bị kiểm điểm, nặng thì bị đi tù. Sự cô lập, bỏ đói của Cộng sản đối với cụ Phan Khôi hay các nhà văn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc với các trí thức từng có công với Cộng Sản như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo v.v... là những ví dụ cho thấy sự độc ác, quyết liệt của Cộng sản khác hẳn chủ trương, chính sách ôn hòa, hợp lý, hợp tình người của người Quốc Gia. Sự quyết liệt một cách độc ác của cộng sản đã được Luật gia Nguyễn Mạnh Tường mô tả khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Hòa Khánh ở trang 712 cuốn Nhân Văn Giai Phẩm của Thụy Khuê. Hòa Khánh hỏi, "Luật sư có bị bắt, bị giam cầm gì không? Trả lời, "Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên lụy đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chỗ khác." Hòa Khánh hỏi, "trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống?" Trả lời, "Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng không nhận...cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu...Rồi tất cả đồ đạc cạn dần...Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè." Đọc hết tường thuật về sự đàn áp của cộng sản đối với gia đình tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, người ta thấy kinh hãi tới độ không tưởng tượng được là có thể tàn bạo tới như vậy (2). Hoàn cảnh bị cô lập và đàn áp của tiến sĩ Trần Đức Thảo cũng kinh hãi tương tự. Và đỉnh điểm là bà vợ Tiến sĩ Trần Đức Thảo không chịu nổi phải nạp đơn ly dị với ông vào năm 1960 (3). Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chính sách cô lập, đàn áp, bỏ tù (gọi là cải tạo), tịch thu nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, cửa tiệm, kho hàng, cơ xưởng sản xuất và triệt đường sinh sống lại được áp dụng trên qui mô rộng lớn toàn miền nam đối với hàng trăm ngàn quân nhân, công chức, doanh nhân và người Việt gốc Hoa. Và lần này không phải chỉ vài gia đình tan nát như ở miền bắc sau 1954, mà là cả chục ngàn gia đình vợ chồng bị tan nát, chia lìa.
Việc truy đuổi để tiêu diệt toàn thể bố mẹ, vợ con, anh chị em của đối thủ chính trị là điều không một tổ chức chính trị nào của người Quốc Gia chủ trương. Sự khác biệt về cách đối xử của người Quốc gia và Cộng sản đối với thành phần khác chính kiến bắt nguồn từ sự khác biệt trong lý thuyết hành động. Chủ thuyết Mác Lê dậy các cán bộ Cộng Sản phải phân loại nhân dân ra từng thành phần không chỉ dựa trên hành vi chính trị hay kinh tế của cá nhân người đó mà còn dựa trên lý lịch gia đình ba đời. Phe Quốc gia không buộc người dân khai lý lịch ba đời hay hai đời mà chỉ đòi hỏi người dân khai lý lịch về phần cá nhân họ mà thôi. Dựa trên lý lịch ba đời mỗi người dân bị Cộng sản phân loại vào một thành phần nào đó để hoặc được hưởng ân huệ hoặc bị đàn áp, triệt hạ. Ngày 5/6/2013, trên trang mạng "Bảo Tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh"
(http://btxvnt.org.vn/cms/?m=16&act=view&id=124), trong bài Quá trình thành lập Xứ uỷ Trung Kỳ và các Tỉnh đảng bộ Nghệ Tĩnh, tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân viết nguyên văn, “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ," Cho tới hiện nay, thế kỷ thứ 21, Cộng Sản vẫn còn áp dụng nguyên tắc của luật rừng này. Ngày nay họ đàn áp, triệt hạ tất cả cha mẹ, anh chị em của những phần tử đối kháng bằng nhiều cách như ép chủ nhà chấm dứt hợp đồng thuê nửa chừng, ép công ty họ đang làm việc phải sa thải họ v.v... Chưa kể họ còn cho công an mặc thường phục đóng vai côn đồ hành hung, gây tai nạn giao thông v.v…Cái thâm độc của CS ở đây còn thể hiện ở điểm họ không chủ trương gây tai nạn chết người mà chỉ gây thương tật nặng. Như vậy, nạn nhân vẫn còn sống và từ đó trở thành một gánh nặng cho toàn bộ gia đình. Ví dụ thì đầy dẫy trên báo chí lề trái (blogs). Mới đây, ngày 19/6/2013 trong bài "Đinh Nhật Uy bị bắt vì "không thuyết phục được Đinh nguyên Kha nhận tội"?" (http://danluan.org/tin-tuc/20130619/dinh-nhat-uy-bi-bat-vi-khong-thuyet-phuc-duoc-dinh-nguyen-kha-nhan-toi) ký giả Trương Minh Đức viết, "Kể từ khi sinh viên Đinh Nguyên Kha bị bắt thì công an địa phương luôn sách nhiễu gia đình bằng nhiều thủ đoạn, họ thường xuyên gọi điện thoại với những khách hàng đến sửa chữa máy vi tính tại cơ sở của Đinh Nhật Uy (ghi chú của Ng. tường Tâm: người anh), công an hăm dọạ khách hàng là nếu làm ăn với gia đình “phản động” này thì hãy coi chừng đó! và cũng kể từ đó không ai dám đến làm ăn với cơ sở của Đinh Nhật Uy, thời gian vắng khách kéo dài Uy không chịu nổi với các khoản thuế, chi phí... Đành phải đóng cửa để về vườn làm bất cứ công việc gì cho gia đình. Từ một Kỹ Sư Công nghệ thông tin, chuyên gia máy tính đành phải về cuốc đất trồng rau, giăng lưới bắt từng con cá sặc để góp thêm cho mẹ Liên chờ đến chuyến thăm nuôi gởi cho em Nguyên Kha đang ở trong tù... đang thất nghiệp không giúp ích được gì nên tính lên Sài Gòn in tái bản thêm 400 cuốn sách kỹ thuật về sửa chữa máy Photocoppy mà Uy cùng mấy người bạn đồng xuất bản trước đây, nếu bán được cũng có ít tiền giúp mẹ để phụ giúp nuôi em Kha… nhưng khi vừa đến nhà in thì bị từ chối với lý do là tên của Nhật Uy có trong cuốn sách đó nên không được in tái bản!??.."
Ngày 19-6-2013 trong phản hồi bài: "Một gợi ý cho biểu tình ở VN: Đứng im để biểu tình ở Thổ ..." Một khách với mã số 90908 đã viết, "Tôi không biết cách xử lý của cảnh sát các nước khắc nghiệt tới đâu, nhưng tôi biết rõ ở VN, không chỉ cảnh sát, cả một guồng máy sẽ ập xuống, không chỉ bản thân người đi biểu tình, cả gia đình thân quyền cũng vạ lây. Triệt đường sinh kế, cô lập sinh hoạt, triệu tập lên triệu tập xuống, rỉ tai, hù dọa, rồi nếu cần thì thuê mướn bọn xã hội đen hành xử kiểu côn đồ...Kể sơ sơ những thứ lồ lộ ra trước mắt mọi người thế chứ còn những chiêu ngầm gian xảo hơn, tàn bạo hơn, có thể tôi vẫn chưa kịp nắm rõ. (https://danluan.org/tin-tuc/20130619/mot-goi-y-cho-bieu-tinh-o-vn-dung-im-de-bieu-tinh-o-tho-nhi-ky#comment-90908)
Phe Quốc Gia không có một lý thuyết hành động nào phân loại người dân theo lý lịch gia đình để có chính sách đối xử tương ứng cho nên không có chính sách đàn áp, tiêu diệt thân nhân, gia đình của các phần tử Cộng Sản. Trong suốt 21 năm của chính quyền miền Nam, không một người vợ nào của Cộng Sản nằm vùng bị bắt nếu không có bằng chứng chính người đó hoạt động cho Cộng Sản. Vợ con họ cũng không bị đuổi việc cho dù đang làm việc cho chính quyền. Các khách hàng làm ăn với vợ con họ cũng không bị đe dọa để chấm dứt buôn bán với họ. Không một người con nào của cán bộ cộng sản nằm vùng hay tập kết ra Bắc bị đuổi học hay không xin được việc làm trong công sở chỉ vì liên hệ gia đình. Nhiều khi người Quốc gia còn đối xử với các đối thủ Cộng sản một cách "Quân tử tầu" nữa. Sự việc này mới đây đã được nhiều "cộng sản nằm vùng" thuật lại. Bài "Có một giờ G khác vào năm 1974" đăng trên báo Saigon Tiếp Thị (http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html) có lời thuật của "Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung". Người phi công của Không Quân Saigon ném bom Dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đã thuật lại việc Chính Quyền Saigon và Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân Saigòn đối xử với vợ con ông sau khi ông theo Cộng Sản phản bội Việt Nam Cộng Hòa như sau: "...thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Bài báo thuật tiếp, "Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ." Người Quốc gia là như vậy, “tiểu tư sản”, lại thêm “quân tử tầu”, nên thua Cộng Sản là phải.
Còn nói về tài tổ chức khéo léo của Cộng Sản hơn hẳn người Quốc Gia thì phải hiểu rằng người Quốc Gia thua kém Cộng Sản chỉ vì khác hẳn Cộng Sản, người Quốc Gia tổ chức theo nguyên tắc Pháp Quyền (rules of law), trong khi Cộng Sản không có luật, hay chỉ có luật để trưng bày, trong thực tế họ dùng luật miệng, luật rừng. Chính vì nguyên tắc Pháp Quyền của Người Quốc Gia mà đại đa số cán bộ Cộng Sản nằm vùng đã được ung dung hoạt động để cuối cùng phá hỏng cái nền dân chủ Pháp Quyền đã từng bảo vệ người dân cũng như bảo vệ chính họ. Ngày nay, họ đang tranh đấu quyết liệt đòi chính quyền Cộng Sản phải trả lại cho họ những nhân quyền họ từng được hưởng ở miền Nam mà ngày xưa chính họ phá bỏ. Để hiểu rõ điều này, tốt hơn hết nên nghe tường thuật của cựu "Việt Cộng nằm vùng" Hạ Đình Nguyên trong bài "Nguyễn Phương Uyên, tôi có thể làm gì cho em?" đăng ngày 5-11-2012 trên trang mạng Việt-studies (-http://viet-studies.info/kinhte/HaDinhNguyen_NguyenPhuongUyen.htm) " Đối tượng mà chúng tôi chống, lúc bấy giờ, là Chính phủ Việt Nam Cọng Hòa, song lại có đôi điều mà trái tim công bằng của tuổi trẻ ghi nhớ như là nét son của một xã hội công dân – dù nó chưa tương xứng để gọi tên như thế– Tôi nhớ tại Tối Cao Pháp viện, Tổng thống VNCH – Nguyễn Văn Thiệu, đã đích thân đến Tòa án can thiệp, tranh luận tay đôi với Viện trưởng Nguyễn Minh Tiết, rằng cần phải kết án 21 SV trong số 42 SVHS đã bị bắt vừa qua là Việt Cộng, vì có bằng chứng minh bạch. Ông Viện trưởng Tiết đã cương quyết bác bỏ, vì sự tra tấn dã man là bằng chứng của ép cung, lời cung đã khai không còn giá trị. Thế là hầu hết đã được trả tự do ngay sau phiên tòa. Trong đó có một số anh chị có vai trò trong tổ chức Thành đoàn CS." Cái tổ chức của người Quốc Gia kém xa Cộng Sản ở điểm mà chính ông Hạ Đình Nguyên cũng phải nhận định tiếp, "Dù các anh chị ấy có lập trường kiên định, một lòng trung thành với con đường lý tưởng đã chọn, song không khỏi ghi nhớ về tính cách của một vị quan tòa, và nguyên tắc, dù chưa phải là thực chất của một thể chế dân chủ, nhưng ở đó có một số điểm tựa để cho người dân tin cậy, là hệ thống luật pháp về dân sự, dù thời điểm đó đang là chiến tranh." Người Quốc Gia tổ chức kém Cộng Sản bởi vì họ có một tổ chức tư pháp bảo vệ người dân như vậy.
Người Quốc Gia đã hành xử hoàn toàn khác người Cộng Sản, "dù thời điểm đó đang là chiến tranh" (mượn lời Việt Cộng nằm vùng Hạ Đình Nguyên) do đó trong một thời điểm của lịch sử họ đã thua.
Sự thất bại của đoàn quân Việt Quốc đã khiến cụ Bách và các đồng chí phải bôn tẩu sang Trung Quốc. Cũng như Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn, cuối cùng hai người cũng tái hồi. Cụ Bách và nàng Loan của cụ cuối cùng cũng tái hồi. Loan của cụ Bách tên là Hứa Bảo Liên, một cô gái xinh xắn, mau mắn, đánh bóng bàn giỏi, người Hà Nội Việt gốc Hoa, thường vào nhà thương làm thiện nguyện và quen chàng sinh viên y khoa Nguyễn Tường Bách trẻ tuổi, đẹp trai, tài hoa, đàn hay, nhẩy giỏi, học giỏi, ở đó. Như vừa trình bày ở trên, khi cụ Bách chia tay với cô Hứa Bảo Liên trong chiến khu hai người không một hứa hẹn gì. Chính trường chưa rõ nét mà cuộc đời của chàng Dũng Nguyễn Tường Bách thì vô định, sống nay chết mai, ai biết được đường tên mũi đạn. Sau khi lên thăm giã từ chàng thanh niên bác sĩ Nguyễn Tường Bách tại chiến khu của VNQDĐ tại Việt Trì, cô Hứa Bảo Liên lên đường sang du học bên Côn Minh, Trung Quốc. Sự giã từ đã tưởng như vĩnh viễn. Nhưng cuộc tái ngộ bất ngờ của hai người được nàng Loan Hứa Bảo Liên kể lại ở trang 91 cuốn hồi ký "Nguyễn Tường Bách và Tôi" như sau:
"Một buổi chiều mùa thu vào cuối tuần, tôi vội vàng ra trường để cùng các anh Tam (Nhất Linh), Long (Hoàng Đạo) và các anh em khác ra ga Côn Minh...Mọi người đang đứng đợi. Mãi lâu mới có một đoàn xe lửa từ từ tiến vào trong ga. Chuyến xe này từ Khai-Viễn tới. Tất cả mọi người đều chăm chú nhìn những hành khách đang xuống xe. Mãi sau có một anh chỉ cho mọi người nhìn theo, đằng xa có một toán người ăn mặc giống nhau, với những bộ đồ mầu xanh đã bạc. Trên vai người nào cũng đeo một túi vải và chiếc bi -đông đựng nước. Tất cả đều gầy, đen và trông có vẻ mệt mỏi so với những hành khách khác. Anh Bách gầy hơn hết, và đen rạm đến khó nhận ra. Được cái anh vẫn điềm tĩnh vui vẻ bắt tay mọi người. Cuối cùng tất cả đều vui mừng trở về trụ sở. Túi vải anh không có gì đáng giá, ngoài vài bộ quần áo thay đổi, áo len cũng không có. Trên tay anh có chiếc đồng hồ cũ và chiếc nhẫn tôi tặng cho anh trước kia, có lẽ là vật đáng giá nhất mà anh đã đem theo." Hình ảnh tái ngộ bất ngờ của Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và người yêu tại một sân ga xa xôi, giữa thời chinh chiến, mang đậm nét lãng mạn cách mạng của Dũng và Loan trong tiểu thuyết của Nhất Linh, Tự Lực Văn Đoàn.
Thế là một giai đoạn đầy biến động của lịch sử đất nước đã sang trang với sự thất bại của đoàn quân Việt Quốc. Đó là năm 1946 với sự tan rã của chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng. Khi được tôi và bác sĩ Nguyễn Tường Giang con cụ Thạch Lam hỏi, "Trong đời chú điều gì làm chú hối tiếc nhất?" thì không ngập ngừng cụ trả lời ngay: "Chú hối tiếc nhất là vào thời điểm 1945, các chú chỉ chậm chân 15 phút để rồi cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài cho mãi tới thế hệ các cháu ngày nay." Khi nói tới sự chậm chân 15 phút, ý cụ muốn nói tới việc Phe Quốc Gia đã không quyết liệt để có chủ trương cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim để rồi chỉ trong 15 phút bất ngờ Phe Cộng Sản đã biến cuộc biểu tình ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim, ăn mừng nước nhà độc lập khỏi ách thực dân Pháp và Nhật, thành một cuộc biểu tình cướp chính quyền của phe họ.
Theo hồi ký của Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, nxb Văn Hoá, Houston, 1996, thì Bác sĩ Chữ lúc đó là đại diện chính phủ Trần Trọng Kim đã từ chối đề nghị của quân Nhật dẹp loạn Việt Minh. Ngoài ra trong một bài phát biểu tại Đại Hội Toàn Đảng Đại Việt năm 1998, tại San Jose, California, USA, ông Hoàng Nhật Tiến, đảng viên niên trưởng (sau này, năm 2006 là chủ tịch Đảng) đã tiết lộ rằng, Cụ Trương Tử Anh, lãnh tụ chung của các đảng quốc gia, đã dè dặt không muốn cướp chính quyền Hà nội nhân ngày công chức biểu tình 19/8/1945 mặc dù các đảng viên các đảng phái quốc gia đã hết sức thuyết phục. Sự thiếu quyết liệt của các đảng phái Quốc Gia đã mang lại cơ hội cho Cộng Sản chiếm được chính nghĩa trước nhân dân.
Thực ra, Việt Minh Cộng Sản không đủ cán bộ để làm cuộc biểu tình đông như vậy, họ chỉ cướp công và dấu mặt cộng sản để cướp chính nghĩa mà thôi. Tâm sự tiếc nuối của cụ Nguyễn Tường Bách đã được mô tả ngắn gọn trong tựa đề của một bài phỏng vấn cụ Bách đăng trên tuần báo Saigon USA của Luật Sư Nguyễn Tâm xuất bản tại San Jose, California, Hoa Kỳ ngày 11-1-1999; tựa đề đó là: "Lỡ Một Bước, Hận Ngàn Thu".
Năm 1946 Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và các đồng chí của ông đã một lần thất bại trước đối thủ Võ Nguyên Giáp và phe Cộng Sản và phải bôn tẩu sang Trung Quốc. Năm 2013, trong một trận "quyết đấu tay đôi", vì cả hai phe giờ chỉ còn hai cụ, một lần nữa Bác sĩ Nguyễn Tường Bách lại thất bại trước cụ Võ Nguyên Giáp khi phải ra đi sang bên kia thế giới, trong khi cụ Võ Nguyên Giáp vẫn còn ở lại, dù phải mang ống thở.
Cuộc chiến Quốc Cộng thế hệ 1945 như vậy chính thức đã kết thúc. Nhưng cuộc chiến giữa những người Quốc gia, được hiểu là những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, và những đảng viên Cộng Sản mù quáng vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên khác với thời kỳ ba mươi năm chiến tranh 1945-1975, cuộc chiến Quốc Cộng hiện nay đang diễn ra với phần áp đảo nghiêng về phe đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền. Mặc cho trước mắt, phe Cộng Sản cầm quyền còn đang hung hãn, nhưng sự hung hãn hiện nay của phe Cộng Sản cầm quyền chỉ như sự vùng vẫy của con thú đang lâm vào đường cùng không lối thoát.
***
(1) http://www.hocxa.com/VanHoc/KhaiHung/KHung&NLinhtrongthoHKieu_QuocNam.php ; Khái Hưng và Nhất Linh trong thơ Huyền Kiêu
-Hồi Ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua cuốn I của Nguyễn Tường Bách.
-Hồi Ký về Gia Đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế
(2): Nhân Văn Giai Phẩm-tác giả Thụy Khuê-nhà xuất bản Tiếng Quê Hương Virginia-ấn bản 2012
(3): http://www.viet-studies.info/TDThao/NTNhat_TDThao_NKVien.htm
Đăng trên VieTimes-10-11-12/10/2007-Chuyện người vợ "duy nhất" của... hai học giả lớn Việt Nam
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, người dân xuống đường, nguyên thủy, để bảo vệ một trong những công viên hiếm hoi của thành phố Istanbul, công viên Gezi, khỏi bị xe bulldozer của Thủ Tướng Recep Tayyip Erdogan san bằng để xây dựng thêm một kiến trúc theo ý muốn của ông. Người dân xuống đường vì thủ tướng, đã chế ngự chính trị Thổ từ 11 năm nay, và vẫn được sự hưởng ứng của nửa nước Thổ bảo thủ và sùng đạo, đã bóp nghẹt đối lập. Dùng những thủ đoạn như luật thuế, ông Erdogan đã uy hiếp báo chí và đối lập để làm họ im tiếng.
Nhưng ông Erdogan quên mất là ông đang sống trong Thế kỷ 21. Khi đài CNN Thổ Nhĩ Kỳ sợ hãi không dám tường thuật về cuộc biểu tình ngay bên ngoài phòng tin của họ, chiếu phim về loài chim penguins, thanh niên Thổ đã dùng Twitter và Internet để thay thế lập nên một hệ thống tin tức độc lập. Khi các vị dân cử đối lập thu mình sợ sệt, thanh niên đã biến Công viên Gezi và Quảng trường Taksim thành một thứ quốc dân nghị viện và từ đó họ nay đã trở thành đối lập thực sự.
Và trong cái thế giới thông tin của thế kỷ này, những giới hạn cổ truyền đã bị san bằng. Những thanh niên xuống đường, những nhà trí thức đang đứng im lặng biểu tình phản đối, đã đòi hỏi một điều mà ông Erdogan đã quên mất kể từ ngày lên nắm quyền. Họ đòi chính quyền phải đối thoại với người dân, tham khảo ý kiến của dân, chứ không phải chỉ ngồi trên ra lệnh. Thủ tướng, sau hơn một thập niên cai trị đã quên mất phải làm gì khi có người từ chối tuân lệnh ông.
Hơn thế, ngày nay khi ông nói sai sự thật, ngay lập tức đã có đính chính. Khi ông Erdogan dở luận điệu bài ngoại, chỉ trích những kẻ “dạy đời” ông về sự đàn áp người dân, bảo là cuộc đàn áp phong trào chiếm đóng Wall Street đã làm cho 17 người thiệt mạng vì hơi cay, ngay lập tức Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Ankara tweet bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Thổ là không có ai chết vì hành động của cảnh sát trong các vụ chiếm đóng.
Ðiều đáng buồn là sự kiêu căng, độc đoán của ông đã làm hoen ố điều mà đáng lẽ là một thành tích lãnh đạo nổi bật. Ông và đảng Hồi Giáo quá khích của ông đã cải thiện hệ thống y tế, nâng lợi tức cá nhân, xây dựng hạ tầng cơ sở, cải thiện việc cai trị và đẩy được quân đội ra khỏi quyền lực. Nhưng thành công đã làm ông say men chiến thắng. Ông bắt đầu giới hạn quyền của người dân, buộc họ chỉ được uống rượu nơi nào và khi nào ông cho phép, và một phụ nữ chỉ được quyền có ba đứa con, đòi cấm phá thai, cấm việc sinh nở giải phẫu Caesarean, và ngay cả đến những phim truyện mà người dân được quyền xem. Hôm Thứ Hai, Nhật báo Zaman xuất bản cuộc thăm dò dư luận cho thấy 54.4% dân Thổ nói chính quyền đã can thiệp vào cuộc sống cá nhân.
Và thanh niên, lớn lên trong hình ảnh của các quảng trường ở Ai Cập, Tunisia, đã không còn sợ hãi nữa. Họ đã đổ xuống đường để bảo cho ông Erdogan biết là ông phải nhường bước. Một kỹ sư không gian bảo với một nhà báo Tây phương một câu thật chí lý “Họ đang tìm cách làm luật lệ về tôn giáo và ép mọi người phải theo. Dân chủ không phải chỉ là về những gì đa số muốn. Dân chủ còn là về những gì thiểu số muốn nữa. Dân chủ không phải chỉ là về bầu cử.”
Ở Brazil, mọi sự bắt đầu với những vé xe bus đã leo thang vì các lãnh tụ cũng đã mất liên hệ với dân chúng của mình.
Cách đây hơn một tuần, Ðô Trưởng Fernando Haddad của Sao Paulo đã không có mặt ở thành phố khi nó bùng nổ. Ông đang ở Paris để vận động tổ chức World Fair 2020, chính những biến cố quốc tế tốn kém và phi lý mà dân chúng của ông đòi hỏi chấm dứt. Tuần này, ông Haddad, 50 tuổi, đã trốn trong phòng của mình trong khi bên ngoài những người biểu tình đập bể cửa kiếng, tức giận vì ông đã từ chối không gặp họ chứ đừng nói nhượng bộ yêu cầu của họ, hủy việc tăng giá xe bus.
Ðiều đáng nói hơn nữa là ông Haddad đang được coi là một ngôi sao đang lên của đảng cầm quyền, người đang có những đồn đoán có thể là ứng cử viên tổng thống tương lai của đảng cánh hữu đã lên nắm quyền nhờ những cuộc biểu tình phản đối trước đây. Việc ông và toàn thể chính phủ và đảng cầm quyền không đọc đúng được sự bực tức của dân chúng đã chứng tỏ là giữa một chính phủ tự hào về những chính sách được hưởng ứng rộng rãi và một đa số ngày càng tăng trong dân chúng đã mất liên hệ.
Ðảng Công Nhân, lên cầm quyền nhờ đáp ứng ước vọng dân chủ của người dân, nay lại đang phải đối diện với một làn sóng chống đối khổng lồ vì dân chúng đã chứng kiến với ngày càng nhiều bất bình tham nhũng gia tăng, giáo dục, hạ tầng cơ sở, y tế ngày càng tệ hại trong khi chính phủ vẫn còn đuổi theo giấc mơ làm sao nâng cao vị thế của Brazil trên trường quốc tế qua việc đăng cai tổ chức World Cup 2014 và Thế Vận Hội 2016.
Sự thất vọng của dân chúng lộ rõ khi bên ngoài một sân vận động vừa mới xây nơi đang có cuộc đua vòng loại của Cúp Confederation, những người biểu tình mang biểu ngữ đòi trường học và bệnh viện “theo tiêu chuẩn FIFA”. Và càng lộ rõ hơn khi người biểu tình leo lên tòa nhà Quốc Hội để nhảy múa hô khẩu hiệu phản đối các vị dân cử bên trong là tham nhũng và hối mại quyền thế.
Với sự ủng hộ cho phong trào biểu tình ngày càng tăng, khi một cuộc thăm dò mới cho thấy 77% dân chúng Sao Paulo ủng hộ biểu tình, hai ông đô trưởng của Sao Paulo và đô trưởng của Rio de Janeiro thuộc đảng đối lập, thụt lùi rút lại việc tăng giá xe bus.
Nhưng giá xe bus chỉ là cái cớ để diễn tả sự bực tức ngày càng gia tăng của dân chúng. Và phản ứng mãnh liệt của họ đã làm chính phủ sửng sốt. Một phụ tá cao cấp của Tổng Thống Dilma Roussef đã phải công nhận là “Chúng ta không hiểu chuyện gì đang xảy ra.”
Vấn đề như Giáo Sư Marcos Nobre giải thích cho The New York Times “Ðảng Công Nhân nghĩ là họ đại diện cho mọi thành phần tiến bộ trong nước, nhưng họ đã nắm quyền một thập niên nay rồi. Họ đã làm được rất nhiều, nhưng nay họ thành cơ chế và thẩm quyền, không còn là của người dân nữa.”
Với tăng trưởng kinh tế vốn đã thúc đẩy tham vọng quốc tế của Brazil nay đang chậm hẳn lại và lạm phát, vốn đã là vấn nạn của nhiều thập niên cho đến giữa năm 1990, lại ngóc đầu lên lại tạo lo ngại cho người dân.
Nhưng hơn tất cả là điều mà các nhà chính trị học gọi là “cuộc cách mạng của những trông đợi ngày một gia tăng” (revolution of rising expectation). Nhờ chính phủ thành công giảm thiểu bất bình đẳng, nâng mức sống, số sinh viên đại học đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Thất nghiệp vẫn còn ở mức thấp kỷ lục, nhưng các sinh viên mới tốt nghiệp đòi hỏi không những công ăn việc làm mà còn công ăn việc làm tương xứng với học lực và kỳ vọng của họ, nhất là khi họ thấy các lãnh tụ chính trị ăn lương quá cao và tham nhũng tràn lan.
Sự cứng rắn của ông Erdogan ở Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tạo thêm bất mãn để rồi sẽ có ngày tức nước vỡ bờ. Sự nhượng bộ của các chính trị gia ở Brazil có lẽ quá trễ để làm dịu dư luận. Vấn đề là ở cả hai nơi, các chính trị gia dân chủ đã quên mất lắng nghe và đối thoại với dân mình.
Báo chí Việt Nam trong một chế độ độc tài
Song Chi/Người Việt
Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày
Nhà Báo Việt Nam, 21 Tháng Sáu là báo chí truyền thông của nhà nước lại
tràn ngập những thông tin, hình ảnh các lãnh đạo tỉnh này, sở kia đến
thăm, tặng hoa và chúc mừng báo A, B, C… các quan chức, giới trí thức,
doanh nhân… chúc mừng ngày nhà báo.
Việt Nam có hơn 700
cơ quan báo chí nhưng đều nằm dưới quyền điều hành của một đảng Cộng
Sản. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
|
Cứ như thể nghề báo thật sự được coi trọng, báo chí có thể làm đúng chức năng phản ánh sự thật, là quyền lực thứ tư trong xã hội.
Thực tế ai cũng biết trong một chế độ độc tài độc đảng như ở Việt Nam, báo chí chỉ là công cụ của nhà cầm quyền, hoạt động dưới sự quản lý và giám sát của Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam, và dưới sự định hướng của ban tuyên giáo trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam.
Do vậy, mặc dù ở Việt Nam có hơn 700 tờ báo in, 67 đài phát thanh-truyền hình trung ương và địa phương, 34 báo điện tử, hàng ngàn trang thông tin điện tử nhưng “chỉ có một tổng biên tập” mà thôi.
Việc phải luôn luôn viết trong tâm thế có thể bị bật đèn đỏ thổi phạt bất cứ lúc nào khiến các nhà báo dần dần có thói quen tự kiểm duyệt, tự biên tập, né tránh tất cả mọi đề tài bị nhà nước xếp vào loại “nhạy cảm”.
Bên cạnh đó, trong một môi trường mà đạo đức xã hội ngày càng tha hóa, đạo đức nghề nghiệp của nhiều nhà báo dường như cũng ngày càng xuống thấp.
Xã hội đã lắm ung nhọt, rác rưởi, nhưng chính một số nhà báo, bằng những bài viết vô lương tâm, vô trách nhiệm của mình, đã ném thêm rác vào đời sống tinh thần của người đọc.
Loại rác rưởi dễ thấy nhất là những bài báo “lá cải”, chạy theo những đề tài, yếu tố gợi dục, bạo lực để câu khách.
Trên một số trang tin, báo mạng và cả báo giấy, ngày nào cũng tràn ngập tin tức về các vụ “cướp, giết, hiếp” các kiểu, trong và ngoài nước. Vấn đề không chỉ nằm ở số lượng mà còn ở cách khai thác thông tin, từ cách giật tít nhằm câu khách cho đến nội dung đi sâu quá chi tiết vào những vụ án, nhất là án tình, hiếp dâm hoặc giết người man rợ.
Có những vụ án được báo chí khai thác liên tiếp hàng chục bài, từ lúc mới xảy ra cho đến khi bắt được hung thủ, ra tòa, kết án, thậm chí khi hung thủ đã vào trại giam một thời gian báo chí cũng xới lại.
Trong cách đưa tin của báo chí Việt Nam nhiều khi phải nói là rất thiếu lương tâm. Những vụ bán dâm, hiếp dâm, giết người, kẻ phạm tội bị phơi bày tên tuổi mặt mũi đã đành, còn nạn nhân, tuy cũng có để tên tắt, tên giả nhưng lại tiết lộ thông tin về quê quán, nhà cửa, nơi học, nơi làm việc… nên nếu bà con làng xóm, bạn bè quen biết với nạn nhân thì cũng dễ đoán ra.
Các nhà báo dường như không hề nghĩ đến chuyện nạn nhân hay kể cả người thân, con cái của kẻ thủ ác sẽ sống tiếp cuộc đời của họ ra sao.
Ðời tư của các nghệ sĩ, giới biểu diễn cũng là một đề tài được báo chí lá cải thường xuyên khai thác. Những thông tin kiểu ngồi lê đôi mách, dòm qua lỗ khóa, rồi nào những hình ảnh “lộ hàng”, khoe thân…
Thật ra dân chúng ở đâu trên thế giới thì cũng thích tìm hiểu những thông tin về giới nghệ sĩ, những người nổi tiếng, và báo chí lá cải ở đâu thì cũng rất biết cách khai thác đề tài này. Nhưng ở các nước dân chủ pháp trị, có luật pháp hẳn hoi, nếu báo chí đưa tin không đúng sự thật sẽ bị kiện ra tòa, có khi sập tiệm.
Vấn đề của Việt Nam là báo chí cứ tha hồ viết, một số người nhiều khi bị đưa tin không đúng hoặc bị xâm phạm đời tư quá đà cũng ít khi muốn kiện. Bởi vì cũng đã có vài vụ nghệ sĩ kiện báo chí nhưng rồi mất thời gian, mệt mỏi mà cũng chẳng đi đến đâu.
Ðó là chưa kể cứ đưa tin các người đẹp tậu xế hộp siêu sang, ở những ngôi nhà lộng lẫy, mặc những chiếc váy hàng hiệu đắt tiền, cặp bồ với các đại gia… là vô tình cổ xúy cho lối sống chạy theo vật chất, coi chuộng bề ngoài.
Nhưng đáng nói hơn là những bài viết có liên quan đến những nhân vật, những vụ án có yếu tố chính trị, chẳng những không khách quan mà còn xuyên tạc sự thật, bôi nhọ, vu khống đủ kiểu.
Từ những vụ biểu tình phản đối Trung Quốc cũng bị đài truyền hình nhà nước xuyên tạc thành gây rối trật tự công cộng, đi biểu tình vì nhận tiền của các thế lực thù địch xúi giục… cho đến những người yêu nước, bất đồng chính kiến.
Từ nhà văn Dương Thu Hương, Tướng Trần Ðộ, thượng tọa Thích Quảng Ðộ… trước kia cho đến Luật Sư Lê Thị Công Nhân, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, Luật Sư Lê Công Ðịnh, thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung, các blogger Ðiếu Cày, Anh Ba Sài Gòn, Công Lý và Sự Thật, sinh viên Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Ðinh Nguyên Kha… đều là nạn nhân của hệ thống báo chí truyền thông làm theo lệnh đảng.
Báo chí bôi nhọ đời tư, xuyên tạc mục đích đấu tranh của họ vì yêu nước, vì mong muốn Việt Nam sẽ thay đổi trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, thoát khỏi sự lạc hậu đói nghèo và nguy cơ xâm lược từ Trung Quốc. Trong khi họ hoàn toàn không có điều kiện để tranh luận, chứng minh ngược lại.
Mới đây nhất là vụ tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực để phản đối cách hành xử của một số cán bộ, giám thị trại giam số 5 Thanh Hóa. Sau nhiều ngày im lặng không đếm xỉa gì đến vụ tuyệt thực và yêu cầu của ông Vũ, khi thấy dư luận ngày càng căng, cộng với phong trào tuyệt thực đồng hành cùng Cù Huy Hà Vũ lan rộng trong và ngoài nước, nhà cầm quyền đã đối phó bằng cách cho báo chí, truyền hình đồng loạt đưa tin ông Vũ không hề tuyệt thực, vẫn béo khỏe.
Báo chí “lề dân” đã nhanh chóng vạch trần những điểm không thuyết phục, phi lý, chứng tỏ một sự cắt dán, xảo trá của những bài báo, clip nói trên. Nhưng những thông tin do báo, đài của nhà nước tung ra cũng làm cho một số người dân, ngay cả những người từng ủng hộ ông Vũ, hoang mang, nửa tin nửa ngờ.
Sự thật vẫn là sự thật. Cuối cùng lá thư của ông Cù Huy Hà Vũ tuyên bố kết thúc cuộc tuyệt thực sau 25 ngày, khi trại giam số 5 Bộ Công An buộc phải ra văn bản giải quyết đơn của ông đã chứng minh ông thật sự tuyệt thực.
Ông Cù Huy Hà Vũ cùng gia đình và những người ủng hộ đã hai lần chiến thắng nhà cầm quyền và cả mạng lưới truyền thông “lề đảng” hùng hậu. Lần thứ nhất, nhà cầm quyền định bôi nhọ ông bằng “2 bao cao su”, nhưng khi trò bẩn thỉu hèn hạ này bị vạch trần thì chính họ cũng phải đánh bài lờ, không nhắc đến trong phiên tòa xử ông Vũ. Và lần này, âm mưu bôi nhọ ông Vũ không tuyệt thực cũng đã thất bại.
Không hiểu những “nhà báo” và cả những ông tổng biên tập, giám đốc của những tờ báo, đài đã ra lệnh cho cấp dưới viết, làm những video clip xảo trá như vậy có khi nào cảm thấy tự xấu hổ, nhục nhã? Và đội ngũ những dư luận viên, blogger tay sai tư cách mạt hạng thi nhau bôi bác, cười cợt vụ tuyệt thực này nữa.
Thực tế, không phải nhà báo “lề đảng” nào cũng bán rẻ lương tâm. Vẫn còn đó những nhà báo có thực tâm thực tài, đau đáu với vận mệnh đất nước, với thực trạng xã hội nát bét và số phận còn quá thiệt thòi của dân tộc Việt Nam trong một thể chế chính trị lạc hậu, sai lầm như hiện nay.
Có những người trong số họ đã chấp nhận bỏ báo để làm người viết lách tự do, gia nhập hàng ngũ báo chí “lề dân”, hoặc nếu chưa thể bỏ nghề được vì miếng cơm manh áo thì cũng cẩn trọng với ngòi bút, hoặc chọn những cách viết khiến người đọc có thể hiểu được sự thật “giữa hai hàng chữ”.
Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ. Dù sớm dù muộn.
Nhân ngày Nhà Báo Việt Nam, chỉ muốn nhắn với tất cả những người mang danh nhà báo nhưng không có lương tâm nghề nghiệp, hoặc chấp nhận làm bồi bút cho nhà cầm quyền bôi nhọ những người yêu nước, kể cả những kẻ đến giờ này vẫn còn viết lách, làm phim tiếp tục xuyên tạc sự thật lịch sử, bưng bô cho chế độ… Rằng trong thời buổi công nghệ kỹ thuật tiên tiến này, không một bài báo, video clip, bộ phim… nào đã đưa ra có thể xóa sạch không dấu vết.
Nếu không còn biết xấu hổ là gì thì cũng nên biết sợ cho điều này và tương lai của chính mình.
1858. MỸ THAY ĐỔI CHIẾN LƯỢC VÀ CÁC HỆ QUẢ
Thứ Năm, ngày 20/6/2013
TTXVN (Angiê 19/6)
Trong khi cộng đồng quốc tế hướng về Xyri, thì Mỹ do ngày càng không muốn sa lầy một lần nữa ở Trung Đông, đã chuyển hướng sang châu Á-Thái Bình Dương. Trong cuộc gặp ngày 16/5 với Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan, Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định không muốn can thiệp quân sự vào Xyri. Đó có phải là lời thú nhận Mỹ rút khỏi Trung Đông không, hay do Mỹ không còn quan tâm đến khu vực này nữa?
Lý giải vấn đề này trên tạp chí “Đại Tây Dương”, ông Francois Géré, chuyên gia địa chiến lược, cho biết trong chiến lược, điều thận trọng đầu tiên trong những điều cần thận trọng là tránh bất kỳ một hành động hấp tấp nào. Điều này lại đặc biệt đúng trong một thời kỳ khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy (kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1929). Không nước nào có khả năng đánh giá được hậu quả xã hội ở nước mình và tác động chính trị của nó. Do vậy, cần đặt lập trường đó trong bối cảnh những tuyên bố mới đây của Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng John Kerry về tình hình kinh tế của nước Mỹ.
Một cường quốc muốn có được vai trò thủ lĩnh thế giới trước hết phải quan tâm đến nền tảng kinh tế của mình, thực trạng của nước mình, tăng trưởng của nước mình trong các lĩnh vực chủ chốt đóng vai trò quyết định đối với sức mạnh thực sự của mình về lâu dài. Mỹ bị tác động rất mạnh bởi Irắc và Ápganixtan và hiểu mình không được đưa quân đến đất Hồi giáo nữa. Vậy Mỹ phải tìm kiếm các đồng minh trong vùng có khả năng cung cấp lực lượng, cụ thể là trên thực địa. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, một thành tố của NATO, một quân đội từng cho thấy họ có năng lực ở Ápganixtan, là một đối tác hàng đầu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Oasinhtơn hoàn toàn không còn lợi ích ở Trung Đông lại càng không ở châu Âu.
Được hỏi các cường quốc nào có thể thay thế Mỹ ở Trung Đông và liệu đó có phải là mối đe dọa tiềm tàng đối với Ixraen không, chuyên gia Francois Géré đồng thời là chủ tịch sáng lập Viện phân tích chiến lược Pháp (IFAS), khẳng định Mỹ vẫn là nước không thể thay thế được về trung hạn, mặc dù trước mắt phải lui về phía sau một chút. Một khi các yếu tố tạo nên sức mạnh của Mỹ được điều chỉnh lại, cụ thể và đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền tin, sức mạnh của Mỹ sẽ lại được triển khai.
Trong khi chờ đợi, trước mắt, điều chỉnh chiến lược của Mỹ có thể diễn ra theo hai hướng ở Trung Đông.
Thứ nhất là các nước Arập nắm vận mệnh của mình trong tay. Điều không may là tình trạng không đồng nhất trong tình hình khiến công cuộc xây dựng một sự nghiệp chung là rất khó. Có quá nhiều sự chia rẽ về chính trị, lãnh thổ, sắc tộc và tôn giáo đang băm nhỏ vùng này. Cái được mất về năng lượng gây ra quá nhiều căng thẳng. Liên đoàn Arập luôn cho thấy họ không có khả năng vượt qua được những chia rẽ này.
Các nước giàu có nhất như Cata và Arập Xêút có thể đầu tư có lợi cho các nước nghèo hơn. Nhung tung tiền ra vẫn là chưa đủ, kể cả khi số tiền là rất lớn. Điều quan trọng là cần tạo ra một hình thức hỗ trợ đào tạo năng lực. Thế nhưng các nước này thậm chí không có cả khả năng tự mình giải quyết vấn đề này. Sự phát triển không chỉ giới hạn ở hạ tầng cơ sở: đường sá, sân bay, hải cảng… Hiện nay, cái cần được xây dựng chính là các xa lộ thông tin-truyền tin, cái cần được bảo đảm an toàn chính là không gian mạng. Sau khi đã bỏ lỡ cuộc Cách mạng công nghiệp, nguy cơ đối với Trung Đông có thể là bỏ lỡ cả kỷ nguyên phát triển mới. Đó là thông tin- truyền tin.
Con đường thứ hai dường như hứa hẹn hơn trong thời gian trước mắt. Các nước Trung Đông có thể thay thế các đối tác phương Tây của mình bằng các đối tác mới đến từ Thế giới mới vừa hoàn thành công cuộc phát triển của mình và được gọi là BRICS. Giữa các nước này lại không hề có tranh chấp lịch sử nào, cũng không hề có bất cứ mối nghi ngờ thực dân mới nào. Điều không may là các nước này lại không hề có động cơ tiến hành hoạt động ở đây và không có nhiều khả năng mang đến đây các yếu tố cần cho sự phát triển của khu vực này. Trung Quốc chỉ quan tâm đến năng lượng, Nga tìm cách khôi phục lại ảnh hưởng của Liên Xô, nhưng không ai biết lợi thế cụ thể mà Nga có thể có được từ đó là gì.
Như vậy, không thể dự báo mối đe dọa trực tiếp đối với Ixraen sẽ gia tăng. Trái lại, việc khẳng định một thế giới Arập bị thống trị bởi Arập Xêút, Cata và một số nước khác theo tư tưởng Hồi giáo cực đoan, sẽ là yếu tố lớn gây nguy hiểm. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Ixraen chấp nhận các phi vụ bán vũ khí của Mỹ cho Arập Xêút.
Việc ông Barack Obama tái đắc cử là dịp để xác định lại một cách rõ ràng hơn chính sách đối ngoại của Mỹ, từ nay sẽ hoàn toàn tập trung vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược được gọi là “xoay trục” sang châu Á đó liệu có phải là tái định hướng chiến lược thực sự không, hay chỉ là lời thú nhận suy yếu có nghĩa là Mỹ không thể cùng một lúc tham chiến trên nhiều mặt trận?
Theo chuyên gia Francois Géré, đồng thời là cộng tác viên của Viện nghiên cứu cao cấp quốc phòng (IHEDN), khái niệm “tái điều chỉnh” đúng hơn khiến người khác nghĩ ngay đến “tái cân bằng” mà ông gọi là “điều chỉnh chiến lược”. Điều đó không có nghĩa là Mỹ bỏ mặc châu Âu và Trung Đông để đầu tư mạnh tay vào châu Á. Do khối lượng trao đổi thương mại và đầu tư trực, tiếp quá lớn nên sẽ là vô lý nếu nghĩ rằng châu Âu, kể cả khi bị suy yếu lâu dài, không còn là bộ mặt thịnh vượng của nền kinh tế Mỹ nữa. Còn Trung Đông cũng sẽ chứng kiến một sự điều chỉnh, nhưng cần có thời gian và sẽ dẫn đến nhiều biến đổi.
Điều quan trọng là cần thận trọng đối với những thông báo ồn ào nhìn chung chỉ nhắm đến Quốc hội Mỹ để biện minh cho chi phí và tránh bị phê phán đối với lợi ích của một số nước và một số tổ hợp công nghiệp lớn. Như vậy, sẽ là quá sớm nếu nói rằng chiến lược của Mỹ là “hoàn toàn” tập trung vào châu Á. Những “chiến lược lớn” dài hạn đó trở nên mong manh ở các nước dân chủ, nơi yếu tố ngắn hạn có xu hướng lấn át tất cả.
Trả lời câu hỏi mối đe dọa Trung Quốc liệu có phải là yếu tố duy nhất khiến Mỹ áp dụng chính sách kiên quyết hướng sang châu Á hay không, chuyên gia Francois Géré, Giám đốc nghiên cứu thuộc trường Đại học Pari III (Pháp), khẳng định chắc chắn là không. Khái niệm “xoay” được một số người am hiểu văn hóa địa chiến lược đưa ra. Họ tìm đến lý thuyết gia về “xoay”, được biết đến rất ít ở Pháp, Mac Kinder, người đưa ra một luận thuyết vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Luận thuyết đó là nguồn cảm hứng giúp Tổng thống Truman soạn thảo chiến lược kiềm chế đối với Liên Xô.
Việc thuật ngữ này được sử dụng trở lại ngay lập tức được Trung Quốc coi là một chiến lược thù địch với mình. Thực tế một phần đúng là như vậy. Nói vậy, nhưng mục tiêu lớn của Mỹ vẫn là tăng cường vị thế của Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương mà họ xem là thị trường năng động và hứa hẹn nhất đối với lợi ích kinh tế của Mỹ. Thị trường Trung Quốc thực sự là đối tác hấp dẫn nhất. Hơn nữa, thông qua “trái phiếu Kho bạc Mỹ”. Trung Quốc đã đứng chân được vào nền kinh tế Mỹ, từ đó tạo ra mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nước và giải thích tại sao họ quan tâm đến tỷ giá giữa các đồng ngoại tệ.
Thế giới nhận thấy ràng một cuộc tranh giành quyết liệt đang diễn ra để có được tiền nhằm phát triển không gian mạng. Lầu Năm Góc muốn mình cũng có phần trong đó. Và người ta tung ra mối đe dọa Trung Quốc như một con ngoáo ộp để biện minh cho những đòi hỏi về tiền.
Tổng thông Obama trở lại với những nguyên lý trong chính sách đối ngoại của Bill Clinton khi nói với Georse Bush cha: “Thật ngu ngốc, đó là kinh tế!” Chắc chắn đó không phải là chủ nghĩa biệt lập, mà trái lại là quyết tâm giới hạn sức mạnh quân sự ở thực tế nhu cầu an ninh quốc gia.
Tóm lại, chiến lược đó không quá khác với định hướng chiến lược vĩ mô được Chủ tịch Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979: trước hết vẫn là kinh tế, tiếp đó mới đến quân đội. Về ngắn hạn, quân đội sẽ được hưởng thành quả của tăng trướng. Đó là những gì đang diễn ra hiện nay, từ đó giải thích mối lo ngại trước việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự. Nhưng ở đây Mỹ cũng đang phải đối mặt với một vấn đề mang tính cơ cấu: đó là tầm quan trọng quá mức của tổ hợp quân sự-công nghiệp trong nền kinh tế Mỹ rốt cuộc tạo ra gánh nặng cho khả năng nghiên cứu trong các lĩnh vực hàng đầu hay đưa các lĩnh vực đó trở lại với những mục tiêu quân sự thuần túy không mang lại cái gì.
Về khả năng Mỹ có thể mất đi vị thế “sen đầm thế giới” để chỉ là “sen đầm khu vực”, chuyên gia Francois Géré cho rằng sen đầm thế giới đã chết ở Irắc và Ápganixtan rồi. Ý tưởng về một thế giới đơn cực cũng đã bị triệt tiêu rồi. Giống như “kết cục của lịch sử” và sự lên ngôi toàn cầu của nền dân chủ phiên bản Mỹ như phái tân bảo thủ từng mơ ước và không may đã không thành (nếu căn cứ vào số người chết). Mỹ đã bước vào một giai đoạn điều chỉnh chiến lược trên diện rộng. Tất cả các cường quốc thế giới hay khu vực cũng vậy, và điều cơ bản là các thể chế quốc tế (Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới…) đều có sứ mệnh phải điều hòa thị trường.
Chừng nào cuộc khủng hoảng còn chưa chấm dứt, chừng nào hệ quả xã hội của cuộc khủng hoảng đó còn chưa hết, thế giới vẫn sẽ phải sống trên một ngọn núi lửa đang phun trào. Chính phủ các nước và các thể chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế vẫn sẽ phải hy vọng. Họ cần liên tục điều chỉnh các biện pháp của mình để tránh nổ ra các cuộc cách mạng xã hội, đặc biệt là ở châu Âu, nhưng cũng để làm giảm hệ quả gián tiếp ở Trung Đông./.
1858. ĐẰNG SAU CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ CỦA MỸ
Thứ Năm, ngày 20/6/2013
TTXVN (Niu Yoóc 19/6)
Tờ “As-Sharki Al-Ausat” (Trung Đông) vừa có bài viết đề cập việc Mỹ lợi dụng các cuộc chiến chống khủng bố để vi phạm nhân quyền và bảo vệ những lợi ích chiến lược sâu xa của họ. Nội dung như sau:
Trong khi Chính phủ của Tổng thống Barack Obama vừa bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình với vô số lời tán dương về những triển vọng của hành động theo xu hướng tiến bộ, thì các sự kiện diễn ra gần đây một lần nữa đã chứng tỏ rõ ràng rằng vị tổng thống thuộc đảng Dân chủ vẫn tiếp tục các hành động tội ác đối với con người của người tiền nhiệm và thậm chí còn tồi tệ hơn thế nữa.
Trong suốt 4 năm của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, ông Obama và Bộ trưởng Tư pháp Eric Holder đã hành động để chấm dứt tất cả các cuộc điều tra về các vụ tra tấn mà CIA đã thực hiện và về những tội ác khác được thực hiện nhân danh “cuộc chiến chống khủng bố”. Họ đã can thiệp vào hết vụ việc này đến vụ việc khác để làm thất bại những lời chỉ trích, tố cáo các hành động của họ là đã bắt cóc và tra tấn bất hợp pháp hàng nghìn người. Nhân danh bí mật quốc gia, họ đã thẳng thừng bác bỏ những yêu cầu hợp pháp đòi công khai những thông tin về các tội ác này. Kết quả của chính sách này là những kẻ tra tấn và nhũng kẻ đã ra lệnh, từ những nhân viên thẩm vấn của CIA cho đến Nhà Trắng, đều được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn. Tuy nhiên, theo một bài báo của tờ Washington Post số ra gần đây, các hành động này của Nhà Trắng dưới thời Obama không chỉ nhằm mục đích che giấu và miễn trừ các tội ác trong quá khứ, mà có thể còn khiển cho các hành động này tiếp diễn ở mức trầm trọng hơn.
Tờ Washington Post đưa tin về số phận của 3 người – trong đó có 2 công dân Thụy Điển và 1 công dân Anh, tất cả đều là người gốc Xômali – đã bị bắt trong chuyến đi của họ tới nước Gibuti nhỏ bé ở miền Đông châu Phi và đang bị giam giữ, bị các nhân viên thuộc cơ quan tình báo Mỹ chất vấn liên tục trong nhiều tháng. Những người này bị CIA buộc tội ủng hộ Al- Shabab (Tuổi trẻ) – tổ chức dân quân Hồi giáo đã kiểm soát nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam Xômali. Dù tổ chức này không dính líu gì đến một cuộc tấn công nào chống Mỹ, nhưng nó vẫn bị Mỹ coi là tổ chức khủng bố nước ngoài và CIA đã treo giải thưởng đắt giá để bắt các thủ lĩnh của Al- Shabab. Đằng sau quyết định này là âm mưu của Chính phủ Mỹ muốn lợi dụng cái cớ “cuộc chiến chống khủng bố” để siết chặt sự kiểm soát của Mỹ đối với Xômali, một vùng lãnh thổ mang tính chiến lược, nơi có eo biển Bab al-Mandab và là cửa ngõ tuyến đường hàng hải từ Ấn Độ Dương tới Địa Trung Hải, nơi phần lớn lượng dầu lửa thương mại của thế giới vận chuyển bằng đường biển phải đi qua. Bị bắt hồi tháng 8/2012, mãi đến ngày 21/2012 ba người này mới được đưa ra trước tòa án Liên bang. Tờ báo trên còn dẫn ra một vụ khác, xảy ra vào năm 2011, khi một người mang quốc tịch Êritơria, mạo xung là thành viên của AI – Shabab, bị bắt rồi bị đưa tới một nhà tù của Nigiêria để người Mỹ hỏi cung. Nhân vật này đã phải chịu những phương pháp hỏi cung bất hợp pháp, và bị bức cung trước một tòa án của Mỹ, không được tiếp xúc với bên ngoài, bị tra tấn, không được chăm sóc y tế. Tất cả là nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để “làm mệt mỏi” tù nhân. Dưới thời Bush như vậy, và dưới thời Obama vẫn như vậy.
Để đề cử người vào vị trí giám đốc CIA thay tướng David Petraeus do vụ bê bối tình ái, trong một lần xuất hiện trên truyền hình ở căn phòng phía Đông của Nhà Trắng, Tổng thống Obama đã nói: “Ông ấy (John Brennan) đã làm việc nỗ lực trong một khuôn khổ pháp lý vững chắc. Ông hiểu rằng chúng ta là một dân tộc pháp quyền. Trong thời gian diễn ra các cuộc tranh luận và đưa ra những quyết định, ông đã đặt ra nhũng câu hỏi khó và nhấn mạnh đến việc tôn trọng các chuẩn mực cao và ông là con người rất nghiêm túc”. Tổng thống Obama đã miêu tả như thế về người mà ông đã lựa chọn vào chức Giám đốc CIA, John Brennan, hiện đang là cố vấn an ninh nội địa và chống khủng bố. Ông cũng đã ca ngợi sự liêm khiết của ông Brennan và những cam kết của nhân vật này về những giá trị của nước Mỹ.
Đây là lần thứ hai Tổng thống Obama muốn tiến cử ông Brennan, người có 25 năm phục vụ trong CIA, làm người đứng đầu cơ quan này. Tuy nhiên, sau khi nhậm chức vào năm 2009, Tổng thống thuộc đảng Dân chủ mới được bầu đã phải từ bỏ việc bổ nhiệm Brennan giữ chức đứng đầu CIA trước cơn bão phản đối từ những người có tư tưởng tự do và những người thuộc cánh tả ở trong nước và cả một số người trong đảng Dân chủ nữa. Vì đã phục vụ trong suốt nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Bush với chức vụ trương êkíp của George Tenet, khi đó là giám đốc CIA và Trung tâm chống khủng bố quốc gia, Brennan đã dính líu nhiều vào việc hành hình và bảo vệ các tội ác được tiến hành trong suốt thời kỳ này, từ tra tấn đến hỏi cung và theo dõi bất hợp pháp các công dân.
Mâu thuẫn giữa việc bổ nhiệm Brennan, biểu tượng cho sự tiếp tục “cuộc chiến chống khủng bố” của cựu tổng thống Bush, và bức thông điệp trong chiến dịch vận động tranh cử của ông Obama hồi năm 2008 về “niềm hy vọng và sự thay đổi” cũng như lời hứa của ông về một sự đoạn tuyệt với các chính sách tồi tệ của người tiền nhiệm, khi đó là quá lớn. Giờ đây, 4 năm sau, việc bổ nhiệm Brennan hầu như không gây ra ít tranh luận trong số những điều đang diễn ra đối với các phương tiện thông tin đại chúng có tư tưởng tự do.
Một phản ứng tượng trưng thể hiện trên tờ New York Times với bài viết về việc Tổng thống Obama bổ nhiệm Brennan làm người đứng đầu CIA và cựu thượng nghị sĩ thuộc đảng Cộng hòa Chuck Hagel làm Bộ trưởng Quốc phòng. Một nửa bài viết này đã dành để nói về những mối lo ngại liên quan đến những quan niệm về các quyền đồng tính của Hagel, còn đối với Brennan, thì đó là những mối lo ngại liên quan tới việc ông dính líu đến việc tra tấn, sát hại bằng máy bay do thám không người lái và các tội ác khác. Việc quyết tâm bổ nhiệm ông Brennan đã được tạo thuận lợi bởi Chính quyền Obama bảo vệ tất cả các nhà lãnh đạo thực hiện việc tra tấn và các tội ác chiến tranh khác đã phục vụ dưới thời cựu Tổng thống Bush. Đằng sau tuyên bố: “chúng ta hãy nhìn về phía trước chứ đừng nhìn lại đằng sau”, Tổng thống Obama và ngành Tư pháp Mỹ đã làm thất bại tất cả các vụ xét xử nhằm vào những kẻ thực hiện việc tra tấn của CIA, hoặc những kẻ đã giám sát các hoạt động của họ cho đến thời Bush. Họ thậm chí đã can thiệp, hết vụ này đến vụ khác, để phong tỏa các hành động tư pháp đòi bồi thường hoặc thậm chí chỉ là những thông tin về các tội ác này.
Những tội ác của Nhà Trắng dưới thời Obama đã che khuất những tội ác đã được tiến hành dưới thời Bush, và Brennan là trung tâm của điều đó. Hoạt động của các máy bay do thám không người lái mà ông này là người có liên quan, trên thực tế đã khủng bố những người dân thường, nhất là ở Pakixtan, Yêmen, Xômali và những nơi khác mà Mỹ tiến hành các hoạt động “chống khủng bố”. Ngoài ra, Brennan là người ủng hộ chính trong chính phủ việc Tổng thống Obama cho phép ra lệnh thực hiện các cuộc hành hình mà không cần tố cáo một tội ác nào, càng không cần chứng minh những lời tố cáo trước tòa. Sau khi ông Obama tái đắc cử vào năm 2012, người ta nghĩ tới khả năng sẽ có một chính sách “tiến bộ” hơn trong nhiệm kỳ hai của ông. Nhưng đến lúc này đã có những dấu hiệu cho thấy trong nhiệm kỳ hai này, ông Obama sẽ tiếp tục phải tuân theo một lịch trình chính trị do nhóm tài phiệt Mỹ cũng như bộ máy quân sự và cơ quan tình báo Mỹ chỉ đạo.
Tăng cường AFRICOM để bảo vệ lợi ích chiến lược ở châu Phi
Quân đội Mỹ đã thông báo sẽ triển khai một lữ đoàn đến châu Phi để tiến hành các hoạt động liên tục tại đây. Theo hãng tin AP, hành động này nằm trong một nỗ lực đang được tăng cường của Lầu Năm Góc đưa đất nước vào cuộc chiến chống các phần tử cực đoan và mở đường cho Mỹ có một lực lượng sẵn sàng tới châu Phi bất cứ lúc nào nếu các cuộc khủng hoảng ở đó cần phải có mặt quân đội Mỹ. Lữ đoàn thứ hai, sư đoàn bộ binh đầu tiên, được biết đến dưới cái tên “Lữ đoàn dao găm”, gồm khoảng 3.500 binh sĩ, được chỉ định để chuyên phục vụ những lợi ích của Mỹ ở châu Phi. Theo Lầu Năm Góc, 104 sứ mệnh riêng rẽ của các nhóm quân này, bắt đầu vào tháng 3, đã được lên kế hoạch. Việc triển khai các đơn vị từ các nhóm nhỏ đến các tiểu đoàn gồm 800 người đã được lên kế hoạch tại 35 nước ở khắp châu Phi. Việc triển khai lữ đoàn mới này chỉ là một phần nỗ lực để tăng cường cho Bộ Tư lệnh châu Phi (AFRICOM) của Lầu Năm Góc, được thành lập năm 2007. Tuy nhiên, cho đến nay, không một chính phủ châu Phi nào sẵn sàng cung cấp cho tổ chức này một căn cứ hoạt động tại châu lục này.
Việc tăng cường AFRICOM nằm trong một chiến lược quân sự mới của Mỹ được biết đến dưới cái tên “Các lực lượng liên minh khu vực” mà Lầu Năm Góc quyết tâm thực hiện trong khi họ vẫn tiếp tục rút quân khỏi Ápganixtan, sau khi buộc phải rút quân khỏi Irắc. Nói cách khác, tất cả các hoạt động quân sự của Mỹ, từ cứu trợ cho đến “viện trợ nhân đạo”, hay huấn luyện các lực lượng châu Phi, đều được sử dụng làm phương tiện để chuẩn bị thực địa cho một cuộc can thiệp trực tiếp bằng quân sự của Mỹ vào châu Phi bất cứ lúc nào, nếu tình hình đòi hỏi. Hồi năm 2007, J. Peter Pham, một cố vấn ở Bộ Ngoại giao và từng là một thành viên trong hội đồng tư vấn của AFRICOM, đã xác nhận sứ mệnh trọng tâm của bộ tư lệnh mới này. Ông đã mô tả sứ mệnh này bằng những từ ngữ trực tiếp nhất khi nói rằng đó là nhằm bảo vệ việc tiếp cận dầu lửa và các nguồn tài nguyên chiến lược khác mà châu Phi có trữ lượng dồi dào, bảo vệ mình (Mỹ) trước tính dễ bị tổn thương của các nguồn tài nguyên thiên nhiên này và làm thế nào để không một bên thứ ba nào liên quan, như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản hoặc Nga, có được độc quyền hoặc được đối xử ưu đãi hơn (Mỹ). Trong một chiều hướng rất cụ thể, việc xây dựng AFRICOM mạnh mẽ hơn cũng nằm trong chiến lược của Chính quyền Obama hướng tới châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ đã tìm cách sử dụng sự bao vây quân sự như một phương tiện để chống lại sự chi phối về kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc đối với khu vực chủ chốt này cũng như mối đe dọa ngày càng lớn của Trung Quốc đối với thế giới nói chung. Theo cách như vậy, ở châu Phi, Mỹ đang tìm cách sử dụng lực lượng quân sự của mình đế chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại châu lục này.
Trung Quốc đã vượt qua Mỹ cũng như Liên minh châu Âu với tư cách là đối tác thương mại số một của châu Phi. Thương mại song phương, lên tới 11 tỷ USD vào năm 2000, đã đạt 160 tỷ USD vào năm 2011 và khoảng 200 tỷ USD trong năm 2012. Trong số các dự báo có việc Mỹ sẽ phụ thuộc vào 25% nhập khẩu dầu lửa của Tây Phi, đấy là chưa kể đến tất cả các khoáng sản chiến lược và các nguyên liệu khác, vì vậy, cuộc cạnh tranh với Trung Quốc cũng như với các đối thủ kinh tế ở châu Âu trên thực tế đã dẫn đến một sự đổ xô mới tới châu Phi, cũng gay gắt và khẩn cấp như cuộc chinh phục thực dân đầu tiên. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho những hành động này của Mỹ ở châu Phi luôn được diễn ra dưới cái cớ là “Cuộc chiến chống khủng bố” và mối đe dọa của “chủ nghĩa cực đoan” đối với châu Phi.
Chỉ huy AFRICOM, Tướng Carter Ham, từng khẳng định rằng các nhóm tạp nham, từ mạng lưới Al Qaeda ở các nước thuộc khu vực Bắc Phi Hồi giáo ở Mali và Libi cho đến nhóm Al-Shabab ở Xômali và nhóm Boko Haram ở Nigiêria, đều đe dọa sẽ liên kết với nhau, phối hợp các hoạt động của chúng, điều này đang đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với lợi ích của Mỹ ở bên ngoài, thậm chí cả trong lãnh thổ của Mỹ. Mới đây, tờ Wall Street Journal đã đưa ra lý lẽ như vậy trong một bài báo mang tên “Cuộc chiến chống khủng bố đang hướng tới châu Phi”. Theo bài báo, Chính quyền Obama đang dự định yêu cầu Quốc hội Mỹ phê chuẩn quyền lực ngày càng tăng cho CIA và quân đội đế tiến hành các hoạt động quân sự chống khủng bố ở châu Phi. Một sự cho phép sử dụng vũ lực nhiều hơn, rộng rãi hơn đã từng làm cơ sở cho việc phát động cuộc chiến tranh ở Irắc và Ápganixtan. Và, nếu có được sự cho phép mới, bộ máy chiến tranh của Mỹ sẽ thỏa sức hoạt động tại Mali, Nigiêria, Libi và có thể tại các nước khác nữa ở châu Phi.
Các sự kiện ở Xyri, cũng như cuộc chiến tranh ở Libi trước đó, đã cho thấy rõ “Cuộc chiến chống khủng bố” của Mỹ là một sự dối trá trơ trẽn. Mỹ đã trở lại điểm xuất phát trong việc ủng hộ mạng lưới Al Qaeda, tổ chức khủng bố Hồi giáo mà ban đầu Mỹ đã khuyến khích làm cho chế độ thân Liên Xô ở Ápganixtan sụp đổ trong những năm 1980, khi Osama Bin Laden hợp tác mật thiết với CIA. Trong khi vẫn khẳng định đấu tranh chống khủng bố, Mỹ lại đang ủng hộ một cuộc chiến tranh khủng bố ở Xyri với các vụ khủng bố liều chết, các vụ đánh bom xe trong các khu dân cư. Và ai cũng biết những lời khẳng định trước đây của Mỹ về các cuộc chiến tranh ở Ápganixtan và Irắc là nhằm loại bỏ Al-Qaeda bản thân nó đã là những lời dối trá. Tại Ápganixtan, quân đội Mỹ và CIA đều đã từng, hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm thừa nhận rằng thực tế không hề có sự có mặt của AI Qaeda và ở Irắc, Mỹ đã can thiệp để làm sụp đổ một chế độ thế tục, một kẻ thù lớn của khủng bố Hồi giáo, có nghĩa là Mỹ đã giúp sức cho quân khủng bố bằng cách loại bỏ hộ chúng một kẻ thù. Các cuộc chiến tranh tại hai nước này, cũng như cuộc can thiệp quân sự cách đây chưa lâu ở Libi và nay là gián tiếp can thiệp vào Xyri, trên thực tế là đều để phục vụ âm mưu thiết lập sự bá quyền của Mỹ tại khu Vực Trung Á và vùng Vịnh Pécxích, nơi có tầm quan trọng chiến lược sống còn đối với nền kinh tế Mỹ, và là nơi bảo đảm nguồn năng lượng quan trọng nhất cho Mỹ.
Bằng cách lợi dụng cái cớ chống Ai Qaeda và các tổ chức khủng bố có liên quan, để Mỹ rộng đường can thiệp quân sự vào nơi này, nơi kia, nhưng, như trên đã nói, trên thực tế Mỹ lại đã và đang vũ trang và ủng hộ trực tiếp các nhóm có quan hệ thực sự với Al – Qaeda, trước tiên là ở Libi và hiện nay là ở Xyri. Gần đây nhất, sau khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc cho phép tiến hành một sự can thiệp của nước ngoài vào Mali, thì nơi đây đã trở thành mục tiêu rất quan trọng của Mỹ tại châu Phi. Nhưng, thật vô ích khi Mỹ coi mình là người cứu vớt Mali, vì tình hình rối ren, đói kém ở đất nước vùng Tây Phi này chính là hậu quả xuất phát từ chính sách của Mỹ trong vùng này. Chính cuộc xâm lược của Mỹ ở Libi là nguyên nhân khiến các lực lượng vũ trang cực đoan kéo tới Mali và chính quân đội Mỹ đã đào tạo Đại úy Amadou Haya Sanogo, người lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của nước này hồi tháng 3 năm 2012, dẫn đến cuộc chiến hiện nay ở đất nước này. Lầu Năm Góc đã huấn luyện nhân vật này tại các căn cứ quân sự của Mỹ ở George, ở Virginia và ở Texas.
Dựa trên những gì người Mỹ đã làm với châu Phi, người ta có cơ sở để lo ngại rằng sự phát triển hiện nay của AFRICOM và việc chuẩn bị các cuộc chiến tranh mới tại châu Phi cho thấy các cuộc can thiệp ở Libi và Xyri chỉ là khúc dạo đầu cho những cuộc tấn công lớn hơn nhiều trong tương lai trên thế giới, không nhằm cái gì khác ngoài việc phân chia lại lợi ích và tái thực dân hóa nhiều vùng rộng lớn của thế giới này.
***
TTXVN (Cairô 18/6)Theo bài viết của tác giả Wayne Madsen đăng trên mạng tin “Toàn cầu hóa”: về mặt danh nghĩa, Mỹ thiết lập tại Nigiê một căn cứ máy bay không người lái chống tổ chức khủng bố Al Qaeda và các chiến binh Hồi giáo khác ở nước láng giềng Mali, nhưng trên thực tế nhằm thiết lập sự kiểm soát của Mỹ đối với urani và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác của Nigiê và đàn áp dân tộc thiểu số Tuareg trong việc đấu tranh đòi quyền tự chủ giống như thế hệ cha ông của họ ở miền Bắc Mali và Angiêri.
Căn cứ máy bay không người lái mới đầu được đặt tại thủ đô Niamây và sau đó sẽ được chuyển đến một vị trí tiền phương của chiến dịch, dự kiến được đặt tại Agadez, trung tâm của người Tuareg Nigiê… Căn cứ được thành lập để đối phó với các nhóm Hồi giáo khác nhau, bao gồm cả Ansar Dine, al-Qaeda ở Bắc Phi (AQIM), Boko Haram của Nigiêria và một nhóm mới, Phong trào Độc tôn và thánh chiến ở Tây Phi (MUJAO). MUJAO đã nắm quyền kiểm soát một thời gian ngắn ở miền Bắc Mali của người Tuareg đặt dưới sự lãnh đạo của Phong trào Dân tộc Giải phóng Azawad (MNLA), phong trào này đã lợi dụng một cuộc đảo chính ở Mali, để thiết lập một nhà nước Tuareg độc lập, gọi là Azawad.
Từ lâu Mỹ đã phản đối bất kỳ nỗ lực nào của người Tuareg để thiết lập một nhà nước độc lập riêng của họ tại sa mạc Xahara. Sự phản đối của Mỹ đi đôi với sự chống đối của Pháp trong lịch sử dân tộc của người Tuareg. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ và nhân viên Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã thảo luận về sự hiện diện của Mỹ ở Nigiê kể từ ngày 25/2/2010, khi một phái đoàn Mỹ gặp gỡ với Chủ tịch Hội đồng tối cao vì sự phục hồi dân chủ (CSRD), Tướng Souleyman Salou, đúng một tuần sau khi chính quyền quân sự tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Mamadou Tandja được bầu lên một cách dân chủ. Theo một kênh thông tin của Bộ Ngoại giao Mỹ bị rò rỉ từ Đại sứ quán Mỹ tại Niamây: Eric Whitaker, đại biện lâm thời Sứ quán Mỹ tại Nigiê đã gặp Tướng Souleyman Salou và Đại tá Moussa Gros, cố vấn quân sự cao cấp của CSRD, trong một phiên họp tràn đầy lời khen ngợi Salou và nhấn mạnh “tình hữu nghị giữa hai nước”. Salou cũng nói với các sứ giả Mỹ: “CSRD sẽ tiếp tục thông tin liên lạc song phương thông qua Tổng cục Tài liệu và an ninh đối ngoại (Cơ quan tình báo Nigiê – DGDSE)”. Ông nhấn mạnh rằng CSRD đã tìm cách hợp tác với Oasinhtơn trong các lĩnh vực hỗ trợ bảo mật, cuộc chiến chống al-Qaeda, và hỗ trợ cho chế độ. Mặc dù Mỹ có chính sách không công nhận các chính phủ giành quyền lực bằng đảo chính quân sự và vũ lực, nhưng Oasinhtơn đã nhanh chóng nắm lấy Chính quyền Nigiê giống như Mỹ đã từng hỗ trợ chính quyền quân sự ở Ônđurát và Paragoay thông qua CIA cài cắm ở hai nước này.
Tướng Salou mỉm cười khi nói rằng ông hiểu rõ Mỹ không ủng hộ cuộc đảo chính quân sự và khủng hoảng chính quyền. Rõ ràng, Salou là một bí mật nhỏ của Chính phủ Mỹ. Trong khi công khai phản đối, Oasinhtơn đã hỗ trợ một cuộc đảo chính ở Ônđurát, Paragoay, Libi, Xyri, và các nước khác. Theo thông tin bị rò rỉ từ Niamây, lý lịch tóm tắt của Salou đề cập nhiều tới việc đào tạo của mình tại Mỹ: “Chuẩn Tướng Salou đã từng là Tham mưu trưởng của Lực lượng không quân Nigiê, ít nhất là từ 2003. Ông tốt nghiệp Trường Đào tạo Tham mưu của Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ và được đánh giá là cực kỳ thân Mỹ… Đại tá Gros, trước khi đảm nhận vai trò cố vấn cho Chủ tịch của CSRD, là một cố vấn quân sự của Thủ tướng Nigiê cũng được đánh giá là thân Mỹ. Một trong những người con của ông đã theo học tại Mỹ và được báo cáo đã có một thời gian ngắn làm việc như một tùy viên quân sự tại Oasinhtơn vào năm 1987”.
Là một nước nghèo ở châu Phi, Nigiê chỉ có tầm quan trọng đối với Mỹ khi nước này được sử dụng như một con tốt trong vấn đề an ninh quốc tế rộng lớn hơn. Chính quyền George w. Bush trước đây đã sử dụng Nigiê như một lý do để biện minh cho cuộc xâm lược và chiếm đóng Irắc khi cáo buộc Tổng thống Saddam Hussein có âm mưu đoạt chiếc “bánh vàng” urani của Nigiê. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng đó là sự giả mạo các tài liệu của Chính phủ Nigiê về sự liên hệ về urani giữa Nigiê với Irắc do Tướng Nicolo Pollari, Giám đốc cơ quan tình báo Italia (SISMI) cung cấp cho Nhà Trắng theo lệnh của Thủ tướng Italia khi đó là Silvio Berlusconi.
Ngoài việc sử dụng urani của Nigiê là một nguyên nhân cho sự can thiệp vào nước này, Lầu Năm Góc và CIA còn để mắt tới các tài nguyên khoáng sản khác như nguồn dầu mỏ của Nigiê. Những người chống lại kế hoạch của các công ty phương Tây khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Nigiê đã phải trả giá bằng mạng sống của họ. Năm 1995, thủ lĩnh Mano Dayak, người Tuareg Nigiê đã bị sát hại trong một vụ tai nạn máy bay đáng ngờ ở phía Bắc Nigiê. Dayak đã tham gia các cuộc đàm phán hòa bình với chính phủ trung ương Nigiê và khi trên đường đến thủ đô Niamây, chiếc máy bay chở ông đã bị rơi ngay sau khi cất cánh. Tuy nhiên, chính phủ tự trị của người Tuareg ở miền Bắc Nigiê đe dọa làm hỏng kế hoạch của tập đoàn Exxon Mobil và công ty dầu khí khác của Mỹ trong việc khai thác dầu mỏ xung quanh Hồ Sát, dọc theo biên giới Sát-Nigiê. Nhiều người Tuareg tin rằng máy bay chở ông Dayak bị CIA phá hoại. Thật mỉa mai, vị trí của căn cứ máy bay không người lái của Mỹ trong tương lai ở Agadez, miền Bắc Nigiê, do các sĩ quan CIA và các nhân viên của lực lượng đặc biệt Mỹ hoàn thiện, sẽ là tại Sân bay Quốc tế Mano Dayak, được đặt tên của nhà lãnh đạo Tuareg tử vì đạo.
Sự hiện diện quân sự của Oasinhtơn khu vực Sahel đã tồn tại ít nhất hai thập niên. Cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ bắt đầu tuyển dụng những người có ảnh hưởng nhất trong đội quân 400 binh sĩ mà Nigiê đã gửi đi chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ chống lại lực lượng của Tổng thống Irắc Saddam Hussein trong chiến dịch “Bão táp Sa mạc”. Dưới chương trình Đối tác chống khủng bố xuyên Xahara (TSCTP) và với sự hỗ trợ của Bộ Tư lệnh tại châu Phi (AFRICOM), Mỹ đã bơm hàng trăm triệu USD hỗ trợ an ninh cho các cơ quan an ninh và tình báo, cũng như lực lượng quân sự của các quốc gia Tây Phi. TSCTP trước đây được biết đến như Sáng kiến Liên-Sahel (liên kết khu vực Sahel). Lực lượng an ninh Nigiê đã sử dụng các thiết bị quân sự không gây sát thương do Mỹ cung cấp, bao gồm thiết bị nhìn đêm, xe bọc thép có tính cơ động cao với bánh xe đa năng, hệ thống định vị toàn cầu và rađiô an ninh để trấn áp lực lượng ủng hộ quyền tự chủ của người Tuareg và những người biểu tình khác đòi dân chủ.
Huấn luyện quân sự của Mỹ cho quân đội Nigiê diễn ra hàng năm trong khuôn khổ các cuộc tập trận quân sự mang tên “Flintlock” của Lầu Năm Góc. Lực lượng Nigiê được Mỹ đào tạo cũng được sử dụng để bảo vệ các mỏ urani do công ty nhà nước Pháp Areva, sản xuất năng lượng điện hạt nhân, điều hành với sự hợp tác của các công ty Nhật Bản và Tây Ban Nha. Ngoài nhân viên quân sự tại Niamây, Mỹ còn có những căn cứ tại Uagađugu (Buốckina -Phaxô), Bamacô (Mali), Nuacsốt (Môritani), và Tamanrasset (Angiêri). Sự hiện diện của Mỹ tại Buốckina Phaxô được biết đến như tại Sand Creek. Từ các căn cứ bí mật, Mỹ đã cho máy bay không người lái vũ trang và không vũ trang lượn khắp sa mạc Xahara. Nigiê từng là một thuộc địa của đế quốc Pháp, bây giờ được đặt dưới sự bảo hộ toàn diện của đế quốc Mỹ.
* * *
TTXVN (Prêtôria 18/6)Theo mạng “Tin châu Phi”, thông qua hàng loạt các tổ chức xã hội dân sự, Mỹ đã tài trợ cho các nhóm Chesnia ở các nước Cộng hòa tự trị thuộc Nga và ở nước ngoài. Tuy nhiên, phần lớn khoản tiền tài trợ của Mỹ đã khuyến khích các phần tử khủng bố Chesnia và các nhóm khác ở Bắc Cápcadơ mà Bộ Ngoại giao và Cơ quan tình báo Mỹ luôn cho rằng đó chỉ là “quân du kích ly khai”, “các phần tử dân tộc”, “quân nổi dậy”, “người chống đối” thay vì gọi là “những kẻ khủng bố”.
Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) liên tục từ chối công nhận các phần tử khủng bố người Chesnia và người Hồi giáo Nga là “những kẻ khủng bố”. Các báo cáo phân tích của Cơ quan tình báo tín hiệu (SIGINT) thuộc NSA thu được từ các hoạt động của cảnh sát Nga, Cơ quan an ninh liên bang (FSB), Cơ quan tình báo đối ngoại (SVR) và các phương tiện thông tin liên lạc quân sự của Nga như đài phát thanh, điện thoại cố định và di động, fax, tin nhắn văn bản từ năm 2003 đều gọi các phần từ khủng bố Chesnia và Bắc Cápcadơ là “những du kích”. Trước những năm đó, mật mã trong các Chỉ thị nội bộ NSA mang tính tuyệt mật đã khẳng định rõ các phần tử khủng bố Chesnia nên được gọi là “quân nổi dậy”.
Hãy tưởng tượng Mỹ ngạc nhiên đến chừng nào khi bắt đầu gọi Al Qaeda là các du kích Hồi giáo và quân “nổi dậy” thay vì khủng bố. Tuy nhiên, đó chính xác là những gì mà NSA và CIA đã gọi đối với các phần tử khủng bố ở Nga khi số này đã thực hiện hàng loạt cuộc tấn công tàn khốc vào sân bay, tàu hỏa, nhà ga tàu điện ngầm, trường học, rạp chiếu phim trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga.
Trong ba thập kỷ qua, việc các “hoạt động nhân đạo” và “các tổ chức dân sự” của Mỹ trợ giúp cho các nhóm Hồi giáo cực đoan đã giúp chúng có điều kiện xâm nhập vào chính lãnh thổ của nhà tài trợ Oasinhtơn và tự coi mình là “các chiến binh tự do”. Điển hình là sự ủng hộ của Mỹ đối với các nhóm chiến binh thánh chiến ở Ápganixtan thông qua “ủy ban vì một Ápganixtan tự do” trong suốt cuộc nổi dậy của các phần tử Hồi giáo chống lại Cộng hòa dân chủ nhân dân Ápganixtan trong những năm 1980 và Quỹ bảo vệ Bôxnia trong thập niên 1990. Đối với Ápganixtan, tiền của Mỹ và Arập Xêút đã rơi vào tay những kẻ nổi dậy mà sau này gọi là Al-Qaeda và quỹ tài trợ của Mỹ đối với Bôxnia thì đã được các phần tử Al Qaeda sử dụng chiến đấu chống lại Nam Tư và Cộng hòa Xécbi. Sau đó, các phần tử Al Qaeda ủng hộ Quân đội giải phóng Côxôvô (KLA) trong cuộc chiến chống Xécbia.
Sau những công bố về việc thành lập Quỹ Cápcadơ do Viện Jamestown Foundation có liên quan đến CIA sử dụng để tài trợ cho các hội thảo về Bắc Cápcadơ ở Tbilixi từ tháng 1 đến tháng 7/2012, Chính phủ Grudia đã đóng cửa trụ sở của quỹ này với lý do được họ đưa ra là tố chức này đã “hoàn thành nhiệm vụ đề ra”. Các sự kiện của Quĩ Cápcadơ và Viện Jamestown Foundation đều có sự tham dự của nghi can đánh bom cuộc đua Maratông ở Boston Tamerlan Tsarnaev (sinh ra ở Cưrơgưxtan và có cha mẹ ở Đaghextan). Trước đó, Jamestown Foundation đã tổ chức hội thảo ở Tbilixi với chủ đề “Các quốc gia ngầm” ở Cápcadơ và một trong những chủ đề ở đó là thúc đẩy “Đại Circassia” ở Cápcadơ. Sự hỗ trợ từ các tổ chức xã hội dân sự của Mỹ cho các phe nhóm kích động chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa ly khai và tư tưởng phục quốc ở Cápcadơ được thực hiện trực tiếp thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Mỳ (USAID) hay bí mật thông qua các tổ chức do Viện Xã hội Mở của George Soros. Có thể biết được nhiều thông tin về sự hậu thuẫn của Mỹ đối với các nhóm khủng bố hoạt động ở vùng Bắc Cápcadơ từ hàng triệu thông tin mật của Bộ Ngoại giao Mỹ bị rò rỉ trên mạng Internet.
Ngày 12/11/2009, một bức điện mật từ Đại sứ quán Mỹ ở Mátxcơva đã cho biết Trung tâm Carnegie Endowment, một tổ chức phi chính phủ (NGO) ở Mátxcơva, có thể tham gia ngăn cản các mục tiêu chính trị và kinh tế của Nga ở Bắc Cápcadơ, đặc biệt bằng việc tận dụng tỷ lệ thất nghiệp lên đến 50% tại khu vực Chesnia làm căn cứ để tuyển dụng các phần tử giáo sĩ cực đoan Wahhab và Salafi do Arập Xêút, Cata và Tiểu vương quốc Sharjah và Ras al Khaimah, tài trợ. Theo báo cáo của Đại sứ quán Mỹ tại Nga ngày 8/6/2009, nước cộng hòa Đaghextan là “đường kết nối yếu nhất” trong khu vực Cápcadơ.
Một bức điện mật khác của Đại sứ quán Mỹ tại Nga ngày 16/9/2009 viết rằng Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách châu Âu và Á-Âu Philip Gordon đã từng hối thủc thừa nhận Chính quyền Ramzan Kadyrov ở Chesnia là “không thể kiểm soát cũng như không ổn định”. Tổ chức phi chính phủ Caucasian Knot đã báo cáo với Gordon trong một cuộc gặp ở Đại sứ quán Mỹ tại Nga là “các chiến binh nước ngoài” đang tham gia một cuộc thánh chiến và rằng có một “sự lựa chọn bất đắc dĩ” giữa “phần tử khủng bố” và “chính quyền sở tại tham nhũng”. Rõ ràng, rất có thể với sự hỗ trợ mạnh mẽ và sau đó là sự ủng hộ của Giám đốc CIA John O. Brennan, Chính quyền Barack Obama đã quyết định lựa chọn những kẻ khủng bố. Từ việc rò rỉ thông tin bí mật đã cho thấy những thông tin về việc Mỹ, Anh, Na Uy ủng hộ cho các phần tử ly khai Chesnia-Ichkeria do Akhmed Zakayev, một người bạn thân với cố tài phiệt lưu vong người Nga gốc Do Thái Boris Berezovsky, lãnh đạo.
Ngày 29/7/2009, những thông tin bí mật từ Đại sứ quán Mỹ tại Ôxlô đã dẫn lời người đứng đầu phụ trách các vấn đề liên quan đến Nga tại Bộ Ngoại giao Na Uy Odd Skagestad nói với nhân viên sứ quán Mỹ rằng: “Zakayev là đại diện hợp pháp không chỉ của cộng đồng lưu vong Chesnia mà còn của người Chesnia ở Chesnia”, mặc dù ông cũng nhấn mạnh rằng “Zakayev có tên trong nhiều lệnh truy nã của INTERPOL” vì bị nghi ngờ có liên quan đến khủng bố. Skagestad tuyên bố Cơ quan an ninh của Na Uy đã bỏ qua các lệnh truy nã của INTREPOL và cho phép Zakayev đến Na Uy từ nơi đang sống lưu vong tại Anh. Zakavev cũng nhận được nhiều viện trợ từ chính phủ các nước Đan Mạch, Phần Lan, CH Séc, nơi có nhiều hoạt động lưu vong của cộng đồng người Chesnia. Trung tâm Kavakaz có một trang mạng về Tiểu vương quốc Cápcadơ làm cầu nối quan hệ quan trọng với các nhóm khủng bố của nhà lãnh đạo Doku Umarov ở miền Nam nước Nga.
Đại sứ quán Mỹ tại Na Uy cũng cho biết một công dân Na Uy đứng đầu “Diễn đàn hòa bình Chesnia” là Ivar Amundsen, một người hoạt động rất tích cực và có quan hệ thân thiết với nhân viên tình báo phản bội người Nga Alexander Litvinenko. Nhà chú của hai kẻ đánh bom Tamerlan và Dzokhar Tsahnaev là Ruslan Zaindi Tsamaev tại tiêu bang Maryland, Mỹ, chính là địa chỉ thành lập công ty Hội nghị các tổ chức quốc tế Chesnia (CCIO) vào ngày 17/8/1995 và Công ty này mở chi nhánh tại thủ đô Oasinhtơn vào ngày 22/9/1995. CCIO tại Maryland đã không còn hoạt động vì thiếu kinh phí. Còn chi nhánh tại Oasinhtơn đã đi vào hoạt động được 17 năm và 7 tháng. Điều thú vị là chi nhánh này bị giải thể đúng vào dịp xảy ra vụ đánh bom tại cuộc đua Maratông Boston. Công ty CCIO được thành lập nhằm tài trợ cho các phần tử khủng bố Hồi giáo Chesnia tại Liên bang Nga.
Ruslan Tsarnaev còn được gọi là Ruslan Tsami, tốt nghiệp trường Đại học luật Duke ở Bắc Carolina, làm việc cho USAID tại Cadắcxtan và các nước khác trong khu vực để chuẩn bị cho các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính tại đây.
Địa chỉ của công ty CCIO tại Maryland được ghi trong hồ sơ là 11114 Đường Whisperwood, Rockville, Maryland 20852. Đây cũng chính là địa chỉ của cựu sĩ quan CIA Graham E.Fuller. E.Fuller nói thành thạo tiếng Nga, từng là Trưởng trung tâm của CIA tại thủ đô Cabun – Ápganixtan và là Phó chủ tịch Hội đồng tình báo quốc gia trong những năm 1980, đồng thời dính líu nhiều đến vụ bê bối Iran-contra (Tháng 11/1986, dư luận Mỹ phát hiện Chính quyền Tổng thống Ronald Reagan bí mật tạo thuận lợi cho việc bán các loại vũ khí của Mỹ cho Iran để đổi lấy việc phóng thích các con tin của nước này – ND). Ngoài ra, E.Fuller cũng hoạt động tích cực trong các sự kiện được Viện Jamestown Foundation tài trợ đặc biệt là hội nghị ngày 29/10/2008 với khẩu hiệu: “Thổ Nhĩ Kỳ và Vùng Cápcadơ hậu Grudia”.
Con gái E.Fuller là Samantha Ankara Fuller mang hai quốc tịch Anh và Mỹ, được bồ nhiệm là Giám đốc công ty TNHH Insource Energe của Anh. Công ty này thuộc sở hữu của Tập đoàn Carbon Trust, một tổ chức phi lợi nhuận với mục tiêu “Đẩy nhanh tiến độ tiến tới một nền kinh tế có khí thải cácbon thấp”. Theo Qui định của ngân hàng Anh về việc đăng ký dịch vụ tài chính, tên trước khi kết hôn của Samantha Ankara Fuller là Samantha Ankara Tsarnaev. Samantha Ankara Tsarnaev chính là vợ của Ruslan Tsarnaev, chú ruột của hai kẻ đánh bom tại cuộc đua Maratông ở Boston, Theo đăng ký dịch vụ tài chính của Vương quốc Anh, tại thời điểm kết hôn với Ruslan Tsarnaev, Fuller là một cố vấn đầu tư của Ngân hàng Dresdner Bank của Tập đoàn JP Morgan Ltd tại Vương quốc Anh. Ruslan Tsamaev hiện là Phó chủ tịch phát triển kinh doanh của Tập đoàn năng lượng Big Sky, có trụ sở chính tại Calgary, Canada. Công ty này cũng có các trụ sở đặt tại Little Rock, Arkansas, Mỹ.
Hồ sơ tòa án Bắc Carolina cho thấy Ruslan Tsarnaev đã kết hôn ở Bắc Carolina năm 1995, cũng là năm Ruslan thành lập công ty CCIO tại Oasinhtơn, DC và Maryland. Việc ly hôn giữa Rusland Tsarnaev và Samantha Ankara Fuller diễn ra vào năm 1999 do toà án của hạt Orange, Bắc Carolina thụ lý.
Cũng cần lưu ý rằng địa chỉ của chi nhánh công ty CCIO tại Oasinhtơn DC chính là địa chỉ của công ty Prentice-Hall. Prentice-Hall thuộc sở hữu của Pearson, một công ty xuất bản về giáo dục có trụ sở tại Luân Đôn, sở hữu tờ Financial Times và có 50% cổ phần trong The Economist Group. Năm 1986, The Economist Group đã mua lại tờ Business International Corporation (BIC) có trụ sở tại Niu Yoóc, một công ty bình phong của CIA.
Một người chú khác của thủ phạm đánh bom tại Boston là Alvi s. Tsaranev sống tại Silver spring, Maryland, dường như liên quan đến một tổ chức lưu vong Chesnia tại Mỹ đó là “Liên minh Cộng hòa Chesnia” có địa chỉ tại 8920 Walden Road, Silver Spring, Maryland. Đây cũng là địa chỉ nhà riêng của AI vi s. Tsarnaev. Theo cơ quan Thuế vụ Mỹ, tổ chức này được đăng ký như một tổ chức từ thiện với chức năng là “Phát triển kinh tế quốc tế”.
Theo cuốn sách “Quyền lực và Mục đích” của hai tác giả James M. Goldgeier và Michael McFaul, “Chính sách của Mỹ đối với Nga sau Chiến tranh Lạnh được thể hiện qua các nhà hoạt động xã hội dân sự và đại sứ Mỹ tại Nga, những người đã trực tiếp dính líu đến các hoạt động chính trị để lật đố Tống thống Vladimir Putin, kích động ly khai, xung đột chính trị và tôn giáo trên toàn Liên bang Nga”, Cũng theo cuốn sách này, cựu cổ vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brezezinki là người tài trợ cho Usmanov tại Mỹ: “Brezezinki đã giúp thành lập và hỗ trợ tài chính cho tố chức Chesnia tại Mỹ do Usmanov đứng đầu”.
Một tổ chức của phong trào Chesnia khác có trụ sở tại Mỹ là ủy ban Mỹ vì hòa bình ở Cápcadơ (ACPC), trước đây gọi là ủy ban Mỹ vì hòa bình ở Chesnia. Năm 1999, ACPC được thành lập bởi Freedom House, một nhóm cánh hữu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh được tài trợ bởi Quỹ quốc gia vì Dân chủ (NED) và các tổ chức do USAID tài trợ. ACPC cũng hỗ trợ tị nạn chính trị cho cựu Ngoại trưởng Chesnia Akhmadov, người bị cáo buộc liên quan đến các hoạt động khủng bố.
ACPC, Freedom House đã hợp tác với Viện Jamestown Foundation, một tổ chức được Giám đốc CIA William Casey thành lập năm 1984 với sự tham gia của nhiều nhân viên tình báo đào ngũ của Liên Xô, Rumani, Ba Lan, Tiệp Khắc.
•Ngày 17/10/2008, một thông tin mật rò rỉ từ Đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cho thấy những ưu tiên của USAID và các NGO trong việc tổ chức các hoạt động tại Bắc Cápcadơ. Theo đó, Chương trình hành động khu vực Bắc Cápcadơ, được triển khai tại Bắc Ôxêtia và Kabardino- Balkaria, đang phối hợp tích cực với các NGO tại địa phương. Thông tin bị tiết lộ cũng cho thấy nhiệm vụ của USAID ở Bắc Cápcadơ là “thúc đẩy những lợi ích quan trọng của Mỹ”.
Chương trình Bắc Cápcadơ tập trung vào bốn khu vực chính: Chesnia, Inguxêtia, Bắc Ôxêtia, và Đaghextan, cùng với các khu vực khác như Krasnodarsky Krai, Cộng hòa Adygea, Karachay-Cherkessia, Stavropolsky Krai và Cộng hòa Kabardino-Balkarskaya.
Thông tin được tiết lộ cũng cho biết mạng lưới NGO trong khu vực của USAID gồm: ủy ban cứu trợ quốc tế (IRC); Tổ chức Tầm nhìn thế giới
-World Vision; Keystone; IREX; Quỹ trẻ em của Bắc Ôxêtia (CFNO); Trung tâm tài chính vi mô của Nga; ACDI/VOCA; Trung tâm tài nguyên khu vực phía Nam (SRAC); Trung tâm chính sách tài chính (CFP); Trung tâm quốc tế doanh nghiệp tư nhân (CIPE); Viện kinh tế đô thị; Trung tâm Đức tin, Hy vọng và Tình yêu (FHL); Hiệp hội Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế (IFRC); và Quỹ phát triển bền vững (FSD). Nhiều nhóm trong số trên có quan hệ chặt chẽ với CIA và Viện xã hội Mở George Soros, đặc biệt là Tổ chức Tầm nhìn thế giới và IRC.
Trong cuộc giao lưu trực tuyến với người dân vào ngày 25/4 vừa qua, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã khẳng định: “Nước Nga cũng là nạn nhân của chủ nghĩa khủng bố cho nên chúng tôi luôn bất bình khi các nước phương Tây luôn gọi nhũng kẻ có hành vi khủng bố tàn bạo ở Nga là ‘quân nổi dậy’. Đặc biệt, những kẻ khủng bố này luôn nhận được sự hỗ trợ tài chính, chính trị, thông tin một cách trực tiếp và gián tiếp. Sự hồ trợ của phương Tây luôn đi kèm với các hoạt động của họ trên lãnh thổ Liên bang Nga”.
Thế giới hiện nay vẫn có sự đồng thuận về khái niệm khủng bố và phương Tây chỉ lên án những kẻ đang dùng phương pháp khủng bố chống lại quyền lợi của họ. Nếu những lợi ích của phương Tây không có gì bị đe dọa thì các phương tiện truyền thông phương Tây vẫn gọi những kẻ khủng bố ấy là “quân nổi dậy” hay “chiến sĩ đấu tranh vì tự do”. Những kẻ tham gia đánh bom tại cuộc đua Maratông Boston và khủng bố ở Nga đều có liên quan đến các NGO do Quỹ George Soros tài trợ, các công ty bình phong của CIA, cơ quan tình báo nước ngoài và các công ty năng lượng phương Tây. Chính điều này đã làm cho cuộc chiến chống khủng bố của thế giới trong thời gian qua đã ngày càng đi vào bế tắc và chưa có lôi thoát./.
Danlambao 22/6/2013
Người biểu tình bị sát hại?
CTV Danlambao – Trưa nay, 22/6/2013, một thông tin rất buồn gửi đi trên facebook cho biết: Anh Nguyễn Vũ Vỹ (Facebook Quê Thuốc Lào) được phát hiện đã tử vong tại nhà trọ ở Hà Nội, nhiều khả năng bị sát hại.
Anh Nguyễn Vũ Vỹ sinh năm 1973 tại Hải Phòng, là người thường xuyên
tham gia các cuộc biểu tình phản kháng ôn hòa tại Hà Nội. Sự ra đi đột
ngột của anh đã để lại nỗi đau xót rất lớn đối với mọi người.Báo động khẩn cấp: Paul Minh Nhật tuyệt thực từ ngày 21/6/2013
VRNs (22.06.2013) – Nghệ An – Ngày 21/6/2013, theo tin chính thức chúng tôi vừa nhận được từ sinh viên – tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật từ trại giam Nghi Kim, Nghệ An bắt đầu từ ngày hôm nay, thứ 6 ngày 21 tháng 6 năm 2013 Minh Nhật đã bắt đầu tuyệt thực để phản đối việc các cán bộ trại giam Nghi Kim liên tục xúc phạm nhân phẩm và tính mạng đối với Minh Nhật. Cụ thể là: điều kiện giam giữ hết sức hà khắc như: khẩu phần ăn không bằng một con chó, không thể nuốt được (từ nguyên văn Nhật thông báo); nước uống phải dùng nước lợ (nước được lấy trực tiếp từ ao hồ, giếng khoan); phòng giam quá chật hẹp trong khi thời tiết ở Nghệ An hiện nay nhiệt độ lên đến 39, 40 độ; không có điện thắp sáng; không cho nhận sách từ người thân gửi vào.
Tiếp cận sự thật để đừng biến mình thành những con thiêu thân
Le Nguyen (Danlambao) - Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo “tài tình
sáng suốt” (?) của đảng cộng sản Việt Nam hiện đổ bệnh trầm trọng, nằm
thở thoi thóp bên bờ vực phá sản và đời sống nhân dân lao động, giai cấp
công nông tiên phong thuộc thành phần lãnh đạo nhà nước, xã hội đời
sống vốn nghèo đói, khó khăn ngày càng khó khăn, nghèo đói hơn. Thế
nhưng đảng vẫn lạc quan với các bản báo cáo thành tích trong các hội
nghị, hội thảo tiêu tốn tiền tỷ, phí phạm nhiều chục tỷ đồng tiền thuế
của nhân dân, thật vô ích, vô bổ, vô cảm đến vô duyên “…đạt chỉ tiêu,
vượt mức chỉ tiêu… đã thành công bước đầu đẩy lùi yếu kém nhưng còn
nhiều hạn chế tồn tại chưa được khắc phục do “tình hình chung” của kinh
tế thế giới… và xã hội chủ nghĩa là mong muốn, nguyện vọng của nhân
dân…”
Chiếu chỉ Thành Đô II
David Thiên Ngọc (Danlambao) - Nhân dân VN và các dân tộc trên thế giới nếu có quan tâm đến chính trường châu Á ở thập niên 90 thế kỷ trước thì chắc không lạ gì cụm từ “Hội nghị Thành Đô”. Đứng về mặt khách quan và những ai không đi sâu nghiên cứu nội tình về mối quan hệ Việt Nam-Trung Hoa đồng thời không quan trọng chú ý đến ngôn từ chính trị thì sự kiện Thành Đô tháng 9/1990 gọi là “Hội nghị” thì không có gì phải bàn luận. Riêng về chính giới và nhất là nhân dân VN có quan tâm trăn trở đến sự hưng vong của đất nước thì có thể coi sự kiện trên là “Chiếu chỉ Thành Đô”. Nói như thế có chủ quan và cực đoan lắm không? Để làm sáng tỏ luận điểm của mình tôi xin các bạn cho phép tôi đi hơi xa một chút.
Láo vừa vừa thôi!
Nguyên Anh (Danlambao) - Truyền
thông trong nước đưa tin vắc xin Quinvaxen sẽ được tiếp tục chủng ngừa
cho người dân Việt Nam. Sau khi gây ra cái chết của 9 trẻ em, Bộ Y Tế
không có cách gì khắc phục chương trình tiêm chủng quốc gia của mình mà
chỉ ngưng một thời gian chờ dư luận lắng xuống và tiếp tục… chích (! )
Chúc mừng ngày nhà báo chính hãng 22.6
Minh Dân (Danlambao) - Đã bước sang phút 150 của một ngày sau, có muộn ý nghĩa quá không khi thể hiện một lời chúc như là sinh nhật. Có thể sẽ sai ý nghĩa nhưng dù muộn dù sai tôi xin chúc:
Quỷ đang thay áo: Trung Quốc đang trở nên “hiền” hơn chăng?
Vitudotutuong (Danlambao) - Tập
Cận Bình sang Mỹ gặp Obama với không khí được coi là “thân thiện hóa”.
Các tuyên bố bớt cứng rắn hơn trong tranh chấp biển đảo. Các hoạt động
khiêu khích trên biển giảm tần suất và mức độ. Có nhiều cuộc tiếp xúc
song phương với Việt Nam: tướng Vịnh được xoa đầu chiêu an; Thủ tướng
Dũng tiếp bí thư Quảng Tây; chủ tịch Trương Tấn Sang công du Bắc Kinh…
Người ta thấy Bắc Kinh dường như có thay đổi theo chiều hướng hòa dịu.
Vậy thực chất của những thay đổi đó là gì?
Đây là Giang Sơn gấm vóc của 91 triệu đồng bào!
Ngày chú vừa ra đời
Lỗ Tiên Sinh đã lấy số tử vi cho chú:
“Tuổi Sửu, mạng con trâu”
“Vừa độc địa, vừa ngu lại vừa ngông”Lấy gì để tin?
Ơn Bắc triều – Tiêu Nam quốc
Lê Dủ Chân (Danlambao) - “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam,” Phùng Quang Thanh đại tướng bộ ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản bộ trưởng bộ quốc phòng nước CHXHCN Việt Nam.
Chiếu chỉ Thành Đô II
David Thiên Ngọc (Danlambao) - Nhân
dân VN và các dân tộc trên thế giới nếu có quan tâm đến chính trường
châu Á ở thập niên 90 thế kỷ trước thì chắc không lạ gì cụm từ "Hội nghị
Thành Đô". Đứng về mặt khách quan và những ai không đi sâu nghiên cứu
nội tình về mối quan hệ Việt Nam-Trung Hoa đồng thời không quan trọng
chú ý đến ngôn từ chính trị thì sự kiện Thành Đô tháng 9/1990 gọi là
"Hội nghị" thì không có gì phải bàn luận. Riêng về chính giới và nhất là
nhân dân VN có quan tâm trăn trở đến sự hưng vong của đất nước thì có
thể coi sự kiện trên là "Chiếu chỉ Thành Đô". Nói như thế có chủ quan và
cực đoan lắm không? Để làm sáng tỏ luận điểm của mình tôi xin các bạn
cho phép tôi đi hơi xa một chút.
Quan hệ Viêt Nam-Trung Hoa:
Là một mối quan hệ luôn là thời sự nóng và nóng mãi... cho dù hàng ngàn
năm trước nó cũng trải qua bao phen máu lửa, bão tố, phong ba rồi yên ả
nhưng có lẽ những cơn sóng bạc đầu đó biến dạng thành những đợt sóng
ngầm và âm ỉ không bao giờ tắt lịm để chuẩn bị cho thời kỳ sau bộc phát
gầm lên. Xét về mặt địa chính trị thì hai nước có một sự liên quan, kết
dính tự ngàn xưa bởi núi sông biển đảo liền kề... từ đó những móc xích
về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa luôn ảnh hưởng cho nhau và nỗ
lực tách rời, độc lập cho dù là từ phía nào cũng khó mà thực hiện. Nhưng
qui luật muôn đời là "Nước chảy về vùng trũng", do đó nền văn minh, văn
hóa Bắc phương hàng ngàn năm qua luôn chảy về phương Nam một cách tự
nhiên và ào ạt mang theo bao hệ lụy... trong đó rực rỡ cũng nhiều và đen
tối, độc hại chất chứa sự xâm thực đầy ác ý mưu mô đồng hóa thì luôn
đầy dẫy và chực chờ thấm vào da thịt người dân đất phương Nam.
Nơi đây tôi chỉ trích một vài điều có liên quan để làm sáng rõ cho luận
điểm mà mục đích của bài viết về sự kiện Thành Đô. Còn đi sâu vào sự xâm
thực của văn hóa phương Bắc đối với đất phương Nam tôi sẽ giới thiệu
từng phần trong tác phẩm nghiên cứu văn học sử "Nguồn gốc và sự phát
triển của nền văn hóa Phù Nam" hầu phục vụ bạn đọc sau.
Như tôi đã nói sự liên quan về mặt địa chính trị và lôi theo phương diện
văn hóa, quân sự, kinh tế... của hai nước như vậy nó đã tồn tại từ
trước thế kỷ thứ 2 trước cn và từ đó cho đến nay trải qua bao thời kỳ và
mỗi thời đại nó có một sắc thái đặc thù khác biệt tùy theo hoàn cảnh
lịch sử của mỗi giai đoạn. Nhưng tựu chung hình thức và hoàn cảnh nào
thì bọn Bắc phương cũng đứng đầu gió và dân tộc đất phương Nam luôn
trong tình trạng chống đỡ, né tránh thậm chí phải chịu tang tóc, đau
thương bởi những cơn thịnh nộ của cuồng phong, những mùa gió chướng, gió
mùa Đông Bắc tràn về. Hành trình của mối quan hệ VN-TH từ trước thế kỷ
thứ 2 trước cn đến nay trải qua 4 giai đoạn (nơi đây tôi chỉ kê lên mà
không dẫn giải, chi tiết sẽ có trong tác phẩm đã nêu trên). Và vì khuôn
khổ của một bài viết.
1- Thời Bắc thuộc: khoảng 1000 năm từ Âu Lạc-An Dương Vương (179 trước
cn) đến khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán và sau đó lên ngôi vương năm
939 sau cn.
2- Thời Đại Việt: Cũng khoảng 1000 năm tương đương với thời Bắc thuộc.
Từ khi Ngô Quyền xưng Vương đến khi đế quốc Pháp bắt đầu đặt nền đô hộ
năm 1883.
3- Thời Pháp thuộc: Từ năm 1883 đến 1945 hơn 60 năm đến khi VN giành độc lập.
4- Thời hiện đại: Từ năm 1945 đến nay.
Nơi đây tôi nói một vài đặc điểm ở thời kỳ thứ 4 để có cái nhìn xuyên suốt đến chủ đề bài viết "Sự kiện Thành Đô".
Ta biết rằng khi HCM du nhập CNXH về VN là nguồn gốc từ Liên Xô, từ lúc
HCM bị Pháp từ chối đơn xin nhập học trường Thuộc Địa (École Coloniale)
để rồi lưu lạc qua Mạc tư Koa và được Lenin thu nhận để rồi sau đó mang
chủ nghĩa Mác-Lê về gieo rắc nhuộm đỏ vùng ĐNÁ, trước mắt là Đông Dương.
Do đó suốt chuỗi hành trình, đảng CSVN luôn dựa vào LX và xem Kremlin
là tường thành vững chắc cho chủ nghĩa cs. Chế độ và CSVN đã từng ký
hiệp định quân sự toàn diện với LX. Mặt khác trên đầu HCM và tập đoàn
CSVN lại có một bóng mây đen lởn vởn che mờ và gây ra nhiều phiền nhiểu,
sự cố...
Bằng những toan tính thủ đoạn, HCM và đảng CSVN không chịu cảnh bơi chèo
giữa hai dòng nước và từ đó đưa cả hai tay vuốt ve, nâng khăn sửa túi
cho cả hai khách đa tình mà cũng lắm nỗi bạc bẽo, mưu mô lợi dung kẻ bề
tôi trong những phương diện riêng của mỗi kẻ.
Trong giai đoạn này HCM, CSVN nhận ơn mưa móc từ cả hai. Trái ngang
thay, thập niên 60 thế kỷ trước hai kẻ phong tình LX-TQ lâm vào cảnh cơm
không lành, canh không ngọt đưa đến rạn nứt và bất đồng quan điểm lên
đến cực đại. Lúc bấy giờ sự dựa dẫm vào LX mà một mặt hai lòng với TQ
của CSVN đã lộ rõ. Do đó Đặng Tiểu Bình quyết ra tay "Dạy cho Việt Nam một bài học".
Thế là chiến tranh biên giới Việt-Trung nổ ra, đồng thời Đặng xúi dục
Khmer đỏ tiến hành chiến tranh biên giới Tây Nam với VN rồi Gạc Ma -
Trường Sa chiến sĩ VN phải bỏ mình trong lòng biển, đem máu nhuộm sơn hà
bảo vệ biển đảo non sông.
Lúc này CSVN gọi Tàu cộng là "phản động" là "bành trướng,bá quyền"...v.v...thù địch, chửi bới nhau kéo dài hơn mười năm.
Qua hơn mười năm bão tố ngút ngàn, đường biên và các cột mốc biên giới
Việt-Trung từ xưa đâu còn nữa và đã bị dời sâu vào lòng của Mẹ Âu cơ,
hàng ngàn km2 đất dọc biên giới phía Bắc đã trở thành "nước lạ" bởi:
"Bên kia biên giới là nhà.
Bên này biên giới cũng là quê hương..." (Tố Hữu)
Cho nên ải Nam Quan, thác Bản Giốc, núi Lão Sơn... đối với dân VN còn
chỉ là hoài niệm. Rồi cũng trong thời điểm này thật mỉa mai thay cho
kiếp hoa chùm gởi, cho phận Cát Đằng, Phong Lan bám vào cổ thụ, cành cao
mà ký sinh... CS Đông Âu sụp đổ, lâu đài điện Cẩm Linh đang chao đảo
chuẩn bị đổ nhào. Đảng CSVN như kẻ lạc loài trong đêm trường mưa bão,
trong tay không một chiếc la bàn, phương hướng và tầm nhìn hoàn toàn bị
mất. Cơn đói khát thiếu nơi nương tựa, cảnh "Gió cát mưa sa trên nền cờ
đỏ"(Trần Dần) đã hiển hiện từ xa... Đảng CSVN như "kẻ khát nước qua sa
mạc..."(Nguyễn Khoa Điềm), lúc bấy giờ tập đoàn csVN khao khát được quay
về với kẻ thù 4000 năm để tìm một chút hương thừa. Ngay lúc này ở trên
đỉnh Hoa Sơn, chưởng môn Nhạc Bất Quần liếc nhìn về cõi trời Nam bằng
nửa con mắt mà rằng: "Sóc chết ba năm cũng quay đầu về núi!!!",
thế là kịch bản "Thành Đô" được viết ra và dàn dựng bởi quân sư Đặng
Tiểu Bình - một chính khách được thế giới xem là nhân vật của thập kỷ 80
tk 20.
Thưa các bạn, mở đầu cho " Chiếu chỉ Thành Đô" quá dài dòng và lan man
các bạn nhỉ! Nhưng không biết phải sao cho được tỏ tường. Xin các bạn
thứ lỗi cho bởi cái tầm của người viết có hạn.
Từ khi VN-TQ "anh đi đường anh tôi đi đường tôi"(Xuân Diệu)... Buổi chia
phôi còn đó, bây giờ cảnh "Giải cấu tương phùng"(Từ của Nguyễn Du) là
niềm ước ao của tập đoàn CSVN. Do đó "Bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc" là nỗi lo hàng đầu, mất ăn mất ngủ của CSVN.
CSTQ thả con mồi. VN khấp khởi với dịp may hiếm có, nhưng phập phồng lo sợ vì biết rằng TQ là con hổ luôn khát máu, đói mồi.
"Ngày 29.8.1990 đại sứ TQ tại HN Trương Đức Duy xin gặp TBT Nguyễn
Văn Linh và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười chuyển thông điệp của
TBT Giang Trạch Dân và chủ tịch Quốc vụ viện Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn
Linh, CTHĐBT Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô thủ phủ tỉnh
Tứ Xuyên vào ngày 3.9.1990 để hội đàm bí mật về Campuchia và vấn đề bình
thường hóa quan hệ hai nước."(Hồi ký Trần quang Cơ).
Như kẻ chết trôi vớ được chiếc bè và một sự chuyển biến quá bất ngờ vì
trước kia Trung Nam Hải khẳng định rằng chỉ khi nào vấn đề CPC được giải
quyết rốt ráo rồi mới tính đến chuyện bình thường hóa quan hệ hai nước.
Mới ngày 24.8.90 Bắc Kinh còn bác bỏ việc gặp cấp cao của hai đảng, hai
nước như vậy đối với một kẻ đần độn cũng đủ hiểu rằng đây là một âm mưu
nham hiểm và đầy cạm bẫy đen tối của CS Bắc Kinh.
Kịch bản đã viết sẵn, lệnh thiên triều cho gọi bầy tôi được ban ra. Cộng
sản VN chỉ việc chấp hành, tất cả diễn biến của sự kiện Thành Đô đều
diễn ra hoàn toàn trong vòng bí mật từ địa điểm đến ngày giờ và nội
dung. Một sự kiện có quan hệ đến sự sống còn của đất nước mà chỉ trong
một số tên đầu sỏ biết và tự giải quyết với tư thế của một bầy tôi? Đúng
là tội đồ thiên cổ của dân tộc, nhân dân VN phải gánh lấy hậu quả đến
đời con cháu cũng chưa phai.
Ta hãy nghe người trong cuộc tự thú:
Ông Phạm Văn Đồng nói: "...Trước khi ký văn bản do chuyên viên hai
bên thỏa thuận, các đ/c lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể them
bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại khi họ mời TBT, CTHĐBT sang gặp TBT, CTQVV
lại mời thêm tôi, tôi khá bất ngờ không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ
mời rất trang trọng, cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản
mà ta không lường trước được hậu quả..." (Hồi ký TQC) đúng là cơ hội bán nước và việc ký tá của một kẻ đui mù, thiểu năng trí tuệ.
Võ Văn Kiệt xót xa: "Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô
(P.V.Đ) trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng (Đ.t.Bình) thì anh
Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết rằng anh Tô đi cùng
anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý không có Đặng. Mình bị nó
lừa nhiều cái quá. Tôi nghỉ Trung Quốc luôn là cạm bẫy!"(Hồi ký Trần Quang Cơ) cũng chính từ những tư duy này mà Võ Văn Kiệt phải nhận cái chết đầy bí ẩn?
Còn việc triệu Phạm Văn Đồng qua Thành Đô theo tôi cũng chỉ là để làm
nhân chứng sống với cái xác không hồn chờ ngày hạ huyệt theo Mác theo
Mao và làm tác nhân để CSVN thực hiện tiếp những gì mà PVĐ cùng HCM ký
kết trước đây với Tàu cộng trong đó có công hàm 1958 đầy ô nhục và bẩn
thỉu gây ra bao cảnh tang thương cho dân tộc, ngư dân phải bỏ mình trong
lòng biển và biết bao nhà yêu nước, tuổi trẻ phải chịu gông cùm, đánh
đập dã man truy bức từ trong tù cho đến ngoài xã hội, một nhà tù lớn
CHXHCNVN.
Phạm Văn Đồng tiếp: "Mình bị hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp
cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói
cái đó...nhưng tôi không nghĩ vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người
lãnh đạo nên làm như vậy."( H.KýT.Q.C)
Trần Quang Cơ nói: "Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không
phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết
sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với TQ.
Đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc. Tưởng rằng thỏa thuận như
thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại..."(H.ký TQC)
Nói chung từ trước đến nay trong lịch sử ngoại giao của CSVN thì sự kiện
Thành Đô là một thất bại nhục nhã, ê chề làm tiêu tan con đường tiến
lên của đất nước. Nơi đây ta thấy rõ TQ là một mối lo, là một sự đe dọa
cực kỳ nguy hiểm làm tổn hại đến sự độc lập và toàn vẹn lảnh thổ của đất
nước Việt Nam.
Trên đây là sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô hay còn gọi là "Mật chỉ
Thành Đô" mà tập đoàn CSVN cúi đầu tuân mệnh một cách mờ ám mà hơn hai
mươi mấy năm qua nhân dân VN phải gánh chịu. Các cảnh nhân dân VN yêu
nước bị đàn áp, đánh đập dã man, tù đày vô pháp luật đối với các ngòi
bút, dân oan, tuổi trẻ cùng các nhà đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và
toàn vẹn lãnh thổ... Đó là những dòng, trang trong chiếu chỉ Thành Đô I
tháng 9.1990. Sau khi kết thúc hội nghị bí mật một cách mờ ám và đầy ô
nhục trên, lãnh đạo csVN phải đắng cay cúi đầu cam chịu. Để xoa dịu bầy
tôi, cuối cùng Giang cũng đã an ủi và tặng câu thơ của Lỗ Tấn mà rằng:
度尽劫波兄弟在,相逢一笑泯恩仇
Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu.
Dịch nghĩa: Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không !
Kiếp ba: (Thuật ngữ Phật giáo), phiên âm Phạn ngữ Kapla có nghĩa là một thời kỳ rất dài (x. Từ điển Phật học Hán Việt.)
Nghe đến đây các vị trong đoàn CSVN nở nụ cười tươi của thằng Bờm khi nhận được gói xôi từ tay Phú Ông.
Bây giờ xin mời các bạn bước vào những trang đầu của "Chiếu chỉ Thành Đô
II". Gọi là Thành Đô nhưng địa điểm diễn ra tại Bắc Kinh và công khai,
nội dung thì suy cho cùng ngang ngược và trắng trợn hơn và đây cũng chỉ
là những bước đi tiếp theo của Thành Đô I trên con đường cống nạp để
cùng nhau "Trước sau như một" tiến lên thế giới đại đồng, có nghĩa rằng
không còn Tổ Quốc Việt Nam mà chỉ có một Đại Hán bao trùm thiên hạ với
"Giấc mơ Trung Quốc".
Theo sự đổi thay của lịch sử và sắc màu, tình tiết của chính trường thế
giới. Con đường xâm lăng của Đại Hán không còn kiểu ồ ạt kéo quân cướp
giết và đặt ách đô hộ công khai như ngày xưa đã từng với dân tộc VN mà
ngày nay nó biến thái với diên mạo tô vẽ muôn màu và tinh vi hơn.
Chính sách củ cà rốt và cây gậy:
Như trong bài "Tàu lạ lại đâm chìm tàu ngư dân: Cú vỗ đầu để đón chủ
tịch Sang?" tôi đã viết chuyến đi Bắc Kinh kỳ này của chủ tịch Sang chỉ
là đi chầu thiên triều đồng thời Trung Nam Hải vỗ đầu xoa dịu sau hàng
loạt cú đập, tát vào mặt đảng csVN và hà hiếp ngư dân VN, tiện thể Bắc
Kinh xem xét Hà Nội đã thực hiện các chỉ thị từ Bắc Kinh thông qua các
lần đi sứ của tướng Nguyễn Chí Vịnh, tân đỉnh cao trí tệ Nguyễn Thiện
Nhân như thế nào và dâng lên cho Tập Cận Bình lễ vật là những bản án đầy
khắc nghiệt cho tuổi trẻ yêu nước như Phương Uyên, Nguyên Kha, các
thanh niên Công Giáo. Áp bức hòng bức tử LS Cù huy hà Vũ đang ở trong
tù, bắt nhốt các Bloggers Trương Duy Nhất, nhà văb Phạm Viết Đào, anh
Đinh nhật Uy anh ruột của Đinh Nguyên Kha cùng các hình ảnh đánh đập dã
man "các phần tử phản động, thế lực thù địch" xuống đường chống TQ xâm
lược ngày 2/6/2013 tại Hà Nội để làm lễ vật dâng lên cho thiên triều.
Người xưa nói "Nhân bất học bất tri lý" còn bây giờ đảng CSVN vô học mà
ham ký. Từ Phạm Văn Đồng ký công hàm 1958 bán biển đảo cho đến Thành Đô I
cũng ký nhưng không biết họ viết gì, chỉ ký theo mệnh lệnh để di họa
đến không biết mấy đời sau.
Bây giờ đến lượt Trương Tấn Sang.
Trong lịch sử ngoại giao từ xưa nay trên toàn thế giới chưa có một ai
đại diện cho một nước nào cho dù là nhỏ bé, thiếu độc lập, thiếu tự chủ
cũng chưa có một lãnh tụ nào trong một cuộc tạm gọi là bang giao vừa
bước chân xuống miền đất khách chưa kịp tẩy trần mà ký một lúc 10 văn
kiện như ông Trương Tấn Sang và tập đoàn ăn hại theo đuôi! Ở đây xin nói
thẳng ra rằng các văn kiện đó "Họ" đã viết sẵn theo chủ ý và âm mưu của
họ theo kịch bản của quân sư mà kẻ ký chỉ biết hạ bút và không được
phép biết nội dung nó là gì? Đứng về phương diện Quốc Gia thì đây là
hành động bán nước.
Vạch ra một vài điểm của các văn kiện đó thì ta hẵn rõ!
1- Hai nước sẽ thăm dò, khai thác dầu khí chung trên vịnh Bắc Bộ: Điều
này là điều mà ông Sang và chính giới VN lo sợ nhất trong chuyến đi chầu
kỳ này trước hàm cá mập Trung Nam Hải. Chỉ có hàng thiểu năng trí não
mới thò tay vào ký mà thôi, trong lúc đó các nhà trí thức, khoa học yêu
nước đã cảnh báo, nhắc nhở trước khi ông đi rồi. Thử hỏi chuyện đơn giản
như đất vườn cây trái, hoa màu của nhà mình mà hàng xóm xấu bụng vào
thu hoạch (ăn cướp trá hình) mà gọi là chung nhau, cùng nhau khai thác
là sao? Năm ngoái chúng cũng đã ngang ngược kêu gọi mời thầu quốc tế các
lô dầu khí của VN rồi là gì? Rồi nay mai vợ nhà mình nó cũng vào khai
thác chung cũng được chắc?
2- Bộ Nông Nghiệp hai nước lập đường dây nóng để giải quyết các vụ va chạm liên quan đến ngư dân.
Điểm này là mang mặt nạ diễn tuồng. Từ xưa giờ Hán tặc bắt bớ, tịch thu
tài sản, bắt vợ con ngư phủ bán nhà nộp tiền chuộc người và tàu bè của
ngư dân VN thì ai là người của chính phủ, nhà nước CSVN có được một lời
sẻ chia chứ đừng nói chi binh vực? Rồi việc các tàu sắt to lớn củaTrung
cộng đâm thẳng vào tàu gỗ nhỏ bé của ngư dân VN làm tan nát và chìm cả
người lẫn tàu cùng tài sản vào lòng biển như mới gần đây ngày 1/6/2013
và ngày 17/6/2013 thì ai là người của đảng CSVN, của bộ Nông Nghiệp VN
can thiệp hay hèn nhác nói tránh ra là tàu lạ?
Nơi quê nhà thì ông Sang hô hào mạnh miệng trước ngư dân đảo Lý Sơn,
Quảng Ngãi, trước cử tri Tp.HCM về lập trường Biển Đông. Giờ đây, trước
quan thầy Bắc Kinh thì ông lại xin "Đối xử nhân đạo với ngư dân", thật
là nhu nhược không biết dấu vào đâu cho hết?
Bây giờ lại bày ra lập đường dây nóng để làm gì? Khi cảnh sát biển, tàu
tuần duyên VN trốn mất biệt tăm khi ngư dân bị hãm hại, bị gây tang
thương chết chóc? Đường dây nóng lập ra tôi thiết nghĩ chỉ để các bên bộ
Nông Nghiệp "nước lạ-nước ta" liên lạc thông đồng chia chác các chiến
lợi phẩm cướp được từ ngư dân nghèo đói VN mà thôi.
3- Hai bộ Quốc Phòng hợp tác xây dựng trung tâm văn hóa...
Đây là âm mưu xâm lược văn hóa mà từ xưa giờ Trung cộng luôn quan tâm.
Thậm chí gần đây bộ Văn Hóa CSVN còn dự tính đưa chương trình dạy tiếng
Tàu vào hệ Giáo Dục VN, in chữ Tàu, cờ Tàu lên sách giáo khoa bậc tiểu
học?
Còn đem Văn Hóa VN sang truyền bá ở TQ ư? Xưa rồi Diễm! Đừng làm trò hề
để có cớ chúng truyền bá, du nhập văn hóa Tàu vào VN mà gọi là trao đổi
hai bên? Trung Quốc đâu có thiếu giấy gói xôi, gói cá mà VN phải tốn
tiền in ấn và cung cấp cho họ! Đừng làm nhục quốc thể thêm hơn nữa.
4- Trung Quốc Cho VN vay ưu đãi 320 triệu nhâ dân tệ rồi 45 triệu USD cho các dự án?
Đối với cá nhân thường thường bậc trung như Phạm Thanh Bình (Vinashin),
Dương Chí Dũng (Vinalines), Bùi Tiến Dũng (PMU-18), Nguyễn Việt Tiến
(thứ trưởng bộ GTVT), Phạm Hữu Phú (Sacombank), Hồ Hùng Anh
(Techcombank), bầu Kiên (ACB), Nguyễn Đăng Quang (Masan)... thì con số
tiền đó cũng chưa là cái gì ghê gớm chứ đừng nói chi đến hạng cao như
thống đốc Nguyễn Văn Bình, bộ trưởng GTVT Đinh La To (Thăng)... chỉ là
con số lẻ. Đó là chưa nói đến hàng chóp bu như gia đình Ba Ếch thì ôi
thôi số đó chỉ là hạt cát nơi bãi biển Nha Trang, Mũi Né mà thôi. Vậy
một nước siêu cường thứ 2 về kinh tế thế giới với số tiền nói trên thì
đã nói lên được điều gì để thực hiện một âm mưu? Mà ở đây chỉ là cho vay
ưu đãi chứ không không phải là viện trợ không hoàn lại!
Cái thâm ý ở chỗ này là Trung cộng đem ra chỉ một chiếc củ cà rốt nho
nhỏ để làm mồi đối với CSVN nhằm che đậy tầm nhìn của thế giới vì trong
thời gian qua dưới mắt của các chính khách, các nhà bình luận và các
chính phủ thì giữa TQ và VN đang căng thẳng, sục sôi trong vấn đề tranh
chấp Biển Đông. Làm như vậy để đối kháng lại, chứng minh ngược lại các
dư luận trên đồng thời thông báo cho thế giới biết rằng hai nước cộng
sản anh em luôn hòa hiếu và tương trợ lẫn nhau.
Thật ra đó là Bắc Kinh củng cố "quyền lực mềm". Đối với thế giới thì Tập
Cận Bình sau khi nhậm chức chủ tịch nước đã thực hiện một loạt động
thái hoạt động ngoại giao từ Nga qua Mỹ rồi các nước nhỏ khác trên thế
giới. Nơi đây ông cũng không quên sử dụng con át chủ bài Kinh Tế. Đây là
những động thái và qui trình xây dựng quyền lực mềm và từng bước biến
nó thành "Quyền lực cứng". Lôi kéo sự ủng hộ, đồng thuận tạo vây cánh từ
các nước bị quyền lực mềm khống chế để làm vũ khí một khi TQ có xảy ra
vấn đề tranh chấp nào với một nước khác. Hoặc xa hơn là tranh ngôi thứ
siêu cường với Mỹ và thực hiện "Giấc mơ Đại Hán".
Cụ thể trong khu vực ĐNÁ TQ đã sử dụng "Quyền lực mềm" đối với
Campuchia, Thái Lan... còn đối với VN thì củ cà rốt chẳng qua là hình
thức mà phía sau là cây gậy, cây gậy thật to mới là chính!
5- "Trước sau như một" kiên định 16 chữ vàng và 4 tốt.
Ở điểm này tôi xin ngài chủ tịch nước CSVN bỏ dùm hai chữ nhân dân Việt Nam trong câu "Đảng,
Nhà nước và Nhân Dân Việt Nam trước sau như một, hết sức coi trọng phát
triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với TQ". Chỉ có
đảng nhà nước CSVN và đảng nhà nước CSTQ trước sau như một mà thôi. Có
nghĩa rằng hai đảng cũng nhập lại làm môt và biên cương tổ quốc sẽ xóa
nhòa và nhập về Đại Hán chứ Nhân Dân VN không hề đứng chung với hàng ngũ
nói trên và ý đồ nhập hai đất nước làm một chỉ là giấc mơ hão huyền của
Đại Hán mà thôi! Lịch sử đã khẳng định điều này.
Một điều cảnh báo cho ngài chủ tịch Sang rằng: Nếu vì áp lực của Nhân
Dân mà ngài phải nói lên vấn đề Biển Đảo với TQ mà trong lúc đó ngài lại
cúi đầu xin trợ giúp, đầu tư cho nền kinh tế đang chết lâm sàng do bầy
sâu của các ngài đục khoét tan hoang thì việc làm đó chỉ có ở hạng người
"Bất tri lý" hay ở xứ ngàn lẻ một đêm mới có mà thôi.
Thôi, tay đã nhúng vào chàm, chân đã sa xuống vũng lầy hôi thối rồi thì
việc gì phải làm ngài cứ làm không thể khác được hơn nữa. Ngài cứ ký
thôi nhắm mắt mà ký mặc dù ngài chưa đui mù. Bản thân ngài và gia đình
ngài không hề mất đi một tế bào nào cho dù là tế bào đã chết.
Nói đến đây tôi bổng nhớ đế thời kỳ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80
thế kỷ trước ở Tp.HCM của quí ngài có một vị giám đốc một doanh nghiệp
lớn bị mù bẩm sinh cả hai mắt tên "Huỳnh Là". Thế mà giám đốc mù đó vẫn
điều hành công ty và hằng ngày cứ "ký mò", mò mò mà ký theo sự cầm tay
hướng dẫn vị trí ký của cô thư ký có bàn tay êm như nhung... chứ ông
nào có thấy và biết gì? Chung quanh ông từ bé giờ được bao trùm bởi một
màn đen vô tận. Nhưng lạ thay doanh nghiệp của ông vẫn ăn nên làm ra...
gia đình ông vả cả ê-kíp giàu sụ nhanh chóng và tất nhiên cô thư ký cầm
tay cho ông ký chiếm một phần không nhỏ tài sản của công ty ông quản lý,
một doanh nghiệp quốc doanh thời bao cấp.
Kết quả không lâu sau là hàng vạn người dân phải chết theo vì những văn
bản được ký mà vị giám đốc mù không thấy và biết được nội dung như ở
"Hội nghị Thành Đô I" mà các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười
đã ký, để rồi sau đó về Hà Nội ông Đồng mới than thở là ký mà không
biết và lường được hậu quả của nó sẽ ra sao? Thật mỉa mai thay cho các
đỉnh cai trí tệ CSVN.
Từ chỗ ông giám đốc mù Huỳnh Là và tập đoàn Mù Ba Đình được dựng lên để
ký những văn bản chết người mà không hề biết là từ đâu? Cấp trên nào
quyết định và giao nhiệm vụ? Đối với lão GĐ mù kia thì dễ hiểu vì cấp
trên của ông còn "Mù nặng" hơn ông. Nhưng nhóm chóp bu Ba Đình này từ
đâu có và ai trao cho cái quyền nguy hiểm đó! Tôi xin chào thua.
Cũng có một điều nữa cũng đáng nói là lão GĐ mù Huỳnh Là khác với các vị
ở Hội nghị Thành Đô I&II là trước và sau khi ký lão GĐ mù còn nói
được mục đích việc ký và thổ lộ tâm tư của mình. Còn các vị chóp bu csVN
ở Thành Đô I&II vừa mù mà lại vừa câm không nói được nên lời bởi
bị trái táo Tàu nó chận ngang cổ... do đó dân gian ví von đó là chứng
"Mù Câm". Xin các bạn chớ "Nói lái" mà xúc phạm đến các hồn ma ở lăng Ba
Đình và những lãnh tụ bị "nhị chứng nan y" Mù và Câm còn đang cầm bút
ký!
Ngày 22/6/2013
Láo vừa vừa thôi!
Nguyên Anh (Danlambao) - Truyền
thông trong nước đưa tin vắc xin Quinvaxen sẽ được tiếp tục chủng ngừa
cho người dân Việt Nam. Sau khi gây ra cái chết của 9 trẻ em, Bộ Y Tế
không có cách gì khắc phục chương trình tiêm chủng quốc gia của mình mà
chỉ ngưng một thời gian chờ dư luận lắng xuống và tiếp tục… chích (! )
Lý giải điều này ông Nguyễn Trần Hiển, chủ nhiệm Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia trả lời phỏng vấn báo lề đảng như sau:
"- Trung bình một năm ở VN có trên dưới 10 trường hợp tử
vong sau tiêm, không có khác biệt về số ca tai biến trước và sau khi sử
dụng văcxin Quinvaxem (VN dùng văcxin Quinvaxem từ tháng 6-2010). Mấy
tháng đầu năm 2013, số ca tai biến có vẻ tăng lên, nhưng điều tra của
chúng tôi và chuyên gia của WHO đều cho thấy không phải do nguyên nhân
văcxin. Tính từ tháng 6-2010 đến nay, có 43 trường hợp phản ứng nặng sau
tiêm, trong đó có 27 trường hợp tử vong không liên quan đến tiêm chủng,
chín trường hợp có thể coi là có liên quan đến văcxin Quinvaxem nhưng
đều hồi phục. Các trường hợp còn lại được xếp vào nhóm chưa xác định
được nguyên nhân, chưa đủ thông tin để kết luận.
- Như tôi đã nói, trong số 43 ca phản ứng nặng có chín
trường hợp có thể liên quan đến Quinvaxem, với các biểu hiện sốt, co
giật, giảm trương lực cơ, là phản ứng với kháng nguyên lạ có trong
văcxin. Còn một trường hợp có sốc phản vệ nhưng đã được điều trị khỏi.
Mặc dù có phản ứng, nhưng nói về tính hiệu quả nên văcxin này vẫn được
đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng ở 90 nước trên thế giới. So sánh
với tỉ lệ có phản ứng phụ sau tiêm của thế giới là 20/triệu, VN đã sử
dụng 15 triệu liều văcxin Quinvaxem mà tỉ lệ phản ứng là 16 trường hợp
là rất thấp." [1]
Ông Nguyễn Trần Hiển
Bộ Y Tế chỉ đạo thế nào mà lại cho ông này phát biểu phủ nhận 9 trường
hợp tử vong của trẻ em VN mà chính ĐBQHHuỳnh ngọc Đáng yêu cầu phải xin
lỗi?
"Theo đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng, là một nước còn nghèo, kinh tế còn
khó khăn nên khi được Hàn Quốc viện trợ một số lượng lớn vaccine
Quinvaxem, ngành Y tế đã mở rộng tiêm chủng cho trẻ em. Thế nhưng, sự cố
đã xảy ra. Liên tiếp trong 6 tháng gần đây, đã có 9 trẻ sơ sinh tử vong
và hàng chục ca ảnh hưởng do tiêm loại vaccine này. Sự việc cũng đã đi
qua, nhưng theo đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng, một lời xin lỗi chính thức từ
lãnh đạo ngành Y tế là cần thiết đối với gia đình của 9 trẻ sơ sinh đã
tử vong do tiêm loại vaccine Quinvaxem." [2]
ĐBQH Huỳnh Ngọc Đáng hay ông Chủ nhiệm chương trình tiêm chủng mở rộng Quốc Gia Nguyễn Trần Hiển nói láo?
Là một quan chức chính phủ cái cần nhất của ông là trách nhiệm với người
dân, trước cái chết của 9 trẻ emVN, ông trơ trẻn phủ nhận và cho là
chương trình tiêm Quinvaxen là đúng đắn và được 90 quốc gia khác trên
thế giới sử dụng trong khi chính tại Hàn Quốc nơi sản xuất ra họ không
dám dùng cho dân họ, ông có thể đưa thông tin 90 nước đó là nước nào
không?
Ai kiểm chứng thông tin?
Ông cũng đừng nên so sánh máy móc là VN đã dùng hết 15 triệu liều mà chỉ
phản ứng 16 ca là rất thấp vì người có trách nhiệm không ai nói như vậy
cả! Sinh mạng con người là vốn quý nhất, không phải là một thứ để đong
đếm và khi có một người chết do tiêm vắc xin của ông cũng đủ phiền rồi
chứ đừng nói đến 9 em!
Báo “lề đảng” TT làm bài phỏng vấn ông chung quy cũng để vẽ đường cho
hưu chạy, vì nói chung sinh mạng con người trong cái chế độ này có khác
gì con giun con dế, kệ ai chết mặc xác nó miễn mình no cơm ấm cật là
được rồi!
Nhưng nếu chỉ ngụy biện thì ông đừng nên trả lời dư luận theo cái logic
của ông suy nghĩ nhé, vì nó cho thấy não trạng ngu dốt của một tên vô
lại khoác áo phục vụ nhân dân.
Tiên sư ông, láo vừa thôi!
Chú thích:
Ơn Bắc triều - Tiêu Nam quốc
Lê Dủ Chân (Danlambao) - “Chúng
tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí
nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam,” Phùng Quang Thanh đại tướng bộ ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản bộ trưởng bộ quốc phòng nước CHXHCN Việt Nam.
Đêm nằm đầu gối trên tay
Phần thương vận nước phần cay giống nòi
Bảy mươi năm phận tôi đòi
Vẫn mang ơn nghĩa với loài xâm lăng
Việt Nam ơi có biết chăng
Kẻ thù truyền kiếp đang nằm trong tim
Làm cho non nước đắm chìm
Làm cho dân dân tộc bốn nghìn năm tiêu
Một xu của bọn bắc triều
Dân ta phải trả bằng nhiều máu xương
Nam Quan Bản Giốc biên cương
Rừng sâu bể rộng Hoàng Trường còn đâu
Rồi mai non nước thuộc Tàu
Ơn kia nghĩa nọ đời sau oán hờn.
Bác sĩ Nguyễn Tường Bách - Người Kết Thúc Chiến Tranh Quốc Cộng 1945
Thực ra vào thời 1945, cụ Võ Nguyên Giáp chỉ là một Đại Tướng gần như tự phong, tức là do phe Cộng Sản của cụ phong cho cụ chứ cụ mới chỉ thành lập được một trung đội du kích; và lực lượng vũ trang của phe Cộng Sản lúc ấy cũng chỉ vài chục người. Lịch Sử đảng Cộng Sản cũng thừa nhận sau khi Nhật thất trận, các tù nhân chính trị được chính phủ Trần Trọng Kim trả tự do, trong đó có cả những tù nhân cộng sản, thì số lượng đảng viên cộng sản chỉ khoảng 5 ngàn người. Đấy là con số do cộng sản công bố; con số thực có lẽ ít hơn nhiều.
Phe Quốc gia gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đại Việt có lẽ số đảng viên cũng không nhiều hơn. Lúc đó Bác sĩ Nguyễn Tường Bách sáng lập lực lượng Quốc Gia Thanh Niên Đoàn, đồng thời chỉ huy lực lượng quân sự của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Bác sĩ Bách cũng thú nhận số đảng viên và lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng không nhiều và so với lực lượng của cộng sản có phần yếu hơn (xem hồi ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua và tập truyện Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn của Ng. Tường Bách).
Do tình cờ lịch sử, cả hai cụ Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Tường Bách đều có một số điểm tương đồng. Trước tiên, cả hai cụ cùng ở vị trí lãnh đạo cao cấp của hai lực lượng chống đối nhau thời 1945: Cụ Bách ở Việt Quốc, cụ Giáp ở Việt Minh, một tổ chức của Cộng Sản dựng lên để thu hút thành phần yêu nước cũng tương tự như tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau này được Cộng Sản Miền Bắc lập nên năm 1960, trá hình là một tổ chức yêu nước của nhân dân miền Nam. Cả hai cụ đều là nhân vật lãnh đạo lực lượng vũ trang của tổ chức của mình. Và thật lạ lùng, cả hai cụ cùng trường thọ và là hai vị cuối cùng thuộc giới lãnh đạo cao cấp trong cuộc tranh chấp Quốc Cộng 1945. Bác sĩ Bách vừa mãn phần ở tuổi 97; cụ Võ Nguyên Giáp vẫn còn sống và đã 103 tuổi.
Cả hai cụ cùng là trí thức tiểu tư sản. Cụ Võ Nguyên Giáp xuất thân cử nhân luật và là giáo sư sử tại trường trung học Thăng Long, một trường trung học nổi tiếng vì có nhiều giáo sư nổi tiếng nhất Hà Nội thập niên 1930. Trong thời gian đó cụ Nguyễn Tường Bách học đại học Y khoa Hà Nội và tốt nghiệp Bác sĩ năm 1944, ở tuổi 28, cùng lớp với Giáo Sư Thạc Sỹ Y Khoa Trần Đình Đệ, cựu Khoa trưởng Đại học Y khoa miền Nam. Cụ Võ Nguyên Giáp lớn hơn Bác sĩ Bách 5 tuổi nên hoạt động chính trị có lẽ trước Bác sĩ Bách cũng khoảng từng ấy năm. Vào thập niên 1930 - 1940 thanh niên Việt Nam hoạt động trong các tổ chức bí mật chống Pháp ở tuổi rất trẻ. Trong hồi ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua (hồi ký VNMTKQ) ở trang 36, cụ Bách cho biết tinh thần cách mạng chống Pháp của học sinh trường Bưởi như sau, "một bạn học năm thứ ba (ghi chú của người viết, tức là mới lớp 8) có đến tìm tôi (ghi chú của người viết, lúc đó cụ Bách mới 13 tuổi và học lớp 6), và đưa một tờ truyền đơn ký tên là "Thanh Niên Ái Quốc," rủ tôi vào một tiểu tổ lúc đó thành lập ngay trong trường. Tôi ngỏ ý tán thành." Sau này, Bác sĩ Bách khởi đầu hoạt động chính trị từ thời còn là sinh viên y khoa trong đảng Đại Việt Dân Chính do nhà văn Nhất Linh là anh ông thành lập khoảng 1939.
Cả cụ Võ Nguyên Giáp lẫn Bác sĩ Bách đều không được huấn luyện quân sự mà đều được tổ chức của mình trao nhiệm vụ lãnh đạo quân sự. Điều đó cho thấy lực lượng quân sự của cả hai bên lúc đó đều không đủ mạnh để đương đầu với thực dân Pháp. Cụ Bách từng cười mà nói với tôi, "Chú là bác sĩ mà anh em giao cho chỉ huy quân sự thì đủ hiểu là lực lượng mình không mạnh!"
Cả hai cụ đều là đại biểu trong Quốc Hội khóa 1 năm 1946. Cụ Giáp là đại biểu của Cộng sản (núp dưới danh xưng Việt Minh). Bác sĩ Bách là đại biểu của Việt Quốc.
Trong chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng cụ Giáp giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng. Bác sĩ Bách tuy không tham gia chính phủ Liên Hiệp nhưng khi tôi hỏi vấn đề này thì Bác Sĩ Bách cho biết cụ đã có hai người anh tham gia chính phủ Liên Hiệp với tư cách Bộ Trưởng rồi, đó là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là Bộ Trưởng Ngoại Giao và nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long làm Bộ Trưởng Kinh Tế nên đảng Việt Quốc trao cho cụ trọng trách tổ chức nội bộ đảng. Nhưng cụ cũng cho biết trong công tác chính phủ hàng ngày cụ cũng tham gia với tư cách đại biểu của Việt Quốc, do đó cụ cũng nhiều lần trực tiếp gặp cụ Hồ Chí Minh và cụ Võ Nguyên Giáp cũng như các thành viên khác của Cộng Sản trong Quốc Hội và Chính Phủ.
Cả hai cụ đều là những nhân vật lãnh đạo cuối cùng của tổ chức của mình còn sống sót từ thời 1945 cho tới đầu thế kỷ 21. Bác sĩ Bách tuy khoảng hai năm cuối sức khỏe đã yếu, không đi lại được, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn, vẫn còn trả lời những câu hỏi liên quan tới các hoạt động văn hóa của TLVĐ và các hoạt động vũ trang chống Cộng thời 1945 cho tới lúc cụ và lực lượng Việt Quốc thất bại phải bôn tẩu sang Trung Quốc năm 1946.
Trong hai, ba tháng cuối trước khi qua đời Bác sĩ Bách tuy còn tỉnh táo nhưng đã kém trí nhớ; cụ quên cả tên những người cháu tới thăm cụ, ngay cả tôi cụ cũng không nhớ tên, chỉ biết là cháu gọi bằng chú. Thời gian này chỉ kéo dài vài tháng và Bác sĩ Bách không phải trải qua giai đoạn dùng dụng cụ trợ sinh (life support) trước khi qua đời. Như thế Bác sĩ Bách đã có một sự ra đi mau mắn của người già, một điều mà những người già đều mơ ước. Đây là một may mắn cho cụ.
Cụ Võ Nguyên Giáp không may mắn bằng. Tuy "còn sống" nhưng nghe nói từ lâu cụ Giáp đã không còn biết gì hết, phải dùng dụng cụ trợ sinh (life support).
Là em út trong gia đình Nguyễn Tường, cụ Nguyễn Tường Bách đã là một trong những cây bút trẻ nhất góp mặt trong những số báo Phong Hóa đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Lúc đó cụ mới 17 tuổi, chưa xong trung học. Tôi hỏi cụ, "Lúc đó chú tới tòa báo với tư cách một chú em nhỏ tới chơi xem các anh của chú làm báo hay chú tới với tính cách ngang hàng của người cộng tác?" Cụ nói, "Tuy lúc đó chú nhỏ, nhưng chú tới với tính cách người cộng tác; chú viết mà."
Tuy sau này khi từ giã gia đình ra đi làm cách mạng, Bác sĩ Bách ở hoàn cảnh một gia đình khá giả như chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt hay Đôi Bạn, hai cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, nhưng khởi đầu cụ Bách sinh ra trong một gia đình nghèo. Có thể nói là cực nghèo (xem hồi ký về Gia Đình Nguyễn Tường của cụ Nguyễn Thị Thế, em gái cụ Nhất Linh). Tuy ông nội cụ làm tri huyện (tương đương quận trưởng hay chủ tịch huyện) Cẩm Giàng, nhưng qua đời đã lâu và gia đình trở nên túng quẩn. Bố cụ Bách lại hầu như cả đời không làm gì để nuôi gia đình. Mãi gần cuối đời bố cụ mới đi làm thông ngôn tòa sứ bên Lào. Theo gia phả bên họ Lê, tức bên họ mẹ các anh em Nguyễn Tường thì "ông Nhu làm thông ngôn ngạch tòa Công sứ". "Ông Nhu" ở đây chính là bố của các cụ Nguyễn Tường. Bố các cụ không phải làm người bẻ ghi (người gác) ga xe lửa Cẩm Giàng như một số sách sau 1975 viết. Hồi ký của cụ bà Thế ở trang 48 cho biết bố các cụ làm thông ngôn cho ông Công Sứ Hải Tường một thời gian. Sau đó ông ta được đổi sang làm Công Sứ tỉnh Sầm Nứa bên Lào. Năm 1917, tình cờ gặp lại ông Công Sứ đó ở Hà Nội, ông Công Sứ mời bố các cụ sang làm thông ngôn cho ông ở bên Lào và ngày 31-8-1917 bố các cụ lên đường (hồi ký của cụ Thế trang 59). Nhưng bố các cụ chỉ làm được tám tháng thì qua đời vì bạo bệnh.
Kể từ đó gia đình 9 người gồm mẹ, 7 anh chị em và bà nội chỉ trông vào việc buôn gạo của mẹ cụ. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 8, cụ Bách viết, "Cảnh nghèo nàn thiếu thốn trong gia đình, dù mẹ tôi và bà tôi cố gắng xoay sở, cũng chưa giải quyết được vì đông con." Trang 30, cụ lại viết về việc người con gái duy nhất trong gia đình, là chị Thế của cụ, không được đi học vì nhà nghèo, "Trong lúc gia đình khó khăn chị không được đi học nữa và về nhà giúp mẹ trong việc buôn bán...Chị cần cù đảm đương mọi việc trong gia đình, đã giúp đỡ không ít để các anh em yên tâm học hành, làm việc." Cảnh nghèo khiến nhiều năm gia đình Nguyễn Tường không ăn tết. Trang 57 của hồi ký cụ Thế ghi, "Tết năm nay nhà không gói bánh chưng. Bà ngoại thấy tôi hỏi nhà cháu đã gói bánh chưa, tôi đáp thưa bà năm nay mợ cháu không có tiền nên không gói ạ." Chẳng những không có tiền ăn tết mà mẹ các cụ có năm còn phải trốn nợ vào ngày cuối năm. Sau này vì lý do tuyên truyền chính trị, cộng sản lên án Tự Lực Văn Đoàn có cái nhìn xã hội của những kẻ thuộc giai tầng "bên trên" nhìn xuống. Thực ra không phải vậy. Quan niệm xã hội của anh em Nguyễn Tường trong Tự Lực Văn Đoàn đã hình thành từ cái huyện Cẩm Giàng nghèo khổ, cực kỳ nghèo khổ mà gia đình Mẹ Lê trong truyện của Thạch Lam là điển hình và gia đình các nhà văn này cũng không khá hơn các gia đình nghèo trong phố huyện, nơi theo sự kể lại trong gia đình và trong các hồi ký, chỉ có mấy gia đình giầu là gia đình mấy "chú Tầu" chủ tiệm trên phố chính của huyện. Có thể nói vào thời đó, gần như cả huyện Cẩm Giàng đều nghèo như Nhà Mẹ Lê cho nên ngoài anh em nhà Nguyễn Tường không gia đình nào có con ra khỏi phố huyện sau khi "tốt nghiệp" sơ cấp (ba năm đầu của bậc tiểu học) để tiếp tục học cao hơn. Trong hồi ký VNMTKQ, ở trang 9, cụ Bách mô tả cái nghèo của dân huyện Cẩm Giàng, "chung quanh, cảnh nghèo khổ, tiêu điều trong các gian nhà lụp xụp, cảnh chân lấm tay bùn của nông dân cặm cụi trên đồng ruộng lầm lội; những người chỉ có một cái khố che thân, cảnh chợ phiên lèo tèo...tất cả những cái đó đã ăn sâu vào trí óc chúng tôi. Về sau đã thúc dục chúng tôi muốn viết lên, muốn làm một cái gì để thay đổi tình trạng đó." Bà chị gái của cụ, bà Thế, ở trang 53 hồi ký của riêng mình cũng ghi, "Xóm chợ gần nhà tôi toàn là người làm ruộng quê ở Hà Nam, Phủ Lý vì bị lụt lội không đủ sống nên đưa nhau đến đây. Đa số gia đình làm nghề đi kéo xe hoặc làm mướn như nhà bác Đối, đánh cá vớt tép như nhà bác Lê và còn nổi tiếng nghèo vì quá đông con." Truyện ngắn Nhà Bác Lê nổi tiếng của Thạch Lam chính là dựa trên chuyện thực của gia đình bác Lê này. Và gia đình Nguyễn Tường cũng không khá hơn những gia đình trong xóm. Trong mấy tạp chí địa phương của Cẩm Giàng ngày nay, người dân địa phương cũng xác nhận cha ông họ thời trước 1945 thật là nghèo, không có tiền gửi con đi học ở bên ngoài phố huyện, nên toàn huyện không có người đỗ đạt, ngoại trừ mấy anh em nhà Nguyễn Tường. Cơ ngơi gọi là "Trang trại Nguyễn Tường, TLVĐ" tại Cẩm Giàng được tạo lập sau này, sau khi mấy anh em nhà Nguyễn Tường đã thành đạt ở Hà Nội, giúp mẹ trở về Cẩm Giàng lập trại để an dưỡng tuổi già (xem hồi ký về gia đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế).
Anh em nhà Nguyễn tường sống trong hoàn cảnh gần như đáy cùng xã hội. Ở trang 54 cuốn hồi ký, cụ bà Thế viết tiếp, "Những năm mất mùa đói kém, xe kéo chẳng ai đi những gia đình này bữa cơm bữa cháo. Nhà tôi chưa phải ăn thiếu nhưng cũng chả giầu gì hơn họ." Từ hoàn cảnh gần như đáy cùng xã hội đó, anh em Nguyễn Tường của cụ đã vươn lên qua sự thông minh và quyết tâm, và nhất là quyết tâm của một bà mẹ tuyệt vời. Trong hồi ký VNMTKQ, ở trang 30-31, cụ Bách vừa mô tả cái nghèo của gia đình vừa mô tả sự quyết tâm nuôi con ăn học của mẹ cụ qua đôi câu "cãi nhau" giữa mẹ cụ và Thạch Lam, ""Lâu nay không biết mày làm gì? Nhà đương túng bấn mà sao không mang được một đồng về? - Có lẽ vì anh bỏ trường rồi chưa làm việc gì. So với các anh lớn, có thể anh không làm cho mẹ vừa lòng lắm. Hai mẹ con cãi cọ một lúc, rồi không biết sao cả hai đều khóc. Ngạc nhiên, chúng tôi chạy ra ngoài. -Con xin lỗi mẹ, con sẽ đi làm." Anh vừa nói vừa gạt nước mắt, trông cũng đáng thương. Chắc anh nghĩ rằng mình cũng chưa làm gì giúp mẹ. -Ừ thì mẹ cũng tha lỗi cho con. Nếu muốn đi học, thì dù thiếu thốn, cả nhà cũng sẽ giúp.""
Tất cả mấy anh em của cụ từ những năm đầu đi học đã học ở ngôi trường duy nhất, chỉ có bậc sơ cấp (3 lớp đầu bậc tiểu học) trong cái huyện Cẩm Giàng cực kỳ nghèo khổ đó. Như đã kể, dân huyện quá nghèo, không ai đủ điều kiện cho con cái theo đuổi sách đèn ở mức vượt khỏi lũy tre làng. Chỉ có mấy anh em cụ, nhờ quyết tâm của bà mẹ, là thoát khỏi sau bậc tiểu học để lên Hà Nội tiếp tục theo đuổi sách đèn. Mẹ các cụ, sau khi chồng mất, một mình phải lo kiếm tiền nuôi gia đình tổng cộng 9 miệng ăn kể cả mẹ chồng. Để vượt qua nhiệm vụ khó khăn đó, mẹ các cụ rất cương quyết, cho các con bỏ việc mặc áo tang cho hết sầu thảm, không khóc lóc để có tinh thần mà làm ăn. Ở trang 52 hồi ký cụ Thế, có ghi: "Em Bẩy lúc đó mới có ba tuổi bà tôi cũng bắt đội khăn sô, tôi thì đầu chẳng có tóc cũng phải chít khăn như người lớn, quần may bằng vải chàm trông y mán vậy. Mẹ tôi bắt bỏ hết bảo chúng nó còn bé bắt để tang chi trông sầu thảm. Bà nội khóc thì mẹ tôi nói người chết đã yên phận rồi, bây giờ bà phải thương các cháu lo sao cho khỏi chết đói, để yên con phải lo buôn bán chứ cứ ngồi khóc hoài sao, người chết cũng chả sống lại được mà người sống thì chết đói."
Mẹ các cụ là người bà mà thế hệ chúng tôi luôn ngưỡng mộ là một phụ nữ rất cứng rắn và cương quyết trong mục tiêu theo đuổi, nhưng lại rất dịu dàng với các con cháu. Mục tiêu theo đuổi cả đời của cụ là sự học của các con trai. Khi cụ mang cốt của phu quân từ bên Lào về chôn tại Cẩm Giàng, cụ mẹ chồng nghĩ phải tìm ngôi đất nào cho phát phú ngay chứ nghèo quá đi thôi (Hồi ký cụ Thế trang 64). Nhưng cũng chính trang hồi ký này ghi, "Thầy địa lý cho mời mẹ tôi tới bàn cãi bà muốn phát phú thì con cháu học dốt, hay quý và thọ thì nghèo, bà tính sao. Mẹ tôi nói ngay quý và thọ thôi chứ phú trọc mà làm gì." Chẳng biết có phải nhờ ông thầy địa lý người Tầu đặt mộ hay không mà sau này mấy anh em ông đều phát Quí như độc giả đều biết (nhưng không phát Phú). Mặc dù nghèo gần như không đủ ăn, nhưng với chuyện học của các con thì cụ hết lòng, kể cả phải cho tiền mua sách từ bên Pháp về cho các con học. Và may mắn thay các con cụ đều học giỏi, người nào cũng từng nhiều lần đứng nhất lớp, nhất trường, hay nhất cuộc thi và cũng từng thi nhẩy hai lớp ở bậc trung học, rút ngắn được khá nhiều thời gian và tiền bạc. Trang 62 hồi ký của cụ Thế ghi, "Các anh tức lắm về bàn với mẹ tôi gửi mua bên Pháp đủ các thứ sách đem về học gấp. Năm sau đổi tuổi đi thi đậu thành ra đỡ được hai năm, đỡ tốn bao nhiêu công lao và tiền bạc. "
Mấy anh em của cụ rất quyết tâm và thông minh nên thường chiếm giải nhất hay học thi nhẩy lớp. Từ anh Cả, hầu như cụ nào cũng học nhẩy hai lớp (hồi ký cụ Thế trang 62). Trang 62 của cuốn hồi ký cụ Thế cũng ghi muốn học vượt lớp thì phải đổi giấy khai sinh cho thêm tuổi. Từ hồi bé, trong gia đình, nhiều lần tôi đã nghe chuyện tất cả các chú bác và bố tôi đều học giỏi nên phải khai thêm tuổi để đi thi, tôi thường thắc mắc làm thế nào để các anh em của bố tôi đổi tuổi? Mới đây, đọc kỹ trong hồi ký của cô tôi, ở trang 72, cụ Thế đã ghi, "Thỉnh thoảng chúng tôi lại sang chơi bên ấp Phiên Đình là ấp có ông lý trưởng đã đưa cả triện lý trưởng cho mẹ tôi muốn đóng vào đâu thì đóng. Chắc hẳn ông không thể ngờ được cái triện đó đã giúp cho mấy nhà văn nổi tiếng trong văn học sử sau này." Hóa ra, để đổi tên, đổi tuổi của mấy anh em nhà Nguyễn Tường, bà nội tôi cứ lấy cái triện của ông lý trưởng ấp Phiên Đình, huyện Cẩm Giàng mà "ịn" vào giấy khai sinh mới do chính cụ làm lại là xong(?) Cụ Bách cũng nhẩy hai lớp, và thường được giải nhất cuối năm. Phần thưởng mang về phải chở bằng xe kéo. Nghe vậy anh em chúng tôi thấy thực dân Pháp tuy thế mà rất chuộng sự học, cho dù là sự học của dân bản xứ.
Việc học của cụ Bách thật buồn cười, và sự đối xử của mẹ cụ cùng các anh cụ đối với việc học của cụ cũng rất thoáng; có thể nói là quá thoáng so với cả tiêu chuẩn giáo dục gia đình bây giờ. Theo dõi việc học của cụ Bách ở bậc trung học thôi cũng giúp hiểu thêm về sinh hoạt của Tự Lực Văn Đoàn ngay từ buổi đầu ra báo Phong Hóa. Năm 1929 cụ Bách thi vào trường Bưởi và đỗ thứ 28 trong khi nhà trường chỉ lấy có 130 người trong số rất đông học sinh dự thi. Cụ đỗ cao nhờ bài Pháp Văn (hồi ký VNMTKQ trang 33 và 35).
Nhưng ngay trong ngày khai trường, cụ Bách đã cảm thấy một bầu không khí ngột ngạt, khó thở, mà cụ cho là bầu không khí thực dân. Ở trang 35 cụ viết, "Một bầu không khí thực dân...tôi nghĩ. Tôi liên tưởng đến những truyền đơn, báo bí mật và những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp...Từ ngày ấy, đối với nhà trường, tự nhiên tôi đã không có thiện cảm." Cuối cùng, sau khi mới lên năm thứ hai, tương đương lớp 7 ngày nay, cụ bỏ trường về Cẩm Giàng tự học thi Tú Tài Tây. Ở trang 41 hồi ký VNMTKQ cụ viết, "1931. Suy nghĩ vài tháng rồi, tôi lấy một quyết định mạo hiểm: bỏ học về nhà. Tôi sợ nói ra, mẹ tôi và các anh chị sẽ phê bình tới tấp và sẽ ngăn cản. Vì có ai dại mà bỏ đi một trường học tốt như vậy, không dễ thi vào. Và nếu tự học thì có làm nổi không, bằng Tú Tài đâu phải dễ lấy; mà tôi lúc này mới lên năm thứ hai."
Gia đình cụ rất phóng khoáng, ngay cả trong việc học của con cái là việc quan trọng nhất trong mọi gia đình. Trang 44, cụ ghi nhận, "Khác hẳn với dự đoán của tôi, các anh tôi chẳng ai cho là việc đáng bàn, còn mẹ tôi sau khi do dự, cũng bằng lòng: "-Ừ thì mày về nhà mà học lấy. Nhưng phải chăm mới được."
Năm 1933 cụ thi Tú Tài Tây phần thứ I và trượt. Tưởng cũng nên nhắc lại, năm 1929 cụ Bách mới thi đỗ vào năm thứ nhất trường Trung học Bưởi, tức là vào lớp 6. Năm 1931, ở năm lớp 7 cụ xin bỏ học để về Cẩm Giàng tự học. Thế mà năm 1933, tức là đáng lẽ mới hết lớp 9 (đệ tứ niên trường Bưởi) cụ đã đi thi Tú Tài Tây phần thứ nhất, tức là vượt 2 lớp (10, 11). Các anh em khác đều học vượt hai lớp như cụ. Mặc dù thi trượt nhưng cụ cũng đã đỗ phần thi viết, tức là đỗ các môn chính. Và cụ chỉ bị trượt vì vào vấn đáp môn Anh Văn. Anh văn cụ tự học nên phần phát âm sai hoàn toàn. Cũng trang 57 cụ kể, "gặp giám khảo hắc búa, bắt tôi đọc một một đoạn truyện "David Copperfield" của Dickens. Tôi gân cổ đọc, còn ông chỉ ngồi cười. Sau tôi mới hiểu, vì ông nghe chẳng hiểu gì hết với cái tiếng Anh lạ tại của tôi. Tất nhiên là trượt, về nhà học lại." Đọc tới đây tôi lại nhớ tới kinh nghiệm của chính tôi. Năm 1962, tôi học đệ tam Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định, thi nhẩy tú tài I, cũng đỗ thi viết, rồi vào vấn đáp cũng trượt vì vấn đáp tiếng Anh. Ông giám khảo nói tiếng Anh với tôi rằng, "tiếng Anh của anh khiến tôi thất vọng". Như vậy chế độ thi cử của Pháp tuy khó về nội dung nhưng lại rất mềm dẻo về thủ tục, học sinh muốn thi là nộp đơn thi, không cần học bạ gì cả. Nhưng tại sao lại có vấn đề giới hạn tuổi đi thi thì tôi chưa tìm hiểu được. Tới thời Việt Nam Cộng Hòa thì thủ tục có khó hơn một chút, là muốn thi Tú Tài I thì phải có giấy đã học lớp 11 của một trường tư hay của bất cứ một tư nhân nào có bằng cử nhân chứng nhận. Việc chứng nhận chỉ cần ký tên rồi mang công chứng chữ ký, thủ tục không quá vài phút. Chế độ thi cử hiện nay thủ tục không được dễ như vậy, chặt chẽ hơn, nhưng trình độ học sinh lại kém hơn nhiều.
Một điều đáng ghi nhận là chính cái năm thi trượt Tú Tài phần I (hè 1933), tức là đáng lẽ mới học lớp 9, cụ Bách đã bắt đầu tham gia viết báo, làm thơ trên tờ Phong Hóa. Ở trang 57 hồi ký VNMTKQ, cụ viết: "Năm đó, thi bằng Tú Tài phần thứ nhất, tôi đã "trượt vỏ chuối," tuy đã cuốc bở hơi tai trước kỳ thi." Ở trang 58, cụ Bách viết tiếp, "Thế là lại phải cuốc một năm nữa...Cũng may, năm ấy, tôi bắt đầu bước vào nghề viết báo, làm thơ, nên thì giờ cũng dễ trôi qua."
Năm sau, 1934 cụ mới đỗ Tú Tài Tây phần I nhờ ông giám khảo thi vấn đáp tiếng Anh không quá khó. Như vậy sau hai năm học trong trường và ba năm tự học vất vả mới đỗ được Tú Tài Tây phần thứ I, cụ thấy không tự học được nữa mà phải vào trường. Và cụ không trở lại trường Bưởi mà xin vào trường tây Albert Sarraut. Ở trang 55 hồi ký VNMTKQ cụ kể: "Một cách chật vật, tôi cũng qua được phần thứ nhất bằng Tú Tài Tây...Nhưng phải đối diện với phần thứ hai làm sao đây? Theo ý kiến của các bạn, muốn ăn chắc, nên xin vào học trong trường Trung Học Albert Sarraut." Ông viết tiếp, "Mùi thực dân của trường này tất sẽ nặng nề, nhưng đành phải chịu."
Ông giỏi triết và học thi Tú Tài Triết. Trang 59 ông kể, "Vì trước kia, tôi đã ưa đọc những sách triết học, nên được giáo sư dạy môn triết mến, những tác văn của tôi thường thường ông chỉ sửa chữa rất ít và khuyến khích." Trong nói chuyện riêng tư cụ kể nửa năm đầu cụ vất vả vì tiếng Pháp thua đám học sinh gốc của trường và thua đám tây, đầm. Nhưng nửa năm sau thì cụ vượt lên đứng đầu. Cụ viết ở trang 55 hồi ký VNMTKQ: "Cuối năm, dù không dốc hết sức để ôn tập các bài vở, nhưng may mắn tôi cũng được giải nhất trong lớp và tương đối dễ dàng qua được phần thứ hai bằng Tú Tài..." Vị giáo sư Triết người Pháp rất thích cụ và cứ ngỡ sau này cụ sẽ theo ban triết trên đại học.
Như vậy cụ đỗ Tú Tài phần II vào năm 1935. Nhưng tại sao, mặc dù học giỏi, mãi 9 năm sau, năm 1944, cụ Bách mới đỗ Bác sĩ. Từng có nhiều dịp gần gũi cụ mà chúng tôi không để ý tới chi tiết này để hỏi. Thời gian này gia đình cụ đã vươn lên tới mức bề ngoài cũng không thua kém gia đình nào; mấy anh đầu đã đi làm có chức phận. Đặc biệt anh Tam của cụ (Nhất Linh) đã tốt nghiệp cử Nhân khoa học ở Pháp về và thành lập báo Phong Hóa.
Tuy gia cảnh đã thăng tiến cả về kinh tế lẫn tiếng tăm, nhưng cụ Bách lúc nào cũng đau nỗi đau "không duyên cớ" của chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt & Đôi Bạn, hai tác phẩm của Nhất Linh được giới trẻ thời đó ưa thích. Cái nỗi đau không rõ ràng vì không liên hệ trực tiếp tới cuộc sống của bản thân và gia đình mình. Nhưng lúc nào cụ cũng suy nghĩ, muốn làm một cái gì đó...không rõ ràng. Có thể nói, tâm trạng của cụ Bách lúc đó là tâm trạng chung của giới trẻ ở cái thời có nhiều cuộc chuyển mình của đất nước từ sau cuộc khởi nghĩa bất thành đưa tới đoạn đầu đài của lãnh tụ Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cái tâm trạng đó chắc chắn cũng là tâm trạng của Nhất Linh từ thời rất trẻ và ông đã đưa được vào văn chương. Tất cả những điều này đã được cụ Bách mô tả ở trang 32 hồi ký VNMTKQ: "Sau 1925, là một giai đoạn rung động mạnh trong xã hội Việt Nam và cũng rung động đến cả tầng lớp học sinh nhỏ...Những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp, về những truyền đơn bí mật như tờ "Hồn Nước", in bằng thạch mà chúng tôi truyền nhau đọc, những cuộc bãi công, biểu tình, cái tên Nam Đồng thư xã v.v... đều ít nhiều khơi dậy lòng yêu nước của những tâm hồn trẻ thơ." Và rồi cụ thể hơn, cụ viết rằng, chính cái đêm khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng mà các anh em cụ chứng kiến, hồi hộp theo dõi tại Hà Nội đã ảnh hưởng và tạo nên Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn sau này. Ở trang 37 hồi ký VNMTKQ, cụ Bách viết, "Một ngày tháng 2 năm 1930. Buổi tối, độ chín mười giờ...Bà, mẹ tôi đã đi ngủ. Nhớ lại còn ngồi trên gác đọc sách có anh Tam (Nhất Linh), anh Sáu (Thạch Lam) và tôi. Anh Cả đi làm ca đêm vắng nhà. Chung quanh im lặng. Bỗng đột ngột, vẳng từ xa đến mấy tiếng nổ, xem ra lớn hơn tiếng súng thường. Tiếng gì đây? mọi người sửng sốt. Súng? Bom, tạc đạn? Trong thời kỳ bất thường này chúng tôi nghĩ ngay tới một cuộc nổi dậy. Anh Tam chạy ra phía cửa sổ, hé mở cánh cửa nghe ngóng. Vài tiếng nổ thêm, lác đác. Trong thâm tâm, chúng tôi hi vọng đây sẽ là một cuộc tấn công lớn của cách mệnh; đều khát vọng cuộc khởi nghĩa sẽ đưa tới chấm dứt sự thống trị hung tàn của thực dân, dành được độc lập tự do cho dân tộc. Tiếng nổ hình như vọng tới từ trên, phía bờ sông. Nhưng rất nhanh, im lặng lại trở lại...Anh em chúng tôi chờ đợi một thời gian, không thấy có động tịnh gì khác, lại đặt mình xuống giường. Không ai nói với ai một câu nào, những đều biết là suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Có lẽ ai cũng đã cảm thấy thất vọng sâu xa...Mặc dầu thất bại, nhưng tấm gương anh hùng ấy vẫn luôn in mãi trong trí óc anh em chúng tôi." Và ở trang 39, cụ kết luận về ảnh hưởng của cái đêm "cách mạng Nguyễn Thái Học" đó đối với xã hội nói chung và đối với TLVĐ sau này như sau, "Tinh thần này không những sẽ phản ảnh trong các cuộc cách mệnh sau này, mà còn sẽ phản ảnh về các lãnh vực văn hóa, xã hội. Nếu không có tinh thần này, thì nói riêng, cũng sẽ không có Nhất Linh, Phong Hóa, và Tự Lực Văn Đoàn."
Lược qua tình hình vừa nêu, người ta có thể hiểu tại sao cụ Bách lúc đó tuy học trường Tây nhưng nỗi đau "vô cớ" vẫn ám ảnh khôn nguôi. Tình yêu và lý tưởng luôn luôn là cuộc sống và nỗi ám ảnh của tuổi trẻ. Với cụ Bách cũng vậy. Cụ Bách trẻ, đẹp trai, tài hoa, chơi nhạc hay, khiêu vũ giỏi, học cũng giỏi, lại thuộc gia đình đang nổi tiếng vì thành lập được nhóm TLVĐ, dĩ nhiên không thiếu cô mê. Trong mấy cô gái trẻ có một cô cùng lớp mà tới những ngày cuối đời mới đây, khi tới thăm cụ, tôi vẫn được nghe cụ nhắc lại. Cô ta là đầm lai, học cùng lớp. Mỗi chiều tan học cô ta thường đạp xe theo cụ trên đường về. Thời đó "Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường" (tên của Hà Nội do Thạch Lam đặt) còn yên tĩnh với những con đường chìm dưới hai hàng cây, với Hồ Gươm lóng lánh bên hàng liễu rủ, biểu tượng của thủ đô ngàn năm văn vật, với Nghi Tàm, Quảng Bá, hai tụ điểm của trai thanh gái lịch vào mỗi cuối tuần, với những nam thanh nữ tú ngày ngày đạp xe đạp từ từ dong duổi trên các ngã đường. Hà nội của những năm xưa đó chưa có khói xe, chưa có kẹt đường. Hà Nội của mơ và mộng. Bây giờ mỗi khi nói tới một Hà Nội thời êm ấm đó nhiều người Hà Nội trung niên trở lên thường nói, "Hà nội thời Tự Lực Văn Đoàn". Nhưng chàng thanh niên Nguyễn Tường Bách lúc nào cũng u-uẩn một tâm trạng. Trong đáy cùng tâm khảm, chàng tuổi trẻ Nguyễn Tường Bách luôn có một "chàng Dũng", sau này xuất hiện trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn. Không phải chỉ có cụ là có tâm trạng của chàng Dũng. Nhất Linh cũng vậy. Đã có một thời Nhất Linh trên đường lưu vong làm cách mạng đã đổi tên Nguyễn Tường Tam thành Nguyễn Tường Dũng để che dấu tung tích. Trong hồi ký VNMTKQ trang 140 cụ Bách kể: "Anh Tam lúc này lấy tên là Nguyễn Tường Dũng (đúng như tên anh chàng Dũng trong truyện Đoạn Tuyệt), bị giam vào một hang đá gần Liễu Châu..." Về cô đầm lai đó, cụ đã nói với tôi, "Cuối cùng chú nghĩ không thể yêu cô ta được, vì cô ta là đầm lai". Và từ đó cụ cắt đứt liên hệ với cô ta. Tuy cũng như Dũng của Đoạn Tuyệt, lúc đầu chưa biết phải làm gì, nhưng việc đầu tiên đối với cụ Nguyễn Tường Bách là phải cắt đứt một "mối tình mới chớm", chỉ vì cô ta có máu Tây.
Thế là con đường trước mặt của chàng Dũng Nguyễn Tường Bách đã khá được định hình: phải tìm cách đưa đất nước thoát vòng nô lệ thực dân Pháp. Cũng như Dũng đã giã từ Loan, dù chàng rất yêu, để lên đường làm một điều gì đó cho quê hương, chàng Dũng Nguyễn Tường Bách cũng cắt đứt một mối tình mới chớm để khởi đầu một con đường mới cho dân tộc. Ở hoàn cảnh của Cụ Bách, với 3 người anh đang mở tuần báo Phong Hóa cũng với ước vọng phải làm cuộc đổi mới cho quê hương, thì con đường hợp lý nhất và khả thi nhất đối với chàng Dũng Nguyễn Tường Bách là gia nhập cùng nhóm Phong Hóa với các anh để dùng tài văn chương của mình, qua các phóng sự, qua các bài viết, cho độc giả thấy được những nét đẹp về nước non và văn hóa dân tộc cùng những cảnh "Bùn Lầy Nước Đọng", những cảnh khốn cùng của người dân nô lệ để từ đó mỗi người dân tự ý thức phải tìm một con đường cứu nước. Tự Lực Văn Đoàn đã khởi đi như thế; và chàng Dũng Nguyễn Tường Bách cũng khởi đi như thế.
Cụ Bách có tài văn chương và cụ mê văn chương. Cụ đã có những bài phóng sự hay. Cụ đã có ít ra là một truyện ngắn viết về một đêm Giao Thừa ở nhà thương thực cảm động. Khi hỏi về truyện ngắn này cụ Bách không còn nhớ. Tám mươi năm rồi còn gì! Tôi và Bác sĩ Nguyễn Tường Giang, con trai thứ của Thạch Lam trong nhiều lần nói chuyện với cụ có hỏi, "Tại sao chú không vào TLVĐ?" Cụ trả lời, "Vào TLVĐ đối với chú thì không khó, nhưng lúc đó việc vào TLVĐ đâu có quá quan trọng." Chúng tôi hỏi tiếp, "TLVĐ lúc đó chưa nổi tiếng à?" Cụ cho biết, "Lúc đó TLVĐ cũng nổi tiếng rồi chứ, nhưng đâu ngờ nổi tiếng như sau này."
Cụ có khiếu viết văn và thích viết văn. Vả lại cụ thích đọc sách triết và giỏi về triết mà. Cụ viết văn ở tuổi rất nhỏ. Ở trang 32 cuốn hồi ký, cụ viết: "qua việc đọc những tác phẩm thời ấy, tôi cũng thấy ngứa tay, và viết bừa ra mấy truyện ngắn khi còn 11, 12 tuổi." Cụ cho biết cụ thích viết văn hơn làm bác sĩ nhưng cụ phải học đại học. Không thích nghề bác sĩ lắm nhưng cụ cho biết lúc đó toàn 3 nước Đông Dương (Việt, Miên, Lào) chỉ có một đại học Hà Nội. Mà đại học Hà Nội ngoài phân khoa Canh Nông cụ không thích thì chỉ còn lại có hai phân khoa Luật và Y. Cụ không thích Luật, học luật thời đó đa số chỉ để ra làm quan, quan huyện (quận trưởng) chẳng hạn. Tất cả các anh em cụ mặc dù có thừa điều kiện để đi vào quan trường nhưng không ai thích làm quan. Ở trang 29 hồi ký cụ viết: "Trong anh em chúng tôi, không ai thích làm quan, và cũng không thích quan. Chúng tôi không thích quan liêu, quyền quý, cũng như trọc phú chỉ biết trục lợi; không thích triều đình phong kiến và những kẻ cộng tác với bọn thực dân."
Và thế giới quan-trường đã bị một trong các tác giả của TLVĐ là Khái Hưng chỉ trích trong tác phẩm "Gia Đình". Như vậy cụ chỉ còn một con đường là học Y để ra làm bác sĩ. Cụ phải học bác sĩ nhưng cụ cũng luôn đau khổ vì không thích nghề này. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 97, cụ viết: "Trong đời tôi, có lẽ một sự lầm lẫn trong nhiều lầm lẫn khác, là việc vào học y khoa. Lấy nó làm một cái cần câu cơm hạng tốt, không hơn không kém. Vì tôi cũng như một số bạn hữu khác, lúc mới vào học, rất ít nghĩ đến tính chất "cứu nhân độ thế" hay là những câu châm ngôn của Hippocrate." Nhưng dù sao, nghề y đã cứu cụ và gia đình cụ trong suốt gần 40 năm lưu vong bên Trung Cộng. Cụ cho biết chính nghề Y đã giúp cụ và gia đình tồn tại tương đối nhàn hạ và bình an hơn các người dân Trung Hoa cùng thời tại địa phương trong suốt mấy chục năm kẹt lại tại Trung Cộng. Đặc biệt, cụ kể, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng (1966), những đồng nghiệp hay xếp của cụ bị Hồng Vệ Binh bắt mang đi diễu phố và đánh đập tàn nhẫn, thương tật, không ai giám cứu giúp, thì cụ, vì có qui chế ngoại kiều, nên không bị Hồng Vệ Binh hành hạ, do đó cụ có cơ hội kín đáo cứu chữa những người bị đánh đập. Sau này những người đó trở lại nắm quyền đều nhớ ơn cụ.
Khi hai chúng tôi hỏi sao cụ không tiếp tục vừa viết văn vừa học Y khoa thì cụ cho biết học y khoa rất bận rộn. Vào những năm chót y khoa thì tình hình chính trị lôi cuốn nên cụ càng bận rộn hơn. Đó là lý do cụ chấm dứt con đường văn chương ngoài việc sau khi đã tốt nghiệp y khoa cụ làm chủ nhiệm rồi chủ bút mấy tờ báo của Việt Quốc trong những năm đầu của cuộc tranh chấp Quốc Cộng 1945. Hồi ký của Hứa Bảo Liên ở trang 65 và 67 ghi rằng sau khi chế độ thực dân Pháp bị xụp đổ, tờ Ngày Nay bộ mới ra đời với cụ làm chủ nhiệm. Sau đó tờ này bị đình bản, tờ Bình Minh ra đời cụ lại làm chủ nhiệm. Không lâu sau tờ này lại bị đình bản, tờ Việt Nam Thời Báo ra đời, cụ làm chủ bút. Trong những tờ báo này chủ yếu cụ viết bình luận chính trị. Chẳng bao lâu sau, tờ Việt Nam Thời Báo lại bị đình bản, tờ Việt Nam ra đời. Tờ này là cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng đối chọi với tờ Cờ Giải Phóng của Việt Minh, cụ lại được anh em cử làm chủ nhiệm với sự cộng tác của các tác giả Khái Hưng, Hoàng Đạo. Hàng ngày cụ phải đọc kỹ tờ "Cờ Giải Phóng" của Việt Minh để đối chọi những quan điểm bất đồng. Ở trang 68, tác giả Hứa Bảo Liên (nàng Loan của Nguyễn tường Bách) viết tiếp, "Đầu năm 1946, anh Bách ở luôn nhà báo cho tiện làm việc. Mỗi khi ra ngoài phải có người bảo vệ. Anh bận rộn đến nỗi tóc không cắt, râu không cạo, đầu tóc bờm xờm như người "vô gia cư".
Trụ sở của mấy tờ báo này chính là trụ sở của TLVĐ, số 80 Quan Thánh Hà Nội (hiện nay tòa nhà to lớn này vẫn còn mang số cũ và có nhiều người cư trú, nhưng không ai biết đó là căn nhà gắn liền với những biến động văn hóa và lịch sử đất nước của một thời gian gần 15 năm cho tới 1946 khi Bác sĩ Bách chỉ huy lực lượng vũ trang Việt Quốc rút lui khỏi Hà Nội lên chiến khu của Việt Quốc ở Vĩnh Yên.
Trong thời gian sinh hoạt văn nghệ với TLVĐ cụ Bách thân với một số những cây bút trẻ như Huy Cận, Xuân Diệu...và đặc biệt cụ hay nhắc tới nhà thơ Huyền Kiêu, một nhà thơ to, khỏe và nghèo, là người bạn thân nhất của cụ. Cụ Bách đã phù rể trong đám cưới của Huyền Kiêu. Tường Bách, Đinh Hùng, và Huyền Kiêu là ba trong số những người trẻ nhất trong đám văn hữu thân cận TLVĐ. Trong số những người văn nghệ sĩ trẻ kia có thể kể thêm Xuân Diệu và Huy Cận. Đinh Hùng đã gọi nhóm 3 người bạn thân này là "ba tiểu quỷ". Có một giai thoại về Huyền Kiêu do Đinh Hùng kể, mà nghe qua vừa thấy bùi ngùi, vừa thấy được hết cái tình cảm thân thương của anh em văn nghệ sĩ thân cận với TLVĐ, vừa thấy được phần nào, cái "bề sâu" của TLVĐ. Giai thoại đó có tựa, "Khái Hưng và Nhất Linh trong thơ Huyền Kiêu" do nhà văn Quốc Nam thuật lại lời Đinh Hùng như sau (1):
"Huyền Kiêu vốn là bạn thân thuở nhỏ của Đinh Hùng, ở Hà Nội ... Là hàng xóm, gần nhà Thạch Lam nơi phường Trúc Bạch, tôi thường ghé thăm Thạch Lam, bàn chuyện thơ văn rất lấy làm tương đắc. Và rồi tôi dẫn Huyền Kiêu lại giới thiệu: "Huyền Kiêu, một nhà thơ rất có triển vọng! Tên thực anh ta là Bùi Kiều. KIÊU HUYỀN KIỀU! Huyền Kiêu, giản dị vậy!"
Thạch Lam cười xòa, vui vẻ dẫn hai bạn ... thơ vào thư phòng trò chuyện. Nơi cư trú của gia đình nhà văn Thạch Lam, trong Tự Lực Văn Đoàn, là một ngôi nhà tranh đặc biệt, cất theo kiểu Nhà Ánh Sáng, do phong trào Nhà Ánh Sáng mà báo Ngày Nay phát động từ mấy năm trước. Có phòng khách, phòng ngủ, với đầy đủ tiện nghi ...Tuy là nhà lợp tranh, vách bằng đất bùn nhồi rơm, láng xi măng, quét vôi sáng sủa, ngôi nhà trông thật bề thế vì vẻ cao ráo, thoáng mát của nó. Nhất là ở cạnh Hồ Tây quanh năm thoáng mát. Có vườn hoa trồng đủ cây cảnh lạ, đẹp. Một thú chơi tao nhã của tác giả "Hà Nội Băm Sáu Phố Phường"...
Một bữa vào cuối hè sang thu, Thạch Lam nhắn chúng tôi (vẫn lời Đinh Hùng) đến nhà anh dùng bữa cơm tối. Theo thông lệ, chúng tôi đến sớm, ngồi nơi vườn hoa, ngắm cảnh chiều tà trên gương hồ bát ngát ... "gió rung trăng". Thật thế đấy, nhằm đầu tháng ta, trăng mọc sớm, lơ lửng dưới làn nước trong; từng cơn gió nhẹ lướt mặt hồ, rung động ...
Thạch Lam cười vui:
- Huyền Kiêu làm thơ đi! Nếu cần, tớ gà cho.
Tôi chẳng mấy ngạc nhiên, vì đã hơn lần được nghe Thạch Lam nói chuyện về Thơ, phẩm bình về các trường phái Thơ ...
Tuy nhiên Huyền Kiêu vốn khiêm tốn, chỉ ậm ừ, cười bảo:
- Để lát nữa. Có lẽ sau bữa cơm tối nay, trong lúc tửu hậu trà dư ... chúng mình thơ thẩn ...
- Được lắm!
Đúng lúc, có tiếng chị Thạch Lam gọi. Và Khái Hưng, Nhất Linh ở đâu tới, cũng ào ra vườn. Một lát lại có cả Thế Lữ nữa.
Chủ nhà nhìn mọi người, khắp lượt, bảo:
- Quần hùng tề tựu gần đủ. Thôi mời quý vị vào dùng bữa, kẻo nguội cả.
Vào nhà thì đã thấy Nguyễn Tường Bách ở đấy từ bao giờ...
Cơm xong, chuyện vãn khá lâu. Mãi khuya đêm Nhất Linh mới bảo, vẻ thật trịnh trọng: "Lát nữa tôi sẽ phải rời xa các anh em, nên có thể đây là một đêm họp mặt để tạm biệt. Chuyến hành trình này sẽ không lâu đâu. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Bây giờ chúng ta có thể chia tay nhau được rồi. Riêng tôi, tôi còn có điều nói riêng với anh Khái Hưng, vậy các bạn ra vườn chơi, hoặc đi ngủ. Thành thật cảm ơn tất cả..."
Tôi nhớ đại ý thế, vì đã quá lâu ngày. Mọi người đều buồn nhưng không ai lên tiếng - không có can đảm lên tiếng hỏi, vì đều biết Nhất Linh là người hoạt động cách mạng. Đã đến lúc phải "mạnh tay" với thực dân Pháp, chứ không còn ở giai đoạn làm văn hóa để nâng cao dân trí người mình nữa ...
Ba đứa tôi cùng kéo nhau ra vườn, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi. Có lẽ Thế Lữ đã về nhà gần đấy. Quanh quẩn vẫn chỉ có Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi. Và Thạch Lam, lại chính là Thạch Lam, khơi mào sau khi đã nghĩ lung:
- Thơ ... ra rồi! Này, hãy nghe đây! và anh đặng hắng, ngâm:
"Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề ..."
Đấy câu mở đầu đấy! Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!
Huyền Kiêu và tôi ngơ ngác. Tôi không rõ vì sao bữa nay Thạch Lam lại nhiều ... thi hứng đến thế.
- Được! Huyền Kiêu nói. "Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề ..." Ờ, được đấy. Và anh ngẫm nghĩ. Câu mở của Thạch Lam thật tuyệt. Nó gợi ý cho tôi về một cái gì có thể gọi là ..."cổ kính". Một đêm tiễn đưa nhau chẳng hạn. Hệt đôi bạn Khái Hưng và Nhất Linh trong đêm khuya nay ... trước giờ ly biệt.
- A, khá! Thạch Lam cười. Anh nắm bắt được ý thơ rồi đấy. Vậy cứ thế mà tiếp nối. Tôi vào nhà đem trà nóng ra đây nhá. Nhân thể coi xem họ ra sao?
Một lát sau Thạch Lam đem bình trà và tách ra, bảo:
- Anh ba tôi và Khái Hưng im lìm ngồi trong thư phòng. Cả hai đều không nói năng gì cả. Phòng không đèn đóm nên bóng tối chan hòa. Ánh trăng mờ tỏ ... Có con mèo tam thể tôi nuôi quyện dưới ghế Nhất Linh ngồi. Bên cửa sổ sát vách tường, bức liễn trúc treo rung động dường như cảm thông cho đôi bạn đang nhấp chén rượu suông trong phút giờ sắp ly biệt ...
Tôi chợt lên tiếng:
- Buồn thật. Mà cổ nhân cũng đã từng than: "Ôi! biệt ly sao mà buồn thế!" thật là chí lý.
Chúng tôi uống trà. Trăng vừa lặn. Gà rền tiếng gáy phía xa. Sao dần rơi ... dần rơi và tôi chợt thấy lành lạnh.
Vẫn không thấy chút động tĩnh gì nơi Khái Hưng và Nhất Linh ở trên nhà. Tôi cảm nghĩ trong giờ phút thiêng liêng ấy, ta không nên vọng động. Cũng đừng hỏi han gì cả. Trời sắp sáng rồi.
Và quả thật, ở bên Hồ Tây bữa ấy, trong sân nhà Thạch Lam, ba đứa chúng tôi đều rất dè dặt, hạn chế từng câu nói, tiếng cười. Trong khi ấy Huyền Kiêu thầm lặng "làm việc": suy tư về ý thơ và ý nghĩa của sự chia tay của đôi bạn văn Tự Lực Văn Đoàn.
Chợt Huyền Kiêu nói:
- Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề "Tương Biệt Dạ". Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi dục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký, bất kể trời vừa sập tối lại vì trăng đã chẳng còn... Tình bạn thơ - văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó.
Tương Biệt Dạ
Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bềÝ sầu lên vút tới sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Lưu luyến người đi với kẻ về.
Ngồi suốt đêm trường không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng giăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Đã tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn dặm buồn
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Giăng mùa Xuân đó, ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu?
Bài "Tương Biệt Dạ" của Huyền Kiêu, sáng tác vào chớm thu năm Canh Thìn - 1940, chỉ mấy tháng sau là bước sang năm Tân Tỵ - 1941... Khi hoàn thành bài "Tương Biệt Dạ", vào nhà thì Nhất Linh đã lên đường từ lúc nào rồi ...
Trong giới sinh viên tích cực hoạt động bí mật chống Pháp cụ Bách thân với cụ Dương Đức Hiền, lúc đó làm chủ tịch Tổng hội Sinh viên, sau này là chủ tịch Đảng Dân chủ. Hai cụ Nguyễn Tường Bách và Dương Đức Hiền cùng trong đảng Đại Việt Dân Chính do Nhất Linh thành lập. Trong hồi ký, ở trang 123, tình bạn của hai cụ được cụ Bách mô tả như sau: "Một buổi tối sau, có người lên gác trọ tìm tôi. Nhìn rõ, mới biết là anh Dương Đức Hiền. Chúng tôi vui mừng xiết tay nhau...cả hai đều chưa bị khó dễ. Anh Tam (ghi chú của người viết: tức Nhất Linh) vẫn mất tích. Sau có tin báo là anh đã trốn ra ngoài nước, đi Quảng Châu. Hai chúng tôi đồng ý tạm thời hãy nằm im, xem tình thế biến chuyển ra sao."
Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, vì khác chính kiến, tình bạn thắm thiết đó tan rã. Trong hồi ký của Hứa Bảo Liên, trang 64 ghi lại mối quan hệ chặt chẽ giữa cụ Bách và Cụ Dương Đức Hiền. Tác giả cuốn hồi ký viết, "...có người bạn anh Bách là anh Dương Đức Hiền tỏ ý muốn gặp anh Bách để bàn chuyện. Hiền trước kia là bạn cùng một chí hướng và cùng tham gia vào một tổ chức quốc gia. Sau này tổ chức bị Pháp khủng bố, qua một thời gian sau đó, anh ta tham gia vào phong trào Việt Minh và sáng lập đảng Dân Chủ."
Một cách chi tiết hơn, trong hồi ký VNMTKQ ở trang 153 cụ Bách thuật lại: "Một hôm, vào tháng 6, tôi đương ngồi sửa bài tại tòa soạn thì ở dưới đưa lên một người lạ mặt. Anh ta bảo có thư riêng của một người bạn thân nhờ đưa đến. Rồi anh rút từ ống giầy ra một tờ giấy mỏng. Dưới ký tên một người mà tôi cũng không ngờ đến: Anh Dương Đức Hiền. Đã hơn một năm, tôi không được nghe tin tức gì về anh." Trong thư cụ Dương Đức Hiền trước cùng đảng Đại Việt Dân Chính với cụ Bách nhưng nay đã đại diện Việt Minh, hẹn gặp để bàn luận việc cộng tác chung. Cụ Bách và cụ Khái Hưng được đề cử đi gặp cụ Dương Đức Hiền. Nơi gặp cách Hà Đông độ năm cây số. Cụ Bách viết tiếp, "Chúng tôi đạp xe gần tới Hà Đông thì rẽ vào một con đường nhỏ, lầy lội, có khúc phải vác cả xe lên vai, lội bùn mà đi. Gần đến bờ sông Nhuệ, tới một tòa miếu cổ, thì thấy một người mặc quần áo nâu ra đứng đợi. Tuy quần áo khác, nhưng vẫn nhận ra được anh Hiền, gầy hơn, mặt đen sạm, nhưng hai hàm răng lại quá trắng, chẳng cần là mật thám cũng biết đây là một nông dân giả hiệu.
Chúng tôi ngồi trên thềm miếu, nhìn xuống giòng sông Nhuệ nhỏ nước chảy êm đềm, trông hao hao giống con sông Sen ở quê nhà. Chung quanh vắng không có bóng người, chỉ có một người ngồi sau miếu, có lẽ là một tay súng hộ vệ.
Sau vài lời hàn huyên, anh cho biết là đã gia nhập vào Việt Minh, với tư cách lãnh đạo đảng Dân Chủ, và khuyên chúng tôi cùng các anh em Đại Việt Dân Chính khác cũng nên tham gia Việt Minh, không nên đứng lừng khừng nữa. Anh cầm tờ Ngày Nay trong tay, phê bình chủ trương của nó không triệt để, không cách mạng theo đường lối công nông. Anh nói Việt Minh nay đã phát triển mạnh, có căn cứ quân sự, được Đồng Minh ủng hộ...Chúng tôi chỉ nghe, không giải thích gì. Có lẽ vì thế mà anh thất vọng, rằn giọng nói:
- Nếu các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!" Cụ Bách và Khái Hưng hơi ngạc nhiên, vì lời dọa dẫm lại do một đồng chí cũ đưa ra. Hai cụ chỉ cười, đưa mắt nhìn nhau. Cuối cùng cụ Bách đáp, "Cách mạng Việt Nam thì có nhiều con đường để đi, không nhất định là phải tham gia vào Việt Minh. Song về việc hợp tác, chúng tôi sẽ về bàn với các anh em rồi sẽ trả lời sau."
Cuộc hẹn gặp lại sau đó một tuần đã không thành, vì Cụ Hiền nhắn là cụ phải đi lên miền trên có việc cần và sẽ liên lạc lại sau. Hai bên không gặp lại cho tới mấy tháng sau, bất ngờ cụ Bách lại gặp lại cụ Hiền trong một buổi hợp tác đảng phái, mà từ bạn hữu đã trở nên đối địch. Cụ Bách viết tiếp ở trang 155, "Âu cũng là định mệnh. Chúng tôi cũng muốn hợp tác vì công cuộc chung, góp sức với nhau để đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Song thực ra, hai bên có thể chân thành cộng tác với nhau không, lại là một vấn đề khó giải."
Sự chia tay của hai cụ, chính là điển hình sự chia tay của cả một thế hệ cùng ôm mộng đánh đổ thực dân Pháp, nhưng theo hai con đường khác nhau. Thậm chí, còn có sự chia rẽ của những anh em ruột thịt cùng một gia đình, hay của hai cha con, chỉ vì lý do tương tự. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 100, cụ Bách viết, "Nhưng, trong hàng ngũ người Việt chủ trương giải phóng dân tộc, dành độc lập, đã có những chia rẽ sâu xa về ý thức hệ, về sách lược và đường lối hoạt động." Thế hệ 1945 là thế hệ của những người yêu nước, dù là cộng sản hay quốc gia. Tất cả đều có một điểm chung đẹp đẽ là đánh đuổi thực dân Pháp. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 101, cụ Bách viết, "Nhiều phần tử trí thức và sinh viên, bị thôi thúc bởi lòng yêu nước, sẽ kế tiếp nhau tham dự vào những phong trào chống Pháp, hoặc cộng sản hoặc không cộng sản."
Thế hệ thanh niên thập niên 1940-45 là một thế hệ "đẹp" với nhiều ước vọng dành độc lập cho tổ quốc. Đặc biệt thế hệ 1945, ở cả hai khuynh hướng Quốc, Cộng, trong tình hình thế chiến thứ II, các dân tộc thuộc địa vươn lên dành độc lập, đã là một thế hệ "huyền thoại" trong lịch sử cận đại của Việt Nam với nhiệt tình yêu nước không bờ bến, sẵn sàng từ bỏ gia đình, người yêu để lên đường cứu nước. Thế hệ 1945 huyền thoại đã được Đằng Phương (bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy) mô tả qua bài thơ Những Anh Hùng Vô Danh, mà những câu mở đầu thật cảm động và bi tráng: Họ là những anh hùng không tên tuổi - Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông, Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Nhưng thế hệ đó cũng trải qua nhiều bi thảm. Cái bi thảm thể hiện trong tình bạn của cụ Bách với những người bạn thân thương nhất của cụ, mà sau này, mỗi lần nhắc lại cụ vẫn bùi ngùi. Trong những chia rẽ của tình bạn, có lẽ sự chia tay với Dương Đức Hiền làm cụ ray rứt nhất. Cả hai đều có nhiệt tình chống Pháp, lúc đầu cùng chung một hướng, cùng chung một đoàn thể. Nhưng rồi sau cả hai lại theo hai con đường khác nhau: Quốc Gia và Cộng Sản. Thực ra, thế hệ thanh niên với những người như cụ Dương Đức Hiền mang bầu nhiệt huyết theo Việt Minh không phải là theo Cộng Sản. Ngày nay, khá nhiều các đảng viên Cộng Sản lão thành từ thời 1945 và cuộc kháng chiến 9 năm đã thú nhận lúc đó không biết Cộng Sản là gì, không biết chủ thuyết Mác Lê là gì, chỉ một lòng chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.
Người Cộng Sản đã thắng keo đầu khi họ chớp thời cơ, nhân một cuộc biểu tình của công chức Hà Nội ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim ăn mừng nước nhà Độc Lập, thoát khỏi ách thực dân Pháp. Cộng Sản đã nhanh tay biến cuộc biểu tình của nhân dân Hà Nội yêu nước thành cuộc biểu tình của Cộng Sản, dưới danh nghĩa Việt Minh. Và Cộng Sản đã cướp được chính nghĩa.
Chính phủ liên hiệp Quốc Cộng hình thành sau đó đã không có được điều cơ bản là sự tin tưởng lẫn nhau của cả hai phe. Cho nên sự liên hiệp sớm đi tới tan rã. Lịch sử hợp tan của gia đình Nguyễn Tường của cụ Bách cũng gắn liền với giai đoạn hợp tan này của lịch sử dân tộc. Một ngày, cụ Bách bất ngờ tới thăm người chị, bà Nguyễn Thị Thế, nhà ở đê Yên Phụ, cũng gần nhà Thạch Lam. Tuy cùng ở Hà Nội nhưng đã lâu rồi cụ Bách vì bận việc chính sự đã không tới thăm chị và mấy đứa cháu như thường xuyên trước kia. Lần tới thăm bất ngờ này khiến bà chị và mấy đứa cháu ngạc nhiên. Cuộc gặp gỡ đã được Thế Uyên, con của bà Thế, kể lại đại khái như sau: Bất ngờ thấy chú Bách tới sau một thời gian dài vắng mặt. Lần này lại thấy chú đi có một người hộ vệ đứng ở đầu ngõ. Cũng như mọi lần, Thế Uyên lục túi cụ Bách định tìm kẹo. Nhưng lần này chàng không thấy kẹo mà chỉ lôi ra được mấy viên đạn. Cuộc nói chuyện của cụ Bách với mẹ Thế Uyên lần này ngắn ngủi và có vẻ nghiêm trọng. Cụ cho chị cụ biết cụ phải ra đi, và ra đi khá lâu, không biết bao giờ về. Đi đâu thì cụ không nói. Dĩ nhiên cùng với sự chia tay với gia đình, cụ Bách cũng phải chia tay với "nàng Loan" của cụ.
Sau khi rời Hà Nội Cụ Bách lên chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Vĩnh Yên. Theo hồi ký của "nàng Loan của Bách", Cụ Bách ít gửi tin tức về. "Nàng Loan" của cụ Bách dự tính tiếp tục học đại học tại Trung Quốc. Trong hồi ký "Nguyễn Tường Bách và Tôi" của Bà Hứa Bảo Liên, phu nhân của Cụ Bách, "nàng Loan" của cụ Bách kể chuyện giã từ giữa "Loan và Dũng" ở trang 73 như sau:
"Tự nhiên tôi nghĩ có lẽ tôi phải lên chiến khu cho anh Bách biết tôi dự tính đi học. Kỳ thực lúc đó, tôi cũng không biết hiện anh đang ở đâu? Chiến khu ở chỗ nào? Sau hỏi ra rồi tôi mới đáp xe hơi, sau chuyển sang đi thuyền đến Việt Trì. Vừa đặt chân tới đất này, tôi cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng rất mau tôi lại cảm thấy không khí khẩn trương, người đi lại rất ít. Thỉnh thoảng lại nghe có tiếng súng nữa. Tôi tìm đến trụ sở thì gặp ngay anh Bách và anh Vũ (ghi chú của người viết, tức cụ Vũ Hồng Khanh, một lãnh tụ quân sự của VNQDĐ). Có lẽ anh cũng không ngờ tôi đến thăm anh trong lúc này. Tôi cho anh biết tôi dự tính đi Trung Quốc học. Lúc đó chúng tôi cũng không biết bao giờ mới gặp lại nhau vì trong thời buổi loạn lạc này, không ai có thể tiên đoán được tương lai! Mà lúc đó anh cũng không nói cho tôi biết đảng bộ và quân đội của Việt Quốc đã dự định rút khỏi Việt Trì để lên Yên Báy. Sáng hôm sau, tôi đáp thuyền rồi đổi sang xe hơi trở về Hà Nội."Không đương cự nổi với Cộng Sản tại Hà Nội, cụ Bách phải dẫn lực lượng vũ trang của Việt Quốc lui về vùng chiến khu Việt Quốc ở Vĩnh Yên, nơi có đồn điền nổi tiếng của một đảng viên cao cấp của Việt Quốc là Đỗ Đình Đạo. Trên cuộc rút quân đó, lực lượng Việt Quốc và Cộng Sản (Việt Minh) đã đụng độ khốc liệt. Trong một lần giao tranh, cụ bắt được một cấp lãnh đạo của Việt Minh, sau này lên tướng. Trong tình cảm lãng mạn tiểu tư sản, cụ không trói hay đánh đập người "tù binh", mà chỉ tước khí giới rồi cho ngủ chung với lực lượng vũ trang của cụ tại nơi đóng quân. Ngày hôm sau, hai chiếc xe hơi cắm cờ Việt Minh và cờ Việt Nam Quốc Dân Đảng từ Hà Nội tới, trên xe có đại diện hai phe trong chính phủ Liên Hiệp, yêu cầu trả tự do cho người "tù binh Việt Minh" và lãnh người "tù binh" đó về Hà Nội. Người đại diện Việt Quốc trên một trong hai xe hơi đó lại chính là nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, anh thứ tư của cụ (xem Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn của Nguyễn Tường Bách và Hồi ký của Hứa Bảo Liên)
Chẳng bao lâu sau sự chia rẽ của chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng đi tới chỗ tiêu diệt lẫn nhau một cách tàn khốc hơn. Tại làng Phượng Dực, quê của bà Nhất Linh, trong căn nhà của bà, Cộng Sản (dưới danh nghĩa Việt Minh), trên con đường truy lùng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và gia đình, đã bắt mang theo 4 người gồm có bà Nguyễn Tường Tam, con trai Nguyễn Tường Việt của cụ Nguyễn Tường Tam khi đó mới khoảng 14 tuổi, em ruột của bà Nguyễn Tường Tam, tên Tín, và bố tôi, cụ Nguyễn Tường Cẩm, anh thứ hai của cụ Nguyễn tường Tam. Cộng sản dắt 4 người tù họ gọi là "phản động" đi về vùng họ kiểm soát. Một hôm tình cờ, máy bay đồng minh tới bỏ bom. Văn phòng nơi giam giữ xụp đổ. Hai người tù đàn ông đang bị xích nên không thoát được. Chỉ có bà Nguyễn Tường Tam và người con trai 14 tuổi không bị trói nên thoát được. Lại vẫn là máu tiểu tư sản, anh Nguyễn Tường Việt mới đây kể lại, trước khi đi trốn, anh và mẹ đã nâng cái cây sườn nhà đổ xập đang đè lên một người cán bộ để cứu người cán bộ đang bị thương này. Sau đó hai mẹ con phải trốn 15 ngày dưới hầm trong căn nhà của một người giúp việc ngày xưa tốt bụng và trung thành mà chúng tôi gọi là anh Tí, trước khi anh giúp việc này tìm được cách đưa vợ con cụ Nhất Linh Nguyễn Tường Tam trốn về Hà Nội. Còn bố tôi và người em bà Nhất Linh, bị thủ tiêu mất tích kể từ đó. Cái sự bi thảm trong cuộc chiến Quốc Cộng đã xảy ra cho gia đình tất cả các anh em Nguyễn Tường của Cụ Bách cũng là những bi thảm tương tự xảy ra cho nhiều gia đình khác.
Khi bàn tới sự thất bại của phe Quốc gia trước đối thủ Cộng sản người ta thường nói tới sự quyết liệt và tài tổ chức khéo léo của phe Cộng Sản hơn hẳn phe Quốc Gia. Nhưng người ta ít bàn tới việc người Cộng Sản quyết liệt ra sao và họ tổ chức giỏi như thế nào.
Từ 1945 cho tới 1975 người Quốc Gia bị thua Cộng Sản vì thái độ "không quyết liệt với kẻ thù," trong khi Cộng Sản thì hoàn toàn trái ngược. Trong những thanh toán nhau giữa hai phe, người Cộng Sản quyết liệt hơn ở điểm họ truy lùng toàn bộ bố mẹ, anh, chị, em, vợ con, kể cả con còn niên thiếu của đối thủ chính trị để tiêu diệt. Họ gọi chung những người đó là "thành phần phản động". Một đòn hiểm ác hơn nữa là CS cô lập không những người bị cho là phản động mà còn cô lập cả gia đình họ. Cộng sản vận động, và đe dọa mọi người trong xóm, mọi bạn bè, họ hàng bà con không được quan hệ với cá nhân và gia đình của người bị họ cho lành "thành phần phản động". Ngay cả những người bạn thân, học trò ruột ra đường trông thấy họ từ xa cũng né tránh sang bên kia đường, không dám chạm mặt, không dám chào hỏi dù chỉ một câu, sợ bị liên lụy có thể mang họa vào thân, nhẹ thì bị kiểm điểm, nặng thì bị đi tù. Sự cô lập, bỏ đói của Cộng sản đối với cụ Phan Khôi hay các nhà văn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc với các trí thức từng có công với Cộng Sản như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo v.v... là những ví dụ cho thấy sự độc ác, quyết liệt của Cộng sản khác hẳn chủ trương, chính sách ôn hòa, hợp lý, hợp tình người của người Quốc Gia. Sự quyết liệt một cách độc ác của cộng sản đã được Luật gia Nguyễn Mạnh Tường mô tả khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Hòa Khánh ở trang 712 cuốn Nhân Văn Giai Phẩm của Thụy Khuê. Hòa Khánh hỏi, "Luật sư có bị bắt, bị giam cầm gì không? Trả lời, "Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên lụy đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chỗ khác." Hòa Khánh hỏi, "trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống?" Trả lời, "Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng không nhận...cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu...Rồi tất cả đồ đạc cạn dần...Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè." Đọc hết tường thuật về sự đàn áp của cộng sản đối với gia đình tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, người ta thấy kinh hãi tới độ không tưởng tượng được là có thể tàn bạo tới như vậy (2). Hoàn cảnh bị cô lập và đàn áp của tiến sĩ Trần Đức Thảo cũng kinh hãi tương tự. Và đỉnh điểm là bà vợ Tiến sĩ Trần Đức Thảo không chịu nổi phải nạp đơn ly dị với ông vào năm 1960 (3). Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chính sách cô lập, đàn áp, bỏ tù (gọi là cải tạo), tịch thu nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, cửa tiệm, kho hàng, cơ xưởng sản xuất và triệt đường sinh sống lại được áp dụng trên qui mô rộng lớn toàn miền nam đối với hàng trăm ngàn quân nhân, công chức, doanh nhân và người Việt gốc Hoa. Và lần này không phải chỉ vài gia đình tan nát như ở miền bắc sau 1954, mà là cả chục ngàn gia đình vợ chồng bị tan nát, chia lìa.
Việc truy đuổi để tiêu diệt toàn thể bố mẹ, vợ con, anh chị em của đối thủ chính trị là điều không một tổ chức chính trị nào của người Quốc Gia chủ trương. Sự khác biệt về cách đối xử của người Quốc gia và Cộng sản đối với thành phần khác chính kiến bắt nguồn từ sự khác biệt trong lý thuyết hành động. Chủ thuyết Mác Lê dậy các cán bộ Cộng Sản phải phân loại nhân dân ra từng thành phần không chỉ dựa trên hành vi chính trị hay kinh tế của cá nhân người đó mà còn dựa trên lý lịch gia đình ba đời. Phe Quốc gia không buộc người dân khai lý lịch ba đời hay hai đời mà chỉ đòi hỏi người dân khai lý lịch về phần cá nhân họ mà thôi. Dựa trên lý lịch ba đời mỗi người dân bị Cộng sản phân loại vào một thành phần nào đó để hoặc được hưởng ân huệ hoặc bị đàn áp, triệt hạ. Ngày 5/6/2013, trên trang mạng "Bảo Tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh"
(http://btxvnt.org.vn/cms/?m=16&act=view&id=124), trong bài Quá trình thành lập Xứ uỷ Trung Kỳ và các Tỉnh đảng bộ Nghệ Tĩnh, tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân viết nguyên văn, “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ," Cho tới hiện nay, thế kỷ thứ 21, Cộng Sản vẫn còn áp dụng nguyên tắc của luật rừng này. Ngày nay họ đàn áp, triệt hạ tất cả cha mẹ, anh chị em của những phần tử đối kháng bằng nhiều cách như ép chủ nhà chấm dứt hợp đồng thuê nửa chừng, ép công ty họ đang làm việc phải sa thải họ v.v... Chưa kể họ còn cho công an mặc thường phục đóng vai côn đồ hành hung, gây tai nạn giao thông v.v…Cái thâm độc của CS ở đây còn thể hiện ở điểm họ không chủ trương gây tai nạn chết người mà chỉ gây thương tật nặng. Như vậy, nạn nhân vẫn còn sống và từ đó trở thành một gánh nặng cho toàn bộ gia đình. Ví dụ thì đầy dẫy trên báo chí lề trái (blogs). Mới đây, ngày 19/6/2013 trong bài "Đinh Nhật Uy bị bắt vì "không thuyết phục được Đinh nguyên Kha nhận tội"?" (http://danluan.org/tin-tuc/20130619/dinh-nhat-uy-bi-bat-vi-khong-thuyet-phuc-duoc-dinh-nguyen-kha-nhan-toi) ký giả Trương Minh Đức viết, "Kể từ khi sinh viên Đinh Nguyên Kha bị bắt thì công an địa phương luôn sách nhiễu gia đình bằng nhiều thủ đoạn, họ thường xuyên gọi điện thoại với những khách hàng đến sửa chữa máy vi tính tại cơ sở của Đinh Nhật Uy (ghi chú của Ng. tường Tâm: người anh), công an hăm dọạ khách hàng là nếu làm ăn với gia đình “phản động” này thì hãy coi chừng đó! và cũng kể từ đó không ai dám đến làm ăn với cơ sở của Đinh Nhật Uy, thời gian vắng khách kéo dài Uy không chịu nổi với các khoản thuế, chi phí... Đành phải đóng cửa để về vườn làm bất cứ công việc gì cho gia đình. Từ một Kỹ Sư Công nghệ thông tin, chuyên gia máy tính đành phải về cuốc đất trồng rau, giăng lưới bắt từng con cá sặc để góp thêm cho mẹ Liên chờ đến chuyến thăm nuôi gởi cho em Nguyên Kha đang ở trong tù... đang thất nghiệp không giúp ích được gì nên tính lên Sài Gòn in tái bản thêm 400 cuốn sách kỹ thuật về sửa chữa máy Photocoppy mà Uy cùng mấy người bạn đồng xuất bản trước đây, nếu bán được cũng có ít tiền giúp mẹ để phụ giúp nuôi em Kha… nhưng khi vừa đến nhà in thì bị từ chối với lý do là tên của Nhật Uy có trong cuốn sách đó nên không được in tái bản!??.."
Ngày 19-6-2013 trong phản hồi bài: "Một gợi ý cho biểu tình ở VN: Đứng im để biểu tình ở Thổ ..." Một khách với mã số 90908 đã viết, "Tôi không biết cách xử lý của cảnh sát các nước khắc nghiệt tới đâu, nhưng tôi biết rõ ở VN, không chỉ cảnh sát, cả một guồng máy sẽ ập xuống, không chỉ bản thân người đi biểu tình, cả gia đình thân quyền cũng vạ lây. Triệt đường sinh kế, cô lập sinh hoạt, triệu tập lên triệu tập xuống, rỉ tai, hù dọa, rồi nếu cần thì thuê mướn bọn xã hội đen hành xử kiểu côn đồ...Kể sơ sơ những thứ lồ lộ ra trước mắt mọi người thế chứ còn những chiêu ngầm gian xảo hơn, tàn bạo hơn, có thể tôi vẫn chưa kịp nắm rõ. (https://danluan.org/tin-tuc/20130619/mot-goi-y-cho-bieu-tinh-o-vn-dung-im-de-bieu-tinh-o-tho-nhi-ky#comment-90908)
Phe Quốc Gia không có một lý thuyết hành động nào phân loại người dân theo lý lịch gia đình để có chính sách đối xử tương ứng cho nên không có chính sách đàn áp, tiêu diệt thân nhân, gia đình của các phần tử Cộng Sản. Trong suốt 21 năm của chính quyền miền Nam, không một người vợ nào của Cộng Sản nằm vùng bị bắt nếu không có bằng chứng chính người đó hoạt động cho Cộng Sản. Vợ con họ cũng không bị đuổi việc cho dù đang làm việc cho chính quyền. Các khách hàng làm ăn với vợ con họ cũng không bị đe dọa để chấm dứt buôn bán với họ. Không một người con nào của cán bộ cộng sản nằm vùng hay tập kết ra Bắc bị đuổi học hay không xin được việc làm trong công sở chỉ vì liên hệ gia đình. Nhiều khi người Quốc gia còn đối xử với các đối thủ Cộng sản một cách "Quân tử tầu" nữa. Sự việc này mới đây đã được nhiều "cộng sản nằm vùng" thuật lại. Bài "Có một giờ G khác vào năm 1974" đăng trên báo Saigon Tiếp Thị (http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html) có lời thuật của "Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung". Người phi công của Không Quân Saigon ném bom Dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đã thuật lại việc Chính Quyền Saigon và Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân Saigòn đối xử với vợ con ông sau khi ông theo Cộng Sản phản bội Việt Nam Cộng Hòa như sau: "...thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Bài báo thuật tiếp, "Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ." Người Quốc gia là như vậy, “tiểu tư sản”, lại thêm “quân tử tầu”, nên thua Cộng Sản là phải.
Còn nói về tài tổ chức khéo léo của Cộng Sản hơn hẳn người Quốc Gia thì phải hiểu rằng người Quốc Gia thua kém Cộng Sản chỉ vì khác hẳn Cộng Sản, người Quốc Gia tổ chức theo nguyên tắc Pháp Quyền (rules of law), trong khi Cộng Sản không có luật, hay chỉ có luật để trưng bày, trong thực tế họ dùng luật miệng, luật rừng. Chính vì nguyên tắc Pháp Quyền của Người Quốc Gia mà đại đa số cán bộ Cộng Sản nằm vùng đã được ung dung hoạt động để cuối cùng phá hỏng cái nền dân chủ Pháp Quyền đã từng bảo vệ người dân cũng như bảo vệ chính họ. Ngày nay, họ đang tranh đấu quyết liệt đòi chính quyền Cộng Sản phải trả lại cho họ những nhân quyền họ từng được hưởng ở miền Nam mà ngày xưa chính họ phá bỏ. Để hiểu rõ điều này, tốt hơn hết nên nghe tường thuật của cựu "Việt Cộng nằm vùng" Hạ Đình Nguyên trong bài "Nguyễn Phương Uyên, tôi có thể làm gì cho em?" đăng ngày 5-11-2012 trên trang mạng Việt-studies (-http://viet-studies.info/kinhte/HaDinhNguyen_NguyenPhuongUyen.htm) " Đối tượng mà chúng tôi chống, lúc bấy giờ, là Chính phủ Việt Nam Cọng Hòa, song lại có đôi điều mà trái tim công bằng của tuổi trẻ ghi nhớ như là nét son của một xã hội công dân – dù nó chưa tương xứng để gọi tên như thế– Tôi nhớ tại Tối Cao Pháp viện, Tổng thống VNCH – Nguyễn Văn Thiệu, đã đích thân đến Tòa án can thiệp, tranh luận tay đôi với Viện trưởng Nguyễn Minh Tiết, rằng cần phải kết án 21 SV trong số 42 SVHS đã bị bắt vừa qua là Việt Cộng, vì có bằng chứng minh bạch. Ông Viện trưởng Tiết đã cương quyết bác bỏ, vì sự tra tấn dã man là bằng chứng của ép cung, lời cung đã khai không còn giá trị. Thế là hầu hết đã được trả tự do ngay sau phiên tòa. Trong đó có một số anh chị có vai trò trong tổ chức Thành đoàn CS." Cái tổ chức của người Quốc Gia kém xa Cộng Sản ở điểm mà chính ông Hạ Đình Nguyên cũng phải nhận định tiếp, "Dù các anh chị ấy có lập trường kiên định, một lòng trung thành với con đường lý tưởng đã chọn, song không khỏi ghi nhớ về tính cách của một vị quan tòa, và nguyên tắc, dù chưa phải là thực chất của một thể chế dân chủ, nhưng ở đó có một số điểm tựa để cho người dân tin cậy, là hệ thống luật pháp về dân sự, dù thời điểm đó đang là chiến tranh." Người Quốc Gia tổ chức kém Cộng Sản bởi vì họ có một tổ chức tư pháp bảo vệ người dân như vậy.
Người Quốc Gia đã hành xử hoàn toàn khác người Cộng Sản, "dù thời điểm đó đang là chiến tranh" (mượn lời Việt Cộng nằm vùng Hạ Đình Nguyên) do đó trong một thời điểm của lịch sử họ đã thua.
Sự thất bại của đoàn quân Việt Quốc đã khiến cụ Bách và các đồng chí phải bôn tẩu sang Trung Quốc. Cũng như Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn, cuối cùng hai người cũng tái hồi. Cụ Bách và nàng Loan của cụ cuối cùng cũng tái hồi. Loan của cụ Bách tên là Hứa Bảo Liên, một cô gái xinh xắn, mau mắn, đánh bóng bàn giỏi, người Hà Nội Việt gốc Hoa, thường vào nhà thương làm thiện nguyện và quen chàng sinh viên y khoa Nguyễn Tường Bách trẻ tuổi, đẹp trai, tài hoa, đàn hay, nhẩy giỏi, học giỏi, ở đó. Như vừa trình bày ở trên, khi cụ Bách chia tay với cô Hứa Bảo Liên trong chiến khu hai người không một hứa hẹn gì. Chính trường chưa rõ nét mà cuộc đời của chàng Dũng Nguyễn Tường Bách thì vô định, sống nay chết mai, ai biết được đường tên mũi đạn. Sau khi lên thăm giã từ chàng thanh niên bác sĩ Nguyễn Tường Bách tại chiến khu của VNQDĐ tại Việt Trì, cô Hứa Bảo Liên lên đường sang du học bên Côn Minh, Trung Quốc. Sự giã từ đã tưởng như vĩnh viễn. Nhưng cuộc tái ngộ bất ngờ của hai người được nàng Loan Hứa Bảo Liên kể lại ở trang 91 cuốn hồi ký "Nguyễn Tường Bách và Tôi" như sau:
"Một buổi chiều mùa thu vào cuối tuần, tôi vội vàng ra trường để cùng các anh Tam (Nhất Linh), Long (Hoàng Đạo) và các anh em khác ra ga Côn Minh...Mọi người đang đứng đợi. Mãi lâu mới có một đoàn xe lửa từ từ tiến vào trong ga. Chuyến xe này từ Khai-Viễn tới. Tất cả mọi người đều chăm chú nhìn những hành khách đang xuống xe. Mãi sau có một anh chỉ cho mọi người nhìn theo, đằng xa có một toán người ăn mặc giống nhau, với những bộ đồ mầu xanh đã bạc. Trên vai người nào cũng đeo một túi vải và chiếc bi -đông đựng nước. Tất cả đều gầy, đen và trông có vẻ mệt mỏi so với những hành khách khác. Anh Bách gầy hơn hết, và đen rạm đến khó nhận ra. Được cái anh vẫn điềm tĩnh vui vẻ bắt tay mọi người. Cuối cùng tất cả đều vui mừng trở về trụ sở. Túi vải anh không có gì đáng giá, ngoài vài bộ quần áo thay đổi, áo len cũng không có. Trên tay anh có chiếc đồng hồ cũ và chiếc nhẫn tôi tặng cho anh trước kia, có lẽ là vật đáng giá nhất mà anh đã đem theo." Hình ảnh tái ngộ bất ngờ của Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và người yêu tại một sân ga xa xôi, giữa thời chinh chiến, mang đậm nét lãng mạn cách mạng của Dũng và Loan trong tiểu thuyết của Nhất Linh, Tự Lực Văn Đoàn.
Thế là một giai đoạn đầy biến động của lịch sử đất nước đã sang trang với sự thất bại của đoàn quân Việt Quốc. Đó là năm 1946 với sự tan rã của chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng. Khi được tôi và bác sĩ Nguyễn Tường Giang con cụ Thạch Lam hỏi, "Trong đời chú điều gì làm chú hối tiếc nhất?" thì không ngập ngừng cụ trả lời ngay: "Chú hối tiếc nhất là vào thời điểm 1945, các chú chỉ chậm chân 15 phút để rồi cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài cho mãi tới thế hệ các cháu ngày nay." Khi nói tới sự chậm chân 15 phút, ý cụ muốn nói tới việc Phe Quốc Gia đã không quyết liệt để có chủ trương cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim để rồi chỉ trong 15 phút bất ngờ Phe Cộng Sản đã biến cuộc biểu tình ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim, ăn mừng nước nhà độc lập khỏi ách thực dân Pháp và Nhật, thành một cuộc biểu tình cướp chính quyền của phe họ.
Theo hồi ký của Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, nxb Văn Hoá, Houston, 1996, thì Bác sĩ Chữ lúc đó là đại diện chính phủ Trần Trọng Kim đã từ chối đề nghị của quân Nhật dẹp loạn Việt Minh. Ngoài ra trong một bài phát biểu tại Đại Hội Toàn Đảng Đại Việt năm 1998, tại San Jose, California, USA, ông Hoàng Nhật Tiến, đảng viên niên trưởng (sau này, năm 2006 là chủ tịch Đảng) đã tiết lộ rằng, Cụ Trương Tử Anh, lãnh tụ chung của các đảng quốc gia, đã dè dặt không muốn cướp chính quyền Hà nội nhân ngày công chức biểu tình 19/8/1945 mặc dù các đảng viên các đảng phái quốc gia đã hết sức thuyết phục. Sự thiếu quyết liệt của các đảng phái Quốc Gia đã mang lại cơ hội cho Cộng Sản chiếm được chính nghĩa trước nhân dân.
Thực ra, Việt Minh Cộng Sản không đủ cán bộ để làm cuộc biểu tình đông như vậy, họ chỉ cướp công và dấu mặt cộng sản để cướp chính nghĩa mà thôi. Tâm sự tiếc nuối của cụ Nguyễn Tường Bách đã được mô tả ngắn gọn trong tựa đề của một bài phỏng vấn cụ Bách đăng trên tuần báo Saigon USA của Luật Sư Nguyễn Tâm xuất bản tại San Jose, California, Hoa Kỳ ngày 11-1-1999; tựa đề đó là: "Lỡ Một Bước, Hận Ngàn Thu".
Năm 1946 Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và các đồng chí của ông đã một lần thất bại trước đối thủ Võ Nguyên Giáp và phe Cộng Sản và phải bôn tẩu sang Trung Quốc. Năm 2013, trong một trận "quyết đấu tay đôi", vì cả hai phe giờ chỉ còn hai cụ, một lần nữa Bác sĩ Nguyễn Tường Bách lại thất bại trước cụ Võ Nguyên Giáp khi phải ra đi sang bên kia thế giới, trong khi cụ Võ Nguyên Giáp vẫn còn ở lại, dù phải mang ống thở.
Cuộc chiến Quốc Cộng thế hệ 1945 như vậy chính thức đã kết thúc. Nhưng cuộc chiến giữa những người Quốc gia, được hiểu là những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, và những đảng viên Cộng Sản mù quáng vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên khác với thời kỳ ba mươi năm chiến tranh 1945-1975, cuộc chiến Quốc Cộng hiện nay đang diễn ra với phần áp đảo nghiêng về phe đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền. Mặc cho trước mắt, phe Cộng Sản cầm quyền còn đang hung hãn, nhưng sự hung hãn hiện nay của phe Cộng Sản cầm quyền chỉ như sự vùng vẫy của con thú đang lâm vào đường cùng không lối thoát.
-Hồi Ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua cuốn I của Nguyễn Tường Bách.
-Hồi Ký về Gia Đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế
(2): Nhân Văn Giai Phẩm-tác giả Thụy Khuê-nhà xuất bản Tiếng Quê Hương Virginia-ấn bản 2012
(3): http://www.viet-studies.info/TDThao/NTNhat_TDThao_NKVien.htm
Đăng trên VieTimes-10-11-12/10/2007-Chuyện người vợ "duy nhất" của... hai học giả lớn Việt Nam