Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Ngày 20/6/2014 - Năm nhận định về quan hệ Việt-Trung - FULL

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Xả rác và lượm rác


Ðộc giả báo Người Việt viết những lời nồng nhiệt khen ngợi sau khi đọc bản tin về các khán giả Nhật đi coi trận đá banh World Cup ở Brazil đã dọn rác quanh chỗ mình ngồi, và các cầu thủ Nhật xếp hàng cúi đầu cảm ơn người ủng hộ họ. Ai cũng thấy mình nên học hỏi, noi gương người Nhật Bản. 

Các bản tin đều cho biết trong những trận tranh tài thể thao khác, các khán giả và cổ động viên người Nhật vẫn có thói quen dọn dẹp sạch sẽ chỗ ngồi như vậy. Sau trận động đất ở Fukushima thế giới đã thán phục tinh thần công dân và tư cách đạo đức của người Nhật. Bây giờ lại thấy ngay cách ăn ở trong đời sống hàng ngày của họ cũng rất đáng kính trọng. Cái gì đã tạo nên nếp sống đó? Người Việt Nam có thể tập được những thói quen tốt như người Nhật hay không?
Luân lý Khổng Giáo đã được đem dạy cho trẻ em ở toàn cõi Á Ðông trong gần hai ngàn năm, cũng giống như Thiên Chúa Giáo đã phổ biến khắp Châu Âu. Người Nhật học đạo lý Khổng Mạnh như người Việt, dù nước họ không bị người Trung Hoa đô hộ một ngày nào. Mỗi dân tộc áp dụng luân lý Khổng Giáo một cách. Người Việt sống trong vùng Ðông Nam Á, nhìn cuộc đời với con mắt phóng khoáng, tự do hơn; người Nhật gốc dân miền Bắc lục địa Châu Á mang tinh thần nghiêm túc, khắc khổ hơn. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã nhận xét rằng người phương Bắc có sức mạnh của những chiến sĩ (nhận kim cách tử nhi bất yếm) còn sức mạnh của người phương Nam là tính ôn hòa, rộng lượng (khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo). Nếu sinh ra trễ vài ngàn năm thì ông này có thể đã thành một nhà xã hội học.
Trước thế kỷ 20, người có học ở Việt Nam cũng như ở Nhật đều được dạy ngay từ lúc còn thơ các quy tắc sống ở đời như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, vân vân. Ở Việt Nam, các nhà Nho học theo đạo Khổng rồi truyền các quy tắc luân lý đó cho cả xã hội cùng theo. Còn ở Nhật Bản, vua chúa không dùng phép thi cử để tuyển người làm quan cai trị, các samurai (võ sĩ) cũng được giáo dục theo Khổng Giáo đóng vai khuôn mẫu cho mọi người bắt chước. Các quy tắc luân lý giống nhau, nhưng áp dụng trong những môi trường khác nhau, cho nên hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam cùng theo Khổng Giáo mà vẫn sống khác nhau.
Các chiến sĩ đề cao kỷ luật và tinh thần tập thể; Nho sĩ và nông dân sống thì tự do, khoáng đạt hơn. Người Nhật theo gương giới võ sĩ và các nhà quý tộc nên nghiêm nghị và giữ cung cách tập thể, đồng loạt. Mỗi buổi sáng ở Tokyo nhìn những người đi làm thấy ai cũng mặc cùng bộ quần áo màu đen tề chỉnh, ai cũng như ai. Người Việt tính xuề xòa, dễ dãi, chuộng tự do nên tôn trọng cá tính từng người hơn. Về điểm này chúng ta giống các sắc dân Ðông Nam Á khác. Người Thái Lan hay nói “xà bai, xà bai,” một từ khó dịch, có nghĩa là thôi bỏ qua, không sao cả. Nguyễn Văn Vĩnh chê người Việt “gì cũng cười” cũng vì ông không thích cái lối “xà bai” đó. Người Việt sống theo cung cách khác người Nhật. Có muốn giống cũng không ép được.
Nhưng dù cung cách khác nhau, các dân tộc Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan vẫn chia sẻ cùng một căn bản đạo lý. Mà nhìn ra cả loài người, có giống dân nào lại chủ trương rằng con người không cần sống theo các quy tắc Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hay không? Nền luân lý nào cũng dạy ta nên sống thành thật, không gian dối, đói cho sạch rách cho thơm. Ðối đãi với người khác thì nên tôn trọng lời hứa, có trước có sau, có người có mình, chị ngã em nâng, chú khi ni, mi khi khác, thương người như thể thương thân. Cả loài người đều chia sẻ những quy tắc sống tốt lành như thế. Vì sau trăm ngàn năm tiến hóa, kinh nghiệm cho thấy rằng quy tắc “thật thà là cha quỷ quái” rất đúng. Người Việt Nam nghĩ như vậy mà người Châu Phi cũng nghĩ như vậy.
Tôi mới đọc một cuốn truyện của một tác giả người Tô Cách Lan (Scotland). Alexander McCall Smith viết rất nhiều tiểu thuyết lấy khung cảnh là nước Botswana, nhân vật là người Botswana. Chương đầu cuốn truyện tả cảnh bà Ramotswe ngồi uống trà ngoài hàng hiên một quán cà phê, ở thành phố Gabarone. Nhìn ngắm phố phường, bà tình cờ chứng kiến mấy người sống không lương thiện. Một bà lái xe quẹt vô một chiếc xe khác đang đậu, rồi bỏ đi luôn. Một cô giả bộ mặc cả mấy món nữ trang rẻ tiền của một người bán hàng rong rồi lén đút túi một món. Bà nhớ lại giận quá, đứng lên tiến tới định tố cáo người ăn cắp, nhưng việc không thành. Bà ngồi xuống, nghĩ tới thân phụ bà, “nếu ông ấy mà còn sống, trông thấy những cảnh này thì ông sẽ kinh hoàng!” Bà nhớ lại hồi còn bé có lần ông bố dắt tay con đi trên đường làng Mochudi. Thấy một đồng tiền ai đánh rớt bên lề đường cô bé cúi xuống nhặt, chùi cho sạch, tính bỏ túi. Ông bố nhìn thấy, ông bảo: “Không phải của mình, con. Ðồng tiền đó của người khác.” Và ông bắt con đem đồng tiền đến nộp cho sở cảnh sát. Trong mấy cuốn tiểu thuyết với cùng một nhân vật này, tác giả McCall Smith hay kể bà Ramotswe nhớ lại những lần cha mình dạy mình sống thành thật, lương thiện. Ông chăn nuôi một đàn bò, ông biết rất rõ về các con bò, giống như các nông dân Botswana khác; và ông luôn dạy con biết thương người và phải sống ngay lành, chính trực.
Những câu chuyện và nhân vật này do McCall Smith tưởng tượng ra, nhưng chắc cũng do kinh nghiệm sống của ông. Ông sinh ra ở xứ này từ trước khi họ được độc lập vào năm 1966, lớn lên ông làm giáo sư ở Ðại Học Botswana, và bây giờ về sống ở Scotland nhưng vẫn qua lại xứ đó. Nhưng dù chưa bao giờ đến xứ Botswana, chúng ta cũng có thể tưởng tượng trong hai triệu dân Botswana có rất nhiều người dân theo những quy tắc đạo đức giống như người mình, giống người Nhật Bản hay người Thổ Nhĩ Kỳ.
Cho nên các cầu thủ Việt Nam chắc khó tập thói quen xếp hàng, cùng cúi đầu một lúc để cảm ơn khách mộ điệu. Cử chỉ đó bắt đầu ở những chỗ cung đình, trong các nhà quý tộc. Nhưng các khán giả Việt Nam thì chắc nên học và tập thói quen lượm rác của người Nhật Bản. Hãy nhặt hết rác quanh chỗ mình ngồi, dọn cho sạch sẽ; ít nhất sạch bằng lúc mình mới đến ngồi đó.
Làm như vậy vì không muốn bắt người khác phải hầu mình, vì biết kính trọng người khác.
Ðến một xứ mà đi ngoài đường không thấy rác, tự nhiên mình thấy trình độ công dân của họ rất cao. Tôi đã qua những kinh nghiệm như thế khi tới Nhật Bản,Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ, Ðức, Hòa Lan, trong lòng rất kính trọng. Nhiều người cũng kính trọng dân Singapore như vậy. Làm cách nào người ta tập được cho công dân thói quen không xả rác?
Chắc việc này phải bắt đầu trong nền giáo dục ở nhà và trường học, ngay từ lúc ấu thơ. Thói quen không xả rác, và các quy tắc luân lý khác, đều dựa trên một điều chung, là phải nghĩ đến người khác, tôn trọng người khác. Thời thơ ấu, tôi đi học chữ Nho, bài học đầu tiên là “sái tảo, ứng đối;” nghĩa là quét dọn (phòng học) và nói năng, thưa gửi lễ phép. Ở trong nhà thì gia đình nào cũng dậy con “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.”
Những quy tắc ăn ở đó đào tạo tính hạnh. Khi một đứa trẻ biết rằng phải để ý xem thức ăn chung còn đủ để chia cho mọi người hay không; phải cẩn thận trong cử chỉ, hành động xem có làm phiền người khác hay không, thì đứa trẻ đó tập được thói quen căn bản của rất nhiều đức tính: Trước khi nói gì phải suy nghĩ xem mình có thể khiến người khác bị lời nói xúc phạm hay không. Trước khi khi làm gì cũng suy nghĩ có ai bị thiệt hại vì việc mình làm hay không. Không xả rác, lượm những thứ rác mình bỏ ra. Ðó là vì đã tập được thói quen nghĩ đến người khác.
Chắc người Việt Nam cũng có thể tập được thói quen không xả rác. Rồi tập được thói quen lượm nhặt những rác bẩn mà mình xả chung quanh, như các khán giả Nhật Bản coi fútbol. Nếu dân Singapore có thể tập được thói quen đó trong một thế hệ sau khi độc lập, thì các dân tộc Á Ðông khác đều tập được; vì tất cả theo cùng một truyền thống đạo lý. Ðó là nhờ người cầm quyền ở Singapore nghĩ đến danh dự chung, lợi ích chung. Họ không chỉ lo làm giàu, không lợi dụng quyền bính lấy của công làm của riêng. Luật pháp rõ ràng, và người cầm quyền nêu gương tôn trọng luật pháp. Công việc phục hưng đạo lý không thể chỉ dựa trên những lời kêu gọi suông mà phải bắt đầu bằng một thể chế chính trị minh bạch, công khai, một chính quyền không dùng thủ đoạn ăn gian nói dối. Người Singapore đã làm được thì người Việt Nam có thể bắt đầu được.
  Ngô Nhân Dụng

Biển Đông : Hà Nội càng hòa dịu, Bắc Kinh càng lấn lướt

Quan hệ Việt-Trung vẫn tiếp tục căng thẳng. Các cuộc hội đàm vào hôm qua, 18/06/2014 giữa nhân vật lãnh đạo ngành ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì và các lãnh đạo cao cấp Việt Nam đã không mang lại kết quả nào. Mặc dù về hình thức, Việt Nam đã tỏ dấu hiệu nhẫn nhịn, nhưng phía Bắc Kinh vẫn tỏ thái độ cứng rắn, thậm chí còn gia tăng các động thái từng bị cộng đồng quốc tế đánh giá là « khiêu khích ».
Hành vi có thể gọi là khiêu khích mới nhất của Trung Quốc là quyết định điều giàn khoan dầu thứ hai xuống Biển Đông, trong lúc vẫn duy trì giàn khoan thứ nhất trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thậm chí các trang mạng Trung Quốc còn nói đến ít nhất bốn giàn khoan được đưa xuống Biển Đông.
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc gần khu vực hạ đặt giàn khoan dầu HD-981 trên vùng Biển Đông, thuộc thềm lục địa Việt Nam ngày 13/06/2014.

Đây là một hành động mang tính chất khiêu khích vì được tiến hành ngay vào lúc Bắc Kinh đang bị dư luận quốc tế đả kích là đã khuấy động tình hình ổn định trong khu vực từ khi cho hạ đặt giàn khoan HD-981 tại vùng Biển Đông nằm gần Hoàng Sa và ngay trên thềm lục địa của Việt Nam hồi đầu tháng Năm. Từ ngữ « khiêu khích » đã được nhiều nước, từ Hoa Kỳ đến Nhật Bản, sử dụng để chỉ hành động coi thường luật lệ quốc tế đó của Trung Quốc.
Hành động khiêu khích đó được cho là trực tiếp nhắm vào Việt Nam vì được loan báo đúng vào lúc mà lãnh đạo Trung Quốc đến Hà Nội để thảo luận về cuộc khủng hoảng nghiêm trọng phát sinh từ vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, với việc đội tàu nhỏ bé của Việt Nam hàng ngày phải đương cự với đội tàu hộ tống hùng hậu của Trung Quốc, chỉ để thể hiện chủ quyền của Việt Nam trong khu vực.
Song song với chiến pháp « tung giàn khoan giành lãnh thổ » đó, Bắc Kinh vẫn tiếp tục chiến lược « ngoại giao vu khống », đổ lỗi cho Hà Nội là bên gây hấn, trong lúc căng thẳng lại phát sinh từ chính hành động của Trung Quốc.
Điều đáng nói là trong các cuộc hội đàm tại Hà Nội vào hôm qua, lẽ ra phải nhằm mục tiêu hạ nhiệt căng thẳng giữa hai bên, thì nhân vật đứng đầu nền ngoại giao Trung Quốc lại nói với phía Việt Nam là phải chấm dứt các hành động phản đối Trung Quốc. Hãng tin Anh Reuters, trong bài viết về các cuộc tiếp xúc Việt-Trung nói trên đã không ngần ngại cho là « Trung Quốc mắng Việt Nam về việc ‘thổi phồng’ vụ giàn khoan ».
Thái độ kẻ cả của Trung Quốc đã được truyền thông chính thức của nước này nêu bật. Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc, trong bản tin tiếng Việt, khi trích tin Tân Hoa Xã về cuộc gặp Việt -Trung, đã dùng từ ngữ « chỉ rõ » khi nêu lên tuyên bố của ông Dương Khiết Trì với Ngoại trưởng Phạm Bình Minh, trong lúc dùng từ cho biết để trích phát biểu của phía Việt Nam :
« Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì chỉ rõ, đối với vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần phải xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan. Điều bức xúc nhất hiện nay là Việt Nam cần phải đình chỉ quấy nhiễu đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc, đình chỉ thổi phồng bất đồng, gây ra tranh chấp mới, xử lý và khắc phục tốt hậu quả vụ bạo lực đánh đập, cướp bóc và thiêu đốt xảy ra tại Việt Nam cách đây không lâu, đồng thời bảo đảm an toàn cho các cơ quan, doanh nghiệp và nhân viên Trung Quốc tại Việt Nam. Mong Việt Nam xuất phát từ đại cục, cùng với Trung Quốc hành động theo một hướng, thúc đẩy quan hệ Trung-Việt khắc phục khó khăn, tiếp tục phát triển lên phía trước theo quỹ đạo đúng đắn ».
Trước các động thái cứng rắn kể trên, phía Việt Nam, từ Ngoại trưởng kiêm Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, được cho là có thái độ rất hòa hoãn, nhẫn nhịn, nhưng về nội dung vẫn kiên quyết, tố cáo Trung Quốc vi phạm luật quốc tế, đe dọa ổn định khu vực và đòi Bắc Kinh phải rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Bản tin trên trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết là ông Phạm Bình Minh đã xác định với phía Trung Quốc như sau : "Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Dầu khí Hải dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải và hòa bình, ổn định của khu vực, làm tổn thương tình cảm của nhân dân Việt Nam và tác động tiêu cực đến quan hệ hợp tác giữa hai nước".
Phó Thủ tướng khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 mà cả hai nước đều là thành viên.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam, kiểm soát tình hình không để xảy ra xung đột, đàm phán giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay cũng như các bất đồng khác giữa hai nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 ».
Truyền thông Trung Quốc không thấy nhắc đến các tuyên bố lập trường của phia Việt Nam, mà chỉ xoáy mạnh trên những phát biều hòa hoãn của lãnh đạo Việt Nam, tựa như là phía Hà Nội đã nhận lỗi.
Nhận định chung về cuộc đối đầu Việt-Trung hiện nay liên quan đến vụ giàn khoan HD-981, có thể nói rằng Việt Nam càng nhẫn nhịn, thì Trung Quốc càng lấn lướt. Do tương quan lực lượng trên biển bất lợi, sắp tới đây khó khăn của Việt Nam được cho là sẽ tăng lên gấp bội nếu Trung Quốc tung thêm vài chiếc giàn khoan nữa vào vùng biển của Việt Nam.
Đối sách khả dĩ nhất mà Việt Nam có thể thực hiện, như nhiều nhà quan sát đã đề nghị là phải kiện Trung Quốc ra trước Tòa án quốc tế như Philippines đã làm. Đây cũng là một đề nghị của một đại biểu Quốc hội Việt Nam, ông Trương Trọng Nghĩa thuộc đoàn Thành phố Hồ Chí Minh. vào hôm nay.
Trong phiên họp sáng nay, ông Nghĩa đã bất ngờ xin phép phát biểu về Biển Đông, và kiến nghị Quốc hội đưa ra một tuyên bố, hay một nghị quyết về vấn đề này, điều mà theo ông, không thấy có trong chương trình nghị sự còn lại của khóa họp Quốc hội lần này.
Theo tường thuật của báo Thanh Niên, vị Đại biểu Quốc hội này cho rằng cần phải « vạch trần âm mưu “vừa đấm, vừa xoa”, “vừa đánh, vừa đàm”, “vừa ăn cướp, vừa la làng” của Trung Quốc », đồng thời « tiến hành mọi biện pháp bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, trong đó có biện pháp khởi kiện Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực ra các tổ chức tài phán quốc tế. »
(RFI)

Năm nhận định về quan hệ Việt-Trung


Giữa những ngày giàn khoan 981 nghênh ngang thách thức chủ quyền Việt Nam và gây không ít hoang mang, bài này xin được góp một số ý nghĩ về bốn bên liên quan: Mỹ, Tàu, Đảng và dân. Có ý sẽ làm người lạc quan phật lòng, có ý sẽ làm người bi quan bất đồng, có ý có thể chủ quan, nhưng xin chép cả vào đây, như góp một cái nhìn tham khảo. Bài chia làm năm phần, tương ứng với năm câu hỏi-đáp, xin tóm gọn như sau:
  1. Mỹ có đối đầu Tàu vì Việt Nam không? Không! Người hùng giờ thấm mệt, thích chăm việc nhà và việc gần hơn lo việc thiên hạ quá xa.
  2. Tàu có đánh Việt Nam không? Đánh làm gì khi Tàu gần như đã có những gì họ muốn: một chế độ ngoan như tay sai, một lãnh thổ họ tha hồ tung hoành và đang từng bước trở thành thuộc quốc.
  3. Đảng có cứu nước không? Làm gì có, vì có quá nhiều dấu hiệu cho thấy Đảng đang hành xử như tay sai mẫn cán của Tàu, lo giữ ghế hơn lo giữ nước.
  4. Chỉ còn lại dân? Đúng! Khi dân là những người tự do, không sợ hãi, không bị ngoại bang bịt miệng trói tay.
  5. Họ đang đẩy dân vào thế bất tuân dân sự? Vâng! Và đây sẽ là cuộc đấu tranh: ngoài chống giặc ngoại xâm, trong chống bọn bán nước, giành lại cho dân quyền lực chính đáng của mình.

I. MỸ CÓ ĐỐI ĐẦU TÀU VÌ VIỆT NAM KHÔNG?

Nhiều người muốn Mỹ vào cuộc ở Biển Đông, như ông cảnh sát trưởng toàn cầu duy nhất có thể rút súng chặn đứng giang hồ Tàu tràn xuống biển làm cướp. Nhưng, mấy năm nay, giới quan sát thế giới than rằng Mỹ đang là siêu cường thấm mệt.

“Globocop” đâu rồi?

Đồng minh của Mỹ đang lo. Trong khi Nga ngênh ngang thò tay tóm lãnh thổ nước bạn, Tàu nghênh ngang giở thói côn đồ ăn hiếp hàng xóm, Syria ngang nhiên giết hại dân mình, thì câu hỏi được đặt ra là: “Globocop”, cảnh sát toàn cầu, đâu rồi? Bài “The decline of deterrence” (Bước lùi của chính sách ngăn chặn), đăng trên The Economist ngày 3/5/14 đã mở đầu như thế. Bài báo còn nêu những điểm sau, xin tóm vài ý liên quan:

  Mỹ có sẵn sàng lâm chiến với Tàu không? Ai cũng biết Tàu muốn làm số một, cũng như Mỹ chẳng muốn làm số hai. Tuy vậy, nhiều nước Châu Á hoài nghi việc Mỹ muốn gây chiến với Tàu. Tiền lệ là năm 2012, Mỹ đã im lặng khi Tàu chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines, rồi năm 2013 lại im lặng khi Tàu đe dọa máy bay Mỹ bay qua không phận đảo Senkaku của Nhật. Chẳng lạ gì, khi đồng minh của Mỹ từ Âu sang Á đang mua thêm vũ khí tự vệ. Nhật Bản cũng không còn đặt hết lòng tin vào chiếc ô dù an ninh thủng nhiều lỗ của Mỹ.

- Mỹ sẽ vẫn phản ứng mạnh, nhưng chỉ khi dân Mỹ sôi sục, chỉ trong trường hợp các đồng minh NATO bị đe dọa nghiêm trọng, hay Israel bị đánh lớn, hay khi những quốc gia Mỹ đóng nhiều quân như Nam Hàn, Nhật Bản bị xâm hại, còn ngoài những điểm nóng đó, đội ngũ của Obama được cho là sẽ “sẵn lòng mặc kệ, một sự sẵn lòng đến rợn người” (a creeping willingess to let things go). Obama còn được cho là thường “rất năng nổ tìm đủ mọi đường, nhưng cuối cùng lại thấy đứng im là hay nhất.”

- Một vụ va chạm xảy ra quanh đảo Senkaku chẳng hạn sẽ khiến Mỹ có một số phản ứng nào đó, như gửi máy bay do thám và tàu chiến đến nơi. Nhưng, theo nhận định của một chuyên gia giàu kinh nghiệm, công chúng Mỹ “sẽ chẳng hứng thú gì với việc tham chiến chỉ vì mấy bãi đá”.

- Dù cam kết chính thức này kia với các nước, nhưng dường như Obama đang nhìn thế giới như một khu rừng hoang đầy thú dữ quấy phá, gây ra những khủng hoảng liên tục mà Mỹ không xử lý được.

Chẳng lạ gì khi bài báo ví von: sói đang xơi tái cừu nhưng anh chăn cừu lại chẳng thấy đến cứu!

Thực vậy, ngay cả trước khi Tàu cắm giàn khoan xâm phạm biển Việt Nam, các nước trên thế giới đã thấy quá nhiều dấu hiệu về việc siêu cường Mỹ đang đánh mất ý chí chiến đấu: Các nước Châu Á, khi thấy Nga nuốt chửng Crimea nhưng Mỹ gần như mặc kệ, đã không thể quên rằng vào năm 1994, để từ bỏ vũ khí hạt nhân Ukraine đã được Nga, Mỹ và Anh đảm bảo hẳn hòi rằng biên giới của họ sẽ không bị xâm phạm. Các nước Baltic cũng không thể quên việc chính quyền độc tài Assad tại Syria ngang nhiên vượt qua “lằn ranh đỏ” (là dùng vũ khí hóa học giết dân) nhưng Mỹ đã không phản ứng mạnh như từng tuyên bố, trong khi số người chết trong cuộc chiến hiện nay dưới chế độ Assad đã lên tới 150.000. Các đại gia dầu hỏa Ả Rập và đại sứ Trung Quốc cũng không thể không chú ý đến hiện tượng nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đang chủ hòa. Tất cả khiến bạn của Mỹ âu lo, lo rằng đến khi hữu sự, người hùng không xuất hiện. [1]

Nhạt nhẽo ở West Point

Diễn văn tại West Point của Obama vừa qua cũng được dư luận quốc tế cho là nhạt nhẽo, thiếu lửa, rất khác với ấn tượng “Mỹ không ngồi im để Trung Quốc lộng hành” mà nhiều đài Việt ngữ từ RFA, RFI, đến BBC và báo đài trong nước tạo ra khi trích đoạn và diễn dịch bài diễn văn.

Trong diễn văn, Obama nhắc đến khủng bố 17 lần, nhưng không nhắc gì đến Crimea, chỉ nhắc đến Trung Quốc 2 lần lướt qua, cũng không nói gì đến việc chuyển trục về Châu Á (khiến không ít các nước trong vùng lo ngại, và họ đã nhắc lại điều này trong Hội nghị G7 gần đây).

Không những không nhắc, Obama còn than thở không đúng chỗ rằng Mỹ không thể làm gì đáng kể cho an ninh Biển Đông, dù các tướng lĩnh khuyến cáo, vì Thượng viện Mỹ chưa thông qua được Quy ước Luật biển. [2]

Siêu cường thích làm vườn?

Trong luận văn rất đáng chú ý “Superpower don’t get to retire” (siêu cường không được về vườn), (đăng trên The New Republic, 26/5/14), sử gia Robert Kagan còn cảnh báo rằng Mỹ đang muốn “trở về trạng thái bình thường”, không muốn “làm người hùng” cứu thế giới nữa, dù sức vẫn còn. Xin tóm tắt vài ý như sau:

- Mỹ muốn “làm người thường” vì nhiều lý do, trong số có thể kể: Thế hệ trẻ đông đảo ở Mỹ xem Thế Chiến II như đã xa, Chiến tranh Lạnh cũng lạ. Thế hệ lớn hơn thì mệt mỏi với vai trò của Mỹ như thần Atlas “bị đày” cứ phải vác đá leo ngược núi. Chủ nghĩa cộng sản, kẻ thù lớn nhất của Mỹ thời Chiến tranh Lạnh, xem như đã thất bại. Cuộc chiến Iraq và Afghanistan, được cả thế hệ trẻ lẫn già biết đến, lại quá tốn kém, trong khi Mỹ vừa trải qua khủng hoảng 2008… Tất cả những điều đó khiến Mỹ đang đi theo chiều “hướng nội”. Cuộc thăm dò Pew mùa thu năm ngoái cho thấy có tới trên 50% dân Mỹ, tỉ lệ cao nhất trong 50 năm qua, muốn Mỹ quay về “lo việc nhà” thay vì lăng xăng ngoài ngõ, và dân Mỹ cũng muốn “các nước khác phải biết tự lo việc của họ cách tốt nhất có thể.”

- Đây không là lần đầu Mỹ hướng nội. Điều tương tự từng diễn ra vào thập niên 20, 30 thế kỷ trước. Năm 1939, khi Đức Quốc xã chiếm Ba Lan phía Đông, rồi năm 1940 chiếm Paris phía Tây và ném bom London thì Mỹ vẫn chưa động tĩnh gì. Có ý kiến trong chính giới Mỹ còn cho rằng Mỹ vẫn có thể buôn bán như thường với Châu Âu thuộc Đức Phát-xít, y như từng buôn bán với Anh và Pháp, vì “hàng vừa ý” là được, không cần “bạn vừa ý”! Mãi cho đến khi quân phiệt Nhật tấn công căn cứ Mỹ tại Trân Châu Cảng năm 1941 thì Mỹ mới bừng tỉnh tuyên chiến với Đức và Nhật, vì lợi ích ruột thịt của mình.

- Kagan cũng nói tới một thực tế lạnh lùng khác, đó là loài người và các quốc gia hiện nay nhìn chung không văn minh hay ôn hòa hơn thời man rợ. Nếu có ‘ngoan’, có chơi đúng luật, có không dám trở thành côn đồ thì chỉ vì có một ông cảnh sát đầy uy lực sẵn sàng thổi còi và trừng phạt nếu họ vi phạm.

- Và thực ra thì thế giới này mới chỉ biết đến tự do, dân chủ, pháp trị, nhân quyền trong khoảng 200 năm qua, còn hàng ngàn năm trước vẫn là cuộc chiến đấu liên tục của ánh sáng chống lại tối ám độc tài, toàn trị, của sự thật chống lại dối trá và nắm đấm. Dù sự thật luôn thắng, nhưng dối trá không chết hẳn mà sẽ nổi dậy và cần phải được khống chế, bằng sức mạnh. Tổng thống Roosevelt của Mỹ từng nói “Hòa bình phải được giữ gìn bằng sức mạnh, không còn cách nào khác.” Vâng, “sức mạnh” chứ không bằng luật lệ, đối thoại hay tình hữu nghị.

Thực ra, khi Mỹ đứng ra cáng đáng an ninh toàn cầu, nhiều nước chỉ “ăn theo”. Châu Âu được khuyến cáo là cần phải gánh bớt gánh nặng cho Mỹ vì an ninh của chính Châu Âu! Nhật có vẻ cũng đang theo chiều hướng này, trở thành một thế lực chủ động hơn trong khu vực (dù điều này làm không ít chính phủ e ngại khi nhớ đến đội quân Nhật mạnh đến đáng sợ thời Thế Chiến II.)

Côn đồ như ruồi

Những điều kể trên có nghĩa gì? Phải chăng nó có nghĩa là khi ông cảnh sát uy quyền bỗng thích về hưu non, thích làm vườn sau nhà hơn lo việc thiên hạ, thì côn đồ lập tức nổi lên, như ruồi?

Syria sẽ tiếp tục lộng hành giết dân. Rồi với sự hỗ trợ của Syria, quân khủng bố Hồi giáo nổi lên đánh chiếm các thành phố ở Iraq như đang diễn ra trong những ngày vừa qua. Putin sẽ còn thêm nhiều trò mới với các lân bang. Và ở Biển Đông, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục lộng hành. Không chỉ 981, mà sẽ còn giàn khoan 982, 983 rồi nhiều thứ khác như phi trường và căn cứ quân sự ở Gạc Ma sẽ lại được cắm phập vào biển Việt Nam và biển các nước khác. Sao lại không, thế giới có làm gì đáng kể đâu mà côn đồ phải sợ!? Và đó là điều hết sức đáng sợ! (Trừ khi các nước khu vực, Nhật, Hàn, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Miến, Ấn, Úc… liên kết lại, thành một khối chống Trung Quốc, và Mỹ bừng tỉnh, hỗ trợ tích cực để tiếp tục duy trì trật tự thế giới.)

Điều này dẫn đến câu hỏi kế tiếp: Trong tình hình đó, liệu Tàu có cướp thời cơ đánh Việt Nam không?

II. TÀU CÓ ĐÁNH VIỆT NAM KHÔNG?

Để trả lời câu này, xin nhắc lại điều được gọi là “Bài học Việt Nam”.

Không ngẫu nhiên khi cựu Tổng thống Mỹ Richard Nixon đặt tên cuốn sách, xuất bản năm 1987, nói về kinh nghiệm Mỹ tham chiến ở Việt Nam là No More Vietnams (Không thêm một Việt Nam nào nữa). Cũng không phải tình cờ mà cố vấn đối ngoại cao cấp nhất của Liên Xô năm 1986, ông Anatoli Chernyaev, đã phải nhắc nhở Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev rằng vụ Liên Xô chiếm đóng Afghanistan, (kéo dài từ 1979 đến 1989), chính là một “Bài học Việt Nam khác.” [3]

Bài học Việt Nam

Là người đi sau Đặng Tiểu Bình, người xua quân đánh Việt Nam năm 1979, đi sau Gorbachev và Nixon, chắc hẳn Tập Cận Bình không thể không biết nỗi cay đắng của Mỹ khi rút khỏi Việt Nam năm 1975, sau khi tốn hao xương máu của trên dưới 50.000 binh sĩ và bao nhiêu tiền của, hoặc sự ê chề của Liên Xô khi rút khỏi Afghanistan sau 10 năm chiếm đóng, cũng mất trên dưới 50.000 quân, với bao nhiêu tiền của cùng cả triệu lượt quân tham gia đã trở thành những cựu chiến binh vất vưởng thời hậu chiến với chấn thương tâm lý.

Không chỉ mất uy tín trước các nước lớn nhỏ trên thế giới, cuộc rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam năm 1975 và của Liên Xô khỏi Afghanistan năm 1989 còn đánh dấu sự suy nhược ý chí và năng lực cường quốc, mở màn cho một thời kỳ suy thoái địa chính trị. Với Mỹ, đó là cuộc nổi dậy của hàng loạt những chế độ thân cộng sản ở Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Với Liên Xô thì chủ trương không đưa quân vào nước khác sau Afghanistan đã lập tức mở đường cho cuộc vùng lên của các nước Đông Âu, dẫn đến sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu bắt đầu từ 1989, và cuối cùng ở chính Liên Xô năm 1991.

Rất có thể nếu chiếm đóng Việt Nam, Tàu sẽ gặp một kịch bản tương tự.

Hãy thử tưởng tượng:

Dù ban đầu chần chừ không muốn động binh nhưng vì chế độ bù nhìn có nguy cơ sụp đổ, Tập Cận Bình có thể bị cuốn vào thế phải xua quân chiếm đóng Việt Nam. Từ đó cuộc chiến tiêu hao dai dẳng diễn ra, du kích quân Việt Nam lúc ẩn lúc hiện khiến quân Tàu xâm lược không biết đâu mà lần, chiếm được hết nhưng không giữ được gì, thắng trận đánh nhưng lại thua cuộc chiến, trong khi số thương vong cứ thế tăng dần, từ 5.000, 15.000, lên 30.000, 50.000. Nuốt không trôi, nhả không xuôi, Bắc Kinh cứ thể phải đổ hàng chục, hàng trăm tỉ nhân dân tệ vào cuộc chiếm đóng như đổ vào túi không đáy… Xuất huyết cạn kiệt, uy tín xuống thấp, nội bộ nhiễu loạn, quyền lực cá nhân Tập bị thách thức, mặt trận trong nước trở nên quan trọng hơn, cuối cùng Bắc Kinh buộc phải quyết định rút quân, trong ô nhục, (dù sẽ vẫn tuyên bố chiến thắng hoặc ra đi trong danh dự, như Mỹ đã làm khi rút khỏi Việt Nam, như Liên Xô đã làm khi rút khỏi Afghanistan). Nhưng đó không phải là kết thúc, mà là lúc khủng hoảng lớn bắt đầu. Ngay khi thấy Tàu thất bại ê chề tại Việt Nam thì lập tức các dân tộc đang bị Tàu thống trị như Tây Tạng, Nội Mông, Duy Ngô Nhĩ, Hồi Ngột… bèn đồng loạt nổi dậy mạnh mẽ, vượt qua sức phản ứng của Bắc Kinh (y như như dân Đông Âu đã nổi dậy, và Moscow không còn đủ sức hay ý chí để đưa quân trấn áp.) Và thế là đế quốc Trung Quốc cộng sản sụp đổ, Tây Tạng cùng các nước bị lệ thuộc khác giành được độc lập. Ngay sau đó, Trung Quốc lại trở về một tình trạng khủng hoảng hậu Việt Nam, hậu Tây Tạng, mộng bá quyền tan hoang, mèo trắng mèo đen bị những “chú tí” sát nách cắn chảy máu đỏ, phải cong đuôi vừa chạy vừa gào. Rồi từ từ, lại một “Putin Tàu” xuất hiện, và con quay cứ thế xoay…

Diễn biến hòa bình

Dĩ nhiên, “Bài học Việt Nam” của Nixon và Gorbachev – cũng như của các thế lực từng xâm chiến Việt Nam như Pháp hoặc các nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh… hoặc các thế lực từng xâm chiến Afghanistan như Anh và các Nga hoàng trước đó – đã được Tập Cận Bình và tập đoàn nghiên cứu kỹ. Có lẽ vì vậy mà Tàu cộng sẽ chẳng dại gì xua quân xâm chiếm Việt Nam để phải lâm vào cảnh “xuất huyết trường kỳ” như Mỹ và Liên Xô cũ, để cuối cùng mất cả chì lẫn chài, mất cả uy tín lẫn ảnh hưởng, mất cả ghế và có thể làm sụp đổ cả chế độ tại mẫu quốc.

Nhưng, có lẽ cũng vì vậy mà Tàu đã dùng một con đường khác để thôn tính Việt Nam, một tuyệt chiêu hơn hẳn kẻ đi trước.

Phải gọi tuyệt chiêu đó là gì cho đúng?

Đó là không đánh Việt Nam bằng sức mạnh cứng từ ngoài đánh vào, mà bằng sức mạnh mềm từ trong ruột đánh ra. Là từng bước biến Việt Nam thành thuộc địa, thuộc quốc, thành khu tự trị, thành tỉnh lỵ… mà không cần phải bắn phát súng nào, mà có được cả một chính quyền tay sai ngoan ngoãn, nói gì nghe nấy, bất chiến tự nhiên thành.

Tên gọi chính thức của nó đích thị là “diễn biến hòa bình”, và “thế lực thù địch” trần trụi hiện nguyên hình là Trung Cộng. Lâu nay Đảng tìm cách bẻ ngược kim la bàn về phương Tây, nhưng thực ra kim la bàn chỉ kẻ thù luôn hướng về phương Bắc!

Điều vừa rồi dẫn đến câu hỏi thứ ba. Hãy thử xem Đảng đã và đang làm gì, có thực sự chống giặc, hay giặc đang đứng sau lưng Đảng, và cả hai đang đối đầu dân Việt?

III. ĐẢNG CÓ CỨU NƯỚC KHÔNG?

Cứ nhìn cách Ban Tuyên giáo của Đảng chỉ đạo “mặt trận” dư luận nội địa trên báo đài trong những ngày qua thì thấy sự thật không phải là điều đang được tôn trọng, và họ đang cho hạ nhiệt vấn đề Tàu xâm lược:

Ngày 2/5, khi Cục Hải sự Trung Quốc công bố giàn khoan 981 bắt đầu khoan từ ngày 1/5, thì liên tục một tuần sau đó báo đài Việt Nam đồng loạt đưa tin phản đối khí thế, làm dậy sóng dư luận.

Đến ngày 10/5 báo Tuổi Trẻ tại TPHCM còn in và tặng kèm độc giả cả một poster khổ lớn đòi Trung Quốc rút ngay giàn khoan để nguời dân mang xuống đường biểu tình vào chủ nhật 11/5.

Nhưng ngay sau vụ bạo động 12/5 và 13/5 thì ba ngày liên tiếp sau đó trên trang nhất báo Tuổi Trẻ chỉ thấy những gương mặt cười, người dân vui cười khi hồ hởi quyên góp cho biển đảo, nhưng nhìn qua, nhất là khi những cặp mắt Tàu cộng không biết tiếng Việt nhìn qua, thì sẽ rất dễ có ấn tượng là đất nước Việt Nam đang rộn rã một niềm vui lớn!

Những ngày sau đó vẫn còn tin về biển đảo nhưng hạ nhiệt dần, rồi những ngày tuần đầu và giữa tháng 6/2014, tin về ngoại xâm lui vào trang trong, nhường gần hết trang nhất cho những tin hiền lành như mùa thi, sức khỏe, bảng chỉ dẫn lưu thông…

Thực ra, những tờ báo đông người đọc như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Tiền Phong, Lao Động, Pháp Luật, Người Lao Động, Phụ Nữ…, vẫn là một “nhà hát” sáng đèn liên tục và có lượng khán giả khá lớn, xem “hát” xong, khán giả vẫn oang oang trong đầu những gì được nghe, và về kể lại cho người khác. Đó vẫn là những hàn thử biểu để phần nào đo được nước cờ trái-phải, đóng-mở, bóp-nhả của Đảng, và điều quần chúng đang bị mớm để tin.

Phân vai và hai tay

Đang diễn ra điều gì vậy? Sự thật là gì vậy? Sao có quá nhiều dấu hiệu trái chiều, từ những vị cao nhất trở xuống? Thay vì được quyền biết mọi sự thật thì dân không biết ngay cả ai là bạn, ai là thù!

Phải chăng, ở “trển”, các vị đã được phân vai? Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải cứng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phải im, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phải lảm nhảm chuyện nhỏ ở chỗ nhỏ, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh phải mềm như bún Tàu, còn những người khác như Nguyễn Chí Vịnh thì lúc cứng lúc mềm như quan hoạn?

Kìa, cứ nhìn cách Đảng đưa Phùng đến Shangri-la ca ngợi quan hệ “vẫn phát triển tốt đẹp” giữa ta và Tàu là thấy Tàu với “ta” là một. Phùng đại tướng chẳng khác gì một ông bác sĩ lâu ngày không đụng đến ống nghe, nhưng cứ ong ỏng bảo rằng bệnh nhân vẫn khỏe, dù bệnh nhân vừa bị đâm một nhát ngay mạng sườn, máu chảy không cầm được, hoặc cứ kiên quyết khẳng định rằng quan hệ vẫn trong sáng dù cô em vừa bị thằng đểu cáng hiếp dâm.

Hay là Phùng nói đúng, cô em không bị hiếp dâm mà tự dâng hiến? Chắc là vậy thật, họ đã dâng đất nước này cho giặc từ mật nghị Thành Đô?

Hay là họ đang bắt chước chính sách “hai tay” của Tập Cận Bình [4], tay búa tay tiền, nửa Mao nửa Mít (Mao Trạch Đông & Adam Smith): tay trái cứng vừa đè bẹp giới bất đồng chính kiến, vừa thổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vừa bành trướng bá quyền, trong khi tay phải mềm cố tỏ ra thân thiện, chống tham nhũng, mở kinh tế thị trường, đem Khổng Tử ra trang trí?

Qua mặt dân

Vì sao Ban Tuyên giáo mở trói cho báo đài và nghệ sĩ nói về Tàu xâm lược, nói về hòa bình, Trường Sa, Hoàng Sa nhưng lại đồng loạt vừa rút tin bài về thảm sát Thiên An Môn, vừa bai bải chối làm gì có rút?

Thủ tướng tuyên bố không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông và sẵn sàng để kiện Tàu, nhưng sao Bộ Chính trị vẫn trì hoãn kiện?

Đó là chưa kể những gì đã diễn ra trong những năm qua: Bộ Chính trị im khi Tàu chiếm Hoàng Sa năm 1974, im từ đó đế nay về cuộc chiến 1979, im khi Tàu chiếm Gạc Ma 1988, cho Tàu trúng thầu hầu hết dự án trọng điểm, mở cửa cho dân Tàu vào làm ăn trái phép, lập mật khu bất khả xâm phạm, mướn rừng đầu nguồn, mướn nhiều chục năm đất và vùng biển chiến lược, khai thác boxit Tây Nguyên dù lỗ lớn vẫn lì lợm làm, rồi chính quyền lại không mệt mỏi đàn áp người biểu tình chống Tàu, đánh đập, ngược đãi, kết án, bỏ tù ngày càng nhiều năm bao nhiêu người yêu nước…

Sự thật là gì vậy? Điều gì đang diễn ra trong quan hệ Việt-Tàu? Sao không lên tiếng trình bày cho dân rõ mọi chuyện? Chỉ cần nhìn cái cách họ khinh dân trong những ngày này là thấy họ không do dân bầu ra, không màng tới phản ứng của dân, và chỉ xem dân như một đám dân thuộc địa hạng tồi, cần cai trị, chứ không cần lắng nghe hay đối thoại.

Ông Đỗ Mười, ông Lê Khả Phiêu, cùng tất cả các ông các bà có tên tuổi và có trách nhiệm khác, sao không nói gì vậy? Các ông các bà đứng về phía nào, phía dân hay phía giặc?

Im lặng nhiều lúc là vàng. Nhưng khi 16 chữ vàng đã thối thì im lặng là đồng lõa!

Câu hỏi tối hậu

Sự im lặng của các vị làm người dân không thể không đặt ra các câu hỏi tối hậu như sau:

Có phải chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ là chính quyền tay sai, đang ngồi cai trị dân dưới sự hỗ trợ và chỉ đạo của Bắc Kinh?

Có phải vì là bù nhìn tay sai nên khi giàn khoan 981 xuất hiện họ làm động tác giả lớn tiếng chống đối ầm ào, rồi lại bày trò đốt phá nhà máy khu công nghiệp để lấy cớ trấn áp người dân biểu tình?

Có phải Đảng đang diễn một vở kịch dối trá và ô nhục với Bắc Kinh, một vở “Kinh Kịch” ai nấy tô vẽ mặt mình rõ dầy không cho thấy mặt thật, rồi cứ thế ra bộ, ấm ứ, ầm ừ, đánh trận giả?

Phải chăng một chính quyền tay sai cho ngoại bang, một lực lượng chiếm đóng nhận lệnh thẳng từ kẻ xâm lược, một chính quyền thực dân tuân lời mẫu quốc cũng chỉ có thể làm những điều tương tự như Đảng và chính phủ đang làm, không thể hơn?

Và một câu hỏi đau đớn nữa rất nhiều người muốn đặt ra, đó là:

Có phải Việt Nam đang hoặc đã trở thành thuộc địa, thuộc quốc của Tàu từ hội nghị bí mật Thành Đô 1990, từ khi bình thường hóa quan hệ Việt-Tàu năm 1991, và từ biết bao nhiêu cam kết, thỏa thuận, hiệp ước trong những năm sau đó?

“Đám cưới” Thành Đô

Đọc lại những thông tin ít ỏi về mật nghị Thành Đô vẫn có thể rút ra một vài điều trớ trêu và đau đớn:

Vào đúng dịp kỷ niệm 45 năm ngày tuyên bố độc lập, 2/9/1945- 2/9/1990 thì bộ sậu Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng lại chuẩn bị khăn gói qua họp kín với Giang Trạch Dân, Lý Bằng tại khách sạn Kim Ngưu ở Thành Đô, Tứ Xuyên, vào ngày 3-4/9/1990.

Ngoài mấy điểm về giải pháp Campuchia, những thỏa thuận về bình thường hóa quan hệ Việt-Tàu không được tiết lộ ra ngoài. Chỉ biết rằng sau khi ký kết “Kỷ yếu hội đàm”, Giang Trạch Dân đã mượn một câu thơ của Giang Vĩnh đời Thanh (có bản nói là của Lỗ Tấn) để tặng Nguyễn Văn Linh. Thơ như sau:

Độ tận kiếp ba huynh đệ tại
Tương kiến nhất tiếu mân ân cừu

Nghĩa là:

Qua hết sóng gió anh em vẫn còn
Gặp nhau cười một cái là quên ân oán

Để tỏ lòng trung, Nguyễn Văn Linh đáp lại bằng bốn câu thơ:

Huynh đệ chi giao số đại truyền
Oán hận khoảnh khắc hóa vân yên
Tái tương phùng thời tiếu nhan khai
Thiên tải tình nghị hựu trùng kiến

Nghĩa là:

Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ
Trong khoảnh khắc oán hận biến thành mây khói
Gặp lại nhau cười rạng rỡ
Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại [5]

Và thế là cuộc mật nghị Thành Đô có đủ hương vị của một “đám cưới” trăng mật, có đủ cả câu đối và lời hứa “em muốn sống bên anh trọn đời”. “Chú rể” Giang Trạch Dân quen thói giang hồ thì mượn thơ của người khác qua loa như tán gái cho xong chuyện, còn “cô dâu” Nguyễn Văn Linh thì rút ruột thề thốt, nào là “mấy thế hệ”, nào là “tình nghĩa ngàn năm”.

Ly dị chăng?

Thực ra thì có hứa trăm năm hay ngàn năm đi nữa thì khi hôn nhân bất thành, tên chồng vũ phu, bạo hành, đàn áp, khinh bỉ, cướp của, làm nhục, xem vợ như nô lệ… thì vợ luôn có quyền hủy hôn ước, ly dị, đưa chồng ra tòa vì tội bạo hành gia đình, đòi lại tự do và công bằng. Đó là cách ứng xử bình đẳng của người văn minh và có nhân phẩm, hoàn toàn khác với lập luận “gia đình lục đục là chuyện thường” theo nếp nghĩ phong kiến “chồng chúa vợ tôi”, chồng muốn làm gì thì làm vì chồng luôn đúng, vợ phải cắn răng chịu đựng vì vợ luôn sai, theo kiểu lý sự cùn, vô tâm, vô tình, vô tích sự và cực kỳ lạc hậu của Phùng đại tướng.

Nhưng, đòi lại sự tôn trọng tối thiểu giữa hai người bình đẳng trong một quan hệ bình đẳng là điều Đảng đã không làm! Vì sao thế?

Sáu sao

Nhân tiện xin được hỏi luôn, vì sao khi lãnh đạo Tàu qua Việt Nam thì thiếu nhi Việt Nam đã được giao cho phất những lá cờ Tàu sáu sao (năm nhỏ chầu quanh một lớn), thay vì cờ Tàu vốn chỉ có năm sao (bốn nhỏ chầu quanh một lớn)?

Có lẽ chỉ có thể lý giải rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang hành xử như tay sai mẫn cán của Tàu, họ đang bán nước để giữ ghế, và Việt Nam đã được xem như một thuộc quốc của Tàu. Ý nghĩa gốc cờ năm sao của Tàu như sau: Sao to là Đảng ở giữa, bốn sao nhỏ là bốn giai cấp: công, nông, tiểu tư sản thành thị, và tư sản dân tộc. Còn trong đối ngoại thì cờ sáu sao như Việt Nam đã dùng có lẽ chỉ có thể hiểu theo nghĩa: Tàu là sao to Hán tộc ở giữa, năm sao nhỏ chầu quanh là năm dân tộc lệ thuộc: Tạng,  Mông, Hồi, Ngô, Việt (hay Thanh, Mông, Hồi, Tạng, Việt)!

Thật không? Thế thì mất nước rồi sao? Phải làm gì bây giờ?
Điều này dẫn đến câu hỏi thứ tư.
(Xem tiếp kỳ 2)
Hình: Cartoon của Sacrava
_____________________
[1] The Economist, “What would America fight for?” (Mỹ chiến đấu vì điều gì?), số ra ngày 3/5/14
[2] Xem Thomas Wright, “Four Disappointments in Obama’s West Point Speech” (Bốn thất vọng trong diễn văn tại West Point của Obama), Brookings, 28/5/2014
[3] Victor Sebestyen, Revolution 1989, The Fall of the Soviet Empire (Cách mạng 1989, Đế quốc Xô-viết sụp đổ), Pantheons Books, New York 2009, Chương “Gorbachev’s Vietnam” (bài học Việt Nam của Gorbachev), trang 200
[4] Xem bài “Mao and Forever” của Peter Martin và David Cohen, đăng trên Foreign Affairs ngày 3/6/14. Đã có bản tiếng Việt của dịch giả Huỳnh Phan đăng trên trang BS.
[5] Xem “Tài liệu của Trung Quốc về cuộc gặp bí mật Thành Đô, 3-4/9/1990”, bản dịch của Lý Nguyên. Nguồn: Hà Bắc tân văn võng, talawas 30/10/2007.
Admin gửi hôm Thứ Năm, 19/06/2014
Từ Linh
Theo blog pro&contra
IV. CHỈ CÒN LẠI DÂN?

Trong khi Mỹ đang tạm “nghỉ giữa hiệp”, Putin lồng lộn ở trên kia, Tập làm mưa làm gió phía dưới này, Đảng “ta” thì nhóm lãnh đạo hầu hết vẫn ở cung cấm như những nàng hầu, xinh nhưng ngu, chỉ biết ngoan ngoãn chờ Tàu chỉ bảo, thì câu hỏi đặt ra là đất nước này đang nằm trong tay ai? Còn ai lo cho đất nước này?

Câu trả lời thật rõ: Chỉ còn dân. Và dân là tất cả những ai còn nghĩ mình là dân nước Việt, những người tự do, không sợ hãi, không bị giặc ngoại xâm trói tay bịt miệng, biết đau xót vì đất nước thiêng liêng bị xâm phạm, và sẵn sàng chết chứ không chịu làm nô lệ.

Hai tiền lệ

Thực ra, tình trạng nhà cầm quyền nhu nhược trước ngoại xâm, lo giữ ghế hơn lo giữ nước, lo chống dân hơn chống giặc đã có tiền lệ.

Chẳng cần tìm đâu xa, có hai tiền lệ đã từng diễn ra ở Trung Quốc, cách đây trên dưới 100 năm. Đó là Cách mạng Tân Hợi 1911, khi dân chúng đứng dậy lật đổ nhà Thanh vừa trì trệ bảo thủ vừa để ngoại bang lấn lướt đến ô nhục. Và đó là phong trào Ngũ Tứ Vận động năm 1919, khi quần chúng đứng dậy chống Hiệp ước Versailles nhục nhã ép chính quyền cắt đất cho ngoại bang.

Cả hai biến cố đều có điểm chung, đó là: đứng trước nguy cơ mất nước, mất đất, thay vì chuyển đổi quyết liệt để cùng dân đối đầu hiệu quả với giặc thì chính quyền lại nhu nhược, sẵn sàng chịu nhục và đàn áp dân để giữ quyền lực. Và trong cả hai tình thế, quần chúng đều không ngồi im. Họ đứng dậy. Họ lật đổ nhà Thanh (1911), hoặc khiến chính quyền Dân Quốc hủy bỏ Hiệp ước ô nhục (1919).

Tiền lệ thứ nhất: Cách mạng Tân Hợi 1911

Xin tóm tắt đôi nét về Cách mạng Tân Hợi như sau:[i]

Sau thất bại nhục nhã trong Chiến tranh Nha phiến (1840-1842; 1857-1860), và Chiến tranh Thanh-Nhật (1894-1895), nhiều sĩ phu muốn theo gương Nhật Bản cải cách triệt để kinh tế và chính trị. Nổi bật là Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu. Họ phò vua Quang Tự duy tân, nhưng bị Từ Hy Thái hậu thủ cựu trấn áp. Sau Chính biến Mậu Tuất (1898), Từ Hy giết hại nhóm duy tân, Khang, Lương phải trốn sang Nhật. Nhưng càng đàn áp thì cách mạng càng phát triển. Đến khi liên quân tám nước kéo vào Bắc Kinh (1900) Thanh triều phải ký một hiệp ước nhượng bộ nhục nhã thì dân chúng phẫn uất, đòi thay đổi thể chế, phế bỏ nhà Thanh.

Lúc bấy giờ có Tôn Trung Sơn, một bác sĩ, theo Thiên Chúa giáo, có thời học ở Hawaii, chủ trương cách mạng. Ông tin rằng phải lật đổ nhà Thanh mới cứu được Trung Quốc. Năm 1898 ông lập Trung hưng Hội ở Mỹ, hình thành chủ nghĩa Tam dân: dân tộc (chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc…), dân quyền (tước quyền Thanh triều trao lại cho dân, dân có quyền tuyển cử, bãi nhiệm quan chức, quyền làm luật và phúc quyết…), dân sinh (chăm sóc bốn phúc lợi cho dân là ăn, mặc, ở, đi, nông dân có ruộng đất…). Sau Hiệp ước Bắc Kinh 1900, dân chán ghét Thanh triều, gia nhập hội càng đông. Lý tưởng của Tôn được đông đảo Hoa kiều hải ngoại ủng hộ và góp tiền giúp đỡ. Năm 1905, hai đảng khác gia nhập, Tôn đổi tên hội thành Đồng minh Hội, tiền thân của Quốc dân Đảng.

Từ 1905 đến 1911, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở các tỉnh thành như: 1905: Giang Tây, Hồ Nam; 1907: Khâm Châu, Liêm Châu, Thượng Tư (nay thuộc tỉnh Quảng Tây); 1908: Vân Nam, Quảng Đông; tháng 4/1911: Một cuộc khởi nghĩa lớn xảy ra. 500 cảm tử quân tấn công vào dinh Tổng đốc Quảng Châu, vì chuẩn bị chưa kỹ, khởi nghĩa không thành, 72 liệt sĩ hy sinh, được chôn ở Hoàng Hoa Cương (Phạm Hồng Thái sau này cũng được chôn ở đây).

Xin được trích đoạn sau đây viết về Cách mạng Tân Hợi để bạn đọc tiện theo dõi. Đoạn này liên quan đến một vụ việc đáng chú ý, tình trạng không khác ngày nay ở Việt Nam bao nhiêu:

“Cũng trong thời gian này, việc Thanh đình trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6.750.000 đô-la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Đến ngày 9/5/1911, Thanh đình ra sắc lệnh Quốc hữu hóa đường sắt nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức, lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu,Tứ Xuyên… nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt… Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái lập hiến, phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên.

Ngày 7/9/1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô (tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên) kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhữ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác. Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc Thanh đình phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.”[ii]

Đến ngày song thập (10/10/1911) cách mạng nổ ra và thành công ở Vũ Xương, gọi là Cách mạng Tân Hợi. Xin trích đoạn mô tả sau đây của học giả Nguyễn Hiến Lê:

“Dân quân được quân đội tân thức giúp sức, chiếm Vũ Xương. Lần lượt các tỉnh Hồ Nam, An Huy, Quí Châu, Giang Tô, Chiết Giang, Quảng Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông tuyên bố độc lập, hường ứng với dân quân. Đảng bèn tổ chức liên quân hai tỉnh Giang-Chiết để đánh Nam Kinh. Các tỉnh độc lập đều phái đại biểu đến Vũ Xương hội nghị để lập một chính hủ lâm thời tại Nam Kinh. Tôn Văn được bầu làm Lâm thời Đại Tổng thống…”[iii]

Tiền lệ thứ hai: Ngũ Tứ Vận động 1919

Để biết tóm lược về nguyên nhân xảy ra, phản ứng của quần chúng, phản ứng của chính quyền và kết quả của Phong trào Ngũ tứ 1919,  xin trích đoạn dưới đây để bạn đọc tham khảo. Nhiều điều gợi đến tình hình Việt Nam bây giờ.

“Sau khi Đệ nhất Thế chiến kết thúc, các nước thắng trận đã ký kết bản Hiệp ước Versailles, trong đó có điều khoản chuyển giao chủ quyền tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) từ tay Đức sang cho Nhật Bản.

Các tầng lớp nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là học sinh sinh viên đã đứng lên đấu tranh chống lại quyết định này. Phong trào lan rộng, chuyển mũi nhọn đấu tranh từ chống lại Hiệp ước Versailles sang chống lại chính phủ Trung Hoa Dân quốc lúc bấy giờ.

Ngày 4 tháng 5 năm 1919, hơn 3000 học sinh sinh viên của 13 trường đại học Bắc Kinh đã tập hợp trước quảng trường Thiên An Môn, tiến hành biểu tình thị uy trên các đường phố Bắc Kinh để chống lại Hiệp ước Versailles, với các khẩu hiệu như:
  • Ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc (ngoài: giành lại chủ quyền đất nước, trong: trừng trị bọn bán nước);
  • Trung Quốc là của người Trung Quốc;
  • Phế bỏ Hiệp ước 21 điều (quy định quyền lợi của các nước phương Tây tại Trung Quốc);
  • Thề chết giành lại Thanh Đảo.
Yêu sách của những người biểu tình là đòi xử tội ba nhân vật thân Nhật trong chính phủ Trung Hoa Dân quốc lúc bấy giờ:
  • Tào Nhữ Lâm (曹汝霖): Tổng trưởng Giao thông, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao của chính phủ Viên Thế Khải, người trực tiếp ký kết “Hiệp ước 21 điều”;
  • Lục Tông Dư (陆宗舆): Tổng giám đốc Ngân hàng, nguyên công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản, người đã ký vay nợ Nhật Bản;
  • Chương Tông Tường (章宗祥).
Bản Tuyên ngôn của học sinh sinh viên đã nêu lên mục đích của phong trào:
  • Đất đai Trung Quốc có thể bị chinh phục chứ không thể bị cắt cho. Nhân dân Trung Quốc có thể bị giết chứ không thể cúi đầu. Nước đã mất rồi! Đồng bào hãy vùng lên!
Hưởng ứng lời kêu gọi của học sinh sinh viên Bắc Kinh, học sinh sinh viên các thành phố khác như Thiên Tân, Thượng Hải, Nam Kinh, Vũ Hán, Tế Nam, Trường Sa, Trùng Khánh, Quảng Châu… đều tổ chức mít tinh và biểu tình thị uy với quy mô lớn. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc đã phái quân đội, cảnh sát đến đàn áp, ra lệnh cách chức hiệu trưởng trường Đại học Bắc Kinh Sái Nguyên Bồi, đuổi học và bắt giữ hơn 1000 học sinh sinh viên.

Đến ngày 19 tháng 5 năm 1919, học sinh sinh viên bắt đầu tổng bãi khoá. Ngày 3 tháng 6 năm 1919, công nhân, thương nhân, học sinh sinh viên cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân Thượng Hải đã tiến hành tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá để ủng hộ phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Bắc Kinh. Quân đội, cảnh sát ra sức đàn áp nhưng cuối cùng cũng bất lực trước làn sóng xuống đường của các tầng lớp nhân dân.

Phong trào Ngũ Tứ đã lan rộng khắp 22 tỉnh và 150 thành phố ở Trung Quốc, trong đó nổi lên mạnh nhất ở Thiên Tân, Nam Kinh, Hàng Châu, Vũ Hán… lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia như học sinh, sinh viên, công nhân, thương nhân, thị dân, trí thức…

Cuối cùng, chính phủ Trung Hoa Dân quốc buộc phải trả tự do cho tất cả những người bị bắt, cách chức Tào Nhữ Lâm, Lục Tông Dư, Chương Tông Tường, sau đó ra lệnh cho đoàn đại biểu Trung Quốc tại Pháp cự tuyệt ký vào Hiệp ước Versailles. Phong trào Ngũ Tứ coi như kết thúc thắng lợi.”[iv]

Có thể suy ra điều gì từ hai tiền lệ Cách mạng Tân Hợi và phong trào Ngũ Tứ? Có lẽ suy luận sau đây không quá xa:

Nếu những câu hỏi nhức nhối trên kia không phải là giả thuyết, mà là sự thực, là thực tại đau đớn của Việt Nam trong giai đoạn này – đất nước bị ngoại xâm, người dân bị làm nhục, nhà cầm quyền nhu nhược, có kẻ làm tay sai, chống dân hơn chống giặc – thì đây chính là lúc người dân không còn cách nào khác mà buộc phải đứng dậy. Và đây sẽ là cuộc đấu tranh: Ngoài chống giặc ngoại xâm, trong chống bọn bán nước, giành lại cho dân quyền lực chính đáng của mình.

Điều này dẫn đến câu hỏi thứ năm.

5. HỌ ĐANG ĐẨY DÂN VÀO THẾ BẤT TUÂN DÂN SỰ?

Một tháng sau khi giàn khoan 981 xâm phạm, dù cả nước sôi sục việc chống Tàu, tuy cũng có ông nghị lên tiếng cảnh tỉnh đừng tin “mười sáu bốn”, nhưng vào ngày 30/5, báo chí Việt Nam đưa tin có đến 85% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết về Chương trình Xây dựng Luật và Pháp lệnh năm 2015”, theo đó, Luật Biểu tình sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 9, và sẽ thông qua tại kỳ họp thứ 10, cuối năm 2015.

Tức là lại hứa hẹn lần nữa, sau khi đã lỡ hẹn bao nhiều lần trong bao nhiêu năm.

85% Quốc hội là ai?

Thực lòng là khi nghe Quốc hội bình thản làm công việc quen thuộc là “thông qua một cái gì đó về một cái gì đó cho một cái gì đó về một việc gì đó sẽ được đưa ra thảo luận gì đó trong… tương lai” ngay lúc đất nước lâm cảnh dầu sôi lửa bỏng, thì người dân không thể nào không “bại não” vì lùng bùng lỗ nhĩ.

Tóm lại, Quốc hội nói sẽ thông qua Luật Biểu tình vào cuối năm 2015 đúng không ạ? Quý hóa quá! Cứ cho là như vậy, nhưng ai đảm bảo việc này sẽ không bị hoãn lần nữa vào cuối năm 2015, nếu Quốc hội tiếp tục ngoan ngoãn nhìn lên để nghe trên phán xuống, thay vì nhìn xuống để nghe dân thấp cổ bé miệng từ dưới nói lên?

Sao lạ vậy, Quốc hội do dân bầu cơ mà?

Đúng là có “bầu”, nhưng trong những ngày này, thay vì “thoát Trung” thì 85% Quốc hội lại “thoát y”, hiện nguyên hình là tay chân hèn mọn của Đảng. Còn chuyện “Đảng cử dân bầu”, ai cũng biết đó chỉ là trò hề nhảm nhí, dân sợ nên Đảng buộc bầu là phải bầu, làm gì có bầu thực chất.

Phải chăng việc Quốc hội hoãn Luật Biểu tình đến cuối năm 2015 có nghĩa là trong năm 2014 và từ nay đến đó, dù Tàu xâm lược có lấn tới, có húc chìm tàu thuyền, có giết hại dân mình, thì Đảng, Chính phủ, Quốc hội vẫn sẽ không cho dân hành xử quyền hiến định là được xuống đường phản đối?

Xin lỗi, vậy thì xin hỏi: 85% Quốc hội là của ai? 85% Quốc hội đang chống Tàu xâm lược để giữ dân, giữ nước, hay 85% Quốc hội đang chống dân, giữ Đảng, ôm chân Tàu?

Ngược ngạo thay, trong khi lòng dân chất chứa bao nhiêu bức xúc muốn nói, muốn gào thét cho hả giận, cho kẻ xâm lược biết ý chí và quyết tâm của dân, thì nhà cầm quyền của đất nước đang bị xâm phạm trắng trợn lại dồn dân vào chân tường, không cho dân biểu thị tình cảm!

Không thể biện minh được, mà phải nói là họ đang tiếp tay cho giặc để dẹp yên dân chúng, khiến giặc càng hống hách và tha hồ hô hoán với thế giới rằng: Đó! dân Việt chúng nó có ai phản đối đâu mà thế giới cứ nhảy dựng lên như thế!?

Mahatma Gandhi từng nói nếu đứng trước một điều trái với lương tâm, và sau khi mọi kiến nghị đều chỉ như đàn gẩy tai trâu, thì người dân chỉ còn cách một là chống lại bằng bạo lực, hai là bất tuân dân sự và chấp nhận mọi khổ đau do bất tuân mang lại.

Có phải Đảng, Chính quyền và Quốc hội do Đảng giựt dây, cùng với cỗ máy truyền thông công cụ của Đảng, đang đẩy người dân vào thế bất tuân dân sự?

Dân không còn con đường nào khác

Làm gì bây giờ?

Làm gì ư? Thì im lặng! Như các ông Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và biết bao nhiêu ông bà khác vẫn đang im lặng, dù các ông bà phải là những người lên tiếng đầu tiên!

Làm gì ư? Thì cứ chờ Đảng quang vinh chỉ đâu đánh đó! Ngặt một nỗi Đảng bật đèn rẽ phải nhưng lại quẹo trái, nói rẽ về phương Tây nhưng lại bẻ vô-lăng lái thẳng về phương Bắc. Nếu để Đảng lo thì rõ ràng sẽ có ngày con cháu dân Việt chúng ta phải mặc đồng phục của quân đội Tàu để đánh nhau với anh em gốc Việt cầm súng trong quân đội đồng minh gồm Mỹ, Úc, Ấn, Nhật, Hàn, Anh, Pháp, Đức… trong Thế Chiến thứ ba!

Một chọn lựa nghiêm túc hơn là người dân đứng dậy giành lại quyền quyết định cho dân, một quyền lực tối hậu đã bị tước đoạt từ ngày Đảng lên cầm quyền. Hành vi đó được gọi là “bất tuân dân sự”, nói đầy đủ là: dân hành xử quyền dân sự, tự phát tiến hành những hành động phù hợp với lương tâm, bất chấp bị đàn áp.

Hãy tưởng tượng, khi bị đẩy vào thế bất tuân dân sự, những điều này có thể sẽ xảy ra:

Tối hậu thư

Quần chúng, thông qua các tổ chức dân sự, sẽ đưa ra tối hậu thư gửi nhà cầm quyền và công luận thế giới, ra hạn cho nhà cầm quyền trả lời trước nhân dân những điều dân cần biết về thực trạng đất nước, và làm những việc cần làm như thả hết những người chống Tàu bị cầm tù. Ví dụ, nhà cầm quyền sẽ có hạn chót để trả lời là ngày 15/7/2014, nếu không trả lời, bất tuân dân sự sẽ bắt đầu ngày 20/7/2014.

Ngưng việc 2 giờ

Trước ngày đó, để nhà cầm quyền biết được ý chí người dân, cứ mỗi buổi trưa, hàng triệu người trong tất cả các công ty, từ nhân viên văn phòng đến công nhân sản xuất, tại tất cả các tỉnh thành, từ 12g trưa đến 2g chiều đều đồng loạt ngưng việc. Điều này dễ thực hiện vì 12g là giờ ăn trưa, để biểu thị tình cảm, mọi người sẽ nhất quyết không quay lại làm việc trước 2g chiều. Và quan trọng là hãy ghi lại hình ảnh hiện tượng này cho cả thế giới biết.

Nếu hết hạn chót mà chính quyền vẫn không có động thái gì đáng kể để thỏa mãn bức xúc của dân thì toàn xã hội sẽ tiến hành những biện pháp bất tuân dân sự đồng bộ.

Việc ngưng làm việc 2 giờ mỗi ngày sẽ biến thành tổng bãi công, bãi thị, bãi trường rộng khắp và kéo dài. Những cuộc biểu tình xuống đường rầm rộ sẽ diễn ra.

100.000 người biểu tình

Cuộc biểu tình ngày 11/5 đã có khoảng 6000 người xuống đường trên cả nước, từ Saigon đến Hà Nội, đó là con số dễ dàng có. Nhưng con số này có thể lên đến 30.000, 50.000, 100.000, hoặc hơn nữa. Vì sao?

Chỉ riêng tại Saigon, Hà Nội cũng gần tương tự, và chỉ riêng các giáo xứ thuộc Giáo phận Công giáo Saigon hiện đã có khoảng 300.000 giáo dân. Hội đồng Giám mục Việt Nam đầu tháng 5/2014 đã có thư gửi giáo dân cả nước kêu gọi mọi người tích cực tham gia các hoạt động biểu thị lòng yêu nước trước họa ngoại xâm. Hãy tưởng tượng vào một ngày cùng hẹn, những cuộc biểu tình nhỏ 300 người sẽ nổ ra, tại ngay từng giáo xứ, hoặc một điểm tập trung gần giáo xứ. Theo hẹn, 100 đoàn biểu tình 300 người này, tổng cộng là 30.000 người, sẽ xuất phát từ 100 giáo xứ, sẽ đi theo 100 con đường dẫn dần về trung tâm Saigon, hay trung tâm Hà Nội, đến trước Nhà thờ Đức bà, hoặc Nhà Thờ Lớn Hà Nội, để cùng cả nước gióng lên tiếng chuông đánh thức lòng yêu nước trước hiểm họa ngoại xâm. Tất cả các giáo phận Công giáo cả nước cũng có thể làm tương tự, cùng ngày.

Các vị hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ cũng có thể làm tương tự như các giáo sĩ và giáo dân Hongkong, như Đức Hồng y Trần Nhật Quân, 82 tuổi, cùng một số tín hữu đi bộ trong 48 tiếng, mỗi ngày đi 20 km trong 12 tiếng, qua 18 quận để kêu gọi dân chúng tham gia trưng cầu dân ý tự phát vì dân chủ.[v]

Chỉ riêng tại Saigon, số lượng sinh viên các trường đại học cũng khoảng 300.000. Sinh viên của hàng chục trường đại học có thể cùng nhau xuống đường tương tự.

Số lượng công nhân tại Saigon và những khu phụ cận lên đến cả triệu. Họ cũng có thể cùng nhau xuống đường tương tự. Chuyện côn đồ quấy phá nếu không được ngầm cho phép thì dứt khoát không thể xảy ra. Lực lượng an ninh có đủ phương tiện để dễ dàng khống chế và kiểm soát côn đồ.

Đó là chưa kể những lực lượng khác từ các giáo hội Phật giáo,  Cao Đài, Hòa Hảo, từ phía các doanh nghiệp, trí thức, văn nghệ sĩ, và quần chúng nói chung.

Bỏ phiếu tại chỗ và “Chiếm đóng Ba Đình”

Cũng tương tự như người đấu tranh dân chủ tại Hongkong sẽ làm, khi diễn ra cuộc biểu tình hàng trăm ngàn người, người biểu tình có thể thực hiện việc bỏ phiếu tại chỗ trong một cuộc trưng cầu dân ý nóng, để người dân biểu thị tình cảm và ước muốn cụ thể của mình.

Sinh viên, giới đấu tranh Hongkong còn có kế hoạch “Occupy Central” (chiếm đóng khu trung tâm), “Central” là địa danh của khu trung tâm Hongkong, nếu ở Việt Nam, phong trào này sẽ có tên tương tự như “Occupy Quận Nhất”, “Occupy Ba Đình”, hoặc rộng hơn, “Occupy Saigon”, “Occupy Huế”, “Occupy Hà Nội”… với hàng chục ngàn người biểu tình tại chỗ kéo dài ngày này qua ngày khác, chặn mọi đường đi vào khu biểu tình.

Ý tưởng vui: cú, quạ và giàn khoan

Một ý tưởng vui, cũng có thể khả thi, xin nêu ra ở đây. Ý tưởng này xuất phát từ những thuyền nhân, những người đã từng vượt biển, bỏ cộng sản, tìm tự do. Họ lênh đênh giữa biển cả tuần lễ, và họ gặp những chú chim, không biết từ đâu đến, cứ đậu trên thuyền của họ. Có xua đuổi chúng cũng không đi đâu được. Biến mênh mông quá, chúng không đủ sức bay tìm bờ xa, chỉ duy nhất có chiếc thuyền đang trôi trên biển là chỗ đậu.

Ý tưởng như sau: Sẽ có 100.000 con quạ đen, hay chim cú, được ai đó mang ra, thả bay vần vũ trên giàn khoan 981 và đoàn tàu thuyền hộ tống. Bầy chim đen kịt không đậu chỗ nào được trên biển, nên cứ chỗ nào to, nhiều hang hốc là chúng đua nhau đậu vào, vừa đậu vừa… ị. Và như thế, khác với những bọn sâu mọt tay sai “ngựa Hồ” lúc nào cũng “hí gió Bắc”, những con “chim Việt” sẽ vừa “đậu cành Nam”, vừa (xin lỗi) “ỉa vào giàn khoan”.

Nếu chim bay về đảo Tri Tôn cách đó 25 hải lý, thì cứ cho chúng 2 giờ đáp xuống và thức ăn, thức uống no nê, rồi khua chuông gõ trống xua chúng bay trở về giàn khoan và đoàn tàu trăm chiếc kia. [vi] Lưu ý: không nên dùng biện pháp này vào thời kỳ cúm gia cầm, vì dân ta chỉ muốn đuổi giàn khoan và tàu bè hộ tống, không muốn giết người.

Khốn khổ nước tôi

Xin kết bài này bằng bài thơ đau đớn “Khốn khổ nước tôi”, phỏng dịch từ bài thơ “Pity the Nation”[vii] của nhà thơ Liban Kahlil Gibran:

Khốn khổ nước tôi
Mê tín thì vô hạn
Tôn giáo thì nông cạn

Khốn khổ nước tôi
Mặc áo mình không dệt
Ăn gạo mình không trồng
Uống rượu mình không làm

Khốn khổ nước tôi
Ca ngợi côn đồ là anh hùng
Gọi kẻ xâm lăng là bạn vàng

Khốn khổ nước tôi
Trong mơ thì ghét cay ghét đắng
Tỉnh dậy lại đầu hàng

Khốn khổ nước tôi
Chỉ dám nói năng khi đưa tang
Chỉ dám khoe khoang di sản hoang tàn
Chỉ dám phản kháng khi đầu sắp lìa khỏi cổ

Khốn khổ nước tôi
Chính khách xảo quyệt như chó sói
Triết gia tung hứng chữ làm xiếc
Nghệ thuật bắt chước chắp và vá

Khốn khổ nước tôi
Kèn loa tưng bừng rước kẻ cai trị mới
Rồi tống cổ chúng bằng la hét phản đối
Rồi lại tưng bừng kèn loa đón kẻ cai trị khác

Khốn khổ nước tôi
Vĩ nhân càng nhiều tuổi càng lú
Thánh nhân chờ mãi chưa ra đời

Khốn khổ nước tôi
Cứ chia năm xẻ bảy chơi
Phe nào cũng xưng mình là nước

© 2014 Từ Linh & pro&contra


[i] Tổng hợp từ Wikipedia Tiếng Việt, từ mục “Cách mạng Tân Hợi”, và Chương “Cách mạng Tân Hợi” trong cuốn Lịch sử thế giới của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995.

[ii] Trích từ Wikipedia Tiếng Việt, từ mục “Cách mạng Tân Hợi”.

[iii] Chương “Cách mạng Tân Hợi” trong cuốn Lịch sử thế giới của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995, trang 158.

[iv] Xem Wikipedia Tiếng Việt, từ mục “Phong trào Ngũ tứ”, nội dung trích từ sách tham khảo: Lịch sử Trung Quốc, của Nguyễn Gia Phu – Nguyễn Huy Quý, NXB Giáo dục, 2001, và Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, tập 2, của Đặng Đức An, NXB Giáo dục, 2000.

[v] Xem “Hồng Kông: Phong trào dân chủ vận động trưng cầu dân ý” của phóng viên Tú Anh, đăng trên trang  RFI Tiếng Việt, ngày 10/6/14.

[vi] Thực ra, đây là cách mà Tàu đã áp dụng thời Cách mạng Văn hóa. Thời đó, để tránh cảnh chướng mắt là chim ị bẩn làm ô uế tượng lãnh tụ hay dinh thự cộng sản nghiêm trang, Tàu cộng đã ra lệnh cho dân Bắc Kinh và mọi vùng lân cận phải khua chiêng, gõ trống, gõ thùng liên tục trong nhiều giờ, nhiều ngày, để đuổi hàng triệu con chim bay đi. Bầy chim hoảng hốt vì tiếng động, chúng bay mãi nhưng không thể đáp vì đâu đâu cũng gõ thùng xua đuổi. Cuối cùng, chúng kiệt sức đứt hơi lao xuống đất mà chết. Hậu quả là sâu mọt nổi lên, phá hoại mùa màng. Chuyện này được kể trong một phim phóng sự của phương Tây về Cách mạng Văn hóa, được phát trên truyền hình ở một số nước phương Tây khoảng 20 năm trước mà rất tiếc người viết đã quên tên.

[vii] “Pity the Nation”, một bài thơ nổi tiếng của Kahlil Gibran, có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng. Dịch giả Nguyễn Ước có một bản dịch khác, với tên “Chín khốn khổ”, dựa trên bản tiếng Anh của Anthony R. Ferris trong cuốn Spiritual Sayings of Kahlil Gibran in tại Mỹ năm 1962. Dịch giả Nguyễn Ước  dịch cuốn này và cuốn The Madman của Gibran, đăng chung trong một tập có tên là Mây trên đỉnh núi & Kẻ mộng du. Tập này nằm trong bộ sách 25 cuốn của Gibran do Nguyễn Ước dịch, Cty Sách Thời Đại và NXB Văn Học phát hành tại TPHCM năm 2012.
Từ Linh
Theo blog pro&contra