Điểm Tin Thứ Sáu 06.04.2012
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=SVsSH0eKimM
Phải Làm Gì Cho Thời Khắc Lịch Sử? (VAOL)
– Trong năm qua, thế giới có nhiều biến động từ chính trị, kinh tế, văn
hóa đến xã hội làm chấn động toàn cầu, ảnh hưởng không nhỏ đến tình
hình Việt Nam, nhất là biến động chính trị hay nói rõ hơn là biến…
- ĐIỂM QUA 10 LẦN “HỘI NGHỊ BÁC NGAO” (Bùi Văn Bồng)
– Bác Ngao là một thị trấn rộng 31Km2, bên sông Vạn Tuyền, thuộc huyện
Quỳnh Hải, thị trấn Hải Nam (Trung Quốc), cách Hà Khẩu 105 km. Đây là
nơi diễn ra “Diễn dàn Bắc Ngao về châu Á”. Dường như được tổ chức thường
niên trong tinh thần thay thế Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos…
- Phải khởi kiện cả Trung tướng Hoàng Kông Tư (Đông A) – Nhân chuyện vụ kiện của bà Hồ Lê Như Quỳnh,
tôi thấy gia đình ông Cù Huy Hà Vũ và bà Hồ Lê Như Quỳnh cần phải khởi
kiện dân sự cả Trung tướng Hoàng Kông Tư nữa, bởi vì ông Tư từng phát
biểu trước báo giới như sau:
“Cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ mức độ sai phạm của Cù
Huy Hà Vũ để xử lý theo quy định pháp luật. Ngoài ra, ông Vũ còn phải
chịu trách nhiệm về hành vi quan hệ dâm ô trụy lạc tại khách sạn Mạch
Lâm”
- Cũng chỉ là sợ (Trung Thực)
– Cũng chỉ là sợ … nhưng không phải là vô cảm đâu! Người bạn vàng của
tôi nói như vậy khi hai đứa ngồi cạnh nhau sau ba năm xa cách. Có nhiều
điều muốn nói bỗng nhiên không thể diễn đạt thành lời.
- Giật cả mình (Lê Trung Kiên)
- Hôm qua về quê ăn giỗ, được đặc cách ngồi uống rượu với mấy chú, mấy
cậu ở quê. Hết chuyện phố đến chuyện quê, rồi sang chuyện “chính chị”.
Ông cậu buôn bán tạp hoá mấy chục năm nay tấm tắc khen ngợi đảng và nhà
nước mình giỏi, mạnh ! Chi bao nhiêu tiền xây đường xá, điện đóm, trường
trạm cho dân.
- Thông điệp từ Bác Kinh (Lê Duy Nhân)
– “…Những lời kêu gọi cải cách chính trị của Ôn Gia Bảo hay Tập Cận
Bình chung quy cũng chỉ để xoa dịu bất mãn quần chúng và tranh giành
quyền lực trong Đảng …”
- 30-4: Một lễ kỷ niệm đau lòng của Việt Nam (Vũ Đức Khanh)
– Ngày 30 tháng tư năm 1975 mang một ý nghĩa lớn đối với người Việt.
Với một số người , đó là ngày mà đất nước của mình bị mất đi. Với những
người khác, là ngày đất nước của họ, một thời bị phân chia ra hai miền
Nam Bắc, cuối cùng được thống nhất.
- Việt Nam nghèo vì trời nóng quá? (Hà Thư Sinh)
– Những ngày tháng Năm 2009 này trời Sài Gòn nóng kinh khủng. Nếu bạn
bực mình cái nóng và đổ cho nó cái tội làm cho Việt Nam nghèo nàn và tụt
hậu thì bạn là người cùng quan điểm với các tiến sĩ kinh tế học Harvard
thuộc “trường phái khí hậu”. Khí hậu làm nên tất cả.
- Phản đối bác Thăng là… phản quốc ?! (Trần Nhương)
– “ông cho rằng đóng Phí hạn chế phương tiện giao thông cá nhân là ‘…
thể hiện sự yêu nước’. Ấy chết, Bộ trưởng nói thế lỡ có người lại hiểu
ai chấp nhận đóng phí theo đề xuất của Bộ trưởng thì là yêu nước còn ai
không chấp nhận tức là không yêu nước và ai phản đối Bộ trưởng chắc là
đám… phản quốc?”
- Tổng hợp thơ ca về Nhọn La # (Phair Zios)
– “Giao thông có Bác La #/ Vừa lên bộ trưởng hung hăng quá trời/ Món lỗ
Bác đéo cho chơi/ Ô tô, xe máy nằm phơi ở nhà/ Thủ đô Bác bắt đổi ca Đi
làm xe buýt thế là Bác vui…”
- Đinh La Thăng thời “đi tìm lửa” (Trương Duy Nhất)
– Đã từng thề rằng: nếu là một nhà tổ chức, khi làm công tác nhân sự có
hai loại người tôi cương quyết lắc đầu, vứt hồ sơ vào sọt rác- đó là
cán bộ đoàn và nhà thơ. Tôi biết ông Thăng xuất thân từ cán bộ đoàn Tổng
công ty Sông Đà. Điều này nhiều người biết. Nhưng ngạc nhiên, và thật
sự hoảng hồn khi vừa biết thêm: Đinh La Thăng còn viết thơ, từng là một…
nhà thơ!
- Tàu cá cùng 9 ngư dân bị tàu lạ đâm chìm (Dân Trí)
– Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn Hàng hải Việt Nam tối qua 3/4
tiếp nhận thông tin từ tàu BĐ 51349 TS (Bình Định) báo bị tàu lạ đâm
chìm, trên tàu có 9 ngư dân.
- TRUNG QUỐC CHỨ LẠ GÌ! Lại muốn thấy biểu tình à? (Blog Thành)
– Sáng nay 4.4, Trung tâm tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam (VMRCC)
cho biết, khoảng 20 giờ 15 phút tối qua 3.4, trung tâm nhận được tín
hiệu cầu cứu từ tàu BĐ 51349 TS bị tàu lạ đâm chìm
- 9 thuyền viên gặp nạn vào bờ an toàn (Thanh Niên)
– Sớm hơn dự kiến ban đầu, lúc 15 giờ 30 phút ngày 5.4, 9 thuyền viên
trên tàu BĐ 51349 đã về đến cảng Hòn Rớ (TP.Nha Trang, Khánh Hòa) an
toàn.
- Chính quyền Bắc Kinh buộc Ngải Vị Vị phải gỡ bỏ webcam (RFI)
– Nghệ sĩ Ngải Vị Vị hôm nay 05/04/2012 cho biết chính quyền đã buộc
ông phải gỡ các webcam mà ông đang đặt tại nhà ở Bắc Kinh, để phản ứng
lại việc ông bị liên tục theo dõi. Lệnh này được đưa ra qua điện thoại
và không cho biết lý do.
- ASEAN bế tắc trong hồ sơ tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông (RFI)
– Hôm qua, 04/04/2012, Hội nghị Thượng đỉnh ở Phnom Penh đã thể hiện rõ
sự bế tắc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông.
Các lãnh đạo thành viên Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN ra tuyên
bố cam kết làm hết sức mình để giải quyết một cách hòa bình hồ sơ này.
- Kim Jong Un học dốt và hay trốn học (RFI)
– Theo thông tin từ trang web Daily Record của Anh hôm qua 04/04/2012
thì lãnh đạo Bắc Triều Tiên hiện nay là Kim Jong Un, 29 tuổi, vào thời
còn đi học tại Thụy Sĩ trong thập niên 90 thường trốn học, và học kém
nhiều môn.
- Nông dân thế giới bước đầu đẩy lùi được tập đoàn Monsanto (RFI)
– Đối với người Việt Nam, tên tuổi tập đoàn Mỹ Monsanto được gắn liền
với chất độc màu da cam do quân đội Mỹ sử dụng trong thời kỳ chiến
tranh. Nhưng ở những nơi khác, từ châu Âu đến châu Mỹ La Tinh, thông qua
châu Phi và Ấn Độ, hàng ngàn nông dân đã nổi dậy chống lại Monsanto và
các sản phẩm biến đổi gen (OGM) do họ làm ra.
- Chính quyền Ấn Độ đổi 27 tù nhân lấy 2 con tin, bị phe Mao-ít bắt cóc (RFI)
– Theo hãng tin Pháp AFP, chính quyền Ấn Độ đã đồng ý thả 27 tù nhân để
đánh đổi lấy 2 người bị lực lượng Mao-ít bắt cóc ở bang Orissa : một
người Ý hướng dẫn du lịch và một dân biểu Ấn. Một lãnh đạo tại bang miền
Đông Ấn này, đã loan báo quyết định đánh đổi vào tối qua, 04/04/2012,
và yêu cầu là hai con tin phải được tự do ngay, trong tình trạng sức
khoẻ tốt.
- Trung Quốc khẳng định không muốn đàm phán với ASEAN về Biển Đông (RFI)
– Hôm nay, 05/04/2012, Bắc Kinh khẳng định không mong muốn đàm phán với
Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN về các tranh chấp chủ quyền tại
Biển Đông. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vừa bế mạc ngày hôm qua, tại Phnom
Penh, đã cho thấy rõ là khối này không thể đoàn kết, có một lập trường
chung để đàm phán với Trung Quốc về hồ sơ này.
- Bắc Kinh kêu gọi « một môi trường khu vực hòa bình » (RFI)
– Trước sự kiện đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đến Úc, vốn là
giai đoạn đầu của việc tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ tại châu Á –
Thái Bình Dương, hôm nay 05/04/2012 Trung Quốc đã kêu gọi « các nỗ lực
mang tính xây dựng » hướng về « một môi trường khu vực hòa bình ».
- Các nghi phạm vụ khủng bố 11/9 có thể lãnh án tử hình (RFI)
– Tòa án quân sự Mỹ hôm qua 04/04/2012 đã công bố các tội danh đối với
các nghi phạm đã tổ chức các vụ khủng bố ngày 11/9. Cả năm nghi phạm này
sẽ được xét xử từ nay đến cuối năm, và tất cả đều có nguy cơ lãnh bản
án tử hình.
- Dân Nga tiếp tục tỏ bất mãn (VOA) – Các nhà theo dõi thời cuộc dự báo mùa xuân của nước Nga sẽ không êm ả trôi qua như tân Tổng thống Putin từng mong đợi
- Gần một nửa số doanh nghiệp hối lộ chính quyền (RFA)
– Gần 50 phần trăm doanh nghiệp Việt Nam thú nhận phải hối lộ chính
quyền để thắng các dự án thầu. Đó là kết quả một cuộc nghiên cứu được
thực hiện bởi Phòng Thương mại Công nghiệp vừa cho ra hôm thứ Tư.
- Trung Quốc cảnh cáo Ấn Độ về hợp đồng dầu khí với Việt Nam (RFA)
– Ấn Độ sẽ trả một giá đắt nếu khai thác dầu khí trong vùng đang bị
tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Đó là phát biểu của một
giới chức Trung Quốc hôm thứ Năm, tức một ngày sau khi Bắc Kinh thất thế
về vấn đề biển Đông tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN.
- Trẻ Nhậu, 2 Người Lớn Bị Bắt (VietBao) – PROVIDENCE – 2 người lớn bị bắt sau khi 1 đưá trẻ 6 tuổi và 5, 6 em vị thành viên bị khám phá uống rượu trong 1 tiệc sinh nhật.
- Người Buôn Gió: Thông báo tạm ngừng viết blog (Blog NBG)
– Vì kinh tế suy thoái quá, vợ con cằn nhằn. Cho nên tạm rời xa việc
viết blog để đi làm kiếm tiền. Cái này do phải tập trung kiếm chút ít,
không liên quan đến an ninh hay TomCat nào hết. Nếu an ninh hay TomCat
lằng nhằng thì có khi lại viết nhiều hơn trước luôn.
- DN FDI bỏ trốn, nợ thuế hàng chục tỷ (VEF)
– Không chỉ nhức nhối vấn nạn chuyển giá, lỗ giả, lãi thật, nhiều doanh
nghiệp nước ngoài (FDI) đã tranh thủ sự thông thoáng của chính sách
xuất nhập khẩu ở Việt Nam,..
Những thách thức đối với Đảng cộng sản Việt Nam
Hoàng Anh
-
Là đảng duy nhất và nắm quyền lãnh đạo tại Việt Nam,
Đảng cộng sản VN đã mặc định về vị trí của mình trong toàn bộ quy trình
quyền lực và ra quyết định cũng như kiểm soát hệ thống quản trị. Nhưng
hiện nay Đảng cộng sản VN đang đối mặt với một số thách thức mà nếu có
cái nhìn thật khách quan, sẽ dễ dàng cảm nhận ra tính nghiêm trọng hay
không của nó.
Thách thức từ những xung đột lợi ích liên quan đến quyền sở hữu đất đai
Khiếu kiện đất đai không phải là vấn đề phức tạp duy
nhất đối với Việt Nam, nhưng đây rõ ràng là một quả bom đối với toàn bộ
cục diện. Chính quyền từ cấp cao nhất có vẻ đã không đủ sâu sắc để phân
tích hết tín hiệu phát ra từ vụ nổ súng phản kháng ở huyện Tiên Lãng,
Hải Phòng, một trong khoảng trên 500 đơn vị hành chính cấp huyện trên cả
nước. Trước rất lâu và ngay sau khi vụ việc được mệnh danh “Hoa cải đỏ”
xảy ra, những vụ cưỡng chế tương tự đã và vẫn diễn ra theo nhiều mức độ
khác nhau ở hầu như toàn bộ các huyện. Theo cách lý giải gần đây nhất
từ bộ Thông tin Truyền thông trong hội nghị báo chí ngày 30/3 tại Quảng
Ninh thì bản chất của vấn đề là: “Một số báo thông tin, bình luận có
tính suy diễn, cho rằng, gốc của vấn đề, vụ việc là do sở hữu toàn dân
về đất đai trong khi thực ra, nguyên nhân chủ yếu do nhận thức, thực
hiện sai các quy định pháp luật đất đai về cho thuê đất, thu hồi đất,
cưỡng chế đất cũng như do các quy định về quản lý đất đai thiếu đồng bộ,
chống chéo, phức tạp” (trích Toàn văn Báo cáo Đánh giá Công tác Báo chí
2011).
Đây chính là quan điểm cuối cùng, được coi là kết
luận của Đảng về vụ việc ở Tiên Lãng. Sự nhìn nhận này cho thấy sẽ không
có bất cứ thay đổi hoặc tác động nào đến mối quan hệ giữa chính quyền
và người dân ngay cả khi cách hành xử đáng xấu hổ của các quan chức ở
Hải Phòng trong vụ tranh chấp chính là mẫu số chung trong mọi xung đột
giữa hai nhóm lợi ích bất cân xứng: quan chức, doanh nhân cấu kết đối
đầu với nhân dân lao động, nhất là những người nông dân có xu hướng tìm
kiếm lợi ích dựa vào khai thác đất đai.
Không thể phủ nhận xung đột lợi ích là vấn đề chung
đối với tất cả các xã hội có hoạt động kinh tế. Tạm cho rằng, sự xung
đột lợi ích trong lĩnh vực đất đai là một mẫu xung đột có thể đại diện
cho các hình thức khác, cũng giống tất cả các xã hội. Nhưng sự khác biệt
lớn nhất giữa mô hình xung đột của Việt Nam với các mô hình xung đột
được kiểm soát tốt khác chính là sự thiếu vắng một số yếu tố đảm bảo.
Thứ nhất, các bên có lợi ích bị xung đột biết và hiểu rõ ràng về quyền
lợi của mình. Thứ hai, có một thiết chế trung gian mang tính trọng tài
đảm bảo quy trình thương lượng hoặc giải quyết. Và thứ ba, quan trọng
nhất, là có được các nguyên tắc pháp lí chặt chẽ được đảm bảo thực thi,
hay một chế độ Pháp quyền.
Hệ thống pháp luật thiếu chuẩn mực, được làm ra do
tác động của các nhóm lợi ích luôn có khuynh hướng thao túng đã luôn là
một đặc điểm trong quy trình làm luật ở Việt Nam. Hệ thống này trên thực
tế là sự câu kết chặt chẽ giữa những doanh nhân bất lương và những quan
chức trong bộ máy tham lam nhưng lại thiếu vắng hoàn toàn các tri thức
và đạo đức của người làm công tác quản trị quốc gia. Sự tráo đổi lợi ích
và quyền lực tạo thành một cơ chế đầu voi đuôi chuột đầy mập mờ đã biến
nông dân, nhóm lợi ích có ít khả năng phản kháng nhất do thiếu tri thức
và một công cụ bảo trợ đáng tin cậy trở thành con mồi để tiêu diệt. Sự
đối trọng này là bất cân xứng đến mức trong một số trường hợp trở thành
xung đột tiêu cực khi nhóm lợi ích nông dân phản kháng trong tình thế
quẫn bách đường cùng. Việc gia đình anh nông dân Đoàn Văn Vươn phản
kháng với quyết định cưỡng chế có động cơ cánh hẩu được chính quyền từ
thành phố Hải Phòng, huyện Tiên Lãng đến xã Vinh Quang hậu thuẫn.
Xung đột này và cách giải quyết của chính quyền Trung
ương đã cho thấy một sự nhầm lẫn đáng cảnh báo về vai trò thực sự của
các bên. Một cách trực diện, có thể nhận ra ngay rằng thêm một lần nữa
quán tính hành động theo mô thức “đóng cửa bảo nhau” lại được áp dụng.
Nhà nước, thiết chế có vai trò trung gian đại diện đã tham gia xung đột
với tư cách là một bên tranh chấp và hoàn toàn sao nhãng vai trò của
mình là thiết chế bảo đảm trình tự của một quy trình chứ không phải bên
tham gia các xung đột. Nó trở thành lực lượng hậu thuẫn cho đám khủng
long doanh nghiệp, vốn luôn buông thả với lòng tham và các thủ đoạn của
mình trên con đường tìm kiếm lợi ích. Áp lực này đã đẩy người nông dân,
nói riêng, và các nhóm yếu thế khác đến bờ vực của sự khánh kiệt.
Bản chất của vụ việc Tiên Lãng hay hàng ngàn vụ “Tiên
Lãng” khác ở cả khía cạnh địa lý và lĩnh vực chính là việc họ, các nhóm
lợi ích, đã được giới hạn trong một khuôn khổ pháp lý hay chưa? Nói
cách khác, đã đến lúc các lực lượng quản trị quốc gia, hàm nghĩa cả Đảng
lãnh đạo hoặc Nhà nước thừa hành, phải lựa chọn một chỗ đứng có tính
trung dung nhất: là thiết chế đại diện được ủy quyền phù hợp để điều hòa
các mâu thuẫn. Điều này là sự thách thức thứ nhất của Đảng trong quy
trình vận động của Việt Nam. Cách vô hiệu hóa quả bom này không phải chỉ
đơn giản chỉ là lấp cát lên nó để không ai nhìn thấy.
Thách thức thứ hai là áp lực về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thông tin lan truyền theo tốc độ của sự tiến bộ về
công nghệ truyền dẫn đã trang bị cho lòng yêu nước của người Việt Nam
những chi tiết để soi sáng từng góc cạnh trong mối quan hệ giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Dù có thể đã mai một nhiều đi trong khoảng gần một thế
kỷ gần đây, nhưng không thể phủ nhận đã từng tồn tại ở Việt Nam một nền
văn hóa nuôi dưỡng lòng yêu nước và một chủ nghĩa dân tộc rất bản lĩnh.
Trong khi các cấp lãnh đạo từ thượng tầng có vẻ như
đã quay lưng lại với những tiếng nói yêu cầu một thái độ dứt khoát trong
vấn đề chủ quyền biển đảo, thì trong môi trường hạ tầng, những tiếng
thủ thỉ than oán về cách hành xử quá nhũn và nhu nhược của chính quyền
đang nuôi dưỡng những căm giận. Thậm chí, nhiều cách đặt vấn đề đã được
nêu ra mà tâm điểm chính là việc theo hay bỏ Trung Quốc với ý nghĩa là
một mối quan hệ thuần phục liên quan đến việc còn Đảng hay mất Nước. Mâu
thuẫn đã được nhận diện là, liệu Đảng có mâu thuẫn không khi chấp nhận
mọi sự áp đặt ngày càng ít điều kiện từ phía Trung Quốc về mọi vấn đề mà
quên đi rằng động cơ tồn tại của nước Việt Nam từ thời lập quốc luôn có
một yếu tố cố định là thoát ra khỏi sự phong tỏa của gã hàng xóm tham
lam và luôn nung nấu dã tâm đã thành thâm căn cố đế.
Đôi lúc, cách hành xử của nhà quản trị sẽ là định
hướng cho các lực lượng đi theo khi họ nhận thức được rằng điều đó là
thuận chiều với tư duy chung của tất cả. Nhưng không phải lúc nào người
Việt Nam cũng tán thành cách cư xử của các nhà lãnh đạo trước áp lực của
Trung Quốc. Thách thức của vấn đề này chính là chưa bao giờ người dân
Việt Nam chấp nhận vị thế nô lệ của bất cứ một kẻ ngoại bang nào khác.
Điều đó cho họ năng lực để theo dõi và đánh giá từng việc làm của Chính
quyền Trung ương. Dù thơ ngây hay không thơ ngây khi các nhà cai trị ở
thượng tầng làm ngơ trước việc Trung Quốc cướp quần đảo Hoàng Sa từ tay
chính quyền Nam Việt Nam cũng là một tội lỗi không thể tha thứ. Quan hệ
giữa chính quyền phía Bắc với chính quyền phía Nam có lẽ đã không tốt
đẹp khi mỗi bên đại diện cho một ý thức hệ. Nhưng có điều gì đó để các
nhà lãnh đạo miền Bắc quên đi một nguyên tắc của sự tồn vong cho một
quốc gia như Việt Nam là: Khi bất cứ kẻ cướp nước nào xâm phạm phần lãnh
thổ của mình dù chỉ là một cái chạm đầu tiên của mũi giày chúng, tất cả
sẽ phải là người Việt Nam.
(Quan hệ giữa Trung Hoa lục địa và Đài Loan trong mối
tương quan tranh chấp chủ quyền biển Nam Trung Hoa là một bài học tinh
tế. Có thể Đài Bắc và Bắc Kinh đối lập với nhau về nhiều điểm liên quan
đến kinh tế, văn hóa, thương mại… Nhưng họ hầu như không bao giờ lên
tiếng phủ nhận khi bên kia tuyên bố chủ quyền trên các đảo trong khu vực
tranh chấp).
Năm 2011, bất chấp sức ép từ Bắc Kinh lên bộ máy
chính quyền Hà Nội, 11 cuộc biểu tình vẫn diễn ra liên tiếp nhằm thể
hiện khát vọng được cất tiếng nói với thái độ cương quyết về vấn đề chủ
quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Trước khi nó bị dập tắt bởi vô số
mánh khóe của an ninh trong nước, một sự thức tỉnh mạnh mẽ cùng với
nhiều thông tin đã được truyền đến người dân theo những lớp lang khá cụ
thể. Gần đây nhất, khi các nỗ lực nhằm vinh danh và tưởng nhớ những anh
hùng đã hy sinh trong cuộc chiến chớp nhoáng năm 1988 đều bị chính quyền
ngăn chặn, làn sóng yêu nước vẫn ngấm ngầm tồn tại trên không gian
Internet. Hiệu ứng và quy mô của chúng có lẽ đã lớn đến mức tất cả đều
có thể nhận ra sẽ là một lời thách thức từ chính các nhà lãnh đạo đối
với nhân dân của mình khi họ lựa chọn làm hài lòng Bắc Kinh và tiếp tục
đàn áp những tiếng nói yêu nước chân chính của nhân dân.
Vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa chắc
chắn sẽ không bị xóa đi theo cách nhân viên nghành an ninh trong nước
bắt bớ, nạt nộ nhân dân để họ thôi đi biểu tình hoặc đấu tranh theo
những phương pháp hòa bình. Ngay cả khi các chuyên gia an ninh dùng thủ
đoạn xấu xa nào nhằm ngăn cản một cuộc gặp mặt của những người biểu tình
hay một trận đá bóng giữa họ, mọi chuyện cũng sẽ chỉ làm tăng mối nghi
ngờ về tác dụng của miếng bả mà Bắc Kinh đã ma lanh trộn vào. Xem ra,
thách thức thứ hai cũng đã quá rõ. Việc quả bom nổ hay không nổ dĩ nhiên
không phụ thuộc vào việc anh đặt đầu của nó quay về hướng Bắc hay hướng
Tây.
Thách thức thứ ba: năng lực quản trị hữu hiệu
Việc xử lý các bị can trong vụ án Vinashin hôm 30/3
có thể đã làm hài lòng một vài người. Nhưng đó không phải là phương
thuốc trị bệnh mà chỉ là một ít dầu xoa lên vết sưng do ung thư nội
tạng. Cái xác chết Vinashin đang trôi nổi kia dù đã trở thành một sự
cảnh báo về năng lực điều hành kinh tế và khả năng hoạch định chính sách
duy ý chí, nhưng có vẻ nó chưa làm tỉnh ngộ hoặc làm chờn tay các nhóm
lợi ích đang lợi dụng thao túng các tập đoàn nhà nước. Mỗi tập đoàn nhà
nước kiểu Vinashin là một ngành độc quyền. Mỗi ngành độc quyền là một
đầu mối nắm trong tay một mạch chủ nguồn lực quốc gia. Những kẻ thâu tóm
các tập đoàn độc quyền trên thực tế là những kẻ sử dụng công cụ, khai
thác nguồn lực quốc gia để thỏa mãn nhu cầu lợi ích của mình hay phe
nhóm mình.
Lần lượt những anh cả đỏ, những quả đấm thép đang
chảy ra, trở nên loãng nhếch bởi trên thực tế chúng chỉ là công cụ cho
một động cơ khác. Các tập đoàn này kể từ khi thành lập đã đảm nhận 2
nhiệm vụ trọng yếu:
- Nhiệm vụ thứ nhất: đầu tư mọi ngành chúng muốn hoặc
nghĩ ra, gây lãng phí bất cứ cho mục đích gì mà chúng có thể làm. Chưa
nói đến động cơ chính của việc làm này, chỉ nói đến việc những người chủ
trương hiển nhiên không phải là các tay tốt thí như Phạm Thanh Bình và
bộ sậu. Hiển nhiên là, họ không thể không biết việc làm này là sai. Ngay
cả khi họ vì một hạn chế nào đó để không hiểu đó là sai, cũng đã có rất
nhiều người tâm huyết nói cho họ biết điều ấy. Điều đó có nghĩa họ hoàn
toàn có mục đích khi giành mọi quyết tâm để duy trì tình trạng lãng phí
triền miên đó. Mục đích của chúng thực ra nằm ở nhiệm vụ quan trọng
nhất kể ra sau đây.
- Nhiệm vụ thứ hai: làm ổ để vơ vét và tham nhũng.
Thực chất, hai nhiệm vụ này không thể tách nhau ra được. Với những cơ
chế hình thành, điều hành không minh bạch, các tập đoàn được hậu thuẫn
về chính trị và tài chính đến kinh ngạc. Việc thành lập các Tập đoàn với
mục đích như vậy thực tế cũng không căn cứ vào bất cứ một tiêu chí nào
về hoạt động quản trị kinh doanh khoa học mà do ý chí và những động cơ
khác hẳn. Không có thay đổi nào về các nhiệm vụ này ngay cả trước đó
chúng tồn tại ở dạng các công ty vừa hoặc nhỏ do nhà nước kiểm soát.
Điểm khác biệt thậm chí có thể làm chúng ta giật mình: Trước đây, họ
tham nhũng bằng các công ty có quy mô 1 tỷ. Bằng cách góp 50 công ty 1
tỷ đó, họ sẽ có một công ty có quy mô 50 tỷ.
Quan hệ giữa hai nhiệm vụ như thế nào, thực ra không
phải là một câu hỏi khó. Để tham nhũng và lại quả được 1 tỷ, họ sẵn sàng
nhắm mắt bỏ qua mọi quy trình thẩm định một dự án 20 tỷ, bất chấp cái
dự án đó có thể không bao giờ hoàn thành hoặc đó là một dự án để lại một
đống sắt vụn như siêu khách sạn nổi “Hoa Sen” mà ông Bình được cho phép
mua về.
Dù động cơ chính của việc thành lập và quản trị các
tập đoàn kinh tế là thế nào thì điều đó cũng đang đặt ra vấn đề quản trị
hữu hiệu và chống tham nhũng. Ở những chiều kích khác nhau, tham nhũng
do duy trì một mô hình quản trị lỏng lẻo duy ý chí bản chất là sự cạnh
tranh chia chác giữa các nhóm lợi ích. Sự hậu thuẫn của chính sách và
việc gắn liền lợi ích giữa quan chức trong bộ máy chính quyền là nguyên
nhân làm biến dạng tính chất của mối quan hệ xã hội này.
Yêu cầu cụ thể được đặt ra trong cuộc thương lượng
ngầm này là Đảng phải cải thiện các thành tích phát triển, làm tăng mức
sống giúp người dân đủ sức chống chọi lại các biến cố kinh tế. Nhưng
quan trọng hơn, phải có một luật chơi mà chính Đảng phải tham gia với tư
cách là một phần chứ không phải là quản trò hiện tại.
Thách thức thứ tư: cách ứng xử với sức ép quốc tế
Sự xuất hiện đều đặn hơn của người đứng đầu Chính
phủ, Nguyễn Tấn Dũng tại các hội nghị CG (Hội nghị nhóm tư vấn các nhà
tài trợ) hàng năm nói lên điều gì? Vụ án động trời ở đại lộ Đông-Tây mà
hệ quả là con tốt thí Huỳnh Ngọc Sỹ bị trảm; và động thái tiếp theo khi
Chính phủ Nhật Bản tuyên bố cắt viện trợ vô thời hạn đã khiến tâm trạng
của rất nhiều người bị bao phủ bởi nỗi xót xa tiếc nuối. Mặc dù sau đó,
phía Nhật Bản đã tháo gỡ lệnh cắt viện trợ, nhưng các động thái trên đã
cho thấy ở một mức độ nào đó sự phụ thuộc quá đáng của Việt Nam vào các
nguồn vốn vay và viện trợ.
Kịch bản thường thấy nhất trong các sự kiện này chính
là việc đại diện của nước chủ nhà tuyên bố họ cẩn trọng với tất cả các
nguồn vốn vay hoặc viện trợ và coi đó là yếu tố quan trọng cho quá trình
phát triển. Nhưng trên thực tế, đây không phải chỉ là câu chuyện về
việc sử dụng các đồng vốn. Bản thân việc sử dụng các nguồn lực này cũng
đáng quan ngại vì cùng một hệ thống xử lí, nếu như nguồn ngân sách trong
nước bị làm thâm hụt do yếu kém chủ quan của bộ máy hấp thụ thì không
có nghĩa các nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển không bị đối xử như vậy. Đi
kèm với các cam kết tài trợ, đa phần người dân trong nước không đươc
tiếp cận với các ràng buộc, trong đó bao hàm cả các điều kiện về cải
thiện mô hình phát triển, cải thiện môi trường kinh doanh, thậm chí là
cả yêu cầu cải thiện hồ sơ nhân quyền.
Trên thực tế, thông tin về kênh hỗ trợ này chỉ được
tiết lộ ở mức độ tối thiểu. Chính phủ Việt Nam chưa có kế hoạch nào nhằm
công khai các chi tiết liên quan đến việc chi tiêu nguồn lực này, đồng
thời họ từ chối luôn việc thành lập những cơ chế cho phép giám sát và
phản biện. Nói cách khác, đến lúc này, việc nhận về hàng chục tỷ USD từ
các nhà tài trợ và tiêu dùng như thế nào vẫn chỉ là chuyện riêng giữa
Chính phủ và bản thân các nhà tài trợ. Và gần như hội nghị hàng năm là
thời điểm duy nhất họ trao đổi công khai các vấn đề đã được lựa chọn kỹ
càng.
Sử dụng danh nghĩa nhân dân để kêu gọi hỗ trợ quốc tế
cho các vấn đề hạ tầng, kỹ thuật và đào tạo, trong khi không có cơ chế
kiểm soát đa chiều theo chuẩn mực luôn là vấn đề được đặt câu hỏi về độ
trung thực và tính hiệu quả. Điều hoài nghi này trên bề mặt đã làm giảm
đi tính nóng hổi của vấn đề, nhưng thực chất là một thủ thuật nhằm làm
biến dạng tình hình. Nó phản ánh gần như trực diện thái độ và ý đồ của
Chính phủ Việt nam trong cách ứng xử mà sự khác biệt là rất lớn. Một
mặt, trước cộng đồng quốc tế là hình ảnh một Việt Nam nghèo đói và cần
được giúp đỡ để cải thiện nội lực. Mặt khác, đối với nhân dân trong nước
thì lảng tránh mọi câu hỏi cật vấn và cơ chế kiểm soát từ bên trong.
Tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn vay và vốn tài trợ phát triển,
bất chấp việc quy mô của chúng đang lớn lên từng ngày vẫn là một điều
tuyệt mật đối với nhân dân và thậm chí cả các nhà tài trợ khi họ chỉ
nhận được câu trả lời của các thiết chế mà Đảng đã cài đặt và lên chương
trình rất kỹ lưỡng.
Tính từ năm 1992, thời điểm mà sau sự nới lỏng của Mỹ
và cộng đồng quốc tế, World Bank (Ngân hàng thế giới – WB) được phép
vào hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ trợ công cuộc Đổi mới. Hàng tỷ USD đã
được đổ vào các công trình cơ sở hạ tầng và xóa đói giảm nghèo. Tuy
nhiên, vẫn cần phải nói thêm nhiều lần nữa về cơ chế hấp thụ và kiểm
soát mọi dòng vốn trong bối cảnh căn bệnh tham nhũng tràn lan trong cơ
thể chính trị do Đảng kiểm soát. Cảnh báo từ năm 2004 của WB về quá
trình tăng trưởng khiến cho ngày càng có nhiều người ít được hưởng lợi
hơn đến nay vẫn không có cải thiện nào (Vietnam: Development Report
2004: Rapid economic growth won’t be enough to eradicate poverty within
the next few years. If the pro-poor nature of economic growth in Vietnam
over the last decade provides good reasons to be optimistic, there are
also clear signs that development is becoming less inclusive.)
Mẫu ví dụ điển hình cho việc sử dụng nguồn vốn hỗ trợ
phát triển này có thể mô tả như sau: WB tài trợ cho một dự án cơ sở hạ
tầng khoảng 500 triệu USD để làm một con đường dân sinh. Tuy nhiên, dưới
khả năng phù phép của hệ thống, số tiền này, thay vì được đầu tư để làm
một con đường trong một huyện nghèo phục vụ nhu cầu của nhân dân thì
được rót vào đầu tư cho con đường vòng quanh một chiếc hồ ở Hà Nội, nơi
có nhà ở của nhiều quan chức trong bộ máy chính quyền. Thậm chí, con số
cụ thể về số tiền đầu tư một dự án như thế cũng không bao giờ được tiết
lộ. Điều này dường như đã là một chuyện bình thường và không nên đặt lại
vấn đề nữa.
Tựu trung lại, các vấn đề về tham nhũng và khả năng
hấp thụ vốn không được minh bạch không phải là những vấn đề tách biệt.
Nó cho thấy, động cơ lợi ích bị chi phối bởi các cánh hẩu đang khoét sâu
đến mức không thể kiểm soát khoảng cách giàu nghèo trong một quốc gia.
Câu hỏi đặt ra là, sự việc sẽ còn là chuyện nội bộ của Việt Nam trong
bao lâu nữa khi mà hoạt động kinh tế trong nước đang tỏ ra quá yếu kém
và đã dần được nuôi dưỡng bởi cách bình oxy đặt bên cạnh?
Khi chính quyền trung ương ở cấp thượng tầng theo
đuổi chiến lược nuôi dưỡng một bộ phận thân tín gắn liền với lợi ích của
chính họ và bỏ quên một cách chủ ý các nhóm lợi ích yếu thế là một biểu
hiện cho thấy họ đang nuôi dưỡng động cơ xung đột xã hội. Nó cũng cho
thấy một thái độ ứng xử thiếu suy nghĩ một cách chủ quan đối với sức ép
của cộng đồng quốc tế vì sớm hay muộn, cách làm việc thiếu minh bạch đó
sẽ dẫn đến một số hệ quả không mong muốn: Thứ nhất, nó sẽ khiến cho các
nhà tài trợ trở nên hoài nghi và hết kiên nhẫn; Thứ hai, đó là cách thức
không thể tốt hơn để từ chối mọi cơ hội thực sự nghiêm túc để phát
triển nội lực quốc gia. Và thứ ba, hãy hình dung một bối cảnh mà các
điều kiện để có được nguồn vốn từ bên ngoài ngày càng rõ ràng xu hướng
buộc chính quyền do Đảng lãnh đạo phải thay đổi các ưu tiên phát triển;
trong khi lòng kiên nhẫn của nhóm lợi ích bị bỏ quên đang đi đến giới
hạn chịu đựng cuối cùng.
Thách thức thứ năm: Giải Hoa và Phi Hoa
Áp lực từ phía Trung Quốc đối với tiến trình chính
trị của Việt Nam hiện tại là một biến tướng nguy hại trong mối quan hệ
giữa hai nước. Ảnh hưởng của văn hóa và lịch sử của Trung Quốc lên các
quốc gia lân cận hiển nhiên không phải là vấn đề phải bàn cãi. Nhưng
trước hết, Trung Quốc và Việt Nam dù là “hàng xóm liền vách” hay “đồng
chí bốn tốt” thì đây vẫn là hai quốc gia cụ thể, hai đất nước cụ thể có
lộ trình phát triển riêng. Thách thức thứ năm thoạt nhìn có vẻ vẫn là
một ẩn số, nhưng nó không biểu hiện một cách mơ hồ mà phụ thuộc chủ yếu
vào thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong ứng xử với Trung Quốc. Mèo
có thể chơi với chuột, nhưng cuối cùng mèo sẽ ăn thịt chuột, vì đó là
bản năng của nó.
Con đường phát triển của Việt Nam, dù có thể có thêm
nhiều lí giải nữa về các yếu tố “cần” và “phải” làm gì đó, nhưng suy cho
cùng mấu chốt cũng chỉ có một điểm duy nhất: Thoát Trung. Cục diện quan
hệ hiện tại, nhìn từ bên trong, là hệ quả của một quá trình nhầm lẫn
giữa ý thức hệ với quyền lợi quốc gia dân tộc. Nhìn từ bên ngoài, Việt
Nam trên thực tế đang là một quân bài mà Trung Quốc muốn sử dụng triệt
để nhằm hiện thực hóa tham vọng bá quyền của mình. Đây chính xác là một
gọng kìm khiến Việt Nam hầu như đã bỏ lỡ tất cả những cơ hội tuyệt vời
nhất để vươn mình lên trở thành một nhân tố tích cực trong cuộc cạnh
tranh toàn cầu về các giá trị phổ quát.
Thứ nhất, về sự nhầm lẫn giữa ý thức hệ với
quyền lợi quốc gia. Nhầm lẫn tai hại của các thế hệ lãnh đạo cấp thượng
tầng trong Đảng là đã cố tình làm sai lệch vị trí của hai vấn đề này,
thậm chí đã có lúc gộp nó thành một. Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào,
thậm chí cả Mỹ dưới nhiều hình thức, không phải là một kẻ mơ hồ trong
hành động. Là một quốc gia, họ luôn ý thức được lợi ích của đất nước họ
mới là giá trị bất biến. Việc thực hiện một phương thức nào hay lựa chọn
phương thức là cách họ biểu hiện ra bên ngoài trình độ và ý thức cộng
đồng của họ. Điều này thay đổi theo hoàn cảnh chứ tuyệt nhiên không phải
là sự minh chứng cho lòng tốt và cố định.
Năm 1978, khi Trung Quốc thay đổi bằng một cuộc cải
cách, bản thân họ đã ý thức được các nguy cơ khi tiếp tục theo đuổi câu
chuyện viển vông và ngu xuẩn vào cái mà họ gọi là Xã hội Chủ nghĩa.
Trung Quốc từ thời điểm đó đã chính thức trở thành một quốc gia theo
đuổi mô hình kinh tế thị trường tự do dưới cái áo khoác mang tên “Chủ
nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Không phải ngay lập tức, nhưng
những đòi hỏi và sức ép bên trong cũng khiến Việt Nam nhận thức ra vấn
đề. Cuộc Đổi mới khởi sự năm 1986 cho thấy những biến chuyển ở Việt Nam
cũng là một sức ép. Nhưng điều đáng tiếc, trong hành động này, các nhà
lãnh đạo cao nhất đã từ chối chấp nhận thực tế rằng, sức ép đó là giành
cho vận mệnh của dân tộc. Họ chỉ thừa nhận thông qua hành động của mình
rằng, sự thay đổi đó là cần thiết cho việc duy trì vị thế lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Đây là một điểm yếu mà ngay lập tức Trung Quốc đã
nhận ra và khai thác triệt để. Sẽ không phải là thượng sách nếu bộ máy
lãnh đạo của Việt Nam đồng lòng với nhân dân trong nước đang khao khát
thay đổi cục diện. Một mặt, bằng các chiêu thức ngoại giao cao tay,
Trung Quốc vô hiệu dần dần các đồng minh của Việt Nam và kéo hẳn nó vào
lòng mình. Mặt khác, Trung Quốc tạo ra cảm giác họ đang đồng hành với
Việt Nam trong bối cảnh cả hai nước đồng hành trên con đường xây dựng
XHCN. Thực tế đã cho thấy, trong một quốc gia, sự không đồng lòng giữa
lãnh đạo tối cao và nhân dân sẽ khiến cho sức mạnh của họ suy yếu. Duy
trì được sự suy yếu đó, nghĩa là khoét sâu được mâu thuẫn giữa thượng
tầng và hạ tầng sẽ tạo ra được một nước Việt Nam tồn tại ở dạng “đầu
Ngô, mình Sở” và dễ dàng thao túng. Chỉ cần can thiệp được vào nội tình
Việt Nam và khống chế được bộ máy cai trị, sự đối nghịch nội bộ sẽ khiến
Việt Nam luôn ở trong tình thế bị nội thương và luôn èo uột. Thắng được
nước cờ này, Trung Quốc đã yên tâm hơn để thi triển những ngón đòn khác
trong một tình thế mà Việt Nam không còn khả năng kháng cự.
Thứ hai, Việt Nam như là một quân tốt trên
bàn cờ Trung Quốc đang đấu lại với phần còn lại của thế giới. Sự phát
triển bất chấp các quy luật và bài học về đạo đức của Trung Quốc đã biến
nó thành mối lo ngại của thế giới. Khó có thể nói nhân dân Việt Nam,
thậm chí cả một số nhà lãnh đạo cao nhất trong Đảng lại không nhận ra
mối lo ngại này (lập trường của VN trong cuộc họp thượng đỉnh ASEAN vừa
mới đây mách với ta điều đó). Làn sóng phản đối Trung Quốc lẽ ra đã biến
thành một cơn sóng thần đủ sức làm thay đổi nhiều thứ liên quan đến vận
mệnh đất nước nếu như nó không bị ngăn chặn sau khi đã diễn ra trong
suốt 11 tuần liền ở Hà Nội và một phần thành phố Hồ Chí Minh.
Như đã nói, sự bành trướng của chủ nghĩa bá quyền đã
làm thay đổi quan điểm của nhiều quốc gia trong mối quan hệ với Trung
Quốc, đặc biệt là các nước láng giềng. Nói cách khác, thậm chí những
tham vọng không biết điều của nước này đã biến nó thành kẻ thù hoặc ít
nhất là một mối nguy hiểm thường trực của đa số các nước láng giềng.
trên thực tế, trong khoảng 10 năm tính đến 2012, cả Ấn Độ, Nhật Bản,
Mông Cổ, Nga, Nhật Bản đã có những động thái nhìn nhận gã khổng lồ đang
trỗi dậy bằng con mắt nghiêm khắc và đầy quan ngại. Việt Nam, trong tình
huống đã từ bỏ khả năng phản xạ đó, trở thành hướng đi khả dĩ nhất cho
con đường bành trướng quyền lực xuống phía Nam, ra Thái Bình Dương qua
hướng biển Đông. Đây chính là nguyên nhân quan trọng nhất buộc Trung
Quốc phải khắc chế để Việt Nam không trở thành một chướng ngại vật. Điều
đó cũng là một sự khẳng định về việc Trung Quốc sẽ cảm thấy bất an như
thế nào nếu Việt Nam thực sự là một quốc gia giàu mạnh và có tiếng nói
trung lập.
Như vậy, thách thức thứ năm, cũng là thách thức lớn
nhất của Đảng cộng sản Việt Nam chính là việc nó có thực sự mong muốn
thoát ra khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc hay không. Giải Hoa, Phi Hoa,
trong đa số trường hợp được sử dụng như một ngữ nghĩa học thuật. Nhưng
trong bối cảnh này, nó là giải pháp ứng xử chính trị có tính quyết định
đến việc khẳng định lý do tồn tại của Đảng trong lòng xã hội Việt Nam.
Suy cho cùng, các biện pháp tuyên truyền hay hào quang trong quá khứ
không thể mãi là thành trì và cũng không đủ vững vàng đảm bảo cho một vị
trí lãnh đạo của Đảng nữa. Sự tồn tại của nó trong tương quan với quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc tuyệt nhiên cũng không phải là yếu tố có tính
quyết định mà bản thân Đảng phải nhận thức. Đảng Cộng Sản Việt Nam phải
chính danh trong chính đất nước mà nó được sinh ra và tự nhận là đại
diện. Mất tính chính danh đi là mất tất cả.
Kết luận: Vẫn chưa quá muộn để thay đổi.
Sự tồn tại của quốc gia Việt Nam, từ thưở khai quốc,
tuyệt nhiên không phụ thuộc vào một triều đại, một hệ tư tưởng lãnh đạo,
hoặc một đảng phái nào. Không có một triều đại, không có một hệ tư
tưởng lãnh đạo hoặc một đảng phái nào là sự bảo đảm duy nhất cho tiến
trình đó. Chỉ có ở trong bản chất một nền văn hóa nuôi dưỡng lòng yêu
nước chân chính, một chủ nghĩa dân tộc bản lĩnh và khao khát theo đuổi
lợi ích dân tộc là những yếu tố không thể bị đánh cắp hoặc tráo đổi.
Đã đến lúc từ bỏ tất cả những gì không phù hợp cho hệ
quy chiếu này để tham gia vào cuộc chạy đua cùng nhân loại. Đã đến lúc
từ bỏ, ngay cả khi đó từng là một ý thức hệ thiêng liêng và nhìn lại
nguyên nhân của mọi yếu kém, xấu xa hiện tại để đặt ra những vấn đề có
tính hiện thực và chân giá trị hơn. Hãy thực sự nghiêm túc với nhau, với
chính mình để trả lời cùng nhau những câu hỏi mà việc giải đáp nó bằng
sự quyết tâm đích thực sẽ giúp tìm ra được bí quyết đưa đất nước đi lên:
Còn bao nhiêu trẻ em chưa thực sự được đến trường, chưa được chăm sóc
bằng tình thương yêu và sự nghiêm khắc của đạo đức và tinh thần nhân
văn? Còn bao nhiêu người dân trong nước chưa được tiếp cận thông tin từ
thế giới, được học tập để có tay nghề, được hưởng một cuộc sống tinh
thần thoải mái, thanh thản, được tôn trọng các quyền cơ bản và không sợ
bị bỏ tù khi bày tỏ chính kiến. Và họ, với tư cách là chủ nhân đất nước
và khai sinh của quyền lực quốc gia đã hoặc có được tham gia quyết định
các vấn đề liên quan đến sinh mệnh của dân tộc hay chưa? Và sau hết, xin
hãy tự hỏi liệu đất nước mình đã có những bước tiến như thế nào so với
chính mình và các nước khác về lòng nhân ái, tình yêu thương và sự tin
cậy của người dân các quốc gia khác trên hành tinh này?
H.A.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Sự mất tích kỳ lạ của một nhà tỉ phú thân cận Bạc Hy Lai
Tỉ phú Từ Minh, chủ tịch tập đoàn Shide, Trung Quốc. DR
Minh Anh
-
Tập truyện nhiều kỳ « Bạc Hy Lai » vẫn
chưa đến hồi kết thúc. Một tình tiết vừa mới xuất hiện, tiếp tục gây xôn
xao cộng đồng mạng tại Trung Quốc, bất chấp mọi nỗ lực kiểm duyệt gắt
gao của chính phủ trên trang mạng xã hội Vi Bác, một kiểu Twitter Trung
Quốc trong thời gian gần đây. Đề tài này được thông tín viên của báo
Figaro tại Bắc Kinh, Arnaud De La Grange đề cập đến qua hàng tựa « Sự mất tích kỳ lạ của một nhà tỷ phú, thân cận với Bạc Hy Lai ».
Tại Diễn đàn Bác Ngao – một diễn đàn kinh tế chính trị Trung Quốc
thường niên, năm nay được tổ chức tại Hải Nam (Hainan), Trung Quốc, mọi
người đều chú ý đến một chiếc ghế bị bỏ trống. Đây chính là chỗ ngồi của
ông Từ Minh, một nhà tỉ phú thuộc vùng Đại Liên, thành phố nằm ở phía
Bắc Trung Quốc. Ông Từ Minh vừa là nhà sáng lập và vừa là chủ tập đoàn
hóa chất Shide.
Theo nguồn tin trích dẫn trên trên mạng của tạp chí Kinh tế và Đất nước
hàng tuần (Economy and Nation Weekly) – một tạp chí trực thuộc Tân Hoa
Xã – cho biết là ông trùm tư bản 41 tuổi này có lẽ đã bị bắt giữ trong
khuôn khổ một cuộc điều tra của Ủy ban phụ trách chống tham nhũng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, cho đến giờ không một xác nhận
chính thức nào được đưa ra, nhưng đấy cũng thường là quy định trong một
thời hạn nào đó.
Theo tác giả, cũng không ai dám khẳng định rằng vụ án bí ẩn này có liên quan đến vụ ông Bạc Hy Lai.
Những gì mà báo chí trong nước biết được chỉ là tập đoàn đã mất liên
lạc với ông chủ của mình từ ngày 14/03 rồi, trước ngày ông Bạc Hy Lai bị
cách chức. Và hiện tại, tập đoàn tạm thời sẽ do người em của ông chủ
tịch điều hành.
Nhất là, ai cũng biết rằng ông Từ Minh phất lên ở Đại Liên khi ông
Bạc Hy Lai còn là Thị trưởng của thành phố. Tài sản của ông, theo đánh
giá của Forbes trị giá gần 700 triệu đô-la. Chính ông là người đỡ đầu
cho câu lạc bộ bóng đá của địa phương.
Còn theo báo chí Hồng Kông, Bạc Hy Lai và nhà doanh nghiệp này từng
là bạn với nhau. Thậm chí, báo chí Hồng Kông còn đi xa hơn khi đưa ra
giả thuyết rằng ông Từ Minh có lẽ đã tài trợ học phí cho Bạc Qua Qua –
con trai của ông Bạc Hy Lai ở hai trường đại học danh tiếng Oxford và
Havard tại vương quốc Anh.
Tác giả cho biết, nhiều cuộc điều tra đã được tiến hành từ hai tuần
nay. Dĩ nhiên là vẫn luôn trong vòng bí mật. Không những chỉ ở Trùng
Khánh mà cả « những năm ở Đại Liên ». Chính địa bàn này đã đóng vai trò
làm bàn đạp chính trị cho Bạc Hy Lai. Và có lẽ cũng chính tại đây ông ta
đã gặp gỡ và quen biết Neil Heywood, một công dân Anh bị phát hiện chết
trong phòng khách sạn của mình tại Trùng Khánh. Một cái chết đáng ngờ.
Chính phủ Anh vừa qua đã yêu cầu Trung Quốc phải đưa ra ánh sáng vụ
việc.
Giới báo chí trong nước đều đưa ra giả thuyết là ông Neil Heywood đã
bị đầu độc. Rằng ông này có tranh chấp tài chính với bà Cốc Khai Lai, vợ
của Bạc Hy Lai. Rằng sau khi báo cho Bạc Hy Lai biết là có một điều tra
đang được mở ra về vụ việc mà viên « siêu công an » là Vương Lập Quân
cảm thấy bị đe dọa và đã chạy trốn đến lãnh sự quán Mỹ tại Thành Đô với ý
định xin « tị nạn ».
Câu chuyện còn thêm phần lý thú khi báo chí tiết lộ cho biết Neil
Heywood đã từng làm việc thường xuyên cho một công ty gián điệp kinh tế
của Anh quốc Hakluyt & Co. Tập đoàn này chiêu mộ nhiều cựu gián điệp
của Hoàng gia Anh.
Cuối cùng tác giả cho biết bất chấp mọi nỗ lực của Bắc Kinh nhằm khóa
mõm « các tin đồn », như trong ba ngày qua với việc khóa trang mạng Vi
Bác, một Twitter của Trung Quốc, bộ phim nhiều tập Bạc Hy Lai vẫn không
ngừng nuôi dưỡng câu chuyện dài hơi này.
Liên Hiệp Quốc được mời thẩm tra trại cải tạo
Cũng liên quan đến thời sự Đông Á, tờ Libération nhìn sang Bắc Triều Tiên với bài viết đề tựa « Liên Hiệp Quốc dò xét đến trại cải tạo». Trong
lúc Bắc Triều Tiên chuẩn bị cho mừng sinh nhật lần thứ 100 cố lãnh đạo
Kim Nhật Thành, thì hôm qua Liên Hiệp Quốc vừa cho công bố hai bản báo
cáo điều tra cho biết rõ sự thật về trại cải tạo của triều đại nhà Kim.
Bản báo cáo kêu gọi Liên Hiệp Quốc phải có hành động khẩn cấp.
Theo Libération, dưới sự ủng hộ của 40 tổ chức phi chính phủ thuộc
nhóm « Liên minh thế giới nhằm chấm dứt các tội ác chống nhân loại tại
Bắc Triều Tiên » (ICNK), bản báo cáo thứ nhất nêu rõ tình trạng của các
tù nhân chính trị tại Bắc Triều Tiên. Báo cáo yêu cầu Liên Hiệp Quốc
phải tiến hành các thủ tục đặc biệt để mở các cuộc điều tra khẩn cấp về
các trại cải tạo tại quốc gia này. Báo Libération cho biết, Liên Hiệp
Quốc đã từng sử dụng hệ thống này để có thể có được các thông tin bằng
mọi giá về các tù nhân bị Hoa Kỳ giam giữ tại trại tù Guantanamo.
Còn bản báo cáo thứ hai nêu rõ chi tiết tình hình người thân của hai
người tị nạn Bắc Triều Tiên Kang Cheol Hwan và Shin Dong Hyuk, sống sót
từ các trại tập trung cải tạo.
Tại Bắc Triều Tiên, các trại tập trung cải tạo còn được biết đến dưới
tên Kwanliso, bao gồm có 6 trại và hiện đang giam giữ khoảng từ 150
ngàn và 200 ngàn người.
Theo Libération, tại các trại giam này (trực thuộc Cơ quan an ninh
quốc gia), các tù nhân hằng ngày phải chịu tra tấn, hành quyết và lao
động khổ sai. Tại đây, trẻ em cũng như người lớn, cũng thường xuyên phải
đối mặt với giá rét, những lời tố giác và đói khát. Khẩu phần thiếu đến
mức mà theo ghi nhận của một cựu quản giáo thuộc trại 22, hàng năm có
khoảng 1.500 và 2.000 tù nhân chết vì đói.
ICNK ước tính khoảng 400 ngàn tù nhân đã chết trong các trại cải tạo
này kể từ khi được thành lập vào năm 1953. Theo nội dung bản báo cáo,
thì những ai có « hành vi xấu », « tư tưởng xấu », « giao du với kẻ xấu »
hay có tín ngưỡng tôn giáo và là gia đình của những kẻ đào tẩu đều là
nạn nhân của các trại cải tạo. Thậm chí, Bình Nhưỡng đã sáng chế ra một
tội danh « tội có quan hệ với kẻ xấu ». Đó chính là học thuyết của Kim
Nhật Thành đưa ra vào năm 1972 : « Mầm mống của kẻ thù giai cấp, dù là
bất kỳ ai, đều bị tru di tam tộc ». Một lời dạy mà Kim Jong Un, cháu của
Kim Nhật Thành, vừa lên nắm quyền vào tháng 12 năm rồi sẽ phải luôn
tuân theo.
Miến Điện : Từ khu « ổ chuột » thành « thiên đường »
Trong khi đó, tại Đông Nam Á, đât nước Miến Điện như đang chuyển
mình. Từ một « khu ổ chuột »(ghetto) nay sắp thành « thiên đường » chính
là lời nhận xét của báo Le Monde số ra hôm nay.
Sylvie Kauffmann, tác giả bài viết nhận định : « Bị tách biệt khỏi
thế giới kể từ khi, cách đây 50 năm nay, khi tướng Ne Win quyết định
hướng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa và và làm sụp đổ nền kinh
tế đất nước giàu có nhất của khu vực, cuối cùng Miến Điện cũng thoát
được ra khỏi khu ổ chuột ».
Theo tác giả, Miến Điện đang sở hữu trong tay nhiều con chủ bài để có
thể trở thành « thiên đường mới của châu Á ». Sở hữu nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên như khí đốt, dầu hỏa, đất hiếm và đá quý, vị trí địa
lý thuận lợi, nằm gần các nước có nền kinh tế năng động nhất thế giới
như Trung Quốc, Ấn Độ. Ngoài ra, Miến Điện còn có dân số khá đông (60
triệu người) và lượng nhân công trẻ tuổi, trong đó một bộ phận khá đông
dùng tiếng Anh.
Trong một nghiên cứu kéo dài hai tuần tại Miến Điện, Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF), đã đánh giá rằng « đất nước có sức tăng trưởng tiềm tàng rất
mạnh ».
Bài viết cho rằng đó là nhờ vào sự thúc đẩy cải cách chính trị và
kinh tế bất ngờ của Tổng thống Thein Sein, một cựu tướng lãnh, nguyên là
Thủ tướng dưới thời Tổng thống Than Shwe. Thêm vào đó là hiện tượng thủ
lĩnh phe đối lập, giải Nobel Hòa bình Aung San Suu Kyi lần đầu tiên đắc
cử trong đợt bầu cử bổ sung sau gần 20 năm quản thúc tại gia. Và mới
hôm qua đây, chính phủ Naypyidaw còn tuyên bố cho thả nổi có kiểm soát
đồng kyat.
Biện pháp này là một trong ba chương trình cải cách không thể nào
thiếu được nếu như Miến Điện muốn thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện tại,
chính phủ còn đang mò mẫm nghiên cứu cho hai chương trình cải cách khác :
trao đổi mậu dịch và hệ thống ngân hàng. Theo nhận xét của một nhà
ngoại giao châu Âu thì « người Miến Điện rất nghiêm túc trong ý định,
thực tâm và gắn bó chặt chẽ trong chương trình cải cách của mình».
Một chiếc bánh mà ai cũng thèm muốn. Bởi vì, theo tác giả, tất cả mọi
thứ ở đây đều cần phải xây dựng. Từ giao thông, ngân hàng cho đến viễn
thông. Trong khi đó, thời gian như cấp bách. Các doanh nhân cảm thấy
nóng ruột. Và phương Tây còn phải chờ đợi việc dỡ bỏ lệnh trừng phạt.
Theo tác giả, bà Aung San Suu Kyi đắc cử có thể tạo thuận lợi nhưng
cũng đừng nên hy vọng là trước cuối tháng Tư. Tuy nhiên, tác giả nhận
thấy rằng các nước châu Á đã có mặt ở đó từ rất lâu rồi. Một nhà ngoại
giao châu Âu mô tả quang cảnh như sau : « Người Nhật đang nóng ruột, họ
sẵn sàng xóa nợ trong 3 tuần. Trung Quốc và Thái Lan, những kẻ cướp lịch
sử, có truyền thống lâu đời chuyên khai thác tài nguyên khoáng sản và
bóc lột nhân công Miến Điện. Singapore lượm nhặt tiền của các nhà quân
sự và muốn giữ một vai trò trong nền tài chính Miến Điện ; đồng thời họ
cũng dòm ngó đến việc phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển và kho bãi. Còn
người Anh (cựu thuộc địa), họ vờ như không có mặt nhưng thật ra là họ
đã ở đấy rồi ».
Nhưng tác giả cũng lưu ý đến một điểm là trong tương lai Miến Điện
cũng sẽ là nơi diễn ra cặp đấu Mỹ – Trung. Bởi lẽ, Trung Quốc không thể
nào bỏ qua lãnh vực khai thác dầu khí hiện do hai tập đoàn lớn Total
(Pháp) và Chevron (Mỹ) đang thống lĩnh tại Miến Điện.
Châu Á vô địch về các thỏa thuận tự do mậu dịch
Cũng tại Đông Nam Á, nhưng trong lãnh vực kinh tế, báo Le Figaro chú ý
đến Hội nghị thượng đỉnh Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), đang
diễn ra tại Phnom Penh, Cam Bôt. Với bài viết đề tựa « Châu Á vô địch các thỏa thuận trao đổi tự do mậu dịch », tờ báo cho biết các nước thuộc khối ASEAN muốn nhân đôi quỹ dự trữ lên đến 240 tỷ đô-la.
Nhân hội nghị thượng đỉnh lần thứ 20 này, mười nước thành viên trong
hiệp hội yêu cầu phải tăng đôi thỏa thuận trao đổi ngoại tệ, được biết
dưới tên « Lộ trình Chiêng Mai ». Theo đó, mức dự trữ ngoại tệ phải tăng
từ 120 lên 240 tỉ đô-la.
Các nước thành viên muốn giảm bớt sự lệ thuộc vào phương Tây và nhất
là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Đồng thời, các quốc gia này cũng có ý định
tăng cường hội nhập kinh tế.
Trong khi đó, Trung Quốc ngoài việc đã đạt được thỏa thuận tự do mậu
dịch với ASEAN, hiện đang trên bàn đàm phán với Hàn Quốc và đang đề nghị
một thỏa thuận tương tự với Nhật Bản. Nếu các thỏa thuận này thành
công, sẽ mở ra một thị trường lớn đến 2,1 tỷ người tiêu thụ, đại diện
cho gần 1/4 tổng sản phẩm nội địa toàn cầu.
Nhìn chung, các nước Đông Á và Đông Nam Á đã là những quốc gia có mức
tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Vì vậy, càng tăng cường các mối
quan hệ, các quốc gia này càng tăng cường các trao đổi mậu dịch. Theo
tính toán của Ngân hàng Thế giới, thương mại giữa Trung Quốc, ASEAN, Hàn
Quốc và Nhật Bản đã nhảy vọt đến 35% trong giai đoạn giữa năm 2006 và
năm 2008, đạt 1.250 tỷ đô-la.
Ngoài Trung Quốc, ASEAN còn ký các thỏa thuận thương mại với Hàn
Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Bên cạnh đó, chính mỗi bản thân các quốc gia
cũng có những ký kết song phương của riêng mình. Chẳng hạn như : Hàn
Quốc với Ấn Độ, Singapour với Úc và New Zealand. Bản thân New Zealand
cũng có các ký kết với Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Mỗi lần ký kết là mỗi lần vòng thương mại lại lớn dần ra. Mỗi lần như vậy, nhiều rào cản lại được dỡ bỏ.
Bài viết nhận xét rằng, mỗi một lần ký kết thì các quốc gia này lại
nhấn chìm sâu hơn vòng đàm phán Doha. Sự gia tăng ký kết các thỏa thuận
này đã lộ rõ tất cả các điểm yếu của vòng đàm phán chung về thương mại
toàn cầu.
Nếu như Trung Quốc một mặt ngày càng giảm vai trò nhà xưởng của thế
giới, thì mặt khác họ lại thể hiện như là một nhà tiêu thụ. Trong khi xu
hướng nhập khẩu các linh kiện rời không ngừng tụt giảm thì nhu cầu tiêu
thụ của quốc gia này lại liên tục tăng lên. Sự tiến triển này củng cố
thêm vai trò đầu tàu tăng trưởng châu Á và cho phép Bắc Kinh trở thành
quốc gia có thể ứng cứu những người láng giềng của mình thoát khỏi cuộc
khủng hoảng tài chính của Mỹ và Châu Âu.
Tuy nhiên, bài viết cũng cảnh báo rằng « tự do trao đổi mậu dịch »
cũng không hẳn là viên thần dược, có khả năng trị bách bệnh. Bởi vì, do
các quốc gia này chỉ dựa trên một sự cân đối quá mong manh đến nỗi mà họ
phải tính đến mức độ phát triển của quốc gia này với quốc gia khác. Ví
dụ, thu nhập bình quân đầu người tại Trung Quốc chỉ vừa bằng 20% so với
thu nhập đầu người tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Khoảng cách và giao thông
hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng. Đối với Trung Quốc, giao dịch
thương mại với Nhật Bản và Hàn Quốc còn dễ dàng hơn với Indonesia hay là
Úc.
Dù vậy, mỗi một thỏa thuận mới đạt được tại châu Á lại là một đối
trọng tuyệt vời giúp củng cố thêm quyền lực kinh tế và chính trị trước
phần còn lại của thế giới. Nhận thức được điều này, Trung Quốc đã không
ngừng chỉ trích điểm yếu của châu Âu và Mỹ. Bắc Kinh cũng như là các
nước láng giềng cũng không muốn lệ thuộc nhiều vào phương Tây. Và vì,
ngày nay, châu Âu là thị trường chính của Trung Quốc. Do đó, khi xích
lại gần hơn các nước Đông Nam Á, Hàn Quốc và Nhật Bản, Trung Quốc cảm
thấy được an toàn.
Cuối cùng, bài viết cũng cho rằng, Bắc Kinh muốn đi nhanh hơn nữa là
vì họ thấy có cách để hất cẳng Mỹ, vốn đang định thành lập một « Đối tác
xuyên Thái Bình Dương » quy tụ 9 nước trong đó có Việt Nam. Sắp đến sẽ
có thêm Nhật Bản, Mêhico và Canada. Một tổ chức mà Trung Quốc nhìn với
con mắt rất khó chịu.
Nhân viên phục vụ nhà hàng được ‘tip’ $12,000
Moorehead
-
Một phụ nữ làm nghề phục vụ nhà hàng ở
Minnesota cho hay bà được khách hàng cho tiền “tip” $12,000. Tuy nhiên,
cảnh sát nói đây là tiền buôn bán ma túy, là tiền bất hợp pháp, nên giữ
lại tất cả.
Bà Stacy Knutson nộp đơn kiện lên tòa án
Clay County, khai rằng một khách hàng để lại một hộp nhỏ trên bàn trước
khi rời khỏi tiệm ăn Fryn’ Pan ở Moorehead. Trong đơn kiện, bà Knutson
nói bà mang cái hộp chạy theo ra xe của khách hàng, nhưng người khách
nói bà cứ giữ lấy cái hộp. Sau đó, bà Knutson mới biết trong hộp chứa
toàn tiền mặt.
|
Một nữ nhân viên nhà hàng được cho “tip” $12,000 nhưng bị cảnh
sát tịch thu vì tiền có mùi ma túy. (Hình minh họa: Justin
Sullivan/Getty Images) |
Bà Knutson là người mẹ có năm con và thật sự đang cần có tiền. Bà khai rằng bà báo cho cảnh sát hay về số tiền.
Cảnh sát nói bà phải đợi 90 ngày để xem
có ai đến nhận số tiền ấy không. Sau đó, cảnh sát nói trên tiền có mùi
cần sa nên cần phải giữ để điều tra.
Luật Sư Craig Richie, đại diện cho người
phụ nữ, nói: “Ðiều đáng buồn là khi người ta đang thật sự cần đến món
quà đó thì cảnh sát lại xen vào lấy đi mất.”
Theo:
Nguoi Viet
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: Sử dụng sai hàng chục ngàn tỉ đồng
Nghĩa Nhân
-
(TTHN) – Hôm nay báo chí nhà nước đồng
loạt đấu tố đồng chí Đinh “tặc”, điều đó có lẽ là đồng chí sắp ra đi
(!?) . Đúng là Ếch chết tại miệng quả không ngoa!
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)
phải rà soát việc đầu tư ra ngoài ngành và đầu tư tại các công ty liên
kết; đánh giá hiệu quả đầu tư và số liệu các đơn vị thua lỗ; lên lộ
trình thoái vốn hợp lý các khoản đầu tư ngoài ngành, tránh thiệt hại,
lãng phí.
PVN cũng phải kiểm tra, đánh giá hiệu quả các gói
thầu chỉ định sai, đồng thời kiểm điểm với tập thể, cá nhân liên quan
đến các khuyết điểm, sai phạm đã được Thanh tra Chính phủ nêu… Thủ tướng
vừa có ý kiến chỉ đạo như vậy về xử lý sau thanh tra tại PVN.
Ứng vốn, sử dụng quỹ không đúng
Trước đó, Thanh tra Chính phủ đã có kết luận về quản
lý, sử dụng vốn và tài sản tại PVN (tập đoàn kinh tế nhà nước lớn nhất,
đang nắm giữ khối tài sản, tài nguyên khổng lồ của đất nước) có nhiều
sai phạm.
Cụ thể, PVN sử dụng sai quỹ đầu tư phát triển, chi
vào những dự án không đúng mục đích sử dụng quỹ như chi 352 tỉ đồng làm
đường từ TP Cà Mau đến KCN khí – điện – đạm Cà Mau, đến nay chưa đòi lại
được. PVN còn tùy tiện sử dụng hơn 60 tỉ đồng để xây dựng đường giao
thông xã và trường mẫu giáo ở Vũng Tàu. Các khoản chi này trái với quy
chế quản lý tài chính công ty mẹ PVN do Chính phủ ban hành.
Tương tự, các quỹ khác do PVN quản lý như quỹ nghiên
cứu khoa học và đào tạo, quỹ tìm kiếm thăm dò dầu khí, quỹ bảo đảm nghĩa
vụ tài chính cũng bị sử dụng sai mục đích, tạm ứng đã lâu chưa quyết
toán, hoặc để nhà thầu chây ì không chịu nộp quỹ mà chưa có giải pháp xử
lý.
Thanh tra Chính phủ còn nêu: Khoản tiền lãi dầu khí
mà PVN được giữ lại đến năm 2010 là hơn 34.800 tỉ đồng đã bị PVN sử dụng
sai đến hơn 15.600 tỉ đồng vào một số hoạt động tài chính. Số tiền này
được Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải – Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước các dự
án trọng điểm về dầu khí kết luận là “chi không thuộc dự án trọng điểm
dầu khí” như quy định.
Theo Thanh tra Chính phủ, PVN đã chi những khoản tiền không thuộc dự án trọng điểm dầu khí như quy định.Trong ảnh: Khai thác dầu khí tại giàn khoan mỏ Bạch Hổ. Ảnh: CTV
Đáng chú ý, PVN đã ứng vốn xây dựng các công trình
ngoài hàng rào Nhà máy lọc dầu Dung Quất và một số công trình tại các
địa phương khác theo chỉ đạo của Chính phủ với số tiền hơn 1.647 tỉ đồng
trong nhiều năm nhưng đến nay các đơn vị được ứng vốn không có kế hoạch
trả nợ hoặc không có khả năng thanh toán.
PVN cũng tự ý ứng vốn cho một số địa phương như Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Sóc Trăng, Hậu Giang với giá trị trên 620 tỉ đồng để
các địa phương thực hiện công tác giải phóng mặt bằng khi chưa có chỉ
đạo của Thủ tướng.
Đầu tư ngoài ngành gần 5.600 tỉ đồng
Thanh tra còn kết luận: Các khoản đầu tư của PVN vào
ngành, lĩnh vực phụ trợ, đầu tư vào bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng có
hiệu quả lợi nhuận rất thấp. Trong khi đầu tư vào ngành chính là dầu
khí, tìm kiếm, thăm dò có tỉ suất lợi nhuận gần 29% thì với các công ty
liên kết PVN bỏ vốn, lợi nhuận bình quân năm năm chỉ đạt 3,4%; đầu tư
dài hạn đạt 6,53%; đầu tư vào bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng chỉ đạt
lợi nhuận 2,82%. Riêng lĩnh vực bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng, tài
chính, PVN đã đầu tư gần 5.600 tỉ đồng.
Ngoài các sai phạm về quản lý, sử dụng vốn nói trên,
Thanh tra Chính phủ còn chỉ ra nhiều vụ việc sai phạm khác ở PVN như bán
căn biệt thự 69 Nguyễn Du (Hà Nội) thu 96 tỉ đồng. Căn biệt thự Thủ
tướng cho phép bán chỉ định cho PVN làm trụ sở làm việc. Sau đó, UBND TP
Hà Nội có quyết định giao đất, nói rõ là PVN không được chuyển nhượng
hoặc chuyển mục đích sử dụng nếu không được phép của địa phương. Thế
nhưng chỉ một năm sau đó, PVN đã bán. Hiện Công an Hà Nội đang điều tra,
xác minh vụ này.
Ngoài ra, PVN chỉ định thầu hai gói với giá trị hơn
32 tỉ đồng, các đơn vị thành viên chỉ định thầu bốn gói với giá trị hơn
743 tỉ đồng, hơn 110 triệu USD, 0,6 triệu euro chưa đúng với với quy
định của Thủ tướng về chỉ định thầu cung cấp dịch vụ cho các dự án của
tập đoàn.
Thanh tra Chính phủ kết luận PVN phải chịu trách nhiệm chính về các sai phạm trên.
Khiếu kiện nhiều do xử lý đơn thư chưa tốt
Tại cuộc họp báo ngày 5-4, Tổng Thanh tra Chính phủ
Huỳnh Phong Tranh cho biết tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân
những tháng đầu năm có diễn biến phức tạp: Nửa cuối tháng 2 đến cuối
tháng 3-2012 tăng về số lượt người, số đoàn đông người và tính chất, mức
độ gay gắt hơn.
Nguyên nhân một phần do hiệu ứng từ vụ cưỡng chế thu
hồi đất trái luật ở Tiên Lãng nhưng lý do chính (rút ra từ ba hội nghị
về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo do Thanh tra Chính phủ tổ chức
ba miền) là công tác tiếp dân, xử lý đơn thư ở nhiều nơi chưa tốt. Có
nơi còn né tránh, đùn đẩy giải quyết đơn, khiến người dân bức xúc, đến
mức cơ quan nhà nước kết luận giải quyết rồi cũng không tin, không đồng
tình… Một số nguyên nhân khác là yếu kém lâu nay của công tác quản lý
đất đai, thu hồi, đền bù, giải phóng mặt bằng… chưa được khắc phục. Ý
thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế; kẻ xấu lôi kéo, kích
động khiếu kiện đông người, phức tạp… Ông Tranh nhận định.
Với tình trạng khiếu kiện đông người gia tăng, trước
mắt Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp Bộ Công an vận động, thuyết
phục để người khiếu kiện trở về. Thanh tra Chính phủ cũng lập các tổ
công tác phối hợp với các địa phương kiểm tra, rà soát các vụ việc khiếu
kiện đông người, bức xúc, kéo dài.
Điếu Cày – nghĩa khí lòng ta say!
Vũ Đông Hà
-
“Các bạn không nên buồn vì thân
phận mình trong hoàn cảnh này. Mà phải coi đó như một cơ hội để được tác
động vào sự mang lại công bằng và ấm no cho dân tộc mình. Đây là một
dịp may hiếm có đừng bỏ qua!!!”
Đó là câu nói của Aung San Suu Kyi –
người đàn bà không biết sợ, biểu tượng của sự can đảm, lòng nhân ái và
tính kiên cường của đất nước Miến Điện. Tại Việt Nam, người anh đầu đàn
của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, người bạn của anh em chúng ta, dù
với bản án của chế độ áp đặt lên anh, cũng đã đang tác động vào con
đường tranh đấu cho công bằng và ấm no cho dân tộc Việt.
Còn nhớ ngày anh bươn chải khắp các nẻo
đường, trên vai chỉ có một túi xách và hai bộ đồ, khi hỏi rằng: “Anh có
bao giờ thấy sợ không??”.
Anh cười nụ cười hiền nhưng ánh mắt lại
có lửa: “Lo thì có lo, nhưng anh không sợ! Anh lo vì nếu có chuyện gì
anh không còn có cơ hội đóng góp được cho đất nước. Anh lo vì sẽ không
thể đồng hành, lo lắng cho những người bạn, người em đang cưu mang cùng
nỗi thao thức chung với anh. Nhưng không thể sợ. Tình trạng đất nước của
chúng ta không cho phép chúng ta tiếp tục sống trong sợ hãi.”
Nỗi lo của anh đã trở thành hiện thực
sau chuyến đi Đà Lạt. Bằng sự xảo quyệt và nỗi sợ hãi trước lòng yêu
nước của anh, những người đứng trên đầu luật pháp đã nhốt anh vào giữa
bốn bức tường. Nhưng anh đã không buồn cho thân phận tù đày. Ngay cả
những người tù của giới giang hồ cũng đã dành cho anh niềm kính phục.
Lần cuối nghe tin anh, biết trên môi
anh vẫn luôn nở nụ cười hiền nhưng kiêu hãnh. Từ trong bốn bức tường do
đảng dựng lên để bỏ tù lòng yêu nước, anh vẫn gửi đến anh em, bạn bè
niềm tin mãnh liệt bằng chính thái độ kiên cường không thay đổi lập
trường của người yêu nước, không nhượng bộ trước mọi gian trá, không ký
vào bất kỳ văn bản ép buộc nào.
Trong tù ngục, anh vẫn nắm trong tay cơ
hội tác động vào con đường mang lại công bằng và ấm no cho dân tộc. Hơn
thế nữa, cũng từ ngục tù, ít nhiều với tinh thần kiên cường của mình,
anh đã khiến bạn bè anh, những người em của anh có thêm lòng can đảm và ý
chí tiến bước trên con đường chung. Món quà mà anh đã gửi đến cho những
người đang ở ngoài tù nhỏ đó chính là: lòng can đảm.
“Anh chính là người đã và đang tạo
cơ hội, tác động vào niềm tin và hy vọng cho sự công bằng và ấm no cho
dân tộc mình. Có được một người bạn đồng hành như anh là một dịp may
hiếm có trong cuộc đời này.”
Rất ngạc nhiên
Nguyễn Quang Vinh
-
Ngạc nhiên 1:
Đó là thông cáo Báo chí của Hải Phòng về
việc xử lý vụ Tiên Lãng theo kết luận của Thủ tướng. Biết là thông cáo
báo chí thì chỉ nêu kết quả, không như báo cáo với Thủ tướng về xử lý vụ
việc, nhưng điều lạ là trong phần về Đoàn Văn Vươn, bàn tay chế biến ra
cái sai, cố nói cho dài, nói lấy được hơi lộ và thô khiến dư luận bất
bình: Những cái gì thuộc về trước đó như lấn đất, chặt cây rừng…đã được
xử lý, đã hợp lý hóa cho người ta, nay nhắc lại để làm cái gì đây? Lải
nhải như bà bán cá về người ta thế hóa ra Chính quyền cũng thấp lắm, cố
đấm ăn xôi, tìm cách để chứng minh anh Vươn không phải người tốt chứ
gì? Nói thế, viết thế không làm xấu anh Vươn đi được đâu, lại khiến
người đời thấy Hải Phòng nhỏ người đấy. Cái gì trước đó người ta sai
(nếu thực sự đúng là sai), chính quyền đã xử lý xong từ tám hoánh, nay
cố nhắc lại như là sự lu loa bêu riếu, hóa ra góc nhìn của chính quyền
với người dân xa lạ quá, cay cú quá. Trong khi đó, đích xác là, cái việc
tổ chức cưỡng chế sai nhà anh Vươn không phải do những sai phạm của anh
Vươn như đã nêu trên mà chính là cưỡng chế để cướp, cưỡng chế ” trái
pháp luật và trái đạo lý”- lời Thủ tướng kết luận. Đấy là chưa nói tới
việc, chính quyền bây giờ lại còn đưa ra cái sai là chưa đăng ký thường
trú thì nghe phì cười. Hai mươi năm người ta ở đấy, khai hoang, lập
trang trại, làm ăn yên ổn, giờ lại còn nhắc đến đăng ký thường trú
thường triếc, hộ khẩu hộ khiếc, sai phạm sai khiếc, ruồi nó cười.
Ngạc nhiên 2:
Kết luận của Thủ tướng dùng từ rất rõ,
điều tra việc ai chỉ đạo phá nhà Đoàn Văn Quý, giờ thì thông cáo báo chí
dùng là nhà coi đầm. Khổ. Cứ loay hoay cái từ nhà, chòi, nhà coi đầm
làm cái gì khi chứng cứ rành rành ra thế. Đã gọi là phá thì cái nhà xí
người ta mà dám phá cũng có tội. Đến giờ này mà chưa chỉ rõ mặt ai là kẻ
chỉ đạo và thực hiện phá nhà thì hỏi đứa con nít cũng lắc đầu không tin
được. Lại còn củng cố chứng cứ? Hì hì. Buồn cười. Hãy đọc nguyên văn
câu này của Thủ tướng: “Việc Lãnh đạo chính quyền địa phương chỉ đạo phá
nhà của ông Đoàn Văn Vươn là có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự cần
phải được khởi tố, điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh”
Ngạc nhiên 3:
Vụ việc Tiên Lãng nói cho cùng là Hải
Phòng kết luận nhưng Chính phủ chưa kết luận. Nghĩa là những cán bộ liên
quan dù đã bị kỷ luật, đã bị cách chức vẫn còn phải ngồi đấy để chờ chỉ
đạo của Thủ tướng. Thế thì việc gì Hải Phòng lại đưa ông Hiền (bị cách
chức chủ tịch huyện) lên làm chuyên viên Sở Nội vụ? Việc đáng lo là tìm
cho ra thủ phạm phá nhà dân, xử lý nhanh vụ án Đoàn Văn Vươn theo chỉ
đạo Thủ tướng không lo, đi lo việc cho một người mà bất cứ lúc nào cũng
phải phục vụ cơ quan điều tra về hành vi sai trái của mình.
Chán rồi. Không muốn nói nữa.
Các bác CM, nhà cháu đọc, không đưa CM lên, không có thời gian duyệt, nhà cháu còn kiếm khoai nữa các bác nhé.
Theo:
Blog Cu Vinh
Nóng: “Nếu khắc hai chữ anh hùng trên bia mộ của anh Phương thì Quảng Phúc bị kỷ luật à” (?!)
Người Ba Đồn
-
Một tuần nay, mình bận công việc và hơn
nữa là tin tưởng là huyện nhà sẽ khắc hai chữ anh hùng vào bia mộ của
anh hùng liệt sỹ Trần Văn Phương nên không hỏi thăm thông tin. Hôm nay,
đi Hà Nội về sực nhớ vụ việc này liền điện thoại cho ông Nguyễn Thanh
Đôn- Chủ tịch UBND xã Quảng Phúc thì giật mình trước thông tin không thể
khắc hai chữ anh hùng vào tấm bia mộ chí của liệt sỹ anh hùng lực lượng
vũ trang Trần Văn Phương tại nghĩa trang liệt sỹ xã Quảng Phúc.
Ông Đôn cho biết, xã vừa nhận công văn
trả lời của Phòng LĐ- TB- XH huyện do Trưởng phòng ký về việc sửa chữa
bia mộ của anh hùng liệt sỹ Trần Văn Phương. Theo ông Đôn thì nội dung
công văn nói việc tôn tạo, chăm sóc, tu bổ nghĩa trang liệt sỹ xã Quảng
Phúc là do xã quản lý. Tuy nhiên để xử lý sự việc cần thực hiện đúng
thông tư hướng dẫn 14 và Nghị định 16. Và đề nghị xã thực hiện đúng như
thế. Như vậy, trong công văn này không nói cụ thể có được khắc hai chữ
anh hùng trên mộ chí anh Phương hay không?. Ông Đôn nói, do Phòng yêu
cầu xã thực hiện đúng thông tư hướng dẫn và trong biểu mẫu không có phần
ghi “anh hùng” thì xã không thể sửa được?. “Nếu mình sửa họ bắt mình đi
tù thì mần răng”- ông Đôn nói.
Không biết bao giờ Danh hiệu ANH HÙNG về trên mộ chí anh Phương?
Mình bảo, chữ anh hùng là danh hiệu cao
quý của Đảng và Nhà nước trao tặng cho liệt sỹ Trần Văn Phương sao mình
không thể khắc vào được?. Ông Đôn trả lời, giờ biết sao được họ bảo thế
rồi thì sao sửa được?. Sao mình không đấu tranh với cấp trên trình bày
việc này?. Ông Đôn nói, xã đã làm tờ trình về việc này giờ phòng trả lời
như thế, thì xã chấp hành. Nếu khắc hai chữ anh hùng trên bia mộ của
anh Phương thì Quảng Phúc bị kỷ luật à.
Xót xa quá, như thế thì bao giờ, bao giờ danh hiệu anh hùng sẽ trở về với hài cốt của anh Phương?.
Không biết vì sao hôm nay ở Quảng Trạch trời mưa to, sấm chớp đi đùng. Hay…hôm nay linh hồn anh về quanh quẩn đâu đây?
Ai có diệu kế gì để hai chữ anh hùng trở
về trên mộ chí, làm ấm hương hồn, hài cốt của liệt sỹ anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân Trần Văn Phương ở nghĩa trang liệt sỹ xã Quảng Phúc
thì bày cho mình với.
Sao thế nhỉ lẽ nào bó tay chấm com.
Theo: Blog NgườiBaĐồn
Vụ Chi cục phó Hải quan gây sự ở Sứ quán Mỹ: Xử lý dứt điểm trước 15/4
Tuệ Minh
-
Đó là thông tin chúng tôi mới nhận
được từ Cục Hải quan Hà Nội về việc xử lý vụ Chi cục phó Chi cục Hải
quan Hà Tây gây sự trước ĐSQ Hoa Kỳ.
Trao đổi với Phóng viên Giáo dục Việt
Nam cách đây ít phút, ông Nguyễn Văn Trường – Cục trưởng Cục Hải quan Hà
Nội cho biết: “Hiện, chúng tôi vẫn đang xử lý vụ việc. Tuy nhiên, chúng
tôi sẽ xử lý xong toàn bộ trước ngày 15/4”.
Nói về hướng xử lý những hành vi của ông Đặng Quốc Dũng – Chi cục phó
Chi cục Hải quan Hà Tây, ông Trường khẳng định: “Chúng tôi sẽ xử lý
việc này một cách nghiêm túc với tinh thần của Nghị quyết Trung ương
04”.
Sẽ xử lý dứt điểm vụ Chi cục phó Chi cục Hải quan Hà Tây (Cục Hải quan Hà Nội) gây sự trước ĐSQ Hoa Kỳ
.
Trước đó như đã đưa tin, ngày 16/3, tại
đường Láng Hạ (phường Thành Công, Ba Đình, Hà Nội), ông Đặng Quốc Dũng –
Chi cục phó Chi cục hải quan Hà Tây (thuộc Cục Hải quan Hà Nội) điều
khiển chiếc xe cá nhân va chạm với xe mang biển số ngoại giao.
Sau đó, ông Dũng đã táp xe vào lề đường
rồi có những hành vi văng tục, chửi bậy và xưng danh là Chi cục phó Chi
cục Hải Quan Hà Tây (TP. Hà Nội). Sự việc và nhân vật trên đã được ông
Nguyễn Trường Giang, Chánh văn phòng Cục Hải quan Hà Nội xác nhận.
Đến ngày 23/3, Cục hải quan Hà Nội đã
ra quyết định tạm đình chỉ công tác 15 ngày đối với ông Đặng Quốc Dũng
để phục vụ công tác điều tra làm rõ vụ việc.
———————
Va xe, gây sự ở Sứ quán Mỹ, xưng Cục phó hải quan lăng mạ công an
( 10:20 AM | 27/03/2012 )
Vụ việc xảy ra hồi 18h15’ ngày 16/3 trước của cơ quan ngoại giao Hoa kì tại số 7 Láng Hạ (Hà Nội).
Chiếc xe cá nhân Inova 7 chỗ màu trắng BKS 29Y – 2490 đi hướng từ
Láng Hạ về Giảng Võ đã va chạm với xe mang biển số Ngoại giao của Hoa
Kì. Hậu quả làm chiếc xe biển Ngoại giao đang đợi nhân viên sứ quán bị
gãy rời gương chiếu hậu.
Vụ việc không chỉ dừng lại ở đó, sau vụ va chạm, lái xe Innova táp
xe vào lề đường rồi nhảy xuống chửi lái xe biển ngoại giao. Thấy vậy,
lái xe biển ngoại giao đã yêu cầu lực lượng an ninh sứ quán can thiệp.
Tuy nhiên, người đàn ông điều khiển xe Innova còn xông vào tận cổng Đại
sứ quán Hoa Kì để gây hấn, chửi bới, lăng mạ lực lượng an ninh khu vực
ngoại giao.
|
Chiếc xe Innova va chạm với xe ngoại giao |
Thậm chí, khi được lực lượng an ninh yêu cầu dừng lại để mời cơ quan
chức năng đến giải quyết, người này còn lớn tiếng thách thức, đe dọa là
nhân viên bộ quốc phòng, sẽ bỏ tù tất cả người nào dám cản trở. Ngay sau
khi vụ việc xảy ra, có hai đồng chí công an phường đến giải quyết.
Nhưng, đối tượng trên vẫn không ngớt lời tục tĩu chửi bới, văng tục đối
với lực lượng thi hành công vụ. Sau đó, lực lượng công an phường đã đưa
người đàn ông trên ra khỏi phạm vi Đại sứ quán Hoa kì.
Theo quan sát của phóng viên, người đàn ông này có biểu hiện của
người say rượu, thường xuyên ”cà” lực lượng an ninh sứ quán và công an.
Không chỉ thế, khi có lực lượng công an phường, người này tự xưng là
Cục phó Cục Hải Quan TP Hà Nội và liên tiếp có hành vi thách thức văng
tục. Khoảng 20 phút sau, lực lượng CSGT CATP Hà Nội có mặt khám nghiệm
hiện trường và yêu cầu kiểm tra nồng độ cồn thì người này liên tục gọi
điện thoại cho người thân, phớt lờ yêu cầu thổi vào ống thở của lực
lượng CSGT.
Khi thấy nhiều người dân chụp ảnh quay phim mình, người này còn lớn tiếng đe dọa bằng chức Cục phó Cục hải quan Hà Nội?.
Lực lượng CSGT đã lập biên bản về việc này. Danh tính tài xế chiếc
xe Innova 29Y – 2490 được xác định là Đặng Quốc Dũng, sinh năm 1956,
HKTT tại 16 A Lý Nam Đế – Hoàn Kiếm – Hà Nội. Đồng thời, người này cũng
xuất trình một thẻ màu đỏ ghi tên Đặng Quốc Dũng, chức danh Cục phó Cục
Hải quan Hà Nội.
|
Lái xe Innova – người tự xưng là Cục phó Cục Hải quan Hà Nội liên tục gọi điện khi bị lực lượng chức năng lập biên bản |
Khi lực lượng chức năng lập biên bản về vụ việc, có 3 người đàn ông
đến cũng trong tình trạng “chuếnh choáng”. Một trong ba người tự xưng là
thủ trưởng của lái xe này và yêu cầu được bồi thường, giải quyết “tình
cảm”.
Bị lực lượng CSGT cự tuyệt, người này chỉ mặt lực lượng chức năng đe dọa: “Đừng có làm kẻo tai bay vạ gió”.
Hiện, chiếc xe Innova đã được niêm phong để lực lượng cứu hộ kéo đi.
Trích Bản tường trình của ông Đặng Quốc Dũng – Chi cục Hải quan Hà Tây (Cục Hải quan Hà Nội):
Vào hồi 18h00’ ngày 16/3/2012 khi đi
trên đường về nhà đến địa chỉ nêu trên, tôi có va chạm giao thông với 1
xe ô tô hiệu TOYOTA loại 16 chỗ ngồi tại khu vực số 7 đường Láng Hạ
(đoạn trước cửa ĐSQ Hoa Kỳ).
Trong quá trình tranh chấp đúng sai,
tôi và anh Châu (lái xe 16 chỗ ngồi) thống nhất mời cơ quan công an giải
quyết vụ việc. Trong quá trình làm việc với cơ quan chức năng, tôi luôn
chấp hành đầy đủ yêu cầu và hợp tác với cơ quan chức năng.
Do trưa ngày 16/3/2012, cơ quan tôi có
tổ chức kỷ niệm 15 năm ngày thành lập nên tôi có uống một chút rượu
vang, tuy nhiên, khi giải quyết vụ việc, tôi hoàn toàn tỉnh táo và chủ
động xử lý công việc theo hướng hòa giải tuân thủ các quy định của pháp
luật.
Do ngày 17, 18/3/2012 là ngày nghỉ cuối
tuần nên sáng ngày 19/3/2012, hai bên đã chủ động làm đơn hòa giải,
được sự đồng ý của cơ quan công an, tôi đã khắc phục hậu quả theo đúng
quy định.
Theo:
GDVN.
Chính thức kết kim đã thành sự thật
Dự đoán KTVN
-
Như chúng tôi đã từng dự đoán trước rằng việc kết kim, kết hối là không thể tránh khỏi thì nay tất cả đã thành sự thật (
Dự đoán kinh tế, 23/08/2011).
Ngày 03-04-2012, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định
ban hành nghị định quản lý hoạt động kinh doanh vàng có nội dung chính
nhằm thắt chặt hoạt động kinh doanh vàng, đưa kinh doanh vàng thành
khuôn khổ cho nhà nước quản lý và quan trọng nhất là cấm sử dụng vàng
làm phương tiện thanh toán, làm cơ sở cho hoạt động huy động, thu gom
vàng toàn quốc sắp sửa diễn ra
(
Cafef, 04/04/2012)
Nói cách khác, đây là kết kim. Dựa trên
suy đoán, họ sẽ làm việc này dần dần, từng bước giống như kết hối để
không gây ra hỗn loạn lớn trong xã hội. Thời điểm áp dụng nghị định trên
là 25/05/2012. Nhưng dù gì chăng nữa, tai hại của việc kết kim vẫn rất
lớn mà theo chúng tôi phán đoán, ngay chính họ cũng hoàn toàn không hiểu
hết nổi các hệ lụy do việc kết kim này mang lại cũng giống như lúc tung
ra nghị quyết 11 đã đẩy hàng trăm ngàn doanh nghiệp tới chỗ phá sản,
lung lay tận gốc hệ thống ngân hàng và hàng triệu người thất nghiệp như
hiện nay.
Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán
Bạn đọc có thể đọc toàn văn nghị định này tại
đây.
Chúng tôi xin phân tích qua một số điểm quan trọng, chính yếu trong
nghị định này. Theo Nghị định, hành vi vi phạm các quy định của pháp
luật trong hoạt động kinh doanh vàng bao gồm:
1. Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ không có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước cấp.
2. Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
3. Mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
4. Sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.
5. Hoạt động sản xuất vàng miếng trái với quy định tại Nghị định này.
6. Hoạt động kinh doanh vàng khác khi chưa được Thủ tướng Chính phủ cho phép và Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép.
7. Vi phạm các quy định khác tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Các bạn hãy chú ý ở điều khoản không sử
dụng vàng làm phương tiên thanh toán. Như vậy thì có thể nói ngân hàng
không trả vàng lại đối với những người đã gửi vàng, vì không thể “sử
dụng vàng làm phương tiện thanh toán”, mà chỉ có thể trả bằng VND?
Ở Việt Nam rất đặc biệt, do tiền đồng mất
giá trị và không ổn định nên phần nhiều các hoạt động kinh doanh buôn
bán, vay nợ được quy ra bằng vàng.
Và nay trong dân chúng các mối mua bán
không biết tính bằng gì, vì lúc trước bằng USD, dẹp USD thì tính bằng
vàng, nay dẹp vàng, sức mấy ai chịu mua bán, cho vay, số lớn bằng VND.
Có chăng là mua bán, cho vay rất ngắn hạn.
Dài hạn 3 tháng, 1 năm, thì đều tính bằng ngoại tệ, do sợ VND mất giá.
Vì vậy, cấm đoán sử dụng vàng làm phương
tiện thanh toán sẽ gây thêm rắc rối cho KT VN, thêm bottleneck, thêm co
cụm, co rút, cho nền KT.
Sẽ không còn các tiệm vàng tư nhân
Phần thứ hai là về chương III nói về hoạt
động kinh doanh vàng miếng. Theo đúng chương này thì coi như dẹp toàn
bộ các tiệm vàng tư nhân.
Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
1- Là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật;
2- Có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên;
3- Có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ 2 năm trở lên;
4- Có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên tiếp gần nhất (có xác nhận của cơ quan thuế);
5- Có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.
Điều 1, 2, 3, thì còn dễ đạt được, chứ điều 4 là kẹt to, vì ít tiệm vàng nào đóng thuế 500 triệu đồng/ năm trong 2 năm vừa qua.
Tiền đút lót có thể cao hơn, chứ ai dại gì khai thuế đúng, nộp thuế giá đó.
Ngoài ra còn điều 5 cũng khó đạt được, vì
các tiệm vàng đa số là của tư nhân, bán 1, 2 tiệm trong 1 thành phố nào
đó thôi, chứ ít khi lan ra 2 thành phố khác.
Thế là họ dẹp hết tay con, tay trung bình, chỉ còn lại khoảng 10 đại gia lớn mà thôi.
Bài viết kế tiếp của chúng tôi sẽ phân tích chi tiết hơn hậu quả khó lường của việc kết kim này. Mời các bạn đón đọc.
————————
Dự đoán kinh tế Việt Nam, Nỗi tuyệt vọng của kinh tế Việt Nam và kịch bản kết hối, kết kim, 23/08/2011,
http://dudoankinhte.wordpress.com/2011/08/23/n%E1%BB%97i-tuy%E1%BB%87t-v%E1%BB%8Dng-c%E1%BB%A7a-ktvn-va-k%E1%BB%8Bch-b%E1%BA%A3n-k%E1%BA%BFt-h%E1%BB%91i-k%E1%BA%BFt-kim/
Cafef, Nghị định của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng chính thức ra đời, 04/04/2012,
http://cafef.vn/20120404083410666CA34/nghi-dinh-cua-chinh-phu-ve-quan-ly-hoat-dong-kinh-doanh-vang-chinh-thuc-ra-doi.chn
Chính phủ Việt Nam, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, 03/04/2012,
https://docs.google.com/file/d/0B2BS_DbGbflPdWtqXzNzbHBSaVdfUW9UU2lNNE9MUQ/edit
Theo:
Dự đoán KTVN.
Giỡn mặt Nhân dân
Ai phá nhà ông Vươn?
Huỳnh Ngọc Chênh
-
Mờ mắt trước miếng đất béo bở của anh em
Đoàn Văn Vươn mà họ phải bỏ tiền nong, công sức và nước mắt trong hơn
chục năm qua để tạo dựng nên, đám cường hào mới ở Tiên Lãng đã nổi lòng
tham, bày mưu tính kế ăn cướp trắng trợn.
Kế hoạch cưỡng đoạt được dựng lên, được
đưa lên cấp cao hơn là UBND Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của Bí thư thành
ủy Nguyễn Văn Thành xét duyệt và chấp thuận.
Công an, quân đội được điều động đến phục
vụ cho ý đồ đen tối của đám cường hào mới. Không còn con đường nào
khác, sau khi đã chạy hết các cửa công quyền để khiếu kiện và cầu cứu
nhưng đều thất bại, anh em Vươn đành vô vọng chống cự lại lực lượng trấn
áp sai trái để bảo vệ thành quả lao động chính đáng của mình.
Kết quả là anh em Vươn- Quý bị bắt, đàn
bà con cái trong gia đình bị đánh đập, ngôi nhà hai tầng bị giật sập tan
tành, tôm cá trong đầm bị cướp sạch.
Trước sự lộng quyền và dã man của đám
cường hào, trước nỗi oan khiên thấu trời xanh của anh em Vươn, người dân
ở mọi thành phần, tầng lớp trong cả nước đã vào cuộc. Những tiếng nói
phản đối vang lên khắp mọi nơi. Buộc chính phủ phải vào cuộc. Chính Thủ
Tướng phải trực tiếp đứng ra chỉ đạo xử lý vụ việc.
Thành ủy Hải Phòng buộc lòng phải chấp
hành. Một mặt xử lý vài tên cường hào để xoa dịu dư luận, một mặt quyết
liệt bày mưu chống chế để hòng cứu vãn tình hình, tìm cách giải nguy cho
cấp dưới, đồng thời qua đó cũng cứu nguy cho chính mình. Bởi lẽ đám
cường hào ở huyện Tiên Lãng càng nhẹ tội thì cấp trên ở Hải Phòng càng
nhẹ phần trách nhiệm liên đới.
Việc chống chế của Hải Phòng thể hiện qua các việc sau:
- Giao cho PCT Đỗ Trung Thoại là người đã có phát ngôn đổ vấy nhân dân
là thủ phạm giật phá nhà Vươn làm tổ trưởng tổ công tác xử lý vụ Tiên
Lãng (sau nầy bị dư luận phản ứng mới rút xuống làm tổ phó).
- Giao cho công an Hải Phòng dưới quyền Đỗ Hữu Ca- là người trực tiếp
chỉ huy vụ tấn công vào khu đầm và triệt hạ nhà anh Vươn- điều tra về vụ
án phá nhà anh Vươn.
- Đích thân ông Nguyễn Văn Thành công khai kể thêm tội anh em Vươn và
làm nhẹ tội đám cường hào trong bài phát biểu sai lệch trước cán bộ hưu
tại câu lạc bộ Bạch Đằng.
- Đưa Lê Văn Hiền là kẻ chủ mưu chính trong vụ cướp đất về làm chuyên viên Sở Nội Vụ sau khi bị mất chức chủ tịch huyện.
Chính vì muốn giải cứu cấp dưới và làm
nhẹ trách nhiệm của mình nên sau hai tháng xử lý, thành ủy Hải Phòng mới
đưa ra một bản kết luận mà dư luận hầu hết đều đánh giá rất không thỏa
đáng và đầy dấu hiệu bao che cho đám cường hào tội phạm ở Tiên Lãng.
Nói rằng có đến 25 tổ chức và 50 cá nhân
bị xử lý kỷ luật nhưng thật ra mới chỉ có 2 người bị cách chức, còn tất
cả chỉ là khiển trách hoặc cảnh cáo sơ sài, mà khiển trách hoặc cảnh cáo
trong đảng thì xem như chẳng bị gì.
Dấu hiệu bao che thấy rõ nhất là vụ án phá nhà anh Vươn cho đến nay qua hơn hai tháng điều tra vẫn chưa tìm ra ai là thủ phạm.
Việc tìm ra những tên chủ mưu trong vụ án
phá nhà anh Vươn là quá sức đơn giản và chỉ cần mất chừng vài ngày.
Ngôi nhà hai tầng nầy bị phá hủy, giật sập ngay sau khi lực lượng trấn
áp của ông Đỗ Hữu Ca chỉ huy tiến vào. Hành động ấy diễn ra ngay trước
sự chứng kiến của lực lượng trấn áp. Đã có tên tuổi những tên trực tiếp
đập phá nhà anh Vươn. Từ những tên này tìm ra ai là kẻ ra lệnh hoặc xúi
giục hoặc thuê mướn chúng làm việc phi pháp ấy có phải việc làm quá sức
khó khăn đến nỗi qua hai tháng rồi mà lực lượng điều tra công an Hải
Phòng vẫn chưa làm được?
Việc cưỡng đoạt đất đai, phá hoại nhà cửa
và cướp đoạt tài sản của người dân lành ở trên đất nước nầy hay ở bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới và ở vào bất kỳ thời đại nào đều bị liệt
vào loại tội ác nghiêm trọng. Kẻ gây ra tội ác ấy phải bị trừng trị đích
đáng vì đích thị chúng là bọn cướp.
Vì phản ứng lại tội ác tày đình đó mà nạn nhân mới tìm cách chống trả tự vệ.
Đạo lý muôn đời và nền pháp luật công
minh luôn đứng về phía nạn nhân trong trường hợp nầy. Thế nhưng thành ủy
Hải Phòng đứng đầu là ông Nguyễn Văn Thành đang cố tình làm ngược lại.
Trong bản kết luận vừa rồi, họ cố kể ra thật nhiều tội của nạn nhân với
mong muốn làm vô hiệu hóa tình tiết giảm nhẹ để trả thù và để lấp liếm
đi tội ác đích thực của bọn cường hào Tiên Lãng.
Họ đang đi ngược lại đạo lý, lươn lẹo với pháp luật và như vậy là đang giỡn mặt với nhân dân.
Một khi đi ngược lại đạo lý thì đến ông trời cũng bị lật đổ.
Theo:
Blog HNC
Tiên Lãng…Tịt Tuốt
Hiệu Minh
-
Cuối cùng “tỉnh” Hải Phòng đã thông báo “Thu
hồi các quyết định không đúng pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Tiên
Lãng về việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn
Văn Vươn”.
Thế là thỏa mãn nhé. Rút lui quyế định rồi, bà con cứ gọi là…Tịt.
Tiếp theo, thông báo nói rõ “Xử lý các vi phạm về sử dụng đất của ông Đoàn Văn Vươn theo quy định của pháp luật”.
Đoạn này khá dài và chi tiết. Người không
biết về vụ Tiên Lãng này sẽ nghĩ anh Vươn phạm pháp nên cần “xử lý theo
qui định của pháp luật”. Nói gì nữa khi vi phạm sử dụng đất đai như
vậy. Gia đình ông Vươn…Tịt nhé.
Tuy vi phạm thế nhưng UBND HP vẫn xoa dịu bằng cách “Thực hiện thủ tục cho hộ ông Đoàn Văn Vươn tiếp tục sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai”.
Cả gia đình đang dính vào vòng lao lý, bị
xử về tội giết người, thì tiếp tục cho sử dụng đất có nghĩa lý gì.
Trong tù thì làm gì với đất rừng biển được giao. Giao mà coi như không
giao. Tịt mồm sau song sắt rồi còn ai đâu mà sử dụng đất. Người ta khôn
chán.
Để xoa dịu dư luận về việc giật đổ “lều coi cá”, UBND HP không quên qua loa sẽ “điều tra việc phá dỡ nhà coi đầm của ông Đoàn Văn Vươn”. Bố cứ câu giờ đấy, làm gì bố nào, đứa nào còn lèm bèm ông cho…Tịt đấy.
Đoạn sau kết luận luôn đây là vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ” đối
với anh Vươn và gia đình. Chưa kể bên thì dùng nội chính điều tra về
chuyện phá chòi coi cá, bên dùng cơ quan điều tra, nghiêm trọng hơn
nhiều.
Thông báo nhẹ nhàng nhắc đến “25 tổ
chức và 50 cá nhân tiến hành kiểm điểm, xử lý kỷ luật, trong đó: Huyện
Tiên Lãng đã có 16 tổ chức và 17 cá nhân tiến hành kiểm điểm, xử lý kỷ
luật; cấp thành phố đã có 9 tổ chức và 33 cá nhân tiến hành kiểm điểm,
xử lý kỷ luật”, nghe có vẻ rất nghiêm túc.
25 tổ chức + 50 cá nhân = 75 đối tượng bị
lộ mặt, chưa kể hàng trăm đối tượng khác chưa bị lộ, đấu với mấy người
trong gia đình anh Vươn. Riêng một huyện có tới 16 tổ chức bị kiểm điểm,
nghĩa là cả huyện bị lên thớt rồi còn gì. Chịu trách nhiệm tập thể rất
đặc trưng.
Xử lý kỷ luật các cá nhân, tổ chức rồi, dư luận Tịt đi cho đằng này nhờ.
Sau đó thông báo cũng nói đến “Công tác ổn định tình hình chính trị, diễn biến tư tưởng nhân dân” muốn quần chúng Tịt đi để cho cánh này còn tiếp tục…cưỡng chế.
Sau khi đọc thông báo UBNDTP Hải Phòng, Tổng Cua bỗng nhớ đến nick Tịt Tuốt, nghĩa là chả còn nói được gì thêm.
HM. 4-4-2012
Theo:
Blog HM.
Giật cả mình
Lê Trung Kiên
-
Hôm qua về quê ăn giỗ, được đặc cách ngồi uống rượu với mấy chú,
mấy cậu ở quê. Hết chuyện phố đến chuyện quê, rồi sang chuyện “chính
chị”. Ông cậu buôn bán tạp hoá mấy chục năm nay tấm tắc khen ngợi đảng
và nhà nước mình giỏi, mạnh ! Chi bao nhiêu tiền xây đường xá, điện đóm,
trường trạm cho dân. Không biết lấy tiền ở đâu mà lắm thế !
Mình bảo: “Họ lấy ở tiền thuế của dân chứ ở đâu ! Chính cậu cũng hàng ngày đóng thuế đấy thôi !”
Ông cậu thật thà: “Nhà tao buôn bao năm
nay có bao giờ đóng thuế đâu ! Đầu năm thì nộp thuế môn bài thôi !
Doanh thu thì bọn thuế nó ấn định. Cho cán bộ thuế tí ti là nó ấn định
cho nộp thuế ít đi. Còn thì chẳng nộp thuế gì.”
Đã giật mình rồi.
Hôm nay lại thấy bạn Dân Chờ hồi âm trong bài viết
‘Ép dân không phải là cách phục vụ dân’
rằng: “Chính phủ phải mạnh dạn thu thuế theo kiểu của Tư Bản thì mới có
đủ tiền mở mang đường xá và các cơ sở dịch vụ công cộng và phúc lợi xã
hội mới được nâng cao. Dân chúng VN chẳng ai chịu đóng thuế mà cứ đòi
chính phủ phải bỏ tiền ra phục vụ thì lạ quá chừng!”
Dân tình đang xôn xao, bức xúc vụ thu
phí bảo trì đường, phí hạn chế phương tiện giao thông cá nhân.v.v.. ầm
ầm mà vẫn còn có ý kiến “đơn giản” đến như vậy. Mình lại càng giật mình
hơn !
Thiết nghĩ phải trao đổi đôi lời:
Đúng là mấy anh tư bản thu thuế mạnh
bạo thật ! Ví dụ anh cu Đức thu tới 20% thuế suất VAT (trên hàng hoá
tiêu dùng và mọi dịch vụ hàng ngày chẳng hạn). Thế nhưng thuế – tức là
một phần thu lớn của ngân sách, cùng với vốn vay được bọn tư bản chi
tiêu minh bạch, đầu tư cho hạ tầng và phúc lợi xã hội chứ không ném vào
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty làm ăn ì ạch và thua lỗ như ở ta.
Vì thu tới 20% thuế VAT – tức là người
dân ăn 5 cân thịt thì mất 1 cân nộp thuế, còn 4 thôi, mua 5 hộp sữa cho
con thì con chỉ còn 4… nên họ giám sát và đòi hỏi gắt gao về sự minh
bạch trong sử dụng tiền thuế họ nộp. Cơ quan thuế cũng nghiêm ngặt hơn
trong việc kiểm soát thu nhập, chi tiêu và thu thuế. Chính phủ họ cũng
vì thế mà vì nhân dân phục vụ hơn ! Riêng khoản trợ cấp thất nghiệp, trợ
cấp xã hội, chăm sóc y tế và giáo dục của họ thì dân mình đừng có tưởng
tượng nổi ! Họ vào bệnh viện là nhân viên y tế, bác sỹ, hộ lý.v.v…
ngoài việc khám và chữa bệnh còn chăm sóc cho bệnh nhân cả sinh hoạt cá
nhân, ăn uống. Người nhà không cần và không được phép chăm sóc bệnh nhân
đến mức phải ăn trực nằm chờ, lê la ở hành lang, vỉa hè bệnh viện, nhà
trọ dẫn đến tán gia, bại sản như ở ta.
Nhà mình thu thuế VAT cũng 10% ! Chưa
kể thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, rồi đủ
các loại thuế, phí các loại.
Như vậy là cứ 10 cái bỉm mua cho con,
10 cái băng vệ sinh cho vợ thì Chính phủ xơi mỗi thứ 1 cái ! Tiền điện,
nước, điện thoại, xăng dầu, mua xe ôtô, xe máy, tiền gửi xe, bia bọt,
rượu, thuốc lá, giấy vở, quần áo, máy tính, ổ cứng, USB.v.v… nghìn thứ
bà rằn cho sinh hoạt, kinh doanh hàng ngày đều đã có thuế trong đó, tối
thiểu là 10% và người dân phải nộp qua giá mua bán !
Sao lại bảo dân Việt Nam chẳng ai chịu
đóng thuế ? Vậy Chính phủ lấy tiền ở đâu ra ? Đối với tiền vay thì ai sẽ
trả và lấy từ đâu trả ? Tất cả đều từ thuế và nhờ có thuế ! Chính phủ
không thu được là lỗi quản lý của Chính phủ. Các doanh nghiệp sản xuất
đến tiểu thương đều là một chuổi các mắt xích đưa sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ đến người tiêu dùng, tức là người nộp thuế ! Không quản lý được
việc bắt buộc xuất hoá đơn cho người tiêu dùng cuối cùng, tức là Chính
phủ đã không kiểm soát được doanh thu thật của nhà cung cấp. Từ đó không
kiểm soát được chính xác lợi nhuận và số thuế của họ phải nộp. Trong
khi người tiêu dùng thực tế đã nộp thuế. Đây là hiện tượng đặc biệt phổ
biến ở Việt Nam, gây thất thu thuế nghiêm trọng cho ngân sách và làm lợi
bất chính cho nhà sản xuất, các khâu thương mại.
Chưa hết ! Vì quản lý đất đai, kinh tế,
xã hội, con người, doanh nghiệp…. cùng hệ thống tài khoản của cá nhân,
tổ chức kinh doanh rất lạc hậu, rời rạc, thậm chí không muốn hiện đại
hoá cho nên việc thất thu thuế, phí, tiền xử phạt.v.v. từ xã hội, từ nền
kinh tế là việc đương nhiên.
Lấy vài ví dụ nhỏ nhỏ:
1. Doanh nghiệp nợ tiền bảo hiểm (xã
hội, y tế và thất nghiệp…) của người lao động – thậm chí nhiều doanh
nghiệp còn khai khống số lượng lớn người lao động với mức lương dưới
ngưỡng nộp thuế thu nhập cá nhân thông qua hình thức hợp đồng lao động
giả, số CMTND giả, địa chỉ giả… nhưng vẫn được cơ quan thuế chấp nhận
chi phí tiền lương vào trong chi phí sản xuất. Dẫn đến thất thu thuế thu
nhập doanh nghiệp, mà thuế thu nhập cá nhân cũng không thu được. Bên
cạnh đó, thiếu sự liên kết giữa bảo hiểm và cơ quan thuế, thiếu chế tài
mạnh bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ với lao động thông
qua công cụ thuế nên người lao động cũng vô cùng thiệt thòi.
2. Giá bán sản phẩm, dịch vụ luôn là
giá đã có thuế ! Nhà sản xuất, cung cấp luôn đã tính thuế vào giá bán để
đảm bảo doanh thu. Thế nhưng, khi đến tay người tiêu dùng thì nhà cung
cấp thương mại cuối cùng thường không xuất hoá đơn để trốn doanh thu
chịu thuế. Khi người tiêu dùng đòi hoá đơn thì người bán, nhà hàng lại
đòi cộng thêm tiền thuế vào số tiền phải trả. Như vậy, để có hoá đơn,
người tiêu dùng chúng ta đã phải nộp thuế ít nhất 2 lần.
Vâng ! Cũng chính vì rất nhiều người
Việt Nam mình chưa biết rằng hàng ngày, hàng giờ – chứ không phải hàng
tháng – đang nộp thuế cho Chính phủ, cho Nhà nước để nuôi bộ máy đảng
các cấp cồng kềnh; nuôi bộ máy hành chính khổng lồ từ tổ dân phố đến
trung ương với đủ các loại thủ tục hành chính rườm ra, rắc rối, lấy hành
dân là chính để nhũng nhiễu và tham lam; nuôi toà án, nuôi viện kiểm
sát, nuôi lực lượng quân đội lẫn vũ khí, khí tài, quân phục; nuôi lực
lượng công an dày đặc với công cụ hỗ trợ, từ cái còi, cái dùi cui, thắt
lưng, còng số 8 đến xe bịt bùng, nhà tù, trại tạm giam; nuôi hệ thống
giáo dục, y tế..v.v… và hiện nay đang phải còng lưng góp sức nuôi thêm
cả 700 đầu báo nữa !!!… nên cứ tưởng rằng mình không đóng góp gì cho xã
hội, cho nhà nước và cứ cúi đầu ơn đảng, ơn chính phủ đời đời.
Còn nữa ! Điện, đường, trường,
trạm.v.v… đều được đầu tư xây dựng từ thuế và vốn vay (sẽ do thuế trả)
nên phải được đầu tư xây dựng với chất lượng bền vững để quay trở lại
phục vụ người dân ! Chứ không phải khi người dân sử dụng lại đòi thu phí
tiếp ! Rồi lại đòi thêm cả phí bảo trì, sửa chữa do xuống cấp, hư hỏng –
có những con đường chưa nghiệm thu đã hỏng rồi !
Và rồi, với tầm nhìn ngắn, quy hoạch đô
thị chật chội, vá víu, thêm vào đó là nạn tham nhũng qua các nhóm lợi
ích, mafia gắn kết hữu cơ với chính quyền để điều chỉnh quy hoạch nhằm
trục lợi, dẫn đến các đô thị tắc nghẽn và ô nhiễm. Không gian sống của
người dân ngày càng thảm hại so với thế giới.
Trong khi Quốc hội với gần 100% là đảng
viên, phần rất nhiều là lãnh đạo đảng, chính phủ, các bộ ngành và tỉnh
thành trong cả nước, các doanh nhân.v.v… vẫn chưa thông qua Luật thuế
nhà đất để đánh thuế vào nhóm đầu cơ đất đai, nhà cửa vốn kiếm lợi tiền
tỷ lâu nay để tăng thu ngân sách và bình ổn giá nhà, đất thì lại quay
sang đánh thuế với phí người dân.
Một nhà nước mà chính sách sưu thuế phí
ngày càng ngặt nghèo mà hổng rỗng, càng đổ hết lên đầu người dân thì là
báo hiệu gì, của nhà nước nào đây ?
Czech muốn bán vũ khí cho Việt Nam
Bộ trưởng Vondra vừa có chuyến thăm Việt Nam hai ngày
BBC
-
Trong chuyến thăm Hà Nội tuần
trước, Bộ trưởng Quốc phòng CH Czech Alexandr Vondra đã đề xuất
việc bán vũ khí, nhất là loại công nghệ cao, cho Việt Nam.
Ông bộ trưởng cũng đánh giá rằng
Việt Nam là thị trường ‘giàu tiềm năng’ cho các doanh nghiệp
sản xuất vũ khí của Czech. Một điều có thể ít người biết,
nhưng CH Czech đã có ngành công nghệ sản xuất trang thiết bị
quốc phòng khá phát triển từ thời còn nằm trong Tiệp Khắc.
Ông Alexandr Vondra vừa thăm Việt Nam hai ngày 27/3 và 28/3, trong chặng đầu tiên của chuyến công du châu Á.
Tháp tùng ông là một đoàn đông đảo đại diện các công ty sản xuất vũ khí của CH Czech.
Thông cáo của Bộ Quốc phòng Czech
dẫn lời ông Vondra nói CH Czech có thể cung cấp cho Việt Nam công
nghệ tiên tiến và “không có trở ngại nào” trong quá trình
này.
Đài truyền hình Czech trong bản tin
về chuyến thăm thì nói không có sản phẩm quốc phòng nào bị
cấm bán cho Việt Nam nếu Hà Nội muốn mua.
Bộ trưởng Vondra cho hay trong số các
loại vũ khí chào hàng cho Việt Nam có cả hệ thống radar
phòng không Vera đặc biệt hiện đại.
Không bán cho Trung Quốc
Vera là hệ thống dò máy bay bằng
thiết bị điện tử cực kỳ chính xác, bắt đầu được Tiệp Khắc
tung ra từ những năm 1960 nhưng tới nay đã qua nhiều lần cải
biến.
Hệ thống này được cho là thiết bị
radar duy nhất trên thế giới trong thời điểm hiện tại có thể
phát hiện phi cơ tàng hình.
Vera đã từng được đặt trong một
‘danh sách đen’, tức danh sách các nước không được phép mua công
nghệ này. Có tin từ năm 2004, Mỹ đã gây áp lực lên CH Czech cản
việc bán công nghệ này cho Trung Quốc.
Về danh chính ngôn thuận, hiện chỉ
có sáu quốc gia được sử dụng công nghệ Vera là Czech, Estonia,
Malaysia, Pakistan, Hoa Kỳ và bây giờ là Việt Nam.
Tuy nhiên, báo chí Czech cũng cho
rằng nếu bán công nghệ này cho Việt Nam mà vẫn duy trì cấm
vận với Trung Quốc thì có thể gây ảnh hưởng cho quan hệ giữa
Prague và Bắc Kinh.
Bộ trưởng Vondra hết lời ca ngợi
tiềm năng của thị trường Việt Nam: “Tôi cho rằng Việt Nam là
thị trường vô cùng hứa hẹn. Nước này có một quân đội hùng
hậu đứng trước nhu cầu hiện đại hóa”.
Theo ông Vondra, các công ty Czech có
thể tham gia mạnh trong quá trình hiện đại hóa không quân Việt
Nam mà ông nói đã sở hữu 20 phiên bản máy bay L-39 và nhiều
thiết giáp do Czech sản xuất.
Trong thời kỳ cuộc chiến Việt Nam,
Tiệp Khắc, lúc đó thuộc khối xã hội chủ nghía, đã viện trợ
nhiều vũ khí cho quân đội Bắc Việt. Súng trường VZ 58 của Tiệp
hiện vẫn còn đang được lưu hành sử dụng ở Việt Nam.
Các loại vũ khí-khí tài của Czech đều được mua bán qua tập đoàn Omnipol đặt tại thủ đô Prague.
Chính Đảng nào sẽ lãnh đạo đất nước trong tương lai?
Lê Nguyên Bình
-
“Nói tóm lại, Chính Đảng là phương
tiện không thể thiếu được để giải trừ tình trạng độc tài hiện nay, và
xây dựng một xã hội dân chủ đúng nghĩa trong thời gian tới.”
Trong tiến trình đấu tranh giải trừ nạn
độc tài, tham ô và bất công ở nước ta, thắc mắc thường thấy của khá
nhiều người là: Tổ chức chính đảng nào sẽ đạt được thành công và có đủ
khả năng lãnh đạo đất nước trong tương lai? Trong thực tế, tuy diễn biến
Việt Nam tuỳ thuộc vào vố số yếu tố khác nhau song đất nước sẽ được
thay đổi bởi công sức của nhiều tập thể, thành phần xã hội chứ không
riêng từ tổ chức nào. Mặt khác, với thể chế
dân chủ pháp quyền, chính phủ mới sẽ được lãnh đạo bởi nhân tài từ các
chính đảng được đồng bào tín nhiệm nhiều nhất qua lá phiếu dân chủ; chứ
không phải là một đảng nào đó sẽ độc quyền thay thế đảng CSVN.
Kể từ tháng 5/1975, một chính đảng và tổ chức đấu tranh tân lập đã
được thành hình ở trong nước, kể cả một số tổ chức tuy không xưng danh
“đảng” song có cơ cấu và chủ trương hoạt động như một chính đảng. Dù là
công khai hay bí mật, và dù đã được công luận biết đến nhiều hay chưa,
hoạt động của các chính đảng, tổ chức, phong trào đóng một vai trò quan
trọng trong quá trình đấu tranh đối kháng với chế độ độc tài toàn trị.
Trong những năm gần đây, với sự phát
triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, sự đóng góp của nhiều
vị trí thức, nhân sĩ đã thành hình một hàng ngũ đối kháng mới hoạt động
song hành với các chính đảng, tổ chức. Vai trò của cộng đồng Bloggers
cũng đã có nhiều đóng góp to lớn cho công cuộc dân chủ hóa đất nước. Một
số người có triển vọng trở thành nhân tố cho hàng ngũ lãnh đạo quốc gia
trong tương lai, dù tất nhiên sẽ phải trải qua vô số thử thách thực tế
trên con đường đấu tranh chính trị đầy cam go và phức tạp. Bởi lẽ, học
vị, địa vị, tài hùng biện… là những yếu tố thuận lợi song khả năng tổ
chức, điều hành, lãnh đạo… là những yếu tố không thể thiếu để đóng các
vai trò mang tầm vóc quốc gia. Tham gia các chính đảng hiện hữu, hay tự
thành lập những tổ chức chính trị mới, sẽ là sự chọn lựa phải có của
những nhân tài này.
Nhưng dù các thành phần sinh hoạt chính
trị có thay đổi ra sao, vai trò của các chính đảng vẫn không thay đổi. Ở
hiện tại, với nhu cầu bảo toàn an ninh cho các cơ sở ở nội địa, vai trò
mặt nổi của các tổ chức chính trị đối kháng với CSVN đang có khá nhiều
giới hạn. Tuy nhiên, một khi điều kiện hoạt động ở trong nước không còn
quá khó khăn như hiện nay, các chính đảng sẽ xuất hiện và hoạt động như ở
các nước đang phát triển khác. Hoàn cảnh hiện tại có thể giới hạn hoạt
động song vai trò và trách nhiệm của các tổ chức chính đảng vẫn luôn là
nhu cầu.
Tính quan trọng của các chính đảng đấu
tranh có thể nhìn thấy qua thái độ và phản ứng của nhà cầm quyền CSVN
đối với những tổ chức chính đảng đang có hoạt động mạnh ở trong nước.
Những bản án nặng nề áp đặt lên thành viên các chính đảng cho thấy chế
độ rất sợ sự hoạt động của các tổ chức chính đảng.
Đấu tranh là phải có tổ chức. Không có tổ
chức thì không thể có đủ điều kiện để tiến hành các công trình đấu
tranh có tầm vóc lớn. Thiếu tổ chức thì một nhân tài chính trị xuất
chúng cũng không thể có được môi trường ứng dụng tài năng một cách quy
mô, hiệu quả. Trong một thể chế dân chủ, chính đảng còn là môi trường để
các cá nhân có khả năng, tâm huyết có thể đóng góp được một cách hiệu
quả cho quốc gia, dân tộc.
Cho nên, để có khả năng đối đầu với một
đảng có thực lực như đảng CSVN, thì chắc chắn hình thức tổ chức phải là
chính đảng. Không những thế, chúng ta lại cần có nhiều đảng để có thể
tập hợp được nhiều khuynh hướng, thành phần quần chúng ủng hộ. Thời gian
và hiệu quả thực tế sẽ đào thãi những tổ chức không thích hợp với nhu
cầu xã hội.
Nói tóm lại, Chính Đảng là phương tiện
không thể thiếu được để giải trừ tình trạng độc tài hiện nay, và xây
dựng một xã hội dân chủ đúng nghĩa trong thời gian tới.
Tóm lại, nếu chúng ta muốn chấm dứt chế
độ độc tài toàn trị CSVN để thành lập một chính phủ dân chủ đa đảng, thì
điều đầu tiên cần làm là khích lệ, ủng hộ quyền lập hội, lập đảng ở
Việt Nam. Trong tinh thần đó, hậu thuẫn các tổ chức chính đảng là thái
độ cần thiết để tiến trình giải trừ nạn độc tài, tham ô và bất công. Khi
chế độ lo sợ sự thành hình và hoạt động của các tổ chức chính đảng thì
tại sao chúng ta không tập trung vào nỗ lực khai thác yếu điểm đó của
CSVN?
Muốn thúc đẩy tiến trình giải trừ nạn độc
tài, tham ô và bất công hiện nay, người Việt chúng ta cần hăng hái góp
phần tham gia, yểm trợ các Chính Đảng.
Lê Nguyên Bình (ĐVDVN)
Giáo sư G.Chang vẫn khẳng định: Trung Quốc sẽ sụp đổ
Giáo Sư Gordon Chang, tác giả quyển “The Coming Collapse of China”
Bùi Tín
-
Gordon Chang là một giáo sư, một học giả Hoa Kỳ gốc Trung Quốc, từng
viết nhiều sách và bài báo về tình hình chính trị-kinh tế-tài chính của
Trung Quốc. Ông cũng là nhà bình luận có tiếng của tạp chí Forbes, một
tạp chí lớn về kinh tế – tài chính, ra đời từ năm 1917, mỗi tuần ra 2
số, có trụ sở ở New York.
Năm 2001, ngay khi Trung Quốc vừa được gia nhập Tổ chức Thương mại
Quốc tế WTO, Gs Gordon Chang cho ra mắt cuốn sách The coming collapse of
China (Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc).
Cuốn sách trình bày một loạt «quả bom nổ chậm» của Trung Quốc, đó là
dân số quá lớn, lại đang phát triển nhanh; mâu thuẫn giữa thành thị phát
triển nhanh với nông thôn quá trì trệ; vùng duyên hải phát triển quá
mạnh với vùng nội địa phát triển chậm; mâu thuẫn giữa các dân tộc, đặc
biệt là dân Tây Tạng, Uighur với dân tộc đại Hán; mâu thuẫn thế hệ giữa
tuổi trẻ am hiểu thế giới xung quanh qua máy điện toán, Twitter,
Facebook, điện thoại cầm tay với lãnh đạo bảo thủ lạc hậu; mâu thuẫn
giữa khối người theo Pháp Luân Công với chế độ cảnh sát trị…
Những quả bom nổ chậm ấy đang ngấm ngầm phá vỡ cái vỏ ổn định bên
ngoài của chế độ, và đến độ nào đó sẽ phát huy tác dụng tổng hợp, thúc
đẩy nhau đưa chế độ độc đảng đến tình trạng bùng nổ vỡ tung như ở Liên
Xô năm 1991.
Trong kết luận của cuốn sách nói trên, Gs Chang phỏng đoán rằng chỉ
trong chừng 10 năm nữa, Trung Quốc sẽ tan vỡ, sụp đổ, nghĩa là vào
khoảng 2011-2012.
Gần đây, một số bạn đọc của tạp chí Forbes, và trên mạng Forbes.com,
hỏi rằng đến thời điểm này, Gs Chang có còn giữ chính kiến trên đây nữa
không?
Bài báo mới vào tháng 2-2012 của Gs Chang trên tạp chí Forbes là để
trả lời câu hỏi đó. Bài báo kết luận một cách chắc nịch: «Tôi không thấy
có lý do nào để từ bỏ kết luận 10 năm trước. Thực tế càng khẳng định
kết luận ấy».
Ông giải thích thêm về lập luận của ông như sau:
- Thời kỳ vàng son cho sự phát triển do Đặng Tiểu Bình phát động cuối
những năm 1980 đã qua; mỗi chu kỳ phát triển thường không thể quá 30
năm; đà phát triển đã cạn, lợi thế của sự chấm dứt chiến tranh lạnh cũng
cạn theo; quả ngọt của dân số tăng làm tăng sức lao động đã thành quả
đắng về dân số.
- Mới đây Bắc Kinh quyết định không cho công ty nước ngoài mua lại các
công ty nội địa và chủ trương tái quốc hữu hoá một số công ty đã cổ phần hóa là những bước lùi về đường lối.
- Từ năm 2008, thị trường quốc tế đổ vỡ, nhu cầu quốc tế sụt giảm mạnh,
Trung Quốc bị thiệt rất lớn khi đồng Euro bị khủng hoảng.
- Nhu cầu tăng lương cho người lao động toàn xã hội không thể trì hoãn,
chi phí quốc phòng tăng quá lớn, chi phí y tế, giáo dục không tăng- trên
thực tế là giảm tính theo đầu người – sẽ dẫn đến nhiều khó khăn gay
gắt, thảm họa xã hội chồng chất.
- Dự trữ ngoại tệ tuy rất lớn nhưng đã giảm nhanh, do lạm phát cao, lại do
tiền chạy ra nước ngoài theo khối lượng lớn, đặc biệt là từ tháng 9-2011,
- khủng hoảng kinh tế ngày càng đậm nét, đơn đặt hàng công nghiệp giảm
mạnh, ô tô không còn bán chạy, bong bóng tài sản và nhà cửa phình to có nguy cơ nổ bất cứ lúc nào.
- Năm 2010 đã có 150.000 cuộc đấu tranh, biểu tình, bạo loạn, đánh
bom, tự thiêu … nói lên sự bất mãn của quần chúng; năm 2011 lên đến
280.000 cuộc; kỷ lục này sẽ bị vượt trong năm 2012. Đúng vậy, sang năm
2012, số thanh niên, nhà tu hành, nhà sư tự thiêu tăng nhanh; các vụ nổi
loạn, đập phá cơ quan chính quyền, công an ở Tây Tạng, Uighur liên tiếp
nổ ra, người theo Pháp Luân Công ngày càng gan góc, những bloggers trí
thức trẻ tuổi ngảy càng đông thêm và bất khuất…
Đúng vào khi Gs Gordon Chang dự đoán sự sụp đổ của nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa không còn xa, đảng CS bãi chức ông Bạc Hy Lai, ủy viên Bộ
Chính trị đang lên, đưa ông ra khỏi chức vụ bí thư thành uỷ Trùng
Khánh, sau vụ ông Vương Lập Quân, phó thị trưởng đặc trách ngành công
an, xin tỵ nạn chính trị tại lãnh sự quán Hoa Kỳ tại đây nhưng bị từ
chối.
Ông Tập Cận Bình, người sẽ thay ông Hồ Cẩm Đào trên cương vị tổng bí
thư kiêm chủ tịch nước tại Đại hội Đảng lần thứ 18 vào cuối năm nay,
cũng vừa đưa ra nhận định rất bi quan: «Trung Quốc đang là nơi tập trung
mọi thứ thối nát», trong khi đương kim Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng nhận
định là cần phải thay đổi nhiều về kinh té – tài chính và chính trị để
tồn tại, nhưng thay đổi ra sao, thay đổi đến đâu thì không ai dám nói
rõ. Vì không thay thì bế tắc, thế cùng tất biến, mà thay cả hệ thống thì
cũng là biến, là bế tắc và đổ vỡ cho chế độ độc đảng.
Gs Chang là nhà trí thức am hiểu thời cuộc, một nhà bình luận có uy
tín của tạp chí Forbes, không phải là nhà xem bói, đoán mò, bấm độn. Ông
đoan chắc chế độ cộng sản ở Trung Quốc đang đi dần đến bờ vực. Ông
khẳng định rằng « trước những diễn biến hiện tại của tình hình, ông
không có lý do nào để từ bỏ dự đoán về sự sụp đổ không xa của Trung Hoa
Cộng sản ». Cuốn sách The coming collapse of China (Sự sụp đổ sắp đến
của Trung Quốc) vẫn còn nguyên giá trị.
Chúng ta hãy theo dõi tình hình và chờ xem.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên
blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan
điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Theo:
VOA
Có phải báo chí nói quá nhiều về Tiên Lãng?
Báo chí Việt Nam đưa tin về vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng.
Việt Hà
-
Báo chí là một nguồn thông tin rất tốt, vừa qua báo
chí phản ánh rất trung thực làm cho nhân dân hiểu rõ câu chuyện và chính
quyền cũng hiểu rõ. – LS Lê Đức Tiết
Báo cáo đánh giá công tác báo chí năm
2011 của Việt Nam mới đây cho rằng báo Việt Nam đã đăng tải quá nhiều
các bài viết về vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng, Hải phòng. Báo cáo cho
rằng việc này gây mất cân đối với những vấn đề quan trọng khác của đất
nước. Báo cáo cũng cho rằng một số thông tin trên báo sai sự thật, thiếu
khách quan. Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, Việt Hà có bài tường trình.
Trái kết luận của Thủ Tướng
Tại hội nghị báo chí toàn quốc diễn ra
vào ngày 30 tháng 3 vừa qua tại Quảng Ninh, ông Đỗ Quý Doãn, Thứ trưởng
bộ thông tin truyền thông đã trình bày một bản báo cáo về tình hình báo
chí năm 2011.
Bên cạnh việc ca ngợi báo chí đã làm tốt vai trò trách nhiệm là cơ
quan ngôn luận của đảng, nhà nước và diễn đàn của nhân dân, ông cũng nêu
ra một số sai phạm, trong đó đáng chú ý là việc báo chí đã đăng tải quá
nhiều về vụ việc Tiên Lãng, gây mất cân đối với những vấn đề quan trọng
khác của đất nước. Báo cáo còn cho biết Ban tuyên giáo Trung ương và bộ
thông tin và truyền thông đã 4 lần nhắc nhở nhưng có một số tờ báo vẫn
tiếp tục đưa tin dồn dập.
Đánh giá về nhận xét này, ông Vũ Văn
Luân, thư ký liên chi hội nuôi trồng thủy sản huyện Tiên Lãng, người đã
theo dõi rất chặt vụ cưỡng chế đất nói:
Báo chí là một nguồn thông tin rất tốt, vừa qua báo
chí phản ánh rất trung thực làm cho nhân dân hiểu rõ câu chuyện và chính
quyền cũng hiểu rõ.
LS Lê Đức Tiết
“Theo quan điểm của tôi thì nếu nhận
xét như thế là chưa thực sự khách quan và chưa thấy hết vấn đề của Tiên
Lãng, nếu nói về kết luận của Thủ Tướng thì nó có thể lại trái chiều với
kết luận của Thủ Tướng.”
Vụ việc chính quyền huyện Tiên Lãng huy
động công an, bộ đội đến cưỡng chế 30 ha đất đầm nuôi trồng thủy sản của
gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng xảy ra vào
ngày 5 tháng giêng đã gây xôn xao và bức xúc trong dư luận nhiều tháng
qua. Sự việc đã khiến Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, thủ tướng
chính phủ phải vào cuộc điều tra. Vào ngày 10 tháng 2 vừa qua, thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã có kết luận chính thức hành vi cưỡng chế đất của
chính quyền địa phương là sai pháp luật. Không những thế ông Nguyễn Tấn
Dũng còn lên tiếng biểu dương và cảm ơn báo chí đã thông tin kịp thời,
đa dạng, phong phú, có nhiều bài phân tích đa chiều về vụ việc. Ông nói
điều này đã đóng góp cùng các cơ quan chức năng đưa ra kết luận.
Luật sư Lê Đức Tiết, Phó chủ nhiệm Hội
đồng dân chủ và pháp luật của mặt trận tổ quốc Việt Nam, người đã về tận
Tiên Lãng để điều tra tình hình, thì nhận xét:
“Báo chí là một nguồn thông tin rất
tốt, vừa qua báo chí phản ánh rất trung thực làm cho nhân dân hiểu rõ
câu chuyện và chính quyền cũng hiểu rõ. Tôi thấy là báo chí vừa qua làm
rất tốt.”
Ngay chính gia đình ông Đoàn Văn Vươn,
nạn nhân của vụ cưỡng chế đất cũng cho rằng chính nhờ báo chí mà sự việc
đến được như ngày hôm nay. Chị Phạm Thị Báu, em dâu ông Đoàn Văn Vươn
nói:
“Gia đình em đánh giá rất cao sự đóng
góp của báo chí. Bọn em nghĩ đợt này mà không có sự lên tiếng của báo
chí thì chắc là vụ nhà em không tới được ngày hôm nay đâu.”
Một sạp bán báo ở Hà Nội hôm 19-01-2012. RFA PHOTO.
Ông Vũ Văn Luân thì cho rằng, sự lên
tiếng kịp thời của báo chí đã giúp ngăn chặn ý đồ tham nhũng đất đai của
các quan chức địa phương không chỉ đối với đầm của ông Đoàn Văn Vươn mà
còn đối với nhiều đầm xung quanh.
“Xung quanh tác động của báo chí đến
những đầm khác, thì sau kế luận của thủ tướng làm cho ý đồ của ủy ban
nhân dân huyện Tiên Lãng nhằm tham nhũng về đất đai thì đến giờ phút này
tôi cho rằng là đã bị chặn lại và chững lại nên vai trò của báo chí
trong vụ việc Tiên Lãng chúng tôi đánh giá rất cao.”
Gia đình ông Vũ Văn Luân cũng có một đầm nuôi trồng thủy sản trong khu vực và đã có nguy cơ bị chính quyền địa phương thu hồi.
Khi được hỏi về nhận định cho rằng báo chí vừa qua đã nói quá nhiều về Tiên Lãng, chị Phạm Thí Báu trả lời:
Gia đình em đánh giá rất cao sự đóng góp của báo chí. Bọn
em nghĩ đợt này mà không có sự lên tiếng của báo chí thì chắc là vụ nhà
em không tới được ngày hôm nay.
Chị Phạm Thí Báu
“Không đâu, em thấy chuyện này đã gây
bức xúc trong dư luận rất nhiều rồi. Chỉ có một số người có tật giật
mình thì mới nói là nhiều thôi.”
Còn luật sư Lê Đức Tiết thì nói:
“Cái đấy thì tùy người thôi, đứng về
phía nhân dân thì cảm thấy thiếu, họ muốn biết nhiều hơn, còn những
người trong cuộc, nhất là những người vi phạm thì họ thấy là có hơi
nhiều, cái đó đương nhiên thôi.”
Có phù hợp luật báo chí?
Trong chương 3, nhiệm vụ và quyền hạn của
báo chí, luật báo chí Việt Nam nói rõ báo chí phải thông tin trung thực
về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của
đất nước và nhân dân. Báo chí là diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn
luận của nhân dân.
Tuy nhiên, cũng theo luật báo chí, thì báo chí Việt Nam phải tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương, chính sách của đảng.
Lực lượng cưỡng chế thu hồi đất nhà anh Vươn hôm 05/1/2012. Photo courtesy of phapluat.
Theo thống kê mới đây của Bộ thông tin và
truyền thông, Việt Nam hiện có 786 cơ quan báo in với hơn 1 ngàn ấn
phẩm, có 67 đài phát thanh truyền hình trung ương và địa phương. Tất cả
các cơ quan này đều thuộc quản lý nhà nước, và do đó nội dung tin bài
cũng phải được các cơ quan chức năng duyệt xét. Nhà báo Thanh Thảo, một
phóng viên trong nước cho biết:
“Trong báo chí thì thường xuyên có
những điều chỉnh, không phải tự nó điều chỉnh mà do cấp trên điều chỉnh,
chẳng hạn như vụ Tiên lãng nói là sao mà nói nhiều quá, dẹp bớt đi thì
đó là cái chuyện thường xuyên trong báo Việt Nam. Chắc chắn mình cũng
phải bức xúc chứ, nhưng đó là lệnh từ tổng biên tập, cấp trên đã khiến
thì ban biên tập sẽ yêu cầu mình, mình là phóng viên mình phải tuân thủ,
có thể bực bội nhưng không thể làm khác được vì anh có viết nó cũng
không in, báo Việt Nam chuyện đó là bình thường.”
Tổ chức phóng viên không biên giới năm
ngoái đã xếp Việt Nam ở vị trí 172 trong số 179 quốc gia, tức là hoàn
toàn không có tự do báo chí.
Quay trở lại câu chuyện Tiên Lãng, gia
đình ông Đoàn Văn Vươn đến lúc này vẫn đang chờ những thông báo chính
thức từ chính quyền về các kết quả điều tra. Chị Báu nói gia đình chị
vẫn tin là báo chí sẽ tiếp tục theo dõi câu chuyện của nhà chị để đưa
tin kịp thời bởi những gì đang diễn ra chính là sự thật cần được phơi
bày.
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=RznxGh-XiTM
Thư gửi những người đồng ký tên vào Thỉnh nguyện thư gửi CT Trương Tấn Sang về việc bắt giam trái phép công dân Nguyễn Văn Hải
Mẹ Nấm
-
- Thưa toàn thể các bác, cô chú, anh chị và bạn bè đã ký tên vào Thư
ngỏ gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, về việc bắt giam trái phép công
dân Nguyễn Văn Hải!
Chúng ta đã cùng nhau lên tiếng nhằm mục đích để công lý được thực
thi đối với công dân Nguyễn Văn Hải. Mỗi chữ ký của chúng ta là một
tiếng nói tố cáo sai phạm của cơ quan công an. Còn sự im lặng của Ông
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có lẽ là do một tình thế khó xử thế nào đó
của ông. Hy vọng rằng Ông Chủ tịch có tiếng nói trước việc tòa án chuẩn
bị đưa công dân Nguyễn Văn Hải ra xét xử – bởi muộn còn hơn không.
Chúng ta là bạn của anh Nguyễn Văn Hải, cho dù nhiều người trong
chúng ta còn chưa một lần được gặp mặt công dân ưu tú này. Người bạn mà
chúng ta kính trọng và cảm phục sắp phải ra tòa, chúng ta không được
phép để bạn ta và gia đình anh ấy cô đơn. Vì vậy, chúng ta nên thể hiện
tình cảm với bạn hữu mình bằng hành động cụ thể.
Trước tiên, chúng ta cần tiếp tục thăm
hỏi, động viên gia đình anh Hải Điếu Cày cũng như tiếp tục chia sẻ thông
tin ra công chúng về trường hợp của anh. Sau đó, chúng ta phải đến dự
phiên tòa xử bạn chúng ta, để anh ấy biết rằng chúng ta luôn ở bên anh
ấy cùng với lẽ phải và tình bạn.
Chúng ta là bạn của anh Hải trước hết là
trên tinh thần chống quân Trung Quốc xâm lược, và chúng ta đều là những
người đồng chí trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta không thể để một con người đã dấn thân vì đất nước phải cô đơn trước tòa án vì sự can đảm dấn thân ấy.
Hãy xem lại những hình ảnh khi Điếu Cày còn được tự do thì anh chị em đã quây quần bên anh thân thiết biết nhường nào.
Khi hoạn nạn mới biết ai là bạn tốt.
Hãy hành động ngay, thưa anh chị em!
Xin vui lòng phổ biến thư này đến những người khác.
Chân thành cám ơn!
Nhóm những người đã ký tên và gửi thư
thỉnh nguyện đến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về việc bắt giam trái
phép công dân Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày)
Mỹ hứa giảm nhẹ các trừng phạt Miến Điện
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gặp các thành viên Quốc hội Miến Điện
Đức Tâm
-
Để khuyến khích tiến trình cải cách, dân
chủ hóa tại Miến Điện, Hoa Kỳ cần phải có một cử chỉ chứng tỏ thiện chí,
sau cuộc bầu cử bổ sung, ngày 01/04, được cộng đồng quốc tế hoan
nghênh.
Theo hướng này, hôm qua, 04/04/2012, chính quyền Mỹ cam kết sẽ “giảm
nhẹ” các biện pháp cấm vận đang gây nhiều trở ngại cho Miến Điện trong
việc thu hút đầu tư ngoại quốc. Đồng thời, Washington cũng hứa sẽ nhanh
chóng chỉ định một đại sứ đến Naypyidaw.
Các thông báo nói trên đã được Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đưa ra.
Đích thân lãnh đạo ngành ngoại giao Mỹ theo dõi sát sao hồ sơ Miến Điện
và tháng 12 năm ngoái, bà đã công du nước này.
Tiến trình nới lỏng cấm vận được khởi động với việc giảm bớt các biện
pháp cấm xuất khẩu dịch vụ tài chính và đầu tư vào Miến Điện. Chính
quyền Washington nhấn mạnh, sáng kiến này nằm trong khuôn khổ « một nỗ
lực to lớn hơn nhằm tạo thuận lợi cho việc hiện đại hóa nền kinh tế và
thúc đẩy các cải cách chính trị » tại Miến Điện.
Một quan chức Mỹ, xin dấu tên, nói với AFP là nội dung chính xác các
biện pháp được thông báo và lịch trình thực hiện sẽ được làm rõ, nhưng
có thể liên quan đến « thương mại điện tử », bởi vì Miến Điện là « một
trong những nước duy nhất trên thế giới chưa thể sử dụng được thẻ tín
dụng », như MasterCard, Visa hoặc American Express.
Bà Clinton cũng cho biết là « trong những ngày tới », Hoa Kỳ sẽ hoàn
tất các thủ tục nhằm chỉ định một đại sứ ở Miến Điện. Mặc dù hai nước
vẫn có quan hệ ngoại giao, nhưng từ năm 1990, đại diện của Mỹ tại nước
này chỉ là một đại biện, thấp hơn cấp đại sứ.
Đồng thời, Cơ quan phụ trách Phát triển Quốc tế Mỹ sẽ thành lập một
văn phòng ở Miến Điện và Washington sẽ ủng hộ việc bình thường hóa quan
hệ giữa Miến Điện và tổ chức Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc –
UNDP.
Theo giới quan sát, các quyết định trên đây của Hoa Kỳ là sự tiếp nối
chính sách « có đi có lại » được tiến hành từ vài năm qua, thay thế cho
chiến lược cô lập Miến Điện với hậu quả là đẩy quốc gia giàu tài nguyên
này rơi vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.
Ngoại trưởng Mỹ đã ca ngợi « các phẩm chất lãnh đạo tốt và lòng dũng
cảm » của tổng thống Miến Điện Thein Sein, sau cuộc bầu cử bổ sung hôm
Chủ nhật vừa qua, cho phép Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ của bà Aung San
Suu Kyi trở thành lực lượng đối lập chính tại Nghị viện. Bà Clinton
nhận định: « Cuộc bầu cử này là một giai đoạn quan trọng trong quá trình
chuyển đổi của đất nước ».
Mặt khác, Ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng cảnh báo là Washington vẫn duy trì
các biện pháp trừng phạt và cấm đoán đối với những nhân vật và định chế
tại Miến Điện ngăn cản các nỗ lực cải cách. Nhân dịp này, Hoa Kỳ nhấn
mạnh là chính quyền Naypyidaw cần phải trả tự do cho các tù chính trị,
tiến hành hòa giải với các sắc tộc thiểu số, chấm dứt mọi hợp tác quân
sự với chế độ Bắc Triều Tiên.
Ngoại trưởng Mỹ nói: « Cải cách cần phải có thời gian và đó là một
con đường dài. Chúng tôi sẽ tiếp tục rất chú ý đến những gì diễn ra và
như tôi đã nói khi tới thăm nước này, chúng tôi sẽ có khen thưởng, đáp
lại mỗi hành động cải cách ».
Việc bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận đòi hỏi phải có sự chấp thuận của
Quốc hội Hoa Kỳ. Các tuyên bố của Mỹ giảm bớt trừng phạt đối vói Miến
Điện lần này, chắc chắn không liên quan đến việc bãi bỏ lệnh cấm xuất
khẩu các mặt hàng chủ chốt của Miến Điện, ví dụ đá quý. Mặt khác,
Washington cũng cần phải thủ giữ một số phương tiện để có thể tiếp tục
gây sức ép, thúc đẩy tiến trình cải cách ở Miến Điện.
Đầu tuần, một nhà ngoại giao cao cấp của Liên Hiệp Châu Âu nói với
AFP là khối này cũng dự tính giảm đáng kể các biện pháp trừng phạt đối
với Miến Điện. Các Ngoại trưởng châu Âu sẽ thảo luận về hồ sơ này vào
ngày 23/04, tại Luxembourg.
Thượng đỉnh ASEAN: chưa đoàn kết- có chút thành tựu nào?
Lể khai mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN 20
Việt-Long
-
Tuần này thế giới chú ý đến hội nghị
thượng đỉnh ASEAN tổ chức tại Phnom Penh trong hai ngày thứ ba, thứ tư.
Kết thúc hội nghị, dư luận quốc tế nhận định là ASEAN đã không đạt được
một giải pháp căn bản để đối đầu với Trung Quốc trong vấn đề biển Đông.
Tuy nhiên cuộc thảo luận của Việt-Long-Thanh Quang-Nam Nguyên cho rằng
những nước Đông Nam Á có tranh chấp ở biển Đông củng đạt được chút thành
tựu quan trọng trong thế đương đầu với tham vọng của Bắc Kinh.
Chia rẽ hay không?
Thủ tướng Cambodia bác bỏ tin nói hội
nghị chia rẽ. Ngoại trưởng Philippines tuyên bố có khác biệt sâu xa.
Tất nhiên sau cùng thì các nhà lãnh đạo cũng phải đạt một vài đồng thuận
nào đó như thông lệ mọi hội nghị quốc tế, khi họ cùng ký vào bản thông
cáo chung của hội nghị thượng đỉnh; nhưng lời của ngoại trưởng
Philippines vẫn không xa sự thật.
Ngoại trưởng Philippines Rosario trả lời báo chí- RFA photo
Ý kiến của Philippines, Việt Nam và Thái
Lan hoản toàn mâu thuẫn với ý kiến của một hay một số nước trong 7 quốc
gia còn lại. Tuy có ký kết nhưng sự khác biệt vẫn còn đó, chưa “tiện”
giải quyết, theo ngụ ý phía sau những lời tuyên bố.
Trong thông cáo chung kết thúc hội nghị, các nhà lãnh đạo ASEAN nhấn
mạnh nhu cầu gia tăng nỗ lực thực hiện bản Tuyên bố về Ứng xử ở biển
Đông, DOC, dựa trên tài liệu hướng dẫn thực hiện văn bản này đã ký kết
hồi năm ngoái.
Như vậy thì sự mâu thuẫn nằm ở Bản Quy tắc về Ứng xử ở biển Đông, COC.
Người ta lưu ý rằng hai ngoại trưởng Việt
Nam và Philippines là hai nhân vật đến Phnom Penh sớm nhất, sau khi chủ
tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào hoàn tất chuyến thăm chính thức 3 ngày từ 30
tháng 3 đến mùng 2 tháng tư.
Hai vị ngoại trưởng này đã họp với nhau
trước, rồi sau đó tại phiên họp các Bộ trưởng ngoại giao khối ASEAN,
ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã nêu đề nghị khối ASEAN
hãy thảo luận và hoàn tất dự thảo bản Quy tắc ứng xử ở biển Đông rồi mới
đem bàn với Trung Quốc. Đề nghị này được Việt Nam và Thái Lan ủng hộ.
Nhưng trong số bảy nước còn lại đã có ý
kiến muốn Trung Quốc cùng tham dự tiến trình soạn thảo. Cuối cùng hội
nghị thượng đỉnh không đạt được đồng thuận theo đề nghị của Philippines.
Phải muốn một điều gì!
Trung Quốc có ý kiến gì trong việc này
không? Thủ tướng Hun Xen đã tỏ ra nóng nảy khi nói rằng có dư luận
“ngốc nghếch” cho là Bắc Kinh đã dặn Phnom Penh ngăn chặn đề tài biển
Đông tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN.
Tuy nhiên tin tức quốc tế cho biết là chủ
tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào có đề nghị với Cambodia là nên làm chậm tiến
trình bàn thảo về biển Đông tại hội nghị ASEAN. Thủ tướng Hun Xen
không dằn được sự tức giận khi bác bỏ nhận định của dư luận như trên,
nói rằng trong suốt quá trình trên 10 năm quan hệ song phương, Trung
Quốc chưa bao giờ nói Cambodia phải làm gì hay không được làm gì.
Thực tế thì Trung Quốc cũng chỉ gọi là
“đề nghị” như vậy. Một nguyên thủ quốc gia chẳng bao giờ công nhiên bảo
ban nước khác phải làm gì. Và trên nguyên tắc, ASEAN không được tiết lộ
nội dung các hội nghị, nên ngoại trưởng Philippines khi được báo chí
hỏi nước nào không muốn ASEAN soạn thảo trước bản Quy tắc Ứng xử, ông
chỉ nói “Có thể đó là Cambodia”
Tất nhiên Trung Quốc phải muốn một điều
gì đó trong hội nghị ASEAN khi chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có mặt ở Phnom
Penh và Siem Reap ngay trước hội nghị này. Nhưng vì sao Việt Nam và
Philippines muốn khối ASEAN có bản dự thảo trước rồi mới nói chuyện với
Trung Quốc?
Đối đầu trong thế đoàn kết nội bộ
Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN- RFA clip
Philippines và Việt Nam là hai nước đang
có tranh chấp trực tiếp với Trung Quốc, nên muốn toàn khối ASEAN đứng
hẳn về phía mình. Thái Lan và một vài nước khác cũng chọn đứng cạnh Việt
Nam, Philippines để đối diện người khổng lồ Trung Quốc.
Khi ASEAN hoàn tất và đưa bản dự thảo Quy
tắc Ứng xử với Trung Quốc thì rõ ràng đây là vấn đề giữa 10 nước Đông
Nam Á với Trung Quốc, tức là hoàn toàn đa phương giữa một khối 10 quốc
gia với một nước Trung Quốc, đồng thời mang ý nghĩa là Việt Nam,
Philippines được sự ủng hộ của cả khối ASEAN. Như vậy văn kiện ngoại
giao quan trọng này cũng được sử dụng theo môt đường lối chủ động hơn.
Còn nếu Trung Quốc dự cuộc bàn thảo về
bản Quy tắc đó từ đầu, mà Bắc Kinh không hẳn muốn nói chuyện với toàn
thể khối ASEAN mà chỉ chọn những nước có tranh chấp, thì ý kiến của
Trung Quốc có thể có ảnh hưởng lớn đến những Quy tắc ứng xử.
Vấn đề gai góc nhất là về ranh giới lãnh
hải hẳn nhiên sẽ là một đề tài để các bên nêu ra trong cuộc thảo luận
hầu tuyên truyền cho mình, và sẽ gây mâu thuẫn kéo dài. Vấn đề đối tượng
tranh chấp có thể được Bắc Kinh minh định là từng nước liên quan ở từng
trường hợp đối với một mình Trung Quốc. Được như vậy, Trung Quốc phá
được thế đa phương của khối ASEAN để kéo từng quốc gia có tranh chấp
trực tiếp trở lại thế song phương với Trung Quốc.
Bản quy tắc ứng xử này như vậy sẽ chẳng
còn ý nghĩa gì, hay tiến trình thảo luận sẽ kéo dài không biết bao giờ
mới xong. Và kéo dài có nghĩa là đúng sách lược mà Trung Quốc vận động.
Ngoại trưởng Philippines nói bản dự thảo
quy tắc ứng xử cần phân định vùng tranh chấp và vùng không tranh chấp,
và các cơ chế giải quyết phải có cấu trúc thích hợp… Đó là những điều đã
bị Trung Quốc phản đối từ trước. Và theo lời đại sứ Villacorta của
Philippines tại ASEAN cho hãng tin AFP biết, hôm thứ ba Trung Quốc
nói họ muốn được tham gia vào quá trình chuẩn bị và thảo
luận về bản quy tắc này ngay từ đầu. Như vậy rõ ràng Trung Quốc
đã gây ảnh hưởng trong khối ASEAN về vấn đề này.
Cản phá sách lược song phương
Có thể vì vậy nên Ngoại trưởng Việt Nam
khi trả lời đài Á Châu Tự Do đã dứt khoát bác bỏ hình thức song phương
để giải quyết vấn đề biển Đông.
Ông Phạm Bình Minh đã cắt ngang lời thông
tín viên Quốc Việt khi Quốc Việt đang hỏi “Trung Quốc khẳng định là họ
muốn giữ lập trường giải quyết song phương vấn đề biển Đông…”. Bộ
trưởng ngoại giao Việt Nam cắt ngang và nói “không” thật dứt khoát, rồi
nói tiếp: “Vấn đề phải được giải quyết qua thương lượng hoà bình dựa
trên luật pháp quốc tế, bản Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1982 về Luật
biển, và bản Tuyên bố DOC, tiến tới bản Quy tắc COC…”
Thực ra thì hai hội nghị thượng đỉnh
ASEAN hai năm trước cũng chỉ ra những thông cáo mà quốc tế gọi là “yếu
ớt” về bản Quy Tắc Ứng xử đã được đề nghị từ 10 năm na. Hai lần trước
khối ASEAN cũng chỉ đề cập đến ‘Bản hướng dẫn thực hiện bản tuyên bố về
ứng xử”, chẳng khác gì năm nay, mặc dù chủ tịch luân phiên của khối là
Việt Nam và Indonesia trong hai năm đó.
Lý do là vì nguyên tắc đồng thuận tuyệt
đối của ASEAN. Vấn đề nào cũng phải đạt đồng thuận của cả 10 thành viên,
nên việc đối phó với Trung Quốc về vấn đề biển Đông vẫn gặp trở ngại
triền miên từ nhiều năm nay, và còn nhiều năm nữa.
C
hủ tịch ASEAN, Thủ tướng Cambodia Hun Sen, họp báo- RFA photo
Một chút thành tựu
Tuy nhiên phải nói là tới nay thì khối
ASEAN đã gạt bỏ hẳn lập trường của Trung Quốc muốn giải quyết song
phương với từng nước liên quan. Ta lưu ý là chủ tịch ASEAN năm nay đã
tuyên bố “diễn đàn biển Đông là giữa Trung Quốc với các nước ASEAN, vì 10 nước Đông Nam Á đã ký bản tuyên bố về ứng xử DOC…”
Ông Hun Xen nhấn mạnh là sẽ ngăn chặn không cho nước nào khác ngoài
ASEAN và Trung Quốc nhúng tay vào khiến vấn đề trở nên quốc tế hoá và
phức tạp.
Người ta có thể nói chính sách song phương của Trung Quốc đã bị loại bỏ hoàn toàn.
(Trích bản tin đài Á Châu Tự Do ngày 5 tháng 4-2012:
Trung Quốc kêu gọi đối thoại trực
tiếp với các nước Đông Nam Á để giải quyết tranh chấp chủ quyền ở biển
Đông mà nước này gọi là biển Nam Trung Hoa.
Lời kêu gọi của phát ngôn viên bộ
Ngoại giao Trung Quốc, ông Hồng Lỗi đưa ra trong cuộc họp báo thường lệ
tại Bắc Kinh ngày hôm qua, tức chỉ một ngày sau khi lãnh đạo các nước
ASEAN họp tại Cambodia và đưa ra phương hướng giải quyết tranh chấp tại
khu vực trên.
Phát biểu trong một buổi họp báo tại
Bắc Kinh, ông Hồng Lỗi tuyên bố các quy tắc ứng xử trên biển Đông cần
được hình thành từ thảo luận trực tiếp giữa Trung Quốc và các nước
ASEAN, nhấn mạnh rằng chỉ những nước liên quan mới tham gia giải quyết
tranh chấp, còn những tổ chức khu vực như ASEAN nên đứng ngoài.
Cambodia sẵn sàng mang Bắc Kinh vào
việc soạn thảo bộ qui tắc ứng xử nhưng Philippines, Việt Nam và Thái Lan
cho rằng khối ASEAN cần soạn thảo trước khi đưa cho Trung Quốc xem.)
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
Trung Quốc khẳng định không muốn đàm phán với ASEAN về Biển Đông
Biển Đông, nơi tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và nhiều nước Asian
Đức Tâm
-
Hôm nay, 05/04/2012, Bắc Kinh khẳng định
không mong muốn đàm phán với Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN về các
tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vừa bế
mạc ngày hôm qua, tại Phnom Penh, đã cho thấy rõ là khối này không thể
đoàn kết, có một lập trường chung để đàm phán với Trung Quốc về hồ sơ
này.
Trong cuộc họp báo thường lệ, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi tuyên bố: «
Cách nay 10 năm, Trung Quốc và ASEAN đã ký Tuyên bố chung về ứng
xử của các bên – DOC, nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở biển Đông.
Tuyên bố này không nhằm giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ,
các quyền và lợi ích hàng hải tại Biển Đông
».
Trong tuyên bố chung kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh ở Phnom Penh, Cam
Bốt, các lãnh đạo 10 nước thành viên ASEAN đã bày tỏ mong muốn « tăng cường các nỗ lực » để thực hiện Tuyên bố chung DOC.
Tuy nhiên, theo diễn giải của phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì điều này cần phải được tiến hành thông qua « các cuộc thương lượng trực tiếp giữa Trung Quốc và các nước ASEAN », cụ thể là giữa Trung Quốc với từng nước ASEAN có liên quan.
Đại diện của Bắc Kinh nhấn mạnh, « với tư cách là một tổ chức khu
vực, ASEAN đã nhiều lần nhắc lại rằng khối này không đưa ra lập trường
về tranh chấp, và tranh chấp phải được giải quyết một cách hòa bình giữa
các nước liên quan ».
Thực ra, tuyên bố của Bắc Kinh không phải là mới lạ. Từ lâu, Trung
Quốc vẫn khẳng định chỉ chấp nhận đàm phán song phương với từng thành
viên ASEAN có liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Bắc Kinh
không chấp nhận thương lượng đa phương hoặc quốc tế hóa vấn đề này.
Ông Đinh La Thăng có trách nhiệm trong sai phạm tại PetroVN
Thế Kha
-
Trả lời câu hỏi về trách nhiệm của
ông Đinh La Thăng trong những sai phạm tại Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Việt Nam (PetroVN) khi làm lãnh đạo, Phó tổng thanh tra Chính phủ Ngô
Văn Khánh nói: “Trách nhiệm của người đứng đầu là có”.
Sáng nay (5-4), tại buổi họp báo công bố
kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống
tham nhũng quý I/2012 ở Hà Nội, ông Ngô Văn Khánh – Phó tổng thanh tra
Chính phủ – cho biết Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với các kiến nghị sau
thanh tra đối với những sai phạm xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Việt Nam (Petrovietnam – PVN).
Trong đó, Thủ tướng yêu cầu PVN phải rà
soát lại việc đầu tư ngoài ngành, đề xuất xử lý những tồn tại tài chính,
lộ trình thoái vốn cũng như làm việc với Bộ Tài chính trong việc xử lý
vốn… Các công việc đó phải được tiến hành đúng pháp luật và chức năng
nhiệm vụ Chính phủ giao cho tập đoàn này.
Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh (phải) và Phó Tổng thanh tra Chính phủ Ngô Văn Khánh (trái) tại cuộc họp báo
Theo Thanh tra Chính phủ, việc đầu tư ngoài ngành của PVN vào
các lĩnh vực phụ trợ, tài chính, bảo hiểm, bất động sản,
ngân hàng có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn nhiều trong lĩnh vực
chính ngành. Chưa hết, PVN còn mua tàu khảo sát địa chấn 2D đã
quá 10 năm so với quy định đăng kiểm nhưng không báo cáo cơ quan
chức năng, rồi tiếp đó lại chuyển nhượng một số tài sản lớn như
tàu thăm dò địa chấn, khách sạn Du lịch Thái Bình…nhưng các
thủ tục, thanh toán còn nhiều sai sót.
Thanh tra Chính phủ đánh giá, việc để ra những sai phạm nói trên thì
ngoài trách nhiệm của PVN thì các Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải
và các tỉnh Cà Mau, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Ban quản lý Dung Quất cũng có
dính líu.
Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ
ngành thu hồi khoản tiền trên 1.600 tỉ đồng mà PVN cho các đơn
vị bên ngoài ứng vốn để đầu tư nhưng không có kế hoạch trả nợ
hoặc không có khả năng thanh toán. Đồng thời tập đoàn phải xử
lý khoản tiền vi phạm lên tới hơn 18.000 tỉ đồng, trong đó thu
hồi vễ quỹ sắp xếp đổi mới doanh nghiệp khoản tiền gần 2.000
tỉ đồng từ cổ phần hóa chưa nộp và các khoản lãi.
Theo ông Ngô Văn Khánh, Thủ tướng đã
chỉ đạo PVN phải sớm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan
trong việc để xảy ra những sai phạm rất lớn trong thời gian dài. Hiện
việc xem xét trách nhiệm của tập thể, cá nhân để xảy ra sai phạm tại
đang được xem xét nghiêm túc.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về trách
nhiệm của ông Đinh La Thăng trong thời gian ông làm Chủ tịch tập đoàn
(2006-2011) tới đâu khi PVN mắc những sai phạm lớn như vậy, ông Khánh
cho biết điều này sẽ được sáng tỏ sau khi tiến hành rà soát.
“Trách nhiệm của người đứng đầu là có,
tuy nhiên việc sai đó đôi khi do cấp dưới của họ cố ý làm sai và đã phải
chịu trách nhiệm rồi. Nhìn vào con số sai phạm thì chưa thể nói trách
nhiệm đó của ai. Việc này phải xem xét theo đúng trình tự, thủ tục trên
tình thần chỉ đạo rất nghiêm túc” – ông Khánh cho biết.
Trước những ý kiến cho rằng về việc xử lý
kết luận thanh tra nhiều năm nay theo kiểu “đầu voi đuôi chuột”, ông
Khánh thừa nhận việc hậu kiểm chưa tốt lắm. “Chúng tôi đã kiến nghị
Chính phủ cho phép thành lập một vụ thuộc Thanh tra Chính phủ chuyên phụ
trách về khâu đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra. Thậm chí sẽ có chế
tài mạnh về những đơn vị không thực hiện nghiêm kết luận của cơ quan
thanh tra” – ông Khánh cho biết.
Ông Đinh La Thăng giữ chức Bí thư Ban cán
sự đảng, Chủ tịch HĐQT và sau này là Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN
từ tháng 10-2006 đến tháng 8-2011.
Theo:
NLĐ.
37 năm bị “bịt miệng” trên “xứ sở tự do” (hết)
Trọng Linh
-
Trên tờ Việt Weekly (báo tiếng Việt tại
Mỹ) ra ngày 23-11-2011, trong bài “Cảnh giác với bọn xấu tung tin phá
hoại”, có đoạn viết: “Đã đến lúc toàn dân, thương gia, độc giả phải lên
tiếng tự bảo vệ mình bằng cách báo cho cảnh sát, chính quyền sở tại để
có thái độ với những hăm dọa vô cớ. Phải đòi cho được quyền đọc báo,
quyền đi lại, quyền hội họp, quyền làm ăn theo hiến pháp Hoa Kỳ. Bọn độc
tài phải chấm dứt hành động gây rối bằng biểu tình. Chính bọn côn đồ
chính trị cực đoan này tạo mầm mống cho bọn xấu đứng trong bóng tối phá
hoại… Bọn côn đồ độc tài xưa nay chuyên
mang cờ vàng, lấy chiêu bài “chính nghĩa quốc gia” để hù dọa thương gia,
o ép chủ chợ với nhiều hình thức man rợ, bẩn thỉu…”. Cùng với lời kêu
gọi này, hàng loạt báo, đài Việt ở Mỹ đã “vùng lên” kể tội bọn phản động
lưu vong chuyên đàn áp báo chí, đòi quyền tự do ngôn luận cho báo Việt.
Kỳ cuối: “CHIẾN ĐẤU” ĐỂ HƯỚNG VỀ QUÊ HƯƠNG
Trước tình trạng bị áp bức kéo dài, nhiều
nhà báo, tờ báo Việt ở Mỹ đã dũng cảm vạch mặt đám phản động cực đoan.
Cả chục nhà báo bị chúng trả thù, giết chết; nhiều cơ quan báo chí bị
đốt, đập phá, hăm dọa… Thế nhưng khát vọng tự do cho báo Việt trên đất
Mỹ suốt 37 năm qua chưa bao giờ bị dập tắt.
“PHÁ XIỀNG” ĐANG TRỞ THÀNH PHONG TRÀO
Cuối năm 2011 và đầu năm 2012, đoàn nhà
báo Việt ở Mỹ gồm: Vũ Hoàng Lân (phố Bolsa TV), Etcetera Nguyễn và Mimi
Tưởng (Việt Weekly), Nguyễn Phương Hùng (KBC hải ngoại)… đã có hai
chuyến về Việt Nam làm việc trong hơn năm tuần lễ. Sau khi tiếp xúc với
các giới chức, tự do thoải mái đi nhiều nơi từ Bắc vào Nam để làm phóng
sự, đến thăm và trao đổi với một số cơ quan báo đài trong nước, họ đã có
những cái nhìn rất khách quan về quê hương. Khi trở về lại Mỹ, suốt hai
tháng gần đây, nhóm nhà báo này đã gây ra nhiều cú sốc cho làng báo
Việt. Họ đã thực hiện nhiều phóng sự trên báo in, báo điện tử, truyền
hình hải ngoại về những thay đổi lớn lao, tuyệt vời ở Việt Nam. Họ càng
tự tin và dũng cảm hơn với nghĩa vụ của nhà báo trước công chúng là đưa
tin kịp thời, trung thực và sẵn sàng đối đầu với bọn phản động cực đoan
để nói lên sự thật. Nhà báo Nguyễn Phương Hùng – nguyên là sĩ quan biệt
động quân đội Sài Gòn cũ, một người từng chống cộng có “số má”, sau hai
chuyến đi này đã nói: “Tôi thấy năm, bảy năm nữa Việt Nam sẽ xán lạn,
rực rỡ. Tôi mong những người chống đối sẽ về thăm lại đất nước trước khi
họ thật sự nằm xuống ở hải ngoại. Về một lần rồi họ sẽ đồng ý với việc
làm của tôi – yêu nước và yêu quê hương (KBC hải ngoại ngày 1-3-2012).
Nói là làm, ông Hùng đã cho đăng trên trang web của mình lá cờ đỏ sao
vàng – một hành động thách thức nhóm phản động cực đoan. Ngoài cờ Tổ
quốc, trang KBC hải ngoại vốn là “trong nhà” của binh lính, sĩ quan chế
độ cũ với quan điểm chống cộng cực đoan, gần đây còn đăng lại rất nhiều
tin bài của báo chí trong nước, trong đó có cả những bài chống các tổ
chức phản động lưu vong và các quan điểm sai trái từng được đăng trên
Báo Công an TPHCM. Ngày 19-3-2012, KBC hải ngoại cho đăng bài “Chống
cộng cực đoan – rối loạn tâm thần” của tác giả Amari TX, lên án các tổ
chức phản động lưu vong bằng những từ ngữ mạnh mẽ: “Bọn chống cộng cực
đoan đã đi đến tận cùng của chủ nghĩa lưu manh với những băng đảng, hội
đoàn, hàng trăm tổ chức mang nhãn hiệu ma trơi trên khắp nước Mỹ. Chúng
bị sai khiến, lạm dụng trở thành những nạn nhân và những con rối trong
tay ngoại bang”… Đây là sự thay đổi vô cùng lớn, làm nức lòng bà con
Việt kiều ở Mỹ. Bởi vậy trang web này đang thu hút rất nhiều độc giả.
Chỉ riêng ngày 14-3-2012, đã có 22.130 lượt truy cập. Còn trong tháng
3-2012, đã có 500.000 người vào đọc…
Đồng hành với KBC hải ngoại, báo in Việt
Weekly và kênh truyền hình phố Bolsa TV cũng đang đổi mới trong quan
điểm đưa thông tin. Họ chấp nhận đối đầu với các nhóm phản động cực đoan
để đòi quyền tự do ngôn luận. Gần đây cả hai báo, đài này đồng loạt
đăng phát biểu của nhà thơ Dr.Yêu nói về những nhóm phản động cực đoan:
“Quê hương đang cần chung tay xây dựng chứ không phải phá hoại. Quý vị
đã phá hoại 36 năm rồi, được cái gì? Một con số 0 to tướng, một đầu óc
méo mó… với tôi, bọn biểu tình chống báo Việt Weekly là để kiếm cơm,
kiếm danh, kiếm tiền, kiếm gái… chống như thế là chống cả nước Mỹ, chống
cả chính phủ Hoa Kỳ!”.
Trong thư tòa soạn đăng trên tờ Việt
Weekly số 12NO6 (tháng 2-2012), cho biết: Nhiều báo đài Việt ở Mỹ hiện
đang đi theo khuynh hướng chống lại sự đàn áp báo chí của bọn phản động
cực đoan. Nguyên văn: “Cộng đồng chúng ta đang trong thời gian thẩm
thấu, chiêm nghiệm và thay đổi tập quán về tự do ngôn luận. Những dấu
hiệu thay đổi đã bắt đầu bằng một thế hệ của những người trẻ hơn (của
các báo đài – TG) người Việt, Việt Face, Sức mạnh cộng đồng, Việt Media
Agency, phố Bolsa TV… sẵn sàng nói thẳng, sẵn sàng nói thật, sẵn sàng
bất đồng…”.
ĐOÀN NHÀ BÁO HẢI NGOẠI ĐÁNH GIÁ CAO BÁO CHÍ TRONG NƯỚC
Ngày 27-2-2012, đại diện các báo, đài:
Việt Weekly, KBC hải ngoại, phố Bolsa TV đã tổ chức họp mặt tổng kết,
đánh giá chuyến hồi hương tác nghiệp vừa qua. Nội dung cuộc trao đổi
được đăng rộng rãi trên nhiều phương tiện truyền thông tại Mỹ. Tham dự
có các nhà báo Nguyễn Phương Hùng, Etcetera Nguyễn, Vũ Hoàng Lân và một
nhà báo lớn tuổi được những người kia gọi là “anh Quân” hay “chú Quân” .
Cuộc trao đổi khá dài, được đưa lên Internet thành ba clip, tập trung
thành các nhận xét chính, như:
- Trong nước trân trọng đoàn nhà báo hải
ngoại về tác nghiệp. Lãnh đạo các cơ quan mà đoàn tiếp xúc rất cởi mở,
thẳng thắn và tự tin khi đối thoại với báo chí hải ngoại.
- Báo chí quốc nội phát triển ngoài sức
tưởng tượng của đoàn nhà báo hải ngoại. Những đài truyền hình với cao ốc
rất cao, phim trường rất lớn, cho thấy chính phủ rất quan tâm đến sự
phát triển báo chí. Các cơ quan báo in rất đồ sộ, cơ sở vật chất dồi
dào, thị trường rất lớn, lực lượng đông đảo và chuyên nghiệp vì đã được
đào tạo qua đại học. Các cơ quan báo chí này không thua gì báo Mỹ ở tính
cạnh tranh và quy mô hoành tráng. Nếu báo hải ngoại chủ yếu khai thác
thông tin từ báo chí trong nước rồi tìm kiếm quảng cáo, rao vặt, thì báo
trong nước chất lượng cao hơn với những phóng sự đặc biệt, thu hút đông
độc giả.
- Báo chí cũng như Internet ở Việt Nam
không bị kiểm duyệt như chế độ Sài Gòn trước đây. Báo chí đang phát
triển nhanh cùng với sự phát triển của nền kinh tế, bất chấp sự suy
thoái của kinh tế thế giới.
- Đoàn nhà báo hải ngoại được tác nghiệp ở
mọi lúc, mọi nơi, kể cả ra Trường Sa. Nhưng vì thời gian quá ít nên hy
vọng sẽ thực hiện những việc chưa làm kịp vào các chuyến đi sau.
- Báo chí Việt tại Mỹ nên về Việt Nam để
nắm tình hình đổi mới của đất nước (nhà báo Nguyễn Phương Hùng có nói:
“Sau chuyến đi này tôi càng thấy truyền thông hải ngoại đã đầu độc người
xem suốt bao năm qua” – trích báo Tiền phong ra ngày 18-9-2011) và báo
chí trong nước nên hợp tác với báo, đài hải ngoại để thắt chặt tình
nghĩa dân tộc giữa đồng bào trong nước và bộ phận người Việt sống xa quê
hương…
PHẦN KẾT CHO LOẠT BÀI
Hiện có rất nhiều “nhà dân chủ” người
Việt trong, ngoài nước đang mù quáng hùa theo giọng điệu xuyên tạc, vu
khống của những kẻ chống phá Việt Nam, để cao giọng đòi dạy cho dân Việt
Nam “thực thi dân chủ”, “tự do ngôn luận”, “đòi hỏi nhân quyền”… sao
các vị không dành thời gian, tâm huyết và cả những mánh lới vu vạ đó đấu
tranh cho tự do báo chí của hai triệu Việt kiều ở Mỹ? Đây là cộng đồng
bị những tổ chức phản động lưu vong đàn áp tự do ngôn luận suốt 37 năm
qua và đang rất cần những trợ giúp để “đứng lên” đòi quyền sống, quyền
được làm báo, được đọc báo Việt…
Trong khi cả thế giới đánh giá cao nỗ lực
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng xã hội công bằng dân
chủ ở Việt Nam. Trong khi cả dân tộc Việt Nam đang làm hết sức mình để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thì các “nhà dân chủ” vì quá rảnh rỗi nên cố
bôi đen phá hoại. Họ không muốn Việt Nam cường thịnh, họ chỉ muốn đất
nước này tan vỡ, loạn lạc theo mô hình của “cách mạng màu”, “cách mạng
hoa nhài”, “mùa xuân Ả Rập”… Họ muốn đem sinh mệnh cả dân tộc ra đùa
giỡn “thí nghiệm” dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”. Cái trò láu cá,
mị dân này xưa lắm rồi, chẳng còn lừa được ai đâu!
Trọng Linh
Nguồn: C.A.N.D
Công dân Hà Nội đề nghị đối thoại với ông Phạm Quang Nghị, bí thư thành ủy Hà Nội
Nguyễn Xuân Diện
-
Sáng nay, những người biểu tình và ủng hộ
biểu tình yêu nước, phản đối Trung Quốc gây hấn, xâm phạm chủ quyền
Việt Nam trên Biển Đông đã gửi văn bản ĐỀ NGHỊ ĐỐI THOẠI VỚI ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI, BÍ THƯ THÀNH ỦY HÀ NỘI PHẠM QUANG NGHỊ VỀ VIỆC THỰC THI CÁC
QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN TẠI ĐỊA BÀN HÀ NỘI.
Văn thư đã được gửi qua bưu điện phát
chuyển nhanh, có chữ ký của các vị lão thành cách mạng, nhân sĩ trí thức
như: Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên UV TƯ Đảng, nguyên Đại sứ VN tại
TQ), Cụ bà chống tham nhũng Lê Hiền Đức, các Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Ngô
Đức Thọ, Chu Hảo, các Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Nguyễn Văn Khải, Nguyễn
Xuân Diện, Nhà văn Nguyên Ngọc, Luật sư Trần Vũ Hải, ông Phan Tất Thành
(cựu thiếu sinh quân), bà Đặng Bích Phượng (Phương Bích),…
Toàn văn văn bản:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
_________________________
Hà Nội, ngày 03 tháng 04 năm 2012
ĐỀ NGHỊ ĐỐI THOẠI VỚI BÍ THƯ THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HÀ NỘI
V/v: Thực thi các quyền cơ bản của công dân tại địa bàn Hà Nội
Kính gửi: Đại biểu Quốc hội, Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị
Chúng tôi những công dân, cử tri cư trú
trên địa bàn thành phố Hà Nội (Danh sách họ, tên và chữ ký kèm theo) xin
gửi tới Quý Bí thư Thành ủy, Đại biểu Quốc hội khóa XIII lời chào trân
trọng và đề nghị sau đây.
Chúng tôi đánh giá cao trách nhiệm của
ông tại buổi gặp ngày 27/08/2011, tại trụ sở UBND thành phố Hà Nội do
ông đứng đầu đại diện cho lãnh đạo Đảng, Chính quyền thành phố Hà Nội
chủ động tổ chức để đối thoại với các công dân, cử tri mà có một số
người ký tên trong danh sách dưới đây đã tham gia. Cuộc đối thoại hôm đó
xoay quanh chủ đề quyền biểu tình của công dân, tính pháp lý của Thông
báo yêu cầu chấm dứt biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền
của Việt Nam của UBND thành phố Hà Nội, và ý kiến phản đối việc đàn áp
người biểu tình yêu nước…Cuộc gặp nói trên tuy chưa thỏa mãn được yêu
cầu của hai bên, nhưng chúng tôi cho rằng nó được diễn ra với “tinh thần
xây dựng và thẳng thắn”, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa chính quyền
và người dân. Trong buổi gặp, ông còn nói (với ông Nguyễn Trọng Vĩnh):
“Ngoài ra, có vấn đề gì cần trao đổi thêm, xin Bác cứ nói với anh em
chúng tôi”.
Nhưng sau đó UBND thành phố Hà Nội lại có
hành động đi ngược lại với tinh thần đối thoại ngày 27/08/2011 đối với
công dân nói chung, và nói riêng là trường hợp bà Bùi Thị Minh Hằng,
người tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt
Nam đã bị bắt, đưa vào Trại giáo dục Thanh Hà ngày 27/11/2011 theo
Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố
Hà Nội. Ngày 18/12/2011, Bà Bùi Thị Minh Hằng đã ủy quyền cho luật sư
gửi Đơn khiếu nại Quyết định số 5225/QĐ-UBND đến Chủ tịch UBND thành phố
Hà Nội Nguyễn Thế Thảo. Đến nay đã quá thời hạn giải quyết theo Luật
khiếu nại, tố cáo (khoản 1, Điều 36 là 30 ngày) nhưng không có kết quả
giải quyết. Chúng tôi ý thức rằng đây là vấn đề hệ trọng liên quan đến
những quyền tự do cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 1992, sửa đổi,
bổ sung năm 2001, quy định, đó là:
- Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí;
quyền được thông tin; quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định
của pháp luật – Điều 69;
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm – Điều 71;
- Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật – Điều 72;
- Quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước, hoặc bất cứ cá nhân nào – Điều 74;
- Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân – Điều 77.
Việc các cơ quan chức năng của Thành phố
tiếp tục gây khó khăn, ngăn cản các quyền công dân nói trên và việc áp
dụng biện pháp đưa bà Bùi Thị Minh Hằng vào cơ sở giáo dục của Chủ tịch
UBND thành phố Hà Nội đã gây nên làn sóng phẫn nộ trong xã hội, xúc phạm
tình cảm yêu nước thiêng liêng của người Việt Nam, gây bất lợi cho thế
trận toàn dân bảo vệ Tổ quốc trong khi chủ quyền quốc gia ở Biển Đông,
tài sản, tính mạng của ngư dân hàng ngày bị xâm phạm, đe dọa.
Căn cứ Điều 53, Hiến pháp quy định:
“Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân.”
Căn cứ Điều 51, Luật Tổ chức Quốc hội 2001, sửa đổi, bổ sung 2007, trích:
“Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt
chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với
cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh
trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước
hữu quan.”
Nay chúng tôi đề nghị có buổi đối thoại
với Quý ông trên cương vị là Bí thư Thành ủy thành phố Hà Nội, người
đứng đầu tổ chức Đảng, hệ thống chính trị, bộ máy Nhà nước của thành phố
Hà Nội, và là Đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố
Hà Nội.
Nội dung buổi đối thoại:
Những vấn đề liên quan đến việc thực thi
các quyền cơ bản của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội và yêu cầu
trả tự do cho bà Bùi Thị Minh Hằng;
Thời gian dự kiến:
Vào tuần trung tuần tháng 4 năm 2012;
(từ ngày 10 tháng 4 đến 20 tháng 4 năm 2012)
Địa điểm:
Do ông hoặc chúng tôi thu xếp;
(Đề nghị Ông gửi giấy mời đầy đủ cho 25 người trong danh sách ký tên)
Chúng tôi, hy vọng tiếp tục nhận được
thiện chí và sự quan tâm của Quý Bí thư thành ủy Hà Nội đối với tâm tư,
nguyện vọng của cử tri, của người dân Thành phố./.
Đại diện liên hệ:
Bà Đặng Phương Bích (Đặng Bích Phượng)
Địa chỉ: P.1002, nhà No 6, đường Trần Đăng Ninh, Quận Cầu Giấy, Tp Hà Nội
Điện thoại:
Danh sách những người ký tên:
1. Nguyễn Trọng Vĩnh
2. Lê Hiền Đức
3. Nguyễn Huệ Chi
4. Chu Hảo
5. Nguyên Ngọc
6. Ngô Đức Thọ
7. Nguyễn Quang A
8. Nguyễn Văn Khải
9. Phan Tất Thành
10. Nguyễn Xuân Diện
11. Đặng Bích Phượng (Phương Bích)
12. Nguyễn Văn Phương
13. Hồ Thanh Tâm
14. Phạm Quỳnh Hương
15. Phan Trọng Khang
16. Nguyễn Văn Viễn
17. Trần Vũ Hải
18. Lã Việt Dũng
19. Nguyễn Hữu Vinh
20. Mai Xuân Dũng
21. Lê Dũng
22. Nguyễn Lân Thắng
23. Nghiêm Ngọc Trai
24. Trương Văn Dũng
25. Phạm Văn Chính
Sau Chuyến Trở Về Từ Việt Nam
Đại gia Việt – Tư bản Đỏ
Trần Việt Trình
-
(Đây là một bài viết về TPHCM mà tác giả đa nhận định sau chuyến đi VN về)
Rất đúng… TPHCM hiện nay có 0.02% rất
giầu có, Việt Kiều về chơi nay cảm thấy bé nhỏ như con kiến và không còn
dám ba hoa chích chòe, không dám vung vài đồng Dollars để khoác lác nhu
hồi năm 1991 nữa!
Còn lại dân số 99.08% thì…. nghèo còn hơn con rệp!
Tình trạng Jobs ở VN thì rất ‘huy hoàng’…và dân ta tha hồ mà chọn một trong 3 con đuờng sau đây…
Con đuờng thứ nhất… là thất nghiệp, có dịp ở nhà để đi nhậu nhẹt tối ngày ! tiệm nhậu đông khách ngày đem.
Con đuờng thứ hai… là bán cửa hàng vặt (Retails), còn đói hon là cái bà bán bún riêu rong !
Và con đuờng thứ ba…đó là làm công nhân
trong xuởng đề bọn tài phiệt WTO bóc lột sức lao dộng (Nike, Coca Cola,
xuởng may quần áo của Đại Hàn)..
Nói tóm lại nhìn lên thì ôi chao oi…thấy
tòa nhà cao ngất, đẹp đẽ vô cùng và khi nhìn xuống thì… bên Mỹ mình gọi
là cái ‘Dead-End Future’!
Đó là cái ‘big picture’ để mình diễn tả về nền kinh tế hiện nay tại TPHCM.
Có ai về VN gần đây sẽ thấy truớc mắt cái hình ảnh nhu sau ..
Hầu hết những Đại Lý xe hơi sang đều đã có bên TPHCM, thí dụ Mercedes Benz, Lexus!
Nhiều tòa nhà Hotel mọc lên như nấm, một căn nhà bé tý cũng xây lên 10 tầng để cho Du Khách ‘Ba Lô’ thuê phòng rẻ!
Vi đại nhất.. là những tòa nhà Financial
Center, thí dụ nhu cái tòa nhà đang trong giai đọan xây cất tên
‘BexiCom’ building với Helipod cho trực thăng đáp xuống rất đẹp mắt để
chụp hình làm kỷ niệm!
Real Estate ở TPHCM là một trong những bất động sản đắt nhất trên thế giới!!
Nói tóm lại, sự bành truớng của cái thành
phố của “cụ Hồ ta” tăng lên 1000% y hệt nhu ‘big brother Trung Quốc’,
tòa nhà Finance Center cao trọc trời và ở trong vắng nhu chùa Bà Danh vì
chả có ai muớn nổi, tầng nào cũng có cái bảng ‘Vacancy’ to tổ bố trên
cửa kính nằm đó cả tháng!
Những sự kiện này cho ta biết đuợc gì về tình hình kinh tế ở VN?
Không phải vì ‘thối mồm nói xấu’, thực
tâm mà nói… đó là ‘Kinh tế theo kiểu bánh Phồng Tôm hay là.. Dầu Cháo
Quẩy’, và bổn cũ sọan lại…ai mà không còn nhớ cái vụ ‘nuôi trứng Chim
Cút’ hồi xưa?
Bởi vì.. chỉ có bề ngoài và bên trong
rỗng ruột! thí dụ nhu giá cả Real Estate cao ngất không phải vì là giá
trị thực sự của giới tiêu thụ cần thiết, mà chỉ là do những anh thương
gia, cán bộ CS cao cấp… quanh quẩn buôn qua rồi lại bán lại với nhau để
tạo ra một giá cả giả tạo, câu khách những anh Viêt Kiều khù khờ và nhẹ
dạ… ôm tiền về VN định làm giầu đề rồi cháy túi!! và nếu có phuớc của
ông bà dể lại thì họ chạy về đuợc đất Mỹ là may lắm thay vì ngồi tù mọt
gông!
Nghe chuyện đến đây, chắc các bạn ngao ngán lắm? đi VN về rồi kể gì mà toàn là cái xấu..thế còn cái đẹp thì sao?
Xin thưa.. nói về cái đẹp thì có chứ… cái
đẹp nhất mà tôi thấy tận mắt đó là nuớc Australia giúp đỡ VN một cách
rất thật tình và hữu hiệu.. đó là giúp đỡ và vun xới cho tuơng lai của
VN bằng cách xây lên rất nhiều truờng Đại Học và truờng Kỹ Thuật thay vì
tạo cơ hội cho những CS cao cấp tham nhũng nhu chính sách đối ngọai mà
nuớc Mỹ đang làm mấy năm nay!
Công Tử Bạc Liêu ngày xưa, một số “công tử” và “công nương” tiêu biểu của triều đại mới.
Thành ngữ “Công Tử Bạc Liêu” ra đời từ
những năm đầu thế kỷ 20. Thời đó, nguời Pháp sau khi ổn định về tổ chức
của vùng đất thuộc địa Nam Kỳ, do việc phân chia lại ruộng đất đã làm
nảy sinh rất nhiều đại điền chủ ở vùng đất này. Thuở ấy, các đại điền
chủ và hào phú quyền quý khắp Nam Kỳ thuờng cho con lên Sài Gòn theo học
ở các truờng Tây, thậm chí còn cho các cậu du học tận bên Pháp. Hầu hết
các vị công tử giàu có này, ảnh huởng bởi sự phồn hoa đô hội, sẵn tiền,
nên thuờng đi vào con đuờng ăn choi để thể hiện đẳng cấp của mình.
Trong số những vị công tử ấy, không ai đủ sức xài tiền nhu các công tử
Bạc Liêu. Thành ngữ “Công Tử Bạc Liêu” ra đời từ đó. Sau đó, thành ngữ
này đuợc dùng để chỉ Trần Trinh Huy vì chẳng công tử nào sánh kịp về khả
năng tài chính và độ phóng túng nhu vị công tử này. Công Tử Bạc Liêu
Trần Trinh Huy sanh năm 1900 và mất năm 1973, còn có tên tục là Ba Huy,
là một tay choi nổi tiếng ở Sài Gòn và miền Nam những năm 1930, 1940.
Ba Huy sống thật sang trọng và xa hoa. Ra
đuờng là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của
Ba Huy là ăn sáng kiểu Tây, trua ăn com Tàu, chiều ăn com Tây. Mỗi lần
từ Bạc Liêu đi Sài Gòn là Ba Huy ngồi trên chiếc xe cáu cạnh, có tài xế
lái. Khi lên Sài Gòn ít khi Ba Huy ở ngôi biệt thự của gia đinh mà ở một
trong những khách sạn nổi tiếng sang trọng ở Sài Gòn. Có khi hứng chí
đi dạo mát Ba Huy thuê cả chục chiếc xe kéo, Ba Huy ngồi một chiếc,
những chiếc còn lại chở những món đồ lỉnh kỉnh khác của mình.
Ba Huy rất ham vui, thích ăn choi và
thuờng ngụp lặn trong những bàn tiệc với ruợu sâm banh. Mỗi chủ nhật Ba
Huy đều đi nghỉ cuối tuần ở Vung Tàu, Đa Lạt hoặc về Cần Tho. Ba Huy
cung là một kẻ mê cờ bạc, có những khi ông đánh một cây bài 30,000 đồng,
trong khi lúa chỉ 1.7 đồng một giạ và luong của Thống đốc Nam Kỳ lúc đó
chua tới 3,000 đồng một tháng.
Từ đó “Công Tử Bạc Liêu” trở thành danh
xung riêng của Ba Huy, không một ai có thể tranh chấp. Và từ đó “Công Tử
Bạc Liêu” cung trở thành một thành ngữ để chỉ những kẻ ăn choi.
Đó là chuyện ngày truớc. Ngày nay, chế độ
“vô sản” CSVN sinh sản ra hàng loạt “công tử” và “công nuong” bỏ xa
Công Tử Bạc Liêu, về khả năng tài chính cũng như về mức độ ăn choi và
phóng túng.
Nói đến những Công Tử Bạc Liêu thời nay ở
VN không ai không biết những tên nhu Võ Quốc Thắng gắn liền với Gạch
Đồng Tâm hay Đoàn Nguyên Đức – Gia Lai. Đoàn Nguyên Đức sẵn sàng hạ 5ha
cao su trị giá 10 tỷ đồng để chuẩn bị xây học viện bóng đá, còn ông bầu
Vo Quoc Thắng đầu tu hàng chục tỷ đồng vào CLB đá bóng chỉ với mục đích
quảng bá tên tuổi mình.
“Công Nuong Bạc Liêu” Nguyễn Thị Huờng,
Chủ tịch HĐQT Công ty Hoàn Cầu, không phải là nhà sản xuất, kinh doanh
nhu các vị Công Tử Bạc Liêu kia mà tài sản của Công nuong chủ yếu là bất
động sản. Chỉ riêng khu du lịch sông Lô (Nha Trang), khu đất hàng ngàn
mét vuông tại đuờng Cách mạng Tháng Tám (quận 1, Saigon) và hàng chục dự
án đất đai khác, giới kinh doanh bất động sản uớc tính khối tài sản này
của Công nuong xấp xỉ 2,000 tỷ đồng.
Nếu nhu truớc đây, giới doanh nhân chỉ
cần có chiếc “xe con” là oai rồi, không quá quan trọng đó phải là của
hãng nào, sang trọng hay bình dân, thì những năm gần đây, xu huớng tiêu
dùng của giới doanh nhân đã đổi khác. Không đon thuần chỉ là phuong tiện
đi lại mà còn là thể hiện đẳng cấp đại gia. Đây chính là lý do để những
con “ngựa sắt” tên tuổi nhu Maybach, Rolls-Royce, Bentley hay Aston
Martin lần luợt lăn bánh về Việt Nam.
Xe “siêu sang”
Cuối năm 2006, thị truờng xe hoi trong
nuớc rộ lên phong trào sắm xe “siêu sang”. Mở đầu cho làn sóng sắm xe
bạc tỷ trong giới doanh nhân Việt là bà Duong Thị Bạch Diệp, giám đốc
Công ty TNHH địa ốc Diệp Bạch Duong.
Không chỉ nổi đinh nổi đám trong linh vực
bất động sản, đầu năm 2008, nữ doanh nhân này còn choi nổi lấy tiếng
bằng cách tậu riêng cho mình chiếc xe Rolls-Royce trị giá tới hon 23 tỷ
đồng.
Chiếc xe đuợc gắn biển tứ quý 77L-7777.
Mã 77L thuộc tỉnh Bình Định, noi chủ nhân chiếc xe này sinh ra và lớn
lên. Công Tử Bạc Liêu còn sống chắc phải khóc thét vì “Công Nuong Bình
Định” này!
Chiếc Rolls-Royce Phantom 23 tỷ đồng của đại gia bất động sản Duong Thị Bạch Diệp mang bảng số 77L-7777
“Công Tử Bà Rịa” cũng đâu chịu thua “Công
Nuong Bình Định”. Tháng 9 năm 2008, Lê Ân – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng
Giám đốc Công ty TNHH Lê Hoàng (trụ sở đặt tại Bà Rịa-Vung Tàu) chính
thức công bố chiếc xe hoi Rolls-Royce Phantom trị giá 1.54 triệu Mỹ kim
(nếu tính cả thuế nhập khẩu trị giá 25.6 tỷ đồng) đa thuộc sở hữu của
mình.
Đây là chiếc xe hoi sang trọng thứ 2 đuợc
tay choi Lê Ân tậu. Truớc đó, tháng 2/2008 tay này cung đa tậu chiếc xe
Mercedes AMG S63 trị giá gần 6.4 tỷ đồng VN.
Không thuộc dòng xe “khủng” nhu của tay
choi nữ Bạch Diệp hay của tay choi nam Lê Ân , chiếc Bentley Continental
Flying Spur màu đỏ của bà chủ hãng mỹ phẩm Shiseido VN Lê Hoài Anh cung
tạo nên con “địa chấn” trong giới doanh nhân. Do tính chất “kén nguời”
của dòng xe sieu sang này nên chiếc Bentley Continental Flying Spur màu
đỏ của bà chủ hãng mỹ phẩm Shiseido thuộc “hàng độc” lần đầu tiên có tại
VN.
Giới sành xe nhẩm tính một chiếc Bentley
Continental Flying Spur đời 2008 nếu đuợc nhập cảng theo đuờng chính
ngạch thì sau khi cộng ba loại thuế nhập khẩu 60%, tiêu thụ đặc biệt 50%
và VAT 10% sẽ có giá khoảng 448,773 USD, tuong đuong với hon 7 tỷ đồng.
Xe bọc thép chống đạn
Tiền càng nhiều, mạng sống càng quý, các
đại gia đa phải lo xa, nghĩ đến xe bọc thép chống đạn. Nắm bắt đuợc nhu
cầu đó, cuối năm 2007, 2 chiếc BMW X5 bọc thép đa đuợc Công ty Cổ phần
dịch vụ Thuong mại và Đầu tư Thiên An nhập về với giá mỗi chiếc vào
khoảng 320,000 USD. Một trong 2 chiếc “xe tăng” này đa có chủ ngay trong
những ngày đầu mới nhập tịch. Theo tiết lộ của đại diện Công ty Thiên
Ân thì chủ nhân của chiếc xe này là một “Công Tử Hà Thành”
Chiếc xe chống đạn bọc thép này trị giá khoảng 320.000 USD
Xe đuợc thiết kế với kính dày 20 mm bảo
vệ nguời lái từ 4 phía để chống lại những kẻ bắn tỉa, những hiểm họa từ
bên ngoài cho chủ nhân chiếc xe. Loại kính tổng hợp từ polycarbonate dày
có thể đuong đầu với loại súng tiểu liên Magnum 44 hoặc súng truờng cua
nòng bắn thẳng. Vỏ xe bọc thép, chống đuợc súng tiểu liên Magnun 44,
đạn nặng 15,6g, bắn ở khoảng cách tối thiểu là 5 mét, tối đa 120 mét với
vận tốc 440 m/s. Lốp xe tiêu chuẩn Run-Flat chạy đuợc 50 km liên tục
với vận tốc 80 km/h ngay cả khi đa bị bắn thủng.
Cadillac Escalade Becker
Hết xe hơi rồi đến phi cơ. Năm 2008, ông
chủ câu lạc bộ đá bóng Hoàng Anh Gia Lai – Đoàn Nguyên Đức trở thành
nguời Việt đầu tiên sở hữu phi co riêng. Thời điểm chiếc phi co riêng
của bầu Đức có mặt ở VN, lãnh đạo một ngân hàng có tiếng cung lên kế
hoạch mua chiếc máy bay tuong tự. Ông này đa nhờ đối tác lo thủ tục, tìm
nguồn hàng và đa ứng truớc tiền đặt cọc. Sau đó ông đổi ý. Gần 2 năm
trôi qua, mo uớc sở hữu máy bay riêng vẫn còn nhung vị tổng giám đốc này
chua dám thực hiện ý định.
Du thuyền
Sau “mốt” sắm xe hơi và máy bay riêng bạc
triệu, nhiều đại gia ở VN nay chuyển sang “mốt” sắm du thuyền. Gần đây,
theo VnExpress, Tổng giám đốc công ty Kềm Nghia Nguyễn Minh Tuấn vừa
đặt mua từ Mỹ 3 du thuyền, trong đó một chiếc mua giúp nguời bạn trong
ngành ngân hàng. Ông Tuấn xác nhận tin này với VnExpress và cho biết cả
ba chiếc có thể về VN trong tháng 10.
Theo quy định hiện hành tại VN thì mua du
thuyền hoặc máy bay riêng ngoài thuế nhập khẩu 10% và VAT 10% phải chịu
thêm thuế tiêu thụ đặc biệt 30%. Tính nhu vậy thì nếu mua du thuyền trị
giá $1 triệu, số tiền thuế phải đóng là $500 ngàn, bằng nửa giá trị
chiếc du thuyền.
Ấy vậy mà những chiếc du thuyền của tay
choi Nguyễn Minh Tuấn chua thể so sánh với chiếc du thuyền của vợ chồng
diễn viên Diễm My mua với giá $2 triệu để “vừa phục vụ kinh doanh du
lịch, và để gia đinh đi lại.”
Trên đây chỉ là một số “công tử” và “công
nuong” tiêu biểu của triều đại mới. Đó chỉ là phần nổi của tảng băng
chìm. Dân dã mà còn vậy thì các “quan lớn” của chế độ ra sao? Các quan
kín đáo hon nhiều.
Không cần phải nhìn đâu xa, cái nhà thờ
gia tộc ở Kiên Giang của đuong kim thủ tuớng Nguyễn Tấn Dung cung đáng
giá hàng chục tỷ. Nếu chỉ căn cứ vào mức luong theo qui định của nhà
nuớc thì hàng tháng ông chỉ nhận đuợc chừng 5, 4 triệu đồng. Nếu có tính
thêm tiền phụ cấp, tiền ăn trua ở co quan nữa thì cung chỉ chừng 6
triệu đồng mà thôi. Vậy thì cái nhà thờ họ của ông, khối tài sản kết xù
của ông ngày nay, con cái ông du h̔ ở đâu ra? Ông là nguời đuợc Đảng
giao cho làm truởng ban chỉ đạo chống tham nhung mà vậy, các ông “quan”
triều đại mới sinh sản ra bao nhiêu là đại gia với khả năng tài chính vô
cùng tận. Việt Nam ngày nay có giới tu bản đỏ sống đời xa hoa phóng
túng, tậu nhà hàng triệu triệu Mỹ kim ở trong nuớc cung nhu ở ngoài
nuớc, có cấp lãnh đạo nhà nuớc với tài sản kết xù và có con cháu cán bộ
cao cấp đua đoi với những chiếc xe hoi Rolls-Royce, Bentley loại hàng
“độc” đắt nhất thế giới.
Chủ nghia Cộng Sản ngày truớc phát triển
mạnh nhờ chiêu bài “xóa bỏ giai cấp” để đua đến thế giới đại đồng, nhung
ngày nay thực tế cho thấy hoàn toàn nguợc lại.
Theo:
rfviet.com
Thủy quân lục chiến Mỹ bắt đầu chiến dịch triển khai tại Úc
Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ vừa đến căn cứ Darwin của Úc ngày 04/04/2012.
Trọng Nghĩa
-
Đúng theo kế hoạch dự kiến, khuya hôm
qua, rạng sáng hôm nay 04/04/2012, 200 lính thủy quân lục chiến Mỹ đã
đặt chân xuống căn cứ Darwin miền Bắc nước Úc. Đây là đơn vị tiền trạm
của một lực lượng sẽ bao gồm 2.500 quân từ nay đến năm 2016, được Hoa Kỳ
triển khai trong khuôn khổ chiến lược gọi là chuyển dịch lực lượng qua
vùng châu Á Thái Bình Dương, sẵn sàng ứng phó với đà vươn lên của Trung
Quốc.
Việc triển khai thủy quân lục chiến tại Darwin đã từng được chính
Tổng thống Mỹ Barack Obama loan báo nhân chuyến công du nước Úc vào
tháng 10 năm ngoái, khi ông khẳng định chủ trương tăng cường hợp tác
quốc phòng với đồng minh lâu đời của Hoa Kỳ.
Trong một bản tuyên bố chung công bố hôm nay, cả Thủ tướng Úc Julia
Gillard, lẫn Bộ trưởng Quốc phòng Úc Stephen Smith đều nhấn mạnh đến
khía cạnh liên minh quân sự từ hơn 60 năm nay giữa Úc và Mỹ, khi cho
rằng việc lính Mỹ đến Darwin chỉ là một bước chuyển mới của công cuộc
hợp tác từ trước đến nay giữa hai quân đội đồng minh. Cả hai cũng khẳng
định rằng Hoa Kỳ sẽ không có căn cứ thường trực tại Úc.
Lời khẳng định của hai lãnh đạo Úc rõ ràng là nhằm trấn an Trung
Quốc, vốn rất bực tức trước việc Hoa Kỳ chuyển dịch trọng tâm quốc phòng
qua vùng châu Á Thái Bình Dương. Bắc Kinh từng lên tiếng tố cáo Hoa Kỳ
vẫn mang nặng “tâm lý thời chiến tranh lạnh” khi quyết định đưa thủy
quân lục chiến đến Darwin.
Giáo sư Vương Tập Tư, hiệu trưởng rất có uy tín của Trường Nghiên cứu
Quốc tế tại Đại học Bắc Kinh, trong một bài viết mới đây, đã thẳng
thừng cho là Trung Quốc tin chắc rằng Hoa Kỳ đang tìm cách kềm hãm đà
vươn lên của Trung Quốc.
Nếu Bắc Kinh bực bội, thì quyết định của Mỹ lại trấn an được nhiều
nước châu Á, từ Việt Nam, Philippines cho đến Nhật Bản, vốn không ngừng
bị Trung Quốc lấn lướt trong thời gian gần đây. Theo các nước này, việc
Hoa Kỳ xoay trục qua vùng châu Á Thái Bình Dương thể hiện quyết tâm của
Washington sẵn sàng bảo vệ đồng minh và lợi ích của mình trong khu vực,
nếu Trung Quốc làm quá.
Trên bình diện thuần túy quân sự, không phải là ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ
lại muốn cắm lực lượng tại Darwin. Đại sứ Mỹ tại Úc Jeffrey Bleich vào
hôm nay nhận định là từ căn cứ này ở miền Bắc nước Úc, người ta có điều
kiện ra thẳng Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Biển Đông Timor và tất cả
các tuyến đường thương mại xung quanh.
Theo giáo sư François Godement, chuyên gia Pháp về Trung Quốc, việc
đồn trú thủy quân lục chiến tại Darwin mang lại cho lực lượng phản ứng
nhanh của Mỹ một lợi thế không nhỏ. Trả lời RFI, ông phân tích :
Đây hiển nhiên là một phần trong chiến lược gọi là chuyển trục
(pivot) mà chính quyền Obama đã thông báo, và sự triển khai này tương
ứng với sự thành lập một căn cứ thủy quân lục chiến Mỹ nhìn thẳng ra
vịnh Timor, nằm ngay sau lưng Indonesia.
Căn cứ này rõ ràng sẽ là một địa bàn cho phép tung quân ra xa một
cách nhanh chóng, vì nó sẽ được trang bị bằng tàu chuyển quân cao tốc,
cho phép triển khai lực lượng can thiệp ra toàn vùng một cách mau lẹ.
Tóm lại đây quả đúng là một hành động tăng cường lực lượng.
Tuy nhiên, ta cũng phải nhìn sự kiện này ở một góc độ khác.
Darwin cách Trung Quốc 2.500 cây số, nằm ở phía sau quần đảo Indonesia.
Việc Mỹ tăng cường lực lượng ở đấy cũng là một cách để họ mặc nhiên công
nhận là các căn cứ của họ ở tuyến đầu như Okinawa bắt đầu bị hỏa tiễn
đạn đạo tầm ngắn hay tầm trung của Trung Quốc đe dọa.
Theo tôi, việc Mỹ trú quân tại Darwin là một cách để Hoa Kỳ có
thêm một chỗ trú tốt cho lực lượng tiến công nhanh của họ, trên một lãnh
thổ mà rõ ràng là sự hiện diện của lính Mỹ không bị xét lại về mặt
chính trị ».
Dẫu sao thì việc đóng quân tại Darwin chỉ là một thành tố trong chủ
trương tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ tại vùng châu Á Thái Bình
Dương thông qua nước Úc. Canberra vào tuần trước cho biết có thể cho
phép Hoa Kỳ sử dụng đảo Coco của họ làm căn cứ xuất phát phi cơ do thám
không người lái tầm xa.
Ngoài ra, cũng có tin cho biết là hàng không mẫu hạm và tàu ngầm tấn
công hạt nhân của Hoa Kỳ cũng có thể trụ lại ở thành phố cảng Perth ở
miền đông nước Úc.
Vì sao tham nhũng vẫn “sống khỏe”?
Vân Hằng
-
Kết quả cuộc điều tra 270 doanh
nghiệp công bố 4-4-2012 cho thấy, tình trạng “phong bì cảm ơn và mời
chiêu đãi” tại Việt Nam diễn ra khá phổ biến. Các doanh nghiệp cho rằng,
kẽ hở pháp luật đang bị lợi dụng…
Chi phí không chính thức chiếm khoảng 1%
Theo báo cáo của của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI), từ năm 2005-2011, Việt Nam luôn xếp ở nhóm
cuối trong Bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng. Và một lần nữa, kết
quả nghiên cứu lại công bố những con số đáng giật mình sau khi tiến
hành khảo sát nhóm đối tượng doanh nghiệp – đối tượng vừa là nạn nhân,
vừa là tác nhân gây ra tham nhũng. Cụ thể,
với việc cấp và phân bổ đất, có hơn 50% doanh nghiệp cho hay “Thủ tục để
được cơ quan nhà nuớc cho thuê, giao đất, cấp đất rất phức tạp” và có
tới 39,9% doanh nghiệp khẳng định “phải có mối quan hệ quen biết mới
được giao đất, cấp đất”. Trả lời cho câu hỏi “những hành vi hối lộ nào
đang phổ biến, doanh nghiệp thường làm gì để bày tỏ lòng biết ơn đối với
cán bộ xử lý các thủ tục liên quan đến đất đai, 86,8% doanh nghiệp cho
biết biếu tiền là hình thức phổ biến; 48,8% mời chiêu đãi và hơn 30%
biếu quà cơ quan công quyền.
Tương tự, với việc tiếp cận các khoản vay
vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh, có 30,5% doanh nghiệp có thể tiếp
cận các khoản vay này của nhà nước với điều kiện “dành riêng một chi phí
để bồi dưỡng cho cán bộ tín dụng”. Một tỷ lệ gấp đôi con số trên đồng ý
rằng phải có mối quan hệ với ngân hàng hoặc cán bộ tín dụng mới vay
được vốn. Đáng chú ý, doanh nghiệp cho biết có hiện tượng cán bộ giải
quyết thủ tục chủ động gợi ý doanh nghiệp biếu quà.
Đại diện nhóm nghiên cứu của VCCI cho
biết, nếu chia trung bình, chi phí không chính thức đang chiếm khoảng 1%
trên tổng số chi phí hàng năm của doanh nghiệp và khoản này chủ yếu
dùng để quà cáp, biếu xén.
Đau đầu với cơ chế “xin-cho”
Đa số các doanh nghiệp trong diện khảo
sát lần này nhận thức được tham nhũng sẽ tác động tiêu cực đến sự phát
triển lành mạnh của doanh nghiệp, bóp méo mô hình cạnh tranh và làm suy
giảm lòng tin của doanh nghiệp vào nhà nước. “Doanh nghiệp phải tốn thời
gian để nghĩ cách đối phó với cơ chế “xin-cho” – đại diện một doanh
nghiệp chia sẻ. Biết rằng hành vi biếu xén quà và tiền là tiếp tay cho
tham nhũng, nhưng doanh nghiệp không muốn mất thời gian trong quá trình
làm thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, có một thực tế là chính doanh
nghiệp không nắm vững được các trình tự thủ tục nên có thể làm mất nhiều
thời gian của cán bộ công quyền. Thực tế này cũng đòi hỏi thủ tục hành
chính phải được đơn giản hóa, minh bạch hơn nữa để mọi doanh nghiệp có
thể tiếp cận dễ dàng, tiết kiệm thời gian, chi phí hơn.
Lý giải nguyên nhân của tình trạng này,
87% doanh nghiệp thẳng thắn cho biết, chính kẽ hở về pháp luật đã tạo
điều kiện cho tham nhũng phát triển và kéo dài ở Việt Nam. Sâu xa hơn,
cơ chế tiền lương, tiền công chưa phù hợp nên cán bộ các bộ máy công
quyền hình thành thói quen “đói ăn vụng, túng làm liều”.
Phó Tổng thanh tra Chính phủ, ông Trần
Đức Lượng khẳng định: “Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác
phòng chống tham nhũng là tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh bình
đẳng, nhằm thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài; nâng cao ý thức tuân
thủ pháp luật của doanh nghiệp…”. Theo ông Trần Đức Lượng, không chỉ
các cơ quan Nhà nước mà chính các doanh nghiệp cũng cần chủ động thực
hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Phía doanh nghiệp cần xóa bỏ
thói quen “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và văn hoá kinh doanh
dựa trên quan hệ không lành mạnh nhằm dẹp nạn tham nhũng, đồng thời phát
triển doanh nghiệp một cách bình đẳng, cạnh tranh, bền vững.
Theo:
ANTĐ
Thông tư Đại lễ Phật Đản 2556 của Hòa thượng Thích Như Đạt
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
VP : Chùa Giác Hoa – 15/7 Nơ Trang Long – Phường 7 – Quận Bình Thạnh- Sài Gòn
——————————————————————————————————
Phật Lịch 255 Số 04/VHĐ/TT
THÔNG TƯ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2556
—
VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO GHPGVNTN
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính gởi :
- Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Lưỡng Viện.
- Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
- Các Ban Đại Diện GHPGVNTN trên toàn quốc.
- Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni.
- Đồng Bào Phật Tử các giới.
Kính bạch Chư Tôn Đức,
Kính thưa quí liệt vị
Lại một mùa sen nở, một mùa Đản Sinh lại
về. Ánh sáng chân lý xuất hiện, cõi kham nhẫn được giải thoát, muôn loài
chúng sinh được giác ngộ.
Trên 2500 năm đã trôi qua, vì nghiệp lực
của chúng sanh, bao nhiêu chủ thuyết ra đời, bao nhiêu cuồng vọng ý thức
hệ đã đưa nhân loại vào hoang tàn đổ nát cả tinh thần lẫn vật chất,
riêng Đạo Phật vẫn là suối nguồn từ bi và trí tuệ xoa dịu mọi đau khổ
của thế gian. Chính vì thế mà Liên Hiệp Quốc đã vinh danh ngày Đản Sinh
của Đức Phật là ngày “tịnh hóa nhân gian”.
Như một cơn lốc thời đại, vạn vật đang
nằm trên chảo lửa chiến tranh, âm ỉ từ Châu Phi, qua Trung Đông và tràn
đến Châu Á Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam đang đối mặt với ngàn năm
nô lệ Bắc phương.
Ý thức được điều đó, nhân mùa Phật Đản
năm nay, Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lấy phương
châm thượng báo Tứ Trọng Ân nhằm góp phần hóa giải đại nạn của Dân Tộc :
1/. Đối với ân đức của Tam Bảo, người
Phật Tử phải tinh tấn tu học trong tinh thần tự giác và giác tha để đưa
Chánh Pháp vào thế gian nhằm loại trừ chủ nghĩa ngoại lai, độc tài toàn
trị, đã gieo rắc điêu linh khốn khổ lên 85 triệu người dân Việt trên ba
phần tư thế kỷ cho đến hôm nay.
2/. Đối với ân đức của Cha Mẹ, người Phật
Tử phải phát huy tinh thần Phật Hóa Gia Đình nhằm xây dựng một thế hệ
tương lai đang đứng trên bờ diệt vong của đạo đức và luân lý do chủ
nghĩa duy vật cố tình nhấn chìm truyền thống của tổ tiên.
3/. Đối với ân đức Quốc Gia dân tộc,
người Phật Tử phải tích cực phát huy tinh thần vô úy, noi gương các bậc
Thiền sư Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh… để dấn thân vào việc bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ các quyền căn bản của con người, nhất là những
người đang bị tù đày vì đấu tranh cho nhân quyền, tự do và dân chủ, bảo
vệ những người dân oan đang chịu cảnh lầm than vì chủ nghĩa phi nhân mà
trong đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chúng ta cũng là một
tập thể Dân Oan khốc liệt nhất.
4/. Đối với vạn loại chúng sanh, người
Phật Tử phải thể hiện mối tương quan tương duyên trong đời sống, cương
quyết bảo vệ tài nguyên, môi trường mà những kẻ cầm quyền đang bán đứng
cho ngoại bang để trục lợi và làm giàu cho đảng phái thống trị, bỏ mặc
sự khổ đau của toàn dân.
Vì những bản hoài ấy mà Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất luôn luôn là đối tượng của những sự đàn áp ,
khủng bố, giam cầm bất chấp luật pháp và đạo lý trong suốt 37 năm trời
mà điển hình nhất là những sự cố vừa xảy ra tại Mai Vĩnh, Phước Thành,
Kim Quang (Thừa Thiên Huế) Tịnh Xá Bửu Đức (Đồng Nai) và nhất là tình
hình tại Chùa Giác Minh (Quảng Nam Đà Nẵng) vẫn luôn luôn bị công an,
dân phòng bao vây, nội bất xuất ngoại bất nhập còn hơn một nhà tù giam
giữ người tử tội.
Kính bạch Chư Tôn Đức
Kính thưa Quí Liệt Vị.
Trước phương châm nêu rõ mục tiêu của
Viện Hóa Đạo, trước tình hình thực tế của Pháp Nạn và Quốc Nạn nêu trên,
nhân mùa Phật Đản năm nay Viện Hóa Đạo kêu gọi Phật Tử mọi giới thực
hiện các yêu cầu sau đây :
1/. Đối với bản thân :
- thực hiện tuần lễ chay tịnh từ mồng 8.4
âm lịch cho đến 15.4 âm lịch, thanh tịnh thân tâm để nâng cao năng
lượng tâm linh, góp phần xây dựng xã hội, hàn gắn những đổ nát vì các
thế lực vô minh tạo tác.
- tham gia các khóa lễ, các công tác từ thiện do địa phương tổ chức.
2/. Đối với các tư gia :
- Trang thiết bàn Phật trang nghiêm, treo cờ, thắp đèn để tưởng nhớ ân đức của Đấng Giác Ngộ.
- Khuyến khích con em tham gia các Phật Sự trong mùa Phật Đản.
3/. Đối với các Chùa, các Tịnh Thất, Tu Viện :
- Tổ chức các khóa Kinh, Tu Bát Quan Trai để bổn đạo được góp phần công đức cúng dường Tam Bảo.
- Trang trí với ý nghĩa thiết thực nhất nói lên ý nghĩa Đản Sanh.
4/. Đối với các Ban Đại Diện GHPGVNTN tại các Tỉnh, Thành :
- Tùy theo hoàn cảnh địa phương, cố gắng
thiết lập Lễ Đài đơn giản nhưng trang nghiêm và thanh tịnh để đồng bào
Phật Tử Địa Phương được chiêm bái và hành lễ.
- Nếu có điều kiện nên tổ chức các công tác từ thiện và ủy lạo các cá nhân và gia đình đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc.
- Tổ chức tuần lễ Cầu Nguyện Quốc Thái
Dân An từ ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch, Khai Kinh và luân phiên tụng niệm
cho đến ngày Đại Lễ Phật Đản.
Kính Bạch Chư Tôn Đức và Kính thưa Liệt Quí Vị
Ngày Phật Đản cũng là ngày mở đầu cho một
mùa An Cư Kiết Hạ, là cơ hội Chư Tăng trưởng dưỡng thân tâm, nâng cao
Giới Học, Định Học và Tuệ Học để xứng đáng là trưởng tử Như lai trong
công cuộc Hoằng Pháp Độ Sinh.
Đặc biệt Nhâm Thìn năm nay nhuần hai tháng tư, cho nên tháng tư nhuần Chư Tăng, Ni sẽ vào An Cư Kiết Hạ.
Mùa An Cư Kiết Hạ cũng là mùa hoan hỷ của
giới Cư Sĩ, được thể hiện sự cúng dường Chánh Pháp qua công cuộc hộ trì
chư Tăng hoàn thành sứ mạng trong giới trường thanh tịnh.
Vì vậy Viện Hóa Đạo mong mỏi các Ban Đại
Diện, các Tổ Đình, các Tự Viện, các chúng Cư Sĩ Phật Tử nỗ lực kiến tạo
một mùa An Cư với đầy đủ ý nghĩa trong giai đoạn hiện tại.
Sau hết, Viện Hóa Đạo xin trùng tuyên lời
dạy của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trong Đạo Từ Phật Đản PL 2549, lúc
Ngài còn đảm trách Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, để Tứ Chúng phụng hành :
Với tinh thần giải phóng tự kỷ và tịnh
hóa nhân gian, Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam, đưa Dân Tộc bước lên
đường Văn Hiến như một khẳng định của Trí Tuệ, Từ Bi và Bình Đẳng. Thời
cuộc có thịnh có suy nhưng Đạo Phật chưa bao giờ có thăng trầm trong đại
nguyện cứu khổ, mà cứu khổ là đưa con người đến bờ Tự Do và Giải Thoát.
Ngưỡng mong Chư Tôn và Phật Tử hoan hỷ đón nhận Thông Tư Phật Đản nầy trong tinh thần Hộ Pháp, Hộ Quốc và Hộ Dân.
NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT MA HA TÁT
Phật Lịch 2556, Giác Hoa ngày 01 tháng 3 năm Nhâm Thìn
(22.3.2012)
TUN. Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
Phó Viện trưởng
kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự
(ấn ký)
SA MÔN THÍCH NHƯ ĐẠT
Bắc Kinh, Hà Nội, và Đông Dương – Các bước tiến tới sự đụng độ
Ngô Bắc dịch
Trích từ Gió-O
-
Lời Người Dịch: “Chiến dịch 1979, ít
nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất
bại. Trung Quốc đã phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để
buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đã rút lui khỏi
Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đã không rời Căm Bốt mãi
cho đến năm 1989.” ….
“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đã học được một bài học quan trọng.”
Trên đây là phần kết luận chắc
nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới
Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây
về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học
lịch sử lâu dài của đất nước, rõ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt
Nam hiện nay là phải tìm mọi cách đê duy trì được sự độc lập và vẹn toàn
lãnh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự
đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.
***
Không có nghi ngờ gì, vấn đề nghiêm trọng
nhất phân hóa Việt Nam và Trung Quốc chính là cuộc đấu tranh giành
quyền khống chế tại Đông Dương. Các Chương hai, ba, và bốn được dành cho
việc phân loại các chính sách cạnh tranh nhau mà Bắc Kinh và Hà Nội đã
ủng hộ để cố gắng bảo đảm cho một sự hiện diện tại Đông Dương. Trong
Chương này [Chương 2], sự cạnh tranh này sẽ được phân tích từ 1975 cho
đến lúc kết thúc cuộc chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979. Các
vấn đề ở đây thì phức tạp bởi chúng cũng liên quan đến sự cứu xét các
tác nhân cấp vùng khác, tức Căm Bốt, Lào, và Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông
Nam Á (ASEAN: Association of Southeast Asian Nations).
Phần đầu tiên sẽ xem xét
các căng thẳng khởi thủy giữa Trung Quốc và Việt Nam xuất hiện trong năm
1975. Phần này sẽ được tiếp nối bởi một cuộc thảo luận về sự bất ổn
gia tăng trong phạm vi khu vực Đông Dương sau 1975 và Bắc Kinh cùng Hà
Nội đã phản ứng như thế nào đối với các biến cố này. Phần thứ ba xét
đến sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt và sự xâm lăng tiếp theo sau
của Trung Quốc vào Việt Nam. Một sự tóm lược và kết luận sẽ theo sau.
TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM 1975: “CÁC THÂN HỮU” ĐÀO BỚI LÊN CÁC SỰ KHÁC BIỆT
Nhiều nhà quan sát bên ngoài quan tâm đến
việc xét xem Bắc Kinh đã phản ứng như thế nào đối với sự chiếm đoạt
miền Nam Việt Nam của Hà Nội. Có một sự đồn đãi rộng rãi rằng Trung
Quốc muốn có một nước Việt Nam bị phân chia hơn, bởi nó lo sợ loại hiệu
ứng mà một Việt Nam thống nhất có thể có trên phần còn lại của Đông
Dương. Khi cuộc chiến thắng của Hà Nội trên miền Nam được loan báo
chính thức Tân Hoa Xã (New China News Agency: NCNA) đã chờ đến bẩy
tiếng đồng hồ mới tường trình về biến cố, và ngay lúc đó nó là một sự
đáp ứng bị kiềm chế. Các bản tường thuật bắt đầu được loan truyền tức
thời rằng Hà Nội và Bắc Kinh đang trải qua các vấn đề khó khăn khi các
nhà ngoại giao Tây Phương đã không nghe thấy các giới thẩm quyền Hà Nội
đề cập gì đến Trung Quốc bằng tên gọi trong hai tuần lễ tiếp theo sau
cuộc chiến thắng.
Sau ít ngày, Trung Quốc đưa ra một
bản tin thứ nhì về cuộc chiến thắng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(VNDCCH, tiêng Anh là Democratic Republic of Vietnam: DRV), chúc mừng
người dân Việt Nam, và sau đó nhấn mạnh đến nhu cầu về một nước Lào và
Căm Bốt độc lập – nói cách khác, một sự cảnh cáo trực tiếp cho Hà Nội
không được hành động theo bất kỳ tham vọng nào mà nó có thể có để can
thiệp vào các quốc gia láng giềng. 1
Trung Quốc lo ngại về những gì mà
Hà Nội có thể dự trù cho Đông Dương thì có căn cơ rất vững chắc. Người
Việt Nam tự xem mình là viên đá chốt vòm cửa của phong trào cộng sản tại
Đông Dương kể từ những ngày ban sơ của Đảng Cộng Sản Đông Dương, khi họ
khống chế hàng ngũ đảng viên của đảng. Trước và sau Thế Chiến II, Việt
Nam đã ủng hộ các phong trào nổi dậy tại Lào và Căm Bốt. Trong Hội
Nghị Geneva 1954, Việt Nam đã bị cưỡng ép phải nhượng bộ trước các đòi
hỏi của Trung Quốc đòi đình chỉ các phong trào nổi dậy tại các nước làng
giềng để đối việc đồng ý về một sự ngưng bắn với Pháp. Vào cuối thập
niên 1960 và đầu thập niên 1970, các phần tử tại Lào và Căm Bốt được xem
chỉ dính líu bên lề trong cuộc chiến tranh chống lại Hoa Kỳ bởi các xứ
sở của họ chứa chấp nhiều con đường tiếp tế và các căn cứ được sử dụng
bởi Quân Đội Bắc Việt (QĐBV: North Vietnam Army: NVA). Chính vì thế Hà
Nội đã có một quá trình liên hệ lâu dài với các lân bang Đông Dương của
nó.
Với bối cảnh này, Bắc Kinh đã tin rằng Hà Nội đối diện chính yếu trước hai giải pháp tại Đông Dương:
1. Từ bỏ bất kỳ tham vọng nào tại
Đông Dương và chỉ chuyên lo việc xây dựng xà hội chủ nghĩa trong nước.
Giải pháp này, Bắc Kinh đã tin tưởng, không có mấy xác xuất bởi sự quan
tâm liên tục mà Hà Nội đã biểu lộ tại các nước láng giềng của nó, ngay
dù có làm cho Bắc Kinh tức giận.
2. Tiếp tục tìm kiếm ảnh hưởng lớn
hơn tại Đông Dương và phát huy sự xây dựng xã hội chủ nghĩa trong nước,
trong khi tìm kiếm sự ủng hộ chính trị và kinh tế liên tục từ Mạc Tư
Khoa và Bắc Kinh. Bất kể sự nguy hiểm của việc gây phương hại nghiêm
trọng đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, giải pháp này xem ra
có nhiều khả tính hơn đối với Bắc Kinh, khi cứu xét đến các tham vọng
trong quá khứ của phía Việt Nam trong khu vực và các sự khác biệt lịch
sử đã phân cách Việt Nam và Trung Quốc. Đó cũng là giải pháp mà Trung
Quốc tin rằng nó sẽ bị tổn hại nhiều nhất, không phải chỉ vì điều đó
tượng trưng cho một sự giành thắng tổng quát về ảnh hưởng cho Hà Nội
trong vùng, mà sẽ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ Mạc Tư Khoa, nước có
thể có lợi từ việc có một đồng minh thân cận ngăn chặn các biên giới
phía nam của Trung Quốc.
Các sự lo sợ của Hà Nội về các
tham vọng của Trung Quốc tại Đông Dương cũng có căn cơ rất xác đáng.
Trung Quốc luôn luôn có vẻ cung cấp cho Việt Nam sự ủng hộ trong các
cuộc đấu tranh của nó chống lại người Pháp và người Mỹ, nhưng sự ủng hộ
đó đã suy yêu trong cả các cuộc đãm phán ở Geneva năm 1954 và tại Paris
năm 1973. Ngoài ra, Bắc Kinh không bao giờ coi trọng các phong trào
cộng sản tại Đông Dương, cho đên khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(People’s Republic of China: PRC) [viết tắt là CHNDTH trong bản dịch
này] chính thức được khai sinh năm 1949. Vào thời điểm đó, Trung Quốc
tìm cách kiểm soát khuôn khổ và các phương pháp để điều hành các cuộc
cách mạng cá biệt của các nước Đông Dương. Đối với người Việt Nam,
Trung Quốc đã đóng cùng vai trò mà người Trung Quốc từng thủ diễn trong
các thế kỷ đã qua, bất kể lời tuyên thệ tự phát biểu về sư hợp tác của
Bắc Kinh với Việt Nam, lân bang xã hội chủ nghĩa anh em của nó.
Tóm lại, Hà Nội đã nhìn Trung Quốc
như mối đe dọa chính yếu không chỉ đối với Đông Dương, mà còn chính với
Hà Nội, và tin tưởng rằng các mục đích của Bắc Kinh như sau:
1. Bắc Kinh sẽ cố gắng thiết lập
các quan hệ với cả Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Việt Nam
(Provisional Revolutionary Government: PRG), và tiếp tục các tiếp xúc
với chính quyền Hà Nội, nhằm ngăn cản sự thống nhất của Việt Nam. 2
2. Bắc Kinh sẽ tìm cách mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc vào Lào và Căm Bốt để đối cân với ảnh hưởng của
Việt Nam. Điều này sẽ không chỉ bảo đảm cho các lân bang thân hữu, mà
còn ngăn chặn các tham vọng của Việt Nam và giới hạn ảnh hưởng của Sô
Viết trong vùng.
3. Bắc Kinh sẽ tìm phương cách để
lôi kéo Việt Nam ra khỏi phe Sô Viết và đứng vào hàng ngũ với Bắc Kinh
một cách chặt chẽ hơn trong cuộc tranh chấp Trung Quốc – Sô Viết. Đây
là một mục đích dài hạn, nhưng dù thế có tinh cách quan trọng đối với
Bắc Kinh.
Với các quan điểm của Trung Quốc
và Việt Nam xung đột nhau một cách quá rõ rệt về Đông Dương, điều dễ
hiểu lý do tại sao Hà Nội và Bắc Kinh đã đối đáp với nhau theo cách mà
họ đã làm vào lúc có sự chiến thắng của cộng sản trên Nam Việt Nam hồi
Tháng Tư 1975. Trong phần còn lại của năm 1975 và năm 1976, Hà Nội và
Bắc Kinh tỏ ra thận trọng đối với bên kia, nhưng vẫn cương quyết để phe
bên kia hay biết các ước muốn của họ.
Trong Tháng Sáu 1975, CHNDTQ đã
phái một chiếc tàu chất đầy các đồ tiếp tế cứu trợ đến Đà Nẵng, Việt
Nam. Chiếc tàu đã không được phép tiến vào hải cảng và vì thế vẫn chờ
đợi ngoài khơi để nhận các chỉ thị. Một ít ngày sau đó một chiếc tàu
của Sô Viết tiến gần đến hải cảng và hỏi rằng liệu nó có thể tiến vào và
chuyển giao hàng hóa của nó hay không. Các viên chức Việt Nam đã trả
lời bằng cách bảo tàu Trung Quốc tiến vào hải cảng và tàu Sô Viết đi
theo sau. Ngày kế tiếp một loan báo công khai đã được đưa ra bởi Việt
Nam cho hay rằng Liên Bang Sô Viết là nước đầu tiên gửi viện trợ đến
Việt Nam sau cuộc chiến thắng của Việt Nam. Dĩ nhiên, biến cố đã chọc
giận Trung Quốc. 3
Các dấu hiệu khác của sự căng
thẳng hiện ra trong Tháng Tám khi một phái đoàn kinh tế Việt Nam được
tiếp đón một cách lạnh nhạt bởi các viên chức Bắc Kinh. Các nguồn tin
cộng sản Trung Quốctại Hồng Kông đã tin tưởng rằng sự tiếp đón dè dặt là
hậu quả của sự vô ơn của Việt Nam đối với viện trợ thời chiến tranh của
Trung Quốc, các ràng buộc chặt chẽ hơn giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa, và
sự tranh giành ảnh hưởng tại Phnom Penh giữa Hà Nội và Bắc Kinh. 4
Một tài liệu được công bố bởi Bắc Kinh trong năm 1978 đã chiếu rọi thêm
ánh sáng vào sự việc. Chu Ân Lai được nghĩ đã nói với phái đoàn kinh
tế Việt Nam rằng Trung Quốc “cần một sự nghỉ ngơi trong việc cung cấp
viện trợ hầu khôi phục sức mạnh trong nền kinh tế Trung Quốc. 5 Phái
đoàn Việt Nam rời Bắc Kinh và đi thẳng đến Mạc Tư Khoa nơi họ nhận được
một sự tiếp đón nồng nhiệt hơn và một gói viện trợ quảng đại.
Trong năm 1976, các viên chức Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ có nhận được tin tức rằng các chuyến tàu chở đồ viện
trợ của Trung Quốc cho Căm Bốt xuyên quá Việt Nam đã bị giữ lại tại các
hải cảng Việt Nam bởi các viên chức đòi hỏi rằng một nửa đồ viện trợ
phải được bốc dỡ tại Việt Nam. Trung Quốc tức giận Việt Nam, nhưng vẫn
tiến hành và không cho bốc dỡ đồ viện trợ. Trung Quốc đã tuyên bố rằng
họ lựa chọn không công bố các câu chuyện này cả trên báo chí Hoa ngữ
lẫn ngoại quốc hầu ngăn cản một sự căng thẳng hơn nữa trong các quan hệ.
6 Các hành động của Việt Nam đã phản ảnh không chỉ các đòi
hỏi viện trợ hơn nữa, mà còn một sự cắt giảm số viện trợ mà Trung Quốc
sắp cung cấp cho Căm Bốt. Các quan hệ giữa CHXHCNVN (SRV: Socialist
Republic of Vietnam) và CHNDTH tiếp tục quay theo chiều hướng đi xuống.
Trong Tháng Tư 1976, các sự tường thuật bắt đầu được loan truyền rằng
một số vụ giao tranh đã xảy ra dọc biên giới Trung Quốc – Việt Nam. Các
sự tường thuật cho hay rằng CHXHCNVN và CHNDTQ đồng ý tiến tới các cuộc
hòa đãm. Trung Quốc đã muốn các cuộc hòa đàm cũng bao gồm vấn đề Căm
Bốt vốn làm phân hóa Việt Nam và Trung Quốc, một điều mà Hà Nội đã bác
bỏ thẳng thừng bởi Hà Nội nói các vấn đề tại Căm Bốt sẽ làm vẩn đục vấn
đề thực sự chỉ liên can đến Việt Nam và Trung Quốc. 7
Bất kể các sự tường thuật tổng
quát và khác biệt nêu trên, cả hai phía xem ra bất định về tình trạng
các quan hệ Trung Quốc – Việt Nam trong năm 1976. Điều hiển nhiên rằng
Hà Nội và Bắc Kinh đang cố gắng để đạt tới các thỏa hiệp về vấn đề này,
trong khi không bên nào sẵn lòng biểu lộ công khai sự bất mãn đối với
bên kia. Nhưng việc Hà Nội nghiêng về phía Mạc Tư Khoa đã làm gia tăng
các mối nghi ngờ của Trung Quốc về Liên Bang Sô Viết. Trung Quốc đã
nhìn các chuyển động của Sô Viết tiến tới Việt Nam tương tự như những
hành động của Sô Viết tại Đông Âu. Bởi vì Liên Bang Sô Viết là đối thủ
chính của Trung Quốc, một liên minh chặt chẽ với một kẻ tranh giành
chính yếu với Trung Quốc tại Á Châu là một chỉ dấu cho ảnh hưởng gia
tăng của Sô Viết trên toàn cầu và đặc biệt một mưu tính nữa để ngăn chặn
Trung Quốc. Bắc Kinh đã tin rằng một chủ nghĩa bá quyền về địa lý
chính trị như thế về phía Liên Bang Sô Viết không thể được cho phép
thành công tại Đông Nam Á. 8
Nhip bước mau lẹ của các quan hệ
gia tăng giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa đã gặp phải các lời nói cứng răn từ
Bắc Kinh, mặc dù được nhắm chính yếu đến Mạc Tư Khoa. Trung Quốc đã tố
cáo Sô Viết về sự bành trướng tại Đông Nam Á và ôm ấp các tham vọng
chiếm đoạt Thế Giới Thứ Ba. Mặc dù Mạc Tư Khoa nhận được mũi tấn công
của sự chỉ trích, hầu hết các quan sát viên bên ngoài nhìn nhận rằng lời
chỉ trích có mang ý nghĩa cho cả Việt Nam lẫn Sô Viết. 9 Lời
chỉ trích đã không làm đảo ngược bước tiến vững chắc của sự hợp tác
Việt Nam – Sô Viết và thay vào đó bị trả đũa bởi các sự tố cáo của Sô
Viết về chủ nghìa bá quyền của Trung Quốc tại vùng Đông Dương. 10
Tháng Bẩy 1976, Đại Sứ CHNDTH tại
Hà Nội, Sun Hao (Tôn Hạo?) nhìn nhận rằng mối quan hệ giữa CHNDTH và
CHXHCHVN không được chặt chẽ như Trung Quốc muốn có. Ông Sun nói rằng
điều này chính yếu là do có sự chặt chẽ rõ ràng giữa Việt Nam và Mạc Tư
Khoa, nhưng tin tưởng rằng sự mật thiết đó sẽ chỉ tồn tại ngắn hạn bởi
có ước vọng muốn độc lập vươn ra quá độ của Việt Nam. Ông cùng thừa
nhận rằng một số khác biệt lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam đã lại
trồi mặt lên, và rằng đã có sự khác biệt về những gì được xem là một sự
cân bằng quân sự có thể chấp nhận được tại Á Châu. 11 Hàm ý
trong lập luận này là cuộc tranh cãi kéo dài về số phận của Đông Dương
và nước nào sẽ đóng vai trò chế ngự trong tương lai của nó.
Cho đến cuối năm 1976, Hà Nội và
Bắc Kinh vẫn còn xem bên kia sẽ là trở ngại chính cho việc gia tăng
quyền lợi của mình tại Đông Dương. Mặc dù cả hai đã trành giành dữ dội
ảnh hưởng tại Đông Dương, ít điều được hay biết rằng sự tranh giành này
đã xảy ra như thế nào, ngoài việc xuyên qua các dự án viện trợ và một số
vụ yểm trợ cho các phong trào nổi dậỵ, cho thấy rằng cả Việt Nam lẫn
Trung Quốc đều đã thực hiện các sự kiềm chế hầu tránh việc tiết lộ công
khai các sự khác biệt trong các mục tiêu. Ngoài ra, ít nước ở Đông Nam Á
có vẻ quan tâm quá đáng về những biến cố tại Đông Dương. Thái Lan là
một ngoại lệ trong khía cạnh này, bởi nó giáp ranh với Căm Bốt và Lào,
và nghi ngờ các ý định của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam trong vùng trong
nhiều thập niên. 12
Trong Tháng Mười Hai, một biến cố
quan trọng diễn ra được xem như chỉ dấu cho một khúc ngoặt nghiêm trọng
trong các quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Tại đại hội Đảng lần thứ tư ở Hà
Nội, ủy viên Bộ Chính Trị Hoàng Văn Hoan, một viên chức thân-Bắc Kinh,
bị gạt bỏ không còn là một thành viên cao cấp của Bộ chính Trị. Cũng bị
thanh trừng là các đảng viên thế lực khác bị xem thuộc một cánh có cảm
tình với các chính sách của Trung Quốc nói chung và đặc biệt chỉ trích
vai trò của Mạc Tư Khoa trong chính trị Việt Nam. Cuộc thanh trừng được
xem là một chiến thắng quan trọng cho cánh thân Sô Viết trong đảng và
đánh dấu sự chuyển hướng nghiêm trọng nhất ra khỏi Trung Quốc kể từ khi
có sự kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam trong năm 1975. 13
Việt Nam còn tách xa Trung Quốc hơn nữa sau cái chết của Chu Ân Lai. Sự
từ trần của Chu Ân Lai để lại một cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ
đảng công sản Trung Quốc. Trong khi Bắc Kinh tìm cách giải quyết sự
tranh chấp nội bộ của nó, Việt Nam đã có thể kiếm được viện trợ từ Mạc
Tư Khoa. Khi nghe được tin tức rằng lời yêu cầu viện trợ của Hà Nội đã
được chấp thuận bởi Mạc Tư Khoa, bí thư ĐCSVN Lê Duẩn đã tuyên bố rằng
Liên Bang Sô Viết sẽ là “nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất”. 14
Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục chỉ trích “ đế quốc xã hội chủ nghĩa
và chính sách bá quyền của Sô Viết” và đã kêu gọi Sô Viết hãy đứng bên
ngoài các sự vụ của Lào, Căm Bốt và Việt Nam. 15
Sự chuyển hướng của Hà Nội nghiêng
về Mạc Tư Khoa xảy ra vào lúc mà Trung Quốc và Việt Nam đang hoàn thành
nhiều dự án công nghiệp chung, vốn đã khởi sự nhiều năm trước đó. Mặc
dù Bắc Kinh có đưa ra một thông điệp chào mừng về sự hoàn tất của chúng,
không có dấu hiệu nào được đưa ra rằng các dự án mới đang trong các
giai đoạn hoạch định. 16 Với một chiều hương thân Sô Viết
trong Bộ Chính Trị, viện trợ nhiều phần sẽ đến từ Mạc Tư Khoa, và Bắc
Kinh bác bỏ bất kỳ sự cứu xét nào cho các dự án tương lai. Hà Nội vẫn
còn nuôi hy vọng rằng tiền bạc sẽ sắp đến từ Hoa Kỳ.
Khi Việt Nam chính thức tái thống
nhất năm 1975, Hà Nội đã khởi sự lượng định các cơ may của nó để lập các
quan hệ với Hoa Kỳ. Bất kể đã đánh nhau trong một cuộc chiến tranh
chua chát với người Mỹ, Hà Nội đã khởi sự đàm phán với Hoa Thịnh Đốn.
Điều rõ ràng là Hà Nội cần đến Hoa Kỳ vì nhiều lý do quan trọng:
1. Việt Nam cần có sự trợ giúp
kinh tế. Nhiều năm chiến tranh và cách biệt đã khiến cho kinh tế Việt
Nam suy yếu và rã rời nghiêm trọng. Với các khả tính của viện trợ, Hà
Nội có thể bắt đầu tái xây dựng và cứu vớt nền kinh tế bất định của nó.
Không có sự trợ giúp của Mỹ, Việt Nam sẽ buộc phải tiên sâu vào phe Sô
Viết để tìm kiếm sự giúp đỡ, một điều gì đó mà Hà Nội muốn né tránh.
2. Các quan hệ với Hoa Thịnh Đốn
có thể che chở Việt Nam nói chung khỏi việc phải đu dây quá dè dặt giữa
Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Mặc dù rõ ràng rằng Hà Nội đi sát với Mạc Tư
Khoa trong năm 1975 hơn là với Bắc Kinh, Hà Nội ưa thích được độc lập
càng nhiều càng tốt. Các quan hệ và sự trợ giúp từ Hoa Kỳ có thể giúp
cho sự tiến bước của Việt Nam đến độc lập.
3. Với các quan hệ bình thường
giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn, các nước khác nhiều phần sè sẵn lòng hơn
để trợ giúp Việt Nam. Một trong các lợi ích của việc bình thường hóa
các quan hệ với Hoa Thịnh Đốn rằng đã có một khả tính lớn hơn là các
quốc gia đi sự hướng dẫn của Hoa Thịnh Đốn sẽ cung cấp sự trợ giúp tài
chính cho nền kinh tế xiêu vẹo.
4. Sau cùng, sự nhìn nhận của Hoa
Kỳ có thể cung cấp cho Việt Nam một sự chế xung thứ yếu chống lại Trung
Quốc, từ đó kiềm giữ họ không cho lại gần và cho phép Hà Nội nhiều tự do
hơn để theo đuổi kế hoạch hành động của chính nó tại Đông Dương. Sự
nhìn nhận của Hoa Kỳ sẽ thừa nhận thực tế của một Đông Dương chịu ảnh
hưởng của Hà Nội và giúp cho việc ngăn chặn sự can thiệp của Trung Quốc
trong vùng.
Bắc Kinh, mặt khác, đã tìm kiếm
các mục đích khác từ việc bình thường hóa các quan hệ với Hoa Kỳ. Một
số trong các mục đích này đương nhiên xung đột với các quyền lợi của Hà
Nội:
1. Một mối quan hệ tốt đẹp hơn với
Hoa Thịnh Đốn sẽ cung cấp một lợi điểm chống lại Sô Viết. Bất kỳ sự
giành đoạt nào của ảnh hưởng của Hoa Kỳ sè được xem là một sự tổn thất
rõ rệt cho sự hiện diện gia tăng của Sô Viết tại Á Châu, và đặc biệt tại
Đông Dương.
2. Một sự cải thiện trong các quan
hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc có thể làm nản lòng Việt Nam trong việc theo
đuổi bá quyền tại Đông Dương. Bước tiến sẽ triệt hạ bất kỳ ý định nào
mà Hà Nội đã có tại Đông Dương, bởi Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ liên minh
chống lại sự bành trướng của Việt Nam.
3. Trung Quốc có thể hưởng lợi từ
các cơ hội mậu dịch sè đi theo sau việc bình thường hóa các quan hệ với
Hoa Kỳ. Việc này chắc chắn sẽ khai mở tiềm năng mậu dịch của Trung Quốc
với các nước khác di theo sự hướng dẫn của Hoa Thịnh Đốn.
4. Sau cùng, các quan hệ được cải
thiện với Hoa Thịnh Đốn sè nâng cao tầm quan trọng của Trung Quốc như
một quyền lực thế giới. Các ràng buộc với Hoa Kỳ sè mang lại cho Bắc
Kinh một tiếng nói tự do hơn để phát biểu các ý kiến về các vấn đề khác
ảnh hưởng trực tiếp đên Trung Quốc và các vấn đề chính trị thế giới nói
chung.
Tóm Tắt
Trong năm 1975 và 1976, các sự
khác biệt đã xuất hiện một cách rõ ràng giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Không
còn gì để ngờ rằng các sự khác biệt này đã có các hàm ý quan trọng trên
mối quan hệ trước khi có cuộc chiến thắng của Bắc Việt trên Miền Nam năm
1975, nhưng cuộc chiến thắng của Hà Nội đã đặt ra sự nhấn mạnh mới trên
các lãnh vực tranh chấp này. Mặc dù cả Trung Quốc lẫn Việt Nam vẫn còn
thận trọng trong sự đối đáp với bên kia, điều hiển nhiên rằng các chính
sách cạnh tranh tại Đông Nam Á đã đụng độ nhau, xô đẩy hai nước cách xa
nhau hơn sự mật thiết giữa chúng kể từ khi có nỗ lực giành độc lập của
Việt Nam hồi đầu thế kỷ này [thứ 20]. Sự phân hóa này đã bắt đầu trồi
mặt lên trong năm 1977.
ĐÔNG DƯƠNG TRONG TÌNH TRẠNG XÁO TRỘN
Trong một thời kỳ tiếp theo sau
cuộc thanh trừng “phe thân Trung Quôc’ trong Đảng Cộng Sản Việt Nam, cả
hai phía Trung Quốc lẫn Việt Nam vần tiếp tục chiều hướng thận trọng của
chúng với nước kia. Mặc dù các lời loan báo công khai chứa đựng các cử
chỉ bề ngoài thông thường của họ về thiện chí, tán tụng “sự đoàn kết
anh em xã hội chủ nghìa của các nước trong đó Việt Nam và Trung Quốc là
một thành viên”, các tiếp xúc chính thức giữa các nhà lãnh đạo lạnh nhạt
hơn nhiều.
Trong Tháng Tư 1977, Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng của CHXHCNVN đến thăm Bắc Kinh để thỉnh cầu viện trợ từ
giới lãnh đạo Trung Quốc. Phiên họp này được tổ chức với Hoa Quốc Phong
(Hua Guofeng, Trần sĩ Liên [?] (Chen Xilian), và Lý Tiên Niệm (Li
Xiannian). Một văn thư ghi nhớ cuộc họp được thảo bởi Li Tiannian và
gửi đến Phạm Văn Đồng hôm 10 Tháng Sáu, 1977. 17 Văn thư vạch
cho thấy rằng các cuộc nói chuyện thì căng thẳng và nóng bỏng. Hai mối
quan tâm chính yêu của Trung Quốc được đề cập một cách cụ thể trong văn
thư được tóm tắt như sau:
1. Trung Quốc lấy làm bực tức về
sự sáp gần lại nhau giữa Việt Nam và Sô Viết. Đặc biệt, Bắc Kinh bày tỏ
sự bất mãn sâu xa trước sự thừa nhận của Việt Nam về việc hợp tác với
Sô Viết nhằm giảm bớt ảnh hưởng cấp vùng của Trung Quốc tại Đông Nam Á.
2. Bắc Kinh cáo giác Việt Nam đang
sử dụng các vấn đề lịch sử làm phân cách Việt Nam và Trung Quốc để
khích động một chiến dịch chống Trung Quốc mới. Bắc Kinh tuyên bố rằng
sự xâm lược trong quá khứ về phía nhiều triều đại khác nhau của Trung
Quốc là các hành vi của các nhà lãnh đạo phong kiến và không phản ảnh
các ước muốn của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Chính vì thế, sự tái sinh
của các sự thù hận giữa các chính phủ của Việt Nam và Trung Quốc là kết
quả của chiến dịch của Việt Nam và không có dính dáng gì đến Đảng Cộng
Sản Trung Quốc.
Văn thư đã không đề cập một cách
công khai các sự khác biệt đã làm phân cách Việt Nam và Trung Quốc về
Đông Dương. Điều này có thể xảy ra là vì tình hình chính trị tại Căm
Bốt vẫn chưa được củng cố. Đại cương, Trung Quốc và Việt Nam hiểu rằng
họ đang bất hòa về vấn đề này, nhưng cố gắng giữ sự phân hóa này đừng
dẫn dắt hai nước tiến tới tình trạng bạo động công khai. Điều hữu ích ở
đây để duyệt xét lại tình hình của các nước khác nhau tại Đông Dương
hồi giữa năm 1977 hầu xem đâu là chỗ mà Trung Quốc và Việt Nam khác biệt
trong khảo hướng của họ đối với vùng đất này.
Căm Bốt
Căm Bốt đã từng bị xâm lăng nhiều
lần bởi Việt Nam và Thái Lan. Sự bất mãn đối với người Việt Nam (và
Thái) chính vì thế bắt rễ sâu xa trong hầu hết người Căm Bốt. Trong thế
kỷ này, phía Việt Nam đã nhận được nguyên khối nghi ngờ của Căm Bốt bởi
điều mà Căm Bốt nhìn như là các nỗ lực liên tục của Việt Nam nhằm không
chế Căm Bốt qua việc đóng vai trò lãnh đạo trong các phong trào cách
mạng của Căm Bốt, và việc chiếm cứ đất đai dọc biên giới Việt Nam mà
người Căm Bốt xem đúng ra là của họ.
Ảnh hưởng của Việt Nam tại Căm Bốt
cũng được cảm thấy ở hạ tầng cơ sở của xã hội. Trong năm 1952, điều
được ước lượng rằng 75% dân Khmer mắc nợ đối với người cho vay tiền,
phần lớn trong đó là các địa chủ Việt Nam (một số người Trung Quốc cũng
có dính líu). 18 Sự kiện này biến người Việt Nam thành các
mục tiêu được ưa thích cho phe dân tộc chủ nghĩa Căm Bốt. Khmer Đỏ, một
cánh cực đoan của Đảng Cộng Sản Căm Bốt (ĐCSCB, tiêng Anh là: KCP:
Kampuchea Communist Party), đại diện hầu hết dân chúng nông thôn, bởi nó
nhất quyết chống lại Việt Nam, chống Tây Phương, và chủ trương tự túc,
thân Căm Bốt mộr cách cực đoan.
Khmer Đỏ tương đối vô năng lực cho
tới khi Hoa Kỳ bắt đầu các phi vụ thả bom tại Căm Bốt trong năm 1969 để
trả đũa việc ĐCSCB ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Các vụ bỏ bom
đưa đến việc ủng hộ của dân chúng dành cho Khmer Đỏ, các kẻ đã nhìn sự
hợp tác của Phnom Penh với Hoa Thịnh Đốn như là một sự từ bỏ nền độc lập
của Căm Bốt, và nhìn mối quan hệ của Việt Nam với ĐCSCB như là một
phiên bản khác của các mưu toan của Việt Nam nhằm đặt dân Khmer dưới sự
thống trị của Việt Nam. 19
Cuối năm 1975 tình hình chính trị
tại Căm Bốt bắt đầu thay đổi một cách đáng kể. Hoàng Thân Norodom
Sihanouk mất hết quyền hành và Đảng Cộng Sản Căm Bốt giành đoạt sự kiểm
soát hoàn toàn các sự vụ tại Phnom Penh. Bí thư của ĐCSCB là Pol Pot
(trước đây được biết là Saloth Sar) được nhìn nhận là quyền lực thực sự
đằng sau Khmer Đỏ. Hai phụ tá của ông, Ieng Sary, một anh em đồng hao
của Pol Pot, và Son Sen, được xem là các phụ tá thân cận của Pol Pot và
đã chia sẻ cảm nhận của Pol Pot chống lại Việt Nam và nghiêng về phía
thân Trung Quốc. Nhân vật thứ tư trong giới lãnh đạo đảng là Khieu
Samphan, được xem là chỉ có tầm quan trọng biên tế và tương đối không có
mấy quyền lực so với ba lãnh tụ kia. 20
Bắc Kinh đã đánh bóng Pol Pot và
các kẻ cực đoan trong phe Khmer Đỏ của Căm Bốt bởi vì quan điểm chống Sô
Viết và sự thù ghét khẳng quyết đối với Việt Nam của họ. Hà Nội khẳng
định chống lại Khmer Đỏ, nhưng không chống ĐCSCB. Điều được cảm nhận
rằng có các phần tử hiện diện trong ĐCSCB tán thành các sự ràng buộc và
hợp tác với Việt Nam và do đó nhiều giải pháp khác nhau đã được thử
nghiệm để di chuyển quả lắc chính trị tại Phnom Penh nghiêng về phía các
phần tử thân Việt Nam hơn.
Lào
Giống như Việt Nam, Lào đã có gắng
thực hiện một sự cân bằng tế nhị giữa Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Tuy
nhiên, không giống như Việt Nam, hành vi cân bằng này cũng bao gồm việc
tách xa Lào ra khỏi Hà Nội càng nhiều càng tốt [sic]. 21 Bộ đội của Hà Nội đã có mặt tại thủ đô Lào, Vientiane, từ 1961. 22
Khác với Căm Bốt, Lào cùng xếp hàng với Hà Nội trong thập niên 1960,
tiếp nhận sự huấn luyện và ủng hộ tài chính từ Việt Nam và nói chung cố
gắng tự tách xa khỏi Trung Quốc là nước đã duy trì các quan hệ triều
cống của Lào trong nhiều trăm năm.
Khi người Việt Nam thành công
trong nỗ lực tái thống nhất của họ trong năm 1976, Vạn Tượng đã chỉ
trích Bắc Kinh về việc sử dụng áp lực không thích đáng trên Hà Nội đòi
phải tuân hành theo các mong muốn của Bắc Kinh. Mặc dù phần lớn lời
hùng biện nhằm chứng tỏ lòng trung thành của nó với Hà Nội, các lời
tuyên bố dù thế được đưa ra một cách miễn cưỡng bởi chúng tượng trưng
cho sự hủy bỏ tình trạng trung lập của Lào và buộc Vạn Tượng tiến sâu
vào sợi dây thong lọng chính trị của Việt Nam. Hậu quả, các toán công
binh của CHNDTQ trú đóng tại Lào được rút về. 23
Trong khi Lào tiếp tục giạt xa hơn
nữa khỏi Bắc Kinh, Vạn Tượng đã di chuyển gần hơn một cách rõ rệt đến
Hà Nội và Mạc tư Khoa. Lào có yêu cầu xin viện trợ từ Bắc Kinh vào đầu
năm 1977, nhưng lời thỉnh cầu bị bác bỏ bởi Hua Guofeng vì lý do rằng
Lào quá gần cận với Liên Bang Sô Viết và Việt Nam. 24 Trong
Tháng Bẩy năm đó, CHXHCNVN và Lào đã ký kết Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác
của ho, hứa hẹn thực hiện một sự cộng tác chặt chẽ nhằm tăng cường khả
năng quốc phòng, bảo tồn độc lập, chủ quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ, và
bảo vệ nỗ lực hòa bình của nhân dân chống lại mọi ý đồ và hành vi phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động ngoại lai. 25
Trung Quốc hiểu rằng điều khoản
nêu trên nhằm hoàn thành tình hữu nghị giữa Lào và Việt Nam với giá của
các quyền lợi của Trung Quốc. Chính vì thế, Lào bị xem bởi Bắc Kinh là
đã nằm một cách vững chắc trong khu vực chiến lược của Hà Nội – một yếu
tố đã khiến cho Căm Bốt thành bãi chiến cho Trung Quốc để ngăn chặn sự
thành công của Việt Nam tại Đông Dương.
Thái Lan
Thái Lan đã cố gắng giữ thái độ
trung lập trên vấn đề chừng nào nó có thể làm được. Các vấn đề biên
giới với Khmer Đỏ đẩy nó đến gần cuộc chiến tranh toàn diện với Căm Bốt
trong nhiều dịp hồi giữa thập niên 1970. Bangkok muốn Phnom Penh vẫn là
phi cộng sản, nhưng khi điều này không đạt được, Thái hy vọng rằng
chính phủ cầm quyền sẽ đáp ứng với điều mà Bangkok nhận thức như là một
mối đe dọa của Việt Nam trên toàn thể Đông Dương. Mặc dù chế độ của Pol
Pot chia sẻ sự nghi ngờ của Bangkok đối với Việt Nam, Thái Lan cũng
không khá hơn bao nhiêu trong ý nghĩ của Pol Pot và các vấn đề biên giới
lớn dần giữa Khmer Đỏ và Thái Lan.
Trong năm 1976 Bắc Kinh và Thái
Lan đã bình thường hóa các quan hệ, một chuyển động mà nhiều nhà quan
sát bên ngoài tin rằng đã diễn ra chính yếu từ sự nghi ngờ chung đối với
Hà Nội, hơn là vì bất kỳ lý do nào khác. 26 Khi sự căng
thẳng tăng trưởng trong vùng vẫn kéo dài, Bangkok đã đồng ý bình thường
hóa các quan hệ với Hà Nội trong năm 1977 với hy vọng rằng Hà Nội sẽ cứu
xét đến các quan hệ mới được rèn luyện với Thái Lan trước khi thử
nghiệm bất kỳ mưu toan liều lĩnh nào để nắm quyền kiểm soát Căm Bốt.
TỪ CHIẾN TRANH BẰNG LỜI ĐẾN SỰ THÙ NGHỊCH CÔNG KHAI
Trên bối cảnh chính trị này, Bắc
Kinh đã tìm cách củng cố các ràng buộc của nó với chế độ Pol Pot. Pol
Pot đã tham dự các buổi lễ ngày 1 Tháng Mười tại Bắc Kinh và đã được đón
tiếp nồng hậu bởi giới chức thẩm quyền Trung Quốc. Kết quả của sự tiếp
xúc này đã là một thông điệp trực tiếp cho Việt Nam về lập trường của
Trung Quốc trong cuộc bất đồng biên giới làm phân cách Việt Nam và Căm
Bốt, và quan trọng hơn, kết buộc Trung Quốc tìm kiếm các cách thức trực
tiếp để đối phó với thử thách của Việt Nam tại Đông dương. 27
Mối quan hệ căng thẳng giữa Trung
Quốc và Việt Nam ngày càng trở nên hiển hiện đối với các quan sát viên
bên ngoài. Khi viện trợ thực phẩm cho Việt Nam đã hoàn toàn bị đình chỉ
vào cuối năm 1977, Lê Duẩn đã bình luận với các thông tín viên về sự
sụt giảm mạnh mẽ trong sự ủng hộ từ Trung Quốc, cho thấy rằng các quyền
lợi của Trung Quốc và Việt Nam khác nhau, đã hạn chế sự hợp tác trên các
vấn đề chẳng hạn như viện trợ:
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỳ của
chúng tôi, các nước anh em đã giúp đỡ chúng tôi bằng việc cung cấp cho
chúng tôi các vũ khí và thực phẩm. Qua việc làm như thế, họ đã phát huy
các quyền lợi, bảo đảm sự sống còn của xã hội chủ nghĩa, và chu toàn
các bổn phận quốc tế. Nhưng trong thời kỳ xây dựng, viện trợ sẽ là sự
hợp tác trên căn bản quyền lợi hỗ tương. 28
Việt Nam đã công khai ca ngợi Liên
Bang Sô Viết về việc là nước cung cấp chính yếu viện trợ trong quá khứ
cho Việt Nam, nhưng không nhắc tới các sự đóng góp của Trung Quốc. 29
Mặc dù viện trợ của Trung Quốc ít hơn khá nhiều so với viện trợ của
Liên Bang Sô Viết, Trung Quốc vẫn cung cấp viện trợ cho Việt Nam nhiều
hơn bất kỳ nước nào khác mà Bắc Kinh đã hứa hẹn ủng hộ. Vì lý do này,
sự loại bỏ không đề cập của Hà Nội đến viện trợ của Trung Quốc đã có một
ảnh hưởng giá lạnh trên các quan hệ, bởi Trung Quốc đã phàn nàn rằng
Việt Nam thì vô cảm và bội ơn đối với Trung Quốc về sự trợ giúp đã được
cung cấp cho Việt Nam. 30
Trong Tháng Mười Một 1977, một
phái đoàn Việt Nam đã đến thăm viếng Bắc Kinh, có lẽ thực hiện nỗ lực
sau cùng để bày tỏ thiện chí giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trong bài
diễn văn tại một bữa tiệc được tổ chức khoản đãi phái đoàn, Hoa Quốc
Phong tuyên bố rằng “Trung Quốc sẽ “tăng cường đoàn kết với các nước xã
hội chủ nghĩa khác … và liên minh với mọi nước bị đau khổ bởi chủ nghĩa
đế quốc, và các cuộc xâm lược đế quốc chủ nghĩa xã hội, sự khuynh đảo,
can thiệp, kiểm soát hay dọa nạt ….” 31 Không có gì phải nghi
ngờ rằng mục tiêu chính yếu của các sự lưu ý của họ Hoa nhắm vào Liên
Bang Sô Viết. Nhưng sự nương tụa của Việt Nam vào Sô Viết để có viện
trợ tài chính và sự ủng hộ chính trị thì lớn lao vào thời điểm đó, làm
cho lời nhắn nhủ được nhắm tương đương vào các nỗ lực của Việt Nam tại
Căm Bốt. Bài diễn văn của Lê Duẩn tại bữa tiệc được dùng để biểu lộ các
sự chú ý của Việt Nam trong sự can dự liên tục tại Đông Dương:
Nhân dân Việt Nam không có ước vọng nào
tha thiết hơn là được sống trong hòa bình, được phát huy và tăng cường
các quan hệ hữu nghị với mọi nước, và để đóng góp vào việc bảo vệ nền
hòa bình tại Đông Nam Á và thế giới, cùng lúc, chúng tôi cương quyết
không cho phép bất kỳ chủ nghĩa đế quốc nào và bất kỳ lực lượng phản
động nào xâm phạm sự độc lập và tự do của chúng tôi. 32
Trong Tháng Mười Hai, Bắc Kinh ấn
hành các bài tường thuật về các nỗ lực của Khmer Đỏ để tự phòng vệ chống
lại sự xâm lược ngoại lai đến từ Việt Nam. Đó là một trong những nỗ
lực công khai đầu tiên của Trung Quốc để hướng sự quy trách về cuộc xung
đột biên giới Căm Bốt – Việt Nam cho phía Hà Nội. 33 Cùng
lúc, các cơ sở báo chí ngoại quốc tường thuật rằng Bắc Kinh đang gửi các
vũ khí cho Phnom Penh để kháng cự các lực lượng Việt Nam tại biên giới
và để ngăn chặn các ý định xâm lăng của Việt Nam. 34 Trong
vòng ít ngày, nhiều cố vấn Trung Quốc đang làm việc với các lực lượng
Căm Bốt bị bắt giữ bởi phía Việt Nam và Thủ Tướng (Phạm Văn) Đồng nói
bóng gió với các thành viên của báo chí rằng sức mạnh của Căm Bốt là một
kết quả của sự thông đồng Trung Quốc – Hoa Kỳ chống lại Việt Nam. 35
Một số viên chức Trung quốc nêu ý kiến với các thành viên của đoàn báo
chí hồi cuối Tháng Một 1978 rằng trách nhiệm về cuộc chiến tranh tại Căm
Bốt rõ ràng phải được nhắm về phía Việt Nam. 36
Trong khi các tháng mùa Đông qua
đi, chiến sự giữa Việt Nam và Căm Bốt trở nên mãnh liệt hơn. (Mùa đông
là mùa khô tại Đông Dương, chính vì thế các hoạt động quân sự dễ được
thực hiện hơn trong mùa ướt (mưa)). Cả Việt Nam lẫn Căm Bốt đều có thực
hiện các cuộc đột nhập vào lành thổ của phía bên kia. Bất kể quân lực
tương đối yếu kém hơn của Căm Bốt, Phnom Penh tin tưởng rằng cuộc xâm
lăng chống lại CHXHCNVN có thể làm nản chí CHXHCNVN khỏi việc mưu toan
không chế Căm Bốt. 37 Chính vì thế bộ đội Khmer Đỏ (K. R.:
Khmer Đỏ) đã phóng ra một cuộc đột kích vào lãnh thổ Việt Nam bất kể các
nguồn tài nguyên hạn chế — một chuyển động làm ngạc nhiên nhiều nhà
lãnh đạo trong vùng.
Hà Nội đã tin tưởng Căm Bốt là
chìa khóa trong cán cân quyền lực tại Đông Dương. Chính vì thế chiến
thắng tại Căm Bốt sẽ tối đa hóa sự độc lập của Việt Nam ra khỏi Trung
quốc (và có thể cả Mạc Tư Khoa), và có thể làm gia tăng một cách lớn lao
ảnh hưởng của Việt Nam trong toàn vùng Đông Nam Á. 38
Trong khi cuộc xung đột giữa Căm
Bốt và Việt Nam tiếp diễn, sự căng thẳng gia tăng giữa Việt Nam và Trung
Quốc cũng vươn tới các tầm mức khủng hoảng. Các chính sách nhằm chống
lại các cư dân Trung Quốc sinh sống tại Việt Nam được thi hành bởi Hà
Nội. Hàng nghìn người thuộc chủng tộc Trung Quốc bắt đầu chạy trốn khỏi
Việt Nam sang Trung Quốc và các nước Á châu khác khi các tin đồn về một
cuộc chiến tranh tất yếu giữa Trung Quốc – Việt Nam được loan truyền
mau lẹ. Các vấn đề lành thổ và biên giới cũ đã phân cách Trung Quốc và
Việt Nam đã trở thành tiêu điểm của các sự đe dọa và phản đe dọa giữa Hà
Nội và Bắc Kinh. Trung Quốc cắt đứt các chương trình viện trợ còn lại
và di chuyển tất cả các cố vấn phục vụ tại Việt Nam. Bắc Kinh cũng đóng
cửa các tòa lãnh sự của Việt Nam tại Côn Minh, Quảng Châu, và Nam
Ninh. Trận chiến ngoại giao đã đẩy Hà Nội bước sâu hơn vào vòng ảnh
hưởng của Sô Viết.
Trong khi trân chiến bằng lời nói
tiếp tục giữa Trung Quốc và Việt Nam, tiêu điểm bắt đầu chuyển đến việc
phơi bày các ý đồ của bên kia tại Đông Dương. Hà Nội đã tố cáo Bắc Kinh
về việc cung cấp “sự ủng hộ mọi mặt cho các nhà cầm quyền Kampuchea để
tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược thực hiện vô số tội ác man rợ
chống lại nhân dân Việt Nạm Việt Nam còn tố cáo Trung Quốc về việc sử
dụng các vấn đề khác để che dấu ý định thực sự của Trung Quốc nhằm “buộc
Việt nam phải từ bỏ đường lối đứng đắn của mình về độc lập, chủ quyền
và sự liên đới quốc tế”. 39 Một tài liệu bí mật được ấn hành
bởi bộ ngoại giao CHXHCNVN trong Tháng Sáu 1978, đã trình bày chi tiết
điều Hà Nội nhìn như là chiến lược của Trung Quốc tại Đông Dương. Các
nhận định chính yếu của Việt Nam như sau:
1. Trung Quốc về mặt lịch sử đã cố
gắng làm suy yêu Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Điều này được
chứng tỏ từ các nỗ lực của nó để phân chia Việt Nam taị Hội Nghị Geneva
1954 và gây chậm trễ cho việc tái thống nhất trong thập niên 1970.
2. Trung Quốc đã cố gắng hạn chế
ảnh hưởng của Việt Nam tại Lào và Căm Bốt bằng việc ủng hộ các chế độ đã
chống đối Việt Nam và cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.
3. Các giới chức thẩm quyền Trung
Quốc mong muốn lật đổ chính phủ hiện thời của Việt Nam hầu đặt Việt Nam
dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
4. Trung Quốc muốn kiểm soát số
phận của Đông Nam Á nói chung, và nhìn Việt Nam và Liên Bang Sô Viết như
một mối đe dọa cho các ý đồ này. 40
Các nhận thức của Trung Quốc về
Việt Nam phản chiếu quan điểm của Hà Nội về Trung Quốc trong nhiều khía
cạnh. Nói chuyện với một phái đoàn Viện Quý Tộc Anh Quốc, Lý Tiên Niệm
nói rằng lý do chính yếu khiến Việt Nam quay lại chống Trung Quốc là bởi
vì Việt Nam đã muốn lập ra một liên bang Đông Dương bằng cách biến Lào
và Căm Bốt thành các thuộc địa. Họ Lý tuyên bố rằng CHNDTQ hay biết về ý
đồ này từ lâu và đã cho Hà Nội hay biết sự chống đối của Trung Quốc đối
với chính sách này, mặc dù Trung Quốc đã không mang các sự tố cáo này
ra trước công luận.
Vào giữa mùa hè, Việt Nam được thu
nhận vào tổ chức kinh tế CMEA hay COMECON (Tổ Chức Tương Trợ Kinh Tế
của các nước cộng sản Đông Âu dưới sự lãnh đạo của Liên Bang Sô Viết khi
đó, chú của người dịch] đặt tại Mạc Tư Khoa. Sự thu nhận cho phép Việt
Nam có được sự tiếp cận lớn lao hơn về viện trợ và giúp đỡ kỹ thuật và
đã lấp được các chỗ trống để lại bởi các kỳ thuật gia Trung Quốc bị
triệu hôi bởi Bắc Kinh khi các ràng buộc Trung Quốc – Việt Nam trở nên
tồi tệ hơn. 42 Sự kiện cũng đã đánh dấu một sự gia tăng trong
sự lệ thuộc của Việt Nam vào Liên Bang Sô Viết. Với tư cách một hội
viên của CMEA, Việt Nam có nghĩa vụ phải dành ưu tiên cho Mạc Tư Khoa
trong các sự giao dịch của nó với các quốc gia xã hội chủ nghìa khác.
Các sự căng thẳng vào cuối mùa hè
có vẻ được giảm thiểu phần nào. Phần lớn các quan sát viên xem tình
hình Căm Bốt là sẽ dậm chân tại chỗ, với Việt Nam và Trung Quốc tham gia
vào một cuộc chiến tranh ủy nhiệm (proxy war). 43 Cùng với
viện trợ kinh tế tổng quát được cung cấp bởi khối CEMA là các vũ khí đến
từ Liên Bang Sô Viết. Các chuyến tàu chở vù khí Sô Viết sang Việt Nam
nhiều hơn nhiều, so với số lượng cần thiết để duy trì các nỗ lực của
Việt Nam tại Căm Bốt. Các giới chức thẩm quyền Trung quốc tin tưởng
rằng Liên Bang Sô Viết đang trang bị và khuyến khích các viên chức Việt
Nam lôi kéo Trung Quốc vào một cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam. 44
Trong khi sự chú ý đến các vấn đề
dân tỵ nạn và các sự việc ở biên giới có vẻ giảm bớt trong báo chí Trung
Quốc, nhiều sự chú ý hơn đã được dành cho các ý định của Hà Nội và Mạc
Tư Khoa tại Căm Bốt. Tờ Renmin Ribao (People’s Daily: Nhân Dân Nhật Báo)
đã đăng tải một bài báo gọi Việt Nam là “một cô bồ nhí (junior partner)
của Liên Bang Sô Viết” nhận được “sự xúi dục và ủng hộ từ Điện Cẩm Linh
trong bất kỳ điều gì nó làm hay nói”. Đề cập tới Sô Viết như là “các
kẻ đế quốc xã hội chủ nghiã (social-imperialists)”, bài báo viết tiếp:
Đế quốc xã hội chủ nghĩa là một ông chủ
trong quá khứ trong việc dở trò ảo thuật một “cuộc nổi dậy của quần
chúng làm duyên cớ cho việc xâm lăng và khuynh đảo một quốc gia có chủ
quyền. Các giới thẩm quyền Việt Nam rất thành thạo trong trò lừa gạt
này và đã từng áp dụng nó ngay từ đầu …. Mạc Tư Khoa và Hà Nội đang có
khuynh hướng bóp cổ nước Kampuchea mới sơ sinh từ trong chiếc nôi của nó
… cả Hà Nội lẫn Mạc Tư Khoa đều cương quyết phá hủy Kampuchea. 45
Nhưng sự ký kết bản Hiệp Ước Hữu
nghị và Hợp Tác giữa Liên Bang Sô Viết và Việt Nam hồi đầu Tháng Mười
Một một lần nữa khơi lên các nỗi lo ngại trong vùng. Trung Quốc đã nhìn
Điều Sáu của bản hiệp ước như mưu toan của Việt Nam và Sô Viết để đe
dọa Trung Quốc nhằm giúp cho các mục đích của hai bên kết ước tại Đông
Dương sè không bị ngăn trở bởi Trung Quốc:
Trong trường một bên bị tấn công hay bị
đe dọa tấn công, hai bên kết ước phải tức thời tham khảo với nhau nhằm
tìm cách loại trừ sự đe dọa đó, và sè thực hiện mọi biện pháp thích đáng
và hữu hiệu để bảo toàn hòa bình và an ninh của hai nước. 46
Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình vạch
ra tại một cuộc họp báo tại Bangkok rằng bản hiệp ước là một thành tố
trong chiến lược toàn cầu của Liên Bang Sô Viết và “Cuba của Á Châu” (ám
chỉ Việt Nam), và rằng bản hiệp ước có một “bản chất quân sự”. Họ Đặng
lập luận rằng bản hiệp ước sẽ giúp cho Việt Nam gia tăng các hành vi bá
quyền chủ nghĩa của nó như một “Cuba ở phương Đông”:
Mọi người dều biết Cuba như thế nào rồi.
Chúng ta không thể làm gì hơn là cảnh giác canh chừng Cuba của phương
Đông. Về câu trả lời cho vấn đề này, nó tùy thuộc vào việc Việt nam sè
tiến xa đến đâu. Trước tiên, đến mức độ nào mà nó sè thực hiện trong
cuộc xâm lược của nó chống lại Kampuchea. Chúng tôi sè quyết định về
phương cách đối phó với Việt Nam tùy thuộc vào khoảng cách xa gần mà nó
sè tiên tới với chính sách bá quyền chủ nghìa của nó. 47
Bất kể có sự ký kết bản hiệp ước,
Việt Nam và Sô Viết đã không gần gủi nhau như nhiều người có thể đã tin
tưởng. Các viên chức Việt Nam thì cởi mở trong sự lượng định của họ về
Liên Bang Sô Viết. Một viên chức có nói với một nhà ngoại giao Mỹ rằng
CHXHCNVN đã sống sót qua thời chế độ thực dân của Pháp và chủ nghĩa đế
quốc Mỹ, và họ cũng sẽ “sống sót qua tình hữu nghị của Sô Viết”. 48
Sô Viết hay biết rất rõ về sự bất mãn của Việt Nam đối với họ. Một
viên chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, trong khi tóm lược một cuộc đàm thoại
với một nhà ngoại giao Sô Viết, tường thuật rằng Sô Viết sẽ thất vọng
với Việt Nam bởi vì họ chỉ có sự quen biết “mười phăn trăm” với những gì
mà giới lãnh đạo Việt Nam đang suy nghĩ. 49
Vào ngày 3 Tháng Mười Hai, 1978,
Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Kampuchea Cứu Nguy Dân Tộc (MTTNQGKCNDT,
tiêng Anh là Kampuchean National United Front for National Salvation:
KNUFNS), dưới quyền của Heng Samrin, đã được tổ chức. Mục đích của
MTTNQGKCNDT là lật đổ Pol Pot và thiết lập một chế độ xã hội chủ nghĩa
mới. Heng Samrin là người Căm Bốt và một cựu thành viên của ủy ban chấp
hành của ĐCSCB. Ông đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại Pol Pot
trong Tháng Năm 1978. Việt Nam có ý định sử dụng Heng Samrin để chính
thống hóa các chính sách của họ tại Căm Bôt. Điều được nghĩ là nếu họ
ra sức ủng hộ cho Samrin, Hà Nội khi đó có thể điều khiển cuộc xâm lăng
Căm Bốt, đánh gục ý chí của phe Khmer Đỏ, và thiết lập một chế độ thân
Việt Nam.
Trung Quốc đã tố cáo Việt Nam về
việc thành lập ra MTTNQGKCNDT để yểm trợ cho cuộc tấn công quân sự của
Việt Nam chống lại Căm Bốt hầu “thực hiện giấc mơ ấp ủ từ lâu của họ về
quyền bá chủ trong vùng”. 50 Các thành viên trong đội ngũ
ngoại giao của Trung Quốc đã bắt đầu nêu ý kiến rằng Trung Quốc có thể
phải đánh Việt Nam bởi có các sự khiêu khích dọc biên giới CHNDTQ –
CHXHCNVN và sự bất ổn nói chung tại Đông Dương. 51 Chính từ
đó, tình hình đã chín mùi cho một cuộc đối đầu Trung Quốc – Việt Nam tại
hai mặt trận – bởi sự ủy nhiệm dọc theo biên cương Việt Nam – Căm Bốt
với Căm Bốt, và xuyên qua sự giao chiến trực tiếp dọc biên giới Trung
Quốc – Việt Nam.
Vào giữa Tháng Mười Hai, Hoa Kỳ và
Trung Quốc đã gỡ bỏ có lẽ chướng ngai vật sau cùng cho một cuộc xâm
lăng toàn diện vào Căm Bốt bởi Việt Nam. Hoa Kỳ nhìn chính yếu sự loan
báo hôm 15 Tháng Mười Hai 1978 về các quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc được
tái lập như một thành quả tự nhiên của nhiều năm thương thuyết và hòa
dịu ngoại giao giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh. Trong thực tế, thông cáo
chung được công bố bởi các nhà lãnh đạo của cả hai thủ đô vào lúc loan
báo đã không đề cập gì đến sự hợp tác quân sự giữa hai nước. Tuy nhiên,
bản thông cáo chung có phát biểu rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc “chống lại
các nỗ lực bởi bất kỳ nước hay nhóm nước nào khác nhằm thiết lập … bá
quyền” tại vùng Á Châu – Thái Bình Dương. 52 Khi được hỏi là
liệu sự thiết lập các quan hệ chính thức có làm xấu đi các quan hệ của
Trung Quốc với Nga hay không, Chủ Tịch Hoa Quốc Phong tuyên bố rằng các
sự liên hệ ảnh hưởng đến Hoa Kỳ và Trung Quốc và không được nhắm để
chống lại bất kỳ nước nào. Nhưng Chủ Tịch họ Hoa sau đó tiến đến việc đề
cập rằng các ràng buộc giữa Mỹ – Trung Quốc thì thuận lợi cho cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa bá quyền:
Chúng ta có đề cập đến sự chống đối của
chúng ta đối với chủ nghĩa bá quyền trong bản thông cáo chung của chúng
ta. Chúng ta chống đối cả đại bá quyền lẫn tiểu bá quyền, cả bá quyền
toàn cầu lẫn bá quyền cấp vùng. Bản văn này [thông cáo chung] sẽ có lợi
cho hòa bình của toàn thể thế giới. 53
Chính vì thế sự bình thường hóa
các quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc và bản hiệp ước Sô Viết – Việt Nam đã có
một hiệu ứng phân cực trong cuộc xung đột Trung Quốc – Việt Nam. Một
viên chức tòa đại sứ CHXHCNVN nói với các nhà ngoại giao tại Pháp bày tỏ
quan ngại rằng mặc dù các liên hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc không gây ngạc
nhiên cho Việt Nam, Hà Nội dù thế lo sợ rằng sự tiến lại gần nhau về
ngoại giao sè tăng cường cho ý định của CHNDTQ nhằm thiết lập bá quyền
trên vùng Đông Nam Á. 54 Việt Nam tin tưởng rằng Trung Quốc
giờ đây có thể tiến hành việc tấn công Việt Nam và tăng cường tiềm năng
quân sự của đối thủ của Việt Nam tại Căm Bốt, bởi mối quan hệ mới đã
mang lại cho Trung Quốc sự tự tin để kháng cự lại Việt Nam và Sô Viết. 55
MỘT CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG TRÊN HAI MẶT TRẬN
Vào Ngày Thiên Chúa Giáng Sinh
1978, Việt Nam đã xâm lăng Căm Bốt. Đó là một cuộc đột nhập lớn nhất
vào Căm Bốt bởi Việt Nam trong lịch sử của hai nước. Ý định của Việt
Nam là đánh một trận sinh tử mau chóng vào giới lãnh đạo Khmer Đỏ tại
Căm Bốt và chiếm giữ Phnom Penh trong vòng một hay hai tuần, và đặt
người của họ, Heng Samrin, đứng đầu một chính quyền bù nhìn. Cuộc xâm
lăng đã truyền đi các làn sóng chấn động khắp Á Châu. Khối ASEAN kêu
gọi một sự triệt thoái tức khắc, cũng như Liên Hiệp Quốc. Mặc dù gặp
phải sự kháng cự bất ngờ, Việt Nam vẫn cảm thấy tương đối dễ dàng để
giành đoạt lợi thế trên các lực lượng Căm Bốt yếu kém hơn.
Vào ngày 7 Tháng Một, 1979, Công
Hòa Nhân Dân Kampuchea được tuyên bố thành lập, với Heng Samrin làm quốc
trưởng. Bất kể đã chiếm giữ được hầu hết các khu vực đô thị, kể cả
Phnom Penh, quân đội Việt Nam nhận thấy sự kháng cự tại các khu vực đồi
núi của Căm Bốt còn khá mạnh. Khmer Đỏ rút lui về các vùng cao nguyên
nơi nó có thể tái đoàn ngũ hóa và ngăn chặn cuộc tiến quân của Việt Nam.
Bộ ngoại giao Trung Quốc đưa ra
một bản tuyên bố hôm 14 Tháng Một, 1979, kết án cuộc tấn công là “chủ
nghĩa bá quyền Việt Nam được tiếp tay bởi đế quốc xà hội chủ nghĩa Sô
Viết”. 56 Bất kể việc kêu gọi sự ủng hộ quốc tế trong việc
kết án cuộc xâm lăng của Việt Nam, bản tuyên bố đã không đề cập gì đên
một phản ứng quân sự sắp xẩy ra của Trung Quốc chống lại Hà Nội. Trước
và sau cuộc tấn công của Việt Nam vào Căm Bốt, nhiều nhà lãnh đạo khác
nhau của Trung Quốc được trích dẫn có nói rằng Trung Quốc có thể sắp
phải đi đến đến việc “dậy cho Việt Nam một bài học”.
Đầu Tháng Hai, điều hiển nhiên là
sự hiện diện của Việt Nam tại Căm Bốt không phải là một sự có mặt tạm
thời. Sự cảnh cáo của Trung Quốc đối với Việt Nam vẫn tiếp tục. Khi
bình luận về các sự đe dọa của Trung Quốc, viên chức bộ ngoại giao Việt
Nam, ông Nguyễn Duy Trinh, tuyên bố rằng Việt Nam sẵn sàng để nói chuyện
với Trung Quốc về một sự đình chỉ chiến sự, làm việc để tiến tới một sự
giải quyết các vấn đề lãnh thổ / biên giới, và về vấn đề người gốc Hoa.
57 Vắng mặt một cách đáng chú ý trong các nhận định của ông
ta là bất kỳ sự đề cập nào đến cuộc khủng hoảng Căm Bốt vốn tạo thành
trở ngại chính yếu làm phân cách Trung Quốc và Việt Nam.
Cuộc xâm lăng Trung Quốc vào Việt
Nam diễn ra hôm 14 Tháng Hai, 1979. Việc này đã xảy ra mười lăm tuần
lễ sau sự ký kết ban Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt Nam – Sô Viết và
chỉ sáu tuần lễ sau cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt. Trung Quốc
đã biện minh cho cuộc xâm lăng bằng việc nói đến nhu cầu cần phản công
các bộ đội Việt Nam nhiều lần vượt qua biên giới tiến vào lãnh thổ Trung
Quốc và khiêu khích những người sinh sống dọc theo các khu vực biên
giới:
Sau khi phản kích quân xâm lược Việt Nam
như chúng xứng đáng [nhận lãnh], các binh sĩ biên cương Trung Quốc sẽ
nghiêm ngặt tiếp tục phòng vệ biên giới của xứ sở chính mình… hai bên
(khi đó phải) tổ chức mau chóng các cuộc thương thảo tại bất kỳ địa điểm
được đồng thỏa thuận “để thảo luận” việc tái lập hòa bình và yên tĩnh
dọc biên giới. 58
Các lời tuyên bố chính thức của
Trung Quốc loan báo cuộc xâm lăng chỉ đề cập đến các vụ đột nhập biên
giới như các nguyên nhân cho sự tấn công. Ngoài ra, Trung Quốc ưa thích
việc xem nhẹ cuộc xâm lăng của nó tại Liên Hiệp quốc, thay vào đó nêu
lên sự chú ý đến cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt. 59
Phản ứng của Sô Viết đối với cuộc xâm
lăng vào Việt Nam có phần nào hòa dịu. Mặc dù cơ quan báo chí chính
thức của Sô Viết có gọi Trung Quốc là hiếu chiến và theo đuổi chủ nghìa
bá quyền vì sự xâm nhập của họ vào Việt Nam, điều thể hiện rõ ràng rằng
đáp ứng của Sô Viết chính yếu có tính chất hỗ trợ trong bản chất:
Nhân dân Việt Nam anh hùng, đang trở
thành nạn nhân của một cuộc xâm lăng mới, có khả năng tự mình đứng thẳng
một lần nữa vào lúc này, và hơn nữa nó có các thân hữu đáng tin cậy.
Liên Bang Sô Viết sẽ tôn trọng các nghĩa vụ của nó đúng theo bản Hiệp
Ước Hữu Nghị và Hợp Tác giữa Liên Bang Sô Viết và Công Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam.
Những kẻ quyết định chính sách tại Bắc
Kinh phải ngừng lại trước khi quá trễ … Mọi trách nhiệm về các hậu quả
của việc tiếp tục xâm lược bởi Bắc Kinh chống lại Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam sẽ bị gánh chịu bởi giới lãnh đạo hiện nay. 60
Mặc dù lời cảnh cáo từ Mạc Tư Khoa
thì cứng rắn, vẫn có các dấu hiệu cho thấy Sô Viết đã không lo âu về
việc dính líu vào cuộc xung đột. Hầu hết các nhà quan sát viên bên
ngoài tin tưởng rằng sự đáp ứng của Sô Viết đã phản ảnh nhiều hơn về ước
muốn của Sô Viết nhằm phác họa CHNDTQ như một kẻ xăm lăng, và trong nỗ
lực để khiến Trung Quốc tin rằng Sô Viết sẽ trợ giúp Việt Nam, mặc dù
không có sự đề cập đến loại trợ giúp nào liên hệ đến sự kiện này. 61
Ngày 24 Tháng Hai, tùy viên quân
sự Sô Viết thuộc Tòa Đại Sứ Sô Viết tại Hà Nội lập lại sự cảnh cáo của
Mạc Tư Khoa đối với Trung Quốc, nhưng một lần nữa tuyên bố rằng nhân dân
Việt Nam có khả năng tự phòng vệ mình. 62 Các sự cảnh cáo
của Sô Viết trong cả hai trường hợp diễn ra sau khi phía Trung Quốc công
bố rằng các ý định của họ có giới hạn trong cuộc xâm lăng. Thực sự, đã
có một sự sẵn lòng về phía Sô Viết để trợ giúp Việt Nam về mặt tiếp tế
và tình báo, nhưng việc giao chiến thực sự hoàn toàn được dành cho phía
Việt Nam sao cho không đem các binh sĩ Sô Viết trực tiếp dính vào cuộc
xung đột với phía Trung Quốc. 63
Các lực lượng Trung Quốc đã di
chuyển sâu sáu dậm vào lãnh thổ Việt Nam trong vòng bốn ngày, mười lăm
dặm trong sáu ngày, và sau cùng hai mươi lăm dậm trong chín ngày (xem
bản đồ 1). Nhưng cuộc xâm lăng thì tốn kém cho Trung Quốc. Chỉ sau hai
tuần giao chiến, Trung Quốc nêu đề nghị hưu chiến và một sự đình chỉ
chiến sự tổng quát. Các quan sát viên bên ngoài thắc mắc về các năng
lực của Trung Quốc để chuyển vũ khí đạn được, quân nhu [materiel,
tiêng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] đến khu vực giao
tranh. Ngoài ra, các số tổn thất của cả hai bên biên giới đều gia tăng,
cho thấy Trung Quốc phải trả giá đắt cho cuộc xâm lăng.
Bản Đồ 1: Cuộc Xâm Lăng Của Trung Quốc Vào Việt Nam
Việt Nam đồng ý rằng các cuộc hòa đàm thì
cần thiết, nhưng ràng buộc chúng vào một sự triệt thoái các lực lượng
Trung Quốc ra khỏi Việt Nam. Điều ngày càng trở nên rõ rệt hơn trong
khi cuộc chiến tranh tiếp diễn rằng các nguyên do của Trung Quốc cho
việc xăm lăng Việt Nam , có các căn rễ sâu xa, không chỉ để đáp ứng với
các vụ đột nhập biên giới, như Bắc Kinh đã tuyên bố nguyên thủy. Đặng
Tiểu Bình tái xác nhận rằng Trung Quốc không muốn dù chỉ một tấc đất của
Việt Nam, nhưng đã bổ túc rằng Trung Quốc:
Không thể tha thứ cho quân Cuba phiêu lưu
hung hãn mà không bị chặn đứng tại Phi Châu, Trung Đông và các khu vực
khác; chúng ta cùng không thể tha thứ cho các Cuba ở Phương Đông phiêu
lưu hung hãn mà không bị chặn đứng tại Lào, Căm Bốt hay ngay cả ở khu
vực biên giới của Trung Quốc. 65
Bất kể lời phát biểu của họ Đặng
tuyên bố cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt như một lý do cho cuộc
tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam, báo chí Trung Quốc tiếp tục đưa ra
các tín hiệu mâu thuẫn. Tân Hoa Xã phủ nhận rằng cuộc xâm nhập của
Việt Nam vào Căm Bốt lại có bất kỳ sự dính líu nào đến cuộc tấn công của
họ vào Việt Nam và quả quyết rằng các cuộc đụng độ tại biên giới là
nguyên do để Trung quốc “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Vào ngày 4 Tháng Ba, Trung Quốc đã
loan báo rằng nó đã chiếm được thành phố Lạng Sơn [trong nguyên bản ghi
sai là Long Sơn, chú của người dịch], và tiếp đó tuyên bố chiến thắng
(phía Việt Nam cũng làm như thế) và nêu ý kiến rằng một cuộc rút quân
sắp sửa xảy ra. Trong ngày kế tiếp, Trung Quốc loan báo một sự triệt
thoái quân sĩ chính thức:
Các binh sĩ biên giơi của Trung Quốc đã
đạt được các mục đích được đặt ra cho họ kể từ họ bị bắt buộc phải phóng
ra một cuộc phản kích tự vệ vào hôm 17 Tháng Hai chống lại các sự xâm
nhập và khiêu khích vũ trang không ngừng của quân xâm lược Việt Nam vào
Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc loan báo rằng bắt
đầu từ ngày 5 Tháng Ba, 1979, tất cả các binh sĩ biên giới của Trung
Quốc đang triệt thoái về lãnh thổ Trung Quốc.
Chúng tôi không hề muốn lấy dù chỉ một
tấc đất của Việt Nam, nhưng chúng tôi cũng sẽ không tha thứ cho các cuộc
đột nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Tất cả những gì chúng tôi mong muốn
là một biên giới ổn định và hòa bình. Chúng tôi hy vọng rằng lập trường
này của Chính phủ Trung Quốc sẽ được tôn trọng bởi chính phủ Việt Nam
và các chính phủ của các nước khác trên thế giới.
… Chính phủ Trung Quốc đề nghị một lần
nữa rằng hai phía Trung Quốc và Việt Nam mau chóng tổ chức các cuộc
thương nghị để thảo luận các đường hướng nhằm bảo đảm hòa bình và sự yên
tĩnh dọc biên giới giữa hai nước và sau đó tiến hành việc giải quyết
cuộc tranh chấp biên giới và lãnh thổ.
… Cùng lúc, chúng tôi hy vọng mọi nước …
sè có các biện pháp để thúc dục các giới chức thẩm quyền Việt Nam phải
đình chỉ tức khắc cuộc xâm lược của họ chống lại Kampuchea và triệt
thoái tất cả lực lượng xâm lăng của họ về lãnh thổ của chính họ nhằm bảo
đảm cho lợi ích của hòa bình, an ninh và ổn định của Đông Nam Á, và của
Á Châu nói chung. 66
Như lời loan báo khiến ta suy
tưởng, Trung Quốc có các sự quan tâm sâu xa trong cuộc xung đột của nó
với Việt Nam hơn là sự tức giận đơn giản phát sinh từ các cuộc khiêu
khích vũ trang dọc biên giới của nó với nước láng giềng phương nam. Lời
nhắn nhủ được hướng tới Liên Bang Sô Viết cũng như Việt Nam trong một
mưu tính để phản ảnh đường lối cứng rắn mà Bắc Kinh sẵn lòng giữ vững
tại Á Châu. Cùng lúc, nó đã được dùng để thiết lập các ranh giới cho sự
cam kết của nó nhằm không mang Sô Viết vào sự liên can trực tiếp trong
cuộc chiến.
Đãi phát thanh Hà Nội đã tức thời đáp ứng vời lời loan báo rút quân và đã đưa ra bản phát biểu như sau:
Nếu Trung Quốc thực sự triệt thoái tất cả
các binh sĩ của nó ra khỏi Việt Nam như đã tuyên bố, và sau khi tất cả
các lực lượng Trung Quốc đã được rút về phía bên kia của biên giới lịch
sử mà cả đôi bên đồng ý tôn trọng, khi đó phía Việt Nam sẽ tức thời sẵn
sàng tiến vào các sự thương nghị với phía Trung Quốc ở cấp thứ trưởng
tại một nơi và ngày sè được đồng ý về sự tái lập các quan hệ bình
thường. 67
Điều rõ ràng là cả hai bên đều sẵn
sàng để chấm dứt chiến sự và lấy làm nhẹ nhõm rằng chiến tranh đang
xuống thang. Giá của chiến tranh thì cao hơn dự đoán đối với Trung
Quốc, khi Việt Nam đã có khả năng tập trung sự kháng cự nhiều hơn mức
Bắc Kinh ước định từ nguyên thủy. Phía Trung Quốc đã tiếp tục phá hoại
hạ tầng cơ sở của Việt Nam khi họ rút lui, các hành động đã thúc đẩy một
sư đáp ứng nghiêm khắc từ Hà Nội, mặc dù các hành động đã không làm
phương hại đến các viễn ảnh của các cuộc hòa đàm giữa hai thủ đô. Vào
cuối Tháng Ba 1979, các sự tường thuật có nói đến tầm mức của sự phá
hoại gây ra bởi chiến tranh. Ký giả Jean Thoraval đã tường thuật rằng
80% hạ tầng cơ sở trong khu vực nơi mà quân Trung Quốc đã xâm lăng bị
triệt hủy. Các thành phố bị san bằng thành gạch vụn và các nấm mồ tập
thể ở khắp nơi. 68
Với sự rút quân gần đi đến chỗ kết
thúc, Trung Quốc nhất quyết thẳng thắn hơn về các lý do của họ trong
việc xâm lăng Việt Nam. Vào ngày 18 Tháng Ba, Bắc Kinh đã liệt kê năm
lý do khiến Trung Quốc cần dậy cho Việt Nam một bài học. Các lý do này
gồm:
1. Việt Nam đã trở thành một nước bá quyền đại diện cho hình ảnh một siêu cường quân sự thứ ba của thế giới.
2. Sự từ khước về phía Hà Nội để
nhìn nhận tầm quan trọng của biên giới của Trung Quốc và các cuộc độ
nhập kế đó vào lãnh thổ Trung Quốc.
3. Sự ngược đãi người gốc Hoa sinh
sống trên đất nước Việt Nam và sự trục xuất có hệ thống bởi các giới
chức thẩm quyền Việt Nam.
4. Sự đàn áp nhân dân Việt Nam xuyên qua sự kiểm soát trong nước hà khắc và qua chiến tranh với nước ngoài.
5. Sự quan tâm liên tục của Liên
Bang Sô Viết trong việc mở rộng các quyền lợi của nó vào vùng Đông Nam Á
trong một nỗ lực gài bẫy Trung Quốc với việc bành trướng khu vực ảnh
hưởng của Sô Viết. 69
Mặc dù cuộc chiến tranh toàn diện
giữa Trung Quốc và Việt Nam đã qua, điều đó không có nghĩa một sự chấm
dứt các thù nghịch sâu xa. Cuộc giao tranh biên giới vẫn tiếp tục và
Trung Quốc đã khởi sự loan truyền các tin đồn về một “bài học thứ nhì”.
Nhưng trên tổng thể, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đã mang các sự khác
biệt của họ đến bàn thương nghị, và tức thời tìm kiếm các phương cách để
ngăn cản một cuộc chiến tranh thứ nhì tốn kém khỏi xảy ra. Trước khi
hướng đến một sự phân tích các nỗ lực này trong chương kế tiếp, một sự
tóm lược và kết luận thì hữu ích để phác họa các vấn đề chính được nêu
ra trong chương này.
KẾT LUẬN
Chương này đưa ra nhiều luận đề về
mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1975 đến 1979. Luận đề đầu
tiên là Trung Quốc và Việt Nam có cái nhìn khác biệt về vai trò chính
trị của Hà Nội phải như thế nào tại Đông Dương. Trung Quốc lo sợ một
Việt Nam thống nhất sẽ dẫn dắt người Việt Nam đến việc tìm kiếm một liên
bang Đông Dương do Hà Nội khống chế. Hà Nội tin rằng Trung Quốc ưa
thích một Việt Nam bị phân chia hơn và sè cố gắng để ảnh hưởng đến Lào
và Căm Bốt trong các đường hướng sẽ không phù hợp với các quyền lợi của
Việt Nam.
Luận đề thứ nhì là Trung Quốc và
Việt Nam đã không muốn có một sự cắt đứt hoàn toàn các quan hệ sè khuyến
khích sự can dự nhiều hơn nữa của Sô Viết vào các công việc của Việt
Nam. Vì mục đích này, Hà Nội đã tìm kiếm viện trợ không chỉ từ Mạc Tư
Khoa, mà còn từ Bắc Kinh. Bắc Kinh đã miễn cưỡng cung cấp viện trợ bởi
điều mà Bắc Kinh nhìn như sự sẵn lòng rõ rệt của Hà Nội để tìm kiếm viện
trợ của Sô Viết và hợp tác với Mạc Tư Khoa. Sự từ chối không cấp viện
trợ đã dẫn dắt Việt Nam lại gần hơn vòng tay của Mạc Tư Khoa, điều kế đó
càng làm xa cách Bắc Kinh hơn.
Luận đề thứ ba khiến ta nghĩ rằng
các vấn đề đã phân cách Trung Quốc với Việt Nam, như cuộc xung đột lãnh
thổ / biên giới và sự rạn nứt về vấn đề người Hoa sinh sống tại Việt
Nam, là những cuộc xung đột phát sinh bởi một sự bất đồng toàn diện giữa
hai nước về số phận của Đông Dương. Khi các chính sách cạnh tranh đụng
độ nhau về Căm Bốt, Hà Nội và Bắc Kinh đã tăng cường cuộc chiến tranh
bằng lời nói của họ trên các xung đột ngoại vi không dính líu trực tiếp
với cuộc khủng hoảng Căm Bốt.
Ngoài các luận đề này, có nhiều kết luận có thể rút ra từ cuộc thảo luận trên đây:
1. Các sự khác biệt của Trung Quốc
và Việt Nam phản ảnh các sự cứu xét an ninh và quyền lực vốn ảnh hưởng
đến mọi quốc gia-dân tộc bất kể đến ý thức hệ. Ý thức hệ Mác xít từ
1975 đến lúc kết thúc cuộc chiến tranh 1979 chẳng mấy dính dáng đến các
vấn đề phân cách Việt Nam và Trung quốc. Cũng giống như các nước Đông
Âu khác biệt với Mạc Tư Khoa trong quan điểm của họ liên quan đến các
quan hệ quốc tế và cấp miền, cuộc xung đột Trung Quốc – Việt Nam chính
yếu là một thí dụ truyền thống về phương thức làm thế nào mà các quốc
gia-dân tộc tìm cách nâng cao quyền lực của họ đối với các quốc gia –
dân tộc khác.
2. Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam
đã từng bất hòa với nhau trong lịch sử, cuộc xung đột có lẽ phản ảnh
nhiều hơn về các mưu tính của Việt Nam và Trung Quốc để được nhìn nhận
như các nước có chủ quyền tìm kiếm các quyền lợi dân tộc riêng biệt, và
chỉ có ít phần là một sự phản ảnh các quốc gia – dân tộc bị phân hóa bởi
các sự khác biệt văn hóa / lịch sử cá biệt. Không có gì nghi ngờ rằng
lịch sử đóng một vai trò quan trọng trong cuộc xung đột, nhưng các sự
cứu xét chính trị thực tế (Realpolitik) có tinh cách tối thượng đối với
cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội.
3. Cuộc xung đột cũng cho thấy
rằng các quốc gia – dân tộc mở cửa ra thế giới bên ngoài lần đầu tiên
thì lo lắng bảo đảm sự thành công của họ như các nước có chủ quyền bằng
việc tìm cách gia tăng ảnh hưởng củahọ trong các sự vụ cấp miền và quốc
tế. Thời kỳ 1975 đên 1979 là một thời kỳ chuyển tiếp trong các đấu
trường chính sách ngoại giao và đối nội cho cả Việt Nam lẫn Trung Quốc.
Trung Quốc thì lo lắng ngăn chặn mối đe dọa của sự bao vây các biên
giới của nó để chứng tỏ các năng lực của nó như một quyền lực cấp vùng
và thế giới. Sự tái thống nhất của Việt Nam mang lại cho Hà Nội sự tự
tin để tìm kiếm sự thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế. Vì thế,
Hà Nội đã cảm thấy rằng việc đẩy mạnh cho một ảnh hưởng to lớn hơn tại
Đông Dương là một sự đâm chồi hợp lý của sự tự tin mới được tìm thấy
này.
Mặc dù một số vấn đề ngoại vi của
cuộc xung đột Trung Quốc – Việt Nam đã giảm thiểu phần nào tầm quan
trọng kể từ 1979, cuộc xung đột Căm Bốt vẫn còn là yếu tố chính làm phân
hóa Trung Quốc và Việt Nam. Hai chương kế tiếp sẽ cứu xét cặn kè khía
cạnh này của cuộc xung đột./-
___
CHÚ THÍCH
1. Washington Post, 1 Tháng Năm, 1975.
2. Theo các điều khoản của Hiệp Định
Paris, Chính Phủ Cách Mạng Lâm thời (Provisional Revolutionary
Government: PRG) được giả định đảm nhận các công việc hàng ngày của nam
Việt Nam cho đến khi một sự thỏa thuận khả dĩ chấp nhận có thể được đưa
ra về tương lai của Việt Nam bởi các nhà cầm quyền tại Sàigòn và Hà
Nội. Kế hoạch này không bao giờ được ưa thích trong số các nhà lãnh đạo
của Hà Nội bởi nó mang ý nghĩa sự kéo dài liên tục của một chính sách
hai nước Việt Nam. Trung Quốc đã tiếp tục sử dụng tổ chức PRG để thực
hiện một số công việc chính thức với Nam Việt Nam, một tình trạng khiến
cho Hà Nội tức giận. (Xem Chương 1 [trong nguyên bản])
3. Tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, “Da
Nang Incident: June 1975” được tìm thấy tại University of California,
Berkeley, Indochina Archives (Văn Khố Đông Dương), Vietnam Collection
(Sưu tập Việt Nam) (từ giờ về sau được ghi tắt là DRV Indochina Files),
Tháng Sáu 1975.
4. New York Times, August 15, 1975.
5. “Statement of Chinese Foreign Ministry
on Expulsion of Chinese Residents by Vietnam: Tuyên Bố của Bộ Ngoại
Giao Trung Quốc về việc trục xuất các cư dân Trung Quốc bởi Việt Nam”,
Bộ Ngoại Giao, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, 9 Tháng 6, 1978. Được in
lại trong tờ Beijing Review, 16 Tháng Sáu, 1978, các trang 13-17.
6. Văn thư Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 19-26
Tháng Hai, 1976, “Indications of Strained Relations Between China and
Vietnam: Các Dấu Hiệu về Các Quan Hệ Căng Thẳng giữa Trung Quốc và Việt
Nam”, DRV Indochina Files, Tháng Hai 1976.
7. Văn thư Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 12
Tháng Tư, 1976, DRV Indochina Files. Hầu hết các văn thư trong hồ sơ
này không có nhan đề. Hồ Sơ DRV là từ 1967 đến ngày nay. Một dự án
đang tiến hành tại University of California, Berkeley.
8. Richard Wich, Sino-Soviet Crisis Politics: A Study of Political Change and Communication (Cambridge: Council of East Asian Studies, 1980), các trang 2-5.
9. New York Times, 11 Tháng Bẩy, 1975.
10. Far Eastern Economic Review (từ giờ về sau viết tắt là FEER), 11 Tháng Sáu, 1976.
11. Đặc biệt, ông Sun đã đề cập đến sự
hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á nói chung khả dĩ chấp nhận
được đối với Trung Quốc chứ không phải đối với Việt Nam. Xem văn thư
của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, “SRV-PRC relations: July 1976: Các Quan Hệ
CHXHCHVN-CHNDTQ, Tháng Bẩy 1976”, DRV Indochina Files, Tháng Bẩy 1976.
12. Xem “PRC’s Emerging Policy in
Southeast Asia: Chinh” Sách Mới Xuất Hiện của Trung Quốc Tại Đông Nam
Á”, DRV Indochina Files, Tháng Mười Hai, 1976.
13. Pao-min Chang, Beijing, Hanoi, and the Overseas Chinese
(Berkeley: University of California Press, 1982), các trang 21, 25.
Ngay trước khi có cuộc thanh trừng, Đảng Lao Động Việt Nam (tên chính
thức của đảng công. sản Việt Nam) đã tổ chức một hội nghị mà phía Trung
Quốc từ chối tham dự. Không có lý do nào được đưa ra, mặc dù Trung Quốc
có gửi một văn thư chào mừng. Xem Kyodo News Service, FBIS Daily Report, China, 10 Tháng Mười Hai, 1976.
14. FEER, 12 Tháng Ba, 1976.
15. New China News Agency (Tân Hoa Xã) (từ giờ về sau viết tắt là NCNA), 3 Tháng Bẩy, 1976, FBIS Daily Report, China, 4 Tháng Bẩy, 1976.
16. NCNA, FBIS Daily Report, China 17 Tháng Mười Hai, 1976.
17. Văn bản của biên bản ghi nhớ này được in lại trong tờ Beijing Review, 20 Tháng Ba, 1979, các trang 17-22.
18. Craig Etcheson, The Rise and Demise of Democratic Kampuchea (Boulder: Westview Press, 1984), trang 16.
19. Finnish Inquiry Commission, Kampuchea: Decade of the Genocide, biên tập bởi Kimmo Kiljumen, (London: Zed Books, 1984).
20. Karl D. Jackson, “Cambodia 1977: Gone to Pot”, Asian Survey (Tháng Một, 1978): 79-80.
21. C. L. Chou, “China’s Policy Towards Laos: Politics of Neutralization” trong quyển Contemporary Laos: Studies in Politics and Society of the Lao People’s Democratic Republic, biên tập bởi Martin Stuart-Fox (New York: St. Martin’s Press, 1982), trang 298.
22. Carlyle A. Thayer, “Laos and Vietnam: The Anatomy of Special Relationship”, trong quyển Contemporary Laos, biên tập bởi Stuart-Fox, các trang 255-56.
23. Arthur J. Dommen, Laos: Keystone of Indochina (Boulder: Westview Press, 1985), các trang 125-26.
24. Chou, “China’s Policy Towards Laos”, trang 298.
25. “Treaty of Friendship and Cooperation
Between the Lao People’s Republic and the Socialist Republic of
Vietnam: Hiệp Ước Hữu Nghị Và Hợp Tác Giữa Cộng Hòa Nhân Dân Lào và Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, ngày 18 Tháng Bẩy, 1977. Được in lại
trong Chinese Law and Government 16, 1 (Spring 1983).
26. Asia Yearbook, 1976 (Hongkong: Far Eastern Economic Review, 1976).
27. FEER, 14 Tháng Mười, 1977, trang 30.
28. FEER, 23 Tháng Chín, 1977, trang 30.
29. Vietnam Courier (Tháng Mười Một 1977: 7-9).
30. “More on Hanoi’s White Book”, Beijing Review, 30 Tháng Mười Một, 1979, các trang 11-15.
31. “Comrade Hua Kuo-feng’s Speech”, Beijing Review, 23 Tháng Mười Một, 1977.
32. “Comrade Le Duan’s Speech”, Beijing Review, 23 Tháng Mười Một, 1977.
33. NCNA, 30 Tháng Mười Hai, 1977, FBIS Daily Report, China, 31 Tháng Mười Hai, 1977.
34. AFP, FBIS Daily Report, East Asia, 31 Tháng Mười Hai, 1977.
35. FEER, 13 Tháng Một, 1978, các trang 10-11.
36. FEER, 3 Tháng Hai, 1978, trang 22.
37. Một số các nhà phân tích tin rằng Căm
Bốt đã phản ứng quá nhanh trước các đe dọa của Việt Nam bằng cách tấn
công các làng mạc Việt Nam. Việc này được lập luận là đã thổi cuộc xung
đột đến chỗ công khai. Xem Karl D. Jackson, “Cambodia 1978: War,
Pillage, and Purge in Democratic Kampuchea”, Asian Survey, (Tháng Một 1979)
38. Xem Etcheson, The Rise and Demise of Democratic Kampuchea, các trang 86-89, 193-97
39. Vietnam News Agency (VNA), FBIS Daily Report, East Asia, 7 Tháng Bẩy, 1978.
40. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
Bộ Ngoại Giao, “Report on the International Strategy of China: Báo Cáo
Về Chiến Lược Quốc Tế của Trung Quốc”, Tháng Sáu 1978, DRV Indochina
Files, Tháng Sáu 1980.
41. Văn thư Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, DRV Indochina Files, Tháng Sáu 1978.
42. TASS (Thông Tấn Liên Sô), 3 Tháng Bẩy, 1978, FBIS Daily Report, East Asia, 6 July, 1978.
43. Christian Science Monitor, 29 Tháng Chín, 1978.
44. Văn thư Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, DRV Indochina Files, Tháng Chín 1978.
45. Renmin ribao (Nhân Dân Nhật Báo), 26 Tháng chín, 1978, FBIS Daily Report, China, 26 Tháng Chín, 1978.
46. “Treaty of Friendship and Cooperation
Between the Socialist Republic of Vietnam and the Union of Soviet
Socialist Republics: Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác giữa Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam và Liên Bang Các Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Sô Viết”, 3
Tháng Mười Một, 1978. Được in lại trong Chinese Law and Government 16, 1 (Spring 1983).
47. Cuộc họp báo của Đặng Tiểu Bình (Deng
Xiaoping) tại Bangkok, “Vietnam-Soviet Treaty Threatens World Peace and
Security”. Được in lại trong tờ Beijing Review, 17 Tháng Mười Một, 1978.
48. Văn thư Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, DRV Indochina Files, Tháng Một 1979.
49. Các ghi chú, DRV Indochina Files, Tháng Một 1979.
50. “Statement by Chinese Foreign
Ministry Spokesman Supporting Kampuchea’s Just Stand and Condemning
Vietnamese Authorities’Aggression and Subversion: Tuyên Bố của Phát Ngôn
Viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Về Việc Ủng Hộ Lập Trường Chính Đáng của
Kampuchea và Kết Án Sự Xâm Lược và Khuynh Đảo của Nhà Cầm Quyền Hà Nội”,
Beijing Review, 22 Tháng Mười Hai, 1978.
51. Văn thư Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, DRV Indochina Files, Tháng Mười Hai 1978.
52. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Bộ Ngoại Giao
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, “Joint Communiqué on the Establishment of
Diplomatic Relations Between the United States of America and the
People’s Republic of China, January 1, 1979: Thông Cáo Chung Về Việc
Thiết Lập Các Quan Hệ Ngoại Giao Giữa Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ và Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc, ngày 1 Tháng Một, 1979”, State Department Bulletin 79 (January 1979): 25.
53. “Chairman Hua Gives Press Conference”, Beijing Review, 22 Tháng Mười Hai, 1978, các trang 9-11.
54. Bất kể các lời tuyên bố rằng sự sáp
lại gần nhau giữa Trung Quốc – Hoa Kỳ không làm ngạc nhiên CHXHCHVN, các
quan sát viên bên ngoài cho hay rằng sự chuyển động này làm sững sờ
phia” Việt Nam, các kẻ cảm thấy rằng họ đã thua cuộc ‘trận chơi bình
thường hóa”. Các nhà theo dõi Hà Nội lập luận rằng Việt Nam đã cố gắng
giành đoạt tình hữu nghị của một cựu thù (Hoa Kỳ), nhưng đã bị buộc tiến
tới một liên minh không vui vẻ với Liên Bang Sô Viết [sic]. Xem FEER, 29 Tháng Mười Hai, 1978, các trang 14-15.
55. Tài liệu nội bộ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, DRV Indochina Files, Tháng Mười Hai 1978.
56. “Chinese Government Statement, January 14, 1979”, Beijing Review, 19 Tháng Một 1979.
57. VNA, 10 Tháng Hai, 1979, FBIS Daily Report, East Asia, 11 Tháng Hai, 1979.
58. New York Times, 18 Tháng Hai, 1979. Điều quan trọng cần ghi nhận rằng số ra ngày 2 Tháng Ba, 1979 của tờ Beijing Review
nói rằng cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam là một sự đáp ứng
trước sự xâm lược của Việt Nam tại biên giới Trung Hoa từ 10 Tháng Tám,
1978, sự ngược đãi người gốc Hoa sinh sống tại Việt Nam và kế đó lưu đầy
các cư dân Trung Quốc, và cuộc tấn công vũ trang vào các tàu đánh cá
Trung Quốc bởi Việt Nam tại các hải phận quốc tế.
59. New York Times, 18 Tháng Hai, 1979. Tờ New York Times
cũng tường thuật hôm 6 Tháng Ba, 1979, rằng Trung Quốc phủ nhận là cuộc
xâm chiêm của Việt Nam vào Căm Bốt lại có dính dáng chút nào đến cuộc
tấn công trừng phạt của Trung Quốc chống lại Việt Nam.
60. TASS, 18 Tháng Hai, 1979, được tường thuật trong tờ New York Times, 19 Tháng Hai, 1979.
61. Christian Scienec Monitor, 20 Tháng Hai, 1979.
62. VNA, 24 Tháng Hai, 1979, FBIS Daily Report, East Asia, 26 Tháng Hai, 1979.
63. FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 12.
64. Các quan sát viên bên ngoài ước đóan
rằng đên ngày 25 Tháng Hai phía Trung Quốc cạn kiệt về đồ tiếp tế và
nhân lực. Để tiếp tục chiến dịch trên quy mô rộng lớn sẽ đòi hỏi nhiều
sư đoàn và các đơn vị hỗ trợ hơn số mà Bắc Kinh cảm thấy họ có thể điều
động Xem New York Times, 26 Tháng Hai, 1979.
65. New York Times, 28 Tháng Hai, 1979.
66. NCNA, tường thuật bởi tờ Washington Post và New York Times, 6 Tháng Ba, 1979.
67. New York Times, 6 Tháng ba, 1979.
68. Từ một bản tin AFP của Jean Thoraval và được in lại trên tờ New York Times ngày 27 Tháng Ba, 1979.
69. Beijing Review, 23 Tháng Ba, 1979.
____
Nguồn: Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and China-Vietnam War,
An East Gate Book, M. E. Sharpe Inc.: Armonk, New York & London,
England: 1992, Chapter 2: Beiging, Hà Nội, and Indochina – Steps to the
Clash, các trang 31-57.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
Theo:
TC Phía trước.
ĐBQH Dương Trung Quốc: Không thể nói nộp phí là yêu nước
Lê Kiên
-
“Từ đề xuất thu của Bộ GTVT, tôi thấy
rằng họ đang có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm “thuế”, “phí” và “phạt”…
Càng không thể gọi nộp phí là yêu nước. Phí là một thứ tiền phải trả
khi sử dụng dịch vụ, có gì mà gọi là yêu nước. Gọi nộp thuế là yêu nước
mới đúng.” - Dương Trung Quốc (đại biểu Đồng Nai)
Sau hai cuộc họp báo tập trung vào đề
xuất thu phí của Bộ Giao thông vận tải (GTVT), một số đại biểu Quốc hội
cho rằng Bộ trưởng Đinh La Thăng tuy rất nhiệt tình nhưng đang có sự
nhầm lẫn.
PGS.TS
Bùi Thị An (đại biểu Hà Nội):
Rõ ràng phí chồng lên phí
Đúng là Quốc hội đã ra nghị quyết đồng ý
với các nhóm giải pháp đồng bộ của Chính phủ nhằm giảm thiểu tai nạn, ùn
tắc giao thông, trong đó có tính đến việc thu phí lưu hành đường bộ.
Tôi thấy rằng vừa qua thực hiện chủ trương này, Chính phủ đã ban hành
nghị quyết và tới đây sẽ thu phí sử dụng đường bộ để lập quỹ bảo trì
đường bộ theo đúng quy định của Luật đường bộ. Đây là loại phí thu trên
đầu phương tiện, bộ trưởng Bộ GTVT cũng đã giải thích mục đích của phí
này là để duy tu, bảo trì, nâng cấp hệ thống đường bộ, cho xe cộ lưu
hành tốt hơn.
Trả lời báo chí về mục đích của phí hạn
chế phương tiện cá nhân mà Bộ GTVT đang đề xuất, Bộ trưởng Đinh La Thăng
cũng nói là nhằm nâng cấp, xây dựng hạ tầng giao thông để xe đi lại
được thuận tiện hơn. Như vậy, xét về mục đích và tính chất thì cả hai
loại phí trên đều là phí lưu hành phương tiện, nếu thu cùng lúc hai loại
phí này tức là “phí chồng lên phí” chứ còn gì nữa. Cách giải thích rằng
không có chuyện phí chồng phí là nhầm lẫn.
Ôtô hay xe máy cũng đều là phương tiện để
người dân lưu hành, để làm việc, mưu sinh. Như vậy, anh đề xuất thu phí
với mức cao như thế mà cứ nói rằng nó chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận là
không đúng. Ngay cái tên phí cũng cho thấy chỉ là giải pháp tình thế, đã
là tình thế thì không giải quyết được căn bản. Giải pháp căn bản là quy
hoạch tổng thể, hạ tầng và phương tiện công cộng phát triển đồng bộ.
Nhưng trong điều kiện thế này, phương tiện công cộng khả dĩ nhất là xe
buýt lại quá tải, còn tàu điện trên cao, tàu điện ngầm chưa có, vậy
người dân đi bằng phương tiện gì nếu không sử dụng xe cá nhân?
|
Người dân đã nộp nhiều loại phí nhưng vẫn phải “mua đường” khi qua
các trạm thu phí. Trong ảnh: trạm thu phí xa lộ Hà Nội (TP.HCM)- Ảnh:
Minh Đức |
Nhà sử học Dương Trung Quốc (đại biểu Đồng Nai):
Nhầm lẫn khái niệm “thuế” và “phí”
Trước hết, tôi ủng hộ tinh thần xông pha
của ông Đinh La Thăng vì ông ấy phải gánh một nhiệm vụ nặng nề mà nhiều
đại biểu Quốc hội nói là đã đến tình trạng khẩn cấp. Nhưng tôi muốn nói
rằng một khi đã đi vào những giải pháp cụ thể mang tính pháp lý thì cần
phải có sự chính xác và tính thuyết phục cao.
Từ đề xuất thu của Bộ GTVT, tôi thấy rằng
họ đang có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm “thuế”, “phí” và “phạt”. Khái
niệm phí đã được nêu trong pháp lệnh phí và lệ phí rất rõ ràng rằng phí
là tiền mà cá nhân, tổ chức phải trả khi sử dụng dịch vụ của tổ chức,
cá nhân khác… Nghĩa là tôi sử dụng dịch vụ nào, tôi trả tiền cho dịch vụ
ấy và nó có định lượng, nghĩa là tôi đi xe nhiều thì trả nhiều, đi ít
thì trả ít.
Chẳng hạn, tôi có mấy chiếc xe hơi và đây
là quyền tài sản của tôi, nhưng mỗi ngày ra đường tôi chỉ đi một xe,
anh không thể thu phí cả mấy chiếc xe đó được. Càng không thể gọi nộp
phí là yêu nước. Phí là một thứ tiền phải trả khi sử dụng dịch vụ, có gì
mà gọi là yêu nước. Gọi nộp thuế là yêu nước mới đúng.
Tôi mua một chiếc xe, sau khi nộp các
loại thuế đã gấp hơn hai lần một chiếc xe tương tự ở Mỹ, như vậy tôi đã
đóng góp các khoản thuế để xây dựng đất nước rồi. Nếu mục tiêu là để hạn
chế phương tiện cá nhân, việc đánh thuế cao là thực hiện mục tiêu này
rồi. Bây giờ không thể gọi cái khoản thu hạn chế phương tiện như vậy là
phí được.
Một điều nữa, anh đưa ra mức phí ngất
ngưởng như vậy, trong khi mặt bằng thu nhập xã hội thế nào? Anh gọi tên
phí là hạn chế phương tiện cá nhân thế sao anh không đề xuất thu đối
tượng xe công? Nếu anh khẳng định cần phải hạn chế xe cá nhân để giảm ùn
tắc, đồng thời anh dám khẳng định phương tiện công cộng đáp ứng được
nhu cầu, anh vẫn phải đánh thuế vào xe công để khuyến khích các quan
chức nhà nước phát huy tính tiên phong, gương mẫu đi lại bằng phương
tiện công cộng chứ?
Tôi cho rằng tình hình cấp bách nhưng
phải thận trọng khi đưa ra giải pháp, đừng nghĩ cái khoản thu của
600.000 người có xe mà anh gọi là giàu hơn người nghèo là ít tác động
đến xã hội, đó là chưa nói đến việc anh thu cả người có xe máy.
Phí bảo trì đường bộ:
Cao nhất 1,4 triệu đồng/tháng
Bộ GTVT vừa gửi Bộ Tài chính dự thảo các
thông tư liên tịch hướng dẫn chế độ thu, quản lý và sử dụng quỹ bảo trì
đường bộ (quỹ bảo trì). Theo đó, Bộ GTVT đưa ra mức thu phí sử dụng
đường bộ cho quỹ bảo trì đối với ôtô theo tám nhóm (mức thu từ 180.000 –
1,44 triệu đồng/tháng). Đối với môtô, xe máy, bộ đề xuất khung mức thu
phí theo bốn nhóm (thấp nhất là 80.0
00 đồng/năm, cao nhất 180.000 đồng/năm)
và đề nghị UBND cấp tỉnh quyết định mức thu trong khung mức phí trên cơ
sở nghị quyết của HĐND. Thời gian bắt đầu thu phí từ ngày 1-6-2012.
Theo tính toán của Bộ GTVT tại đề án quỹ
bảo trì đường bộ trình Chính phủ trước đây, dự tính số tiền thu từ đầu
ôtô đạt hơn 6.800 tỉ đồng/năm; số tiền thu được từ 50% số môtô, xe máy
đã đăng ký đạt 2.400 tỉ đồng.
TUẤN PHÙNG
“Tam đoạn luận” của Bộ trưởng Đinh La Thăng
“Hiện nay đường bộ VN có khoảng
280.000km, nhưng mới thu được qua trạm thu khoảng 2.500km, bằng 0,7%. Do
đó phần lớn đường Nhà nước bỏ ra đầu tư thì chưa thu phí”. Sở dĩ Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng nói như thế là vì cái tam
đoạn luận sau:
1- Hiện có 280.000km đường bộ, Nhà nước là chủ đầu tư tất cả.
2- Hiện mới chỉ thu phí được 2.500km, còn những 277.500km đường chưa thu phí gì cả.
3- Vậy, nay phải thu mà thôi…
Ông bộ trưởng quên hẳn định nghĩa phổ quát nhất của đường sá là:
1/ đường có thu phí (toll) tức đường (cầu, đường hầm) do tư nhân hay nhà nước xây mà người lái xe khi sử dụng phải đóng phí;
2/ đường không thu phí (non-toll road)
được xây từ nguồn tài chính sử dụng những nguồn thu khác, mà tiêu biểu
nhất là thuế nhiên liệu hoặc nguồn thuế nói chung – những sắc thuế này ở
VN đã thu đầy đủ.
Định nghĩa trên không có gì mới hoặc xa
lạ ở VN, nhất là vế thứ nhì, đường không thu phí. Từ hơn trăm năm qua
tính từ thời Pháp thuộc, “cha đẻ” hệ thống đường sá này, cho đến ngày
nay hệ thống đường bộ ở VN đã được hình thành, xây dựng, sử dụng, duy
trì trên cơ sở đường của Nhà nước và miễn phí, do lẽ Nhà nước đã thu
thuế rồi.
Một trăm mấy mươi năm qua, ở VN đường sá
được định nghĩa và sử dụng như thế, thu chi ngân sách quốc gia cũng vận
hành trên cơ sở này. Đó không phải là một “độc đáo VN” mà là phổ quát
toàn cầu qua hai thực thể đường không thu phí (Nhà nước đã thu thuế rồi)
và đường thu phí (cung cấp lợi ích và tiện nghi bổ sung cần phải trả
tiền).
THIÊN DI
Theo:
Tuổi trẻ
Từ hiện tượng Viettel nghĩ về sự hoang phí của một hệ thống
Lê Anh Hùng
-
Kể từ năm 2004, với sự tham gia của
Viettel, hoạt động cạnh tranh trên thị trường cung cấp dịch vụ điện
thoại di động ở Việt Nambắt đầu diễn ra sôi động. Cước di động giảm từ
3.500VNĐ/phút xuống quanh mức 1.000VNĐ/phút, số lượng thuê bao của
Viettel không ngừng tăng lên; đến nay tập đoàn này đã vươn lên trở thành
một trong hai doanh nghiệp viễn thông hàng đầu ở Việt Nam(cùng VNPT).
Năm 2011, dù nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng doanh thu
của Viettel vẫn
tăng trưởng 28%, đạt trên 117.000 tỷ VNĐ, lợi nhuận đạt gần 20.000 tỷ VNĐ.
Không chỉ thành công ở trong nước,
Viettel còn thành công ở nước ngoài
và là doanh nghiệp viễn thông đầu tiên của Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài, với doanh thu năm 2011 trên 10.000 tỷ VNĐ. Dù tham gia muộn nhưng
sau gần 3 năm hoạt động, mạng thông tin di động do Viettel đầu tư tại
Lào và Campuchia đã trở thành mạng lớn nhất, năm 2011 đạt lợi nhuận sau
thuế gần 70 triệu USD. Sau khi đầu tư tại Lào và Campuchia, Viettel bắt
đầu tiến quân sang thị trường Châu Mỹ và Châu Phi.
Sự thăng tiến của Viettel quả là ngoạn
mục và có thể xem là một hiện tượng nếu xét “tuổi đời” còn khiêm tốn của
nó. Mặc dù Viettel có cái “thế” của quân đội và có sự may mắn của một
đơn vị được giao quyền khai thác tài nguyên quốc gia, song chắc chắn
không có thành công nào lại thiếu bóng dáng của con người trong đó, mà ở
đây là đội ngũ lãnh đạo của tập đoàn, đứng đầu là ông Hoàng Anh Xuân,
người vừa được thăng hàm trung tướng.
Theo Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
ngày 1/6/1989, Bộ Quốc phòng mới cho thành lập Công ty Điện tử – Thiết
bị thông tin (tiền thân của Viettel). ”Khi thành lập Công ty này, chúng
tôi rất lo lắng vì nếu không làm được hoặc có gì sai thì sẽ mang tiếng
Bộ Quốc phòng. Từ 1989 đến 1995, Công ty phải thay đổi 3 lần lãnh đạo
nhưng nội bộ vẫn chưa ổn nên không phát triển được. Thủ tướng Võ Văn
Kiệt lúc đó gọi tôi lên nhắc nhở và tôi hứa khắc phục ngay. Sau đó, tôi
đề nghị anh em tìm một cán bộ lãnh đạo có năng lực nhưng phải ở trong
các nhà máy, xí nghiệp của Bộ QP, biết làm kinh tế và dám chịu trách
nhiệm. Cuối cùng chọn được anh Hoàng Anh Xuân (TGĐ Viettel hiện nay). Từ
thời điểm này, Công ty có nhiều bước thay đổi rất nhanh.”
Rõ ràng, thành công hôm nay của Viettel
phụ thuộc đáng kể vào sự lựa chọn lãnh đạo nói trên, và nếu không phải
ông Hoàng Anh Xuân mà là một ai khác thì con đường phát triển của
Viettel hẳn cũng đã khác. Điều này khiến người ta phải đặt câu hỏi là
trong quân đội, và rộng hơn, trong cả hệ thống chính trị hiện hành, liệu
còn bao nhiêu “viên ngọc thô” nữa không may mắn được phát hiện ra như
ông Xuân? Câu trả lời ở đây xem ra phải là “rất nhiều”.
Máu làm quan
dường như đã chảy trong huyết quản của người Việt Nam tự xa xưa. Điều
này có lẽ bắt nguồn từ một thiên hướng tự nhiên trong mỗi chúng ta: con
người ta hầu như ai cũng muốn chăm lo cho người thân của mình, cho đồng
bào của mình, hay xuất phát từ tâm lý: “
Đã mang tiếng đứng trong trời đất/
Phải có danh gì với núi sông”.
[1]
Trong thời phong kiến, tầng lớp quan lại nhìn chung vẫn được xã hội
nhìn nhận như những bậc “dân chi phụ mẫu”, họ vừa có danh vừa có cả tư
cách và điều kiện để “lo cho dân” theo cách này hay cách khác, điều đem
lại cho họ cảm giác hài lòng và thoả mãn. Đây là giai đoạn lịch sử mà
quyền lực trong thiên hạ tập trung vào trong tay một vị vua cùng bộ máy
quan lại của ông ta.
Sau năm 1945, nước Việt Namchuyển sang
chính thể “dân chủ cộng hoà”. Những tưởng kể từ đây, dưới sự lãnh đạo
của một chính đảng tự xưng là “cách mạng” và “tiến bộ”, quyền lực nhà
nước hoàn toàn thuộc về nhân dân. Nhưng rồi quyền lực nhà nước nhanh
chóng bị thâu tóm vào trong tay
một vị vua độc đoán mới:
Bộ Chính trị ĐCSVN, dưới đó là một bộ máy quan chức nhất nhất làm theo
sự chỉ đạo của “cấp uỷ” và cấp trên. Trong chế độ mới, chính trị trở
thành thống soái, thâm nhập vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Các
cháu thiếu niên chỉ mới 9 tuổi đã trở thành những đội viên “Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh”, đã biết hô vang những câu khẩu hiệu sặc
mùi chính trị như “Vì Tổ quốc XHCN, vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại: Sẵn
sàng!” Điều 4 Hiến pháp 1992 thì ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành với
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
theo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội.” Mỗi người ViệtNam đến tuổi trưởng thành chẳng còn
lựa chọn nào khả dĩ hơn ngoài việc trở thành một phần của hệ thống ấy.
Những gì trên đây dẫn đến một thực tế là ở Việt Namđội ngũ quan chức quá ư hùng hậu. Trong một
bài viết trước đây,
tác giả đã liệt kê là Việt Nam hiện có tới 24 vị được gọi là “lãnh đạo
Đảng và Nhà nước”: ngoài 4 vị “tứ trụ triều đình” với quyền lực ngang
ngửa nhau (Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội),
chúng ta còn có thêm 10 vị Uỷ viên Bộ Chính trị, 4 vị Bí thư TW Đảng, 1
Phó Chủ tịch nước, 3 Phó Thủ tướng (trong số 4 PTT thì 1 người là Ủy
viên BCT), 2 Phó Chủ tịch QH (trong số 4 PCT QH thì 1 người là Ủy viên
BCT, 1 người là Bí thư TW Đảng). Cơ cấu tương tự cũng được thiết lập cho
cả cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Trong khi đó, ở các nước khác lãnh
đạo nhà nước của họ chỉ “khiêm tốn” một vài vị thôi.
Dưới thời bao cấp, những người như ông
Hoàng Anh Xuân không có lựa chọn nào phù hợp với tư chất và hoài bão của
mình ngoài việc trở thành một phần của hệ thống chính trị. Ngày nay,
trong nền kinh tế thị trường “định hướng XHCN”, thay vì gia nhập bộ máy
công quyền, những ai có hoài bão và khả năng để “lo cho dân” hay để “có
danh gì với núi sông” còn có thêm một lựa chọn khác: dấn thân vào thương
trường để trở thành doanh nhân và tạo công ăn việc làm cho nhiều người,
qua đó góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, ngay cả ở thời điểm hiện tại
cũng khó mà nói trước là một Hoàng Anh Xuân trai trẻ sẽ chọn lựa thế nào
giữa hai ngả rẽ, dấn thân vào thương trường để rồi trở thành doanh nhân
tự lập hay làm công chức trong bộ máy chính quyền rồi tiến tới trở
thành một vị “quan cách mạng”, khi mà dường như giới trẻ Việt Nam ngày
nay
vẫn máu làm quan hơn là kinh doanh.
Đơn giản là vì chế độ chính trị ở Việt Nam vẫn chẳng khác gì một nhà
nước phong kiến hủ bại với một vị vua độc đoán mang tên Bộ Chính trị,
Đảng CSVN vẫn là chính đảng duy nhất “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” –
nguyên nhân chính dẫn đến quốc nạn tham nhũng tràn lan hiện nay; và đặc
biệt, tầng lớp doanh nhân vẫn chỉ được Đảng xếp là “công dân” hạng tư
trong xã hội, sau những công nhân, nông dân và trí thức.
[2]
Trong bối cảnh ấy, lựa chọn thứ hai gần như chắc chắn sẽ đem lại cho
người ta cả quyền lực lẫn tiền tài nhiều hơn hẳn so với lựa chọn đầu
tiên.
Công bằng mà nói, đa số 24 vị “lãnh đạo
Đảng và Nhà nước” nói trên, cùng một bộ phận đáng kể trong đội ngũ quan
chức hùng hậu đằng sau họ, thực sự là những tài năng xuất chúng, với khả
năng cạnh tranh đặc biệt. Thế nên, thay vì ganh đua trong chốn quan
trường hòng tranh giành quyền lực rồi bị tha hoá, biến chất bởi cơ chế,
nếu họ tham gia vào thương trường và cạnh tranh để làm nên những sản
phẩm hay thương hiệu Việt Nam mang tầm cỡ khu vực và thế giới thì đóng
góp của họ cho xã hội sẽ thực sự to lớn. Quả thực, chế độ chính trị hiện
hành đã và đang gây ra cho đất nước chúng ta một sự lãng phí ghê gớm về
nguồn nhân lực cao cấp vốn dĩ thuộc thành phần tinh hoa của dân tộc,
chưa kể vô số tài năng đầy triển vọng khác còn bị cơ chế làm cho thui
chột.
Trong một thế giới toàn cầu hoá đang ngày
càng trở nên “phẳng” hơn và cạnh tranh gay gắt hơn như hiện nay, để đưa
nước nhà sớm “sánh vai với các cường quốc năm châu”, chúng ta rất cần
một đội ngũ CEO với tầm nhìn toàn cầu như TGĐ Viettel Hoàng Anh Xuân. Hy
vọng là trong tương lai không xa, đất nước chúng ta sẽ rơi tình cảnh
“đáng buồn” là mời những người này làm tổng thống hay thủ tướng “hơi bị
khó”, như
nhận xét của TS Nguyễn Sỹ Phương
về giới lãnh đạo các tập đoàn lớn ở Đức trong một bài viết gần đây. Bất
luận thế nào, trong thời đại ngày nay không một quốc gia bình thường
nào lại cần tới những 24 vị “lãnh đạo Đảng và Nhà nước” như Việt Nam
cả./.
L. A. H.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Ghi chú:
[1] Thơ Nguyễn Công Trứ (1778-1858).
[2] Ngày 17/12/2011, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có buổi làm việc tại Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI), nội dung chủ yếu xoay quanh Nghị quyết
09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về việc xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tại đây,
ngài Tổng Bí thư đã phát biểu:
“Trước đây, ở Đại hội 9, doanh nhân còn bị xếp sau cả công nhân, nông
dân, trí thức, hội người cao tuổi. Nhưng đến nay chỉ xếp sau công nhân,
nông dân, trí thức, cho thấy Đảng coi trọng đội ngũ doanh nhân như thế
nào” (!!!).
Quy hoạch xây dựng nông thôn mới – Vì sao vẫn ì ạch?
Tô Văn Trường
-
Mọi quốc gia trên thế giới đã chứng minh,
một đất nước phát triển không thể làm giàu bằng nông nghiệp được. Thế
nên, phát triển nông thôn theo chiều rộng, cùng “thẳng tiến” trong khi
thực lực yếu kém tất thất bại đã thấy rõ. Có ý kiến tại sao ta không
nghĩ trước tiên phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, giao thông để
tạo đà phát triển kinh tế, từ đó có những chính sách trợ giá cho nông
nghiệp, nông thôn? Tuy nhiên, một nước có
xuất phát điểm thấp, bất kỳ một sự biến động nào từ bên ngoài cũng làm
cho nền kinh tế chao đảo (3 đợt khủng khoảng kinh tế những năm gần đây
chứng minh điều này), Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều do dựa vào nông
nghiệp. Thêm nữa, nguồn lực của ta rất hạn chế, cho nên ta có thể chọn
1-2 vấn đề ưu tiên để làm “đòn bảy”.
Thực trạng xây dựng nông thôn mới
Suốt quãng thời gian khoảng 40 năm về
trước, những cánh đồng lúa, hệ thống kênh mương thủy lợi, khu chuồng
trại chăn nuôi, trồng cây ăn quả, nuôi cá… và các điểm dân cư (với trung
tâm là công trình công cộng như trụ sở ủy ban, trường học, nhà trẻ, nhà
văn hóa, trạm y tế…) được kết nối với nhau bởi hệ thống giao thông. Mô
hình này, vì nhiều lý do đã không được xây dựng hoàn chỉnh, rút kinh
nghiệm để nhân rộng. Từ đó đến nay, nông thôn đã có nhiều biến đổi.
Nhiều chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn được triển khai như
trồng rừng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, làm điện, đường, thủy
lợi… Nhưng chưa có một đồ án quy hoạch kiến trúc nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long cũng như Bắc Bộ và miền núi phía Bắc được thực hiện đến
nơi đến chốn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là:
1. Quy hoạch nông thôn đang trong tình
trạng thụ động, lệ thuộc quá nhiều vào hiện trạng, thiếu những kế hoạch
cơ bản, đồng bộ và lâu dài. Những yếu tố mang tính hạn chế phát triển
như mật độ xây dựng dày đặc, mật độ cư trú cao, hạ tầng kỹ thuật còm
cõi, lạc hậu, quá tải, môi trường sống và sản xuất bị ô nhiễm nặng nề…
Đó là những vòng vành đai thép ngày càng bó chặt nhiều nhu cầu phát
triển của nông thôn hiện nay.
2. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn xây
dựng nông thôn mới còn rất thiếu, trình độ cán bộ xã còn hạn chế, nhất
là trình độ quy hoạch (vốn họ chưa được đào tạo một cách bài bản về công
tác này), chưa có kinh nghiệm trong việc xây dựng quy hoạch nông thôn.
Do vậy, họ chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi hết sức khoa học của công
tác lập quy hoạch nông thôn mới. Sự tham gia của người dân và ban quản
lý cấp xã chưa được huy động cao nhất, thậm chí người dân chưa được vào
cuộc với nhiều lý do. Do vậy, chất lượng quy hoạch nhìn chung chưa đáp
ứng được yêu cầu và chậm so với tiến độ.
3. Định mức cụ thể cho công tác quy hoạch
chậm được các cơ quan chức năng ban hành, kinh phí thực hiện công tác
quy hoạch do phương pháp tổ chức thực hiện chưa phù hợp, chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn theo vùng, nhất là đối với các vùng miền núi do
địa bàn rộng. Trong chỉ đạo thực hiện quy hoạch nông thôn mới, hầu hết
các địa phương đều chia đều, bình quân kinh phí thực hiện nên cũng làm
ảnh hưởng đến chất lượng của công tác quy hoạch.
4. Chưa xác định rõ được các sản phẩm chủ
lực của mỗi vùng, mỗi địa phương (đất đai phân tán, nhỏ lẻ) hay nói
cách khác chưa tạo ra thương hiệu hàng hóa. Sản phẩm đầu ra hầu như chưa
được xác định, chủ yếu phụ thuộc vào thị trường địa phương. Chưa có cơ
chế để gắn kết nhà doanh nghiệp nhà nông với nhà khoa học. Nguồn vốn đầu
tư, hầu như chưa xác định cụ thể (chủ yếu là chủ trương, quyết định,
còn vốn thì “chờ là chính”. Việc huy động nguồn vốn còn nhiều khó khăn
và bố trí chưa tập trung dẫn đến công tác quy hoạch, hạ tầng cơ sở chưa
thực sự có bước đột phá tìm ra hướng phát triển sản xuất nông nghiệp
hiệu quả, từng bước thích ứng với điều kiện thiên nhiên trong bối cảnh
biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng. Tiền lập dự án đầu tư, hay
báo cáo đầu tư chưa phù hợp. Hiện nay, chủ yếu theo Quyết định 281 của
Bộ Kế hoạch đầu tư để thực hiện, với giá quá thấp và không phù hợp với
loại dự án này. Do vậy, nhiều tỉnh hiện nay vẫn chưa xong quy hoạch hay
dự án đầu tư và báo cáo đầu tư cũng vậy.
5. Vùng nông thôn đồng bằng nước ta kể cả
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long chịu sự tác động lớn từ sự phát
triển công nghiệp hoá, đô thị hoá với tốc độ cao. Sự ô nhiễm trầm trọng
nhất là về nguồn nước khu vực ven các đô thị của các hệ thống như sông
Tiền, sông Hậu, sông Đáy, Nhuệ, Nam Bắc Thái Bình… Vì vậy công tác quy
hoạch chưa được đầu tư và có số liệu chính xác dẫn đến lúng túng trong
các phương án quy hoạch, chồng chéo giữa quy hoạch đô thị, công nghiệp,
giao thông, thuỷ lợi.
Ì ạch vì quá… sớm?
Có thể nói, quy hoạch xây dựng nông thôn
mới là một chủ trương đúng nhưng với hoàn cảnh thực tế kinh tế xã hội
hiện nay thì e là còn sớm bởi các yếu tố sau:
+ Xây dựng nông thôn mới theo yêu cầu 19
tiêu chí thì riêng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không thể làm
nổi mà phải có một ban chỉ đạo bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực (và
phải thật đủ mạnh).
+ Khối lượng vật tư tiền vốn cần thiết là
rất lớn, do vậy việc thực hiện là khó khả thi. Nếu thực hiện quy hoạch
thì đó cũng chỉ là quy hoạch treo. Điều này đã được chứng minh một xã
được coi là điển hình ở tỉnh Bắc Ninh cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải
giải quyết, có chăng chỉ là xây dựng trường, đường, trạm… mà thôi. Đây
chính là tồn tại của phương án thực hiện, chỉ dựa vào ngân sách.
+ Cơ chế chính sách đất đai như hiện nay
thì không thể tạo ra thương hiệu hàng hóa. Không thể tìm đầu ra cho sản
phẩm thì không thể nói phát triển nông thôn theo hướng bền vững, chứ
chưa nói đến “công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo hướng văn minh hiện
đại được”.
+ Bản thân người nông dân làm chủ trên
mảnh đất của mình cũng coi việc xây dựng nông thôn mới là của Nhà nước
trung ương, địa phương thì không thể hoàn thành cuộc cách mạng này. Tuy
nhiên, việc xây dựng nông thôn mới phải do chính những người dân sống
trên mảnh đất của họ xây dựng lên. Nhà nước chỉ hỗ trợ bằng các cơ chế
chính sách, hỗ trợ tiền vốn (cho vay, hay đầu tư một phần). Bản quy
hoạch xây dựng nông thôn mới phải như bản “hương ước của làng, xã” và do
chính người dân đứng ra tổ chức thực hiện. Điều này đã được chứng minh
qua thực tế sản xuất như trồng lúa trên đất phèn (Đồng Tháp Mưòi, Tứ
giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau) nuôi tôm, lên liếp trồng hoa màu cây ăn
trái và cả khoán 10 ở Vĩnh Phúc cũng xuất phát từ người dân…
+ Hiện nay, chúng ta chưa tạo ra cơ chế
để các nhà đầu tư mạnh dạn tham gia vào các dự án xây dựng nông thôn
mới. Một ngành nghề mang lại hiệu quả thấp và đầy rủi ro. Phải nói rằng
đây là lĩnh vực mang tính xã hội là chính, do vậy cần phải có các cơ chề
ưu đãi đặc thù.
Nếu hội đủ các yếu tố này thì xây dựng
nông thôn mới sẽ thành công và con đường tất yếu sẽ đi đến cái đích này.
Phát triển kinh tế xã hội trên từng thời đoạn có nhiều giải pháp khác
nhau. Nếu chúng ta dàn trải theo chiều rộng cùng “thẳng tiến” trong khi
thực lực yếu kém thất bại thấy rõ. Tại sao ta không nghĩ trước tiên phát
triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, giao thông để tạo đà phát triển
kinh tế, từ đó có những chính sách trợ giá cho nông nghiệp, nông thôn.
Mọi quốc gia trên thế giới đã chứng minh, một đất nước phát triển không
thể làm giàu bằng nông nghiệp được.
Hàn Quốc đã có kinh nghiệm thành công
trong xây dựng nông thôn mới. Chúng ta cần mời chuyên gia nước này giúp
xây dựng một số mô hình nông thôn mới theo cách tiếp cận của họ. Nên
giao cho Chủ tịch tỉnh lựa chọn và thực hiện 1-2 xã điểm (dân chọn
phương án, mô hình, cũng tham gia và góp vốn). Đồng thời rút bỏ bộ tiêu
chí, chỉ nên lấy tiêu chí về đời sống vật chất và tinh thần, môi trường
sống là đủ. Chỉ tiêu cụ thể do các điạ phương đặt ra cho phù hợp với
trình độ phát triển, đặc điểm dân tộc, vùng miền. Việc lựa chọn xã cũng
do địa phương đưa ra các điều kiện (ví dụ: Nhà nước sẽ hỗ trợ xi măng
cho xây dựng đường nông thôn, xã nào huy động được nhân công, thiết kế
sẽ được nhận vật tư, xã nào không có điều kiện thì không được; trong các
xã thực hiện, sau 1 năm nếu tốt, cho thực hiện nội dung thứ hai là thủy
lợi nội đồng (cùng phương thức chia sẻ ngân sách), các xã không làm tốt
bị loại khỏi danh sách đầu tư tiếp… cứ vậy mà cuốn chiếu.) Theo cách
này, vốn Nhà nước chỉ 20-25%, của dân và doanh nghiệp là 75-80% mà thất
thoát chắc chắn sẽ rất ít, hiệu quả của từng hạng mục sẽ rất cao.
T.V.T.
Nguồn: Tạp chí kiến trúc Việt Nam
Họ đang công khai tước đoạt quyền của công dân
Phương Bích
-
Tôi đã dự liệu trước, rằng cái đơn kiện
của Bùi Hằng lần trước vì phải chép tay nên không tránh khỏi sai sót, vì
vậy chưa thể tiến hành khởi kiện được. Lần này thằng Bùi Nhân lên Thanh
Hà, cốt chỉ để đưa cái đơn kiện in sẵn cho Bùi Hằng ký. Kiểu gì lần này
họ cũng không thể bắt Bùi Hằng chép tay lại lần nữa, không có cái lý
nào bắt như vậy cả.
Như mọi lần, chúng tôi theo Bùi Nhân lên
Thanh Hà. Dọc đường mới hay, cái sổ thăm nuôi hiện con gái Bùi Hằng ở
Sơn Tây đang cầm. Mặc dù chị em nó đã hẹn sẽ gặp nhau ở Thanh Hà, nhưng
sao tôi vẫn thấy lo lắng. Ngồi bên cạnh thằng Nhân, mọi người liên tục
giục nó liên lạc với chị nó, nỗi lo lắng càng tăng khi nghe nói chị nó
bị đau nên chờ bác sĩ khám xong sẽ đi. Đến đường rẽ vào Trại Thanh Hà,
cô con gái của Bùi Hằng chính thức báo tin không lên được. Chúng tôi
dừng xe để thằng Nhân gọi điện hỏi tay phó giám đốc trại, nhưng tay này
từ chối, bảo không có sổ thăm nuôi thì không được gặp mẹ!
Người khác nghe thấy chắc phẫn uất lắm.
Một thằng bé dù to xác nhưng vẫn là một đứa trẻ, cứ phải bay ra bay vô
từ nam ra bắc đi thăm mẹ mà họ lạnh lùng bảo, không có sổ thì không được
gặp mẹ nó. Làm sao lại có cái thứ đạo luật nào vô lương tâm đến thế ở
trên đời?
Không suy nghĩ gì nhiều, thời gian là
vàng bạc, chúng tôi quay đầu xe quyết định đi Sơn Tây để lấy sổ thăm
nuôi. Lúc đó đã gần trưa ngày 3 tháng 4.
Cái câu trên trang của bác Bọ Lập: đường
xa nghĩ nỗi sau này mà kinh cứ ám ảnh tôi bấy lâu nay. Giờ thì chẳng cần
chờ đến lúc về sau. Nghĩ đến quãng đường đi và về gần trăm cây số chỉ
để lấy một cái cuốn sổ vô tri vô giác, tôi thấy mình có lý để mà căm
ghét những kẻ đang lợi dụng luật pháp để hành hạ người dân như thế này.
Do chưa biết đường nên chúng tôi phải vừa
đi vừa hỏi. Thiết bị định vị chẳng có tác dụng mấy vì dữ liệu không cập
nhật. Khoảng cách 45 km không phải là xa, nhưng giao thông ở Việt Nam
thì chẳng nói trước được điều gì. Tôi mệt mỏi và buồn bực ngồi trên xe,
chẳng buồn quan sát xung quanh. Chỉ khi đến bến phà tôi mới nhỏm lên
nhìn.
Những ký ức xa xưa từ hồi sơ tán ùa về,
khi tôi nhìn thấy cái lối đi mới mở trên lòng sông cạn để dẫn xuống bến
phà. Những chiếc ô tô nghiêng ngả ì ạch bò trên cát, con phà nhỏ với
chiếc ca nô lai dắt đang nổ máy phành phạch nhả khói khét lẹt, nước sóng
sánh bên mạn phà…. Tất cả mọi người nhảy xuống xe ngắm nhìn quang cảnh.
Tôi ngồi chết dí trên xe, gặm nhấm nỗi buồn không cắt nghĩa nổi. Chiến
tranh kết thúc gần 40 năm mà đất nước vẫn thế này ư? Nơi này đâu xa Hà
Nội mấy, chỉ chừng sáu bẩy chục ki lô mét.
Xe đến Sơn Tây đã quá trưa. Suốt dọc
đường, Bùi Nhân gọi hàng chục cú điện thoại cho cô chị nhưng vô vọng.
Mọi người phán đoán có sự can thiệp của ai đó. Nhưng thật khó hiểu, họ
là những người ruôt thịt, còn chúng tôi chỉ là người dưng, lại lặn lội
đưa con em họ đi thăm người nhà họ kia mà?
Chúng tôi kiên nhẫn chờ Bùi Nhân gọi điện
thêm dăm cuộc, đoán cô chị cố tình lánh mặt vì lúc sáng, khi thông báo
không lên Thanh Hà được thì Bùi Nhân có nói sẽ lên Sơn Tây để lấy sổ.
Ở lại lâu không tiện vì chúng tôi lạ nước
lạ cái, mà cái trò bẩn thì khó lường. Đoán chắc mỗi bước đi của chúng
tôi đều được thông báo chặt chẽ. Thậm chí có kẻ công khai phóng xe máy
(không đội mũ bảo hiểm thì chỉ có thành phần bất hảo hoặc công an) đuổi
theo xe, vừa đi vừa giơ điện thoại chụp ảnh chúng tôi.
Chúng tôi đành quay về Hà Nội. Xe ra khỏi
Sơn Tây gần 10 cây số thì cô em gái Bùi Hằng gọi điện cho thằng Nhân.
Không biết họ nói với nhau những gì, chỉ thấy thằng Nhân đang cố ghìm
cơn giận. Nó nhất định đòi xuống xe, một mình bắt xe ôm quay lại Sơn Tây
để lấy sổ.
Một ngày trôi qua thật vô ích, tốn kém
công sức và tiền bạc của những người đã có lòng đóng góp giúp đỡ hai mẹ
con Bùi Hằng. Họ tưởng làm thế này là chúng tôi sẽ nản chí ư. Họ thật
lầm to. Điều đó chỉ càng chứng tỏ sự ngu dốt và bất chấp luật pháp cũng
như đạo lý của họ, và càng thôi thúc chúng tôi đấu tranh đến cùng mà
thôi.
Tôi quên chưa nói một điều. Không phải
quên mà là chưa có thì giờ để nói. Cách đây hơn nửa tháng, tôi nhận được
lời nhắn nhe có ý cảnh cáo rằng công an đang lập hồ sơ để đưa tôi vào
trại với Bùi Hằng. Tôi nói thẳng với tay công an khu vực về điều này và
khẳng định – không dễ vu khống tôi để bắt tôi đi cải tạo giáo dục như
Bùi Hằng.
Tôi biết hơn chục ngày trước, trên mạng
lan truyền tin đồn sẽ có biểu tình lớn của dân oan bị mất đất. Khỏi phải
nói, mọi người lên mạng phàn nàn rằng bị an ninh bám theo nhằng nhằng,
quấy rầy dữ quá. Đến khi vợ chồng bác Trâm Khánh bị an ninh dùng xe máy
chặn trước cửa không cho ra ngoài suốt mấy ngày liền thì người ta không
chịu được nữa, kêu giời lên: cái bọn phường này nó loạn thần kinh mất
rồi.
Tôi lại nói với ông công an khu vực, tôi
mà chủ tịch nước, tôi sẽ cho mấy cái ông cứ xua quân đi theo dõi những
người dân lương thiện nghỉ việc hết. Họ không đi lo dẹp tệ nạn xã hội để
yên dân, lại cứ đi lo canh mấy ông bà già trói gà không chặt như chúng
tôi là sao?
Sáng ngày 4 tháng 4, mặc dù tôi bảo thuê
taxi đi cho an toàn, nhưng Người Buôn Gió tiếc tiền nên lấy xe máy chở
Bùi Nhân lên Thanh Hà. Gần trưa thì nhận được tin Trại Thanh Hà không
cho Bùi Hằng ký đơn. Và trong cơn bức xúc, Bùi Hằng đã nói với con trai,
nếu quyền con người của cô ấy không được tôn trọng, cô ấy sẽ tự sát để
phản đối.
Như vậy, tất cả những việc làm để nhằm tố
cáo việc bắt giữ Bùi Hằng trái phép đã bị ngăn chặn công khai và trắng
trợn. Bị giam giữ suốt hơn 4 tháng nay, Bùi Hằng không được gặp luật sư,
viết đơn khiếu nại thì không nhận được sự trả lời, không được ký đơn
kiện. Tôi tự hỏi nếu mẹ con Bùi Hằng không có những người bạn, không
được bà con trong và ngoài nước ủng hộ thì số phận họ sẽ ra sao?
Đương nhiên là chúng tôi sẽ đấu tranh đến
cùng để yêu cầu thả Bùi Hằng. Điều này không phải cho cá nhân Bùi Hằng,
mà còn cho tất cả những người biểu tình chống Trung Quốc đã bị o ép
trong suốt thời gian qua.
Theo:
Blog Chim Kiwi
Cờ đỏ sao vàng không phải là biểu tượng của Tổ quốc Việt Nam
Lê Diễn Đức
-
(TTHN) –
Ngày nay mỗi quốc gia độc
lập là thành viên của LHQ đều phải có một Quốc kỳ – lá cờ hiệu đại diện
cho quốc gia của mình. Vậy trong giai đoạn hiện nay không coi cờ đỏ sao
vàng là cờ đại diện cho Tổ quốc thì lấy cái cờ hiệu nào để làm Quốc kỳ?
Hay là để trống? Yêu ghét lá cờ là quyền của mỗi người nhưng vấn đề là
nó phải thực tế
Vào thời điểm hiện nay bàn chuyện cờ quạt
có lẽ quá sớm và chẳng đi đến đâu, nhất là tháng Tư lại về với những ký
ức máu lửa và tủi hận, “có triệu người vui nhưng cũng có cả triệu người
buồn”, như ông Võ Văn Kiệt lúc còn sống đã nói trong một
cuộc phỏng vấn của Xuân Hồng, phóng viên BBC Việt ngữ.
Thế nhưng nhìn thấy cờ đỏ sao vàng cắm
trên chiếc lều ở tạm, bên cạnh đống đổ nát của ngôi nhà gia đình anh
Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng đã bị chính quyền cho xe cơ giới ủi sập trước
đó, và vẫn thấy nhiều – nếu không nói rất nhiều – người Việt trong nước
nhìn nhận là cờ đỏ sao vàng là cờ của Tổ quốc Việt Nam, khiến tôi bứt
rứt.
Gần đây tôi đọc bài
“Những lá cờ” trên Blog Quê Choa của nhà văn trong nước Nguyễn Quang Lập. Bài viết mở đầu bằng câu
“Treo cờ tổ quốc là cử chỉ thể hiện lòng yêu nước”, làm tôi khó chịu thật sự.
Tôi đã viết một comment (ý kiến) dưới bài
nói trên nhưng không được chủ blog cho hiển thị. Do vậy, tôi đưa
comment này lên trang Facebook của mình và gửi liên kết (tag) tới một số
trang của những người cầm bút trong nước, cũng trên Facebook. Nội dung
comment như sau:
“Theo tôi, cờ đỏ sao vàng không phải
là cờ của Tổ quốc Việt Nam (VN), của dân tộc Việt Nam, mặc dù tôi đã
từng học tập, lớn lên dưới lá cờ này và nhiều lúc đã tự hào vì cha ông
tôi đã chiến đấu dưới nó. Nhưng chính xác mà nói thì đó là cờ hiệu của
nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam do Đảng Cộng Sản
Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền.
Nước Việt Nam có mấy ngàn năm lịch
sử, trải qua bao nhiêu triều đại và chế độ với những lá cờ khác nhau. Cờ
đỏ sao vàng có từ năm 1945, chỉ là biểu tượng của một nhà nước với ý
thức hệ cộng sản, không đại diện cho cả chiều dài lịch sử của dân tộc.
Rất nhiều quốc gia qua bao nhiêu biến
động và thay đổi trong lịch sử vẫn chỉ giữ một lá cờ. Ví dụ, cờ hai màu
trằng, đỏ của Ba Lan có từ mấy trăm năm nay, từ thời phong kiến, đến
cộng hoà, sau Đệ nhị Thế, cả trong thời cộng sản và hậu cộng sản từ năm
1989. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga cũng đã bỏ lá cờ ý thức hệ cộng
sản màu đỏ với búa liềm và ngôi sao, để thay thế bằng lá cờ có từ thời
Sa Hoàng với ba màu trắng, xanh dương, đỏ.
Sự nhầm lẫn giữa Tổ quốc, Đất nước,
Dân tộc với hệ thống chính trị cầm quyền rất phổ biến trong suy nghĩ của
người Việt trong nước.
Tôi cho rằng comment của tôi là sự
thật và được viết với thái độ chừng mực, như là một sự chia sẻ chuyển
tới bạn đọc trong nước. Không hiểu vì sao anh Nguyễn Quang lập không cho
hiển thị…”.
Không ngờ, comment trên đã gây ra một cuộc trao đổi sôi động trên trang Facebook của tôi.
Tôi nhấn mạnh thêm rằng, với chủ đề này tôi chỉ muốn bàn về khái niệm Tổ quốc mà người ta đã gắn cho lá cờ đỏ sao vàng.
Mặc dù không thích, có lúc như bị dị ứng,
nhưng tôi hoàn toàn thông cảm, thậm chí chấp nhận một cách tỉnh táo,
khi những người dân oan, những người tham gia biểu tình chống Trung Quốc
vi phạm chủ quyền của Việt Nam, hay dân chúng trong các lễ hội sử dụng,
mang theo cờ đỏ sao vàng, hình ảnh ông Hồ Chí Minh. Bởi vì nhiều khi có
thể là họ cảm thấy thế là đúng, cũng có thể do ngộ nhận, nhưng cũng có
thể tình huống bắt buộc, hành động như là một cách che chắn, bảo vệ an
toàn.
Khá nhiều ý kiến của người trong nước không đồng tình với cách nhìn của tôi. Họ cho rằng, “đành
rằng thể chế chính trị còn nhiều tồn tại nhưng phủ nhận toàn bộ như vậy
có nên chăng, thời điểm đó nó phản ánh cho sự lựa chọn của dân tộc”.
Hoặc: “Dân họ không nghĩ sâu xa như thế, với họ lá cờ đó là lá cờ Tổ quốc”.
Hay: “Hiện tại ở VN thì nó vẫn là cờ Tổ quốc, vì chả có lá cờ nào thay được nó”…
Có bạn phân tích:
“Cờ hiệu một quốc gia (“Cờ Tổ quốc”
chẳng qua là cách nói quen miệng theo phiên từ “quốc kỳ” mà thôi!) nó
phải gắn với thời đại và thể chế! Thời vua quan xưa và thể chế quân
vương thì do Vua chúa được quyền chọn. Ở các nền cộng hòa nghị viện thì
do quốc hội chọn. Những nước thuộc hệ thống cộng sản cũ, cờ hiệu thay
đổi vì thể chế thay đổi. Ở các nước đó quyết định thay đổi là do quốc
hội (cũng chưa phải thăm dò ý kiến của người dân). Lịch sử về cờ hiệu
Việt Nam cũng không nằm ngoài cái lệ đó. Mỗi triều đại phong kiến trước
đây có chung một cờ hiệu đâu?
Cờ ba sọc đỏ trên nền vàng của thể
chế Việt Nam Cộng hoà (VNCH) trước đây cũng không phải là cờ hiệu của
nhà Trần hay nhà Lý thời xưa! Lá cờ đỏ sao vàng bây giờ do quốc hội của
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH – năm 1946) chọn ra. Quốc hội Việt Nam
sau 1975 tiếp nối VNDCCH cũng đã nhất trí chọn lá cờ đó (1976). Thế thì
có gì không đúng? Bao giờ VN thay đổi thể chế thì hãy đặt ra vấn đề
thay đổi cờ hiệu quốc gia! Khi cộng đồng các quốc gia, dân tộc trên thế
giới cộng nhận lá cờ đó là cờ hiệu của Việt Nam như Liên Hiệp Quốc thì
cứ hãy coi đó là “cờ Tổ quốc” (của người) Việt Nam”.
Một bạn khác tâm tình: “Đáng buồn hơn
là nhiều người còn không “dám” có ý nghĩ hoặc bàn luận về vấn đề có vẻ
“phạm thượng” như vậy. Nó cao cả quá, xa vời quá, v.v… Cũng là một hệ
quả của hàng chục năm trời tuyên truyền, lập lờ đánh lận đảng phái, chế
độ với Dân tộc, Tổ quốc”.
Vân vân…
Tuy nhiên trong số người tham gia tranh luận, số người ủng hộ quan điểm của tôi chiếm ưu thế hơn hẳn.
Trong quá trình tranh luận tôi viết thêm một số ý kiến dưới đây.
Châu Âu là nơi sinh ra Karl Marx, cha đẻ
của học thuyết cộng sản (CS). Lenin áp dụng học thuyết này “sáng tạo” ở
Nga. Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh đã mang hình mẫu chủ
nghĩa cộng sản từ Liên Xô về nước mình áp dụng “sáng tạo” tiếp và tồn
tại cho tới nay ở ba quốc gia này.
Chúng ta đang trao đổi về một lá cờ tương
xứng, khả dĩ (trong tương lai) đại diện cho cả dân tộc, cho mọi ngườ
Việt, chứ không ai phủ nhận xương máu của những người đã đổ dưới cờ đỏ
sao vàng chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
Với cờ vàng ba sọc đỏ của chính quyền Sài
Gòn cũng vậy. 74 chiến sĩ VNCH đã anh dũng hy sinh bảo vệ Hoàng Sa năm
1974 luôn luôn được lịch sử vinh danh. Ngay cả Thứ trưởng Ngoại giao
CSVN Nguyễn Thanh Sơn cũng nói gần đây trong một buổi tiếp người Việt từ
Mỹ về nước rằng, những chiến sĩ VNCH đã hy sinh vì Hoàng Sa là những
người con ưu tú của Việt Nam.
Khi có quốc hội dân chủ, tất nhiên lúc ấy
dân chúng sẽ có ý tưởng, sẽ thông qua những cuộc thảo luận công khai
trong xã hội, có thể phải sủ dụng đến cả giải pháp trưng cầu dân ý, vân
vân… để lựa chọn một cách dân chủ.
Bây giờ thì chẳng một cá nhân nào có thể
tự chọn hay đề xuất cụ thể cả, vì thiếu thực tế, vô ích và bất khả thi.
Nhất là vào lúc mà lòng người Việt ở hai miền Nam, Bắc vẫn còn chia rẽ,
thù hận giữa nhà cầm quyền cộng sản với cộng đồng người Việt phải bỏ
nước ra đi tìm tự do, gánh chịu bao nhiêu thương đau, tổn thất chưa được
thanh toán, cảm thông và xoá bỏ. Bàn cụ thể sẽ chỉ xung khắc thêm mà
thôi.
Ở trên có bạn nói “không có lá cờ nào thay thế lá cờ đỏ sao vàng hiện nay”.
Nhưng tôi cho rằng, điều này không đồng nghĩa nó là lá cờ Tổ quốc. Có
thể với hàng triệu người Việt là như thế, nhưng cũng với hàng triệu
nguời Việt khác thì không. Không thay thế được vì hệ thống cầm quyền độc
tài toàn trị hiện tại không muốn làm việc đó. Như tôi đã đưa ra ví dụ
về nước Nga. Gần đây là Libya, sau khi chế độ độc tài Gaddafi sụp đổ,
người Libya đã bỏ lá cờ xanh của chế độ Gaddafi, quay lại lá cờ có từ
năm 1951 của Vương quốc Libya.
Quốc hội của nhà cầm quyền CSVN thực chất
là công cụ của ĐCSVN chỉ để hành chính hoá các quyết định của Đảng Cộng
Sản Việt Nam (ĐCSVN) trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
Quốc hội này không do dân bầu ra thông qua bầu cử tự do mà do lãnh đạo
ĐSSVN áp đặt, cho nên nó không phải là đại diện của toàn thể nhân dân
VN.
Cờ của một nhà nước/quốc gia được xem là
biểu tượng của Tổ quốc khi nó được toàn dân thừa nhận, hoặc là đại diện
được uỷ nhiệm hợp pháp của nhân dân – tức là quốc hội được dân bầu ra
qua bầu cử tự do – phê chuẩn.
Cờ và quốc huy phải được đưa vào Hiến
pháp. Nếu thay đổi thể chế mà ban hành Hiến pháp mới thì hiến pháp trước
khi được quốc hội, tổng thống hay chủ tịch nước phê chuẩn, cần phải
được trưng cầu dân ý.
Còn khi hiến pháp có hiệu lực, một đảng
cầm quyền nào đó muốn thay đổi các điều khoản của hiến pháp thì ít nhất
theo thông lệ phải có chuẩn thuận của 3/4 số đại biểu quốc hội, một tỷ
lệ rất khó cho bất kỳ đảng cầm quyền nào ở các nước dân chủ.
Tại Việt Nam bây giờ, ĐCSVN muốn thay đổi
hiến pháp lúc nào là tuỳ theo… sở thích và thấy có lợi cho sự duy trì
độc quyền cai trị!
Hệ thống cộng sản ở châu Âu đã bị xoá sổ.
Ngày 24/1/2006, Nghị viện Châu Âu thông qua Nghị quyết 1481 phán quyết
chủ nghĩa cộng sản là tội ác của nhân loại. Nếu Việt Nam có thể chế dân
chủ, nhân dân Việt Nam và quốc hội Việt Nam dân chủ sẽ chọn một lá cờ
nào đó tương xứng với chiều dài lịch sử của dân tộc, nhưng chắc chắn
không phải là lá cờ biểu tượng cho một chủ nghĩa của tội ác.
Hiện nay, ngay cả với người Việt trong
nước, không phải ai trong thâm tâm cũng nhìn nhận cờ đỏ sao vàng như là
biểu tượng của đất nước, Tổ quốc.
Tổ quốc là khái niệm mang nghĩa kép, nói
về một không gian liên quan đến một cá nhân hoặc cả một cộng đồng (dân
tộc), đặc biệt được chỉ định trước hết là nơi sinh ra của cá nhân đó,
nơi họ sống một phần quan trọng của cuộc đời, hoặc nơi xuất xứ của tổ
tiên, hay gia đình.
Cá nhân kết nối với Tổ quốc bằng tình cảm
gắn bó mật thiết thiêng liêng nên “Tổ quốc” được viết hoa chính là nhằm
nhấn mạnh sự tôn trọng cội nguồn của mình hay gia đình, tổ tiên.
Lá cờ Tổ quốc phải bao hàm được ý nghĩa
linh hồn và tình cảm gắn bó thiêng liêng đó với nơi chôn rau cắt rốn của
tất cả con dân nước Việt sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam và trên khắp
mọi nơi khác trên thế giới.
Ngày 5 tháng 4 năm 2012
© 2012 Lê Diễn Đức –
RFA Blog
Phải khởi kiện cả Trung tướng Hoàng Kông Tư
- -
Trung tướng Hoàng Kông Tư, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh 2,
Thủ trưởng cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an tại buổi họp báo.
Ảnh: Hồng Anh
- -
Phải khởi kiện cả Trung tướng Hoàng Kông Tư Đông A
Nhân chuyện vụ kiện của bà Hồ Lê Như Quỳnh,
tôi thấy gia đình ông Cù Huy Hà Vũ và bà Hồ Lê Như Quỳnh cần phải khởi
kiện dân sự cả Trung tướng Hoàng Kông Tư nữa, bởi vì ông Tư từng phát
biểu trước báo giới như sau:
"Cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ mức độ sai phạm của Cù
Huy Hà Vũ để xử lý theo quy định pháp luật. Ngoài ra, ông Vũ còn phải
chịu trách nhiệm về hành vi quan hệ dâm ô trụy lạc tại khách sạn Mạch
Lâm". Thời hạn khởi kiện dân sự vẫn còn. Nếu gia đình ông Cù Huy Hà Vũ
hay bà Hồ Lê Như Quỳnh không khởi kiện ông Hoàng Kông Tư về hành vi phỉ
báng, vu vạ trước công luận thì có thể thấy chỉ có hai khả năng thật sự
có thể xảy ra:
1. Thực sự ông Cù Huy Hà Vũ đã có hành vi quan hệ dâm ô trụy lạc tại khách sạn Mạch Lâm
2. Thực sự gia đình ông Cù Huy Hà Vũ hay bà Hồ Lê Như Quỳnh đã có thỏa
thuận ngầm với ông Hoàng Kông Tư không khởi kiện để đổi lấy quyền lợi
nhất định nào đó.
Gia
đình ông Cù Huy Hà Vũ không phải là những người ngại kiện tụng, và hơn
nữa vụ việc liên quan không chỉ danh dự và nhân phẩm của một con người,
mà còn cả của một gia đình và dòng họ. Bất kể trường hợp nào thật sự đã
xảy ra, nếu ông Hoàng Kông Tư không bị khiếu kiện thì có thể thấy ông Cù
Huy Hà Vũ là người không đáng để công luận có cảm tình và ủng hộ.
- Thông tin cập nhật về vụ kiện của bà Hồ Lê Như Quỳnh Đông A
Doanh nghiệp của bà Hoàng Yến bị kiện
Ông Đoàn Văn Đức trình bày hồ sơ liên quan vụ kiện. Ảnh: ĐỨC MINH--
Doanh nghiệp của bà Hoàng Yến bị kiện Công
ty CP Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo do bà Đặng Thị Hoàng Yến (người
liên quan trong vụ “ly hôn kỳ lạ” mà Báo Người Lao động đã nhiều lần
thông tin) làm chủ tịch HĐQT vừa bị một doanh nghiệp ở TPHCM khởi kiện
Ngày 4-4, một thẩm phán TAND quận Bình Tân - TPHCM cho biết cơ quan này
đã thụ lý đơn của Công ty CP Xây dựng giao thông Đức Hạnh (gọi tắt là
Công ty Đức Hạnh) khởi kiện Công ty CP Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo
(gọi tắt là Công ty Tân Tạo, thuộc Tập đoàn Tân Tạo) để đòi 12,3 tỉ đồng
tiền thi công công trình lấn biển tại tỉnh Kiên Giang.
Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông Đoàn Văn Đức, Giám đốc
Công ty Đức Hạnh, địa chỉ ấp 3, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh - TPHCM,
cho biết: Theo hợp đồng kinh tế ngày 6-11-2009, Công ty Tân Tạo giao cho
Công ty Đức Hạnh thi công xây dựng tường vây tại dự án Trung tâm Điện
lực Kiên Lương thuộc xã Ba Hòn, huyện Kiên Lương - Kiên Giang.
Giá trị hợp đồng hơn 92 tỉ đồng.
Khi đang thi công, ngày 6-1-2010, Công ty Tân Tạo mà đại diện là ông
Jimmy Trần và bà Đặng Thị Hoàng Yến yêu cầu Công ty Đức Hạnh bàn giao
50% công việc ở dự án này cho đơn vị khác thực hiện.
Theo
hợp đồng kinh tế đã ký kết, sau khi đối chiếu sổ sách, Công ty Tân Tạo
còn nợ Công ty Đức Hạnh 10,8 tỉ đồng. Tuy nhiên, sau đó, Công ty Tân Tạo
lại không thanh toán tiền thi công cho Công ty Đức Hạnh.
Cho đến nay, Công ty Tân Tạo vẫn chưa thanh toán số tiền nói trên vì cho
rằng Công ty Đức Hạnh có sai sót kỹ thuật khi thi công công trình, mặc
dù các hạng mục thi công đã được hai bên nghiệm thu từng đợt.
Theo ông Đức, vì cho là lý do không chính đáng, ông nhiều lần yêu cầu
được gặp bà Yến để giải quyết tiền thi công nhưng không gặp được.
Không thể chờ được nữa, ngày 25-2-2011, ông Đức khởi kiện Công ty Tân
Tạo tại TAND quận Bình Tân. Trong đơn, ông Đức yêu cầu Công ty Tân Tạo
thanh toán 10,8 tỉ đồng cùng tiền lãi 1%/tháng cho 14 tháng (tính từ
tháng 1-2010 đến thời điểm khởi kiện), nâng tổng số tiền lên 12,3 tỉ
đồng và phải trả một lần sau khi bản án có hiệu lực.
Đến nay, TAND quận Bình Tân đã thụ lý đơn khởi kiện của ông Đức, đồng
thời đã mời hai bên liên quan đến thực hiện các thủ tục cần thiết. Đại
diện bị đơn có ông Thái Văn Mến, Tổng Giám đốc Tập đoàn Tân Tạo, đã đến
tòa để làm việc.
Ông Đoàn Văn Đức cho biết sở dĩ nhận làm công trình nói trên là vì bà
Yến nhờ ông tư vấn công nghệ lấn biển. Là doanh nghiệp có kinh nghiệm,
kỹ thuật trong lĩnh vực này, ông Đức đưa ra giải pháp đóng cừ chịu lực.
Theo ông Đức, việc đóng cừ chịu lực đã làm lợi cho Công ty Tân Tạo hàng
chục tỉ đồng so với các phương án thi công khác. Ông Đức cho rằng trước
và trong quá trình thi công, bà Yến thường gặp gỡ, bàn bạc với ông nhưng
khi đã nghiệm thu từng phần đã thi công, phía Công ty Tân Tạo luôn né
tránh yêu cầu thanh toán của đối tác.
Khi ông Đức nộp đơn ra tòa khởi kiện, phía Công ty Tân Tạo lại nại lý do
một số đầu cừ (cọc nhồi-PV) bị bể để không thanh toán tiền thi công cho
Công ty Đức Hạnh. Để giải quyết, TAND quận Bình Tân đã mời Trung tâm
Ứng dụng công nghệ (Trường ĐH Bách khoa TPHCM) khảo sát đánh giá và kết
quả đó là lỗi thông thường và có tỉ lệ thấp.
Theo ông Đức, trong số 10.000 cây cừ, chỉ có hơn mười cây bị bể đầu và điều đó là bình thường trong lĩnh vực thi công cọc nhồi.
Vụ kiện đang được TAND quận Bình Tân tiến hành các thủ tục liên quan.
-Theo:--
Doanh nghiệp của bà Hoàng Yến bị kiện
Thành công của Viettel và sự hoang phí của một chế độ
-Tin liên quan: Tập đoàn EVN phản đối cách hành xử của Tập đoàn Viettel đối với khách hàng viễn thông EVN
Nguồn -xuan hoang
(Cám ơn t/g gửi bài. - Bài viết phản ánh quan điểm của t/g.)
Lãnh
đạo Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel lên tiếng sau phản ứng khách
hàng viễn thông EVN phải tốn thêm chi phí khi chuyển đổi qua mạng
Viettel, cán bộ CNV EVNTelecom tố cáo bị Viettel chèn ép phải viết đơn
xin nghỉ việc. Khách hàng viễn thông của EVN cũng như cán bộ CNV
EVNTelecom tố cáo Tập đoàn Viettel đã làm ngược lại với yêu cầu Chính
phủ đảm bảo quyền lợi khách hàng viễn thông EVN, đối tác EVN và công ăn
việc làm cho cán bộ CNV EVNTelecom.
Theo như lý giải của lãnh đạo Tập đoàn Viettel thì
thiết bị đầu cuối CDMA 450 MHz rất ít nhà sản xuất và chủ yếu là các
hãng nhỏ của Trung Quốc, muốn mua thiết bị đầu cuối phải đặt hàng trước
và giá thiết bị đầu cuối rất đắt lên đến vài triệu mỗi máy, nhưng mẫu mã
cũng không phong phú và chất lượng thiết bị đầu cuối kém. Trong khi đó,
Tập đoàn Viettel tự sản xuất thiết bị đầu cuối di động và cố định không
dây GSM có giá rẻ chỉ từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng mỗi thiết bị đầu
cuối. Đây là lý do Tập đoàn Viettel phải bỏ công nghệ CDMA 450 MHz sau
khi tiếp nhận EVNTelecom.
Chính phủ chỉ đạo Tập đoàn Viettel phải tiếp nhận viễn thông của Tập
đoàn EVN để Chính phủ tiến hành tái cấu trúc Tập đoàn EVN. Nếu tính
riêng tiếp nhận EVNTelecom, Tập đoàn Viettel đã phải tiếp nhận khoản nợ
7.600 tỷ của EVNTelecom và gần 2.500 tỷ nguồn vốn Tập đoàn EVN đã đầu tư
vào EVNTelecom cộng với hơn 1.000 tỷ Tập đoàn EVN đã đầu tư vào tuyến
cáp quang biển liên Á.
Không những thế, Tập đoàn Viettel cũng đang tiếp nhận tài sản viễn thông
của các Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Truyền tải đầu tư và quá
trình này còn đang tiến hành nên chưa thể thống kê chính xác giá trị tài
sản. Nhưng theo các chuyên gia viễn thông đánh giá tài sản 40.000 km
cáp quang của các Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Truyền tải có giá
trị 1 tỷ đô.
Tập đoàn Viettel phải tiếp nhận một khối tài sản khổng lồ từ Tập đoàn
EVN nhưng phần mạng CDMA 450 MHz thì không thể tiếp tục sử dụng do hiẹu
quả kinh tế phải tháo bỏ; phần mạng 3G thì phải quy hoạch lại mới có thể
cung cấp dịch vụ cho khách hàng; phần cáp quang thì không biết sử dụng
thế nào cho hiệu quả.
Chỉ tính riêng phần chuyển đổi khách hàng EVN sử dụng dịch vụ CDMA 450
MHz sang mạng Viettel đã tốn kém của Tập đoàn Viettel gần 2.000 tỷ. Tập
đoàn Viettel đã tạo điều kiện tối đa để khách hàng viễn thông của EVN
không bị thiệt khi chuyển đổi qua mạng Viettel. Khi chuyển đổi qua mạng
Viettel, khách hàng sử dụng dịch vụ di động E-Mobile chỉ cần mua một máy
GSM do Viettel sản xuất có giá 350.000 đồng và một sim trắng 29.000
đồng, khách hàng sử dụng dịch vụ cố định không dây E-COM chỉ cần mua một
máy Homphone do Viettel sản xuất có giá 250.000 đồng, nhưng Viettel đã
tặng cho khách hàng viễn thông EVN số tiền 500.000 đồng trong tài khoản
và trừ dần vào cước hàng tháng.
Lãnh đạo Viettel cũng đang đau đầu về việc các hộ gia đình cho các Công
ty Điện lực thuê mặt bằng lắp đặt cột anten và nhà trạm. Theo như cách
làm của Viettel trước khi đầu tư một trạm mới, Trung tâm TVTK Viettel
tiến hành đo tải xác định lưu lượng, khảo sát địa hình rồi mới đưa đến
quyết định toạ độ đặt trạm và giao lại cho Chi nhánh viettel tỉnh tiến
hành thuê mặt bằng đặt trạm. Tuy nhiên một số nhân viên Viettel đã đầu
cơ đất cho thuê mặt bằng lắp đặt trạm đã di dời toạ độ so với toạ độ đã
được quy hoạch thiết kế và nhân viên này đã buộc thôi việc sau quá trình
thanh tra của Tập đoàn Viettel.
Theo như phản ánh của Chi nhánh Viettel tỉnh chỉ có các trạm CDMA của
EVN là được quy hoạch thiết kế tương đối chuẩn và các cột anten, nhà
trạm này được giữ lại để sử dụng. Tuy nhiên hộ gia đình phải có sổ đỏ và
hợp đồng được ký lại 3 bên gồm Chi nhánh Viettel tỉnh, Công ty Điện
lực, chủ gia đình đồng thời có sự chứng giám của chính quyền địa phương.
Ngược lại với các trạm CDMA, các vị trí trạm3G chưa được lắp đặt thiết
bị bố trí một cách tuỳ tiện. Vị trí địa hình đặt trạm 3G vừa thấp, vừa
thưa dân cư và cột anten chỉ cao 20m, trong khi quy định Sở Thông tin và
Truyền thông cột anten lắp đặt tại thành phố có chiều cao tối thiểu 30m
và nông thôn cột anten có chiều cao tối thiểu 42m.
Theo như lãnh đạo Viettel thì nhiều vị trí đặt trạm 3G không đạt yêu
cầu, diện tích đất cũng nhỏ nên không thể cải tạo nâng chiều cao cột
anten. Ngoài ra nhiều vị trí cũng chỉ mới lắp đặt cột anten và chưa xây
dựng nhà trạm cũng như chưa lắp đặt các ODF. Vì vậy các vị trí này Công
ty Điện lực có thể đàm phán hộ gia đình tháo dỡ, thu hồi vật tư và thanh
lý để thu hồi phần nào vốn đã đầu tư.
Tập đoàn Viettel đã xây dựng hoàn thành mạng Metro để cung cấp dịch vụ
Internet cáp quang FTTH cũng như cung cấp truyền dẫn FE cho nodeB 3G.
Mạng Metro vừa đảm bảo tốc độ dịch vụ Internet cáp quang FTTH cung cấp
cho khách hàng vừa đảm bảo khôi phục nhanh đường truyền Internet cho
khách hàng khi có sự cố xảy ra. Trong khi đó đa số hệ thống cung cấp
dịch vụ Internet cáp quang FTTH do các Công ty Điện lực đầu tư rất đơn
giản, từ một luồng FE do EVNTelecom cấp và các Công ty Điện lực đầu tư
đấu nối broadcast bằng cách đầu tư một loạt các Switch quang đặt tại các
khu vực cung cấp dịch vụ Internet cáp quang FTTH. Do vậy chất lượng
dịch vụ Internet cáp quang FTTH cung cấp cho khách hàng không đảm bảo và
thời gian khôi phục lại đường truyền Internet cho khách hàng khi sự cố
xảy ra kéo dài. Đây là nguyên nhân Tập đoàn Viettel phải chuyển đổi
khách hàng sử dụng dịch vụ Internet cáp quang FTTH của EVN sang mạng
Viettel.
Nhân viên EVNTelecom chỉ có EVNIT chính là tinh hoa công nghệ thông tin
của Tập đoàn EVN và đã được Tập đoàn EVN tốn kém chi phí để đào tạo bài
bản nguồn nhân lực này. EVNIT là nơi sản xuất các phần mềm Tập đoàn EVN
đang sử dụng như chương trình quản lý khách hàng CMIS, chương trình quản
lý nhân sự, chương trình quản lý vật tư, chương trình quản lý tài
chính. Tập đoàn Viettel đã điều chuyển nhân viên thuộc EVNIT qua Trung
tâm Công nghệ thông tin Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel.
Sở hữu nguồn nhân lực đã sản xuất ra các phần mềm Tập đoàn EVN đang sử
dụng, Tập đoàn Viettel đang có kế hoạch nâng cấp các phần mềm này tương
tự như phần mềm quản lý khách hàng viễn thông. Tất cả các phần mềm này
được kết nối từ Tập đoàn EVN cho đến Điện lực huyện, trong đó các User
được phân quyền từ Tập đoàn EVN cho đến được Điện lực huyện và Bộ Công
thương được cấp User ngang hàng Tập đoàn EVN. Như vậy lãnh đạo Tập đoàn
EVN có thể quản trị nhân lực từ Tập đoàn EVN cho đến Điện lực huyện, Tập
đoàn EVN có ý kiến đối với các đơn vị cấp dưới nếu bố trí nhân lực
không hợp lý; lãnh đạo Tổng công ty Điện lực quản trị nhân lực đến Điện
lực huyện và có ý kiến để các Công ty Điện lực bố trí nhân lực hợp lý;
lãnh đạo Công ty Điện lực bố trí nhân lực hợp lý để đạt hiệu quả năng
suất tốt nhất. Và quan trọng nhất Bộ Công thương có thể giám sát mọi
hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ doanh thu, lợi nhuận, giá
bán điện bình quân, lương bình quân…
Muốn quá trình quản trị công nghệ thông tin được vận hành một cách liên
tục và thông suốt từ Bộ Công thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho đến
Điện lực huyện thì đầu tiên phải có đường truyền thông suốt từ Bộ Công
thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho đến Điện lực huyện. Tập đoàn
Viettel sẽ cho Tập đoàn EVN thuê các kênh luồng trong suốt này với giá
hợp lý.
Một vấn đề nữa phải đảm bảo an ninh cơ sở dữ liệu nhưng phải minh bạch
và Bộ Công thương cũng như người dân có thể giám sát mọi hoạt động của
Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Muốn vậy Tập đoàn EVN phải thuê Server của
Viettel.
Dự án quản trị Tập đoàn EVN bằng công nghệ thông tin theo ý kiến đề xuất
của Tập đoàn Viettel không những mang lại hiệu quả kinh tế cho Tập đoàn
EVN, dự án này còn đem lại công ăn việc làm cho nhân viên EVNIT.
Theo quan điểm của Tập đoàn Viettel “muốn làm sếp phải bị ném vào chổ
chết”. Lãnh đạo EVNTelecom không thể tự nhiên bố trí làm sếp tại các đơn
vị của Viettel được và nếu như có bố trí làm sếp thì nhân viên Viettel
không phục. Lãnh đạo Tập đoàn Viettel muốn công bằng đối với CBCNV
Viettel và CBCNV EVNTelecom. Văn hoá ứng xử của Tập đoàn Viettel trong
đó có phần “muốn làm xếp thì viết đơn xin thi tuyển, xếp không hoàn
thành nhiệm vụ thì tự động viết đơn xin từ chức chuyển qua làm lính”.
Lãnh đạo Tập đoàn Viettel đã tạo điều kiện cho lãnh đạo EVNTelecom thể
hiện năng lực bằng cách điều động đến các vùng “nóng”, nếu không lãnh
đạo EVNTelecom có thể thi tuyển vào các vị trí của Viettel. Lý do không
chịu nổi sức “nóng” tại Tập đoàn Viettel nhiều lãnh đạo EVNTelecom như
Giám đốc EVNTelecom, các P.Giám đốc EVNTelecom, các Giám đốc Trung tâm
miền đã viết đơn xin nghỉ việc.
Tập đoàn Viettel tiếp nhận EVNTelecom phải tiếp nhận hơn 2.000 nhân viên
EVNTelelecom và đảm bảo công ăn việc làm cho CBCNV EVNTelecom Tập đoàn
Viettel phải bố trí nhân viên EVNTelecom trong các đơn vị của Viettel,
đầu tiên nhân viên EVNTelecom được bố trí làm các công việc đơn giản và
sau quá trình thử thách sẽ được cân nhắc. Nếu như nhân viên EVNTelecom
nào thấy mình có khả năng có thể thi tuyển các vị trí tại các đơn vị của
Viettel. Tuy nhiên nhiều nhân viên EVNTelecom không chấp nhận phương
châm tại Viettel “nước muốn trong phải chảy” và đã viết đơn xin nghỉ
việc.
Theo như đề xuất của Tập đoàn EVN lên Chính phủ, Tập đoàn Viettel tiếp
nhận EVNTelecom đổi lại Tập đoàn Viettel sẽ được sử dụng miễn phí cột
điện của Tập đoàn EVN để treo cáp viễn thông trong thời hạn 30 năm.
Tuy nhiên chi phí thuê cột điện treo cáp viễn thông của Tập đoàn Viettel
mỗi năm khoảng 200 tỷ và chi phí này đang giảm mạnh là do Tập đoàn
Viettel đang tiến hành ngầm hoá cáp tại các thành phố, đồng thời Tập
đoàn Viettel đang tiến hành trồng cột tách cáp khỏi cột điện lực. Do vậy
vài năm nữa thì chi phí thuê cột điện treo cáp viễn thông của Tập đoàn
Viettel chỉ tốn khoảng vài chục tỷ mỗi năm.
Vì danh dự Tập đoàn Viettel đã hành hiệp trượng nghĩa gánh vác các khoản
nợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Và nếu như “văn hoá từ chức” tại Tập
đoàn Viettel được áp dụng trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam thì Tập đoàn
Điện lực Việt Nam không bị lỗ nặng như ngày hôm nay, cũng không cần đến
sự giúp đỡ của hiệp sĩ Viettel. Vì do xử lý không tốt về thông tin mới
xảy ra tin đồn không tốt về hiệp sĩ Viettel.
DN tồn kho, giải pháp ra sao?
-DN tồn kho, giải pháp ra sao?
Tiếp
theo công bố của Chính phủ về con số hàng vạn doanh nghiệp giải thể,
sáp nhập, tạm dừng hoạt động… thì số liệu vừa công bố về hiện tượng tồn
kho, một biểu hiện đình đốn sản xuất, cũng là lý do để sửa ngay Luật
Thuế TNCN.
Cụ
thể, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến 1-3 chỉ số tồn kho
của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,9% so với cùng thời điểm
năm 2011 (trong khi đó chỉ số tiêu thụ chỉ tăng 0,5%); của ngành chế
biến và bảo quản rau quả tăng 87,2%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ
tăng 62,7%; sản xuất sắt, thép tăng 59,1%; sản xuất các sản phẩm thuốc
lá, thuốc lào tăng 58%; sản xuất xi măng vôi, vữa tăng 55%; sản xuất xe
có động cơ tăng 38,7%...
Đáng
nói là chỉ số tồn kho liên tục tăng cao trong những tháng gần đây,
trong khi chỉ số lạm phát lại giảm dần chứng tỏ năng lực tiêu dùng (sức
mua) đang suy giảm. Điều đó thể hiện rõ thị trường đang bị tắc nghẽn,
hàng sản xuất ra không bán được, trong khi chi phí đầu vào như xăng dầu,
điện, khí đốt, nhân công, lãi vay ngân hàng vẫn tăng cao… mà doanh
nghiệp đang cố phải chịu đựng, không dám tăng giá bán.
Vì thế con số trên 2 vạn doanh nghiệp phá sản, dừng hoạt động chưa chắc đã dừng lại nếu không có giải pháp tăng sức mua.
Dĩ
nhiên nghĩ đến tăng sức mua (kích cầu) nhiều người sẽ nghĩ đến chi tiêu
công, tức là triển khai các dự án có nguồn đầu tư từ ngân sách, vốn vay
nước ngoài, trái phiếu… Song với việc kiểm soát thiếu hiệu quả, việc
tái cơ cấu DNNN còn chưa đến đâu, tình trạng lãng phí do đầu tư dàn
trải, công nghệ lạc hậu, ô nhiễm… của khối nhà nước chưa được cải thiện
thì tiền ở kênh này càng bơm ra thì lạm phát càng tăng.
Kênh
kích cầu thứ hai là xuất khẩu thì càng khó trông đợi khi tình hình
khủng hoảng nợ châu Âu chưa được cải thiện, kinh tế Mỹ chưa bộc lộ dấu
hiệu phục hồi… thì triển vọng chưa thể nói là sáng sủa.
Vậy
chỉ còn kênh duy nhất là thị trường nội địa với sức mua của trên 80
triệu người tiêu dùng? Thế nhưng kênh này lại vấp phải khó khăn mới: chỉ
số lạm phát so với cùng kỳ 2011 đã “ngốn” hết trên 20% giá trị VND,
trong khi lương chẳng theo kịp khiến các gia đình đang phải thắt chặt
chi tiêu và đây là lý do chủ chốt khiến hang loạt hàng hóa tiêu dùng tồn
kho!
Chính
vì thế chỉ có 1 cách vừa giúp làm tăng sức mua của dân, vừa hạn chế
thấp nhất lạm phát (vì tiền của dân họ sẽ chi tiêu rất cẩn thận, không
hoang phí như DNNN) là tạm dừng thực hiện Luật Thuế TNCN, giống như năm
2008, và đưa ngay việc sửa đổi vào chương trình Quốc hội năm 2012.
Với trên 1,3 triệu người được giữ lại tiền thuế, chắc chắn sức mua sẽ cải thiện đáng kể!
Thời tăng giá dân công sở "oằn mình" đi làm thêm... (NĐT 4-4-12) Trung Quốc tận thu tre Việt Nam làm tăm (VEF 4-4-12)-Trộm ôtô hạng sang đưa sang Việt Nam (VnEx 4-4-12)
Cái hang:
Doanh nhân và những chuyến đi thực tế-Võ Đắc Khôi (*) 3/4/2012
Tổ
tiên ta có câu "Trăm nghe không bằng một thấy" để nhấn mạnh tầm quan
trọng của quan sát học hỏi và trải nghiệm trước khi ra quyết định, đặc
biệt trong kinh doanh. Đây cũng chính là chân lý nhà triết học Socrates
(469- 399 trước Công nguyên) sống trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại đã đề ra.
Chuyện
ngụ ngôn “Cái hang” của ông nhằm giải thích mối quan hệ giữa hai khái
niệm tin tưởng (belief) và nhận biết (knowledge), hay nói khác đi, tầm
quan trọng của trải nghiệm. Ông kể, "Nếu đưa một nhóm người tù giam dưới
hang sâu, đầu bị ép chỉ nhìn về phía trước, không cho thấy những vật
chuyển động phía sau lưng mà chỉ cho họ nhìn thấy bóng chiếu lên thành
hang, những người sống lâu ngày trong hang sẽ tin rằng hình ảnh trên
tường kia là thực.
Giả
sử sau đó tháo bỏ xích, cho phép họ quay lại phía sau. Trước tiên, họ
sẽ rất hoảng loạn vì sự chuyển động của các vật thực, đôi mắt của họ sẽ
rất nhức nhối vì ánh sáng của ngọn lửa. Nhưng nếu giải thích rằng đây
mới là vật thật, họ sẽ không tin và có xu hướng thích nhìn lại những
hình ảnh trên vách hang đá vì tin rằng đấy mới là thật.
Nếu
tiếp tục tháo toàn bộ xích và buộc họ phải đi ra khỏi hang. Những người
này lại càng hoảng sợ hơn và đôi mắt của họ sẽ rất đau nhức, thậm chí
trước ánh sáng mặt trời thực đôi mắt của họ sẽ có thể bị mù vì rất yếu
và đã quen với ánh sáng trong hầm. Vì thế, cần phải tạo điều kiện để họ
thích ứng dần dần.
Ban
đầu cho họ nhìn những ngôi sao và ánh mặt trăng trên bầu trời đêm. Tiếp
đến, cho họ nhìn thấy hình ảnh núi đồi, cây cỏ phản chiếu trên mặt
nước. Cuối cùng, có thể để họ nhìn thấy cảnh núi đồi, dòng sông, cây cỏ
thật dưới ánh sáng trực tiếp ban ngày. Từ đây họ mới biết rằng những gì
thấy trên tường trước kia trong hang chỉ là hình ảnh chứ không thực. Họ
cũng nhận ra rằng, sở dĩ mọi vật con người có thể nhìn thấy được là nhờ
ánh sáng phát ra từ mặt trời. Lúc đó, nghĩ về những người còn sống
trong hang, họ sẽ cảm thấy mình còn may mắn vô cùng”.
Socrates
cho rằng, câu chuyện cái hang đại diện cho niềm tin và chuyện xảy ra
dưới ánh sáng ban ngày đại diện cho tri thức. Chuyển từ niềm tin sang
tri thức để nhận biết sự thật là một quá trình phát triển không hề dễ
dàng. Nhưng sự thay đổi đi đến thành công, đó là sự di chuyển đúng
hướng. Tuy vậy, ông nhắc nhở chúng ta luôn nhớ rằng, đối với những người
còn sống trong hang, ý kiến của những người đã bước ra khỏi hang là ngu
ngốc và nói gì họ cũng không nghe theo. Vì thế, theo ông, "hãy đừng cố
gắng giải thích cho những người đang sống trong hang mặt trời là gì khi
chưa kéo họ ra khỏi hang để họ nhìn sự vật thật dưới ánh sáng của nó”.
Trong
lĩnh vực kinh doanh mỗi ngày, chúng ta vẫn đối mặt với những vấn đề
tương tự xảy ra như trong câu chuyện của Socrates đã kể cách đây hàng
ngàn năm. Theo tôi, những ai mong muốn xây dựng một doanh nghiệp có sức
cạnh tranh, phát triển bền vững nên tìm cách đi thực tế để quan sát và
học hỏi từ thực tế. Vì thế, chủ doanh nghiệp nên tìm cách cho cán bộ,
nhân viên, đi tham quan hội chợ, dự các hội thảo… thậm chí gửi họ sang
các nước có nền kinh tế phát triển sống một thời gian để cọ xát thực tế
và rút tỉa kinh nghiệm cho việc kinh doanh về sau.
Doanh
nhân Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc… thường tiến hành hoạt
động kể trên để thâm nhập thị trường các nước khác từ nhiều thập niên
qua. Các bạn nhân viên trẻ, hãy chuẩn bị cho mình một hành trang sẵn
sàng lên đường trở thành những “tùy viên” thương mại cho doanh nghiệp ở
các nước.
______________________________________
(*) Cố vấn Công ty Xây dựng và Địa ốc Hòa Bình
-- Chỉ số tồn kho đang ở mức báo động (VnEconomy).Tính đến 1/3/2012, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,9% so với cùng thời điểm năm 2011.
Quý
1/2012 kết thúc với những số liệu thống kê khá "đẹp" cho mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, một trong những "điểm đen" lớn vẫn xuất
hiện trên bức tranh kinh tế là chỉ số tồn kho đang ở mức báo động.
Điều này cho thấy dấu hiệu của hiện tượng đình đốn trong sản xuất và
cũng là nguyên nhân làm cho thời gian qua hàng loạt doanh nghiệp đã bị
loại ra khỏi thị trường.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và đầu tư), tính đến
1/3/2012, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
34,9% so với cùng thời điểm năm 2011. Trong khi đó, chỉ số tiêu thụ chỉ
tăng 0,5% so với cùng kỳ.
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng khá cao là: chế biến và bảo quản rau
quả tăng 87,2%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 62,7%; sản
xuất sắt, thép tăng 59,1%; sản xuất các sản phẩm thuốc lá, thuốc lào
tăng 58%; sản xuất xi măng vôi, vữa tăng 55%; sản xuất xe có động cơ
tăng 38,7%. Đây cũng là những ngành có chỉ số tồn kho liên tục tăng cao
trong những tháng gần đây.
Giải thích nguyên nhân tồn kho tăng cao, các chuyên gia kinh tế cho
rằng, do năng lực tiêu dùng (sức mua) suy giảm đã tác động tiêu cực đến
hệ thống sản xuất và phân phối sản phẩm. Điều đáng báo động là chỉ số
hàng tồn kho liên tục tăng cao trong nhiều tháng nay đang cho thấy thị
trường hàng hóa đang bị tắc nghẽn, hàng sản xuất ra không bán được.
Bên cạnh đó, do chi phí đầu vào như xăng dầu, điện, khí đốt, chi phí
nhân công tăng cao nhưng chỉ số giá tiêu dùng không tăng nhiều đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp phải chịu gánh nặng với phần lớn các chi phí
tăng lên mà không thể chuyển nhiều vào giá bán. Hơn nữa, năng lực sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và phân phối hàng hóa phụ
thuộc rất nhiều vào vốn. Trong khi lãi suất ngân hàng vẫn cao, quá sức
chịu đựng của doanh nghiệp.
Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và vật liệu xây dựng Trương Phú Cường cho
rằng, hàng hóa tồn đọng, không tiêu thụ được, trong khi, hàng loạt các
chi phí như vốn, vật liệu, thiết bị, nhân công,... đều tăng cao. Mặt
khác, phần lớn đồng vốn của doanh nghiệp lại lệ thuộc vào nguồn vốn vay
ngân hàng. Đôi khi, vốn vay chiếm tỷ lệ gấp 2-5 lần vốn điều lệ doanh
nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp gần như đang không có lối thoát. Thực tế,
lãi suất có giảm 1% cũng chưa thay đổi được gì.
Về nguyên tắc, tồn kho luôn tăng theo quy mô sản xuất mở rộng để đảm bảo
tỷ lệ cân đối giữa sản xuất và tồn kho, đồng thời là ổn định cung cầu
giai đoạn sau đó, tức là mang tính "gối đầu". Với một nền sản xuất bình
thường, chỉ số tồn kho tăng khoảng 12 - 15% so với cùng kỳ là hợp lý,
nhưng trong thời điểm hiện tại, chỉ số tồn kho tăng cao tới 34,9% là
điều bất thường đối với nền kinh tế.
Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (Vinasme) Cao Sỹ
Kiêm, những giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đã có
những tác động tích cực, tuy nhiên, việc thực hiện những giải pháp này
trong thời gian qua đã làm nảy sinh một số nhân tố cản trở sức sản xuất
của doanh nghiệp cũng như toàn nền kinh tế. Vấn đề lớn nhất đối với các
doanh nghiệp hiện nay là lãi suất cao và khả năng tiếp cận vốn, nếu tình
trạng này tiếp tục kéo dài sẽ vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp
và việc giải thể, đóng cửa quy mô lớn là điều khó tránh khỏi. Trong
trường hợp này, hậu quả sẽ không còn dừng lại ở kinh tế mà sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới xã hội, khi rất nhiều người lao động mất việc làm.
Tại phiên họp báo Chính phủ chiều 1/4/2012, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết, hiện Chính phủ đang tập trung tháo
gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển, hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho,
tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy
thị trường trong nước, đưa hàng hóa dịch vụ về nông thôn.
Về tiền tệ và tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều nỗ lực để bình ổn
tiền tệ, tín dụng. Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và lãi suất
linh hoạt, phù hợp với yêu cầu kiềm chế lạm phát, tăng trưởng tín dụng,
giải quyết thanh khoản để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
---
Điểm báo 3.4.2012 ddkt
CHỮ “NHƯNG” CỦA BỘ TRƯỞNG
Nhắc đến tổng quan nền kinh tế quý 1, Bộ trưởng Vũ Đức Đam nhắc đến một
chữ “nhưng”: “Kinh tế vĩ mô ổn định, nhưng tăng trưởng kinh tế chậm hơn
nhiều”.
Còn tại cuộc họp báo Chính phủ được tổ chức sau đó, Bộ trưởng – Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam chia sẻ cùng báo giới: “Quý 1 năm
nay, với mức tăng khoảng 4%, GDP chỉ cao hơn mức tăng của năm 1999 là
3,4%”.
Kinh tế quý I: Chữ “nhưng” của bộ trưởng | Vĩ mô – Đầu tư | Vietstock
Nếu bệnh quá, ví dụ
đang cần IV (ống dẫn nước biển, thuốc, vào tĩnh mạch), thì không được
lên máy bay. Trừ khi thuê nguyên chuyến đặc biệt (chartered flight).
Nhưng bà ta có như vậy hay không thì khó biết, mà cho dù như vậy thì cũng phải kê khai tài sản tại Mỹ, gởi cho chủ nợ tại VN.
Ngoài ra, cho dù yếu, ngồi xe lăn, nhưng còn tỉnh, nói chuyện được, thì các hãng vẫn cho lên máy bay.
Gia đình bà này vẫn đang từ chối cho xem hồ sơ bệnh án, mà theo luật Mỹ thì thuộc bệnh nhân và người được bệnh nhân chỉ định.
Ví dụ bà này có thể chỉ định bệnh viện fax hồ sơ bệnh án cho chồng bà ta
tại VN. Theo luật Mỹ, bệnh viện PHẢI LÀM NGAY LẬP TỨC, rồi tính tiền
lại sau.
Không lý do gì không fax cho bên VN hồ sơ bệnh án.
Tấm hình chụp bà này trọc đầu bị truy ra là chụp năm 2009, cho dù đã ráng bôi bỏ tin tức. Dân chuyên nghiệp truy ra ngay.
Hổm rày bà ta tẩu tán hết tài sản rồi, cho dù có chết vì bệnh thật, thì
cũng đã kịp chuyển giao cho cô con gái, tẩu tán đi đâu mất hết.
Bên Cali thiếu gì xã hội đen chuyên làm việc này. Họ “tẩu” qua Cayman Islands là sạch dấu vết, đừng hòng tìm ra.
Thực tế, muốn thu hồi số nợ thì các chủ nợ tại VN phải mướn xã hội đen
trả thù. Xin lỗi, nhưng đó là cách duy nhất, và tôi chỉ nói sự thật chứ
không phải xúi giục.
Hết
tháng 3/2012, Công ty cổ phần thủy sản Bình An vẫn chưa trả được nợ cho
nông dân như đã hứa mà tiếp tục hẹn lại tuần tới sẽ đưa ra lịch trình
trả nợ. Trước đó, công ty đã hai lần tuyên bố sẽ trả nợ cho nông dân
trong thán…
Giờ
thì không thiếu thuế nào, thuế hạn chế phương tiện giao thông rồi lại
có cả thuế nhà. Lý do rất đơn giản, các nước có thuế nhà, sao nước ta
lại không có!
Bộ
Tài chính cho biết đang triển khai nghiên cứu việc xây dựng Luật thuế
tài sản. Theo ông Phạm Đình Cường – cục trưởng Cục Quản lý công sản,
thuế tài sản gồm thuế đất và tài sản trên đất.
Người
dân đang bị dồn vào đường cùng. Thày giáo bỏ nghề để chạy xe ôm kiếm
tiền trang trải cho cuộc sống vì đồng lương công chức quá thấp.
Con
đọc báo thấy bà Vụ phó Vụ Tiền lương – Bộ Nội vụ Nguyễn Thị Bích Thu
nói tại cuộc họp báo của bộ chiều 28-3 rằng, sẽ cố gắng đến năm 2018,
điều chỉnh lương tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu,
khoảng 3 triệu đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%.
Trong
quý 1 vừa qua, chỉ số niềm tin của các doanh nghiệp tại Việt Nam chỉ
còn 6%, từ mức 34% trong quý 4 năm ngoái, tương đương mức giảm 28 điểm
phần trăm. Ngược lại, ở Thái Lan, quốc gia đang trong quá trình phục hồi
từ trận lụt lịch sử, chỉ số niềm tin kinh doanh đã tăng lên mức 8% từ
mức -52% của quý 4.
Niềm
tin doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu khởi sắc trong quý 1 năm nay,
nhưng lại giảm mạnh ở Việt Nam bất chấp những chuyển biến vĩ mô tích
cực, một báo cáo vừa cho biết.
Công việc trong mơ một thời giờ thành thế này đây.
Phải
bán hàng chục lô đất để trả nợ ngân hàng hay lâm vào cảnh gia đình tan
nát vì những món nợ khổng lồ,…đó là những “trái đắng” mà nhiều đại gia
địa ốc đang phải gánh chịu khi thị trường đi xuống.
Te tua nhà đất Việt Nam
99%
dự án đều chậm tiến độ so với yêu cầu đặt ra là con số vừa được Tổng
hội xây dựng Việt Nam công bố. Hàng loạt dự án rơi vào cảnh ‘đắp chiếu’
hoặc hoạt động cầm chừng…
Chuyện về những người Việt Nam làm lao nô nơi xứ người. Ai đẩy họ đi như thế này?
Nhìn những giọt nước mắt, số phận bi đát nơi xứ người mà thấy thương thêm cho số phận dân tộc Việt.
Giờ ở Việt Nam tốt nhất không nên ăn gì. Rau thì phun thuốc trừ sâu, thịt thì chứa chất tạo nạc.
Rất đáng lo ngại khi hầu như cả nước đang bị nhiễm độc từ rau quả ở mức
độ khác nhau bởi rất nhiều loại thuốc trừ sâu hoá học. Nguyên nhân là do
người trồng rau dùng cả các loại thuốc trừ sâu độc hại ngoài danh mục
cho phép (có được qua đường nhập lậu), sử dụng quá liều lượng hoặc dùng
đến tận lúc sắp thu hoạch.
TT
– Từ chuyện chất kích nạc ở heo, dư luận đang lo lắng và bức xúc về
nhiều loại hoá chất độc hại trong sản phẩm nông nghiệp hoặc sử dụng
trong sản xuất thực phẩm.
Không
đổ lỗi do giá xăng nhưng nhiều mặt hàng đã bắt đầu tăng giá. Tiểu
thương chợ Tân Sơn Nhất (quận Tân Bình, TP.HCM) cho biết hóa mỹ phẩm
Johnson&Johnson vừa thông báo từ ngày 1-4 sẽ tăng giá một số mặt
hàng, mức tăng chóng mặt 9%-23%.
Ngành
hàng điện lạnh sẽ có mức tăng 3%-5%, một phần do đã vào mùa nóng, mỹ
phẩm và sữa cũng tăng dù không đổ lỗi cho giá xăng., Ngành hàng diẹn …
Nhiều
người an phận, thụ động chấp nhận sự thật là Đảng điều hành kinh tế be
bét khiến họ giờ chả đủ ăn. Thương thay cho dân tộc Việt.
Làm
8 tiếng ở cơ quan vẫn không đủ sống, nhiều người phải xoay vần làm thêm
bằng đủ mọi cách để trang trải chi phí sinh hoạt ngày càng leo
thang.> Dân công sở đi buôn Tết> Nhân viên văn phòng buôn đất cuối
năm
Chả mấy chốc tiền Việt Nam sẽ là tiền Zimbabwe.
Hiện
tượng giá nén theo kiểu lò xo đã đạt dưới mức giới hạn và đầu tháng 4
có khả năng thị trường sẽ bật lại khiến các mặt hàng đồng loạt tăng giá.
Dự báo có thể một số các mặt hàng tươi sống sẽ tăng kỷ lục 50%.
Đang xuất hiện làn sóng di cư ngược từ thành phố về quê.
(VEF.VN)
– Lương không đủ chi phí sinh hoạt; ăn uống kham khổ; làm việc thêm giờ
nhiều; tiền thuê nhà và chi phí sinh hoạt, giá cả thực phẩm tăng…
khiến…
“…Thành
phố càng phình to, những âm thanh nhức óc càng nhiều hơn, những con
đường và công trình xây nhiều hơn nghĩa là đường phố nhếch nhác hơn và
càng vắng bóng cây.
Trẻ thơ còn đâu sân chơi với những kí ức tuổi thơ mà chỉ mới mươi năm
trước thôi còn là không gian thỏa thích. Còn đâu công viên, không gian
yên tĩnh để người lớn hơn chuyện trò thể dục hỏi han chuyện nhà cửa, thế
sự của nhau? Tất cả lồng lên, như trong một cỗ máy xay tiền, bất chấp
cả tương lai…”
Xã
hội phát triển, cơ sở hạ tầng không theo kịp nên phát sinh nhiều vấn đề
về ô nhiễm, kẹt xe. Mỗi sáng bước ra đường là phải chứng kiến những
cảnh chen lấn, chửi rủa, khói bụi. Thật khâm phục sức chịu đựng của con
người.
CK, BĐS đang hại sập tiệm nhiều tập đoàn quốc doanh
Đầu
tư ngoài ngành vào bất động sản, ngân hàng, chứng khoán… EVN,
Vinacomin, Vinachem… hiện đang mắc kẹt hàng nghìn tỷ đồng vào những dự
án kém hiệu quả.
Doanh nghiệp BĐS ôm đống của ngồi “chờ chết” | Kinh tế | Vietstock
Những cảnh tượng giống tấm hình trên xuất hiện rất nhiều ở SG, ngoài SG.
Cả hệ thống BĐS kẹt cứng ngắc, không nhúc nhích gì được. Đúng là ngồi
“chờ chết”.
ĐÌNH LẠM. Sao phóng viên không dùng từ này thay cho từ dài lạm phát – đình đốn?
Chỉ
số công nghiệp cộng dồn so với cùng kỳ từ tháng 7-12 của năm 2011 và
hai tháng đầu năm 2012 đi xuống một cách đều đặn, cho thấy sản xuất bị
đình trệ rất rõ.
“…Những
ngày gần đây, dư luận ở Tây Nguyên xôn xao trước thông tin hàng loạt
“đại gia” xuất khẩu cà phê thua lỗ, nợ nần chồng chất…
Thực trạng này, cùng với sự lấn lướt của các doanh nghiệp FDI, cho thấy
nguy cơ đổ vỡ, mất sân nhà của doanh nghiệp (DN) xuất khẩu cà phê VN đã
cận kề…
…Ông Nguyễn Văn Nghiêm – Phó Giám đốc Sở Công Thương Đăk Lăk cho biết,
số DN xuất khẩu cà phê thua lỗ có thể nhiều hơn, nhưng họ còn giấu giếm
với hy vọng gỡ lại nên cơ quan chức năng chưa nắm được.”
-- Kinh tế quý 1: Chữ “nhưng” của Bộ trưởng (VnEconomy).- Thủ tướng: “Sẽ chỉ giữ lại một số doanh nghiệp nhà nước” (VnEconomy). - Vietnam: Reform to Stabilize Economy (WSJ).
- Doanh nghiệp thủy sản nợ nần phá sản – người nuôi cá khốn khó (VOV).--- Xây dựng nhà máy phong điện công suất 30MW (TT).- Gia Lai: Mía ế, béo “cò” (DV). - Bao giờ dứt điệp khúc buồn “trúng mùa mất giá?” (TTXVN).- Muối ơi! (LĐ).-- - Lập công ty “ma” chiếm đoạt 7,5 tỉ đồng (PLTP). --
-Chỉ số tồn kho đang ở mức báo động -Tính đến 1/3/2012, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,9% so với cùng thời điểm năm 2011.
Nguyên Chủ tịch Vinashin phải bồi thường dân sự trên 540 tỷ đồng
--
Mua rẻ bán đắt, EVN vẫn than lỗ
-
Khơi thông dòng vốn để đối phó nguy cơ đình đốn (SGTT).
-
Doanh nghiệp phá sản và giải thể: Vấn đề nằm ở đâu? (Petrotimes). -
Hạ lãi suất – Bài 1:Bước đầu để “cứu” doanh nghiệp (VOH). -
Doanh nghiệp gồng mình chịu phí (TN). -
‘Đi đêm’ lãi suất, doanh nghiệp vẫn khó vay (TP). -
Ngân hàng tinh vi vượt trần lãi suất (ĐV). -
“Doanh nghiệp giải thể là chuyện bình thường” (VTC).
- Diễn đàn kinh tế Bác Ngao: Tăng cường hợp tác thúc đẩy kinh tế châu Á (VOV).- Hàng hiệu dễ ‘thất sủng’ ở Trung Quốc? (VEF)
Vì sao Elliott hết kiện Vinashin?
-
-
Các
khoản nợ đã quá hạn của Vinashin đều đã được các chủ nợ là ngân hàng,
công ty tài chính xếp vào nợ xấu và trích lập dự phòng rũi ro. Ảnh:
Thanh Tao.
- -
Vì sao Elliott hết kiện Vinashin?
(TBKTSG)
- Quỹ đầu tư Elliott Advisors đã từ bỏ vụ kiện tập đoàn Công nghiệp Tàu
thủy (Vinashin) lên tòa Thượng thẩm London và ông Nguyễn Ngọc Sự, Chủ
tịch Hội đồng thành viên Vinashin, cho biết điều này đã được thông báo
trong một bức thư gửi đề ngày 16-3-2012 - đây là thông tin nổi bật trong
tháng cuối cùng của quí 1-2012 được các hãng tin nước ngoài đăng tải.
Nguyên nhân nào đã khiến Elliott Advisors từ bỏ vụ kiện sau gần bốn
tháng miệt mài theo đuổi?
Trước
khi đệ đơn kiện vào đầu tháng 11 năm ngoái, Elliott Advisors và các chủ
nợ khác đã được Vinashin chào mời phương án trả ngay lập tức bằng tiền
toàn bộ số nợ với mức bằng 35% mệnh giá ban đầu, tương đương 210 triệu
đô la Mỹ.
Vinashin
không có tiền, nhưng một ngân hàng lớn đứng phía sau sẵn sàng mua lại
nợ với giá đó. Elliott Advisors và các chủ nợ đã từ chối vì cho rằng giá
quá thấp, không thể chấp nhận.
Từ
sau đó, một tập đoàn đa ngành nội địa vào cuộc, cũng đưa ra mức giá mua
tương tự nhưng cách thức trả nợ đa dạng và linh hoạt. Mối quan hệ rộng
với giới tài chính quốc tế, đặc biệt là với các quỹ đầu tư tầm cỡ, đã
giúp tập đoàn này tiếp cận các chủ nợ dễ dàng.
Có
hai yếu tố khiến các chủ nợ đồng ý ngồi vào bàn đàm phán lần này. Thứ
nhất họ có thể thu hồi ngay một phần nợ bằng tiền (nếu muốn) và phần còn
lại sẽ nhận bằng những công cụ nợ khác có khả năng chuyển đổi thành
tiền sau một thời gian nhất định. Họ cũng có thể chuyển thành công cụ nợ
khác toàn bộ phần nợ. Các công cụ nợ ở đây bao gồm nhiều loại hạn mức,
kỳ hạn khác nhau. Như vậy, khả năng thu hồi nợ cao hơn 35% giá gốc ban
đầu tỏ ra thực tế. Chưa kể nếu chấp nhận các công cụ nợ kỳ hạn dài,
chẳng hạn 5-10 năm, biết đâu các chủ nợ có thể thu hồi 100% số vốn ban
đầu và thậm chí có lãi một khi các công cụ nợ sinh lời.
Việc
chấp nhận các công cụ nợ kéo dài 5-10 năm không phải quá khó đối với
các chủ nợ. Còn nhớ trong quá trình thương thảo với Vinashin vào năm
2011, các chủ nợ đã từng đưa phương án: hoán đổi hợp đồng cũ thành hợp
đồng vay mới kỳ hạn 15 năm với lãi suất Libor cộng 150 điểm phần
trăm/năm. Lãi suất sẽ tăng thêm 50 điểm phần trăm nữa từ năm thứ 11 đến
năm thứ 15. Họ sẵn sàng đồng ý 15 năm cho hợp đồng hoán đổi mới với
Vinashin, thì 5-10 năm cho công cụ nợ là khả năng có thể xem xét.
Thứ
hai tập đoàn mua lại nợ của Vinashin thực sự có tiềm lực tài chính
mạnh, hiện có trong tay hàng trăm triệu đô la Mỹ, có thể trả ngay lập
tức toàn bộ nợ của Vinashin với giá gốc, chứ chưa nói giá thương lượng.
Hơn nữa đây là doanh nghiệp có quản trị tốt, mức tăng trưởng lợi nhuận
và doanh thu hàng năm tương đối cao. Trở thành đối tác của tập đoàn này
là một khả năng có thể tính đến với các chủ nợ. Chuyển tiền từ khoản cho
vay thương mại sang khoản đầu tư, các ngân hàng chủ nợ sẽ tránh được
việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và hạch toán mất vốn.
Cánh
cửa tháo gỡ món nợ 600 triệu đô la Mỹ nước ngoài của Vinashin bắt đầu
mở! Không phải ngẫu nhiên nó lại trùng lắp với thời điểm Bộ Tài chính
tiếp xúc nhiều hơn với các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế. Cơ quan ngân
khố quốc gia mới đây còn thuê thêm một tổ chức tài chính tư vấn sau khi
làm việc với những tên tuổi như Moody’s, S&P. Đây được xem như bước
chuẩn bị của các cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện cho doanh
nghiệp trong nước phát hành trái phiếu ra nước ngoài, đáp ứng đòi hỏi
nhu cầu vốn đang rất lớn của nền kinh tế. Một mức xếp hạng tín nhiệm tốt
sẽ giúp các doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế với lãi suất hợp
lý mà không cần có sự bảo lãnh của Chính phủ.
Giải quyết dứt điểm món nợ nước ngoài của Vinashin
sẽ là chất xúc tác cho việc xếp hạng tín nhiệm quốc gia, mở đường cho
các doanh nghiệp đặt chân vào thị trường vốn quốc tế. |
Ngân
hàng Công thương (Vietinbank) đã bắt đầu chuyến tiếp thị phát hành 500
triệu đô la Mỹ trái phiếu quốc tế sau khi được Chính phủ cho phép. Ngân
hàng Ngoại thương (Vietcombank) vừa xin ý kiến cổ đông phát hành 1 tỉ đô
la Mỹ trái phiếu quốc tế trong năm nay. Theo như thông báo của
Vietcombank, thời hạn tối đa của trái phiếu có thể tới 10 năm. Nếu được
cổ đông đồng ý, Vietcombank còn cần phải được sự chấp thuận của Ngân
hàng Nhà nước và số lượng phát hành nằm trong hạn mức vay thương mại của
quốc gia do Chính phủ phê duyệt.
Việc
phát hành trái phiếu quốc tế thành công với Vietcombank có ý nghĩa
quyết định. Một mặt nó giúp ngân hàng có nguồn ngoại tệ để thỏa mãn nhu
cầu tín dụng bằng đô la Mỹ trong nước. Việc đặt trần tiền gửi ngoại tệ
2%/năm và sự lên giá của đồng Việt Nam thời gian qua đã làm cho vốn huy
động ngoại tệ của Vietcombank nói riêng, các ngân hàng nói chung, gặp
khó khăn. Mặt khác, sự có mặt của trái phiếu Vietcombank trên thị trường
vốn thế giới là chứng thực cho sự vươn ra quốc tế của ngân hàng sau khi
có được đối tác chiến lược - cổ đông Mizohu (Nhật Bản).
Nguồn tin từ BIDV nói với TBKTSG,
ngân hàng này cũng chuẩn bị kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế.
Giống như tập đoàn Điện lực, Dầu khí, Than - Khoáng sản… những năm trước
BIDV đã thông báo phát hành 500 triệu đô la Mỹ trái phiếu quốc tế. Tuy
nhiên sau đó BIDV hoãn lại do tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc
tế không thuận lợi.
Không
thể không thấy rằng việc duy trì lãi suất thấp của FED đang tạo điều
kiện thuận lợi cho việc huy động vốn quốc tế hiện nay. Thế nhưng với
Việt Nam, việc vay vốn bên ngoài vẫn đang phải chịu lãi suất cao do các
tổ chức cho vay cộng thêm phí rủi ro, thông thường khoảng 2,5-3 điểm
phần trăm/năm. Chính vì thế giải quyết dứt điểm món nợ nước ngoài của
Vinashin sẽ là chất xúc tác cho việc xếp hạng tín nhiệm quốc gia, mở
đường cho các doanh nghiệp đặt chân vào thị trường vốn quốc tế. Quan
trọng bây giờ là các doanh nghiệp, ngân hàng Việt Nam phát hành được
trái phiếu quốc tế với lãi suất thích hợp, rồi sau đó có thể lãi suất và
chi phí phát hành sẽ giảm dần theo uy tín quốc gia.
-
Maybank lên tiếng về khoản nợ của Vinashin (04/04)
Doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách phủ hàng hóa tại thị trường Việt Nam?
Trung Quốc đang tấn công Việt Nam trên tất cả các mặt ..quân sự, kinh tế, và văn hóa..
-
- Doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách phủ hàng hóa tại thị trường Việt Nam? (GDVN) - Trung Quốc đang xúc tiến việc mua lại các xưởng, nhà máy của doanh nghiệp Việt Nam, kể cả những doanh nghiệp thua lỗ.
Kết
thúc chuyến khảo sát thị trường Trung Quốc cuối tháng 3 vừa qua, ông
Nguyễn Lâm Viên (Chủ tịch hội đồng quản trị Vinamit) cho biết, chính phủ
nước này đang triển khai một loạt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp Trung
Quốc đẩy hàng hóa đi các nước, tập trung vào những nước lân cận, trong
đó có Việt Nam.
“Trung
Quốc đang tìm mọi cách để phủ hàng hóa tại thị trường Việt Nam một cách
nhanh và sâu nhất. Ngoài nông sản, thực phẩm, các mặt hàng tiêu dùng,
may mặc của Việt Nam khó cạnh tranh lại được” - ông Viên nhấn mạnh.
Trong
một cuộc gặp mặt với các doanh nghiệp gần đây, ông Tô Quốc Tuấn, Tổng
lãnh sự Việt Nam tại Trung Quốc, cho biết, đại diện Câu lạc bộ Doanh
nhân tại Trung Quốc đã đặt vấn đề mở đường đưa hàng của 15.000 doanh
nghiệp TQ sang Việt Nam.
Ở
Trung Quốc, việc bảo hộ thương hiệu được làm chặt chẽ hơn Việt Nam rất
nhiều. Trong khi đó, hầu hết các thương hiệu nổi tiếng ở Việt Nam đều bị
TQ đăng ký thương hiệu và một khi họ đã đăng ký rồi thì dù sản phẩm của
Việt Nam có ở trên kệ siêu thị cũng bị đưa ra ngoài.
Theo
các chuyên gia, một số doanh nghiệp Trung Quốc có tiềm lực tài chính
đang xúc tiến việc mua lại các xưởng, nhà máy của doanh nghiệp Việt Nam
để xâm nhập thị trường nước ta. Mục đích là để có sẵn hệ thống phân
phối, dễ dàng đưa hàng vào Việt Nam. Đáng nói, phía Trung Quốc sẵn sàng
mua lại các doanh nghiệp thua lỗ, do họ có thể hưởng thuế ưu đãi trong
nước từ việc khai báo lỗ này, đồng thời nắm quyền kiểm soát doanh
nghiệp.
“Việc mua lại này có thể đẩy một loạt doanh nghiệp VN rơi vào tay các
công ty TQ. Nếu TQ nắm được các DN lớn, có vị thế trên thị trường từ
việc mua bán, sáp nhập, và với vị thế mới thì họ càng chèn ép và “giết”
các DN nhỏ và vừa lẹ hơn. Nếu số DN của ta đã làm ăn tốt rồi mà dần dần
bị mua đi thì không biết đến bao giờ mình mới gây dựng được DN mới của
VN mang tính độc lập, tự chủ. Từ đầu tư đến trồng khoai lang cũng phải
từ bên ngoài vào. Bây giờ rau, củ, quả TQ tràn ngập thị trường VN. Từ
nay đến 2015, hàng của TQ xâm nhập liên tục, với tốc độ nhanh hơn rất
nhiều so với trước đây” – Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chia sẻ với
báo chí.
Hàng
Việt phải khẳng định thương hiệu trong nước trước khi nghĩ tới thương
hiệu ở thị trường quốc tế. Trước thực trạng hàng Trung Quốc tràn lan,
cộng thêm việc khi Trung Quốc thành công với tham vọng phủ kín hàng hóa
khắp nước ta thì bài toán cứu lấy hàng Việt vẫn còn nhiều phức tạp.
Không
riêng gì ở các thành phố lớn, sau gần 2 năm thực hiện cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, hàng Trung Quốc vẫn đang
chiếm ưu thế ở các vùng nông thôn. Theo một vài thống kê, tại chợ Phố
Hiến – Hưng Yên, hàng hóa Trung Quốc chiếm từ 70 - 90% thị phần; tại
nhiều cửa khẩu, các mặt hàng Trung Quốc tràn ngập tại các chợ ở quận,
huyện của thành phố. Hàng Trung Quốc bán giá rẻ chỉ bằng ¼ so với nhiều
mặt hàng doanh nghiệp Việt Nam sản xuất.
Trước
tình hình này, nhiều nông dân trồng sầu riêng có tâm huyết rất lo lắng
vì việc này sẽ khiến giá sầu riêng tuột giảm trong tương lai không xa,
bởi nhiều nông dân đang ồ ạt bán sầu riêng non dẫn đến chất lượng kém.
Bên cạnh đó, việc mua trái sầu riêng non của các thương lái Trung Quốc
còn nảy sinh tình trạng cạnh tranh mua phức tạp với thương lái địa
phương.
Ông
Lê Hữu Hải, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cai
Lậy xác định nguồn tin này là có thật. Ông Hải cho biết, tình trạng
thương lái Trung Quốc vào tận vườn sầu riêng của người dân thu mua trái
non đã được phòng nông nghiệp huyện Cai Lậy báo cáo với công an huyện và
công an tỉnh. Hiện tại, thương lái Trung Quốc đang tiến hành mua sầu
riêng trong nông dân.
-
Tàu Cá TQ Lập Đoàn 15 Chiếc Vào Biển VN Vét Cá Ban Đêm; Tàu cá VN liên tục bị hải quân TQ chận bắt, cướp hải sản... (04/02/2012)
-
Tàu ngư dân Việt Nam bị tàu lạ đâm ở Trường Sa-5/4/2012 -
Tàu cá KH 97768-TS (Khánh Hòa) cùng 4 tàu khác đã bị một chiếc tài lạ đâm khi đang đánh bắt cá.
Biển Đông yên tĩnh - Tại sao Trung Quốc tỏ ra ôn hòa hơn ở Biển Đông? (lúc này)
-
Tại sao Trung Quốc tỏ ra ôn hòa hơn ở Biển Đông?
Mới
đây, Trung Quốc đã chọn một cách tiếp cận mới - và ôn hòa hơn nhiều.
Các mục tiêu chính của chính sách thân thiện hơn là phục hồi hình ảnh bị
mờ xỉn của Trung Quốc ở Đông Á và giảm bớt lý do cho một vai trò tích
cực hơn của Mỹ tại đó.
Trong
những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng trở nên sẵn sàng xác nhận và
bảo vệ các tuyên bố lãnh thổ và hàng hải của mình ở Biển Đông, nơi 6
nước khác cũng có các yêu sách chủ quyền. Bắc Kinh công khai thách thức
tính hợp pháp của các khoản đầu tư mà các công ty dầu mỏ nước ngoài rót
vào ngành năng lượng ngoài khơi của Việt Nam, nhấn mạnh chủ quyền của
nước này đối với các đảo và vùng biển cách xa Đại lục, bắt giữ hàng trăm
ngư dân Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã chiếm giữ, và
quấy rối các tàu của Việt Nam và Philippines đang tiến hành khảo sát địa
chấn ở khu vực Bắc Kinh nhận chủ quyền. Rất nhiều nước Đông Á coi hành
xử của Trung Quốc như một dấu hiệu cho thấy nước này sẵn sàng theo đuổi
một quan điểm đối đầu và đơn phương trong khu vực.
Tuy nhiên, mới đây, Trung Quốc đã chọn một cách tiếp cận mới - và ôn hòa
hơn nhiều. Các mục tiêu chính của chính sách thân thiện hơn là phục hồi
hình ảnh bị mờ xỉn của Trung Quốc ở Đông Á và giảm bớt lý do cho một
vai trò tích cực hơn của Mỹ tại đó.
Dấu
hiệu đầu tiên về cách tiếp cận mới của Trung Quốc xuất hiện hồi tháng 6
năm ngoái, khi Hà Nội cử một đặc phái viên tới Bắc Kinh dự các cuộc hội
đàm về những tranh chấp khác nhau trên biển giữa hai nước. Chuyến thăm
dọn đường cho một thỏa thuận vào tháng 7/2011 giữa Trung Quốc và 10
thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để rốt cuộc là thực
thi một tuyên bố về quy tắc ứng xử mà họ đã khởi soạn từ năm 2002 sau
một loạt các vụ việc ở Biển Đông. Trong tuyên bố đó, các bên nhất trí sẽ
"tự kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc làm leo thang tranh
chấp".
Kể từ mùa hè, các quan chức cấp cao của Trung Quốc, đặc biệt là các lãnh
đạo chính trị cấp cao như Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo,
đã liên tục tái khẳng định các nguyên tắc chỉ đạo của cố lãnh đạo Đặng
Tiểu Bình về giải quyết các xung đột trên biển của Trung Quốc để tập
trung vào hợp tác kinh tế trong khi trì hoãn giải pháp cuối cùng cho
những yêu sách cơ bản. Chẳng hạn, vào tháng 8/2011, ông Hồ Cẩm Đào nhắc
lại cách tiếp cận của ông Đặng Tiểu Bình bằng cách tuyên bố rằng "các
nước liên quan có thể gạt sang một bên những tranh chấp và tích cực tìm
ra những hình thức phát triển chung ở các khu vực biển liên quan".
Truyền thông tiếng Trung cũng bắt đầu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
hợp tác. Kể từ tháng 8, Ban quốc tế của tờ Nhân dân Nhật Báo (dưới bút
danh Zhong Sheng) đã xuất bản một số bài viết nhấn mạnh sự cần thiết
phải giảm bớt đối đầu ở Biển Đông. Ví dụ, vào tháng 1/2012, Zhong Sheng
bàn về tầm quan trọng của "hợp tác thực dụng" để đạt tới "các kết quả cụ
thể". Vì Nhân dân Nhật Báo là tờ chính thức của Ủy ban Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc, những bài báo như vậy sẽ được hiểu là nỗ lực của
đảng nhằm giải thích chính sách mới của mình cho độc giả trong nước, đặc
biệt là những người làm việc ở cấp thấp hơn trong đảng và các cơ quan
nhà nước.
Về việc gạt sang một bên những tranh chấp, Trung Quốc đã đạt được tiến
bộ. Ngoài sự đồng thuận với ASEAN hồi tháng 7, vào tháng 10, Trung Quốc
đạt được một thỏa thuận với Việt Nam về "các nguyên tắc chung chỉ đạo
giải quyết các vấn đề trên biển". Thỏa thuận này nhấn mạnh đến luật pháp
quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Kể từ đó,
Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu thực thi thỏa thuận bằng cách thiết lập
một nhóm làm việc để phân ranh giới và phát triển phần phía nam của Vịnh
Bắc Bộ gần Quần đảo Hoàng Sa tranh chấp.
Trung Quốc cũng khởi xướng hoặc tham gia các cuộc gặp làm việc để giải
quyết lo ngại của khu vực về sự quyết đoán của Bắc Kinh. Ngay trước Hội
nghị thượng đỉnh Đông Á hồi tháng 11 năm ngoái, Trung Quốc tuyên bố nước
này sẽ thành lập một quỹ 3 tỷ Nhân dân tệ (476 triệu USD) cho hợp tác
trên biển giữa Trung Quốc - ASEAN về nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi
trường, tự do hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn, và chiến đấu chống tội phạm
xuyên quốc gia trên biển.
Tháng
tiếp sau đó, Trung Quốc tổ chức một số hội thảo về hải dương học và tự
do hàng hải ở Biển Đông, và vào tháng 1 vừa qua, nước này tổ chức một
cuộc họp với các quan chức cấp cao ASEAN để thảo luận về việc thực thi
tuyên bố về quy tắc ứng xử năm 2002. Một loạt các hoạt động hợp tác được
đề ra cho thấy cách tiếp cận mới của Trung Quốc có thể không phải là
một sách lược trì hoãn đơn thuần.
Ngoài
các nỗ lực mới của Trung Quốc nhằm thể hiện rằng nước này sẵn sàng theo
đuổi một đường lối hợp tác hơn nữa, Bắc Kinh cũng dừng nhiều hoạt động
quyết đoán hơn mà đã thu hút sự chú ý hồi những năm 2009-2011. Chẳng
hạn, các tàu tuần tra thuộc Cục Quản lý Nghề cá ít khi bắt giữ ngư dân
Việt Nam kể từ năm 2010. (Từ năm 2005 đến 2010, Trung Quốc bắt giữ 63
tàu cá và các ngư dân trên tàu, với rất nhiều người không được thả cho
đến khi phải trả tiền phạt rất nặng). Và các tàu của Việt Nam và
Philippines có thể tiến hành thăm dò dầu khí mà không bị phía Trung Quốc
can thiệp. (Mới tháng 5 năm ngoái, các tàu tuần tra của Trung Quốc đã
cắt cáp thăm dò của một tàu Việt Nam để ngăn không cho tàu này hoàn tất
một cuộc thăm dò địa chấn).
Nói
chung, Trung Quốc không còn cản trở bất cứ hoạt động nào liên quan tới
thăm dò gần đây, chẳng hạn như việc Exxon khoan một giếng thăm dò ở vùng
biển mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền. Do Trung Quốc
thôi không can thiệp vào những hoạt động đó, việc nước này không làm
vậy cho thấy một sự lựa chọn tỉnh táo nhằm trở thành một láng giềng thân
thiện hơn.
Tất nhiên, câu hỏi là tại sao Trung Quốc lại chuyển sang một lối tiếp
cận ôn hòa hơn? Hơn bất cứ điều gì, Bắc Kinh đã nhận ra rằng, sự quyết
đoán của mình đang làm tổn hại đến các lợi ích chính sách ngoại giao
rộng lớn hơn của nước này. Một nguyên tắc trong đại chiến lược hiện nay
của Trung Quốc là duy trì các mối quan hệ hữu hảo với các cường quốc,
các nước láng giềng sát cạnh, và thế giới đang phát triển. Thông qua các
hành động của mình ở Biển Đông, Trung Quốc đã làm suy yếu nguyên tắc
này và làm mờ hình ảnh thân thiện ở Đông Nam Á mà nước này đã nỗ lực
nuôi dưỡng trong thập niên trước đó. Nước này đã tạo ra một lợi ích
chung giữa các nước trong khối trong việc chống lại Trung Quốc - và một
động cơ để họ tìm kiếm sự hỗ trợ từ Washington. Làm như thế, các hành
động của Trung Quốc đã cung cấp một lý do mạnh mẽ cho sự tham gia lớn
hơn của Mỹ vào khu vực và lồng những tranh chấp Biển Đông vào mối quan
hệ Trung - Mỹ.
Đến mùa hè vừa qua, Trung Quốc mới nhận ra rằng nước này đã đi quá xa.
Giờ đây, Bắc Kinh muốn phóng ra một hình ảnh ôn hòa hơn trong khu vực để
ngăn chặn sự hình thành một nhóm nước ASEAN liên minh chống Trung Quốc,
làm giảm bớt khát vọng của các nước Đông Nam Á muốn cải thiện hơn nữa
các mối quan hệ với Mỹ, và làm suy yếu nguyên cớ cho một vai trò lớn hơn
của Mỹ trong những tranh chấp này và trong khu vực.
Đến nay, lối tiếp cận mới của Bắc Kinh dường như hiệu quả. Trung Quốc và
Việt Nam đã tăng cường mối quan hệ chính trị của hai nước thông qua
những trao đổi cấp cao thường xuyên. Các chuyến thăm của Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tới Bắc Kinh vào tháng 10/2011
và của ông Tập Cận Bình tới Hà Nội hồi tháng 12/2011 đã được sắp xếp để
xoa dịu tinh thần và bảo vệ mối quan hệ song phương rộng lớn hơn khỏi
những tranh chấp chưa được giải quyết về lãnh hải ở Biển Đông. Vào tháng
10, hai bên cũng nhất trí một kế hoạch 5 năm nhằm nâng thương mại song
phương lên 60 tỷ USD vào năm 2015. Và mới tháng trước, bộ trưởng ngoại
giao của hai nước đã nhất trí thành lập các nhóm làm việc về các vấn đề
thiết thực như tìm kiếm và cứu nạn trên biển, và thiết lập một đường dây
nóng giữa hai bộ ngoại giao, chưa kể việc bắt đầu các cuộc đàm phán về
phân ranh giới ở Vịnh Bắc Bộ.
Cho dù là đường lối này giờ đây xuôi chèo mát mái thì vẫn có thể có
nhiều sóng gió ở phía trước. Những tháng thời tiết xấu đã ngăn giữ ngư
dân và các công ty dầu lửa ra Biển Đông. Nhưng khi các hoạt động đánh
bắt cá và thăm dò dầu khí trở lại vào mùa xuân, các vụ việc có thể gia
tăng. Bên cạnh đó, cách tiếp cận mới của Trung Quốc cũng làm dấy lên
những kỳ vọng mà giờ đây nước này phải đáp ứng - chẳng hạn, bằng cách
đàm phán một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc pháp lý để thay thế
tuyên bố năm 2002 và tiếp tục kiềm chế những hành động đơn phương.
Tuy vậy, vì cách tiếp cận mới phản ánh một logic chiến lược nên nó có
thể kéo dài, cho thấy một sự chuyển đổi lớn về chính sách ngoại giao của
Trung Quốc. Do Đại hội Đảng lần thứ 18 sắp diễn ra, các lãnh đạo Trung
Quốc muốn một môi trường bên ngoài ổn định, vì lo ngại một cuộc khủng
hoảng quốc tế sẽ làm đảo lộn những sắp đặt chuyển đổi ban lãnh đạo trong
năm nay. Và thậm chí sau khi các lãnh đạo mới của đảng được bầu chọn,
có khả năng họ sẽ vẫn cố gắng tránh né các cuộc khủng hoảng quốc tế
trong khi củng cố quyền lực và tập trung vào những thách thức ở trong
nước.
Cách tiếp cận ôn hòa của Trung Quốc ở Biển Đông thể hiện thêm bằng chứng
rằng Bắc Kinh sẽ nỗ lực tránh xa kiểu chính sách đối đầu mà nước này đã
thực hiện đối với Mỹ hồi năm 2010. Khi được kết hợp với chuyến thăm của
ông Tập Cận Bình tới Washington tháng trước, nó cũng cho thấy Mỹ không
cần phải lo sợ phản ứng của Bắc Kinh trước trụ xoay chiến lược của Mỹ
tới châu Á, vốn đòi hỏi phải nâng cao các mối quan hệ an ninh của Mỹ
trên toàn khu vực. Thay vào đó, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ dựa vào các
công cụ quản lý kinh tế và ngoại giao thông thường hơn là thử một phản
ứng quân sự trực tiếp.
Ít
có khả năng Bắc Kinh sẽ quyết đoán hơn nếu như điều này duy trì khát
vọng của các nước Đông Nam Á muốn tăng cường hơn nữa các mối quan hệ với
Mỹ. Chưa biết cách tiếp cận mới có kéo dài hay không nhưng ít nhất nó
cũng thể hiện rằng Trung Quốc, khi nước này muốn, có thể định dạng lại
chính sách ngoại giao của mình. Đó là tin tức tốt lành cho sự ổn định
trong khu vực.
Hoàng Dương dịch từ Foreign Affairs
-
All Quiet in the South China Sea -.foreignaffairs.Why China is Playing Nice (For Now)
The issue shows only thing: The rogues from Beijing win, the idiots from Hanoi lose.
Ít được lưu ý, tuy nhiên, một phương pháp tiếp cận mới đã được sử dụng
gần đây của Trung Quốc - -. Các mục tiêu chính của chính sách thân
thiện là để khôi phục hình ảnh bị mờ nhạt của Trung Quốc ở Đông Á và
giảm bớt các lý do để Mỹ đóng một vai trò tích cực hơn của ở đó.
-Bắc
Kinh cũng không được quyết đoán hơn nếu điều đó khiến các nước Đông Nam Á mong muốnthúc đẩy hơn nữa mối quan hệ với Hoa Kỳ.
The first sign of China's new approach came last June, when Hanoi dispatched a special envoy to Beijing
for talks about the countries' various maritime disputes. The visit
paved the way for an agreement in July 2011 between China and the ten
members of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) to finally
implement a declaration of a code of conduct they had originally
drafted in 2002 after a series of incidents in the South China Sea. In
that declaration, they agreed to "exercise self-restraint in the conduct
of activities that would complicate or escalate disputes."
Since
the summer, senior Chinese officials, especially top political leaders
such as President Hu Jintao and Premier Wen Jiabao, have repeatedly
reaffirmed the late Deng Xiaoping's guidelines for dealing with China's
maritime conflicts to focus on economic cooperation while delaying the
final resolution of the underlying claims. In August 2011, for example,
Hu echoed Deng's approach by stating that "the countries concerned may
put aside the disputes and actively explore forms of common development
in the relevant sea areas."
Authoritative
Chinese-language media, too, has begun to underscore the importance of
cooperation. Since August, the international department of People's Daily (under
the pen name Zhong Sheng) has published several columns stressing the
need to be less confrontational in the South China Sea. In January 2012,
for example, Zhong Sheng discussed the importance of "pragmatic
cooperation" to achieve "concrete results." Since the People's Daily is
the official paper of the Central Committee of the Chinese Communist
Party, such articles should be interpreted as the party's attempts to
explain its new policy to domestic readers, especially those working
lower down in party and state bureaucracies.
In
terms of actually setting aside disputes, China has made progress. In
addition to the July consensus with ASEAN, in October China reached an
agreement with Vietnam on "basic principles guiding the settlement of
maritime issues." The accord stressed following international law,
especially the UN Convention on the Law of the Sea. Since then, China
and Vietnam have begun to implement the agreement by establishing a
working group to demarcate and develop the southern portion of the Gulf
of Tonkin near the disputed Paracel Islands.
China
has also initiated or participated in several working-level meetings to
address regional concerns about Beijing's assertiveness. Just before
the East Asian Summit last November, China announced that it would
establish a three billion yuan ($476 million) fund for China-ASEAN
maritime cooperation on scientific research, environmental protection,
freedom of navigation, search and rescue, and combating transnational
crimes at sea. The following month, China convened several workshops on
oceanography and freedom of navigation in the South China Sea, and in
January it hosted a meeting with senior ASEAN officials to discuss
implementing the 2002 code of conduct declaration. The breadth of
proposed cooperative activities indicates that China's new approach is
probably more than just a mere stalling tactic.
Beyond
China's new efforts to demonstrate that it is ready to pursue a more
cooperative approach, the country has also halted many of the more
assertive behaviors that had attracted attention between 2009 and 2011.
For example, patrol ships from the Bureau of Fisheries Administration
have rarely detained and held any Vietnamese fishermen since 2010.
(Between 2005 and 2010, China detained 63 fishing boats and their crews,
many of which were not released until a hefty fine was paid.) And
Vietnamese and Philippine vessels have been able to conduct hydrocarbon
exploration without interference from China. (Just last May, Chinese
patrol ships cut the towed sonar cable of a Vietnamese ship to prevent
it from completing a seismic survey.) More generally, China has not
obstructed any recent exploration-related activities, such as Exxon's
drilling in October of an exploratory well in waters claimed by both
Vietnam and China. Given that China retains the capability to interfere
with such activities, its failure to do so suggests a conscious choice
to be a friendlier neighbor.
The
question, of course, is why did the Chinese shift to a more moderate
approach? More than anything, Beijing has come to realize that its
assertiveness was harming its broader foreign policy interests. One
principle of China's current grand strategy is to maintain good ties
with great powers, its immediate neighbors, and the developing world.
Through its actions in the South China Sea, China had undermined this
principle and tarnished the cordial image in Southeast Asia that it had
worked to cultivate in the preceding decade. It had created a shared
interest among countries there in countering China -- and an incentive
for them to seek support from Washington. In so doing, China's actions
provided a strong rationale for greater U.S. involvement in the region
and inserted the South China Sea disputes into the U.S.-Chinese
relationship.
By
last summer, China had simply recognized that it had overreached. Now,
Beijing wants to project a more benign image in the region to prevent
the formation of a group of Asian states allied against China, reduce
Southeast Asian states' desire to further improve ties with the United
States, and weaken the rationale for a greater U.S. role in these
disputes and in the region.
So
far, Beijing's new approach seems to be working, especially with
Vietnam. China and Vietnam have deepened their political relationship
through frequent high-level exchanges.
Visits by the Vietnamese Communist Party general secretary, Nguyen Phu
Trong, to Beijing in October 2011 and by the Chinese heir apparent, Xi
Jinping, to Hanoi in December 2011 were designed to soothe spirits and
protect the broader bilateral relationship from the unresolved disputes
over territory in the South China Sea. In October, the two also agreed
to a five-year plan to increase their bilateral trade to $60 billion by
2015. And just last month, foreign ministers from both countries agreed
to set up working groups on functional issues such as maritime search
and rescue and establish a hotline between the two foreign ministries,
in addition to starting talks over the demarcation of the Gulf of
Tonkin.
Even
if it is smooth sailing now, there could be choppy waters ahead. Months
of poor weather have held back fishermen and oil companies throughout
the South China Sea. But when fishing and hydrocarbon exploration
activities resume in the spring, incidents could increase. In addition,
China's new approach has raised expectations that it must now meet --
for example, by negotiating a binding code of conduct to replace the
2002 declaration and continuing to refrain from unilateral actions.
Nevertheless,
because the new approach reflects a strategic logic, it might endure,
signaling a more significant Chinese foreign policy shift. As the 18th
Party Congress draws near, Chinese leaders want a stable external
environment, lest an international crisis upset the arrangements for
this year's leadership turnover. And even after new party heads are
selected, they will likely try to avoid international crises while
consolidating their power and focusing on China's domestic challenges.
China's
more moderate approach in the South China Sea provides further evidence
that China will seek to avoid the type of confrontational policies that
it had adopted toward the United States in 2010. When coupled with Xi's
visit to Washington last month, it also suggests that the United States
need not fear Beijing's reaction to its strategic pivot to Asia, which
entails enhancing U.S. security relationships throughout the region.
Instead, China is more likely to rely on conventional diplomatic and
economic tools of statecraft than attempt a direct military
response. Beijing is also unlikely to be more assertive if that sustains
Southeast Asian countries' desires to further deepen ties with the
United States. Whether the new approach sticks in the long run, it at
least demonstrates that China, when it wants to, can recalibrate its
foreign policy. That is good news for stability in the region.
Mẹ nhà báo Hoàng Hùng kháng cáo bản án của tòa Long An
Nhà báo Hoàng Hùng và bà Liễu trong những ngày hạnh phúc. Ảnh do gia đình cung cấp
--
Mẹ nhà báo Hoàng Hùng kháng cáo bản án của tòa Long An
(NLĐO) - Trong đơn kháng cáo, mẹ nhà báo Hoàng Hùng cho rằng việc
TAND tỉnh Long An kết luận chỉ một mình Trần Thúy Liễu ra tay sát hại
chồng là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và có dấu hiệu vi phạm thủ tục tố
tụng hình sự.
Ngày 5-4, TAND tỉnh Long An đã tiếp nhập đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị
Kim Nga (SN 1937, vợ liệt sĩ, mẹ cố nhà báo Hoàng Hùng) đối với bản án
hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Long An xét xử bị cáo Trần Thúy Liễu mức
án tù chung thân về tội “Giết người”.
Trong đơn kháng cáo, mẹ nhà báo Hoàng Hùng nêu lý do: Tại phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án Trần Thúy Liễu bị truy tố về tội “Giết người” theo
điều 93 Bộ luật Hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị
hại do bà làm người đại diện hợp pháp đã đưa ra nhiều tình tiết của vụ
án chưa được làm sáng tỏ, như: Hiện trường vụ án có đến 2 điểm cháy;
nguyên nhân, động cơ mục đích giết người không rõ ràng; lời khai của nhà
báo Hoàng Hùng trước khi chết không được đưa vào hồ sơ vụ án; hàng trăm
cuộc gọi điện thoại, tin nhắn giữa ông Nguyễn Văn Tâm (nguyên cán bộ
QLTT Long An-PV) với bà Liễu không được thu thập kịp thời theo quy định
của pháp luật; lời khai của người làm chứng, người liên quan có trong hồ
sơ vụ án còn nhiều điểm mâu thuẫn… Tại phiên tòa, Trần Thúy Liễu và một
số nhân chứng, người liên quan khai bất nhất, mâu thuẫn, thay đổi lời
khai nhưng không được xem xét.
Mẹ và em nhà báo Hoàng Hùng trong phiên xử ngày 29-3
“Tôi thấy rằng những nội dung mà luật sư bảo vệ quyền lợi cho con tôi
đưa ra là có căn cứ, có tính thuyết phục nhưng không được HĐXX xem xét
một cách thấu đáo, khách quan. Việc TAND tỉnh Long An kết luận chỉ một
mình con dâu tôi – Trần Thúy Liễu – thực hiện, là có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm và có dấu hiệu vi phạm thủ tục tố tụng hình sự”- mẹ nhà báo Hoàng
Hùng viết trong đơn kháng cáo.
Cuối đơn, mẹ nhà báo Hoàng Hùng đề nghị: “Tôi làm đơn kháng cáo toàn bộ
nội dung bản án sơ thẩm, kính gửi đến tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại
TPHCM xem xét lại toàn bộ vụ án theo trình tự phúc thẩm, theo hướng: Hủy
toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Long An, giao hồ sơ cho Cơ quan
điều tra Bộ Công an điều tra theo thẩm quyền”.
Trước đó, ngày 29-3, TAND tỉnh Long An mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
Trần Thúy Liễu bị truy tố về tội “Giết người” theo điều 93 Bộ luật Hình
sự. Bán án sơ thẩm của TAND tỉnh Long An xác định vụ án này do một mình
Trần Thúy Liễu (vợ nhà báo Hoàng Hùng) thực hiện, không có đồng phạm và
tuyên phạt mức án tù chung thân.
G.Hy
- Cái giá cho sự “chung tình” của bà Liễu với ông Tâm (DT).- ‘Không thể buộc tội ông Tâm trong vụ nhà báo Hoàng Hùng’ (VNE). - Mẹ nhà báo Hoàng Hùng không tin con dâu một mình giết chồng (DT). -- Vụ nhà báo Hoàng Hùng: Ẩn số cần làm rõ? (VNN). -Xét xử vụ nhà báo Hoàng Hùng: Tòa triệu tập 8 người-Đại
diện Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An cũng được luật sư đề
nghị triệu tập đến phiên tòa với tư cách người giám định để giải thích
một số nội dung liên quan đến biên bản khám nghiệm hiện trường
- Công bố lời sinh cung của nhà báo Hoàng Hùng
America's Pacific Logic
- If China can “Finlandize” Vietnam…?
- Nonsense! It’s better to think on How China is “Finlandizing” the US, guys.
:
America's Pacific Logic
The
Obama administration "pivot" to the Pacific, formally announced by
Secretary of State Hillary Clinton last November and reiterated more
recently by the president himself, might appear like a reassertion of
America's imperial tendencies just at the time when Washington should be
concentrating on the domestic economy. But in fact, the pivot was
almost inevitable.
When
the Berlin Wall fell in 1989, signaling communism's defeat in Europe,
security experts talked about a shift in diplomatic and military
energies to the Pacific. But Saddam Hussein's invasion of Kuwait in 1990
led to a decadelong preoccupation with the Middle East, with the U.S.
Army leading a land war against Iraq in 1991 and the Navy and Air Force
operating no-fly zones for years thereafter. Then came 9/11, and the
Bush administration's initiation of wars in Afghanistan and Iraq as a
response. Finally, the ending of both those conflicts is in sight, and
the United States, rather than return to quasi-isolationism as it has
done with deleterious effect after other ground wars in its history, is
attempting to pivot its focus to the geographical heart of the global
economy: the Indian and Pacific oceans.
The
Indian Ocean is the world's energy interstate, across which passes
crude oil and natural gas from the Arabian Peninsula and Iranian Plateau
to the burgeoning, middle-class urban sprawls of East Asia. Though we
live in a jet and information age, 90 percent of all commercial goods
that travel from one continent to another do so by container ship, and
half of those goods in terms of global tonnage -- and one-third in terms
of monetary value -- traverse the South China Sea, which connects the
Indian Ocean with the Western Pacific. Moreover, the supposedly
energy-rich South China Sea is the economic hub of world commerce, where
international sea routes coalesce. And it is the U.S. Navy and Air
Force, more than any other institutions, that have kept those sea lines
of communication secure, thus allowing for post-Cold War globalization
in the first place. This is the real public good that the United States
provides the world.
But
now a new challenge looms for the United States: a rising China as
demonstrated by the totality of its power -- its geographical proximity
to the South China Sea and environs; its economic heft, making it the
largest trading partner of most if not all of the littoral nations
(despite economic troubles in China itself); and its expanding submarine
fleet. Beijing has been buying smart, investing in subs, ballistic
missiles, and space and cyber warfare as part of a general defense
build-up. China has no intention of going to war with the United States,
but it does seek to impede in time of crisis U.S. military access to
the South China Sea and the rest of maritime Asia. From my travels I
have seen that this has led to the use of the term "Finlandization"
throughout Southeast Asia, whereby China, through the combination of its
economic and military power, will undermine the sovereignty of
countries such as Vietnam, Malaysia, the Philippines and Singapore, all
of which are de facto or de jure U.S. allies.
The
country that is the biggest target for China is Vietnam, whose seaboard
forms the western edge of the South China Sea and whose economically
dynamic population of 87 million makes it a future maritime Turkey, a
midlevel power in its own right. If China can "Finlandize" Vietnam,
Beijing will in practical terms capture the South China Sea. This
explains Washington's increasing military and interest in Hanoi. Whereas
Vietnam and other littoral countries claim parts of the South China
Sea, China cites a "historic" nine-dashed line that encompasses almost
the entire sea itself.
Governmental
and policy elites in Beijing recognize the need to compromise on the
"cow's tongue," as the nine-dashed line is called, but nationalistic
elements in China won't let them, at least not yet. The Chinese are
simply unable to psychologically divorce their claims on the nearby
South China Sea from the territorial depredations directed against China
by the West in the 19th and early 20th centuries. To Chinese officials, the South China Sea represents blue national soil.
Of
course, American diplomacy has been active on these matters for years,
but U.S. diplomats would lack credibility if they were not backed by a
robust military presence in the future. This is what the pivot is all
about: The United States does not intend to desert maritime Asia in its
hour of need. As one high-ranking diplomat of a South China Sea country
told me, if the United States were to withdraw an aircraft carrier
strike group from the region it would be a "game-changer," ushering the
region toward Finlandization.
Additionally,
China is helping to build state-of-the-art port facilities all along
the Indian Ocean, on the other side of the Malacca Strait from the South
China Sea, in Myanmar, Sri Lanka, Bangladesh, Pakistan and Kenya. These
projects all have specific commercial motives promoted by individual
Chinese companies, and in some cases, such as Gwadar in Pakistan, are in
the middle of politically unstable areas, making their use problematic.
But this is how most empires begin -- as speculative-commercial and
policing ventures. The Venetian empire in the Mediterranean began as an
attempt to suppress piracy along the Adriatic coast, something Chinese
warships are doing near the Horn of Africa. Then there were the purely
commercial ventures of the British and Dutch East India companies in
their early days, which led to full-fledged imperial domains.
A
profound socio-economic crisis in China itself -- something that by no
means can be ruled out -- might have the effect of slowing this
quasi-imperial rise. But that hasn't happened quite yet, and in the
meantime, the United States is forced to react to China's growing
military and commercial capabilities.
But
the change in U.S. policy focus is not literally about containing
China. "Containment" is a word of Cold War vintage related to holding
ground against the Soviet Union, a country with which the United States
had a one-dimensional, hostile relationship. The tens of thousands of
American students and corporate executives in Beijing attest to the
rich, multi-dimensional relationship the United States enjoys with
China. China is so much freer than the former Soviet Union that to
glibly state that China is "not a democracy" is to miss the point of
China's rise entirely.
China
is an altogether dynamic society that is naturally expanding its
military and economic reach in the Indo-Pacific region much as the
United States expanded in the Atlantic and Greater Caribbean following
the Civil War. But the rise of any new great power needs to be managed,
especially as it is accompanied by the rise of Indian, Vietnamese,
Malaysian, Singaporean and Australian sea power, even as Japan and South
Korea modernize their sea and air fleets with the latest combat
systems. Make no mistake, the Indo-Pacific is in the midst of an arms
race that complicates the security of the region's sea lanes.
Were
the United States not now to turn to the Indo-Pacific, it would risk a
multipolar military order arising up alongside an already existent
multipolar economic and political order. Multipolar military systems are
more unstable than unipolar and bipolar ones because there are more
points of interactions and thus more opportunities for miscalculations,
as each country seeks to readjust the balance of power in its own favor.
U.S. military power in the Indo-Pacific is needed not only to manage
the peaceful rise of China but also to stabilize a region witnessing the
growth of indigenous civil-military post-industrial complexes.
If
American power was diminished, China, India and other powers would be
far more aggressive toward each other than they are now, for they all
benefit from the secure sea lines of communication provided by the U. S.
Navy and Air Force.
Clinton's
diplomatic overture to Myanmar and President Barack Obama's plan to
rotate 2,500 Marines through Australia are symbolic of the political and
military effort to distribute U.S. power throughout the Indo-Pacific.
Myanmar could simply continue as a satellite of Beijing were Clinton not
to do as she has. Australia, a country of only 23 million inhabitants,
will spend $279 billion over the next two decades on submarines, fighter
jets and other hardware. This is not militarism, but the reasonable
response of a nation at the confluence of the Indian and Pacific oceans
in order to account for its own defense in the face of rapidly changing
power dynamics. Australia might even become the premier alliance partner
for the United States in the Anglosphere in the 21st century, much as
Britain, whose defense budget is plummeting, was in the 20th century.
The
pivot is as yet an aspiration, not a declaration, since it assumes that
events in the Middle East will permit U.S. officials the luxury of
shifting assets elsewhere. But events in the Middle East never permit as
such. Still, if the United States can at least avoid further land
engagements in the Middle East, expect the pivot to set the tone for
America's Asia policy for years to come, much as President Richard
Nixon's trip to China did for Asia policy in decades past.
-Biển Đông - ASEAN: Asian Bloc Seeks Unity Over Sea Disputes (WSJ 3-4-12) Tàu hí hửng: ASEAN split by sea code (Global Times 5-4-12)-VN - Campuchia vẫn vướng mắc biên giới
Thủy quân lục chiến Mỹ đến Darwin --
--Tập đoàn ConocoPhillips chấp nhận bồi thường cho ngư dân Trung Quốc
VN có thể đề cập Biển Đông tại Asean
- Chuyên gia TQ cảnh cáo dầu khí Ấn Độ – (BBC). - - Exploring South China sea could mean trouble for India: Expert(Hindustan Times). - Keep off South China Sea, India warned (Times of India). - South China Sea projects ‘risky for India’ (Hindu).--- Yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông và các luận điểm pháp lý (Tia sáng).- Giải quyết tranh chấp Biển Đông quan trọng nhất DOC (Nguyễn Phú Trọng).
- Tặng bằng khen gia tộc gìn giữ tài liệu về chủ quyền (TTXVN). - Tặng bằng khen cho tộc gìn giữ tư liệu về Hoàng Sa(VNN). - Bộ Ngoại giao trao Bằng khen tặng gia tộc họ Đặng ở Lý Sơn (Tin tức).- Ảnh độc tên lửa bảo vệ toàn bộ biển đảo Việt Nam (PN Today).- Hồn treo cột buồm: Mộ gió chờ chồng (NNVN).- Sự sáng tạo biến hóa vũ khí hiện đại của Việt Nam (PN Today).- Đại lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ ở Điên Biên (TTXVN).
Hải Phòng: Tàn phá ruộng lúa nông dân, chủ đầu tư bị đình chỉ
-- Việt Nam và bài toán tương tác Nước – Đất – Đê (phần một) (tamnhin).- Hải Dương: Chính quyền làm sai – người dân khốn cùng (DV).- Cần có cơ chế cho “đất vàng” (VOV). - Hà Nội: Thanh tra 30 dự án đất để hoang (TP/VTV). - Phát hiện nhiều sai phạm về giá đất (DT).
-Hải Phòng: Tàn phá ruộng lúa nông dân, chủ đầu tư bị đình chỉ
(Dân trí) - Chưa có quyết định bàn giao đất để thực hiện dự án, chủ
đầu tư là Công ty TNHH Union Success đã đưa máy móc, xe ủi cùng đất đá
đến san phẳng đất ruộng hoa màu của nhiều nông dân thôn Xanh Soi, xã
Thuỷ Đường, huyện Thuỷ Nguyên, TP Hải Phòng.
Phản ảnh với PV Dân trí, ông Nguyễn Văn Tích - Phó trưởng thôn Xanh Soi
cùng hàng chục hộ gia đình nông dân trồng lúa, hoa màu tại xã Thuỷ Đường
(Thuỷ Nguyên - Hải Phòng) bức xúc: “Liên tiếp những ngày gần đây Công
ty TNHH Union Success là chủ đầu tư dự án xây dựng Trung tâm thương mại
văn phòng, chung cư, biệt thự cao cấp bán và cho thuê khách sạn 5 sao và
khu ẩm thực chợ đêm tại 2 xã Thuỷ Đường và Hoà Bình cho người cùng máy
móc ngang nhiên tiến hành việc san lấp ruộng lúa, hoa màu của nhiều hộ
dân trên địa bàn khi chưa được phép của UBND huyện Thuỷ Nguyên.
Những người nông dân thôn Xanh Soi, xã Thuỷ Đường - Thuỷ Nguyên - TP Hải Phòng lo lắng khi cánh đồng lúa màu mỡ bị tàn phá.
Đặc
biệt, việc công ty này ngang nhiên dùng đất đá san lấp cả “bờ xôi ruộng
mật” của hàng chục thế hệ bà con nông dân diễn ra giữa ban ngày mà
không hề bị cản trở trong khi chư có thủ tục bàn giao đất của các cơ
quan chức năng chức năng TP Hải Phòng”.
Theo phản ảnh của người dân, việc làm ngang nhiên của Công ty TNHH Union
Success được sự hậu thuẫn của một số cán bộ có “sao số” công tác tại
UBND huyện Thuỷ Nguyên. Chỉ trong 3 ngày cuối tháng 3, đã có trên 2.000
m2 đất ruộng của nông dân bị đất đá của đơn vị san lấp "đè chết" một
cách không thương tiếc.
Ông Nguyễn Văn Duyên - một nông dân làm nông nghiệp sinh sống nhiều đời
tại xã Thuỷ Đường vừa chỉ tay vào đám ruộng bị đất đá của chủ đầu tư đè
chết - than vãn với chúng tôi: “ Đất ruộng tại thôn Xanh Soi có từ hàng
trăm năm nay được hàng chục thế hệ con cháu trong gia đình kế thừa sản
xuất, thế mà chủ đầu tư lại ngang nhiên huy động máy xúc, xe ủi san lấp
bờ ruộng. Họ còn bắt nông dân chúng tôi phải nhổ lúa, hoa màu để họ san
lấp, việc làm ngang nhiên thế khiến nhiều gia đình trong thôn chúng tôi
mất trắng mùa canh tác. Đau xót nhất là nhiều cây lúa và hoa màu đang
“thời con gái” bị ép khiến phải… “tắc tử” và hỏng nát mất bao nhiêu là
công sức, tiền của người dân.
Chưa
có quyết định bàn giao đất để thực hiện dự án nhưng chủ đầu tư là Công
ty TNHH Union Success đã đưa máy móc đến san phẳng hàng ngàn m2 đất
ruộng của người dân.
Ông
Nguyễn Văn Tích - đại diện cho nông dân thôn Xanh Soi cho biết, từ năm
2008, chính quyền địa phương đã tiến hành thủ tục thu hồi 30 ha diện
tích đất nông nghiệp canh tác 2 vụ lúa/năm của bà con trong xã để phục
vụ cho dự án kinh doanh bất động sản và cho thuê văn phòng của chủ đầu
tư.
Tuy
nhiên, nhiều hộ dân trong thôn đã không đồng ý với chủ trương lấy đất
để phục vụ vào lợi ích của doanh nghiệp. Hàng chục hộ nông dân đã khiếu
nại lên UBND huyện Thuỷ Nguyên và cơ quan chức năng xem xét lại việc thu
hồi đất ruộng canh tác nhiều đời của người dân, hơn nữa là việc bố trí
công ăn việc làm cho người nông dân sau khi mất ruộng chưa được địa
phương sắp xếp ổn thoả.
Trong
khi cơ quan chức năng đang tiến hành các thủ tục để giải quyết hiếu nại
của người dân thì chủ đầu tư là Công ty TNHH Union Success đã tự ý thực
hiện việc làm trái pháp luật nghiêm trọng khi đưa máy móc và đất đá đến
san lấp đè lên hàng ngàn m2 đất ruộng tại xã Thuý Đường mà chưa hề có
một giấy tờ hay văn bản bàn giao đất để thực hiện dự án của cơ quan chức
năng có thẩm quyền TP Hải Phòng.
Ông Nguyễn Trần Lanh - Chủ tịch UBND huyện Thủy Nguyên trong buổi làm việc với PV Dân trí.
Bất
bình trước sự việc, nhiều người dân xã Thủy Đường đã kêu cứu lên UBND
huyện Thuỷ Nguyên, ngay sau khi tiếp nhận kiến nghị của người dân Chủ
tịch UBND huyện Thuỷ Nguyên Nguyễn Trần Lanh đã trực tiếp chỉ đạo các
đơn vị chức năng kiểm tra sự việc, đồng thời yêu cầu Phòng Tài nguyên và
Môi trường cùng Chủ tịch UBND xã Thuỷ Đường tiến hành lập biên bản đình
chỉ ngay việc san lấp đất ruộng một cách “vô tội vạ” của chủ đầu tư.
Ông
Lanh cho biết: “Qua kiểm tra đã phát hiện phía Công ty TNHH Union
Success có chủ đầu tư là người nước ngoài đã tự ý tiến hành san lấp mặt
bằng phần diện tích 1,5 ha tại xã Hoà Bình và khoảng hơn 2.000 m2 đất
ruộng tại xã Thuỷ Đường của 5 hộ dân đang canh tác lúa mà chưa có thủ
tục bàn giao đất cũng như được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
là trái với quy định của pháp luật”.
Biên
bản làm việc giữa UBND huyện Thủy Nguyên với Công ty TNHH Union Success
liên quan đến việc san lấp đất ruộng của người dân khi chưa có quyết
định bàn giao.
Theo
đó, UBND huyện đã lập tức đình chỉ ngay các hoạt động san lấp ruộng của
chủ đầu tư, đồng thời yêu cầu chủ đầu tư giải phóng hiện trường để trả
lại nguyên trạng ban đầu các thuở ruộng để cơ quan chức năng tiến hành
làm rõ hành vi sai phạm của chủ đầu tư.
Ông
Lanh cũng cho biết thêm, dự án này được UBND TP. Hải Phòng phê duyệt
chủ trương đồng ý cho Công ty TNHH Union Success làm chủ đầu tư từ năm
2008. UBND huyện chỉ thực hiện công đoạn giải phóng mặt bằng dù trong
quá trình tiếp nhận khiếu nại của người dân, UBND huyện đã trình các
phương án xin giải quyết lên Thành phố phê duyệt theo nguyện vọng của
dân nhưng đến nay vẫn chưa được thành phố chấp thuận.
Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin diễn biến sự việc.
Bài, ảnh: Anh Thế - Quốc Cường
Sông Tranh 2: Nhà chức trách phát ngôn phi kỹ thuật?
Bản đồ trường từ toàn phần T vùng Trà My - Quảng Nam do Hải quân Mỹ thành lập (1964 – 1968).
|
Động đất ở vùng đập Sông Tranh 2 có thể đến cấp mấy?
Theo
công bố của các cơ quan liên quan thì động đất xảy ra hồi cuối năm
ngoái ở cấp 3 và đo được tại Huế, cách xa Trà My khoảng 100km. Theo bảng
phân chia cấp động đất quốc tế MSK, động đất cấp 3 là động đất yếu; ít
người nhận biết được vì chấn động chỉ như được tạo ra bởi một ôtô vận
tải nhẹ chạy qua. Còn động đất cỡ cấp 6 thì đa số người cảm thấy động
đất, nhà cửa bị rung nhẹ, lớp vữa bị rạn. Cấp 7 thì hư hại nhà cửa, đa
số người sợ hãi, nhiều người khó đứng vững, nứt lớp vữa, tường bị rạn
nứt.
Cư
dân xã Trà Đốc nằm sát phía bắc đập Sông Tranh 2 mô tả: “Chúng tôi đang
xem tivi thì bỗng tivi tắt cái bụp, nghe tiếng nổ lớn, mặt đất phập
phồng, nhún nhảy, bàn ghế rung rinh, giường tủ chao đảo chực ngã, nhất
là nồi xoong bát đũa cũng nảy lên, rớt xuống kêu loảng xoảng. Chủ tịch
UBND xã Trà Đốc, ông Hồ Văn Lợi, cho biết: “Đã có mười ngôi nhà dân bị
nứt tường do trận động đất tối 27.11.2011...”. Dựa vào mô tả này, có thể
đoán động đất xảy ra đêm 27.11.2011 tại vùng đập Trà My 2 xếp ở giữa
cấp 6 và 7. Trận động đất này đã tạo ra một hố sụt lớn ở vai phía đông
bắc đập Sông Tranh 2 và nhiều hiện tượng nứt tường khác.
Trong
khi đó, ngày 21.3.2012, tại vùng đập Sông Tranh 2, giám đốc ban quản lý
dự án thuỷ điện 3 – ông Trần Văn Hải một lần nữa nhắc lại luận chứng cơ
sở khoa học đã được cơ quan chuyên môn kiểm chứng, là công trình bờ đập
được tính toán đủ chịu đựng động đất cấp 7 (5,9 độ Richter), các đợt
động đất kích thích vừa qua không đủ mạnh để ảnh hưởng đến bờ đập!
So
sánh thực tế động đất ngày 27.11.2011 với lời nói trên thì thấy trận
động đất ấy mạnh xấp xỉ với tính toán thiết kế của đập. Và nếu khi xây
dựng đập người ta thực hiện “thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ” nữa thì đập
không bị nứt mới là chuyện lạ!
Nguồn gốc động đất vùng đập Sông Tranh 2
Giải
thích của một số lãnh đạo cơ quan hữu trách rằng nguồn gốc gây ra động
đất và tiếng nổ ở vùng đập Sông Tranh 2 (huyện Bắc Trà My – Quảng Nam)
là động đất kích thích (do hồ thuỷ điện Sông Tranh 2 tích nước, nước
ngấm xuống sâu vào các đứt gãy và kích thích gây động đất). Giải thích
này không ổn. Cột nước cao 100m của hồ chỉ gây được áp lực 10kg/cm2,
hơn nữa, trong thung lũng Sông Tranh các đứt gãy, hang hốc luôn no
nước, làm sao mà nước hồ có thể ngấm xuống sâu hàng trăm mét để kích
thích gây ra động đất với chấn tâm tới 3 – 5km?
Nằm
bên tuyến đường ĐT 616, một vết sạt lở gần bờ đập thuỷ điện Sông Tranh 2
lộ ra quặng sắt dạng laterit, dăm, cuội, dung nham núi lửa bị phong hoá
tại chỗ.
|
Chúng
tôi có thể khẳng định động đất kèm tiếng nổ ở vùng Sông Tranh 2 là do
sự hoạt động của các núi lửa ngầm (phun nghẹn) liên quan với sự tái hoạt
động của khối xâm nhập nông á núi lửa trẻ thành phần bazơ trong lòng
đất Trà My. Tại giao điểm của 3 – 4 đứt gãy trong khu vực, các tia dung
nham của các họng núi lửa ngầm dâng lên cao, gặp nước ngầm trong các
hang, hốc, đới dập vỡ chứa nước sẽ phát ra tiếng nổ lớn kèm chấn động
mạnh, giống hiện tượng chúng ta đổ gang nóng chảy xuống nước. Kiểu động
đất kèm tiếng nổ này năm vừa qua ở Việt Nam đã gặp ở Cao Bằng, Thanh
Hoá, Nghệ An, mặc dù những nơi đó không có đập thuỷ điện, nên cũng không
có sự tích nước gây động đất kích thích.
Cơ sở khoa học của kết luận trên là các dấu hiệu địa vật lý, địa chất và địa chất thuỷ văn như sau:
• Dấu hiệu địa vật lý: Trong
những năm 1960 của thế kỷ trước, Hải quân Mỹ đã bay, đo trường từ toàn
phần T của toàn miền Nam tỷ lệ 1/1.000.000. Dị thường từ Trà My được
phát hiện với cường độ rất mạnh và diện tích phủ gần hết huyện Trà My
cũ. Giữa những năm 1980, liên đoàn Vật lý địa chất thuộc tổng cục Địa
chất đã bay đo địa vật lý hàng không tỷ lệ 1/200.000 toàn miền Nam và
1/50.000 ở các vùng có dị thường, trong đó có vùng Trà My bằng các
phương pháp xạ và từ hàng không. Năm 1987, chúng tôi, khi đó là chủ
phương án thuộc liên đoàn Vật lý – địa chất đã tiến hành kiểm tra mặt
đất nhằm giải thích địa chất các dị thường địa vật lý hàng không vùng
Xuân Lãnh (tỉnh Phú Yên), Sông Tranh và Quế Sơn (tỉnh Quảng Nam). Kết
quả kiểm tra mặt đất dị thường địa vật lý vùng Sông Tranh đã cho kết
luận là: dị thường địa vật lý vùng Sông Tranh là do khối xâm nhập nông á
núi lửa trẻ thành phần bazơ – kiềm chứa quặng nhiều thành phần, trong
đó có vàng, gây nên.
• Dấu hiệu nham thạch:
Tại vai đập chính hồ thuỷ điện Sông Tranh 2, nơi tiếp giáp với đường ĐT
616 có một hố sâu gần 2m, kéo dài khoảng 20m chạy dọc theo đường ĐT 616
cho đến bờ đập. Mực nước hồ thuỷ điện Sông Tranh 2 mấp mé gần hố sâu,
trong khi phía bên kia là vực thẳm khoảng 80m. 730 triệu m³ nước hồ thuỷ
điện Sông Tranh 2 cách vực thẳm chỉ vài mét đường ĐT 616 loang lổ. Chưa
hết, cách bờ đập khoảng 50m về hướng đông, một vết lở khoét sâu từ
đường ĐT 616 kéo dài hàng trăm mét vào lòng núi. Theo người dân bản địa,
sạt lở taluy dương ở miền núi là bình thường nhưng hiện tượng đất bị
khoét sâu kéo dài vào lòng núi như điểm này rất hiếm.
Sự
xuất hiện của những vụ sụt lở đất trùng khớp vào thời điểm xảy ra rung
chấn địa chất, khiến người dân lo sợ động đất lớn sẽ xảy ra tại đây.
Vai đập hồ thuỷ điện Sông Tranh 2 xuất hiện nhiều điểm sụt lở.
|
Với
hàng trăm lỗ khoan thăm dò và nhiều công tác địa chất, địa vật lý trên
nhiều vùng của Việt Nam có loại nham thạch tương tự, chúng tôi xác định
đây là nham thạch họng núi lửa bị phong hoá tại chỗ thành laterit (ở
trên mặt), sét – kaolin chứa dăm, cuội, sỏi cát nhiều thành phần và
quặng đa khoáng.
Loại
nham thạch này chỉ xuất hiện nơi giao điểm của bốn đứt gãy đã có hoạt
động núi lửa phun trào hoặc phun nghẹn rồi bị bào mòn, phong hoá tại
chỗ. Có thể kiểm tra điều này bằng cách đãi các mẫu đất đá màu nâu đỏ lộ
ra tại hố sụt sẽ thấy nhiều mảnh dăm, cuội bị bọc oxít sắt, quặng sắt
(manhetit, limonit), các hạt quặng sulfua đa kim (như pyrit,
chancopyrit, chì), các khoáng vật nặng như titan, monazite, zircon…
• Dấu hiệu địa chất thuỷ văn: Theo
người dân ở làng Trà Đốc và làng Nước Ka, khu vực khe Nước Vin trước
đây nguyên thuỷ là một khe nước nóng. Nước sôi ùng ục có thể nhúng gà
vào để nhổ lông, con tôm nhúng vào đây có thể chín đỏ để ăn được. Khi
thuỷ điện tích nước, con suối nước nóng này vĩnh viễn chìm dưới đáy của
lòng hồ thuỷ điện.
Dễ
dàng công nhận rằng núi lửa là nguồn cung cấp nhiệt cho các suối nước
nóng. Các núi lửa này có thể đã phun trào lên mặt đất trong quá khứ chưa
lâu (nên vẫn còn rất nóng), hoặc còn đang là núi lửa phun nghẹn dưới
sâu trong lòng đất vùng Sông Tranh đang cung cấp hơi nóng và nước nóng
cho khe Nước Vin.
Từ
những dấu hiệu địa vật lý, địa chất, địa chất thuỷ văn nêu trên, có thể
kết luận: dưới lòng đất vùng đập Sông Tranh 2 – huyện Trà My (khoảng
chục kilômét) có một khối macma nóng chảy kiểu xâm nhập nông á núi lửa
đang còn hoạt động. Quá trình quay cùng trái đất, khi tích đủ năng
lượng, lực ly tâm mạnh hơn lực hướng tâm sẽ gây ra động đất, tái hoạt
động đứt gãy và hoạt động núi lửa, chủ yếu dưới dạng phun nghẹn. Những
hoạt động này đã và sẽ ảnh hưởng đến đập Sông Tranh 2. Cần khẩn trương
có trạm đo động đất ở đập Sông Tranh 2.
LÊ HUY Y,
LIÊN HIỆP KHOA HỌC ĐỊA CHẤT VÀ DU LỊCH, TỔNG HỘI ĐỊA CHẤT VIỆT NAM
(ẢNH TRONG BÀI DO TÁC GIẢ CUNG CẤP)
Đứt gãy và động đất đã tác động làm phát sinh các khe nứt và mở rộng khe nhiệt
Theo
chúng tôi, vùng đập Sông Tranh 2 có thể tìm ra rất nhiều đứt gãy. Nếu
không có đứt gãy thì cũng không có sông, suối và thung lũng để làm hồ
chứa nước cho thuỷ điện, nên có lẽ không có đập nước nào mà không đè lên
một số đứt gãy kiến tạo. Nhưng sai lầm đáng tiếc nhất của dự án đập
Sông Tranh 2 là đã đặt đập vào vị trí rất nguy hiểm, đó là nơi giao điểm
của nhiều đứt gãy và các họng núi lửa đã phun lên trong quá khứ đang
tái hoạt động (chúng tôi còn thấy không ít hơn hai đập thuỷ điện cũng
nằm gối đầu lên nham thạch họng núi lửa cổ). Bởi tại các vị trí này khi
lòng đất có sự cựa quậy thì các giao điểm đứt gãy và các họng núi lửa có
động đất mạnh nhất. Từ khi tái hoạt động đến nay, khối xâm nhập nông á
núi lửa thành phần bazơ – kiềm Trà My nêu trên đã sinh ra đứt gãy, động
đất liên miên và núi lửa ngầm gây tiếng nổ. Đồng thời đã tác động vào
thân đập làm om bêtông dẫn tới phát sinh các khe nứt, mở rộng các khe
nhiệt làm cho nước từ thượng lưu đập theo đó chảy xuống hạ lưu.
Nếu
giả thiết nêu trên là đúng thì sự vá víu đập là không có tác dụng. Nước
sẽ vẫn chảy ngày một mạnh thêm, thân đập sẽ còn chịu tác động rung chấn
(ứng suất cắt, ứng suất mỏi, v.v.) và đến một lúc nào đó có hoạt động
kiến tạo mạnh bằng hoặc hơn cuối năm ngoái thì dù đập có xây dựng chịu
đựng được động đất lớn hơn cấp 7 cũng không đứng được.
Xây thêm đập “bảo hộ” cho đập Sông Tranh 2 ở hạ lưu
Để
đảm bảo an toàn cho nhiều vạn cư dân vùng hạ lưu đập, theo chúng tôi,
dù có tốn kém thêm nhiều tiền của vẫn nên đắp khẩn cấp thêm một đập mới ở
phía hạ lưu. Đập này cách đập Sông Tranh 2 một khoảng cách đủ lớn (1 –
5km) để nếu khi đập Sông Tranh 2 bị vỡ vì động đất thì đập mới sẽ giữ
nước, giúp giảm thiệt hại về người và của cho nhiều vùng dưới hạ lưu.
Đập mới này phải đặt ở vị trí không có giao điểm các đứt gãy và họng núi
lửa cổ (liên hiệp Khoa học địa chất và du lịch thuộc tổng hội Địa chất
Việt Nam có thể giúp được việc này), xây dựng đập phải kiên cố, chịu
được động đất cấp 8 đến cấp 9. Ngoài ra, trong thời điểm hiện tại không
được tích nước vào hồ thuỷ điện Sông Tranh 2 mà phải khẩn cấp xả hết
nước hồ để kiểm tra, sửa chữa đồng thời chú ý đề phòng vỡ đập.
|
Zing News
“Cần
rà soát lại toàn bộ các dự án thủy điện đang xây dựng tại Việt Nam!”,
Chủ tịch Hiệp hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam (VNcold),
ông Phạm Hồng Giang thẳng thắn. Đã có nhiều phương án được đưa ra để
khắc phục sự cố nứt đập thủy điện Sông ...
- Đập thủy điện Sông Tranh 2: Nước vẫn tuôn chảy (TP). - - VỤ THỦY ĐIỆN SÔNG TRANH 2: “Chưa xử lý xong thì không cho tích nước” (NLĐ). - Sau một tuần vẫn chưa khắc phục sự cố (TN). - Từ một vụ nứt đập thủy điện - (NV). - Lo lũ về sớm gây thảm họa (NLĐ). - KS Lê Quốc Trinh: Vỡ đập thuỷ điện Sông Tranh 2: nguy cơ rình rập? (boxitvn). - SỰ CỐ ĐẬP THỦY ĐIỆN SÔNG TRANH 2 – QUẢNG NAM: Phải quy rõ trách nhiệm (NLĐ). – Bình thường và bất bình thường (NB&CL). - - Kỳ lạ, hiện tượng nứt đập thủy điện sông Tranh 2 (VNN). - Vụ rò rỉ nước đập thủy điện Sông Tranh 2 – Nước vẫn chảy xối xả (SGGP). - Vụ thủy điện sông Tranh 2 gặp sự cố: Nhiều công trình liên quan cũng kém chất lượng (TN). -
-EVN: Đập Sông Tranh chưa bị nứt trong bê tông- EVN lý giải lỗi thuỷ điện Sông Tranh (VnMedia). Nước vẫn tuôn xối xả giữa lòng đập Thủy điện Sông Tranh 2 (CAND 25-3-12)- Bình luận kèm hình ảnh bên trong đuờng hầm đập thủy điện sông Tranh 2: Bình Luận của TS Tô Văn Trường — (Người lót gạch). - Hiện tượng thấm ở đập thủy điện Sông Tranh xuất hiện từ tháng 2 (DT). - EVN nhận lỗi về sự cố thủy điện Sông Tranh 2 (TP).
- Lập phương án cứu hộ, cứu nạn thủy điện Sông Tranh 2 (TP). - Sự cố rò rỉ nước tại thủy điện Sông Tranh 2: EVN cam kết xử lý xong trước mùa lũ 2012 (TN). - EVN vẫn khẳng định thủy điện Sông Tranh 2 “an toàn” (SGTT). - EVN khẳng định thấm nước ở Sông Tranh 2 giảm (TTXVN). - Đập thuỷ điện Sông Tranh 2: Lại lo “suối” trong thân đập (LĐ). - Rò rỉ từ đập thuỷ điện Sông Tranh 2: Chính quyền phân vân, dân sống trong sợ hãi (SGTT). - Tiến sĩ Tô Văn Trường: Đừng phán chung chung để trấn an dân (TT).
- Khoan, trám vết rò có thể tăng nguy hiểm cho đập (TP). -Nước tuôn như suối trong lòng đập Tuổi Trẻ
Chiều
23-3, trao đổi với Tuổi Trẻ sau cuộc họp của Hội đồng nghiệm thu nhà
nước các công trình xây dựng với Bộ Công thương và Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN), TS Bùi Trung Dung - phó cục trưởng Cục Giám định nhà
nước về chất lượng công trình xây dựng ...Vỡ đập thì sao?Tiền Phong Online
Xử lý sự cố đập Sông Tranh 2 trước mùa lũNgười Lao Động - ‘Chưa xử lý xong rò đập thủy điện thì không cho tích nước’ (VNE). - Thủy điện Sông Tranh 2 rò nước không phải do động đất (PLVN). - -Chủ đầu tư đập thủy điện Sông Tranh 2 phải chịu trách nhiệm tp-
TP - TS. Bùi Trung Dung - Phó Cục trưởng Cục Giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng (Bộ Xây dựng) cho rằng chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm trước xã hội về sự cố rò rỉ đập sông Tranh. (Ai vậy ?? EVN)
Nếu ngành nào cũng lấy tăng thu làm mục tiêu…
- -Theo:-
- Muốn thu phí, phải nói lọt tai (TT). - Không thể nói nộp phí là yêu nước (TT). - “Cấm xe, thu phí không gỡ được tắc đường” (VnMedia). - Bộ GTVT chốt các mức phí bảo trì đường bộ(DT). - Tăng phí giao thông – lợi bất cập hại (ĐV).- Bộ GTVT nhầm lẫn khái niệm “thuế” và “phí”! (Tầm nhìn). - Xe máy sẽ đóng phí bảo trì tối đa 180.000 đồng mỗi năm(VNE). - Ôtô chịu phí sử dụng đường bộ tối đa 16,76 triệu đồng/năm (VnEconomy). - Khi tranh luận “phí chồng phí” trở thành… cãi vã (TVN). - Nhờ xe máy, đi lại nội đô Hà Nội dễ dàng (VnMedia).
-
Nếu ngành nào cũng lấy tăng thu làm mục tiêu…
Tại cuộc họp báo trưa 1-4, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng đã chính thức
xác nhận rằng phí hạn chế các phương tiện cá nhân mà Bộ đề xuất còn có
thêm mục đích là tăng nguồn thu chứ không phải chỉ nhằm giảm ùn tắc như
công bố ban đầu.
Như vậy, với khoảng 600.000 xe hơi thuộc diện thu phí sẽ đem lại nguồn
thu khoảng 12.000 đến 15.000 tỉ đồng, một khoản tiền rất lớn nếu so với
kế hoạch thu của Quỹ Bảo trì đường bộ.
Trong khi đó theo kế hoạch, Quỹ Bảo trì đường bộ sẽ được áp dụng ngay và
với gần 2 triệu xe ô tô phải đóng với mức 2,16-27,28 triệu đồng/năm,
tính tương đối khoảng 10 triệu đồng/xe thì số thu của ô tô vào quỹ này
cũng lên tới khoảng 20.000 tỉ đồng, đáp ứng tới 80% nhu cầu của ngành!
Đáng nói, Quỹ Bảo trì đường bộ là tên gọi của một điều luật đưa vào Luật
Giao thông đường bộ sửa đổi cách đây bốn năm, trong đó chỉ nêu vẻn vẹn
vài dòng và giao cho Chính phủ quy định nên Quốc hội đã ấn nút thông
qua. Một số đại biểu khi đó cứ đinh ninh rằng quỹ sẽ có nguồn từ ngân
sách, có nguồn từ việc đóng góp của doanh nghiệp vận tải, xây dựng công
trình giao thông hoặc từ nguồn tài trợ nên khi Bộ GTVT công bố thu từ…
dân thì họ hết sức bất ngờ, song “luật”… đã rồi! Quá trình đưa quỹ này
vào hoạt động sau này do vấp phải sự phản ứng gay gắt, Chính phủ đã phải
bàn bạc rất kỹ càng, cuối cùng phải ra nghị định mới có đủ cơ sở để
thu.
Do đó dễ hiểu vì sao loại phí mới - phí hạn chế phương tiện cá nhân -
lại bị dư luận phản đối rầm rộ như thế, nhất là khi những mức thu dự
kiến được Bộ GTVT đưa ra dường như không dựa trên bất cứ cơ sở khoa học
nào.
Nay với trả lời của bộ trưởng GTVT đã lộ thêm mục tiêu thứ hai (và chủ
chốt?) của phí này là tăng nguồn thu cho ngành, khả năng đạt được sự
đồng thuận của Chính phủ và nhất là Quốc hội dự kiến sẽ càng khó khăn
hơn. Bởi các cơ quan này có quyết định việc gì cũng phải căn cứ vào tính
thuyết phục của đề án, căn cứ vào nhiệm vụ, thẩm quyền của mình, nhất
là phải căn cứ vào sự đồng thuận của đông đảo người dân.
Vì thế, việc (muốn) tận thu nhờ vào quyền lực như trên có thể tạo nên
tiền lệ rất xấu, bởi nếu GTVT làm được thì các bộ, ngành khác đang cung
cấp dịch vụ công cơ bản cho người dân cũng có thể làm theo.
Thế thì còn đâu “của dân, do dân và vì dân” nữa?!
- Hôm nay ông Thăng lại bổng nghĩ đến chuyện gì? Bộ Giao thông đề nghị Hà Nội, TP HCM nghiên cứu tàu một ray (VnEx 4-4-12) -- Đầu óc ông Đinh La Thăng rất bận rộn.
'Ép dân không phải là cách phục vụ dân' (VnEx 3-4-12) -- Ông Nguyễn Minh Thuyết nói về ông Đinh La Thăng
- Lại xôn xao vì phí ô tô (VNN). – Thu phí phương tiện là cơ hội cho Hà Nội? (VNN). – Đóng phí, đi đường sẽ an toàn hơn? (TT).. - Bộ GTVT: Chưa thu phí phương tiện cá nhân (VTV).- Dân chúng đâu phải trẻ con (DV). - Khóc thầm vì chưa được đóng phí giao thông!(PhunuToday). - Chỉ thu phí ai sử dụng hạ tầng nhiều (báo Công Thương).
Trung tá công an phường phủ nhận vụt dùi cui vào đầu dân
Mafiovi: .Hãy tin ta đi: chỉ nhìn cái cổ áo đó, đã thấy ta đúng: Âu-Lạc đã không tiến hóa suốt ngàn năm và không thể tiến hóa.
-
- Người tố bị công an cho ‘ăn’ dùi cui có thể bị xử lý (đv).-Thượng
tá Trần Văn Tỉnh, Trưởng Công an quận Hoàng Mai, Hà Nội cho biết ông
Bắc - người tố bị trung tá công an đánh - có thể bị xử phạt hành chính
về hành vi không đội mũ bảo hiểm.
-Ngày
5/4, Thượng tá Trần Văn Tỉnh, Trưởng Công an quận Hoàng Mai cho biết
đang cùng Công an phường Lĩnh Nam để điều tra, làm rõ vụ việc. Vị này
cho biết: theo tường trình của Trung tá Trần Bảo Lâm, thấy ông Bắc đến
chốt chặn của Công an tại khu vực giao nhau với ngõ 527 trên đường Lĩnh
Nam, lực lượng công an phường đã tuýt còi, ra hiệu lệnh dừng xe song ông
Bắc không chấp hành, phóng xe bỏ chạy. Do bị mất lái nên đã đâm vào
biển báo bên đường mới bị thương. “Hôm
qua, chốt chặn này lại sử dụng ô tô tải con nên không hề có chuyện dùng
xe đuổi theo gây tai nạn cho người vi phạm. Kết quả khám thương của ông
Bắc tại Bệnh viện Thanh Nhàn cũng cho thấy, vết thương trên trán của
ông Bắc không phải do dùi cui gây ra. Trên người không có dấu vết tác
động ngoại lực”, Thượng tá Tỉnh nhấn mạnh.
Sơ
bộ kết quả khám thương, ông Bắc bị rách một phần da trên trán có diện
tích khoảng 2 cm, đã được khâu lại. Kết quả khám này trùng với khai báo
của Trung tá Trần Bảo Lâm, vết thương không phải do dùi cui gây nên.
“Quan điểm của công an quận Hoàng Mai là, ai sai phạm, chúng tôi sẽ xử
lý nghiêm. Trường hợp ông Bắc không đội mũ bảo hiểm bỏ chạy, nếu đúng
như vậy, công an phường sẽ xử lý hành chính về hành vi này”, Thượng tá
Trần Văn Tỉnh cho biết.
-
Trung tá công an phường phủ nhận vụt dùi cui vào đầu dân
(NLĐO)- Trong tường trình, Trung tá Trần Bảo Lâm đã phủ nhận việc dùng
dùi cui vụt vào đầu ông Dương Văn Bắc mà cho rằng người đàn ông không
đội mũ bảo hiểm này đã không chấp hành hiệu lệnh dừng xe, bỏ chạy và tự
gây tai nạn cho mình.
Ngày 5-4, trao đổi với phóng viên Báo Người Lao động, Thượng tá Trần Văn
Tỉnh - Trưởng Công an quận Hoàng Mai (Hà Nội) cho biết, hiện cơ quan
này đang kết hợp với công an phường Lĩnh Nam để điều tra, làm rõ vụ việc
xảy ra trên đường Lĩnh Nam ngày 4-4.
Thượng tá Tỉnh cho biết, theo tường trình của Trung tá Trần Bảo Lâm
(công an phương Trần Phú, quận Hoàng Mai) thì khi ông Dương Văn Bắc (SN
1965, trú tại phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai) đi xe máy không đội mũ
bảo hiểm đến chốt chặn của Công an tại khu vực giao nhau với ngõ 527
trên đường Lĩnh Nam, lực lượng công an phường đã tuýt còi, ra hiệu lệnh
dừng xe song ông Bắc không chấp hành, phóng xe bỏ chạy. Do bị mất lái
nên ông Bắc đã đâm vào biển báo bên đường mới bị thương.
Trung tá Trần Bảo Lâm phủ nhận việc dùng dùi cui vụt vào đầu dân
"Hôm qua, chốt chặn này lại sử dụng ô tô tải con nên không hề có chuyện
dùng xe đuổi theo gây tai nạn cho người vi phạm. Kết quả khám thương của
ông Bắc tại Bệnh viện Thanh Nhàn cũng cho thấy vết thương trên trán của
ông Bắc không phải do dùi cui gây ra. Trên người không có dấu vết tác
động ngoại lực”, Thượng tá Tỉnh khẳng định.
Sơ bộ kết quả khám thương, ông Bắc bị rách một phần da trên trán có diện
tích khoảng 2 cm, đã được khâu lại. Kết quả khám này trùng với tường
trình của Trung tá Trần Bảo Lâm, vết thương không phải do dùi cui gây
ra.
"Quan điểm của Công an quận Hoàng Mai là ai sai phạm, chúng tôi sẽ xử lý
nghiêm. Trường hợp ông Bắc không đội mũ bảo hiểm bỏ chạy, nếu đúng như
vậy, công an phường sẽ xử lý hành chính về hành vi này”, Thượng tá Tỉnh
cho biết.
Trước đó, như Báo Người Lao động đã đưa, vụ việc xảy ra vào khoảng 9 giờ
sáng ngày 4-4 tại khu vực đầu ngõ 527 đường Lĩnh Nam(quận Hoàng Mai, Hà
Nội).
Theo tường trình của ông Dương Văn Bắc, trên đường Lĩnh Nam đến đoạn
giao với ngõ 527, do không đội mũ bảo hiểm nên ông Bắc đã bị Trung tá
Trần Bảo Lâm chốt chặn tại khu vực trên vụt dùi cui ngang mắt làm người
đàn ông này bị choáng váng, đâm vào cạnh dưới bên phải biển hiệu “Chùa
Trung Lập” gây rách da, chảy máu, ngã xuống đường.
Vết rách trên trán làm ông Bắc chảy khá nhiều máu
Chứng kiến sự việc trên, nhiều người dân bức xúc cho rằng: “Ông Bắc sai
vì điều khiển xe máy không đội mũ bảo hiểm, nhưng công an chỉ có quyền
bắt người vi phạm chứ không được đánh người ta như thế!”.
Vụ việc hiện vẫn đang tiếp tục được điều tra, làm rõ.
Sai phạm lớn tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: trách nhiệm của ô Đinh La Thăng tới đâu
-
- Ông Đinh La Thăng có trách nhiệm trong sai phạm tại PetroVietnam (NLĐ).- Thủ tướng yêu cấu PVN kiểm điểm các sai phạm (TTXVN). - Nhiều sai phạm lớn tại Tập đoàn Dầu khí VN (ĐV). -Sai phạm hàng chục nghìn tỷ đồng tại tập đoàn Dầu khí (DT).
- Phát hiện 30.720 tỷ đồng sai phạm, thiếu sót kinh tế (TTXVN).
-
-Sai phạm tại PetroVN: Xem xét trách nhiệm người đứng đầu và các bộ
(GDVN)
- Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với các kiến nghị sau thanh tra đối với
những sai phạm xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
(Petrovietnam - PVN).
Sáng
5/4/2012, Thanh tra Chính phủ đã tổ chức họp báo Công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng Quý I năm 2012.
Ông Ngô Văn Khánh - Phó tổng thanh tra Chính phủ - cho biết Thủ tướng
Chính phủ đã đồng ý với các kiến nghị sau thanh tra đối với những sai
phạm xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam -
PVN).
Theo
Thanh tra Chính phủ, việc đầu tư ngoài ngành của PVN vào các lĩnh vực
phụ trợ, tài chính, bảo hiểm, bất động sản, ngân hàng có tỷ suất lợi
nhuận thấp hơn nhiều trong lĩnh vực chính ngành. PVN mua tàu khảo sát
địa chấn 2D đã quá 10 năm so với quy định đăng kiểm nhưng không báo cáo
cơ quan chức năng, rồi tiếp đó lại chuyển nhượng một số tài sản lớn như
tàu thăm dò địa chấn, khách sạn Du lịch Thái Bình…nhưng các thủ tục,
thanh toán còn nhiều sai sót.
Thanh
tra Chính phủ đánh giá, việc để xảy ra những sai phạm nói trên, ngoài
trách nhiệm của PVN thì các Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải và các
tỉnh Cà Mau, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Ban quản lý Dung Quất cũng có một
phần liên quan.
Thanh
tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ ngành thu
hồi khoản tiền trên 1.600 tỉ đồng mà PVN cho các đơn vị bên ngoài ứng
vốn để đầu tư nhưng không có kế hoạch trả nợ hoặc không có khả năng
thanh toán. Đồng thời tập đoàn phải xử lý khoản tiền vi phạm lên tới hơn
18.000 tỉ đồng, trong đó thu hồi vễ quỹ sắp xếp đổi mới doanh nghiệp
khoản tiền gần 2.000 tỉ đồng từ cổ phần hóa chưa nộp và các khoản lãi.
Trả
lời câu hỏi của phóng viên về trách nhiệm của ông Đinh La Thăng trong
thời gian ông làm Chủ tịch tập đoàn PVN (2006-2011), ông Khánh nói:
“Trách nhiệm của người đứng đầu là có, tuy nhiên việc sai đó đôi khi do
cấp dưới của họ cố ý làm sai và đã phải chịu trách nhiệm rồi. Nhìn vào
con số đó mà nói trách nhiệm của ai thì phải xem xét theo đúng trình tự,
thủ tục trên tình thần chỉ đạo rất nghiêm túc”.
Ông
Đinh La Thăng được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Petrovietnam
ngày 5 tháng 10 năm 2006. Từ tháng 12/2008, ông Thăng giữ cương vị Bí
thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam.
-Sai phạm lớn tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam(TNO)
Đầu tư ngoài ngành trái quy định hàng ngàn tỉ đồng, chỉ định thầu sai
nguyên tắc là những sai phạm tại Tập đoàn Dầu khí VN (PVN) vừa được
Thanh tra Chính phủ (TTCP) kết luận.
TTCP
chỉ rõ, PVN đã sử dụng trên 15.000 tỉ đồng thuộc khoản tiền lãi dầu khí
nước chủ nhà để lại cho các hoạt động tài chính không thuộc các dự án
trọng điểm dầu khí là chưa đúng với quy định pháp luật.
Trong
việc quản lý đầu tư xây dựng, ngoài các dự án được Chính phủ cho chỉ
định thầu, TTCP phát hiện PVN và các đơn vị thành viên chỉ định thầu một
số gói thầu với giá tiền rất lớn không đúng với quy định của Chính phủ
về chỉ định thầu cung cấp dịch vụ thực hiện các dự án của PVN.
Bên
cạnh đó, TTCP phát hiện PVN mua tàu khảo sát địa chấn 2D đã quá 10 năm
so với quy định đăng kiểm nhưng không báo cáo cơ quan chức năng.
TTCP
kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ, ngành thu hồi khoản tiền
trên 1.600 tỉ đồng mà PVN cho các đơn vị bên ngoài ứng vốn để đầu tư
nhưng không có kế hoạch trả nợ hoặc không có khả năng thanh toán. Đồng
thời yêu cầu PVN xử lý khoản tiền vi phạm lên tới hơn 18.000 tỉ đồng.
Liên
quan đến các sai phạm tại PVN, trong buổi họp báo công bố kết quả công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng quý
1/2012 ở Hà Nội vào sáng nay (5.4), ông Ngô Văn Khánh - Phó tổng TTCP
cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với các kiến nghị sau thanh tra
đối với những sai phạm xảy ra tại PVN.
Trả
lời câu hỏi của phóng viên về việc ông Đinh La Thăng trong thời gian
ông làm Chủ tịch Tập đoàn PVN (2006 - 2011) có phải chịu trách nhiệm với
các sai phạm trên, ông Khánh cho biết, hiện tại việc xem xét trách
nhiệm của tập thể, cá nhân đang được cơ quan chức năng xem xét nghiêm
túc và sẽ công bố công khai.
-Theo:
Sai phạm lớn tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
Thanh tra Chính phủ phát hiện sai phạm 30.720 tỷ đồng (05/04/2012)-(Kienthuc.net.vn)
- Sáng nay 05/4, Thanh tra Chính phủ đã tổ chức họp báo công bố kết quả
thực hiện công tác thanh tra quý I năm 2012: phát hiện sai phạm, thiếu
sót 30.720 tỷ đồng.
Trong
quý, Thanh tra Chính phủ đã ban hành 11 kết luận thanh tra: thanh tra
Tập đoàn dầu khí Việt Nam, tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn viễn
thông Quân đội; việc thực hiện quản lý nhà nước về dược của Bộ Y tế;
thanh tra trách nhiệm của Bộ Xây dựng trong việc thực hiện chức năng
quản lí nhà nước về nhà ở; thanh tra tại Tập đoàn Sông Đà; ĐH Quốc gia
TP HCM; công tác quy hoạch, quản lí sử dụng đất, quản lí đầu tư xây dựng
và một số dự án đầu tư xây dựng tại Kiên Giang và thanh tra trách nhiệm
thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng tại
tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Tiền Giang, tỉnh Bến Tre.
|
Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh |
Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến đối với 06 kết luận thanh tra,
qua kiểm tra phát hiện sai phạm, thiếu sót về kinh tế, số tiền lên đến
30.720 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 3. 712 tỷ đồng,
kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lí số tiền trên 27.008
tỷ đồng; kiến nghị tổ chức kiểm điểm trách nhiệm đối với tập thể, cá
nhân có vi phạm.
Công ty Bình An nợ thêm 10 tổ chức, cá nhân 28 tỷ
Bianfishco gánh nợ khủng của 9 ngân hàng
--Công bố thêm khoản nợ mới của Bianfishco Gafin--Đây là khoản nợ gần 28 tỷ đồng với 10 công ty khác.- Công ty Bình An nợ thêm 10 tổ chức, cá nhân (TT).- 92,3% số DN thủy sản có nhu cầu vay vốn khẩn cấp trong quý II/2012 -(Ngày
đăng: 03/04/2012 )-(vasep.com.vn) Ngay từ đầu năm nay, DN thủy sản đã
gặp rất nhiều khó khăn, trong đó trước mắt là thiếu vốn trầm trọng hoặc
ít có khả năng tiếp cận vốn và không được hỗ trợ vốn kịp thời đã ảnh
hưởng nặng nề tới sản xuất. 92,3% số doanh nghiệp thuỷ sản có nhu cầu vay vốn khẩn cấp-CAND -DN thủy sản cần vốn khẩn cấp NNVN - Đại gia thủy sản cho công nhân nghỉ việc vô thời hạn (VnEx 3-4-12)-
Bianfishco vẫn chưa có phương án trả nợ Gafin-Hôm
qua (1/4), công nhân của Bianfish co không nhận được thông báo gì mới
nên theo kế hoạch hôm nay (2/4) công nhân sẽ đi làm lại bình thường.-
“Đại gia thủy sản”… hết dám hứa! -(NLĐO)-
Sáng 3-4, hàng nghìn công nhân Công ty cổ phần thủy sản Bình An
(Bianfishco) ở Cần Thơ vẫn chưa thể làm việc trở lại vì nhà máy vẫn đóng
kín cửa.- Tổng giám đốc Bianfishco lại thất hứa (NLĐ).Bianfishco cho công nhân nghỉ không thời hạn -
Sau khi cam kết ngày 2/4 sẽ trở lại hoạt động, đại diện Bianfishco lại
thông báo cho công nhân tiếp nghỉ, thời gian làm việc trở lại không được
xác định.
Liên kết dọc trong chuỗi giá trị nông sản: Nhìn từ vụ Bianfishco--tp -- Quan hệ doanh nghiệp – nông dân nhìn từ vụ Bình An (VNE). – ACB: Khoản nợ 62 tỷ của Bianfishco có thể thu hồi (DT). - Đại gia thuỷ sản cần thanh toán dứt điểm cho dân (VNN). - BÀ DIỆU HIỀN VỠ NỢ: Công nhân thêm khốn khó (NLĐ).
-Nông dân cử người giám sát nhà máy của bà Diệu Hiền -(Đời sống) -
Chính thức ban hành Nghị định về quản lý kinh doanh vàng: Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán
-“Giữ hộ” vàng và trả lợi tức là một hình thức lách quy định của Ngân hàng Nhà nước
- -
Chính thức kết kim -
ddkt
Như chúng tôi đã từng dự đoán trước rằng việc kết kim, kết hối là không thể tránh khỏi thì nay tất cả đã thành sự thật (
Dự đoán kinh tế, 23/08/2011).
Ngày 03-04-2012, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định
ban hành nghị định quản lý hoạt động kinh doanh vàng có nội dung chính
nhằm thắt chặt hoạt động kinh doanh vàng, đưa kinh doanh vàng thành
khuôn khổ cho nhà nước quản lý và quan trọng nhất là cấm sử dụng vàng
làm phương tiện thanh toán, làm cơ sở cho hoạt động huy động, thu gom
vàng toàn quốc sắp sửa diễn ra (
Cafef, 04/04/2012)
Nói cách khác, đây là kết kim. Dựa trên suy đoán, họ sẽ làm việc này dần
dần, từng bước giống như kết hối để không gây ra hỗn loạn lớn trong xã
hội. Thời điểm áp dụng nghị định trên là 25/05/2012. Nhưng dù gì chăng
nữa, tai hại của việc kết kim vẫn rất lớn mà theo chúng tôi phán đoán,
ngay chính họ cũng hoàn toàn không hiểu hết nổi các hệ lụy do việc kết
kim này mang lại cũng giống như lúc tung ra nghị quyết 11 đã đẩy hàng
trăm ngàn doanh nghiệp tới chỗ phá sản, lung lay tận gốc hệ thống ngân
hàng và hàng triệu người thất nghiệp như hiện nay.
Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán
Bạn đọc có thể đọc toàn văn nghị định này tại
đây.
Chúng tôi xin phân tích qua một số điểm quan trọng, chính yếu trong
nghị định này. Theo Nghị định, hành vi vi phạm các quy định của pháp
luật trong hoạt động kinh doanh vàng bao gồm:
1. Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ không có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước cấp.
2. Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
3. Mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
4. Sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.
5. Hoạt động sản xuất vàng miếng trái với quy định tại Nghị định này.
6. Hoạt động kinh doanh vàng khác khi chưa được Thủ tướng Chính phủ cho phép và Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép.
7. Vi phạm các quy định khác tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Các bạn hãy chú ý ở điều khoản không sử dụng vàng làm phương tiên thanh
toán. Như vậy thì có thể nói ngân hàng không trả vàng lại đối với những
người đã gửi vàng, vì không thể “sử dụng vàng làm phương tiện thanh
toán”, mà chỉ có thể trả bằng VND?
Ở Việt Nam rất đặc biệt, do tiền đồng mất giá trị và không ổn định nên
phần nhiều các hoạt động kinh doanh buôn bán, vay nợ được quy ra bằng
vàng.
Và nay trong dân chúng các mối mua bán không biết tính bằng gì, vì lúc
trước bằng USD, dẹp USD thì tính bằng vàng, nay dẹp vàng, sức mấy ai
chịu mua bán, cho vay, số lớn bằng VND.
Có chăng là mua bán, cho vay rất ngắn hạn.
Dài hạn 3 tháng, 1 năm, thì đều tính bằng ngoại tệ, do sợ VND mất giá.
Vì vậy, cấm đoán sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán sẽ gây thêm rắc
rối cho KT VN, thêm bottleneck, thêm co cụm, co rút, cho nền KT.
Sẽ không còn các tiệm vàng tư nhân
Phần thứ hai là về chương III nói về hoạt động kinh doanh vàng miếng.
Theo đúng chương này thì coi như dẹp toàn bộ các tiệm vàng tư nhân.
Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
1- Là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật;
2- Có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên;
3- Có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ 2 năm trở lên;
4- Có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên tiếp gần nhất (có xác nhận của cơ quan thuế);
5-
Có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.
Điều 1, 2, 3, thì còn dễ đạt được, chứ điều 4 là kẹt to, vì ít tiệm vàng nào đóng thuế 500 triệu đồng/ năm trong 2 năm vừa qua.
Tiền đút lót có thể cao hơn, chứ ai dại gì khai thuế đúng, nộp thuế giá đó.
Ngoài ra còn điều 5 cũng khó đạt được, vì các tiệm vàng đa số là của tư
nhân, bán 1, 2 tiệm trong 1 thành phố nào đó thôi, chứ ít khi lan ra 2
thành phố khác.
Thế là họ dẹp hết tay con, tay trung bình, chỉ còn lại khoảng 10 đại gia lớn mà thôi.
Bài viết kế tiếp của chúng tôi sẽ phân tích chi tiết hơn hậu quả khó lường của việc kết kim này. Mời các bạn đón đọc.
————————
Dự đoán kinh tế Việt Nam, Nỗi tuyệt vọng của kinh tế Việt Nam và kịch bản kết hối, kết kim, 23/08/2011,
http://dudoankinhte.wordpress.com/2011/08/23/n%E1%BB%97i-tuy%E1%BB%87t-v%E1%BB%8Dng-c%E1%BB%A7a-ktvn-va-k%E1%BB%8Bch-b%E1%BA%A3n-k%E1%BA%BFt-h%E1%BB%91i-k%E1%BA%BFt-kim/
Cafef, Nghị định của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng chính thức ra đời, 04/04/2012,
http://cafef.vn/20120404083410666CA34/nghi-dinh-cua-chinh-phu-ve-quan-ly-hoat-dong-kinh-doanh-vang-chinh-thuc-ra-doi.chn
Chính phủ Việt Nam, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, 03/04/2012,
https://docs.google.com/file/d/0B2BS_DbGbflPdWtqXzNzbHBSaVdfUW9UU2lNNE9MUQ/edit
--
Điểm báo 5.4.2012 ddkt- CHÍNH THỨC KẾT KIM!
(Chinhphu.vn)
– Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ
nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được Ngân hàng Nhà
nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng hoặc Giấy chứng nhận
đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.
Cấp tập chuẩn bị cho việc HUY ĐỘNG VÀNG. Màn kịch vĩ đại sắp diễn ra.
Ngân hàng Nhà nước yêu cầu 5 ngân hàng báo cáo nhanh tình hình mạng lưới mua – bán vàng miếng chuẩn bị cho kế hoạch mới
Như vậy ngân hàng khỏi trả vàng lại, vì không thể “sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán”, mà chỉ có thể trả bằng VND?
Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán là hành vi vi phạm pháp luật
“…Dạo
này chẳng thiếu gì thông tin kiểu như đại gia A nợ hàng chục ngàn tỷ
sắp vỡ nợ, ông lớn B đã 7 tháng nay không có tiền trả lương công nhân,
doanh nghiệp C phải bán tống bán táng tài sản vì sập tiệm…
…Những khoản nợ này nguy hiểm ở chỗ chúng thẩm thấu rất sâu trong mối
quan hệ chồng chéo doanh nghiệp – ngân hàng- doanh nghiệp. Đến mức, khi
một số ‘con bệnh’ lâm vào tình trạng hấp hối người ta cũng không thể
hoặc không dám để cho chúng ‘chết’ bởi sự gục ngã nọ sẽ kéo theo tình
trạng phá sản mang tính dây chuyền gây hậu quả khủng khiếp gấp bội…”
Dạo
này chẳng thiếu gì thông tin kiểu như đại gia A nợ hàng chục ngàn tỷ
sắp vỡ nợ, ông lớn B đã 7 tháng nay không có tiền trả lương công nhân,
doanh nghiệp C phải bán tống bán táng tài sản vì sập tiệm…
Lãi suất Việt Nam cao nhất thế giới!
Lãi
suất cao bậc nhất thế giới và kéo dài nhiều năm; doanh nghiệp (DN) phụ
thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng. Đó là lý do, khi tiền tệ bị siết
lại, DN phá sản hàng loạt.
Chỉ số hàng tồn kho tăng 35% nhưng không mấy ai nhận ra rằng NỀN KINH TẾ ĐANG BỊ CO RÚT THẢM TRỌNG.
Hàng tồn kho sẽ ngâm vốn, giảm chu trình lưu chuyển của đồng vốn, khiến
cả nền kinh tế rơi vào trạng thái đình trệ không thoát ra được.
Tính đến 1/3/2012, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,9% so với cùng thời điểm năm 2011
Thêm bằng chứng nền KT VN co rút, BỊ STAGNATION.
Cộng thêm tăng giá hàng hóa bắt đầu từ tháng 4, và đó là định nghĩa của ĐÌNH LẠM: ĐÌNH ĐỐN + LẠM PHÁT = STAGFLATION.
Nỗi lo suy giảm của ngành công nghiệp ôtô, xe máy ngày càng thể hiện rõ nét hơn qua những con số thống kê
-Chính thức ban hành Nghị định về quản lý kinh doanh vàng:
Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán