Làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa
bình"
Có những người cố tình không muốn
hiểu Việt Nam
QĐND - Chủ Nhật, 12/06/2011, 21:12
(GMT+7)
QĐND
- Học giả, Tiến sĩ người Mỹ Thô-mát Gian-đơn (Thomas Jandl), người có nhiều
nghiên cứu sâu về tình hình kinh tế, chính trị của Việt Nam trong nhiều năm và
đã từng nghiên cứu về những hình thái phát triển của Việt Nam và Ma-lai-xi-a,
cho rằng vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam đã bị phóng đại quá mức
vì có những người cố tình không muốn hiểu bản chất sự việc.
-
Ông đã đến Việt Nam bao nhiêu lần rồi?
-
Kể từ lần đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1997 để nghiên cứu và làm luận văn thạc
sĩ, đây là lần thứ 12 tôi đến Việt Nam. Tới Việt Nam lần này tôi dẫn theo sinh
viên để tìm hiểu về phát triển kinh tế ở Việt Nam. Những lần trước tôi đến một
mình để thu thập tư liệu làm nghiên cứu, lấy thông tin cho các bài thuyết
trình, đôi khi làm công tác của một phóng viên vì tôi từng là nhà báo. Tôi đã
viết nhiều báo cáo về Việt Nam trong suốt thời gian 3 năm tôi học tiến sĩ.
-
Với “nền tảng” như vậy, chắc ông nắm khá rõ về tình hình kinh tế-chính trị
Việt Nam. Vậy ông nghĩ thế nào về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt
Nam nói chung?
-
Về nhân quyền nói chung, tôi nghĩ có một số khác biệt giữa Mỹ và Việt Nam trên
một số vấn đề. Một trong những vấn đề lớn là một số nhóm người “kỳ lạ” ở Việt
Nam rất giỏi trong việc kích động một số người ở Mỹ. Cũng như vậy, vấn đề
quyền tự do tôn giáo, cá nhân tôi thấy cũng có sự phóng đại quá mức. Trên thực
tế những gì tôi nhìn thấy, tôi nghiên cứu, tôi được biết thì không có vấn đề gì
với quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các cá nhân. Có gì đó mà “họ” ám chỉ
thì chỉ là có sự khác biệt trong việc đăng ký hoạt động tôn giáo của một số tổ
chức mà chúng tôi gọi là xã hội dân sự, còn Việt Nam gọi là các tổ chức xã hội
dân sự.
Ví
dụ, khi một nhà thờ muốn đăng ký ở Việt Nam thì xét theo điều kiện luật pháp ở
Mỹ, chúng tôi coi đó là quyền của nhà thờ. Nhưng cũng như thế ở châu Âu, thì họ
lại sẽ xem xét các nhóm tôn giáo để cho đăng ký. Mỹ thì vẫn chỉ trích châu Âu
về điều này. Thực tế thì chỉ là do khác biệt về quy định mà thôi. Cứ cố tình
hiểu sai đi thì rất khó.
-
Như ông nói thì vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam đã bị phóng đại
quá mức ?
-
Như tôi nói lúc trước, có những nhóm rất giỏi trong việc biến bất kỳ tranh chấp
nào đó thành tranh chấp tôn giáo và có những người ở nước ngoài, bao gồm cả ở
Mỹ, sẽ ngay lập tức hưởng ứng vấn đề này. Tôi nghĩ, Việt Nam không nên quan tâm
đến vấn đề này. Vấn đề tôn giáo là muôn thuở, vì thực tình ở Mỹ hiện nay cũng
hình thành hai nhóm, một nhóm luôn chỉ trích Việt Nam với lý do gây sức ép với
các nhà thờ. Trong khi đó, nhóm còn lại hoàn toàn hiểu được đó không phải vấn
đề tự do tôn giáo, mà là vấn đề một nhóm nào đó đủ điều kiện để được đăng ký
hoạt động như một tổ chức tôn giáo hay không.
Hay
như vụ việc diễn ra ở Mường Nhé gần đây, như tôi đã nói, các nhóm này đã vận
động và tuyên truyền kích động để biến nó thành vấn đề tôn giáo và quyền của
dân tộc thiểu số. Nhưng trên thực tế không phải như vậy.
- Rõ ràng là vẫn còn rất nhiều hiểu lầm đối với vấn đề nhân
quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Theo ông, Việt Nam nên làm gì để minh bạch
những hiểu lầm này?
-
Tôi nghĩ cách tốt nhất là đối thoại, đối thoại giúp hiểu nhau hơn. Ví dụ, bây
giờ hầu hết người Mỹ đều hiểu về Việt Nam. Vì sao? Họ đã đến Việt Nam,
trực tiếp nhìn thấy, trực tiếp tiếp xúc với người dân, chứ không như ngày xưa,
chỉ nghe báo cáo và đọc ở đâu đó.
- Việt Nam
và Mỹ vẫn đối thoại thường niên về nhân quyền để hiểu nhau rõ hơn, nhưng báo
cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ về nhân quyền và tự do tôn giáo vẫn chỉ
trích Việt Nam. Ông nghĩ sao?
-
Vấn đề là ở chỗ không phải không hiểu nhau mà có một số người cố tình
không muốn hiểu. Tôn giáo là vấn đề rất lớn ở Mỹ, lớn hơn nhiều so với ở châu
Âu, và được mọi người quan tâm. Do đó, một số nghị sĩ muốn đưa vấn đề này vào
chương trình hoạt động của mình, kể cả việc trình các nghị quyết lên Quốc hội,
có thể vì một mục đích nào đó, lợi ích nào đó của họ. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, không có một nghị quyết nào liên quan đến vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam được thông qua ở Quốc hội Mỹ. Do đó, có thể thấy vấn đề tự do tôn giáo
không còn sức mạnh để chặn bất kỳ tiến bộ thực sự nào trong quan hệ Việt – Mỹ.
- Ông hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về phát triển của Việt
Nam. Vậy ông thấy Việt Nam phát triển kinh tế gắn với nhân quyền thế nào?
-
Ở một nước còn nghèo và có người rất nghèo thì việc đảm bảo đủ thức ăn, đồ uống
rõ ràng là một việc quan trọng liên quan tới quyền của con người. Tôi nghĩ,
Việt Nam đã rất thành công và đạt nhiều tiến bộ trong giải quyết vấn đề này như
chương trình xóa đói, giảm nghèo và hoàn thành sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Nhìn vào tổng thể, có thể nói Việt Nam đã đảm bảo tốt hơn các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa cho người dân. Mà điều đó cũng được cộng đồng quốc tế công nhận
rồi. Việt Nam được thế giới biết đến như một tấm gương về tiến độ thực hiện các
Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, đặc biệt là mục tiêu xóa đói, giảm nghèo.
- Đối với sự phát triển của Việt Nam, ông ấn tượng nhất ở
điều gì?
-
Tự bản thân sự phát triển vượt bậc của Việt Nam trong vòng hơn 20 năm qua đã là
ấn tượng. Nhưng đối với tôi, điều đặc biệt và đáng kinh ngạc là Việt Nam tiếp
cận với công nghệ thế giới rất nhanh. Ví dụ như internet chẳng hạn. Tốc độ truy
cập internet ở Việt Nam đặc biệt nhanh. Năm 1997, khi tôi đến Đại học Cần Thơ,
internet ở đây đã rất tốt rồi. Còn nữa, sự phổ cập là rộng rãi. Khoảng 3, 4 năm
trước, khi đến Việt Nam thu thập tài liệu viết bài, muốn sử dụng internet, tôi phải
tìm một khách sạn. Nhưng giờ đây, tôi có thể ngồi ở bất kỳ quán cà phê nào, dù
rẻ tiền cũng có thể truy cập được. Và có nhiều mạng không dây miễn phí ở khắp
nơi, tốt hơn nhiều so với ở Mỹ.
Ngọc Hưng – Thu Trang (thực hiện)
Bất ổn xã
hội tại Trung Quốc gia tăng
SGTT.VN -
Những vụ đánh bom liên tiếp trong 3 tuần qua nhắm vào các trụ sở chính quyền ở
Trung Quốc, cuộc biểu tình của hàng trăm sinh viên Mông Cổ ở phía bắc Nội Mông,
hàng loạt cuộc đụng độ giữa những lao động nhập cư và cảnh sát ở thành phố
Quảng Châu… tất cả đang phản ánh rõ sự giận dữ và bất mãn của dân chúng đối với
chính phủ Trung Quốc trong bối cảnh nước này đang chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 90
năm thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc vào 1.7 tới đây.
Những sự kiện vừa qua đang minh họa quy mô và sự phức tạp của các
vấn đề mà các quan chức chính quyền đang phải đối mặt. Ảnh: internet
|
Các vấn đề
đất đai, quyền lao động, tham nhũng, lạm phát, giá bất động sản tăng cao, thực
phẩm, sức khỏe và các vụ bê bối môi trường là nguyên nhân gây ra bất ổn và bạo
loạn trong xã hội Trung Quốc. Đặc biệt những chuyện này lại xảy ra ngay tại
thời điểm nhạy cảm chính trị: Trung Quốc đang chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 90 năm
thành lập đảng Cộng sản vào ngày 1.7 và sự kiện thay đổi vị trí lãnh đạo cấp
cao 10 năm một lần vào năm 2012, khi chủ tịch Hồ Cẩm Đào cùng một số trụ cột
của đảng nghỉ hưu.
Các sự cố
do bất ổn xã hội thông thường tập trung ở vùng nông thôn, nay bắt đầu gia tăng
ở các thành phố lớn của Trung Quốc. Mới đây nhất là các vụ đánh bom hôm thứ sáu
10.6 càng làm cho tình hình tồi tệ và nghiêm trọng hơn. Các phương tiện truyền
thông Trung Quốc đưa tin một người đàn ông họ Lin đã “trả thù đời" bằng 20
quả bom tự chế, mỗi quả có kích thước bằng một lon soda và ném bốn quả vào tòa
nhà chính phủ ở huyện Hà Tây, thành phố cảng Thiên Tây, cách Bắc Kinh 100km về
phía Đông. Chính quyền địa phương không cung cấp thông tin chi tiết về vụ nổ
bom lần này.
Một vụ nổ
khác xảy ra vào ngày thứ năm 9.6 ở thị trấn Hoàng Thạch, phía nam tỉnh Hồ Nam
nhằm vào trạm cảnh sát cũng bị cho là có động cơ từ tâm lý bất mãn của người
dân với nạn tham nhũng của cảnh sát, báo China Daily đưa tin. Tuy vậy, các quan
chức chính quyền đã phủ nhận thông tin trên và thông báo đây chỉ là một tai nạn
chất nổ bị tịch thu được lưu giữ tại đồn cảnh sát.
Mới trước
đó hai tuần, Trung Quốc rúng động bởi vụ ba vụ đánh bom liên tiếp trong cùng
ngày 26.5 vào trụ sở chính quyền thành phố Phúc Châu, phía nam tỉnh Giang Tây,
do ông Qian Mingqi, 52 tuổi, thực hiện và đã chết trong vụ nổ bom đó. Trong một
bài viết trên mạng, ông Qian bày tỏ sự thất vọng, bất lực về quyết định trong
năm 2002 của chính phủ về việc giải toả nhà của ông và đã đưa ra lời đe
dọa “Tôi sẽ làm…một việc tôi không hề muốn làm…”.
Bên cạnh
đó, những vụ bê bối môi trường và căng thẳng sắc tộc gia tăng gần đây là một
trong những nỗi bức xúc lớn của xã hội. Tân Hoa Xã ngày chủ nhật 12.6 cho biết
có hơn 600 người, trong đó 103 trẻ em, ở khu vực phía đông tỉnh Chiết Giang, đã
bị phát hiện nhiễm độc chì. Những báo cáo về nhiễm độc chì xuất hiện thường
xuyên kể từ khi chính phủ nỗ lực mở rộng phát triển công nghiệp trong những năm
gần đây.
Căng thẳng
sắc tộc phức tạp ở quốc gia này cũng là một ngòi nổ của bạo loạn. Tháng trước,
ngày 28.5, hàng trăm sinh viên Mông Cổ đã biểu tình phản đối tại khu vực phía
bắc Nội Mông sau khi một tài xế xe tải Trung Quốc cố tình cán chết một người
chăn cừu thuộc sắc tộc Nội Mông thiểu số khi ông này cùng một số người khác đã
cố gắng ngăn chặn đoàn xe chở than chạy qua đồng cỏ.
Nguyên
nhân chung của bạo loạn ở bất cứ xã hội nào đều bắt nguồn từ sự bất công và
thiếu dân chủ. Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, lãnh đạo Trung
Quốc đã nhiều lần phủ nhận sự cần thiết phải cải cách dân chủ và thay vào đó,
luôn kêu gọi những thay đổi trong nội bộ Đảng và nâng cao quản lý xã hội. Nhưng
thực tế những sự kiện vừa qua đang minh họa quy mô và sự phức tạp của các vấn
đề mà các quan chức chính quyền đang phải đối mặt để dập tắt sự giận dữ ngày
một tăng cao của người dân. Và rõ ràng, chỉ “thay đổi trong nội bộ Đảng” cùng
với “nâng cao quản lý xã hội” chắc chắn không phải là giải pháp triệt để cho
Trung Quốc trong bối cảnh phức tạp hiện nay.
TUYẾT HẠNH
(Theo Wall Street Journal)
Nhiều nước đang xa lánh Trung Quốc
Cỡ chữ
Ý kiến
bình luận (0)
(Tamnhin.net)
– Báo chí Trung Quốc có phản ứng khác nhau về những diễn biến gần đây ở Biển
Đông: từ dọa dẫm đến thừa nhận việc nhiều nước đang xa lánh Trung Quốc.
|
Trong
bài “Lập trường của Việt Nam trở nên cứng rắn khác thường”, tờ “Souhu” của
Trung Quốc ngày 8/6/2011 viết: “Nếu thái độ của Trung Quốc tiếp tục cứng rắn
thì chiến tranh ở Nam Hải (Biển Đông) sẽ nổ ra”.
Tờ “Souhu” trích đăng trả lời phỏng vấn của Thứ trưởng Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh ngày 5/6 về lập trường của Việt Nam khi ông vừa tham dự Đối thoại Shangri-La lần thứ 10 về nước. Tướng Vịnh nói: Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhưng đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ dùng tất cả sức mạnh của mình để bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa. Tờ “Souhu” viết phát biểu của ông Vịnh cho thấy “lập trường của Việt Nam đã trở nên cứng rắn khác thường”.
Tờ “Minh báo” – một tờ báo lớn của Hong Kong ngày 4/5/2010 có bài “Thái độ của Trung Quốc ngày càng cứng rắn đối với Việt Nam”. Bài báo cho biết kể từ năm 1985 khi Trung Quốc chủ trương đưa tàu cá xuống Nam Sa (Trường Sa) tác nghiệp, số lượng tàu cá của Trung Quốc đã từ 13 chiếc lên hơn 900 chiếc, sản lượng đánh bắt từ 4 tấn lên 50.000 tấn, đồng thời đưa hai tàu tuần tiễu lớn nhất số hiệu 311 và 202 đi bảo vệ. Những năm gần đây, Trung Quốc áp dụng sách lược “nói ít làm nhiều” tăng cường tàu chiến của Hải quân kết hợp với tàu tuần tra biển đi bảo vệ và ngày càng có lập trường cứng rắn đối với Việt Nam. Năm 2010 kỉ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước. Chính phủ hai nước lấy năm 2010 là “Năm hữu nghị Trung-Việt”, nhưng do tranh chấp Nam Hải (Biển Đông) căng thẳng, nên hoạt động kỉ niệm tiến hành rất tẻ nhạt trong khi “Năm hữu nghị Trung-Nga”, “Hữu nghị Trung-Triều” năm 2009 được tổ chức rất long trọng và rầm rộ. Dư luận các nước hiện nay rất quan tâm tới vấn đề liệu tranh chấp hai nước có leo thang nghiêm trọng hơn nữa hay không?
Trong khi đó, “China Online” ngày 7/9/2010 đăng bài của học giả Phùng Thiện Chí (Trung Quốc) cho rằng tuy những luận điệu tuyên truyền của phương Tây không ngăn nổi sự phát triển của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc phải tỉnh táo, bình tĩnh xem xét lại mình, bởi lẽ “không có lửa làm gì có khói”. Nhìn lại quan hệ đối ngoại những năm qua cho thấy nhiều nước lạnh nhạt và xa lánh Trung Quốc. Vốn đã đấu tranh có hiệu lực nhất đưa Trung Quốc trở lại Liên Hợp Quốc, giờ đây chỉ có vài nước Châu Phi mặn mà với Trung Quốc. Trong số các nước Châu Á láng giềng, có mấy nước gắn bó với Trung Quốc? Ngay Triều Tiên là nước anh em “chung một chiến hào” nay cũng “đồng sàng dị mộng”. Việt Nam trước đây “như môi với răng” nay không mặn mà gì. Myanmar từng gắn bó khăng khít, vừa qua đã dấy lên làn sóng chống Trung Quốc và dùng vũ lực xua đuổi người Hoa. Palestine, người “anh em son sắt” trước đây, nay cũng quay về với Mỹ. Trong khi bạn bè xa lánh Trung Quốc, thì Ấn Độ lại được các nước mến mộ. Dường như tất cả nước lớn và hầu hết các nước phát triển đều tỏ thái độ thân thiện, hữu nghị với Ấn Độ. Bài báo viết: “Trung Quốc vẫn tuyên truyền có ‘bạn bè khắp năm châu’, nhưng giờ đây nhìn lại liệu chúng ta có mấy nước là bạn bè?”
Tờ “Souhu” trích đăng trả lời phỏng vấn của Thứ trưởng Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh ngày 5/6 về lập trường của Việt Nam khi ông vừa tham dự Đối thoại Shangri-La lần thứ 10 về nước. Tướng Vịnh nói: Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhưng đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ dùng tất cả sức mạnh của mình để bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa. Tờ “Souhu” viết phát biểu của ông Vịnh cho thấy “lập trường của Việt Nam đã trở nên cứng rắn khác thường”.
Tờ “Minh báo” – một tờ báo lớn của Hong Kong ngày 4/5/2010 có bài “Thái độ của Trung Quốc ngày càng cứng rắn đối với Việt Nam”. Bài báo cho biết kể từ năm 1985 khi Trung Quốc chủ trương đưa tàu cá xuống Nam Sa (Trường Sa) tác nghiệp, số lượng tàu cá của Trung Quốc đã từ 13 chiếc lên hơn 900 chiếc, sản lượng đánh bắt từ 4 tấn lên 50.000 tấn, đồng thời đưa hai tàu tuần tiễu lớn nhất số hiệu 311 và 202 đi bảo vệ. Những năm gần đây, Trung Quốc áp dụng sách lược “nói ít làm nhiều” tăng cường tàu chiến của Hải quân kết hợp với tàu tuần tra biển đi bảo vệ và ngày càng có lập trường cứng rắn đối với Việt Nam. Năm 2010 kỉ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước. Chính phủ hai nước lấy năm 2010 là “Năm hữu nghị Trung-Việt”, nhưng do tranh chấp Nam Hải (Biển Đông) căng thẳng, nên hoạt động kỉ niệm tiến hành rất tẻ nhạt trong khi “Năm hữu nghị Trung-Nga”, “Hữu nghị Trung-Triều” năm 2009 được tổ chức rất long trọng và rầm rộ. Dư luận các nước hiện nay rất quan tâm tới vấn đề liệu tranh chấp hai nước có leo thang nghiêm trọng hơn nữa hay không?
Trong khi đó, “China Online” ngày 7/9/2010 đăng bài của học giả Phùng Thiện Chí (Trung Quốc) cho rằng tuy những luận điệu tuyên truyền của phương Tây không ngăn nổi sự phát triển của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc phải tỉnh táo, bình tĩnh xem xét lại mình, bởi lẽ “không có lửa làm gì có khói”. Nhìn lại quan hệ đối ngoại những năm qua cho thấy nhiều nước lạnh nhạt và xa lánh Trung Quốc. Vốn đã đấu tranh có hiệu lực nhất đưa Trung Quốc trở lại Liên Hợp Quốc, giờ đây chỉ có vài nước Châu Phi mặn mà với Trung Quốc. Trong số các nước Châu Á láng giềng, có mấy nước gắn bó với Trung Quốc? Ngay Triều Tiên là nước anh em “chung một chiến hào” nay cũng “đồng sàng dị mộng”. Việt Nam trước đây “như môi với răng” nay không mặn mà gì. Myanmar từng gắn bó khăng khít, vừa qua đã dấy lên làn sóng chống Trung Quốc và dùng vũ lực xua đuổi người Hoa. Palestine, người “anh em son sắt” trước đây, nay cũng quay về với Mỹ. Trong khi bạn bè xa lánh Trung Quốc, thì Ấn Độ lại được các nước mến mộ. Dường như tất cả nước lớn và hầu hết các nước phát triển đều tỏ thái độ thân thiện, hữu nghị với Ấn Độ. Bài báo viết: “Trung Quốc vẫn tuyên truyền có ‘bạn bè khắp năm châu’, nhưng giờ đây nhìn lại liệu chúng ta có mấy nước là bạn bè?”
Kiều Tỉnh
Chiến lược,
sách lược
mới
của
Trung Quốc
tại
Biển
Đông
TS Nguyễn Ngọc Trường
(Toquoc)-Trung Quốc bước vào giai
đoạn mới áp đặt “đường lưỡi bò”, Biển Đông quan trọng trên hết, với ba mũi giáp
công, phục vụ khai thác dầu khí biển khơi tại Biển Đông.
Trung Quốc đang bước vào giai đoạn mới trong chiến lược lấn
chiếm Biển Đông, áp đặt “đường lưỡi bò”. Giai đoạn mới bắt đầu bằng những cuộc
cọ sát cục bộ trên biển, đi kèm với những tuyên bố thiện chí, ngoại giao nụ
cười, ngoại giao quân sự và ngoại giao tiền bạc ở nơi này nơi kia nên
dư luận khó bề nhận dạng.
Mục đích là biến các khu vực không tranh chấp thành có tranh
chấp để thực hiện kế hoạch “đường lưỡi bò” (hay “đường chữ U”) trên Biển Đông,
độc chiếm khai thác dầu khí tại vùng biển này.
Khai thác dầu khí Biển Đông - chương
trình trọng điểm quốc gia
Biển Đông là khu vực trọng điểm trong chiến lược dầu khí hải
dương của Trung Quốc trong kế hoạch 5 năm lần thứ 12 nhằm đảm bảo an ninh năng
lượng cho một nền kinh tế đang tăng trưởng nóng.
Năm 2010 tổng lượng nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc là 239
triệu tấn, tăng 17,5%. Lượng nhập khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ trong tổng nhu cầu
dầu thô tăng từ 52% (2009) lên 55% (2010), 2 năm liền vượt qua giới hạn đỏ 50%.
Theo một số dự báo, đến năm 2020, tỷ lệ dầu khí nhập khẩu của Trung Quốc tăng
lên 65%. Nếu không đáp ứng đủ, vấn đề an ninh năng lượng sẽ cản trở kinh tế
phát triển.
Biển Đông có tài nguyên dầu khí phong phú. Trữ lượng do phía
Trung Quốc ước tính khoảng hơn 50 tỷ tấn dầu thô, hơn 20.000 tỉ mét khối khí thiên nhiên, gấp
25 lần trữ lượng dầu và tám lần trữ lượng khí đốt hiện có của Trung Quốc. Theo
các báo Trung Quốc, tính đến giữa năm 2010, có khoảng 180 mỏ dầu và khí thiên
nhiên, 200 cấu tạo dầu khí được tìm thấy ở vùng biển Biển Đông, trong đó phần
lớn đều ở độ sâu từ 500 - 2000m.
Trung Quốc vừa chứng tỏ họ có kỹ thuật để khai thác tài
nguyên ở khu vực biển sâu. Biển Đông lại là khu vực biển tiếp giáp, nơi Trung
Quốc có hạm đội mạnh nhất, thuận lợi cho việc bảo vệ các hoạt động thăm dò,
khai thác dầu khí.
Giàn
khoan dầu Hải dương 981 của Trung Quốc: Khi cần có thể phục vụ mục tiêu
quân sự
Ngày 23/5/2011, Trung Quốc đã hạ thủy giàn khoan Dầu khí Hải
dương 981, là siêu giàn khoan đầu tiên do Trung Quốc tự sản xuất, được gọi là
“tàu sân bay dầu khí”. Nó đang hoạt động thử nghiệm tại biển Hoa Đông. Đây là
giàn khoan kiểu nửa chìm hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000m, độ sâu giếng khoan
tối đa 12.000m, thuộc thế hệ thứ sáu trên thế giới. Nó cho phép Trung Quốc tiến từ độ sâu khai
thác 300m gần bờ ra độ sâu 3000m ngoài biển khơi. Giàn khoan này sẽ được kéo
tới Biển Đông chậm nhất là mùa thu năm nay. Ngoài ra, theo một nguồn tin
Trung Quốc, giàn khoan 981 có thể được
huy động vào mục đích quân sự trong trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Trung Quốc
có thể tiến hành hợp tác với nước ngoài thăm dò và khai thác hàng loạt khu vực
trên Biển Đông.
Bước đầu của giai đoạn mới là dùng cọ sát (hay xung đột)
“phi truyền thống” để thực hiện chiến tranh cân não nhằm khuất phục Phillipines
và Việt Nam, bước tiếp theo là Malaysia và những bên có tranh chấp khác, áp
dụng mô hình “dễ trước khó sau” và “kinh tế chính trị trước quân sự sau”.
Sách lược Bắc Kinh "ba mũi giáp
công"
Thứ nhất là trung lập hóa Mỹ để Washington
không can dự vào vấn đề Biển Đông. Bài phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton tại Hà Nội vào tháng 7/2010 đánh dấu sự chuyển biến trong thái độ của
Mỹ đối với Biển Đông từ “trung lập” sang “can dự”. Những tuyên bố gần đây của
phía Mỹ dường như cho thấy Washington có thể đang làm điều ngược lại, tức là trở
lại lập trường “trung lập”.
Theo Liên hợp buổi sáng (Singapore), trong cuộc đối thoại
Chiến lược-kinh tế Trung-Mỹ (9-10/5), Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh Mỹ tiếp tục
phát huy vai trò ở khu vực và quyết định thành lập cơ chế tham vấn Trung-Mỹ về
các sự vụ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Phó đoàn Trung Quốc thậm chí còn
gợi ý “Mỹ-Trung cùng nhau thống trị châu Á-Thái Bình Dương”. Tổng tham mưu
trưởng Trần Bính Đức thăm Mỹ ngay sau cuộc đối
thoại trên đề xuất cùng Mỹ xây dựng mô hình quan hệ quân sự mới. Về phía
Mỹ, chỉ cần bảo đảm vấn đề tự do hàng hải và vai trò của Mỹ ở khu vực không bị
thách thức thì Mỹ sẽ không đối chọi với Trung Quốc. “Tự do hàng hải”, về nguyên
tắc mà phía Mỹ theo đuổi, là máy bay và tàu thuyền của Mỹ được đi lại và thu
thập thông tin tại Biển Đông, kể cả khu vực đặc quyền kinh tế. Ngoài ra, Trung
Quốc nhượng bộ Mỹ một số vấn đề kinh tế.
Trong giai đoạn này, Biển Đông quan trọng trên hết, thậm chí
trên cả vấn đề Đài Loan.
Thứ hai, khai thác những dĩ biệt về lợi ích
giữa các nước Đông Nam Á, ra sức dùng ngoại giao quân sự và ngoại giao tiền bạc
để tập hợp lực lượng nhằm cản trở ASEAN đưa ra lập trường chung trong vấn đề
Biển Đông, khống chế vấn đề Biển Đông trong khuôn khổ song phương giữa Trung
Quốc với các nước liên quan. Tỷ lệ công khai ủng hộ lập trường của Trung Quốc
về Biể Đông trong số các nước thành viên ASEAN hiện nay ít ra đã đạt 50/50%.
Ngoài ra, Trung Quốc tăng cường hợp tác kinh tế thương mại
với ASEAN. Các nền kinh tế của phần lớn các nước ASEAN đã không thể tách rời
kinh tế Trung Quốc. Trong 4 tháng đầu năm 2011, kim ngạch thương mại Trung Quốc
- ASEAN đạt 111 tỷ USD, tăng 26,5%. Dự kiến cả năm sẽ vượt 300 tỷ USD.
Thứ ba, tăng cường biểu dương thực lực
quân sự tại Biển Đông. Hạm đội Nam Hải có hơn 260 tàu, trong đó có ít nhất 26
tàu hải giám với trọng lượng nước rẽ từ 1.000 tấn trở lên. Với việc gia tăng
trọng tải cùng trang bị vũ khí cho đội tàu hải chính, trang bị vũ khí cho đội
tàu ngư chính đủ năng lực đối kháng với hải quân các nước tranh chấp, bảo đảm
giải quyết tranh chấp một cách có lợi dưới mọi chiêu thức xung đột “phi truyền
thống”. Trong 5 năm tới, theo đó lực lượng giám sát biển sẽ được mở rộng lên 16
trực thăng và 350 tàu, với 45 tàu thuộc loại có trọng lượng nước rẽ trên 1.000
tấn. Các
lữ đoàn thủy quân lục chiến của Trung Quốc, từ 10.000-12.000 người, được biên
chế vào hạm đội Nam Hải.
Mùa hè này, tàu sân bay đầu tiên của
Trung Quốc sẽ đi vào hoạt động. Ngoài ra, Jinggangshan, một tàu đổ bộ lớn
đang được gấp rút hoàn thành, với trọng tải 20.000 tấn, tầm hoạt động 11.000
km, chở 800 quân, mang theo 4 tàu nệm hơi, 20 xe bọc thép, 2 trực thăng Z-8.
Tàu dự định được biên chế vào đội tàu sân bay đầu tiên, hoạt động chủ yếu ở
Biển Đông.
Với lực lượng như vậy, Trung Quốc
chỉ chờ những phản ứng thiếu bình tĩnh của các nước liên quan gây xung đột vũ
trang, một cái cớ "súng cướp cò", hoặc tự tạo nên một "Sự kiện
Vịnh Bắc Bộ", để thực
hiện hành động quân sự, như với Ấn Độ trong cuộc chiến tranh biên giới Trung-Ấn
năm 1962. Ấn Độ đã chịu những tổn thất lớn về đất đai và quân
lực trong cuộc chiến chớp nhoáng này.
Chính sách thô bạo của Trung Quốc về
Biển Đông liệu có hiệu quả?
Đó là câu hỏi Thời báo
châu Á mới đây nêu ra. Việc công khai phô bày chính sách pháo hạm tại Biển
Đông còn nhằm chứng tỏ sự kém hiệu quả của Mỹ trong khu vực. Chính sách này của
Bắc Kinh có thể gây hiệu quả ngược lại. Mỹ sẽ đứng ngoài cuộc bao lâu?
Tổ chức ASEAN có thể nhượng bộ Trung Quốc đến mức nào qua
việc hy sinh sự đoàn kết của toàn khối và các cam kết xây dựng Cộng đồng, trong
đó có Cộng đồng an ninh, vì những lợi ích cục bộ trước mắt?
Trung Quốc sẽ bị thiệt hại đáng kể nếu gây ra cuộc xung đột
quân sự làm tổn hại các quan hệ chính trị, ngoại giao ở Đông Nam Á. Hình ảnh
Trung Quốc như một cường quốc có trách nhiệm sẽ bị sứt mẻ. Dư luận thế giới sẽ
khẳng định “mối đe dọa Trung Quốc”; lập luận “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc
sẽ bị suy yếu.
Hồ Chí Minh: "Mối
tình thắm thiết Việt Hoa/ Vừa là đồng chí vừa là anh em". (Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1960)
Về phía Việt Nam, xung đột vũ trang chưa phải là một lựa
chọn nếu Trung Quốc không gây chiến trước. Bình tĩnh cũng là một thứ vũ khí.
Đối phó với loại xung đột "phi truyền thống" lại càng cần phải có mưu
lược.
Chúng ta phải nói cho thiên hạ rõ: Việt Nam không tranh chấp
với Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam chỉ thực thi quyền lợi của mình trong
các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đó là đòi hỏi chính đáng và là ngọn
cờ chính nghĩa để tập hợp lực lượng quốc tế. Nhưng chính nghĩa không tự nó tỏa
sáng mà phải thông qua cuộc đấu tranh kiên trì sáng tạo trên mặt trận chính
trị, ngoại giao. Mặt khác, tình hình Biển Đông hiện tại vẫn có cửa cho đàm phán
thương lượng dựa trên những nguyên tắc chỉ đạo quan hệ Việt-Trung mà lãnh đạo
hai nước đã thiết lập hơn một thập kỷ qua.
Về phía mình, người Việt Nam ta cần chuyển biến chủ nghĩa
yêu nước từ lãng mạn sang hiện thực. Phải đổi mới tư duy không ngừng trước sự
biến chuyển mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực. Trong đó có một vấn đề
mấu chốt, mà Thủ tướng Malaysia Najib Nazad đã nêu với cử tọa tham dự Đối thoại
Shangrila vừa qua: Người Đông Nam Á cần hành xử như thế nào với một nước
Trung Quốc thực lực tăng cường, có thể trở thành nền kinh tế dẫn đầu thế giới
trong ít chục năm tới?
Chúng ta cần thấm nhuần tư tưởng ngoại giao cốt
lõi của cha ông ta trong quan hệ với Trung Quốc, gói trong hai chữ “hòa hiếu”.
Lại phải vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh với các nước láng
giềng và các nước lớn, trước hết và trên hết là với Trung Quốc./.
Những dữ kiện liên quan đến cuộc tranh chấp Biển Đông
Việt Long, RFA
2011-06-14
Nhiều diễn biến vừa xảy ra giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến chủ quyền vùng biển Nam Trung Hoa (tên gọi trên bản đồ thế giới, hay biển Đông theo cách gọi của người Việt Nam). Sau đây là một số dữ liệu thực tế về vấn đề này.Biển Nam Trung Hoa, hay biển Đông, có diện tích 648 ngàn dặm vuông, hay 1,7 triệu cây số vuông. Trong đó có tới trên 200 đảo nhỏ, Đá, bãi không thể cư trú. Biển Đông giáp giới Trung Quốc và Đài Loan ở hướng bắc, Việt Nam ở hướng tây, Malaysia, Brunei, Indonesia và Singapore ở hướng nam và tây nam, và Philippines ở phía đông.
Bản đồ của Hòa Lan năm 1754 vẽ bờ
biển Trung Quốc và Việt Nam. Wikipedia photo.
(Chú thích: Theo tài liệu “Địa lý biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa” của tác giả Vũ Hữu San, từ ngữ Đảo, Đá được dùng để chỉ những nơi cao hơn mặt nước lớn, được tính chủ quyền hải phận. Tài liệu trong Ocean Year Book tháng 10/1993 liệt kê thành 4 loại, gồm Island, Cay, Dune, Rock, viết tắt là I, C, D, R)
TẦM QUAN TRỌNG CHIẾN LƯỢC
Là thủy lộ ngắn nhất giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, biển Đông chứa đựng những hành lang đường biển đông đúc nhất thế giới. Hơn một nửa số lượng tàu chở dầu của toàn thế giới lưu thông qua nơi ấy. Hầu hết hàng hóa chuyên chở là vật liệu, nguyên liệu thô, như dầu thô chở từ vùng Vịnh (Ba Tư) sang các quốc gia Đông Á. Vùng biển này còn chứa đựng hải phận Đánh cá quý báu, và là khu vực những mỏ dầu khí lớn lao mà đến nay phần lớn chưa được khai thác.
CUỘC TRANH CÃI:
Sáu bên liên quan đến những cuộc tranh cãi phức tạp về lãnh hải, dựa trên lịch sử Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Trung Quốc, và Việt Nam. Trung Quốc xác lập chủ quyền trên vùng rộng lớn nhất, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng hầu hết diện tích biển Nam Trung Hoa (biển Đông).
Quân đội Trung Quốc chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, cùng khoảng 9 đảo và Đá trong quần đảo Trường Sa, trong đó có Đá Gác Ma (Johnson South Reef), Đá Hughes và Đá Subi.
Việt Nam trấn giữ mấy chục đảo san hô và Đá của quần đảo Trường Sa, và có căn cứ quân sự trên một số đảo khác lơn hơn.
Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình (Itu Aba) và Đá Ban Than trong quần đảo Trường Sa. Cựu Tổng thống Trần Thủy-Biển của Đài Loan cùng một hải đội thăm đảo này năm 2008. Đài Loan làm một sân bay nhỏ trên đảo.
Malaysia cũng có đường băng cho máy bay và có cơ sở nghỉ mát để bơi lặn trên đảo Layang Layang, hay Swallow Reef, Việt Nam gọi là Đá Hoa Lau. Hải quân Malaysia duy trì một căn cứ trên đảo này. Những vị trí khác do Malaysia chiếm giữ gồm có bãi Kiệu Ngựa (Ardasier Reef), Đá Kỳ Vân (Marivales Reef), Đá “Erica” và bãi Thám Hiểm (Investigator Shoal)
Philippines chiếm giữ nhiều đảo ở Trường Sa, Đáng kể nhất là đả Thị Tứ (Thitu Island), được đặt tên lại là Pagasa, nghĩa là Hy Vọng.
Brunei không chiếm được đảo nào ở Trường Sa.
Thủy
thủ Việt Nam lên đảo Trường Sa Đông hôm 6 tháng 6, 2011- AFP/ VNA photo
HÀNH ĐỘNG QUÂN SỰ:
Hai cuộc xung đột vũ trang lớn nhất xảy ra lần đầu vào năm 1974, khi Trung Quốc tấn công chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, ở vùng biển phía tây của biển Đông, và lần thứ nhì vào năm 1988, khi Trung Quốc và Việt Nam giao tranh trong một trận hải chiến ngắn ngủi ở quần đảo Trường Sa, 70 thủy thủ Việt Nam thiệt mạng.
Gần đây Việt Nam đặt mua của Nga 6 tàu ngầm chạy bằng diesel loại Kilo, một phần trong thương vụ chính yếu về vũ khí, mà giới phân tích coi như một nỗ lực để tạo thế cân bằng với hoạt động phát triển hải quân để vươn xa ra biển của Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc dành nhau những khoảng biển được phân lô trên biển Đông có tiềm măng dầu khí chưa khai thác, qua những lời tranh cãi về chủ quyền tại những nơi đó. Giới kinh doanh và giới ngoại giao cho biết Trung Quốc đã gây áp lực các công ty ngoại quốc làm ăn với Việt Nam, đòi những công ty này không được khai thác trong những lô biển đó.
Năm 2007, công ty BP Inc của Anh quốc đã ngưng kế hoạch khai thác ngoài khơi Việt Nam vì cuộc tranh cải chủ quyền giữa Hà Nội với Bắc Kinh.
Tàu cá của Việt Nam thường bị chặn, ngư dân Việt bị tàu tuần của Trung Quốc bắt giữ tại các vùng biển có tranh chấp, khiến Hà Nội rất bất mãn. Trong nhiều trường hợp, tin tức cho hay ngư dân Việt chỉ được trả tự do sau khi chính phủ Việt Nam phải trả tiền cho Trung Quốc.
Năm 2002 các quốc gia hội viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN đã cùng Trung Quốc ký kết một văn kiện không có tính ràng buộc về pháp lý. Đó là Bản Tuyên Bố về Ứng xử của các “bên” trong vấn đề biển nam Trung Hoa, hay biển Đông. Bản tuyên bố kêu gọi các nước tuyên bố chủ quyền ở biển Đông hãy thể hiện tự kềm chế, tránh những hành động có thể gây thêm sự căng thẳng, như xây dựng cơ sở quân sự hay tổ chức tập trận.
Hầu hết các nước có xác lập chủ quyền trong khu vực này đều tổ chức những tour du lịch tới tại những đảo họ chiếm giữ hay quanh đó, nhằm mục đích củng cố lời xác lập chủ quyền.
LUẬT QUỐC TẾ:
Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982 (viết tắt là 1982 UNCLOS, hay UNCLOS, United Nations Convention on the Law of the Sea) cho phép những nước có bờ biển được xác lập chủ quyền trên hai khu vực: 1. Vùng lãnh hải: là lãnh hải giáp giới bờ biển tính từ bờ biển ra xa 12 hải lý, bao gồm vùng bờ biển của các hải đảo ngoài khơi, và 2. Vùng đặc quyền kinh tế, viết tắt là EEZ (Exclusive Economic Zones), tính từ bờ biển ra xa 200 hải lý.
Thoe Công ước UNCLOS, những vùng xác lập chủ quyền chồng lấn lên nhau cần được giải quyết qua những thể thức trọng tài đặc biệt (ad hoc arbitration) hoặc giải quyết qua các tòa án quốc tế.
VỊ THẾ CỦA HOA KỲ:
Hoa Kỳ không phê chuẩn UNCLOS, phản đối một điều khoản về việc khai thác khoáng sản dưới thềm lục địa. Tuy nhiên khi lên án Trung Quốc liên quan đến vấn đề gọi là đi lại bất hợp pháp trong lãnh hải được coi là có chủ quyền, Mỹ viện dẫn điều khoản cho phép các nước được hoạt động thu thập tin tức tình báo trong các vùng đặc quyền kinh tế. Máy bay và tàu thủy tuần thám của Hoa Kỳ vẫn thi hành những cuộc thăm dò trên biển từ lâu nay. Mối quan tâm chính yếu của về an ninh của Mỹ trong khu vực biển Đông này là các hành lang giao thông trọng yếu đối với việc vận chuyển thương mại cũng như đối với tàu chiến phải được mở tự do.
TRUNG QUỐC:
Trung Quốc có ký kết và phê chuẩn UNCLOS. Bắc Kinh tuyên bố tất cả hải đảo, quần đảo trong biển Đông đều là của Trung Quốc từ thời cổ xưa.
MALAYSIA:
Malaysia tuyên bố sự xác lập chủ quyền của họ trong khu vực biển Đông đều phù hợp với những nguyên tắc của luật pháp quốc tế theo như một bản đồ của Malaysia miêu tả. Bản đồ này được Kuala Lumpur công bố năm 1979, xác định ranh giới thềm lục địa của Malaysia.
PHILIPPINES:
Năm 1978, cựu Tổng thống Philippines Ferdinamd Marcos ký một sắc luật xác định toàn thể lãnh hải (khu vực Trường Sa) thuộc về Philippines, và vẽ lại bản đồ Philippines. Manila cũng là nước ký kết và phê chuẩn công ước UNCLOS, và thông qua đạo luật xác nhận tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
ĐÀI LOAN:
Hiến pháp Đài Loan xác định chủ quyền trên các quần đảo Trường Sa., Hoàng Sa và Đông Sa (nhóm đảo Pratas, ở 340 km đông nam Hồng-Kông).
Vị trí
đảo Hòn Ông, nơi hải quân Việt Nam tập trận
hôm 13 tháng 6, 2011. RFA file
VIỆT NAM:
Hà Nội phê chuẩn Công Ước UNCLOS. Năm 2009, Việt Nam và Malaysia cùng phối hợp đệ trình Liên Hiệp Quốc một văn kiện pháp lý trình bày sự xác lập chủ quyền, nhấn mạnh ở điểm Trung Quốc muốn thương lượng với từng nước xác lập chủ quyền ở biển Đông trên căn bản song phương, trong khi các quốc gia liên quan thúc đẩy một giải pháp đa phương cho cuộc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông.
BRUNEI:
Brunei xác lập chủ quyền một phần biển Đông, coi đó là Vùng đặc quyền kinh tế của vương quốc, trong đó có bao gồm Đá Louisa (Louisa Reef)
Hà Nội phê chuẩn Công Ước UNCLOS. Năm 2009, Việt Nam và Malaysia cùng phối hợp đệ trình Liên Hiệp Quốc một văn kiện pháp lý trình bày sự xác lập chủ quyền, nhấn mạnh ở điểm Trung Quốc muốn thương lượng với từng nước xác lập chủ quyền ở biển Đông trên căn bản song phương, trong khi các quốc gia liên quan thúc đẩy một giải pháp đa phương cho cuộc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông.
BRUNEI:
Brunei xác lập chủ quyền một phần biển Đông, coi đó là Vùng đặc quyền kinh tế của vương quốc, trong đó có bao gồm Đá Louisa (Louisa Reef)
Biển Đông: Không thể trông chờ lòng tốt của kẻ khác
Tác giả:
Giáp Văn Dương
Bài đã được
xuất bản.: 15/06/2011 05:00 GMT+7
Lịch sử đã cho thấy, trông chờ vào lòng tốt của kẻ mạnh là một sai
lầm. Với chủ quyền quốc gia thì đó là sai lầm lớn nhất và không được phép mắc
phải. Vì thế, không còn cách nào khác là phải tự mình cứu mình trước. - TS Giáp
Văn Dương đặt vấn đề.ASEAN xé lẻ
Trong lúc căng thẳng ở Biển Đông ngày càng gia tăng thì nội bộ ASEAN - diễn đàn chính được kỳ vọng giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình - lại đối mặt với nhiều vấn đề nóng có khả năng gây mất đoàn kết nghiêm trọng trong khu vực.
Ngày 9/6/2011 vừa qua, sự kiện tàu cá Trung Quốc được hộ tống bởi 2 tàu ngư chính xông vào cắt cáp tàu Viking 2 của Việt Nam cùng với sự kiện ngày 26/5/2011 khi 3 tàu hải giám Trung Quốc đã vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam, cách mũi Đại Lãnh thuộc tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam 120 hải lý để uy hiếp và cắt cáp của tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đã làm nổi lên những đợt sóng mới, tiếp nối những căng thẳng đã có về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Trong khoảng thời gian đó, Thái Lan và Campuchia lại đang bận bịu với việc đưa nhau ra Tòa quốc tế vì tranh chấp đền Preah Vihear ở gần biên giới của hai nước, sau một thời gian đối đầu bạo lực.
Chỉ trước đó không lâu, Lào với dự định xây đập thủy điện Xayaburi trên sông Mekong dưới sự đầu tư của Thái Lan, có nguy cơ tổn hại lớn đến nguồn nước và môi trường sinh thái của Campuchia và Đồng bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, đã gây lo ngại sâu sắc của nhiều giới nhiều ngành, không chỉ ở những nước trực tiếp bị ảnh hưởng, mà còn cả trong một số tổ chức môi trường quốc tế.
Tàu
Viking 02 của Việt Nam bị tàu Trung Quốc cắt cáp trong vùng 200 hải lý
tính từ đường cơ sở của Việt Nam. Ảnh PVN
|
Tranh chấp Biển Đông diễn ra giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Vì thế, ASEAN nghiễm nhiên được coi là diễn đàn khu vực để thương lượng giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Tuy nhiên, Myanmar - một thành viên của ASEAN -lại bày tỏ quan điểm đứng về phía Trung Quốc trong tranh chấp. Một số nước khác chỉ kêu gọi chung chung, không bày tỏ chính kiến rõ ràng vì không có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông.
Sự đoàn kết nội bộ của ASEAN đang bị thử thách nghiêm trọng. Trên thực tế, thỏa thuận về quy tắc ứng xử của ASEAN và Trung Quốc (DOC 2002) hầu như vẫn chỉ nằm trên giấy, ít có giá trị ràng buộc.
Trong khi đó, Trung Quốc với tiềm lực vượt trội về kinh tế và quân sự lại gia tăng áp lực tranh chấp toàn diện và đưa các tàu "ngư chính, hải giám" đi quấy phá vùng biển các nước ASEAN; liên tục dùng ngoại giao chi phiếu và viện trợ quân sự đối với các nước không có tranh chấp trực tiếp để kiểm soát và gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN.
Tự mình cứu mình
Vậy phải làm gì trong bối cảnh này? Trông chờ vào lòng tốt của Trung Quốc - nguyên nhân chính của căng thẳng bằng việc đòi hỏi 80% diện tích Biển Đông thuộc chủ quyền của mình - hay tự mình cứu mình trước khi quá muộn?
Lịch sử đã cho thấy, trông chờ vào lòng tốt của kẻ mạnh là một sai lầm. Với chủ quyền quốc gia thì đó là sai lầm lớn nhất và không được phép mắc phải. Vì thế, không còn cách nào khác là phải tự mình cứu mình trước.
Vậy cứu mình bằng cách nào? Không còn cách nào khác là làm cho mình mạnh lên và lôi kéo bạn bè, đồng minh, những người có cùng lợi ích và mối quan tâm đứng về phía mình.
Nhưng làm mình mạnh lên bằng cách nào? Không còn cách nào khác là đoàn kết lòng dân, làm cho dân tin. Muốn thế, lãnh đạo phải gương mẫu, bản lĩnh, có tâm có tài, và quan trọng, phải vì dân trước hết, phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Vì nhân dân, thời nào cũng thế, đều nhìn vào lãnh đạo để hành xử.
Nhân dân phải được tôn trọng và bảo vệ, phải được lắng nghe, phải được thông tin về mọi diễn biến lớn của đất nước. Được như thế, dân sẽ không ngại hy sinh để bảo vệ đất nước.
Trong cuộc chiến pháp lý, những nghiên cứu về Biển Đông, được công bố trên các tạp chí và sách báo quốc tế, sẽ có sức nặng quyết định. Vì thế, chính phủ cần công khai khuyến khích và hỗ trợ các trường đại học, các viện nghiên cứu liên quan đến Biển Đông, tăng cường đội ngũ các nhà khoa học nghiên cứu về Biển Đông trong nhiều lĩnh vực khác nhau để từ đó xây dựng cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông.
Còn lôi kéo bạn bè, đồng minh? Với ASEAN, do có khác biệt nhiều về Tôn giáo, Văn hóa và Thể chế chính trị, nên những mối quan tâm chung không hẳn đã đồng qui. Việt Nam không thể chấm dứt tranh chấp đền Preah Vihear nếu Thái Land và Campuchia không muốn, cũng không thể quyết định thay cho Lào trong việc dừng xây dựng thủy điện Xayaburi. Vì thế, sợi dây khả dĩ nhất để liên kết các nước ASEAN là triển vọng xây dựng một khu vực an ninh, thịnh vượng và chia sẻ những lợi ích chung thông qua hợp tác, tuy còn ở dạng tiềm năng nhưng có thể trở thành hiện thực nếu biết khai thác.
Với Biển Đông, lợi ích chung đó chính là sự bình yên, tự do hàng hải và sự đảm bảo các lợi ích hợp pháp của quốc gia theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982. Trong số năm nước có tranh chấp với Trung Quốc thì có đến bốn nước ASEAN, đó là: Việt Nam,Phillipines, Malaysia và Indonesia và cũng không loại trừ Brunei, khi nói đến đường lưỡi bò.
Với ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, thể hiện qua "đường lưỡi bò" trong bản đồ họ trình lên Liên hiệp quốc ngày 7/5/2009, thì lợi ích hợp pháp của cả năm nước ASEAN đều bị Trung Quốc đe dọa. Đó chính là một trong những đầu mối quan trọng để liên kết các nước ASEAN trong công cuộc đoàn kết chống lại ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Ngoài ASEAN, một số nước khác như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc... cũng có quyền lợi trực tiếp thông qua tự do hàng hải ở Biển Đông, nên việc xiển dương và chia sẻ những lợi ích về tự do hàng hải này cũng sẽ là một động lực để họ đứng về ASEAN trước tham vọng của Trung Quốc.
Việc xiển dương những lợi ích chung này, không nên chỉ nằm trong chương trình hoạt động của chính phủ, mà cần thiết phải được triển khai rộng mở đến các tầng lớp nhân dân, thông qua các chương trình ngoại giao nhân dân, ngoại giao văn hóa, trao đổi khoa học, giáo dục, thể thao... Vì suy cho cùng, chính sách và hoạt động của các chính phủ, đều do lòng dân qui định, và chịu điều chỉnh liên tục khi nhận thức của nhân dân thay đổi.
Việt Nam, với tư cách là một trong những nước chịu tác động nhiều nhất của tranh chấp Biển Đông cũng như việc khai thác dòng sông Mekong, cần phải là người chủ động hơn nữa trong việc đoàn kết các nước ASEAN, trước hết vì lợi ích trực tiếp của chính mình, sau nữa vì hòa bình và ổn định chung cho toàn khu vực.
Ngoài ra Việt Nam cần chính xác và minh bạch các thông tin công bố, chẳng hạn trong sự kiện 26/5/2011: Ban đầu thông tin nói rằng đây không phải là lần đầu Trung Quốc quấy nhiễu các tàu thăm dò dầu khí. Nhưng sau đó, lại có thông tin rằng đây là lần đầu. Điều đó khiến cho giới quan sát bị lẫn lộn, và một số người đã suy diễn rằng tại sao lần này Việt Nam lại quyết định đưa chuyện này ra công khai, còn những lần trước thì không. Vì vậy, một chính sách thông tin minh bạch và nhất quán là điều tối cần thiết đối trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam.
Không có sự thông cảm và hiểu biết chung nào tự nhiên đến. Cũng không có thành quả nào tự trên trời rơi xuống. Tất cả đều là kết quả của một quá trình nỗ lực bền bỉ lâu dài. Nên việc Việt Nam cần chủ động có một chiến lược ngoại giao nhân dân, song song cùng việc tăng cường ngoại giao chính phủ, trước một thực tế ASEAN đang bị chia rẽ, là điều vô cùng cần thiết.
Nói cách khác, chính phủ và mỗi người dân Việt Nam cần phải là người chủ động trong việc đoàn kết ASEAN để bảo vệ lợi ích của chính mình cũng như hòa bình và an ninh chung trong khu vực.
---
Tác giả cảm ơn Lê Vĩnh Trương, Phạm Thu Xuân, Dự Văn Toán và Nguyễn Đức Hùng đã đọc và góp ý cho bản thảo.