Một Viễn Tượng Chuyển tiếp Dân Chủ Ở Việt Nam
NCTVN: Có thể nói rất nhiều người Việt Nam hiện nay, kể cả trong lực
lượng an ninh, đã rất chán chường chế độ chính trị hiện tại, nhưng việc
hình dung và tin tưởng vào một chế độ mới (thường được nhiều người gọi
là “dân chủ”) thì có lẽ không nhiều người, cả trong những người chán
chường đó, cảm thấy chắc chắn hay an tâm. Bài viết tâm huyết sau đây có
thể phần nào đáp ứng được tâm lý băn khoăn đó. Như Cây Tre Việt Nam hân
hạnh giới thiệu:
*
Qua quan sát các diễn tiến chính trị trên thế giới trong khoảng nửa thế
kỷ qua, các mô thức chuyển tiếp dân chủ đã xảy ra thường là: Cách mạng,
đảo chính, thương thảo đàm phán giữa các lực lượng chính trị cũ mới, hay
những thay đổi tiệm tiến thông qua cải cách của chế độ độc tài (quân sự
hay toàn trị…) hợp tác với các lực lượng chính trị khác trong nước,
cùng tất cả các hệ quả phát sinh của từng mô thức có thể cực kỳ khác
nhau tại các khu vực hay quốc gia khác nhau.
Diễn biến dân chủ tại Việt Nam sẽ theo mô thức nào? Sẽ thuộc một trong
các mô thức cổ điển (đã diễn ra) hay sẽ theo một mô thức hoàn toàn mới?
Hay sẽ không bao giờ xảy ra vì sẽ bị xóa tên và sát nhập vào Trung Quốc?
Đến nay, tất cả mọi khả năng đó vẫn hoàn toàn bỏ ngỏ cho Việt Nam.
Nhưng đó không phải là trọng tâm của bài viết này. Ở đây chúng tôi chỉ
xin đề cập tới một số vấn đề cơ bản trên giả định lạc quan rằng Diễn
biến dân chủ ở Việt Nam sẽ tiến tới thời điểm chuyển tiếp (transition)
giữa chế độ cũ và chế độ dân chủ mới đang hình thành.
Rất ít các trường hợp diễn biến dân chủ thành công mà không tạo ra sóng
gió, chao động xã hội trong mọi chiều trong một thời gian.
Tuy vậy, điều này không có nghĩa là các rối ren xã hội trong giai đoạn
đầu của quá trình chuyển tiếp dân chủ là nguyên nhân chính của các thất
bại sau đó. Cũng vậy, các khó khăn trong việc quản trị các yêu cầu, đòi
hỏi, kỳ vọng quá mức của xã hội trong thời gian đầu cũng không phải là
nguyên nhân chính của các sự thất bại dân chủ hóa. Nguyên nhân chính của
các cuộc Diễn biến dân chủ (đã tới giai đoạn chuyển tiếp) bị thất bại
hay bị trì trệ thường là do thiếu khả năng cải cách và xây dựng nhanh
chóng các cơ cấu dân chủ trong cấu trúc công quyền tân lập, hoặc sự
thiếu quyết tâm của giới lãnh đạo để tiến hành dân chủ hóa, hoặc các mâu
thuẫn chính trị nội tại trong chế độ tân lập.
Quản trị các hệ quả của việc thay đổi cấu trúc chế độ.
Vấn đề gai góc cơ bản trong sự chuyển tiếp từ chế độ toàn trị sang chế
độ dân chủ là việc quản lý sự thay đổi cấu trúc mà trước đó, toàn thể xã
hội chỉ dựa lên một cột chống duy nhất, hoặc là giới quân đội trong các
chế độ độc tài như Philippines hay Indonesia, hoặc là Đảng Cộng sản như
trong trường hợp Việt Nam.
Nhưng trong trường hợp Việt Nam, vốn bị cai trị dưới chế độ cộng Sản lâu
dài dưới một chính quyền có cơ chế phản tự do, phi dân chủ và hoàn toàn
bị kiểm soát trong các thiết chế do Đảng Cộng sản lập ra thì không thể
thực hiện dân chủ trong xã hội nếu không có các thay đổi căn bản và có
hệ thống.
Dĩ nhiên các cơ chế dân chủ sẽ được xây dựng trên nguyên tắc tam quyền
phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp) với hệ thống kiểm tra và quân
bình quyền lực sẽ được lắp đặt thông qua luật lệ hay cấu trúc quản trị
như hệ thống hành chính hay các cơ quan công quyền phụ trách quản trị xã
hội.
Như vậy những cá nhân lãnh đạo và làm việc trong hệ thống quản trị xã
hội tân lập cần phải ý thức sâu sắc về sự vận hành của cơ chế tân lập,
qua đó, quyền hạn hành xử công vụ và tiến trình làm quyết định sẽ thông
qua ba cơ chế hành pháp tư pháp độc lập và công khai, với sự giám định,
kềm chế lẫn nhau chứ không còn lệ thuộc vào một trụ cột lãnh đạo như
đảng cộng sản theo kiểu chỉ đạo từ Bộ chính trị hay họp kín lấy quyết
định trong chi bộ như trước nữa. Thêm vào đó, cơ chế tân lập nhằm đảm
bảo an ninh và công bằng xã hội cho mỗi người dân chứ không phải là lý
cớ để tạo ra một bộ máy hành chính thư lại cồng kềnh và kém hiệu năng.
Nhưng cũng thông qua quá trình chuyển biến sẽ trỗi lên nhiều lực lượng
chính trị. Các lực lượng phe nhóm đã tham gia vào công cuộc đấu tranh
cần phải có khả năng thống nhất về quan điểm phân quyền, để góp phần xây
dựng xã hội mới theo mô thức dân chủ thay vì chống đối nhau trên căn
bản chia chác quyền lực quyền lợi, rồi từ đó nêu ra đòi hỏi phải lắp đặt
thêm nhiều cấu trúc công quyền hữu danh vô thực chỉ nhằm thoả mãn nhu
cầu "trả nợ công thần cách mạng". Vấn đề này nói qua nghe chừng rất ngắn
gọn và đơn giản nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều vì nhiều cuộc cách
mạng dân chủ đã đổ bể hay trì trệ ở ngay giai đoạn chuyển tiếp chỉ vì
nhiều cá nhân thấy “công lao, đóng góp” của mình quá lớn so với những
“quyền lực, danh vọng” của mình đạt được. Vì vậy viễn tượng dân chủ sẽ
càng xán lạn nếu có nhiều người đấu tranh hôm nay coi việc đóng góp, hy
sinh đã là một vinh hạnh chứ không phải là một bước đặt chân vào quyền
lực tương lai.
Ngoài ra, có một điểm chính yếu nữa là các thành phần chính trị cầm
quyền cần giữ vững lập trường xem trọng những khác biệt quan điểm trên
toàn xã hội như một cơ hội thăng hoa sáng kiến, cung ứng cho xã hội một
sự lựa chọn với nhiều giải pháp, thông qua tuyển cử các nhân vật lãnh
đạo, đầu phiếu tại nghị trường cho các bộ luật, thay vì xem hình thái
khác biệt quan điểm là dấu hiệu của rối loạn, rồi thực thi các biện pháp
khống chế, giới hạn, vô tình hay cố ý đưa đến các hậu quả áp đặt phi
dân chủ nhằm loại bỏ hay làm suy yếu các đối thủ - nguy cơ đưa xã hội
vòng trở lại độc tài.
Một vấn đề cấu trúc hậu kỳ nữa là việc hội nhập cấu trúc công quyền cũ
vào cấu trúc tân lập. Đây cũng là vấn đề lớn nhằm tiết kiệm chi phí,
gánh nặng đóng góp của người dân, nhưng cũng cần có những quan tâm đúng
mức để sự hội nhập không dẫn đến các mâu thuẫn, va chạm xã hội không cần
thiết trong các vấn đề nhân dụng.
Kết quả Diễn biến dân chủ cũng bị ảnh hưởng tuỳ thuộc vào việc ứng phó
với các cơ chế toàn trị của xã hội cũ. Nhanh chóng ly khai với bộ máy
toàn trị cũ rất cần thiết cho tiến trình dân chủ hóa. Trong trường hợp
Việt Nam, cần phải được tháo gỡ tức khắc những gì thuộc về:
1/ Xây dựng chính danh cho chế độ toàn trị đã được cài đặt trong pháp
chế cũ, bắt đầu từ Hiến Pháp cho đến tất cả các luật lệ, qui định.
2/ Toàn bộ hệ thống quản trị của Đảng Cộng Sản đan chéo vào các cơ quan công quyền và quân đội, cùng với
3/ Toàn bộ các bộ phận trực thuộc bộ máy an ninh, công an dùng để thực hiện việc khống chế, trấn áp xã hội.
Tuy nhiên thực hiện điều trên đây không có nghĩa là trấn áp, tù đày hay
tiêu diệt nhân sự của đảng CSVN hay của các cơ quan an ninh, công an của
chế độ CSVN. Ngược lại toàn bộ số nhân sự này cũng nhất thiết phải
được đối xử như một pháp nhân bình đẳng trước pháp luật trong nền pháp
chế tân lập.
Tuy thế, hẳn nhiên là sẽ có sự đề kháng từ các thành phần này, sẽ liên
kết với các thành phần trung thành cũ, vì lo sợ bị ảnh hưởng, xâm phạm
đến an sinh cá nhân như cựu chiến binh, công chức, đảng viên hưu
trí,v.v. Nhưng điều này cũng không phải là lý do gây ra thất bại nếu
trong xã hội có đủ lực lượng công chúng cương quyết thực thi dân chủ để
làm đối trọng, để kềm chế, làm an tâm các bất an, nghi kỵ và hóa giải
các nỗ lực phá hoại.
Vượt qua các khó khăn của việc thiếu kinh nghiệm thực thi dân chủ
Có thể nói Việt Nam có rất ít kinh nghiệm về thực hiện dân chủ mặc dù
trong nhiều năm qua các trao đổi về vấn đề dân chủ trong khối quốc dân
toàn quốc cùng những người Việt ở hải ngoại đã tạo nên một số căn bản,
ít nhất là trong một số khái niệm căn bản về cơ cấu, thực thi, và ích
dụng của một cơ chế chính quyền dân chủ.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay thì chỉ có người dân ở
miền Nam mới được biết bằng thực tế và được hưởng thực sự dân chủ. Tuy
vậy, thể chế dân chủ tại Miền Nam trước 1975, trong khoảng thời gian hai
mươi năm dưới một chính thể dân chủ còn rất non trẻ, nhiều khiếm
khuyết, và vừa bị phá hoại liên tục, lại luôn bị gián đoạn từ sau cuộc
chính biến 1963 lật đổ nền đệ nhất cộng hoà dưới quyền Tổng Thống Ngô
Đình Diệm để sau đó thay thế và kế tục bằng nền dân chủ đệ nhị cộng hoà
với các chính phủ nặng ảnh hưởng của giới quân nhân. Ngoài ra trong
chiến tranh Việt Nam đã có các nỗ lực quyết liệt phá hoại chính quyền
dân chủ tại Miền Nam Việt Nam do chế độ cộng sản Miền Bắc phát động, và
sự khuynh đảo của các thành phần cộng sản và thân cộng sản. Do đó, cùng
với thời gian 37 năm qua phải sống dưới chế độ cộng sản và một số lớn
trí thức miền Nam đã di cư ra nước ngoài, những gì còn ghi nhận được
trong tâm trí người dân Miền Nam về dân chủ còn rất ít và cũng chỉ có
rất ít ích dụng thực tiễn trong việc xây dựng một thể chế dân chủ tân
lập hậu cộng sản, ngoại trừ sức đề kháng chính quyền độc tài vẫn còn và
cùng đang tăng lên với nhân dân Miền Bắc hiện thời.
Các thử thách bao gồm việc cởi bỏ tâm lý người dân vốn đời sống thường
đã bị Cộng sản lâu đời khống chế và chi phối toàn diện, với hệ quả là xã
hội quen với kiểu làm ăn và sinh hoạt tránh né các quan hệ với chính
quyền hoặc thậm chí tìm cách móc ngoặc hối lộ để tìm các lợi thế. Ngoài
ra, phần đông dân số còn nuôi nhiều tâm lý sợ hãi. Sợ hãi phải tự bươn
chải kiếm sống trong thị trường lao động và kinh doanh tự do, sợ hãi khi
thực thi quyền tự do ngôn luận, phát biểu, bày tỏ quan điểm hay phê
bình chỉ trích công khai các nhân sự, cơ quan chính phủ thì sẽ bị trù
dập, trả thù, sợ hãi bộ máy an ninh cảnh sát và tư pháp khi giải quyết
các tranh chấp và khiếu tố các bất công dân sự và xã hội,...
Mặt khác, có một thử thách khác là sau 70 năm dưới chế độ độc đảng và
toàn trị, xã hội sẽ không có kinh nghiệm sinh hoạt lành mạnh trong một
môi trường cạnh tranh chính trị đa nguyên. Cho nên sẽ dễ phát sinh ra
các xu hướng nhân danh sinh hoạt dân chủ mà thực tế là gây ra nạn kéo bè
kết cánh để loại trừ nhau giữa các thế lực nội bộ một nhóm, một đảng
phái chính trị hay giữa các nhóm, các đảng phái chính trị với nhau tạo
nên một hình thái manh mún ba người năm đảng hay chia rẽ phân liệt. Hậu
quả là công chúng sẽ chán ghét và xa lánh các sinh hoạt chính trị.
Điều này từng xẩy ra trong một thời gian dài trong các cộng đồng người
Việt nam tại hải ngoại, đặc biệt là tại Hoa Kỳ mặc dù chính họ là các
nhân tố đã có ít nhiều kinh nghiệm bản thân về chế độ dân chủ tại Miền
Nam Việt Nam, họ vẫn không tránh khỏi các khiếm khuyết về kinh nghiệm
khi bỗng chốc được sống ngay trong một môi trường lạ lẫm nhưng hết sức
tự do tại hải ngoại trong khi đi tị nạn cộng sản, khiến nhiều tác nhân
đã có các lầm lẫn tai hại giữa quyền hạn và nghĩa vụ dưới một chính thể
dân chủ mở rộng tại Hoa Kỳ, khiến gây ra nhiều mâu thuẫn nội tại hơn là
cùng nhau tìm được cách hóa giải các vấn đề mà họ muốn giải quyết. Ở đây
tạm không nói đến các tác nhân phá hoại chủ động do Đảng Cộng sản từ
trong nước điều khiển. Kết quả là sự phân hóa xẩy ra trầm trọng đến độ
nhiều người dân trong các cộng đồng này cho đến nay vẫn còn né tránh các
sinh hoạt chính trị, bao gồm cả các sinh hoạt dòng chính trong xã hội
Hoa Kỳ.
Do vậy, trong trường hợp Việt Nam, thiếu kinh nghiệm quá khứ trong việc
xây dựng các cơ cấu dân chủ cũng chưa hẳn là vấn đề nan giải nhất vì các
kinh nghiệm (ít ỏi) này, nếu có, cũng sẽ chẳng mang lại nhiều ích lợi
cụ thể ngoài các tác động tích cực lên yếu tố tinh thần và nhận thức của
công chúng.
Những điều nêu trên đây cũng sẽ khiến cho Việt Nam phải đối phó với các
khó khăn tương đối trong việc xây dựng các cơ cấu dân chủ và khuyến
khích người dân tham gia vào các cơ chế này một cách năng động. Tuy
nhiên Việt Nam cũng có ít nhất hai lợi thế (công cụ) để hóa giải các khó
khăn đó. Thứ nhất, nguồn trí tuệ của các chuyên gia có gốc gác Việt Nam
có kinh nghiệm thực tiễn cá nhân về các cơ chế dân chủ tại hải ngoại và
các học giả, nhà nghiên cứu (cả trong và ngoài nước) thiết tha với dân
chủ trong mấy chục năm qua sẽ giúp ích không ít trong vệc đề nghị các
giải pháp xây dựng các cơ cấu của cả ba ngành lập pháp, hành pháp và tư
pháp cùng với một cơ cấu kinh tế tự do thích hợp. Thứ hai, lịch sử Việt
Nam có thể cung cấp một số tấm gương, bài học có những tương đồng với
tinh thần tôn trọng dân chủ tự do (theo ý niệm hiện đại) để quảng bá và
khuyến khích người dân tham gia vào các tiến trình thực thi dân chủ như
bầu cử và hành xử các quyền tự do căn bản sẽ giúp cho người dân dễ dàng
thiện cảm và tự tin hơn trong các sinh hoạt thực hành dân chủ từ đó việc
tiếp cận của toàn xã hội với cơ chế dân chủ dưới các hình thái cập nhật
đương đại sẽ thuận lợi hơn.
Thành lập cơ cấu kiểm tra dân chủ đối với cơ chế công quyền đặc biệt là quân đội và ngành an ninh và trị an.
Những thành phần, bộ phận thuộc quân đội và thuộc bộ máy an ninh trị an
của chế độ cộng sản vẫn có thể tham gia và có những đóng góp tích cực
trong suốt quá trình chuyển biến dân chủ. Tuy nhiên điều này không có
nghĩa là cơ chế hoạt động tùy tiện, bạo lực của các bộ máy, thành phần
này sẽ được lưu dụng hay được đối xử ưu đãi hơn trong hậu kỳ xây dựng cơ
chế dân chủ tân lập.
Nhân sự thuộc các thành phần này dĩ nhiên sẽ có ưu tiên hội nhập hay lưu
dụng vào cơ chế mới, nhưng cũng phải thông qua quá trình tái huấn luyện
chung cho toàn bộ nhân sự còn được lưu dụng để tạo ra một môi trường
làm việc và sinh hoạt trật tự và có kỷ luật với nguyên tắc và trong tinh
thần dân chủ. Thêm vào đó, việc tái huấn luyện này cũng giúp giảm thiểu
các trì trệ cố ý, và những đề kháng thuộc xu hướng "ngựa quen đường
cũ".
Như trên đây đã có đề cập qua, tất cả các cơ chế độc đoán, bí mật, trấn
áp đã được lắp đặt trong hệ thống quân đội hay an ninh cũ nhằm vào mục
đích bảo vệ, củng cố chế độ toàn trị cần phải được nhanh chóng tháo bỏ.
Và để bảo đảm các bộ phận còn lại của quân đội và an ninh vận hành đúng
đắn, nghiêm minh trong cơ chế dân chủ tân lập, nhất thiết phải có bộ máy
thanh tra mà cấu trúc tổ chức phải có tính thượng tôn tinh thần dân chủ
pháp trị để ngăn ngừa mọi trường hợp lạm quyền, ngược đãi hay trả thù.
Và như mọi cơ chế dân chủ phổ thông khác trên thế giới, nhân sự thuộc
quân đội, an ninh và trị an sẽ hành xử nhiệm vụ của mình luôn luôn một
cách thống nhất, đặt dưới quyền hạn trực thuộc của các viên chức dân
tuyển (Tổng thống, tỉnh trưởng, quận trưởng là các viên chức chính quyền
được bổ nhiệm thông qua dân tuyển ...) Ngoài ra, bộ máy thanh tra kể
trên còn có trách nhiệm về mặt qui định và chế tài để bảo đảm tính vô tư
trong khối nhân sự của chính quyền là không có sự lạm dụng chính trị
thuộc quân đội hay trong bộ máy an ninh, trị an. Các quan chức lãnh đạo
quân đội, an ninh trị an cũng như tất cả các nhân viên công quyền khác,
tuyệt đối không được phép dùng phương tiện công quyền hay tư nhân để
quảng bá sự ủng hộ cá nhân hay tập thể đối với một phe phái chính trị
nào, kể cả phe đương quyền. Ngắn gọn lại thì bộ máy cảnh sát, an ninh và
quân đội phải được phi chính trị hóa tuyệt đối, tất cả chỉ phục vụ tổ
quốc và nhân dân.
Việc thành lập bộ máy kiểm tra và thanh tra trực thuộc cơ chế tư pháp và
toà án, đặc phái công vụ dưới các ngành công quyền liên hệ, với đầy đủ
thẩm quyền hành xử nhiệm vụ độc lập không lệ thuộc vào hệ thống chỉ huy
hàng dọc của ngành công tác thì sẽ có tinh minh bạch trong một cơ chế
công quyền dân chủ.
Và trong khi chuyển hóa từ một chế độ toàn trị cộng sản lâu đời với
nhiều hệ lụy di căn trầm trọng về nhũng lạm, tham ô, lộng quyền ...thì
công việc này cần phải nhanh chóng thực hiện với ưu tiên cao nhất.
Thực hiện các cuộc tuyển cử dân chủ đầu tiên
Khi xã hội đã bắt đầu vãn hồi trật tự tối thiểu, hệ thống quân đội, an
ninh trị an đã tạm thời ổn định thì cũng là lúc cuộc Diễn biến dân chủ
nên tiến hành các cuộc tuyển cử thực sự tự do đầu tiên.
Thử thách về thời điểm tổ chức là nếu những cuộc tuyển cử xẩy ra sớm
quá, thì dân tình chưa được ổn định, đời sống sinh hoạt còn nhiều khó
khăn, và những thành phần xã hội khác cũng chưa đủ thời giờ chuẩn bị để
cùng toàn dân tham gia. Mặt khác, các việc tổ chức tuyển cử quá sớm
cũng giống như tạo ra một sân chơi không bình đẳng theo đó các phe nhóm
chính trị có thực lực mạnh hơn có thể áp lực khuynh đảo những kết quả
bầu cử, khiến xã hội sau đó sẽ phải sinh hoạt trong một môi trường chính
trị khá phiến diện, đơn điệu.
Tuy không có một ghi nhận nào trước đây về ảnh hưởng tốt xấu của việc tổ
chức tuyển cử sớm hay muộn trong một cuộc Diễn biến dân chủ, nhưng
những lợi ích thực tiễn của việc tổ chức các cuộc tuyển cử hay trưng cầu
dân ý (để kiện toàn hay ban hành một hiến pháp mới tiếp theo sau bằng
các cuộc tuyển cử) qui định bởi bản hiến pháp dân chủ một cách đúng lúc
là một trong những việc thiết yếu nhằm kiện toàn nền móng dân chủ. Các
sự kiện này sẽ giúp thống nhất ý chí quốc gia trong toàn dân và ngăn
ngừa được những ý đồ phá hoại.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, khi toàn bộ cơ cấu chính
quyền của Việt Nam đã được đặt dưới cấu trúc quản trị kiểu cộng sản rất
lâu, theo đó, bộ máy công quyền gồm tất cả cơ chế lập pháp, hành pháp tư
pháp đều đã bị cài đặt theo hệ thống tập quyền cực độ. Bên cạnh đó, gần
như song lập và song hành trên mọi cấp độ, lại là một hệ thống quản trị
cực quyền khác là cơ chế Đảng, lại có nhiều quyền lực hơn để khống chế
hệ thống công quyền. Các thay đổi vá víu và chắp nối trong cơ chế công
quyền trong thời kỳ “đổi mới” từ năm 1986 đến nay để gọi là bổ sung cho
việc quản trị cơ chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” đã chứng tỏ
không giúp ích gì khác hơn là phát sinh thêm vô số những tròng tréo rối
ren cho cấu trúc chính trị và tạo thêm cơ hội cho những kẻ đục khoét,
phá hoại quốc gia nặng nề hơn.
Cho nên những cuộc tuyển cử, bắt đầu bằng việc tổ chức một cơ chế quốc
dân đại biểu lâm thời, để thông qua một bản hiến pháp mới là một nhu cầu
bức thiết. Tuy vấn đề mở rộng để bao gồm tất cả các thành phần chính
trị quốc dân trong cơ chế đại biểu quốc dân lâm thời trên đây là rất cần
thiết, điều cần lưu tâm là các thành phần lãnh đạo phong trào dân chủ
cần phải giữ quân bình trong khi thương lượng các điều kiện tham gia với
tất cả mọi thành phần chính trị, để bảo đảm bản hiến pháp tân lập là
một bản hiến pháp trung thực phản ảnh ý chí độc lập, dân chủ của quốc
dân với các cơ chế hành pháp, lập pháp và tư pháp phân lập, có kiểm tra,
có quân bình quyền lực thực tiễn.
Thanh lý các bất công trong quá khứ
Cơ chế toàn trị độc đảng của Việt nam hẳn nhiên khi trải qua một Diễn
biến Dân chủ sẽ phô bày toàn bộ những bất công dồn lại từ gần hoặc trên
70 năm. Trách nhiệm thanh lý các bất công này không phải là nhỏ. Các
quyết định hành chính, tư pháp liên quan đến việc thanh lý bất công
trong quá khứ sẽ là một thử thách chính trị cho quyền lực của chế độ dân
chủ và cho cơ chế công quyền tân lập trong việc thực thi công lý dân
chủ.
Xử lý bất công bao gồm việc xác định, kê khai, tổng hợp và xử lý tư pháp
đối với các cá nhân, đoàn thể, tổ chức phe nhóm đã vi bội quyền lợi
quốc gia, đã bức hại công dân trong quá khứ, và việc đánh giá, giải
quyết các thiệt hại về quyền lợi quốc gia, công dân.
Nhiều cuộc Diễn biến Dân chủ gần đây trên thế giới đã nhanh chóng đưa
các cá nhân lãnh đạo chế độ cũ ra toà xét xử. Việc này thường được công
chúng nhất thời hoan nghênh cao vì tạo được tâm lý là công lý được nhanh
chóng thực thi. Nhưng thủ tục tố tụng gấp gáp, bên cạnh việc bất khả
thi đối với những trường hợp các cá nhân có trách nhiệm trong chế độ cũ
đã đào thoát và việc dẫn độ có thể gặp khó khăn, trì trệ, có khi nhiều
năm, có thể dẫn đến kết luận không chính xác thì lại sinh ra phản tác
dụng đối với niềm tin của công chúng về năng lực của ngành tư pháp mới
và chế độ dân chủ tân lập.
Ngoài ra, việc loại bỏ một số lớn các nhân viên thừa hành trong hệ thống
quốc doanh cũ cũng có thể tạo nên thử thách cho chính quyền mới vì
thiếu nhân viên chuyên nghiệp, có kinh nghiệm chuyên môn hay kỹ năng
trong công việc thường nhật.
Trên hết, là xử lý các thiệt hại đã gây ra cho quốc gia và công dân
trong quá khứ. Trong nhiều trường hợp, các khó khăn về thủ tục tố tụng
trong chế độ dân chủ lại nằm ở chính tính chất chi li hơn, thận trọng
hơn của dân chủ nhằm bảo đảm công lý được áp dụng bình đẳng với mọi pháp
nhân, kể cả đối với các nghi can. Điều đó chắc chắn sẽ gây thêm khó
khăn cho chế độ dân chủ tân lập về thời gian, nghiệp vụ và công quỹ. Các
khó khăn mặt khác sẽ còn nhiều và phức tạp hơn khi muốn truy tìm và thu
hồi tài sản bất chính tại ngoại quốc.
Nhưng cũng không thể tuyên bố bỏ qua quá khứ để hướng đến tương lai theo
kiểu tuyên truyền phiến diện. Những tồn đọng về lịch sử, tâm lý và
những mất mát thiệt hại hữu hình về con người và vật chất trong quá khứ
đối với toàn bộ các thành phần người dân gộp lại thường quá lớn, chưa kể
một tâm lý trông ngóng công lý quá nóng bỏng của dân chúng, để chính
quyền mới có thể bỏ mặc, hoặc thanh lý theo kiểu đáp ứng từng phần, nhỏ
rọt.
Phần lớn các khó khăn trên sẽ phải được giải quyết bằng những quyết định
trên mặt chính sách và hành chính được hỗ trợ bằng các phương tiện tố
tụng tư pháp cùng với việc áp dụng các luật lệ ban hành thông qua ngành
lập pháp đặt định riêng biệt cho một trương mục: thanh lý bất công.
Nói đơn giản hơn, là quốc gia thông qua các cơ quan lập pháp và hành
chính sẽ đưa ra các chính sách, luật lệ về thanh lý bất công, và bộ máy
tư pháp sẽ xây dựng một cơ chế đặc biệt phụ trách và công bố kết quả tác
dụng của chính sách này nhằm tạo được sự an tâm trong công chúng rằng
công lý sẽ được thực hiện đến kỳ cùng, trên mọi mặt nhưng cũng cần phải
khẳng định việc thực hiện công lý là nhằm để ổn định xã hội, xây dựng
một tinh thần công bằng chứ không phải hướng tới sự trả thù, làm thỏa
mãn tâm lý cay nghiệt. Nhưng các công việc này do được tổ chức độc lập
với cơ chế đặc nhiệm, sẽ không ảnh hưởng đến bộ máy công quyền và sinh
hoạt quốc dân trong đời sống hàng ngày phải đương đầu với các khó khăn
với những điều tiết, thay đổi trong cơ chế dân chủ mới. Đồng thời với
một hệ thống báo chí tự do và quyền ngôn luận tự do được tôn trọng, mọi ý
kiến, quan điểm, triệt để cũng như trung dung, cực đoan cũng như nhân
từ, sẽ đều được bày tỏ trên công luận sẽ mang lại một sự tham chiếu đầy
đủ các mặt cho những người làm chính sách hòng tránh được các quyết định
phiến diện, thiên vị, nương tay hay quá tay đối với những tội ác cần bị
trừng phạt và sẽ giúp cho xã hội nhanh chóng thoát khỏi tâm lý hận thù,
ân oán hay sợ hãi, lẩn tránh để tiến tới một xã hội hòa giải, bình ổn,
cùng sống hòa bình trong sự khác biệt – cái đích của dân chủ.
Vấn đề thanh lý bất công và tạo dựng sự bình ổn xã hội trong giai đoạn
hậu toàn trị cũng có thể tham khảo, áp dụng nhiều kinh nghiệm, bài học
từ những diễn biến thành công đi trước trên thế giới như tại Nam Phi hay
sau nội chiến Hoa Kỳ.
Đối phó với các vấn đề kinh tế
Sự chính danh của chế độ cộng sản hiện nay trong thực tế chỉ còn vịn
được vào những thành tựu kinh tế. Nhưng các thành tựu kinh tế được thổi
phồng lên qua hệ thống báo cáo và thống kê theo kiểu tăng thành tích,
giấu thất bại qua bộ máy tuyên truyền một chiều trên các phương tiện
truyền thông cho đến nay đã thất bại để trơ ra trước mặt quốc dân các
khung sườn kinh tế bại hoại, mục rữa, mà công khố thì rỗng, nợ nần ngoại
bang tăng vọt, còn sinh hoạt người dân trong xã hội thì ngày càng sa
vào cảnh khó khăn, hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội mỗi ngày thêm
sâu thẳm.
Những khó khăn, tàn phá kinh tế lên đời sống kinh tế quốc dân dưới thời
kỳ toàn trị độc đảng, đặc biệt là tệ nạn, bất công xã hội là một trong
những tác nhân quan trọng nhất đã thúc đẩy nhu cầu thay đổi và yêu cầu
Diễn biến dân chủ. Do đó cải cách kinh tế là một vấn đề hết sức thiết
yếu và luôn được chú tâm đối với quốc dân trong một chế độ tân lập sau
toàn trị cộng sản.
Trong một cơ chế kinh tế thị trường tự do dưới chế độ dân chủ tân lập
các thử thách trong việc tháo bỏ các thành phần thuộc bộ máy kinh tế
quốc doanh cũng sẽ phát sinh. Thêm vào đó, tiến trình chuyển đổi cơ chế
kinh tế cũng sẽ phát sinh ra các thử thách mới về quản lý nhân dụng, tổ
chức khai thác phân phối tài nguyên và các nỗ lực để san định, tạo ra
một sân chơi bình đẳng, công bình cho mọi giới đầu tư trong và ngoài
nước cũng sẽ sinh ra nhiều thử thách mới mẻ. Tất cả các khó khăn mới
này, có thể trong thời gian đầu, chưa cho phép cải thiện thu nhập, đời
sống kinh tế của người dân.
Nhưng vạch ra và công bố một cách chi tiết tất cả các khó khăn này sẽ
làm gia tăng sự hiểu biết minh bạch của toàn dân để vận động tham gia,
đóng góp sáng kiến giải quyết thì sẽ tránh được các thất vọng, hiểu lầm
cho rằng đây là thất bại của chế độ dân chủ tân lập.
Tuy nhiên chưa nhất thời cải thiện được tiêu chuẩn đời sống kinh tế bình
quân cho toàn dân thì không có nghĩa là sẽ có nhiều người đói nghèo hơn
dưới thời cộng sản toàn trị. Việc duy trì lương hưu và các chế độ đãi
ngộ đối với các công chức tại vị hoặc đã hưu trí cũng không phải là một
vấn đề quá khó khăn nếu hình dung rằng các nguồn lực đã từng bị nhũng
lạm hàng chục ngàn tỷ đồng như hiện nay được đưa vào các quĩ hưu trí hay
phúc lợi xã hội.
Kinh nghiệm tại các nước Đông Âu đã chứng minh điều này. Mặc dù, do các
thiệt hại kinh tế đã gây ra, phải mất một thời gian khá lâu cho các nước
này khởi sự có các chỉ dấu cải thiện đời sống kinh tế toàn dân và mức
thu nhập bình quân, nhưng nhất thời các thành phần nghèo khó nhất đã
ngay lập tức được cung ứng các trợ cấp nhà cửa, lương thực, dịch vụ y
tế, học vấn cho con em, và giúp kiếm việc làm...
Và cũng theo kinh nghiệm, thì chính những chính sách này đã ngay lập tức
giúp giảm áp lực xã hội lên đời sống thường nhật và thay đổi tư duy của
một số đông các thành phần có quan điểm bảo thủ hơn trong xã hội. Để
giúp phần lớn cho việc tài trợ các chính sách công ích xã hội này thành
công, các giới đồng bào hải ngoại cũng sẽ là một lực lượng đáng kể nếu
không muốn nói là lực lượng quyết định, bên cạnh các chương trình ngoại
viện trợ giúp xã hội thông thường.
Trên một ý nghĩa nào đó, các chính sách xã hội, cứu tế trong trường hợp
các nước toàn trị cộng sản Diễn biến dân chủ, lại mang tác động tích cực
về kinh tế, và gia tăng kết nối trong xã hội, nhất là trong trường hợp
Việt Nam, vốn có truyền thống “lá lành đùm lá rách” và được thoát khỏi
những lo ngại bị chính quyền chụp mũ là “trợ giúp cho phản động”. Sau
nữa, những chính sách khuyến khích và giúp tổ chức các hoạt động dân vụ
như vậy, trong một chính thể dân chủ tân lập, cũng sẽ giúp củng cố ý chí
dân chủ cho toàn dân.
Ứng phó với môi trường đối ngoại
Trong trường hợp Việt Nam, các hứng khởi tạo ra trước các Diễn biến dân
chủ tại các nước Ả rập sẽ giúp ích thực tiễn về các kinh nghiệm chiến
thuật trong việc tổ chức, vận hành chuyển biến. Cũng vậy, các chuyển
biến tại các lân bang trong vùng Đông Nam Á như Philippines, Indonesia
cũng giúp ích cho việc có một viễn kiến trung thực hơn về các giai đoạn
của một cuộc Diễn biến dân chủ. Nhưng tựu trung, các cuộc chuyển biến
chính trị tại Trung Đông mang nặng màu sắc độc tài quân phiệt và tôn
giáo và các hiện tượng chuyển đổi đã xảy ra ở Đông Nam Á đều ở các quốc
gia độc tài không cộng sản. Trong khi đó cuộc Diễn biến dân chủ tại Việt
Nam lại mang mầu sắc đối phó với chế độ độc tài toàn trị kiểu cộng sản,
nên ở những nơi đã đề cạp sẽ có rất ít ứng dụng chiến lược thực tiễn vì
khác đối tượng đấu tranh.
Trường hợp Trung Quốc, tuy có điểm tương đồng về đối tượng đấu tranh như
tại Việt Nam là chế độ cộng sản tập quyền độc trị, nhưng Trung Quốc với
tầm vóc và khả năng khác hẳn với Việt Nam trên quá nhiều phương diện,
chưa kể Trung Quốc lại là một đối thủ chính của Việt Nam nên sự phân
tích có nhiều khúc mắc, đòi hỏi một công trình nghiên cứu tìm hiểu riêng
biệt. Nhưng có thể chắc chắn rằng Trung Quốc, một khi vẫn còn giữ chế
độ độc tài, sẽ làm hết sức để cản trở, phá hoại Diễn biến dân chủ ở Việt
Nam. Nhưng ngược lại nếu một khi Việt Nam chứng tỏ được sự dứt khoát
hoặc khi đã dứt được khỏi chế độ toàn trị độc đảng thì lĩnh vực ngoại
giao của Việt Nam, kể cả trong vùng lẫn trên toàn cầu, sẽ được tiếp cận
với những cơ hội vô cùng lớn để triển khai các mối quan hệ hết sức cởi
mở, trung thực và hữu ích cho quốc gia và dân chúng, hoàn toàn không bị
ràng buộc hay bị nghi kỵ bởi vấn đề ý thức hệ cộng sản khi quan hệ với
các quốc gia khác hoặc phải quá trông chừng thái độ của Trung Quốc. Ngay
kể cả các cá nhân cầm quyền nếu chứng tỏ được sự thành thật và quyết
tâm đi theo lý tưởng tự do dân chủ sẽ tức khắc có được ủng hộ và yểm trợ
mạnh mẽ, hiệu quả từ thế giới dân chủ và Liên Hợp Quốc. Dĩ nhiên, dân
chủ hóa Việt Nam không đồng nghĩa với việc trở thành thù địch hay chống
lại Trung Quốc, kể cả Trung Quốc độc tài như hiện nay. Một chính sách
khôn ngoan, hòa hảo và độc lập như Nhật Bản, Hàn Quốc hay thậm chí như
Đài Loan với Trung Quốc là một chính sách đáng tham khảo. Khi đó dù
Trung Quốc có không hài lòng thì cũng không thể thực hiện được mưu đồ
phá hoại hay cản trở dân chủ tại Việt Nam. Tất nhiên cái giá của dân chủ
hóa Việt Nam phải trả cho quan hệ bang giao với Trung Quốc sẽ là những
tài trợ, hỗ trợ ngầm từ Trung Quốc cho các cá nhân cầm quyền và những
thân hữu của họ như hiện nay sẽ không còn nữa. Nhưng đổi lại cả quốc gia
và những người cầm quyền mới sẽ không bị phụ thuộc, ràng buộc vào một
chính thể hoang dã và luôn là kẻ thù của dân tộc hàng ngàn năm qua nữa.
Một khi đã bước chân được vào con đường dân chủ thì vấn đề đồng minh
chiến lược toàn diện với những siêu cường như Mỹ hay Anh, Pháp sẽ không
còn bất kỳ một cản trở nào ngoài sự chuẩn thuận của quốc hội hay trưng
cầu ý dân. Sức mạnh ngoại giao của Việt Nam sẽ ở một tầm cao theo đúng
năng lực và yêu cầu của dân tộc mà không còn phụ thuộc vào ý chí hẹp
hòi, tư lợi của một cá nhân hay một đảng chính trị như đã và đang thấy
nữa.
Một trong những điều cần quan tâm nữa là trong suốt quá trình diễn biến,
khởi đầu từ trong giai đoạn chuẩn bị đấu tranh, các giới lãnh đạo phong
trào dân chủ cần nhất thiết giữ mối liên hệ và các kênh thông tin với
tất cả các quốc gia có quan hệ chiến lược trong vùng với Việt Nam và các
quốc gia khác trên thế giới. Quảng bá các bước đi chiến lược, các lộ
đồ, và các dự án kiến tạo dân chủ với họ sẽ giúp tạo ra một khối đồng
minh, sẽ thu nhận được những hỗ trợ, khuông viện trên mọi mặt.
Ngoài ra, về phương kinh tế sẽ giúp cho giới đầu tư ngoại quốc yên tâm
về một viễn cảnh là một khi Diễn biến dân chủ thành công, quyền lợi sẵn
có của họ tại Việt Nam sẽ được bảo đảm, tương lai kinh doanh của họ sẽ
đạt được nhiều cơ hội phát triển trong sự ổn định của một cơ chế thị
trường tự do, trên một sân chơi có tính bình đẳng, công bằng vượt trội
so với thời toàn trị cộng sản.
Tạm kết
Đối với người dân thường thì việc trình bày tất cả dự kế đấu tranh sẽ
giúp người dân hiểu rõ mục tiêu của phong trào dân chủ là một công cuộc
đóng góp của mọi người dân trong xã hội chứ không phải của riêng ai, và
công cuộc đấu tranh tiếp theo đó để cứu nước và kiến thiết, canh tân xứ
sở, xây dựng đời sống thực sự tự do, hạnh phúc cho mỗi người dân Việt
Nam cũng đều là trách nhiệm và vinh dự của tất cả mọi người.
Đối với các cá nhân hay đoàn thể, tổ chức tự nhiệm vai trò lãnh đạo
phong trào, đề nghi, một kế sách minh bạch như trên là kế sách khiêm tốn
để tất cả các cá nhân, tổ chức lãnh đạo phong trào có cơ hội thấy rõ
tầm vóc qui mô sừng sững thách thức của cuộc Diễn biến dân chủ so với
vai trò, năng lực khiêm tốn của mình trước đại sự quốc gia để cùng nhau
gắng góp sức trong giới hạn khả năng của bản thân. Không một cá nhân hay
đoàn thể cá biệt nào có thể đủ khả năng tự nhiệm toàn bộ công việc và
trọng trách quốc gia. Và vì có kế sách công khai nên cách lèo lái vì
những mục đích tư ích khác đều sẽ sớm bị phát hiện và ngăn chặn bởi toàn
dân, cho nên cách tốt nhất là tất cả cần phải hướng tới sự hợp tác chân
thành vì công ích.
Đối với quốc tế, sự minh bạch của phong trào dân chủ sẽ giúp các quốc
gia khác có những đáp ứng thích ứng. Mặc dù Diễn biến dân chủ là một
chuyển biến ý chí tự quyết, độc lập của người dân trong nước, các quốc
gia khác trên thế giới, về mặt đối ngoại có thể dự kiến các phương thức
hợp tác hữu hiệu, và các chiến thuật yểm trợ đối ngoại nếu cần.
Sau cùng, đối với những cá nhân thuộc bộ máy cai trị của Đảng và Nhà
nước Cộng Sản Việt Nam thì các phân tích, đề nghị đưa ra ở đây sẽ chí ít
giúp họ khẳng định thêm một nhận thức quan trọng: Công cuộc Diễn biến
dân chủ để cứu đất nước ra khỏi hoàn cảnh sinh hoạt xã hội tụt hậu mọi
mặt cực kỳ ngặt nghèo và các nguy cơ bị diệt vong rất cận kề nhất thiết
phải tiến hành, dù bằng mô thức nào, dù nhanh hay chậm, nhất thiết phải
thành công. Do vậy, mọi sự hợp tác hay chống đối, vi bội công trình kiến
thiết chính thể dân chủ đa nguyên cho nước nhà sẽ không có giá trị ngăn
chặn hay dẹp bỏ được trào lưu thời đại và ý chí người dân, mà chỉ có
giá trị duy nhất là hoặc mỗi cá nhân họ hoặc tự ban cho bản thân một cơ
hội để đóng góp, hội nhập vào xã hội theo chính thể dân chủ hoặc là tự
thân bước vào chỗ tiêu vong.
Như đã thưa, bài viết này hẳn nhiên không có tham vọng đề ra một kế
hoạch, một dự kế cho phong trào dân chủ tại Việt Nam, bài viết này chỉ
là những gợi ý, góp nhặt qua kinh nghiệm quan sát các phong trào và các
Diễn biến dân chủ trong thời gian gần đây trên thế giới.
Mục tiêu chính của bài viết này chỉ là một gợi ý để tham khảo và thảo
luận. Những thảo luận và những gì nối tiếp sau những cuộc thảo luận như
thế để đưa đến những kết luận to lớn và đích xác hơn trong tương lai
mới đích thực là quan trọng.
Khải Minh
(NCTVN)
Cơ hội cuối cùng cho “đồng chí X”
Những ai theo dõi diễn biến thời sự Việt Nam chắc đều biết 3 tiếng “đồng
chí X” do ai nói ra đầu tiên. Và “đồng chí X” là tiếng gọi ngắn gọn từ
“một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị” do ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư
đảng CSVN đọc trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị 6 hôm 15/10/2012 tại
Hà Nội. Vì thế bài viết cũng dùng “đồng chí X”, vừa ngắn gọn, vừa không
đụng đến điều úy kỵ để khỏi bị kết tội là “làm lộ bí mật nhà nước”!
Theo báo cáo đúc kết Hội nghị 6, ông Nguyễn Phú Trọng cho biết thì Bộ
Chính trị “nhất trí” đưa “đồng chí X” ra kỷ luật nhưng cuối cùng lại
không dám thực hiện điều đã nhất trí đó (!) mà muốn bán cái qua cho
Trung ương ‘đảng ta’ quyết định. Thái độ chuyển qua cho Trung ương là sự
dè dặt, đúng hơn là vừa lo lắng vừa sợ hãi và cũng để đo lường thanh
thế vây cánh của “đồng chí X”, thay vì là quyết định riêng của Bộ Chính
trị đầy quyền lực như từ xưa nay.
Bộ Chính trị có 14 người, đã gọi là “nhất trí” thì phải có 13 phiếu
thuận. Vì 14 phiếu, tức là có cả “đồng chí X” nhất trí thì đâu cần đưa
ra Trung ương?
Phỏng đoán theo tin đồn từ Hội nghị 6 thì có khoảng 2/3 trên tổng số 175
phiếu không đồng ý kỷ luật “đồng chí X”! Trong số 1/3 đồng ý kỷ luật
lại phải trừ đi 13 phiếu đã “nhất trí” của Bộ Chính trị, cho thấy lực
lượng (không ở trong Bộ Chính trị) chống biện pháp áp dụng kỷ luật là
con số áp đảo! Toàn bộ số người đề nghị “không kỷ luật” ấy hẳn phải có
‘liên hệ đặc biệt’ nào đó với “đồng chí X”. Nói chung, là vây cánh.
Có được lực lượng áp đảo bảo vệ để khỏi bị ‘đàn hặc’ như thế hẳn là họ
phải nhòm ngó đến cái bắt tay của ông Tập Cận Bình với “đồng chí X” tại
Hội chợ Nam Ninh, Trung Quốc hôm 20/9/2012 như đã kể trong bài trước!
[1] Cái bắt tay đó là xác tín “đồng chí X” được tại vị! Chính vì thế
nhóm các ông Tổng Bí thư và Chủ tịch nước vội vã cho triệu tập Hội nghị 6
sớm hơn hai tuần tức ngày 1/10, thay vì là ngày 15/10/2012 như dự trù,
để vây cánh “đồng chí X” không có đủ thời gian lobby nội bộ, mong đảo
ngược được tình thế!
Thế nhưng, cuối cùng Hội nghị 6 cũng thất bại!
Kết quả đó cho thấy là bất chấp mọi hậu quả tệ hại, do lộng hành quyền
lực đã đưa đất nước đến tình trạng bị khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt,
đặc biệt là kinh tế, nhưng phe cánh “đồng chí X” vẫn rất mạnh nên “đồng
chí X” không bị ‘đàn hặc’!
Phe “đồng chí X” đã thắng! “Đồng chí X” được tại vị! Nhưng uy tín thì
coi như chẳng còn bao nhiêu! Trùm quyền lực đã mất nên khả năng che chở
cho đám đàn em sẽ không còn như trước. Bên cạnh đó bị phe Tổng Bí thư và
Chủ tịch nước tiếp tục theo dõi tìm mọi cách cô lập. Vì thế phe cánh
“đồng chí X” mỗi người đều phải có toan tính riêng trước một tương lai
bất định!
Vì bản chất tiền, bất kể đạo lý, nên họ sẽ ‘gone with the wind’! Trong ngày tháng sắp tới, gió thổi chiều nào, họ theo chiều đó!
Mặt khác, hai ông Tổng Bí thư và Chủ tịch nước sau thất bại ‘đàn hặc’,
đã nhanh chóng hoạt động tuyên truyền ngay tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh
về chống tham nhũng, về làm trong sạch guồng máy lãnh đạo, về sự thoái
hóa của “một số đảng viên”… với mong muốn gỡ gạc chút sĩ diện. Và ngọn
cờ nầy đang hợp với sự phẫn nộ của toàn dân, nên sẽ được giơ cao để tìm
cách thu phục lại nhân tâm. Tìm lại sự ủng hộ từ các đảng viên trung
kiên, hưu trí cho nên ‘cuộc chiến’ vẫn đang tiếp diễn quyết liệt! Mới
nhất, là lời kêu gọi họp đảng giữa kỳ của cán bộ hưu trí. [2]
Vì thế nên việc Bộ Chính trị, qua ông Nguyễn Phú Trọng, trực tiếp “nhận
lỗi trước Trung ương” mà không kỷ luật bất cứ ai, chỉ là cái thu mình
của những con beo chờ cho con mồi bị ngấm thương tích, sức sẽ yếu dần
trước khi dùng toàn lực phóng tới vồ, sau ‘đàn hặc’ hụt!
Một ông lú lẫn, trung kiên với lý thuyết cộng sản đã lỗi thời, một ông
thì kêu gọi kiểu bình dân Nam bộ: “Đó chỉ là quyết tâm chính trị, điều
dân và đảng đang đòi hỏi chính là hành động”. “Bà con làm ơn làm phước
nói lên sự thật, tố cáo những cán bộ đảng viên tham nhũng…” “Người ta có
thể trù úm một người, một nhóm người nhưng không thể trù úm cả dân tộc
này.” …Với thái độ, hành động nhanh nhẩu và loại ngôn ngữ tuyên truyền
như thế, không sớm thì muộn, phe cánh “đồng chí X” cũng sẽ trở thành
thiểu số! “Đồng chí X” sẽ càng bị cô lập. Bị cô lập ngay với đám ‘đệ tử’
trước kia. Bị cô lập ngay giữa Trung ương ‘đảng ta’. Bị cô lập với giới
tài phiệt đã một thời kề vai sát cánh. Những lobby hợp đồng béo bở sẽ
không còn.
Nhà nước thì nợ chất cao như núi. Boxit Tây nguyên, dù “đó là chủ trương
lớn của Đảng!” cũng sẽ bị quật ngược, là do thiếu khả năng lãnh đạo nên
cho đến bây giờ vẫn chưa đâu vào đâu… và còn hàng vạn lý do khác kiểu
“trăm dâu đổ đầu tằm”!
Thế và lực đã như vậy thì “đồng chí X” sẽ lãnh đạo được ai và làm việc với ai?
Riêng về gia đình, dòng họ “đồng chí X”, đã và sẽ tiếp tục là cái gai
trong mắt toàn ‘đảng ta’, toàn dân. Chỉ nội việc thế giá giàu có không
thôi cũng đủ làm cho các đồng chí khác nhức mắt. Nên một ngày nào đó
biết đâu lại không xảy ra việc “cần điều tra để làm sáng tỏ”?
Cái bắt tay với ông Tập Cận Bình hôm Hội chợ Nam Ninh, nếu nhận được một
hứa hẹn nào đó, thì cũng chỉ nhất thời. Mục đích chính của Trung Quốc
là chủ trương chia rẽ thêm nội bộ đảng CSVN, để dễ bề xử dụng nhân sự
chóp bu, hầu sớm đạt được kế hoạch dài hạn cho Trung Quốc. Đó là xâm
chiếm biển Đông và trừ tiệt việc đối kháng của Việt Nam từ trứng nước!
Lịch sử đương đại đã chứng minh, vụ Thành Đô với nhóm quy hàng của ông
Nguyễn Văn Linh, vụ Boxit, biên giới, biển đảo với nhóm của ông Nông Đức
Mạnh và bây giờ, là nhóm của các ông đang lãnh đạo đảng, để hoàn tất kế
hoạch trên!
Và, chắc chắn Trung Quốc cũng không thể là nơi “đồng chí X” có thể dung thân sau nầy!
Thế đã đến chân tường. Lực thì càng kéo dài càng bị suy sụp. Cho nên,
chỉ còn cách sau cùng là gom mọi sức lực, còn có thể được, để làm một
cuộc cách mạng giải phóng Việt Nam ra khỏi họa cộng sản, trước khi quá
muộn!
Đây là con đường duy nhất để “đồng chí X” trở về với dân tộc!
Bản chất khoan dung của người Việt Nam rất lớn. Vì thế mới có câu “Vứt
dao đồ tể thành Phật” được loan truyền rộng rãi trong dân gian! Cho nên
“đồng chí X” vứt được con dao cộng sản đầy máu và nước mắt của người
Việt Nam đang cầm trên tay, làm cuộc cách mạng giải phóng Việt Nam, thì
chắc chắn sẽ được ghi tên vào lịch sử!
Cuộc cách mạnh xảy ra không những “đồng chí X” tự cứu bản thân, gia đình
và cũng cứu được biết bao nhiêu cá nhân và gia đình khác trong hàng ngũ
quân đội, công an và các viên chức cùng tâm trạng với toàn dân đang
phẫn nộ chế độ nhưng vì sợ hãi và chuyện cơm áo, nên họ phải ngậm đắng
nuốt cay chịu điều tiếng!
Cuộc cách mạng xảy ra sẽ là cơ hội để họ quay về với dân tộc! Thế đứng
của họ trong chế độ hậu cộng sản chắc chắn sẽ được tôn trọng và xử dụng!
Còn lưỡng lự, là tự mình mang họa. Vì một ngày, có thể rất gần, tại sao
“đồng chí X” không thể là một Bạc Hy Lai Việt Nam trong đấu trường chính
trị?
Hôm qua, ngày 22/10/2012, ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng, thay mặt cho
nội các của ông đã công khai ‘xin lỗi’ trước Quốc hội khóa 13. [3]
Và ngày trước đó, nói chuyện tại trường Đại học Quốc gia, tp Hồ Chí Minh
ông cũng đã khuyên sinh viên đề cao lòng tự trọng: “Công tác giáo dục
đạo đức, lối sống để mỗi cán bộ, công chức có lòng tự trọng, có trách
nhiệm cao với đất nước cũng có vai trò rất quan trọng,” [4]
Mong rằng lời của ông Thủ tướng là chân thành, có giá trị và phải được
lắng nghe. Lời ông nói phải xuất phát từ đáy lòng của người đang đang
lãnh đạo đất nước.
Hy vọng lời nói đó sẽ được “đồng chí X” áp dụng và thực hiện triệt để, để làm gương!
Không có chỗ dựa nào vững chắc bằng dân tộc. Vì chế độ chỉ là tạm thời, còn đất nước và dân tộc mới trường cữu!
(Oct 22th, 2012)
© Hồ Phú Bông
© Đàn Chim Việt
——————————————–
[1] http://www.danchimviet.info/archives/67213
[2]http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/10/121019_tran_quoc_thuan.shtml
[3] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/10/121022_dung_apologises_na.shtml
[4]http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/10/121021_dung_public_remarks.shtml
Bình thường hóa ĐCSVN là một lối thoát duy nhất
Ngay từ khi mới được thành lập ĐCSVN đã khác với những đảng cộng sản
cùng thời trên thế giới ở chỗ, không phải là một đảng thuần nhất, mà là 2
đảng bị Staline ghép lại với nhau để dễ bề chi phối.
Sau khi bị ghép, ĐCSVN trở thành một đảng 2 phái : Phái Trần Phú hoàn
toàn tuân thủ mọi mệnh lệnh đến từ Staline, được coi là phái “Ngoại
bang”. Phái “Dân tộc” của ông Hồ luôn luôn đi hàng đôi: một phần dựa vào
Đệ Tam Quốc tế để kiếm sống, một phần dựa vào dân tộc để có chính
nghĩa. Hai phái luôn luôn tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Ông Hồ khôn ngoan
hơn, không nề hà khi phải mượn bàn tay thực dân Pháp để tiêu diệt đối
thủ cũng như tự đầu quân dưới trướng Tưởng Giới Thạch trong cái gọi là
Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội cùng với Nguyễn Hải Thần để bảo vệ mạng
sống của mình.
Khi cướp được chính quyền năm 1945, trong đảng vẫn chia làm 2 phái: phái
nắm guồng máy “Lãnh đạo” đứng đầu là Tổng Bí thư, phái nắm guồng máy
“Quản lý” đứng đầu là Thủ tướng chính phủ.
Trong suốt thời gian từ 1946 cho tới khi Đổi Mới, ĐCSVN luôn luôn bị
phái Lãnh đạo khống chế với những người cầm đầu như Trường Chinh, Lê Đức
Thọ, Lê Duẩn. Thực quyền nằm ở trong tay những người này, khiến ông Hồ
tuy mang tiếng là lãnh tụ cũng chỉ có tiếng mà không có miếng. Ông Phạm
Văn Đồng, người giữ chức vị Thủ tướng lâu nhất thế giới, cũng chỉ như là
một người quản gia già bằng lòng với thân phận của mình.
Chỉ từ khi khuôn mẫu “Tập trung bao cấp” của Stalin sau 75 được Lê Duẩn
đem áp dụng từ Bắc chí Nam bị phá sản, bắt buộc ĐCSVN phải trả lại một
phần tự do kinh tế cho người dân, phái “Quản lý”, cầm đầu bởi những Thủ
tướng người miền Nam, được sự hỗ trợ của nền kinh tế miền Nam được phục
hồi và nguồn đầu tư nước ngoài, mới đủ sức đương đầu với phái “Lãnh đạo”
cầm đầu bởi những TBT Đảng, người miền Bắc.
Thế sự xoay vần, phái Quản lý trở nên mỗi ngày một mạnh, nhất là với
Nguyễn Tấn Dũng. Từ nhiệm kỳ 2, Nguyễn Tấn Dũng không coi TBT mới của
Đảng là Nguyễn Phú Trọng ra gì nữa. Hai phái trong Đảng được “cá nhân
hóa” để trở thành 2 phe : phe “TBT Nguyễn Phú Trọng” và phe “TT Nguyễn
Tấn Dũng”. Sự tranh đua giữa 2 phái trong Đảng trở thành sự đấu đá giữa 2
cá nhân Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng trong sự tranh giành quyền
và lợi.
Tuy cá nhân NPT hơn hẳn cá nhân NTD về mặt trí thức, nhưng đó cũng là
điểm yếu của NPT: quá giáo điều, quá lú lẫn, chỉ biết bám vào cái gọi là
CN Mác-Lê, lại thiển cận, nhu nhược, không có bản lĩnh như NTD, một con
người đầy tham vọng, hoàn toàn thực tiễn, không cần biết lý thuyết là
gì, chỉ tin vào sức mạnh của CA và tiền tài của giới đại gia, nên từ 10
năm nay đã biết tạo cho mình một lực lượng hùng mạnh mà nòng cốt là Công
an và giới kinh tài.
Được sự hỗ trợ của 2 “lực lượng” này nên mỗi ngày phe “TT” một lấn áp
phe “TBT” trong việc phân chia quyền hành và quyền lợi, bắt buộc phe
“TBT” phải dựa vào Trung Quốc về tài chính và chính trị để tìm cách lật
lại thế cờ.
Ngoài việc phải dựa vào ngoại bang, phe “TBT” còn lôi kéo một nhân vật
đang đứng chầu rìa là CT Nước, với hứa hẹn khi loại bỏ được NTD, CT Nước
TTS sẽ là thủ lãnh phe miền Nam và trở thành Thủ tướng.
Kết quả của HNTW6 cho thấy phe TBT đã bị thất bại nặng và mất cả chì lẫn
chài. Chỉ cần phân tích một câu trong Phát biểu dài 6472 chữ của ông
TBT là đủ thấy Phát biểu này chỉ là một bức hàng thư nhận tội trước mặt
đông đủ bá quan:
“Bộ CT đã thống nhất 100%, đề nghị BCHTW cho được nhận một hình thức kỷ
luật và xem xét kỷ luật đốii với một đồng chí Ủy viên BCT”:
BCT cả thẩy có 14 đồng chí, trừ đi Một Đồng chí Ủy viên BCT tức là cả 13
đồng chí còn lại, có tên tuổi rõ ràng, đều xin nhận hình phạt kỷ luật
(sanction disciplinaire) để đổi lại sự “xem xét kỷ luật” một Đồng chí mà
ông TBT không dám gọi tên – vì sợ thêm tội phạm húy có thể bị chu di
tam tộc -. “Xem xét kỷ luật” là cái quái gì ? Ai giỏi tiếng Tây, tiếng
Tàu, dịch giùm. Nhưng chắc chắn là bố bảo, 175 đồng chí ủy viên TW6 cũng
chả dám “xem xét” Đồng chí Không Tên này. Ban Chấp hành chỉ còn có nước
xí xóa tội của cả 13 đ/c Ủy viên BCT, kể cả đ/c TBT để khỏi phải “xem
xét”.
Nghe kể lại trước khi Hội nghị TW bỏ phiếu, phe NPT khẩn khoản xin đừng
bỏ phiếu để khỏi bị mất mặt. Nhưng những nhân vật nặng kí trong phe NTD
không chịu. Kết quả là NTD được 129/175 phiếu ủng hộ. Đối với Tây phương
tỷ lệ ủng hộ này rất cao: từ trước tới nay chưa có 1 ứng cử viên các
nước dân chủ Tây phương nào đạt được như vậy. Nhưng cái cần biết là
trong số 46 vị cầm số phiếu còn lại, có bao nhiêu vị dám phủ quyết ?
Thật ra rất dễ đoán biết vì chỉ có 5 vị Trung ủy dám công khai đề nghị
“xem xét kỷ luật đồng chí NTD”, cộng với TBT và CT Nước, cả thẩy là 7
vị. Còn lại 39 vị đều lẩn mất. 5 vị xứng đáng được tôn là những Samourai
của TBT và CT Nước, là:
- Nguyễn Doãn Khánh, BT Tỉnh ủy Phú thọ
- Huỳnh Ngọc Sơn, Phó CT QH
- Vũ Trọng Kim, Phó CT UBTW Mặt trận Tổ quốc.
- Phạm Quang Nghị, BT Thành ủy Hà Nội
- Phan Văn Sáu, BT tỉnh ủy An Giang
5 vị này làm sao mà địch được với những tướng lãnh oai phong lẫm liệt
dưới trướng ngài Thủ tướng như Đại tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng bộ
Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng bộ QP, Đô đốc Hải
quân Nguyễn Văn Hiến, Trung tướng Tô Lâm, thứ trưởng bộ CA. Những vị này
đã nhất quyết đòi cho được có cuộc bỏ phiếu để biết những ai dám chống
ngài Thủ tướng. Số phận của 5 vị Samourai kể trên chỉ còn treo trên sợi
tóc!
Cũng cần cảm thông với các vị bí thư Trung ủy bị bắt buộc phải tới chứng
kiến cuộc đấu đá giữa 2 phe trong Đảng : tuyệt đại đa số những vị này
đều chỉ là những chong chóng gió thổi chiều nào quay chiều ấy. Gió thổi
theo chiều đồng chí Không tên. Thấy Đồng chí Không tên mạnh thì bỏ phiếu
cho Đồng chí để sớm được về nhà với vợ con, tiếp tục truất hữu đất
người dân, lấy đất xây tư dinh, làm sân golf chứ!
Sở dĩ phe TBT chịu muối mặt như vậy vì chỉ muốn còn giữ được một vài chỗ trong những cơ cấu hái ra tiền là:
Doanh nghiệp Nhà nước: “Quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh
nghiệp Nhà nước, đặt biệt là nhân sự Chủ tịch Hội đồng Quản trị,Tổng
Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Bí thư đảng ủy doanh
nghiệp”. Nói cho dễ hiểu hơn : Các ông chủ doanh nghiệp Nhà nước cũng là
những bí thư đảng mà đa số là chân tay của NPT.
Sở hữu đất đai: “Trung Ương tiếp tục khẳng định : quyền sử dụng đất đai
không phải là quyền sở hữu”. Đất đai vẫn không phải là của dân mà là ”
của toàn dân”, nghĩa là của Đảng, của các lãnh chúa thay mặt Đảng “Lãnh
đạo” là các vị Bí thư từ xã, tới tỉnh.
Vấn đề là Đồng chí ủy viên BCT X có chịu dừng lại không hay cứ tiếp tục
làm tới để ĐCSVN không còn là một đảng 2 đầu : Đầu “Đảng Lãnh đạo” của
TBT sẽ bị chặt. Chỉ còn đầu “Đảng cầm quyền” của TT. ĐCSVN sẽ được “bình
thường hóa” để trở thành công cụ phục vụ tham vọng của Thủ tướng được
mang thêm tên là Đồng chí X. 4 năm nữa hết nhiệm kỳ 2, Đồng chí X sẽ từ
bỏ chức vụ Thủ tướng để nắm chức vụ Chủ tịch nước với đầy đủ uy quyền
như Putin, như Hồ Cẩm Đào. TBT NPT khi đó chỉ còn có nước chạy sang Tàu
như Lê Chiêu Thống, xin Thiên triều đem quân qua hỏi tội NTD. Cũng có
thể NTD sẽ nhanh chân hơn, đem lễ vật tới Bắc Kinh triều cống xin Thiên
triều xá tội. Khi đó NPT chỉ còn có nước xin một chân thư ký trong Ban
Nghiên cứu CN Mác-Lênin-Mao-Khổng ở đảo Tam Sa!
Người có thể lật ngược thế cờ là TTS nếu có đủ bản lãnh thống nhất ĐCSVN
và đặt dưới quyền mình với tư cách Chủ tịch Nước kiêm Chủ tịch Đảng để
hướng Đảng đi về phía Xã hội-Dân chủ, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin. Làm
được như vậy, Chủ tịch nước mới hi vọng có được sự hậu thuẫn của toàn
dân, đủ sức đối đầu với xu hướng Tư bản – Công an quân phiệt của NTD.
Tiếc là CT Nước đi đến cơ sở của mình ở tận Q1 TPHCM thăm cử chi của
mình, cách tư dinh của Thủ tướng 1700 cây số mà còn sợ phạm húy, chỉ dám
gọi đích danh thủ phạm là Đồng chí X, thì hi vọng gì có đủ can trường
đối đầu với ngài Thủ tướng! Hi vọng ĐCSVN được bình thường hóa bởi một
nhân vật thứ ba trong tuồng Tam Quốc chí version ĐCSVN là Chủ tịch Nước
TTS, cũng khó thành.
© Phong Uyên
© Đàn Chim Việt
Có nên tin vào họ sau Hội nghị TW6?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cười tươi phía sau Tổng thư ký Tổng Nguyễn
Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hôm 22 tháng 10 năm 2012.
Sau hội nghị TW6, ba lãnh tụ cao nhất nước là ông Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đều
có những tiếp xúc cử tri từ Sài Gòn cho tới Hà Nội.
Người ta chú ý trong cả ba cuộc nói chuyện đó đều có liên quan đến vần
đề chống tham nhũng. Tổng bí thư cho biết sắp tới sẽ không để xảy ra
những vụ như Vinashin, Vinalines, Chủ tịch nước thì yêu cầu người dân
tiếp tay chống tham nhũng bằng cách chỉ rõ những cá nhân vi phạm. Trong
khi đó Thủ tướng lại cho rằng cán bộ công chức nhà nước phải đề cao lòng
tự trọng để khỏi rơi vào tình trạng tham nhũng.
Mặc Lâm phỏng vấn GSTS-KH Nguyễn Minh Thuyết nguyên đại biểu quốc hội và
là người từng lên tiếng trước quốc hội yêu cầu ngưng chức thủ tướng
Dũng trong vụ Vinashin để điều tra.
"Giáo dục lòng tự trọng"
Ông Nguyễn Minh Thuyết cho biết cảm tưởng của mình:
Tôi muốn nói thêm là theo tin tức trên báo chí mới ngày hôm trước, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng có đến thăm Đại học Quốc gia TP.HCM, và tại đây
thì ông có những ý kiến rất sâu sắc về phòng chống tham nhũng. Ông đã
nói với cán bộ và sinh viên của Đại học Quốc Gia TP.HCM về đấu tranh
phòng chống tham nhũng. Không phải chỉ có sử dụng pháp luật mà còn phải
giáo dục cho người ta cái lòng tự trọng. Tôi thấy ý kiến này nó sâu sắc
lắm. Nhưng cũng như tất cả các ý kiến khác của các nhà lãnh đạo, chúng
tôi thấy là nó không bao giờ biến thành hiện thực.
Đó là điều hết sức ngạc nhiên. Các vị ấy có đầy đủ bộ máy, đầy đủ quyền
lực ở trong tay mà cũng không thực hiện được những điều mình nói, thì có
thể nói là những lời nói ấy không được nhân dân người ta chú ý nữa. Mà
nếu có chú ý thì người ta chú ý theo khía cạnh khác.
Mặc Lâm : Thưa Giáo Sư, theo Hội nghị Trung ương 6 thì tên của một vị
trong ban bí thư trung ương đã được Tổng bí thư gọi là “một đồng chí ủy
viên Bộ chính trị” và nhiều người cho rằng sự giấu giếm này rất nguy
hiểm cho công cuộc chống tham nhũng. Mới đây thì Chủ tịch nước lại lên
tiếng kêu gọi người dân tố cáo tham nhũng bằng cách ghi rõ cá nhân vi
phạm. Việc này có mâu thuẫn với hành động của chính các ông ấy hay không
ạ?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Tôi được biết tên của vị ủy viên Bộ chính trị mà
có khuyết điểm và được Bộ chính trị biểu quyết 100% đề nghị kỷ luật thì
đã được nêu rõ và cũng nêu rõ cả ưu điểm – khuyết điểm trong quá trình
lãnh nhiệm vụ của nhà nước giao cho trong những buổi phổ biến kết quả
hội nghị trung ương 6 trong nội bộ đảng. Anh em trong đảng bộ Quốc hội
người ta nghe phổ biến nghị quyết thì người ta cũng kể lại với tôi là
khi phổ biến nghị quyết thì báo cáo viên đã nếu rõ tên của vị đó. Thế
nhưng toàn dân thì lại không được biết rõ tên.
Ngay trong các phát biểu chính thức như vậy mà các lãnh đạo cấp cao còn
tránh né không nêu tên người có khuyết điểm thì tôi nghĩ rằng bây giờ
mình lại động viên nhân dân mạnh dạn phòng chống tham nhũng thì chuyện
ấy rất khó.
Sự thật cho thấy như thế này, qua nhiều cuộc tổng kết khen thưởng những
người có thành tích đấu tranh chống tham nhũng thì người ta thấy rằng
gần như tất cả người nào đã đấu tranh chống tham nhũng thì đều bị bầm
dập cả. Đều bị những áp lực ghê gớm, có những thiệt thòi ghê gớm trong
đời sống. Qua đó thì thấy rằng đấu tranh chống tham nhũng không phải là
dễ.
Bình thường người tham nhũng phải là người có chức có quyền. Bây giờ bảo
một người dân bình thường đấu tranh như vậy đến lúc gặp khó khăn thì ai
bênh vực? trong khi người ta thấy chính trong văn bản phát biểu chính
thức của cấp cao mà họ còn né tránh thì dân làm sao dám?
Công cuộc chống tham nhũng
Mặc Lâm : Qua những dấu hiệu như thế thì có người cho là công cuộc
chống tham nhũng đang lâm vào đường cùng, Giáo Sư có chia sẻ sự thất
vọng này hay không, thưa ông?
GS Nguyễn Minh Thuyết : Tôi thấy có thể nói là hết sức là thất vọng mặc
dù tôi cũng biết trước rằng kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng khó
có thể nhìn được ngay. Có thể lường trước những cái phức tạp, những cái
khó khăn khi mà hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam thảo luận, bàn bạc về kết quả kiểm điểm của các vị lãnh đạo tối cao
theo tinh thần của Nghị Quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương.
Có thể nói sau khi nghe kết quả thì tôi cũng hết sức thất vọng. Tôi cũng
nói thật với ông là bây giờ tôi không đọc các bài báo đề cập tới vấn đề
ấy nữa. Và nếu mà anh em báo chí trong nước có hỏi thì tôi cũng không
trả lời về vấn đề ấy vì tôi thấy không để làm gì cả. Mình chỉ nói khi
nào tiếng nói của mình có người nghe, có người tiếp thu, và mình thấy
thực sự là người ta cũng đã có những động thái nhất định để chống tham
nhũng và có những kết quả trong việc chống tham nhũng.
Thực ra thì lời nói và việc làm của người ta hoàn toàn không đi đôi với
nhau và mình nói ra thì cũng chả giải quyết được vấn đề gì. Và nói thật
là anh em báo chí trong nước người ta chả dám đăng những lời lẽ nói thật
của mình. Cần lưu ý rằng kết quả này là kết quả gây bức xúc cho đại bộ
phận người dân, và đó là điều tôi thấy là rất đáng lo lắng.
Mặc Lâm : Đối với người dân thì tham nhũng ăn dần váo chén cơm manh
áo của họ, còn đối với 3 triệu đảng viên thì lòng tin của họ đặt vào
đảng đang bị tham nhũng ăn mòn. Giáo Sư có nghĩ rằng sẽ có một cuộc trở
mình nào đó xảy ra ngay trong lòng Đảng CSVN hay không, nếu tình hình cứ
tiếp tục diễn tiến như thế này?
GS Nguyễn Minh Thuyết : Mỗi một người ở một ví trí khác nhau, có những
điều kiện sống khác nhau, và sự gắn bó mật thiết với đảng, với chế độ
cũng khác nhau, cho nên là có thể suy nghĩ của người ta cũng không hoàn
toàn là giống nhau. Tất cả những người mà tôi đã gặp, đã nói chuyện thì
đều bày tỏ sự bất bình, sự bức xúc rất to lớn sau khi trung ương họp lại
có một kết quả đáng buồn như vậy. Tôi nghĩ rằng có thể ở trong trường
hợp chúng ta đã đề cập thì tốt nhất là nên có hành động thể hiện sự tự
trọng của mình, đó là từ chức. Bởi vì không thể nào vì sĩ diện hay quyền
lợi cá nhân mà lại để mất mát niềm tin của người dân quá lớn như vậy,
và chấp nhận mất mát uy tín của một đảng chính trị, của một chế độ lớn
như vậy.
Thực ra sự việc này nó chỉ làm cho người dân càng hiểu rõ hơn đà phát
triển của xã hội Việt Nam. Còn ông nói là nó dẫn đến một kết quả đổ vỡ
gì thì tôi cũng phải nói thật là ở Việt Nam sự việc ấy nó sẽ kéo dài rất
lâu chứ nó cũng không phải là đơn giản .
Mặc Lâm : Xin cảm ơn GS Nguyễn Minh Thuyết đã giúp cho chúng tôi hoàn thành cuộc phỏng vấn ngày hôm nay.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-10-22
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
Cánh Cò - Phe hay đảng?
Sau hội nghị 6, cư dân mạng được
một lúc say đắm với cái ngậm ngùi của ông Trọng trong bài diễn văn lòng
thòng và chốt lại chỉ bằng vài chữ
"một đồng chí ủy viên Bộ chính trị".
Câu nói trong ngoặc này thật ra rất khó khăn mới được phép trình làng
sau hai tuần họp kín. Lớn nhất nước như ông Trọng mà còn run khi nhắc
đến "người ấy" đủ cho thấy phe cánh mà "người ấy" đang nắm có thể tiêu
diệt gọn gàng một cái đảng từng tự phụ không có ai mạnh và cao quý bằng
mình.
Đảng Cộng sản xem vậy mà lại sợ khiếp
vía một đảng khác, tuy không tên, không cương lĩnh, không văn phòng và
cũng không cờ xí gì nhưng sức mạnh của nó hiện nay đã vượt mọi đánh giá.
Nó có cái tên rất bình dân, rất quen thuộc: "bè cánh"... mà người dân
gọi nôm na là "phe".
Chữ "phe" luôn đi trước chữ "đảng".
Phe của "người ấy" mạnh và có mặt tứ phương. Tiền bạc đã có hàng trăm
đại gia dấu mình hy sinh cho phe. Tình báo kinh tế hay chính trị đã có
hệ thống dày đặc và hiệu quả của công an. Phe cánh trải dài từ Bộ chính
trị cho tới từng ủy viên trung ương của 64 tỉnh thành và hàng trăm vị
trí trọng yếu khác. Bè cánh của "người ấy" chỉ còn chờ hô một tiếng là
đạp đổ luôn cái gọi là Đảng cộng sản nay chỉ còn là cái xác ướp, không
cách nào tự mình đứng lên dù chỉ khập khiễng để tiến về hướng Xã hội chủ
nghĩa mộng ảo như lời hiệu triệu của những tay cáo già, lưu manh mượn
"tính đảng" để đầu cơ chính trị.
"Người ấy" là ai, cả nước đều biết là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng cả nước cũng biết tại sao ông Trọng không dám hô tên.
Thử nhìn xem, cơ ngơi ông Dũng, con
cái ông Dũng, tài sản ông Dũng cho tới cái nhỏ nhất của ông ấy là căn
nhà từ đường cũng đủ đè bẹp cả hai ông Sang và Trọng cộng lại.
Nếu đảng Cộng sản Việt Nam mạnh như nó
tự hào thì không lý gì lại thả cọp về rừng. Cơ sự tới hôm nay đã được
bạch hóa: "phe" ông Dũng không còn coi đảng Cộng sản là một tổ chức
nghiêm ngặt, quyền lực và đáng sợ như cách đây vài năm. Con số "phe"
trong đảng không bỏ phiếu chống lại người của mình nhiều hơn gấp ba lần
phe của "đảng". Ông Trọng ông Sang còn được lên tiếng vì được sự cho
phép của "phe" nhằm tạo một sự "cân bằng ảo" trước dư luận. Tuy nhiên
hai ông phải ngầm hiểu rằng không được tiến xa hơn thế. Vạch đỏ đã được
vẽ ra và sau bài diễn văn ngắt ngứ ấy là dấu chấm hết gọn gàng cho những
cố gắng đầy gian nan mà kết quả thu được không gì đáng hỗ thẹn bằng.
Sở dĩ "đảng" Cộng sản còn được "phe"
giữ lại vì nó vẫn còn tác dụng ru ngủ đối với những đảng viên ngây thơ
vẫn hết lòng tin rằng đảng không bao giờ sai chỉ những người theo đảng
nhưng không hết lòng trung với đảng mới sai mà thôi.
Khi ông Trọng được phép nói rằng100%
người bỏ phiếu chống "một đồng chí ủy viên Bộ chính trị" tuy hài hước
nhưng vẫn có cái lý của nó. Khán giả khi xem một vở kịch câm thì khuôn
mặt của diễn viên là tất cả. Ở điểm này ông Trọng hoàn tất vai diễn của
mình bằng cái rưng rưng của một người thất trận. Cái thúng của "đảng"
mang tên Hội nghị 6 được mang ra úp lên con voi "phe" đã làm cả nước
cười ầm. Sau khi hội trường lạnh ngắt bóng người, hai ông Trọng và Sang
về nhà nhưng vẫn ấm ức, mượn điều ra mắt cử tri để tiếp tục nhắc lại cái
con voi ấy cho đỡ mất ngủ nhưng do còn sợ, đành phải dùng một đại từ
gọn nhẹ hơn: đồng chí X.
Đồng chí X sau vài ngày im lặng đã ung
dung tới đọc diễn văn khen thưởng trong một buổi lễ của Đại học Công an
và trở về vị trí cũ với một hình ảnh mới: người xây mầm lý tưởng cho
thế hệ trẻ trong giảng đường Đại học.
Từ Đại học Công an tại Hà Nội, đồng chí X bay về Đại Học Quốc gia thành phố HCM.
Đồng chí X không thèm tới những nơi mà
thiên hạ đã chán ngấy. Trường đại học mới xứng tầm và bài diễn văn hôm
ấy càng xứng tầm hơn. Bài diễn văn đánh vào cả cái Bộ chính trị, nơi mà
ông Trọng cho rằng 100% đồng ý rằng đồng chí X có những sai sót, bao che
và thậm chí dấn sâu vào tham nhũng.
Đồng chí X nói lại, công khai và hiên
ngang trước cử tri trong khuôn viên một trường đại học lớn nhất nước.
Bài nói chuyện được TTXVN ghi lại:
"
Về đề
xuất của cử tri trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng khẳng định Chính phủ đặt quyết tâm cao trong việc đấu tranh,
ngăn chặn, đầy lùi vấn nạn tham nhũng, gắn với việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI).
Chính phủ cũng đã vừa tiến hành tổng kết, đánh giá việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 và Luật phòng chống tham nhũng; từ đó, nhận ra
những khuyết điểm, hạn chế để có biện pháp khắc phục; đồng thời trình
Quốc hội cho ý kiến sửa đổi sao cho Luật Phòng chống tham nhũng phù hợp
hơn, sát với điều kiện nước ta hơn và thực thi đem lại hiệu quả cao hơn.
Thủ tướng nhấn mạnh phòng chống tham nhũng không chỉ bằng pháp luật
mà còn ở vấn đề con người. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống để mỗi
cán bộ, công chức có lòng tự trọng, có trách nhiệm cao với đất nước cũng
có vai trò rất quan trọng. Ngoài ra, để phòng chống tham nhũng
có hiệu quả còn phải có trách nhiệm của cả cộng đồng, nhân dân trong
việc giám sát, đấu tranh. Trong phòng chống tham nhũng, Nhà nước cũng
phải có trách nhiệm đảm bảo đời sống, thu nhập cho cán bộ, công chức."
Một người
bị toàn bộ 100% trong tập thể Bộ chính trị đòi kỷ luật vì tham nhũng
lại có những câu phát biểu hùng hồn, đáng yêu đến vậy hay sao? Lần này
thì "đảng" bị "phe" cho vào bẫy. Nói như nhà báo Huy Đức thì cái bẫy
việt vị đã đốn ngã cả hai ông Sang Trọng chứ không phải là đồng chí X,
đồng chí Y nào cả.
"Phe" đã mạnh thì còn sợ gì "đảng"?
Nếu không
muốn nói ngược lại, "đảng" đang tìm mọi cách tránh né con voi "phe" nay
đã quá khôn ngoan và hệ thống quyền lực của nó đã vươn ra khắp chốn.
Người theo đảng ngày càng ít vì "không có gì", thậm chí còn bị truy sát
đến nỗi một đại biểu quốc hội mà còn gửi đơn kêu cứu để rồi cuối cùng
quốc hội cũng bị "phe" dằn mặt nên nghe đâu phải tỵ nạn... thì có gì mà
"phe" không làm được.
Người dân
ngu lại hay thắc mắc: sao hai bên không gộp làm một cho mạnh hơn nhỉ?
Lúc ấy chúng tôi không còn bối rối vì không biết ông nào "phe" ông nào
"đảng". Phe đảng không phải là danh xưng tốt và hợp lý nhất cho cả hai
bên hay sao?
(
CanhCo's Blog)
Nguyễn Hưng Quốc - Tôi mong tôi sai
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
22.10.2012
Trong buổi tiếp xúc với các cử tri tại quận 1 thành phố Hồ Chí Minh
ngày 17/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có mấy câu phát biểu được
nhiều cơ quan truyền thông quốc tế và các blogger trong nước tâm đắc và
trích dẫn.
Trước hết, ông Trương Tấn Sang nhận xét: “Việc xây dựng một mét cầu hay
một mét đường đắt hơn gấp đôi so với Thái Lan và Trung Quốc. Nói mãi,
kiểm tra mãi vẫn chưa ra. Điều này
chắc chắn có yếu tố tham nhũng.”
Rồi ông nhấn mạnh:
“
Tham nhũng đang là 1 vấn nạn nghiêm trọng. Ban đầu là 1 bộ phận, sau đó là 1 bộ phận không nhỏ, và giờ thì có đồng chí còn nói là cả 1 tập đoàn.”
Ông còn nói thêm, tham nhũng không những chỉ phổ biến mà còn len lỏi đến
tận hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất trước sự bất lực của cả Bộ chính
trị. Chính vì vậy Bộ chính trị mới nhận khuyết điểm và mới phê phán gay
gắt cá nhân “đồng chí X”, vốn là một ủy viên Bộ chính trị, dù cuối cùng,
Ban chấp hành Trung ương đảng không đi đến một quyết định kỷ luật nào
cả. Ông nói:
"Cả Trung ương không ai phản đối [về] cái khuyết điểm của Bộ chính trị
và cá nhân đồng chí đó. Không ai phản đối. Chúng tôi theo dõi trong suốt
thời gian Hội nghị không ai phản đối cả.”
Không phản đối nhưng cũng không đồng ý xử kỷ luật. Tại sao?
Ông giải thích:
“Chỉ có cân nhắc tình hình hiện nay, cân nhắc lợi hại thì quyết nghị là
không thi hành kỷ luật. Như vậy không có nghĩa là Bộ Chính trị không có
lỗi, không phải là cá nhân
đồng chí ‘X’ không
có lỗi.”
Cuối cùng,
ông Trương Tấn Sang nói tiếp:
“Chúng tôi có lỗi lớn, nhưng cô bác anh chị cũng phải nghĩ về trách
nhiệm của mình, cùng hệ thống chính trị đấu tranh chống tham nhũng.
Chúng tôi hiểu tình hình trù úm người tố cáo là rất ghê gớm. Nhưng vì sợ
bị trù úm mà chúng ta không tố cáo thì đất nước này sẽ thế nào? Người
ta có thể trú úm 1 người, 1 nhóm người nhưng không thể trù úm cả dân tộc
này!”
Về Trương Tấn Sang, hầu như ai cũng biết ít nhất hai điều:
Thứ nhất, trong giới lãnh đạo cao cấp nhất ở Việt Nam, ông là người
chống tham nhũng một cách mạnh miệng nhất. Nhớ, trong một cuộc tiếp xúc
với cử tri vào ngày 7/5/2012, ông Trương Tấn Sang, lúc ấy còn là Thường
trực Ban bí thư, có một câu phát biểu được rất nhiều người khen ngợi,
trong đó ông ví tham nhũng với sâu:
"Trước đây chỉ
một con sâu làm rầu nồi canh,
nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài
như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có
được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là 'chết' cái đất nước
này.”
Thứ hai, ông được xem là đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng. Cùng là dân
miền Nam nhưng hai người lại không ưa nhau, hơn nữa, lúc nào cũng ở
trong thế tranh chấp với nhau. Những sự tranh chấp như vậy vốn đã kéo
dài từ cả chục năm nay nhưng có vẻ như càng lúc càng gay gắt. Theo các
nguồn tin đáng tin cậy từ Việt Nam thì hầu hết các vụ bắt bớ những người
có chức quyền trong lãnh vực công nghiệp, ngân hàng và thương mại trong
mấy tháng vừa qua đều là kết quả của các cuộc tranh chấp quyền lực ấy:
người này thì bị phe bên này bắt, người nọ thì bị phe bên kia bắt. Không
đánh được chủ, người ta đánh tay chân bộ hạ của nhau.
Liên quan đến mấy phát biểu dẫn trên của Trương Tấn Sang có mấy điều cần chú ý:
Thứ nhất, ông thừa nhận năm điều: một, ở Việt Nam có tham nhũng; hai, sự
tham nhũng ấy càng lúc càng phát triển và hiện nay, đã đến mức rất trầm
trọng; ba, trách nhiệm của nạn tham nhũng ấy thuộc nhiều cơ quan, trong
đó có Bộ chính trị; bốn, việc chống tham nhũng rất khó khăn; và năm,
những người tố cáo tham nhũng bị “trù úm” rất “ghê gớm”.
Thứ hai, ông khuyên dân chúng đừng vì sợ hãi mà không dám đương đầu với
tham nhũng. Hãy nghĩ đến đất nước: “vì sợ bị trù úm mà chúng ta không tố
cáo thì đất nước này sẽ như thế nào?”
Tuy nhiên, ở điểm thứ hai này, Trương Tấn Sang lại bộc lộ sự mâu thuẫn của ông.
Mâu thuẫn ở hai điểm: Một, ngay cả đảng của ông, tuy đã nhận thức được
mức độ trầm trọng của tham nhũng, thậm chí, biết rõ ai là đầu mối của
tham nhũng (“đồng chí X” nào đó), vậy mà vẫn bó tay, làm sao có thể hy
vọng những người thấp cổ bé miệng đánh bại được tham nhũng? Và hai, ông
khuyến khích mọi người đừng sợ hãi nhưng chính ông, Chủ tịch nước, một
trong “tứ trụ triều đình”, dường như cũng không can đảm để nêu tên và
vạch mặt những tên tham nhũng hàng đầu ở Việt Nam hiện nay. Ông chỉ ậm
ờ: “đồng chí X”. Mọi người đều biết rõ cái người mà ông gọi là “đồng chí
X ấy là Nguyễn Tấn Dũng. Sao ông lại không dám nói thẳng ra? Ông sợ bị
“trù úm” chăng? Hay, nói theo ngôn ngữ của Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí
thư, trong bài diễn văn bế mạc hội nghị 6, ông sợ bị “các thế lực thù
địch” lợi dụng và xuyên tạc?
Những sự mâu thuẫn ấy cho thấy hai điều:
Thứ nhất, ông và đảng ông đang bất lực. Biết tham nhũng đang tác oai tác quái mà vẫn không làm gì được.
Thứ hai, ông ý thức rõ là đảng ông đang bất lực nên ông phải huy động đến sức mạnh của quần chúng.
Nhưng tại sao ông lại kêu gọi mọi người hãy “cùng hệ thống chính trị”
chống tham nhũng. Dường như ông không muốn mọi người chống tham nhũng
một cách độc lập và tự phát. Ông chỉ muốn, thậm chí, có khi chỉ chấp
nhận việc chống tham nhũng thông qua “hệ thống chính trị”. Dĩ nhiên
không phải là “hệ thống chính trị” của “đồng chí X” kia. Mà là “hệ thống
chính trị” của ông. Hoặc ít nhất thuộc về phía ông.
Tôi có cảm tưởng chuyện chống tham nhũng, với Trương Tấn Sang, chỉ là một cái cớ để tập hợp lực lượng. Cho ông.
Tôi mong tôi nghĩ sai. Để ít nhất, ở Việt Nam hiện nay, cũng có một người nào đó trong giới lãnh đạo thực sự chống tham nhũng.
Chống thực sự. Chứ không phải chỉ là một cách vỗ về và ve vuốt quần chúng - các nạn nhân của tham nhũng.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là
blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của
Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa
Kỳ.
Song Chi - Hậu Hội nghị TƯ 6
Trong mấy ngày qua, đã có rất nhiều bài blog, bài báo bên ngoài hệ
thống báo đảng phân tích, nhận định xung quanh kết quả Hội nghị lần thứ
6, khóa XI của Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam vừa kết
thúc vào ngày 15 tháng 10.
Điều đầu tiên mà ai cũng thấy, đây là một hội nghị thất bại, thất bại
thê thảm. Với kết quả “hòa cả làng”: Bộ chính trị, Ban Bí thư thành
thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương nhưng…không ai bị kỷ luật
cả!
Trong đó, nhân vật đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm chính trong
việc điều hành quản lý kém cỏi dẫn đến tình trạng khủng hoảng trầm trọng
của nền kinh tế VN hiện nay, cũng là nhân vật mang tai tiếng rất nhiều
về tham nhũng, lộng quyền, dung túng cho người thân, tạo ra những “nhóm
lợi ích” cùng nhau lũng đoạn kinh tế…là ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
vẫn nhận được sự ủng hộ của đa số thành viên trong Ban chấp hành Trung
ương đảng và tiếp tục tại vị.
Sự thất bại của Hội nghị hay của Bộ Chính trị theo BBC (
“Bộ Chính trị “thất bại” tại Hội nghị 6”), hay của đảng cộng sản theo RFA (
“Hội nghị trung ương 6: Sự thất bại của đảng?")…
Cũng là sự thất bại của tất cả những cái gọi là phong trào phê và tự
phê, công cuộc chỉnh đốn đảng, cuộc chiến chống tham nhũng… vừa qua.
Sự thất bại này một lần nữa, cho thấy bản chất của những người đang
nắm giữ những vị trí cao nhất trong guồng máy đảng và nhà nước cộng sản
VN. Dù có thể có những mâu thuẫn gay gắt giữa họ với nhau, nhưng điểm
chung gắn kết họ với nhau là phải bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ. Theo
nguyên tắc “còn đảng, còn mình”.
Như từ trước đến nay vẫn thế, đối với các thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN.
Để bảo vệ sự ổn định của đảng, chế độ, thì mọi quyền lợi của đất
nước, nhân dân đối với họ chưa và sẽ không bao giờ có nghĩa lý gì.
Và lần này, cũng với mục tiêu giữ vững sự ổn định chính trị (trên bề
mặt) bằng mọi giá, họ sẵn sàng thỏa hiệp với nhau, với sự bất tài, nạn
tham nhũng, sự lộng quyền, lợi ích nhóm, sự phá hoại…trong nội bộ đảng.
Như chính ông Tổng Bí thư đã thừa nhận:
“Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện
các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ
luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và
yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết
điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá….”
Một lần nữa, bóng ma “các thế lực thù địch” lại được đem ra để đổ
thừa cho mọi sai lầm, thất bại của từng cá nhân hay cả chế độ. Lần này,
là đổ thừa cho lý do vì sao hội nghị kết thúc mà không kỷ luật một ai,
hay nói cách khác, cho sự thất bại của hội nghị.
Nhưng nguyên nhân lớn hơn mà nhiều người cũng đã chỉ ra, là “lỗi hệ
thống”, là cơ chế, là mô hình thể chế chính trị…cho phép đảng cộng sản
nắm giữ tất cả quyền lực từ lập pháp, hành pháp, tư pháp, công an, quân
đội và cả báo chí truyền thông mà lại không hề bị giám sát, khống chế
như lâu nay.
Một khi mô hình thể chế chính trị này chưa thay đổi thì mọi cuộc
chiến chống tham nhũng hay chỉnh đốn đảng sẽ không bao giờ có thể thực
hiện được. Điều mà tất cả những ai tỉnh táo, có lương tri đều đã nhận ra
từ lâu, nhưng 175 vị trong Ban chấp hành TƯ cộng 14 vị trong Bộ chính
trị thì không muốn nhận ra và không bao giờ chịu thay đổi.
Trong khi người dân gọi thẳng tên “lỗi hệ thống”, thì các vị lãnh đạo
vẫn khăng khăng đường lối mô hình xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối của đảng cộng sản là đúng, hoặc đảng không bao giờ sai, chỉ có
vài cá nhân làm sai.
Tất cả những trò hề phê và tự phê, nào
kiểm điểm phê bình nghiêm khắc, trong tình đoàn kết, thương yêu đồng chí, theo phương châm “trị bệnh cứu người”, giúp nhau cùng tiến bộ…rồi nào là
thấm thía, day dứt…(Những
từ ngữ được sử dụng trong bài phát biểu bế mạc hội nghị TƯ 6 của ông
Tồng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) chỉ cho thấy thêm một thực chất: Giữa “các
đồng chí” với nhau, nhất là với những người càng có chức có quyền, thì
họ sử dụng “đức trị”, kiểm điểm, phê bình, bao nhiêu tội lỗi rồi cũng
cho qua.
Còn với nhân dân thì đừng hòng. Là còng số 8, là thượng cẳng tay hạ
cẳng chân, là những bản án mịt mù đường về, và cả những cái chết oan ức
bởi muôn ngàn lý do, chẳng hạn như bị bạo hành ngay khi vừa bị bắt
giam…Nghĩa là sử dụng bạo lực, “công an trị”. Nhưng dù “đức trị” hay
“công an trị” thì cũng không có luật pháp, không phải là pháp trị.
Điều đáng nói hơn là hậu quả của sự thất bại lần này không sao lường
hết được. Thứ nhất, những vấn đề nghiêm trọng nhất của đảng cộng sản VN
không hề được giải quyết. Từ nạn tham nhũng. Sự lộng quyền. Sự tồn tại
của những kẻ vừa không có tài vừa không có đức trên những vị trí cao
nhất, cấu kết thành những nhóm lợi ích đua nhau hút máu nhân dân, phá
nát nền kinh tế, phá hoại đất nước…
Sự phá hoại đó sau hội nghị sẽ ngày càng trắng trợn hơn. Bởi những kẻ
phá hoại biêt rằng không ai bị trừng phạt gì cả, mặc dù có thể cũng
phải chia chác, phân bổ lại quyền lực.
Thứ hai, những mâu thuẫn, bất hòa, đấu đá nhau trong nội bộ đảng vẫn
còn đó. Bên ngoài tất cả vẫn cùng dính chặt vào nhau. Nhân danh sự ổn
định chính trị. Nhân danh bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ. Bên trong, cuộc
chiến giữa các phe nhóm vẫn tiếp tục chưa yên. Những kẻ bị sứt mẻ, bị
“đánh” mà chưa chết lần này sẽ âm thầm củng cố lại lực lượng, chờ thời
cơ đánh trả. Còn những ai giương cao ngọn cờ chống tham nhũng, chỉnh đốn
đảng và phe ủng hộ họ nếu có, cũng sẽ “mất nhiệt” đi khi đã tốn công
tốn sức đến thế mà vẫn chưa thắng được. Lại phải bày binh bố trận khác.
Nhà cầm quyền vì vậy chẳng còn tâm trí đâu mà lo điều hành lãnh đạo đất
nước.
Sau khi hội nghị kết thúc, tiếp xúc với cử tri thành phố Hà Nội,
TP.HCM, các ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang lại tiếp tục lên dây cót tinh thần cho người dân. Lại vẫn những cụm
từ chung chung sáo mòn như hội nghị TƯ 6 đã đạt được những kết quả bước
đầu, nhưng còn nhiều việc phải làm…Ổng Tổng Bí thư xoa dịu người dân:
“Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử, TƯ chất vấn và
nghe trả lời chất vấn các vấn đề cụ thể như Vinashin, Vinaline. Rồi đây
là lần đầu tiên trong lịch sử, Bộ Chính trị xin nhận kỷ luật trước TƯ.
Kiểm điểm có nghiêm túc không, phải nói là làm rất nghiêm túc nhưng nói
đạt chưa thì chưa đạt và phải làm tiếp. Làm phát sinh lại phải rút kinh
nghiệm làm tốt hơn. Công tác này phải làm như rửa mặt hàng ngày. Mong
người dân giám sát, góp ý kiến cho Đảng, QH thực hiện tốt hơn trách
nhiệm của mình”
(
"Tổng Bí thư: "Phê và tự phê phải như rửa mặt hàng ngày", báo Giáo dục VN).
Một đảng cầm quyền suốt hơn 6 thập kỷ mà nay mới là lần đầu tiên
trong lịch sử, Bộ Chính trị xin nhận kỷ luật trước TƯ. Vậy thì mất bao
nhiêu lâu nữa Bộ Chính trị mới công khai xin nhận lỗi trước nhân dân? Và
bao nhiêu lâu nữa thì sau khi nhận lỗi suông, thậm chí nghẹn ngào (như
hình ảnh ông Tổng Bí thư lúc đọc bài phát biểu bế mạc mà cả tuần nay dư
luận cũng bàn tán nhiều), những người làm sai hay có tội to lớn đối với
đất nước, nhân dân mới chịu trách nhiệm cụ thể trước pháp luật bằng bao
nhiêu năm tù, hoặc ít nhất cũng có vài thành viên chịu từ chức?
Ông Chủ tịch nước còn tỏ ra “tâm huyết” hơn, kêu gọi nhân dân cùng đồng hành chống tham nhũng:
“Chúng tôi có lỗi lớn, nhưng cô bác anh chị cũng phải nghĩ về
trách nhiệm của mình, cùng hệ thống chính trị đấu tranh chống tham
nhũng. Chúng tôi hiểu tình hình trù úm người tố cáo là rất ghê gớm.
Nhưng vì sợ bị trù úm mà chúng ta không tố cáo thì đất nước này sẽ thế
nào? Người ta có thể trú úm 1 người, 1 nhóm người nhưng không thể trù úm
cả dân tộc này!”.
(“Chủ tịch nước: Sợ trù úm thì đất nước ra sao?”, báo VietnamNet).
Nhưng liệu ai còn tin các ông khi chính các ông quyền lực tột đỉnh
trong tay còn không xử lý nổi nạn tham nhũng nói chung và một đồng chí
trong Ủy viên bộ chính trị nói riêng, (theo cách nói của ông Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng), đồng chí X (theo cách nói của ông Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang).
Về phía người dân, chỉ cần lướt qua hàng loạt trang blog cá nhân, các
trang mạng xã hội…những ngày sau hội nghị TƯ 6 cũng đủ thấy tâm trạng
của mọi người. Thất vọng, giận dữ, phẫn nộ rồi chán ngán đến cùng cực.
Một hậu quả nữa của hội nghị 6 đó là sau khi bị đảng và nhà nước lừa
hết lần này đến lần khác, sau khi chịu đựng, chờ đợi, hy vọng rồi lại
thất vọng hết lần này đến lần khác, thay vì phẫn nộ đủ để tự đứng lên
giành lại quyền quyết định số phận đất nước, có vẻ như người dân VN sẽ
tiếp tục chọn lựa cách thứ hai: chủ nghĩa MACKENO (mặc kệ nó)-một cụm từ
được sử dụng quen thuộc từ lâu. Nghĩa là sẽ càng trở nên thờ ơ, buông
xuôi với chuyện chính trị, với vận mệnh đất nước.
Và đây mới là hậu quả tệ hại nhất.
Song Chi Blog
Thông tin mới về vụ SV Nguyễn Phương Uyên mất tích
2012-10-22
Sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị công an bắt đưa đi từ hồi ngày 14
tháng 10 vừa qua mà không thông báo gì cho gia đình cũng như trường
học.
(Photo courtesy of thanhnienconggiao) Sinh viên Nguyễn Phương Uyên
Nhà trường không hề biết!?
Sau hơn một tuần tìm kiếm, gia đình vẫn chưa có được tung tích chính
xác về con gái của họ. Vào chiều ngày 22 tháng 10, Gia Minh hỏi chuyện
bà Nguyễn thị Nhung, mẹ của sinh viên Nguyễn Phương Uyên, sau cuộc làm
việc của bà với Phòng Công tác chính trị Học sinh- Sinh viên , Đại học
Công nghiệp Thực phẩm nơi con bà đang theo học, và công an Phường Tây
Thạnh, quận Tân Phú - nơi bắt giam con bà đầu tiên. Trước hết bà cho
biết:
Bà Nguyễn Thị Nhung: Trước khi đến công an phường, tôi có đến
trường của cháu trước. Khi đến trường tôi có tìm đến Ban quản lý (nói
chung tôi cũng không rành) – ban chuyên quản lý học sinh- sinh viên, thì
gặp trực tiếp bà Mai thị Tân.
Tôi hỏi bà này ‘cháu Uyên, trường Công nghiệp thực phẩm- con gái của
tôi- đã bị bắt và mất tích đã hơn một tuần nay, vậy nhà trường có nhận
được một thông báo gì chưa, bà ta cho biết nhà trường chưa nhận được một
thông báo gì, và cũng chưa phát hiện ra sinh viên của trường mất tích
hơn 8 ngày nay. Bà nói hôm nay mẹ của Uyên đến trường mới biết điều đó
và bà sẽ cho người đến khu nhà trọ của bé Uyên để tìm manh mối, bây giờ
thì nhà trường mới bắt đầu có ý định tìm manh mối. Sau đó tôi đi đến
Công an Phường Tây Thạnh, quận Tân Phú.
Gia Minh: Bà có biết quí danh của ông Trưởng công an không?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Do rối quá, lo lắng tràn ngập nên không
nhớ tên gì. Có ông Nguyễn Hữu Tiến, phó công an phường Tây Thạnh, còn
ông trưởng công an thì không nhớ tên.
Gia Minh: Nội dung làm việc là gì thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Nội dung ông trưởng công an hỏi ‘chị là
gì’ (mẹ của bé Uyên), ‘chị có yêu cầu gì’. Tôi trả lời con tôi bị bắt từ
ngày 14 tháng 10 đến nay đã hơn 8 ngày (tôi đếm từng giờ) mà không có
thông tin gì hết. Trước đây bố và ông bà họ của cháu có đến đây hỏi, đây
nói không có; vậy nay tôi trực tiếp đến hỏi. Ông ấy nói ‘bây giờ chị
yêu cầu thế nào’. Tôi nói ‘yêu cầu bây giờ được gặp mặt con’, được xác
định chính xác con tôi đang ở đâu’. Ông ấy nói đợi một lát.
Lúc đó tôi nghĩ ông ấy đi đưa cháu đến cho tôi gặp. Tôi đợi một lát
sau thì ông mang ra một tập ( xấp hồ sơ) gồm mấy tờ. Ông ấy cầm hồ sơ và
nói ‘bây giờ tôi nói cho chị rõ công an phường Tây Thạnh này có làm
việc bắt cháu Uyên; nhưng bây giờ đã chuyển đến công an tỉnh Long An.
Tôi nói nếu thế ông cho tôi xin hồ sơ mà ông đang cầm, bản photocopy
thôi, để làm bằng chứng là sau này người ta ‘chối bay, chối biến’ đã có
bắt con tôi. Ông ấy nói không được và chỉ bảo ghi địa chỉ, cách thức đi
tìm công an tỉnh Long An thôi.
Công an bắt nhưng không báo
Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm, nơi SV Nguyễn Phương Uyên đang học. Photo courtesy of diadiem.com
Gia Minh: Họ có giải thích vì sao chuyển đến công an tỉnh Long An không?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Trước đó mấy phút, cậu họ của cháu có hỏi
‘vì sao bắt cháu mà không có một thông báo gì’, rồi sau đó cũng không
có thông báo gì cho nhà trường, cho gia đình làm cho gia đình rất hoang
mang. Ông phó trưởng công an phường Tây Thạnh có nói thế này
‘tôi
biết việc bắt cháu mà không có thông tin gì cho gia đình, kể cả thông
tin cho nhà trường đó là một điều thật sự cũng không phải, nhưng ở đây
có một vấn đề’. Vấn đề thế nào thì ông không nói. Sau đó ông cũng có
nói câu thế này ‘bé Uyên còn nhỏ, là đứa con gái còn rất trẻ thì không
có gì là nghiêm trọng’.
Nhưng theo câu nói của ông phó trưởng công an phường Tây Thạnh ‘không
có gì nghiêm trọng’, tôi tự hỏi nếu không có gì nghiêm trọng tại sao
cháu biệt tích hơn tám ngày, giờ bước sang ngày thứ chín mà vẫn không có
tin tức.
Gia Minh: Vấn đề có nêu ra với ông trưởng công an, và ông ấy nói ra sao?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Ông trưởng công an chỉ nói vắn gọn ‘bây
giờ trách nhiệm của ông ta chỉ đến đó thôi, ông ta đã chuyển lên công an
tỉnh Long An. Bây giờ muốn như thế nào thì hãy đến đó tìm và hỏi người
ta.
Gia Minh: Đối với những bạn bè của cháu Uyên bị mời đi làm việc có bị mời đi làm việc tiếp hay không? Họ có nói gì không thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Không, sau đó các cháu đó không bị mời
làm việc gì nữa. Có một cháu ở chung phòng, quê ở Dak Lak thì cháu đã về
Dak Lak. Ở trong phòng còn lại một mình bé Phương và sau không có làm
việc gì nữa hết.
Gia Minh: Các cháu có viết một thư và mong ông chủ tịch nước lắng nghe, bà có biết việc đó không?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Hôm nay lên thành phố mới biết; chứ ở thôn quê hầu như không biết được thông tin.
Gia Minh: Khi được biết thư đó và nội dung thư của các bạn Phương Uyên thì bà nghĩ gì?
Bà Nguyễn Thị Nhung: Sau khi biết thư và nội dung thì lòng tôi
nhẹ nhõm vì bao nhiêu bạn học sinh học cùng cháu thể hiện cháu là một
học sinh tốt, không làm chuyện xấu. Qua lá thư này tôi khẳng định con
tôi không bao giờ làm chuyện xấu.
Gia Minh: Cám ơn bà Nguyễn thị Nhung mẹ của sinh viên
Nguyễn Phương Uyên về những thông tin mới nhất mà bà chia sẻ trong cuộc
nói chuyện vừa rồi.
Gia Minh, biên tập viên
RFA
Công an xác nhận bắt Phương Uyên
Lúc đầu công an bác bỏ chuyện bắt Nguyễn Phương Uyên hôm 14/10
Gia đình sinh viên Nguyễn Phương Uyên nói công an ở thành phố Hồ Chí Minh xác nhận đã bắt cô nhưng không cho biết lý do.
Nói chuyện với BBC hôm 22/10, mẹ Phương Uyên - bà Nguyễn Thị Nhung nói bà vẫn không được thông báo lý do con gái bà bị bắt.
Theo bà Nhung, công an ở phường Tây
Thạnh, quận Tân Phú tại thành phố Hồ Chí Minh không còn chối bỏ việc bắt
Nguyễn Phương Uyên, sinh viên 20 tuổi của Đại học Công nghiệp Thực phẩm
Hồ Chí Minh, nhưng vẫn không cho biết lý do bắt cô.
Họ cũng nói đã chuyển cô về Công an Long An.
Các bạn của Phương Uyên nói cô đã bị khoảng 10
công an ập vào phòng trọ và bắt đi hôm 14/10 vì họ nói muốn điều tra các
truyền đơn chống Trung Quốc mà sinh viên này bị cáo buộc đã phát tán.
Tuy nhiên phía công an đã bác bỏ chuyện họ bắt Nguyễn Phương Uyên cho tới ngày hôm nay.
Bà Nhung nói: "Hôm nay tôi đến thì họ không chối
[việc bắt Phương Uyên] nữa mà họ nói rằng có sự việc đó và họ nói là đã
chuyển đi Công an tỉnh Long An.
"Họ không nói lý do chuyển về Long An."
Bà Nhung cũng nói công an phường Tây Thạnh không
chấp nhận đề nghị trao cho bà "hồ sơ" về Nguyễn Phương Uyên và cũng
không nó rõ con gái bà đã được trao cho đơn vị cụ thể nào ở Long An.
Mẹ của Phương Uyên cho biết bà không thể lý giải
được vì sao con gái lại bị đưa về Long An vì quê ngoại ở 'miền Bắc' và
quê nội ở tỉnh Bình Thuận.
Thất vọng
Bà Nhung nói với BBC nói em trai tám tuổi của cô
liên tục gọi cho chị, người mà cậu gọi là 'Rùa con xấu xí', nhưng rất
thất vọng vì không liên hệ được.
"Cả nhà có một cái điện thoại bàn không dây, cháu nó cứ bấm 'Rùa con xấu xí' gọi mà gọi mãi không được.
"Cháu nó nói: Mẹ ơi con gọi Rùa con xấu xí không được đâu, con nhớ chị quá - rồi nó lấy cái áo của chị nó nó mặc.
"Cái hành động của thằng bé nó làm cho gia đình đã buồn lại càng buồn thêm."
Trong khi đó, bà Nhung nói, bà ngoại của Phương Uyên cũng đang bệnh nặng nên gia đình không dám báo tin cháu bị bắt cho bà.
(BBC)
Chuyện CIA tìm cách tuyển người Việt
Buổi hội thảo việc làm của CIA tại Đại học California State University Fullerton
Ở Quận Cam hôm 18/10 ngay gần Little Saigon có một sự kiện vừa rất là bình thường mà cũng có nhiều điều rất là lạ.
Chuyện bình thường là một cơ quan nhà nước đi
tuyển nhân viên. Chuyện cơ quan này là Trung ương Tình báo CIA, vẫn còn
bình thường. CIA cũng cần người làm việc, và muốn có người làm việc, thì
phải đi tuyển.
Tại các trường đại học ở Mỹ, mỗi năm
các cơ quan chính quyền, từ liên bang đến tiểu bang, tràn đến tuyển
sinh viên sắp ra trường.
Sở thuế, bộ Quốc phòng, bộ Ngoại giao, Quỹ Dự trữ Liên bang đều có mặt. Và cả cơ quan tình báo CIA.
Cho nên, khi CIA tìm đến cộng đồng Việt Nam, hợp
tác với Phòng Thương mại Việt Mỹ Quận Cam (VACOC) tổ chức một buổi giới
thiệu việc làm, riêng cho người Việt tại phòng họp đại học California
State University Fullerton, điều đó có phần bình thường, theo như lời
giải thích của Bác sĩ Tâm Nguyễn, chủ tịch Phòng Thương mại.
"Nếu họ đã muốn tìm nhân viên người gốc Á, tại sao không giúp họ tuyển nhân viên gốc Việt" - Bác sĩ Tâm Nguyễn chủ tịch Phòng Thương mại Việt Mỹ Quận Cam
Bác sĩ Tâm nói hội đồng quản trị Phòng Thương
mại đi dự một buổi hội thảo của hội OCA, Tổ chức người Hoa tại Mỹ, và
gặp ông Michael Mau, đại diện của CIA, nói chuyện tại đó. “Chúng tôi
nghĩ, nếu họ đã muốn tìm nhân viên người gốc Á, tại sao không giúp họ
tuyển nhân viên gốc Việt?,” Bác sĩ Tâm kể.
Tuy là một sự kiện bình thường, nhưng vì là CIA, nên trong đó có những chuyện không bình thường.
'Tác nghiệp'
Mới gặp mặt đế viết bài, ông Mau đã nói ngay,
“Chụp hình tôi thì được, nhưng xin đừng chụp hình các đồng nghiệp của
tôi, họ vẫn còn đang làm việc tình báo.”
Hiểu. Năm nhân viên CIA tới thuyết trình, nhưng chỉ được chụp hình một. Bốn người còn lại, xem như không có.
Mà đúng là “như không có” thật. Khi giới thiệu,
ngoài ông Mau là người phụ trách về nhân sự ra, những người còn lại đều
là nhân viên chuyên môn của CIA, và những người này không tiết lộ họ của
mình. Chỉ có tên: Cô “Sharon C.,” ông “Alexander M.,” cô “Thuy L.,” và
cô “Noli A.”
Tờ rơi quảng cáo đi làm cho CIA.
Không những thế, họ còn không biết tốt nghiệp ở đâu ra.
Ông Alexander M. chẳng hạn, là một người gốc
Việt, được giới thiệu có tên Việt Nam là Tuấn. Ông có bằng cử nhân kỹ sư
điện, và bằng thạc sĩ hệ thống tin học. Nhưng không biết ở trường nào
ra.
Bốn người kia cũng vậy, không giới thiệu nơi
học. Có lẽ vì các trường đại học mỗi năm đều in một quyến Yearbook như
một thứ lưu bút với thông tin về sinh viên và hình ảnh sinh hoạt trong
trường, để giữ làm kỷ niệm. Có lẽ họ ngại nếu biết tên trường, đối
phương sẽ tìm ra tông tích?
Khi sắp bắt đầu phỏng vấn, ông Mau hỏi lại là viết cho ai. “BBC Vietnamese.” “BBC bên Anh đấy à?” “Đúng vậy.”
Và thế là đụng phải luật. “Xin lỗi,” ông Mau
nói, “tôi bị kẹt quy định của cơ quan. Chúng tôi không được phép trả lời
phỏng vấn các cơ quan truyền thông nước khác. Luật không cho phép.”
Nhưng người phỏng vấn là công dân Mỹ mà? Ông Mau
lắc đầu, “Trên thực tế người ngoại quốc mà làm cho truyền thông Mỹ thì
tôi được trả lời phỏng vấn, trong khi người Mỹ làm cho truyền thông
ngoại quốc thì lại không. Quy định của chúng tôi ngược ngạo như thế. Xin
lỗi.”
Thôi thế thì xong! Luật không cho phỏng vấn thì
không thể dụ dỗ thuyết phục gì. Thế ở lại xem có được không? “Vâng.” Rồi
suy nghĩ một chút, ông tiếp: “Nhưng xin đừng quay phim, đừng thu
tiếng.”
Thôi thế thì xong, tập hai. Cũng may BBC không còn phát thanh nên không thu hình thu tiếng không sao.
Một điểm đặc biệt nữa đối với một buổi tuyển
người, là không ai biết CIA có bao nhiêu nhân viên. Chỉ có một số người -
như các dân biểu, nghị sĩ trong Ủy ban Tình báo Hạ Viện và Thượng Viện -
là biết con số đó.
'Dịp tốt'
Đại diện nhân sự của CIA, ông Michael Mau (trái), bàn chuyện với Bác sĩ Tâm Nguyễn (Chủ tịch Phòng Thương mại Việt Mỹ Quận Cam)
Ngân sách CIA cũng không tiết lộ ra ngoài. Chỉ
từ năm 2007 tới giờ, chính phủ Mỹ mới công bố ngân sách tổng cộng của
các ngành tình báo, trong đó CIA chỉ là một trong 16 cơ quan.
Năm 2011, theo báo cáo của giám đốc tình báo
quốc gia Trung tướng James Clapper nộp lên Quốc Hội, ngân sách tình báo
dân sự của Hoa Kỳ là $54.6 tỷ, thêm ngân sách tình báo quân đội $24 tỷ,
tổng cộng $78.6 tỷ.
Đây là một con số khiêm tốn so với những món khổng lồ như máy bay F-35, mãi chưa xong, giá mua lên tới $400 tỷ.
Buổi hội thảo được Phòng Thương mại Việt Mỹ tổ
chức với mục đích đơn giản là giúp người Việt Nam tìm việc. Luật sư Ken
Đạt Dương, trong ban tổ chức, nói họ làm việc với CIA “vì muốn mở thêm
cơ hội tìm việc làm cho người Việt Nam, nhất là trong một ngành ít ai
nghĩ tới.”
Bác sĩ Tâm nói thêm, “Chúng tôi làm việc nhiều
với các công ty tư nhân để khuyến khích họ đa dạng hóa sắc tộc nhân sự
của họ. Nhưng chúng tôi ít có dịp làm việc với các cơ quan chính quyền,
nên đây là một dịp tốt để tiếp tay với một cơ quan chính quyền tuyển
thêm người gốc Việt.”
"Khi
được hỏi nếu CIA nhận thiệt, cho về Việt Nam làm gián điệp, có dám làm
không, thì cô Nam dõng dạc tuyên bố, “Dám chứ gì đâu sợ!”"
Trong số người tham dự buổi hội thảo, có khoảng
mươi người có vẻ đến với đúng ý định tìm việc. Họ ăn mặc chỉnh tề, lắng
nghe nghiêm túc, như thể sắp phỏng vấn xin việc.
Nhưng cũng có những người đến vì tò mò. Cô Nam
Nguyễn là một trong những người như vậy. Hiện đang học nghề cắt tóc, cô
nói cô tới vì thấy mấy người trong trường khuyến khích đi để “mở mang
đầu óc.” Một người khác cũng tò mò tới nghe là cô Liên Trịnh, muốn “tìm
hiểu, hội nhập.”
Hai người đều không nghĩ mình có cơ hội, vì mới
qua Mỹ “tiếng Anh còn yếu lắm.” Nhưng khi được hỏi nếu CIA nhận thiệt,
cho về Việt Nam làm gián điệp, có dám làm không, thì cô Nam dõng dạc
tuyên bố, “Dám chứ gì đâu sợ!”
Tất nhiên không phải ai làm cho CIA cũng là gián
điệp. “Chúng tôi tuyển rất nhiều khoa học gia, kỹ sư, chuyên viên điện
toán,” ông Mau trình bày. CIA đặc biệt tự hào với ngành nghiên cứu khoa
học kỹ thuật của họ. “Quý vị có thể làm việc với kỹ thuật tân tiến tới
mức là bí mật quốc gia.”
Ngay những người nhân viên CIA hiện diện tại chỗ
cũng có nhiều ngành chuyên môn khác nhau. Trong hai người gốc Việt, ông
Tuấn Alexander là kỹ sư điện, cô Thủy L. là nhà kinh tế, với hai bằng
cử nhân và thạc sĩ kinh tế quốc tế. Có người học toán, quản trị kinh
doanh, ngôn ngữ, sư phạm. Tất cả đều làm trong “Clandestine Service,”
tạm dịch “dịch vụ bí mật,” của CIA.
'Lối nhìn độc đáo'
Nhân viên CIA có nhiều sắc dân, nhiều tôn giáo,
nhiều giới tính. Thông tin phát tại buổi hội thảo cho thấy ở CIA có
ngoài các hội nhân viên theo sắc dân, còn có hội người điếc và khiếm
thính, và có cả hội người đồng tính.
Thay vì ép buộc mọi người phải giống nhau, CIA chủ trương “Những lối nhìn độc đáo, đó là nhiệm vụ của chúng tôi.”
Có những điều nhiều người hiểu nhầm về CIA. Dù
bắt buộc phải giữ kín bí mật quốc gia, điều đó không có nghĩa là gia
đình chả bao giờ biết người nhân viên CIA làm gì.
Họ còn cho biết, có những trường hợp nhân viên
phải chuyển ra ngoại quốc làm việc, CIA trả tiền cho vợ con đi theo
luôn. Nhân viên CIA không nhất thiết phải là võ sư hay xông pha vào nơi
nguy hiểm. Nhân viên CIA không cần phải rành ngoại ngữ, không cần phải
là công dân Mỹ nhiều đời.
Nhân viên CIA không phải mang vũ khí - “trừ khi quý vị xem điện thoại an toàn là một thứ vũ khí.”
Tuy nói vậy, nhưng chính ông Alexander Tuấn lại tiết lộ:
“Công tác đặc biệt nhất của tôi là có lần tôi đi
Trung Đông, tập đánh xáp lá cà, tập bắn súng - mặc dù việc của tôi là
làm kỹ sư!”
Cuối buổi hội thảo, một số người ở lại hỏi thêm
những nhân viên CIA này - một dấu hiệu cho thấy buổi hội thảo đã đạt
được một phần mục đích chính là kết nối tìm việc làm.
Chính Luật sư Ken cũng thố lộ, “Nghe xong buổi
hội thảo tôi cũng thấy tò mò. Đúng là trước đây tôi không hề nghĩ mình
sẽ làm cho CIA nhưng bây giờ tối thiểu tôi cũng phần nào quan tâm.”
Đó không phải là suy nghĩ khác thường. Tất cả
các nhân viên CIA nói chuyện tại buổi hội thảo, đều chia sẻ một điều
giống nhau, là trước khi bước chân vào làm tại CIA, họ chưa hề nghĩ mình
sẽ vào làm tại “Ổ gián điệp” như vậy. Đường vào tới tình báo, có vẻ như
tình cờ chứ không cố ý.
Bài thể hiện cách hành văn và góc nhìn riêng của tác giả, một blogger tự do ở California, Hoa Kỳ.
Vũ Quý Hạo Nhiên
Gửi tới BBC từ California
(BBC)
Các công ty Trung Quốc dời sang Việt Nam
Gía nhân công tăng nhưng nhu cầu xuất khẩu giảm tại Trung Quốc khiến các
nhà sản xuất hoặc đã di dời hoặc đang tính tới chuyện di dời sang các
nước Đông Nam Á lân cận trong đó có Việt Nam.
Tin Asia News Network ngày 22/10 dẫn nguồn tin từ một quan chức phụ
trách ngoại thương thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết gần 1/3 các
công ty sản xuất dệt may, giày dép, và nón ở Trung Quốc đang hoạt động
dưới áp lực leo thang và đã chuyển toàn bộ hay một phần khâu sản xuất ra
ngoài nước.
Những đích đến được ưa chuộng hiện nay thường là các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, Indonesia, và Malaysia.
Nhật báo China Daily nói xu hướng chuyển giao sản xuất này sẽ tiếp tục trong tương lai.
Người đứng đầu văn phòng hành chính thuộc Phòng Thương mại Trung Quốc
chuyên phụ trách về xuất nhập khẩu dệt may xác nhận rằng nhiều doanh
nghiệp sản xuất tại Trung Quốc đã chuyển dời một phần hoặc toàn bộ ra
nước ngoài.
Theo khảo sát do công ty tư vấn tài chính Capital Business Credit có trụ
sở tại Mỹ, cứ 10 doanh nghiệp lớn được hỏi thì có 4 công ty cho biết có
dự định dời xưởng sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, Pakistan,
Bangladesh, và Philippines.
Tuy làm mất công ăn việc làm cho dân Trung Quốc, nhưng giới chức Trung
Quốc nói hiện tượng này cũng mang tính tích cực về mặt cơ bản, phù hợp
với cam kết của chính phủ nâng cấp sức mạnh công nghiệp của Trung Quốc
và thay đổi mô hình phát triển kinh tế.
Kế hoạch 5 năm (2011-2015) của Bắc Kinh kêu gọi các công ty xuất khẩu Trung Quốc sản xuất thêm nhiều sản phẩm cao cấp.
Gần đây, gía nhân công tại Trung Quốc tăng từ 15% tới 20% mỗi năm, khiến một số doanh nghiệp phá sản.
Thống kê năm ngoái cho thấy lương hằng tháng của các công nhân trong
ngành sản xuất tại Việt Nam trung bình khoảng hơn 95 đô la, tương đương
với mức lương 10 năm trước của công nhân tại Đông Quản, một thành phố
công nghiệp ở Đồng bằng Châu thổ Châu Giang Trung Quốc.
Việt Nam nằm trong số các nước mở rộng chính sách ưu đãi về sử dụng đất
đai và các dịch vụ công cho giới đầu tư nước ngoài trong đó có Trung
Quốc.
Nguồn: China Daily, ANN, China.org.cn, Bernama
Người Buôn Gió - Tự Trọng chết rồi
Thánh nhân nước Vệ hiệu là Tự Trọng.
Khi xưa quanh Tiên Đế hội tụ đủ anh tài, mưu trí, dũng cảm, khôn khéo,
cương quyết đều có cả. Tiên Đế dạy dỗ các học trò của mình mỗi người
theo một sở trường của họ, ai cũng thành tướng tài , rường cột đất nước.
Lúc lấy được sơn hà, bắt tay vào xây dựng xã tắc người khéo dùng binh,
kẻ khéo trị quốc, kẻ biết vỗ về cho dân chúng chăm lo cày cấy...cơ
nghiệp nhà Sản ngày vững lên trông thấy. Đó cũng là nhờ cách chọn người
của Tiên Đế.
Một đêm Tiên Đế mới giật mình thấy trong đám học trò vẫn thiếu một kẻ
biết trọng đạo thánh hiền. Là người lo xa, Tiên Đế chạnh lòng nghĩ đến
ngày đi gặp tiền nhân Ca Ma, Lý Ninh thì không hình dung nổi nước Vệ sẽ
thế nào nếu không có đạo.
Bởi thế lựa chọn kỹ trong quân, tìm được một tên lính trẻ thẳng thắn,
yêu sự thật, căm ghét sự giả dối để dạy bảo về đạo thánh hiền, đặt tên
cho là Tự Trọng.
Tự Trọng học sách Tiên Đế mười năm, học sách thánh hiền trong thiên hạ
mười năm. Uyên thâm về đạo làm người, theo sở học dựa vào tính người Vệ
mà soạn sách dạy thiên hạ làm điều tốt.
Khi Tiên Đế băng hà về với tiền nhân. Tự Trọng xin triều đình mở một
trường học ở phía Tây kinh thành để dạy các quan lại về đạo đức làm
người, làm quan. Học trò của Tự Trọng học ra trường đều làm quan lớn
trong triều cả. Tự Trọng không ra ngoài, chỉ ở trong trường chăm chú bồi
dưỡng tư cách, đạo đức cho học trò miệt mài đến mấy mươi năm. Không
màng chuyện ngoài đời. Hàng năm nhiều học trò làm quan to nhớ đến thầy
nhân ngay lễ Trọng Sư về thăm hỏi. Tự Trọng hỏi việc nước , các trò đều
nhất loạt trả lời bốn phương yên bình, dân chúng ấm no, nước nhà cường
thịnh. Hỏi đến việc lễ nghĩa thì nghe tâu lại rằng trên quan lại thanh
liêm, một lòng no việc nước. Dưới dân chúng thuận hoà. Nhà tù vì không
có người phạm tội để mà nhốt, phải chuyển sang xây thương xá, khách sạn.
Vì yên ổn như vậy nên giảm bớt sai nha cho về làm ruộng, thóc lúa vì
thế mà dư dả đầy ắp kho lương.
Tự Trọng hài lòng lắm, thấm thoát mấy chục năm trôi qua. Năm nào các học
trò về thăm thầy cũng báo cáo chuyện bá tính, nước non y hệt như năm
trước.
Đến năm Nhâm Thìn, đời Vệ Kính Vương thứ hai. Tự Trọng gặp lúc mùa thu
nắng hanh vàng, chợt nhớ lại mùa thu năm xưa. Bèn vi hành một chuyến vào
thành.
Mấy mươi năm qua, cảnh vật đổi khác đã nhiều, nhà cửa mọc lên huy hoàng,
chót vót. Tự Trọng thấy đời sống bá tính thế lòng phơi phới lắm.
Qua trường quốc học, thấy đám học trò đang ngồi hì hục gấp hạc giấy. Tự
Trọng lại gần hỏi han. Mới vỡ lẽ ra là học trò gấp hạc để gửi chia sẻ
tới các binh lính đóng ngoài đảo xa. Tự Trọng khen hiệu trưởng trường ấy
biết dạy trò. Hiệu trưởng đắc chí khoe rằng.
- Bởi ngoài biển quân Tề thôn tính gần hết biển đảo của ta, vì tình hữu
nghị mà ta không muốn to chuyện. Giữ ổn định chính sự là điều trọng. Thế
nhưng trong nước có đám người nông nổi, không hiểu cái điều ấy, tụ tập
với nhau biểu tình phản đối nước Tề. Gây căng thẳng ngoại giao. Triều
đình đã dùng nhiều biện pháp trấn áp được lũ ấy. Nhưng để tránh điều
tiếng dị nghị, cho nên tổ chức cho học trò gấp hạc gửi ra ngoài ấy cho
gọi là có hành động quan tâm đến biển đảo.
Tự Trọng giật mình,vội đến nhà học trò đang làm quan lớn trong triều. Hỏi về chuyện biển đảo. Học trò là thương thư bộ Binh đáp.
- Thưa thầy, mỗi thời mỗi khác, giờ chúng ta cần ổn định để làm ăn, phát
huy kinh tế. Có kinh tế mạnh thì mới tính chuyện đòi biển đảo. Thế của
Tề giờ mạnh hơn ta gấp mười lần. Khó có thể đối đầu được, chi bằng hoà
hoãn tạm thời để củng cố tiềm lực bằng việc tăng gia sản xuất, cày cấy.
Tự Trọng muốn tìm hiểu hơn, bèn hít vài hơi chế ngự tinh thần. Đến nhà
học trò bộ Hình hỏi chuyện biển đảo. Thương thư bộ Hình đáp.
- Thưa thầy, chuyện ngoài đảo nói thì thành có, không nói thì thành
không. Trò bắt hết bọn nói có thì tất là thành không có. Giờ thầy cứ đi
ra ngoài chợ hỏi có chuyện mất biển đảo không, trăm người cả trăm đều
bảo là không có. Vậy thì có nghĩa là không có chuyện ấy. Thế của Tề manh
mình nói ra không giải quyết được gì, lại khiên dân tình hoang mang,
mất ổn định. Giờ là lúc cần phải lo lắng về kinh tế, kinh tế quốc gia có
mạnh thì mới có thể đương đầu với Tề được.
Tự Trọng đi thấy quan lại nhà cửa nguy nga, xe cộ chất đầy sân, gia nhân
đầy tớ vô vàn, trong vườn đầy kỳ hoa, dị thảo, trong nhà ngà voi, sừng
tê đầy tường. Vàng bạc dát cả lên trần. Ngoài thiên hạ dân chúng kêu
than đói kém vì vật giá đắt đỏ, công việc không có. Bèn đem chuyện ấy
đến học trò coi bộ Lễ hỏi. Thượng thư bộ Lễ đáp.
- Làm quan mà không lo được cho mình, sao mà lo được cho dân.
Tự Trọng hỏi rằng lo cho dân sao dân vẫn còn khổ thế. Bộ Lễ đáp.
- Thưa thầy, dân chưa sung túc vì thế họ cần phải phấn đấu chăm chỉ để
sung túc. Nếu họ sung túc rồi chẳng còn gì để phấn đấu nữa Người ta hạnh
phúc nhất là có cái mục tiêu trước mặt để mà tìm kiếm, gắng sức. Triều
đình không nỡ tước cái quyền ấy của bá tính, bởi vậy để cho dân còn cái
mà hướng đến.
Tự Trọng nghe thở dài. Về đến trường gọi học trò lại, ứa lệ than rằng.
- Ta mấy mươi năm học đạo thánh hiền, sau lại mấy mươi năm đem sở học đó
để dạy thiên hạ. Hôm nay ra ngoài mới biết tất cả tâm nguyện của ta đều
vô nghĩa.
Nói xong hướng về phía lăng Tiên Đế đập đầu xuống đất ba cái thì chết.
Người thiên hạ biết chuyện, ai nấy cũng thương tiếc, học trò có nhiều kẻ
làm quan đã điền viên. Thương tiếc thầy mới dâng sớ xin triều đình để
được lập đền thờ Tự Trọng. Sớ dâng lên, quan đầu triều phán.
- Ông ấy làm thầy mà chết như thế là không có bản lĩnh chính trị. Trước
khi chết lại có những lời làm ảnh hưởng đến tâm lý nhân dân, mất uy tín
triều đình. Đã là bậc thánh nhân thì phải có lòng tự trọng, chết cũng
phải đàng hoàng. Không được tự chết như thế, xấu hổ triều đình, không
xứng được thờ.
Quan đầu triều gạt sớ đó đi, sau đó ngài soạn một bài văn nói về tư
cách, đạo đức người quân tử trong thời kỳ đổi mới. Hôm bài văn của quan
lớn được ban xuống, cũng là lúc Tự Trọng được chôn cất.
Đám ma của Tự Trọng thật lạ lùng, khi mà loa của triều đình giảng bài
đạo đức khắp phố phường, thì cũng là lúc khắp phố phường dân chúng
thương tiếc bậc thánh nhân khóc ồ ồ than
- Tự Trọng chết rồi, than ôi Tự Trọng chết rồi.
Tiếng loa và tiếng than cứ lẫn lộn, sau hoà với nhau thành một giai điệu lạ lùng có một không hai.
Có kẻ điên ở chợ, nghe điệu ấy nói rằng.
- Thánh nhân này mất đi, ắt có thánh nhân khác xuất hiện. Tự Trọng chết
đi thì có Tự Phụ xuất hiện thế thay, lẽ đời huyền diệu là vậy.
Người Buôn Gió
(
Blog Người Buôn Gió)
Human Rights Watch: tổ chức đội lốt nhân quyền
Tiền thân của Tổ chức theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch) là tổ
chức Helsinki Watch do Robert L.Bernstein thành lập năm 1978 với mục
đích "giám sát" Liên Xô (trước đây) bằng cách thu thập tư liệu liên quan
tới việc Liên Xô thực hiện quy ước của Tổ chức an ninh và hợp tác châu
Âu (OSCE), hỗ trợ các nhóm bảo vệ nhân quyền tại nước này.
Năm 1988, Helsinki Watch hợp nhất với một số tổ chức quốc tế khác có
cùng tôn chỉ, mục đích, từ đó đổi tên thành Human Rights Watch (HRW).
Tuy nhiên, căn cứ vào hoạt động của HRW lại thấy tổ chức này đang đi
lệch tôn chỉ, mục đích ban đầu và trở thành "con rối" đội lốt nhân quyền
phục vụ mục đích chính trị.
Một trong những "sứ mệnh" HRW tự phong cho mình là "điều tra và đưa ra
ánh sáng các vi phạm nhân quyền và buộc những đối tượng vi phạm phải
thừa nhận trách nhiệm"; "tiến hành nghiên cứu thực tế và điều tra các vi
phạm nhân quyền, báo cáo một cách công tâm về tình hình nhân quyền tại
khoảng 90 quốc gia". Tuy nhiên, không hiểu HRW "nghiên cứu thực tế" như
thế nào, các báo cáo có độ tin cậy đến đâu, khi tổ chức này ngày càng
phải chịu sự chỉ trích từ chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức truyền thông và ngay cả nhà sáng lập là cựu Chủ tịch HRW
Robert L.Bernstein về phương pháp, năng lực nghiên cứu. Ông trùm truyền
thông Rupert Murdoch cũng đã từng chỉ trích đội ngũ chuyên gia của HRW
không đủ kiến thức chuyên sâu, trong khi đó thì Robert L.Bernstein,
người sáng lập HRW, lại cáo buộc tổ chức này áp dụng phương pháp nghiên
cứu "nghèo nàn", dựa vào các nhân chứng mà không kiểm chứng những lời kể
của họ, hoặc có đưa ra bằng chứng thì cũng vì mục đích chính trị. Viện
nghiên cứu Monitor cáo buộc HRW áp dụng phương pháp luận sai lầm, hiểu
sai luật pháp quốc tế.
HRW luôn tự khẳng định là tổ chức phi chính phủ độc lập, không lệ thuộc
vào bất cứ chính phủ nào và các báo cáo nhân quyền của mình là công tâm,
không vì mục đích chính trị. Tuy nhiên, cách đưa tin thiên lệch, có
dụng ý nhằm vào các nước đang hướng theo các giá trị trái ngược với ý
thức hệ tư bản, các nước theo chủ nghĩa xã hội, và các nước theo đạo
Hồi...; đồng thời tâng bốc các giá trị "tự do, dân chủ" kiểu Mỹ khiến
nhiều người đặt ra câu hỏi về tính "công tâm", "độc lập" của HRW. Nhiều
học giả Mỹ la-tinh cho rằng, về hình thức, HRW không lệ thuộc vào Chính
phủ Mỹ nhưng các báo cáo của tổ chức này về tình hình nhân quyền tại Mỹ
la-tinh, đặc biệt là tại Vê-nê-xu-ê-la, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những
toan tính của Washington. Bằng chứng là tháng 9-2008, Vê-nê-xu-ê-la đã
trục xuất hai nhân viên HRW là Jose Miguel Vivanco và Daniel Wilkinson
với lời cáo buộc họ tiến hành "các hoạt động chống phá nhà nước". Tổng
thống Vê-nê-xu-ê-la Hugo Chavez cho rằng, HRW đã câu kết với chính quyền
Bush tiến hành một chiến dịch nhằm lật đổ chính quyền của ông, đồng
thời phủ nhận các thành tựu mà chính phủ của ông đã đạt được trong cuộc
chiến chống đói nghèo. Bộ trưởng Ngoại giao Vê-nê-xu-ê-la cáo buộc HRW
là tổ chức đội lốt bảo vệ nhân quyền được Mỹ tài trợ nhằm thực hiện
chính sách tấn công các nước đang xây dựng các mô hình kinh tế kiểu mới.
Ngày 17-9-2008, trong một thư ngỏ gửi Ban giám đốc HRW để phản đối báo
cáo của tổ chức này về tình hình nhân quyền tại Vê-nê-xu-ê-la, đã có 118
học giả của Ác-hen-ti-na, Ô-xtrây-li-a, Bra-xin, Mê-hi-cô,
Vê-nê-xu-ê-la, Mỹ, Anh cùng một số quốc gia khác đã chỉ trích HRW đưa
thông tin sai lệch để chống Chính phủ Vê-nê-xu-ê-la. Theo các học giả,
báo cáo của HRW "không đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu nhất về phương
pháp nghiên cứu, sự công bằng, chính xác và tin cậy"; cáo buộc người
chắp bút chính cho báo cáo này, Jose Miguel Vivanco, có "động cơ chính
trị". Cáo buộc trên càng có cơ sở khi báo cáo tài chính của HRW năm 2009
cho thấy, 75% mức đóng góp đến từ Bắc Mỹ, 25% đến từ Tây Âu và chỉ chưa
đầy 1% từ các khu vực khác. Mặc dù HRW đã phải "rào đón", trấn an dư
luận rằng tổ chức này "chỉ nhận đóng góp từ các nguồn tư nhân, không
nhận bất cứ đóng góp của chính phủ nào, trực tiếp hay gián tiếp" nhưng
có ai dám chắc các tổ chức tư nhân ủng hộ tài chính cho HRW không chịu
sự thao túng từ chính phủ của một số nước lớn vì mục đích chính trị?
Những năm qua, trong các nước mà HRW "quan tâm" một cách đặc biệt có
Việt Nam. Một trong những thủ đoạn HRW thường triển khai là tuyên
truyền, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam qua báo cáo nhân quyền
thường niên, hoặc ra thông cáo báo chí, gửi thư tới lãnh đạo Nhà nước,
Chính phủ Việt Nam và một số cơ quan, tổ chức quốc tế. Hằng năm, HRW
công bố cái gọi là "báo cáo nhân quyền" phản ánh tình hình nhân quyền
tại gần 100 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Gần đây nhất, trong báo cáo
năm 2012, HRW xuyên tạc, vu cáo "Chính phủ Việt Nam đàn áp một cách có
hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội và nhóm họp ôn hòa". HRW
trắng trợn vu khống Việt Nam sử dụng các điều luật "mơ hồ" (Ðiều 79,
Ðiều 87, Ðiều 88 Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam) để bắt giữ, xét
xử các "nhà bất đồng chính kiến", "nhà vận động tôn giáo và chính trị"
mà thực chất là các đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam một cách có hệ
thống như Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Bá Ðăng, Phan Thanh Hải,... Lần nào
cũng vậy, báo cáo của HRW luôn phủ nhận các thành tựu phát triển nhân
quyền ở Việt Nam; và thực chất các thông tin đó chỉ là sự cóp nhặt những
thông tin sai sự thật, một chiều và có dụng ý xấu về tình hình nhân
quyền ở Việt Nam do các thế lực thù địch với Ðảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam tán phát trên mạng in-tơ-nét hoặc rêu rao trên vài tờ báo lá
cải ở hải ngoại. Rồi mỗi khi các cơ quan chức năng Việt Nam bắt giữ hay
xét xử một số đối tượng với tội danh "tuyên truyền chống nhà nước", "phá
hoại chính sách đoàn kết dân tộc", hoặc "hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền" HRW lại nhanh chóng ra thông cáo báo chí chỉ trích, lên án, yêu
cầu Chính phủ Việt Nam thả ngay lập tức và vô điều kiện các đối tượng
này! Không dừng lại ở đó, HRW còn gửi thư cho Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam và một số tổ chức quốc tế để kêu gọi Việt Nam cải
thiện nhân quyền, thả các "tù nhân lương tâm", những "nhà bất đồng chính
kiến", các blogger.
Cùng với chiêu bài tuyên truyền, xuyên tạc tình hình "dân chủ, nhân
quyền và tự do ngôn luận" ở Việt Nam, HRW còn hậu thuẫn tài chính, kích
động một số đối tượng chống Nhà nước Việt Nam dưới hình thức trao "Giải
thưởng Hellman - Hammett" vắng mặt. "Giải nhân quyền Hellman - Hammett"
do HRW lập ra cách đây hơn 20 năm để hỗ trợ về tài chính cho các nhân
vật được gán cho nhãn hiệu là "nhà văn đấu tranh cho nhân quyền phương
Tây". Nhưng gần đây, HRW đã lái việc trao "giải" này cho cả những nhân
vật chống chính quyền, gây mất an ninh trật tự ở Việt Nam. Ðọc danh sách
những người được HRW "trao giải thưởng" từ năm 2001 đến 2011 sẽ thấy
mục đích của HRW cụ thể là gì, bởi từ Thích Quảng Ðộ, Nguyễn Văn Lý,
Nguyễn Chính Kết, Nguyễn Văn Ðài,... đến Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị
Công Nhân, Nguyễn Khắc Toàn,... đều là công dân Việt Nam có nhiều hành
vi vi phạm pháp luật. Trong số họ chẳng có người nào là "nhà văn" như
tiêu chí để xét trao "Giải thưởng nhân quyền Hellman - Hammett". Những
người này có điểm chung là bán rẻ danh dự, nhân phẩm, tự nguyện trở
thành công cụ trong tay thế lực xấu để chống phá đất nước, chống phá chế
độ. Vì thế, "Giải thưởng nhân quyền Hellman - Hammett" chẳng qua chỉ là
một màn kịch dựng sẵn một cách vụng về trên sân khấu chính trị, mượn
cái lốt "dân chủ, nhân quyền" để phá hoại xu hướng phát triển tiến bộ
của các quốc gia luôn giữ vững độc lập và tự chủ, tự chọn con đường phát
triển của mình, trong đó có Việt Nam. Ðó cũng là lý do để khẳng định
HRW chưa bao giờ quan tâm đến nhân quyền, tổ chức này chỉ quan tâm đến
lợi ích của những người đang muốn chi phối thế giới này bằng các giá trị
do họ sản xuất và áp đặt mà thôi.
Lam Sơn
(Báo Nhân dân)
Giáo dục 'lạc đường'?
Lần đầu tiên vấn đề GD của đất nước được "mổ xẻ" một cách khá
quyết liệt, kể cả những nan đề lâu nay được coi là 'nhạy cảm' cũng được
phân tích khá thỏa đáng.
Ngày cuối tháng 9- tháng đầu tiên của năm học mới,
trí thức Hà Nội tổ chức Hội thảo bàn về giáo dục. Nói là "trí thức Thủ
đô" nhưng thật ra đó là cuộc hội tụ của những "cây đa, cây đề" lớn nhất
của nền GD nước nhà, với những tên tuổi như các GS: Hoàng Tụy, Hoàng
Xuân Sính, Chu Hảo, Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Xuân Hãn, Phạm Thị Trân
Châu, Nguyễn Minh Đường, GS Phạm Minh Hạc, và nguyên Phó CT nước Nguyễn
Thị Bình... Bộ Giáo dục và Đào tạo, đáng tiếc, hoàn toàn vắng bóng(!)
Con người "một nửa"?
Hội thảo đã đặt ra rất nhiều vấn đề, nói chính xác là đã đưa ra một
cách cụ thể, không khoan nhượng về những sai lầm, bất cập không thể chấp
nhận hiện nay của GD. Rằng nền GD đã và đang sai về triết lý, mải mê
dạy chữ không ra chữ, "quên" mất chuyện... dạy người.
Không lo đào tạo thành người như thế nào mà chỉ là những con người
"biết vượt qua các kỳ thi", thiếu hẳn kỹ năng sống, trách nhiệm sống...
GD hiện nay không phải lạc hậu mà là đang... lạc đường (GS Hoàng Tụy,
Tuổi trẻ, 29/09) trong cái mớ bùng nhùng "triết lý GD bao cấp".
GS Hoàng Tụy nhấn mạnh rằng mấy chục năm qua nền GD nước nhà chìm
đắm trong khủng hoảng triền miên, ngày càng trầm trọng bởi các ràng buộc
ý thức hệ cứng nhắc. Đã đến lúc có sự lựa chọn: Hoặc là tiếp tục con
đường cũ, tiếp tục giam hãm đất nước trong nền GD ngày càng tụt hậu so
với thế giới, góp phần làm suy yếu thêm nền tảng văn hóa- đạo đức xã
hội.
Hoặc là cương quyết thay đổi tư duy, thực hiện bước ngoặt cơ bản, mở đường cho một giai đoạn GD khai phóng phát triển... (VietNamNet, 30/09)
Điều nguy hiểm là suốt 15 năm qua, hàng ngàn ý kiến đóng góp
cứ như "đấm vào bị bông"; cơ quan chủ quản nghe và... im lặng hoặc là
cải tiến cho có cái gọi là. Thậm chí cải cách sai, sửa đổi nhỏ giọt.
Nghị quyết tầm vĩ mô thì đề ra chung chung, thiếu tính thực tiễn, không
tập hợp, chắt lọc được những tinh hoa từ đội ngũ trí thức tiên tiến
nhất...
Những vấn đề, những câu hỏi trên đây có thể chưa hoàn toàn chính xác.
Nhưng việc đầu tiên là Bộ GD&ĐT phải xem xét, trả lời chính thức,
rốt ráo. Sai hay đúng đều phải được phân định một cách minh bạch. Bởi
một trong những thuộc tính bản chất của GD là không chấp nhận những bài
học nửa vời- vì chúng ắt dẫn đến kết quả là đào tạo nên những con người... một nửa!
"Một nửa" vì kiến thức cần trang bị thì không có, cái có thì cuộc
sống ít khi cần, phần lớn là thừa, lặp lại, nhàm chán. "Một nửa" vì ai
cũng thích 'làm thầy' (ưa lý thuyết) mà không thích làm nghề (vì không
sang, vì lười biếng, vì khó có cơ hội làm quan).
"Một nửa" vì thiếu những phẩm chất không thể thiếu trong cuộc đời như
tự tin, coi thách thức là cơ hội, thích nghi với khó khăn. Coi việc tự
đứng vững là thành công.
"Một nửa" vì lệch lạc về nhận thức các giá trị sống, như coi đồng tiền là trên hết, coi các giá trị văn hóa, tinh thần là vô bổ.
"Một nửa" vì sẵn sàng phạm tội, chấp nhận tù tội, và nếu có cơ hội thì... trốn.
|
Đây là lần đầu tiên vấn đề GD của đất nước được "mổ xẻ" một cách khá quyết liệt. Ảnh minh họa |
|
Nhất thiết phải thay đổi
Câu hỏi thứ nhất là tại sao đã lạc đường - nghĩa là không bao giờ đến
được với cái đích trồng người mà ngành GD vẫn cứ mải miết... bươn tới?
Có lẽ, từ cổ chí kim, đã có hàng ngàn mẩu chuyện kể về vai trò của
người dẫn đường trong sa mạc, trong rừng thẳm, trong sương mù. Vậy mà những người dẫn đường GD ở nước ta vẫn bảo thủ đến mức khó hiểu!
Chẳng lẽ đã mất đến 15 năm để đòi hỏi thay đổi nay tiếp tục mất thêm 15 năm nữa để nghĩ xem có nên... thay đổi hay không?
Sự lạc đường có thể không gây nguy hại, có thể làm lại, nếu không
tính đến sự lãng phí của một quốc gia về mặt thời gian, đồng nghĩa với
sự tụt hậu. Tuy nhiên, nếu lạc đường đến mức khủng hoảng triền miên, xơ
cứng, già cỗi về tư duy, thì đó là điều khó chấp nhận.
Làm sao có thể hình dung nổi nếu như trong thực tế, GD "góp phần làm
suy yếu thêm" nền tảng văn hóa- đạo đức vốn đã rất mong manh, bởi nhiều
giá trị truyền thống đẹp đẽ đã bị xói mòn, đảo lộn.
Chẳng lẽ, bộ chủ quản lại vô cảm đến mức coi nhẹ lĩnh vực của mình đến vậy sao?
|
Hội thảo của các bậc trí thức Thủ đô đã đưa ra sáu kiến nghị mấu chốt
để thay đổi tận gốc GD. Trong đó, những việc cần kíp là thay đổi về vấn
đề chiến lược- chính sách:
Mọi nghị quyết của Đảng phải ra đời từ sự gắn kết thực sự với thực
tiễn GD. Phải có một sự đổi mới triệt để về SGK, phương pháp giảng dạy,
đội ngũ giáo viên. Thực hiện chính sách đãi ngộ công bằng để giáo viên
yên tâm...
Thật ra, có một vấn đề mà hội thảo chưa đề cập đến. Đó là GD hiện nay
đang quá coi trọng việc GD tư tưởng, nhận thức một cách rất bề nổi,
hình thức, phong trào.
Nếu cân bằng được các yêu cầu của GD trên cả năm lĩnh vực chủ yếu: Đạo đức - khoa học - tư tưởng - văn hóa - kỹ năng sống; thì mới có thể thay đổi, tạo ra những "sản phẩm" có chất lượng cao, đưa đến bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên vấn đề GD của đất nước được "mổ xẻ"
một cách khá quyết liệt, kể cả những nan đề lâu nay được coi là 'nhạy
cảm' cũng được phân tích khá thỏa đáng.
Tuy nhiên, đúng như hội thảo đã chỉ ra, cần phải có một Ủy ban cải
cách giáo dục có quyền lực thực sự thì mới giải quyết được. Rất tiếc là
hội thảo quan trọng như thế, đáng nghĩ và đáng bàn như thế lại không hề
được Bộ GD&ĐT quan tâm.
Chẳng lẽ, bộ chủ quản lại vô cảm đến mức coi nhẹ lĩnh vực của mình đến vậy sao?
Hà Văn Thịnh
8 tác động lớn Trung Quốc gây ra với thế giới
Quy mô kinh tế và số dân khổng lồ khiến Trung Quốc có khả năng tạo ra những hiệu ứng đáng kể đối với thế giới.
Dưới đây là 8 lý do tại sao thế giới nên chú ý tới những gì sẽ xảy ra ở Bắc Kinh.
1. Sự phát triển kinh tế
Đã 35 năm kể từ khi nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách mở
cửa Trung Quốc với thế giới bên ngoài và thực hiện quá trình hiện đại
hóa đất nước, mở ra một trong những kỳ tích chuyển đổi kinh tế thành
công nhất trong lịch sử loài người.
Trong 20 năm qua, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ đáng kinh
ngạc và giờ đây trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới với khoảng 1
triệu triệu phú.
Đảng Cộng sản cầm quyền của Trung Quốc sẽ bắt đầu quá trình chuyển đổi
lãnh đạo đầu tiên trong 1 thập kỷ vào ngày 8/11 tới. Vào thời điểm
chuyển giao quyền lực tiếp theo diễn ra vào năm 2022, Trung Quốc có thể
sẽ soán ngôi vị nền kinh tế lớn nhất thế giới của Mỹ.
Sự chuyển đổi này đã làm thay đổi cách thức kinh doanh của thế giới. Giá
lao động rẻ của Trung Quốc đã khiến giá thành sản xuất của tất cả mọi
thứ từ giẻ lau sàn đến điện thoại di động đều giảm.
Bên cạnh đó, Trung Quốc hiện là nhà đầu tư lớn nhất của châu Phi với cam
kết chuyển đổi sự phụ thuộc của lục địa này ra khỏi Mỹ và châu Âu lần
đầu tiên trong 2 thập kỷ. Trung Quốc hiện cũng là chủ sở hữu nước ngoài
lớn nhất đối với nợ chính phủ Mỹ, làm dấy lên tranh cãi liệu vấn đề này
mối đe dọa hay là sự đặt cược liều lĩnh của Trung Quốc?
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là liệu các nhà lãnh đạo mới
có thể giữ cho nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ đã đạt được
như trong quá khứ và giúp phần còn lại của thế giới phục hồi hay không.
Hầu hết các nhà phân tích phương Tây dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trung Quốc sẽ giảm từ 10% xuống còn 6-7% mỗi năm, và lập luận rằng Trung
Quốc cần tiến hành những cải cách nếu muốn trở thành quốc gia giàu chứ
không chỉ là quốc gia có mức thu nhập trung bình.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ giúp Trung Quốc tạo ra tầng lớp trung lưu
lớn nhất thế giới, những người mong muốn tận hưởng các tiện nghi như xe
hơi và máy điều hòa nhiệt độ, bất kể cái giá phải trả về vấn đề ô nhiễm
môi trường là rất lớn.
2. Chi phí môi trường
Quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng với xu hướng bùng nổ các
tòa nhà cao tầng sẽ khiến Trung Quốc vượt Mỹ trở thành nước có lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới vào năm 2007. 7 trong số
các thành phố ô nhiễm nhất thế giới thuộc về Trung Quốc. Mỗi năm ô nhiễm
môi trường gây ra 500.000 đến 750.000 ca tử vong đối với Trung Quốc.
Thiệt hại không chỉ xảy ra đối với mỗi Trung Quốc. Ô nhiễm không khí bao
gồm thủy ngân và chì cũng tràn qua biên giới sang các nước láng giềng,
qua Thái Bình Dương và tràn vào bờ biển phía Tây của Mỹ.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng đã bắt đầu thực hiện các biện pháp giải
quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, tuy nhiên quy mô nền kinh tế và dân số
khiến việc giải quyết vấn đề này trở nên rất khó khăn, nhà phân tích
Edgar Cua thuộc Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho biết.
Điều này có nghĩa là trong tương lai Trung Quốc sẽ giữ vị trí trung tâm
trong bất kỳ thỏa thuận nào về biến đổi khí hậu. Trung Quốc đã từ chối
thực hiện hạn chế khí thải gây hiệu ứng nhà kính, trong đó yêu cầu cắt
giảm "mật độ carbon" (carbon thải ra trên mỗi đơn vị sản lượng kinh tế)
xuống còn 40-45% vào năm 2020.
Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh cộng với sự phụ
thuộc của Trung Quốc đối với than đá (chiếm 70% nhu cầu năng lượng),
lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ tăng lên đến 60%, ngay cả khi
Trung Quốc đáp ứng được mục tiêu về mật độ carbon.
3. Ảnh hưởng thông qua văn hóa và ngôn ngữ
Trung Quốc từ lâu đã thu hút phương Tây không chỉ về quyền lực kinh tế mà còn về mối quan tâm văn hóa và ngôn ngữ của nước này.
Về văn hóa, 30 năm trước đây, chỉ các nhà lãnh đạo bí hiểm của Trung
Quốc mới được phương Tây công nhận. Đến ngày ngay, những nữ diễn viên
như Chương Tử Di, cầu thủ bóng rổ Diêu Minh và nghệ sỹ Trương Tiểu
Cương cũng được đông đảo các nước trên toàn cầu công nhận.
Về ngôn ngữ, số lượng người nói tiếng Trung phổ thông đã phát triển mạnh
mẽ trong thời gian qua, đặc biệt là ở châu Á. Hiện tiếng Trung đang
thách thức tiếng Anh để trở thành ngôn ngữ toàn cầu. Hầu hết các chuyên
gia cho rằng Trung Quốc sẽ mất khá nhiều năm để đạt được điều này.
Bên cạnh đó, các trường học trên khắp châu Âu và Mỹ đều đã mở lớp học
tiếng Trung Quốc phổ thông cho các học sinh lên 6 tuổi và trong suốt
thời điểm diễn ra thế vận hội, tiếng Trung Quốc được viết trên các bảng
quảng cáo của một số xe buýt ở London.
Chính phủ Trung Quốc cũng đã tìm cách nắm bắt tư tưởng, thiết lập hàng
trăm Viện Khổng Tử trên khắp thế giới với mục tiêu công khai dạy tiếng
Trung đồng thời phát triển quyền lực mềm.
4. Sử dụng quyền lực mềm
Trung Quốc đã thông qua cụm từ "trỗi dậy hòa bình" để cố gắng đảm bảo
với các nước láng giềng rằng sức mạnh kinh tế sẽ không biến Trung Quốc
trở thành nước bá quyền.
Tuy nhiên, tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản, Philippines và Việt Nam -
và thậm chí với Mỹ đang khiến cụm từ "trỗi dậy hòa bình" của Trung Quốc
trở nên vô nghĩa.
Hiện tại quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc là lực lượng lớn nhất
thế giới với 3 triệu người và ngân sách chính thức dành cho quốc phòng
của nước này cũng đang tăng nhanh. Tàu sân bay của Trung Quốc đã đi vào
hoạt động và nhiều người cho rằng nước này đang đầu tư mạnh vào công
nghệ tàng hành, an ninh không gian mạng.
Đây là quá trình phát triển tự nhiên đối với một quốc gia có quy mô kinh
tế, dân số và tầm ảnh hưởng lớn như Trung Quốc và không có dấu hiệu nào
cho thấy nước này đang thay đổi chiến thuật.
"Mọi quốc gia đều có quyền bảo vệ an ninh và lợi ích lãnh thổ, nhưng
điều đó không đồng nghĩa với việc trở nên hung hãn", cựu đại sứ Pháp Wu
Jianmin bình luận.
Tuy nhiên, câu hỏi thực sự là những nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc có
thể thiết lập được chính sách đối với Mỹ như thế nào. Nhiều nhà phân
tích cho rằng những nhà lãnh đạo trẻ của Trung Quốc có thể sẽ duy trì
thái độ nghi ngờ đối với các đối thủ quân sự của họ. Lịch sử cho thấy
những cuộc va chạm không thể tránh khỏi giữa các siêu cường và thách
thức mới xảy ra sẽ dẫn đến tình trạng căng thẳng nổi trội hơn so với hòa
dịu.
5. Chương trình vũ trụ
Một trạm không gian, một hệ thống vệ tinh dẫn đường, nhiều chuyến bay
thám hiểm Mặt trăng... là những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang theo
đuổi một chương trình chinh phục vũ trụ với tham vọng ngày càng to lớn.
Trong kế hoạch 5 năm mới, Trung Quốc sẽ phóng nhiều con tàu vũ trụ có
người lái vào không gian đưa một phòng thí nghiệm vào quỹ đạo, phát
triển công nghệ để xây dựng một trạm không gian và dùng hai tàu thám
hiểm Mặt trăng mang mẫu đất đá về Trái đất.
Trung Quốc cũng đã công bố kế hoạch sơ bộ để thực hiện một chuyến bay có
người lái lên mặt trăng, mặc dù không đưa ra ngày cụ thể.
Không những thế, Trung Quốc còn chi hàng tỷ USD cho chương trình phát
triển khoa học vũ trụ như các chuyến bay có người lái mà các quốc gia
chinh phục vũ trụ hàng đầu khác đã thực hiện cách đây nhiều thập kỷ.
Chương trình vũ trụ của Trung Quốc chính thức được khởi động vào năm
1999 khi nước này cho phóng tàu vũ trụ không người lái Thần Châu 1.
Hai năm sau, Trung Quốc tiếp tục cho phóng tàu Thần Châu 2 mang theo một
số loài động vật nhỏ bé. Tới năm 2003, Trung Quốc lần đầu tiên đưa phi
hành gia nước này lên vũ trụ. Kể từ đó, Trung Quốc đã có phi hành đi bộ
ngoài không gian và thực hiện ghép nối tự động giữa một module và tên
lửa vào hồi năm ngoái.
Mới đây, tàu vũ trụ Thần Châu 9 đã thực hiện sứ mạng ngoài không gian
kéo dài 13 ngày. Đây được xem là sứ mạng dài nhất mà Trung Quốc từng
tiến hành, đồng thời đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc đưa một nữ phi
hành gia lên vũ trụ trong phi hành đoàn gồm 3 người.
Thành công của chương trình vũ trụ Trung Quốc được coi như một bằng
chứng cho thấy nước này đã lấy lại được vị thế của mình trên trường quốc
tế.
Tuy nhiên, chi phí khổng lồ mà Trung Quốc đầu tư vào chương trình vũ trụ
hiện vẫn đang gây tranh cãi cho hơn 150 triệu người dân sống dưới 1
USD/ngày của Trung Quốc.
6. Tốc độ tiêu thụ lương thực
Cải cách kinh tế đã giúp hàng trăm triệu người Trung Quốc thoát khỏi
cảnh đói nghèo nhưng cũng khiến người dân tiêu thụ thức ăn nhiều hơn.
Điều này đã làm ảnh hưởng tới giá cả của các mặt hàng nông sản trên thế
giới.
Tiêu thụ thịt lợn là một nhân tố tác động chính. Hiện Trung Quốc đã vượt
Mỹ thành thị trường tiêu thụ thịt lớn nhất thế giới. Trong 5 thập kỷ
qua, tiêu thụ thịt của Trung Quốc đã tăng vọt từ 8 triệu tấn lên 71
triệu tấn, cao gấp đôi so với Mỹ.
Trung Quốc hiện đang nuôi 460 triệu con lợn, chiếm một nửa tổng số lợn
trên toàn thế giới. Để nuôi được số lợn này Trung Quốc sẽ cần rất nhiều
thức ăn. Nông dân Trung Quốc đã phải nhập khẩu đến 60% đậu nành của thế
giới, đẩy giá nhập khẩu đậu nành đối với các nước khác tăng và làm dấy
lên những lo ngại đối với việc tác động vào môi trường của ngành công
nghiệp.
Ngoài ra, giới giàu mới nổi của Trung Quốc đã bị đổ lỗi cho việc săn
trộm các loài vật có nguy cơ tuyệt chủng nhằm mục đích sử dụng kích
thích tình dục, làm đồ trang trí hoặc món ăn. Mỗi năm, hàng ngàn con voi
châu Phi đã bị giết để lấy ngà trong khi chính phủ Trung Quốc bị chỉ
trích vì không có chính sách hợp lý về nạn buôn bán ngà voi.
Trong tương lai, áp lực sẽ ngày càng tăng khi Trung Quốc tìm cách để
nuôi 21% dân số thế giới chỉ với 9% đất canh tác. Một số chuyên gia tin
rằng cả thế giới sẽ phải đối mặt với vấn đề giá lương thực tăng cao cùng
với xu thế ngày càng có nhiều nông dân Trung Quốc mua đất ở nước ngoài.
7. Cải cách du lịch
Gần đây nhất là vào năm 1995, việc xin hộ chiếu rời khỏi Trung Quốc mất 6
tháng để hoàn tất thủ tục, và hầu hết người nộp đơn xin hộ chiếu là các
quan chức Trung Quốc.
Tuy nhiên hiện nay, việc hoàn tất thủ tục xin hộ chiếu chỉ mất một vài
ngày, và hàng triệu người dân Trung Quốc đã tận dụng cơ hội mở cửa của
chính phủ để đi du lịch hoặc sang nước ngoài du học.
Khách du lịch Trung Quốc hiện là những người tiêu dùng lớn thứ 3 thế
giới, sau Đức và Mỹ. Trong năm 2011, Trung Quốc có 70 triệu người du
lịch ra nước ngoài, tăng đáng kể so với con số 4,5 triệu người vào năm
1995. Phần lớn người dân Trung Quốc đi du lịch ở gần nhà với các địa
điểm được ưa thích như Hong Kong, Ma Cao và Thái Lan.
Tuy nhiên, số lượng người du lịch Trung Quốc sang các nước như Mỹ, Pháp
cũng như những điểm đến khác như Trier, quê hương của Karl Marx cũng
ngày càng tăng.
Mỗi năm có khoảng 300.000 sinh viên Trung Quốc du học ở nước ngoài, đặc
biệt theo học ở các trường đại học của Mỹ và Australia. Họ muốn học ở
các trường danh tiếng để xin được một công việc tốt hơn khi trở về nước.
Một số khác thì xem đây là cách để tránh việc thi vào các trường đại
học trong nước.
8. Nhu cầu đối với hàng hóa xa xỉ
Khi thu nhập được nâng lên, tầng lớp trung lưu đang gia tăng ở Trung
Quốc sẽ hướng tới lối sống cao cấp mà trước đây họ chưa từng có được và
chuyển từ văn hóa tiết kiệm sang chi tiêu, đặc biệt là chi tiêu các loại
hàng hóa xa xỉ.
"Được hưởng lợi từ tầng lớp trung lưu ngày càng nhiều và hệ thống phân
phối hàng xa xỉ phát triển nhanh chóng, doanh số bán hàng xa xỉ của
Trung Quốc đã liên tục tăng trưởng vượt trội so với thị trường toàn
cầu", nhóm nghiên cứu tiêu dùng Euromonitor cho biết.
"Doanh thu hàng xa xỉ ở Trung Quốc đã tăng gấp 3 trong vòng 5 năm vừa
qua, đến năm 2017 thì thị trường xa xỉ ở đây dự tính sẽ tăng gấp đôi.
Khi đó, có thể nó sẽ vượt qua cả Pháp, Anh, Italia và Nhật Bản, trở
thành thị trường xa xỉ lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mỹ", Euromonitor
nhận xét.
Trung Quốc đã góp phần làm hồi sinh các nhà sản xuất hàng xa xỉ của châu
Âu như Louis Vuitton và Hermes. Đồng thời, nước này cũng đang mua nhiều
lò sản xuất rượu vang ở Bordeaux, Pháp.
Tuy nhiên, kỳ tích ngoạn ngục nhất phải kể đến nghệ thuật Trung Quốc. 3
trong số 10 bức tranh đắt nhất được bán trong năm 2011 thuộc về các nghệ
sĩ Trung Quốc, với tác phẩm đắt nhất trị giá 57,2 triệu USD của họa sĩ
Qi Baishi.
Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng của người dân Trung Quốc đã gây ra xu hướng
tăng đột biến các loại hàng hóa như đồng - vật liệu cần thiết đối với
việc phát triển cơ sở hạ tầng và các thành phố có tốc độ phát triển
nhanh.
Trong giai đoạn tiếp theo thế giới có thể sẽ chứng kiến người khổng lồ
công nghiệp Trung Quốc bắt đầu tìm kiếm thị trường mới ở nước ngoài.
Điều này sẽ gây tranh cãi bởi hầu hết các công ty trong các lĩnh vực như
viễn thông và năng lượng đều do đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát và
xu hướng tìm kiếm thị trường bên ngoài có thể đe dọa quan hệ thương mại
giữa Trung Quốc với phương Tây.
(BBC)
Đôi điều về việc thay đổi mô hình phát triển của PT Con đường Việt nam
Hơn bốn tháng hình thành và phát triển, phong trào CĐVN cũng dần khẳng
định và chứng tỏ được vị thế của mình trong xã hội. Tuy còn non về tuổi
đời nhưng phong trào cũng đã gặt hái được một số thành quả đáng ghi
nhận, phong trào đã tạo được tiếng vang trong lòng xã hội, thu hút được
sự chú ý của đông đảo các thành phần từ những người yêu dân chủ đến tầng
lớp trí thức và có cả sự quan tâm, chú ý của cơ quan Công an Việt Nam.
Có được sự thành công này là do nhiều yếu tố tạo nên song yếu tố con
người là quan trọng nhất và mang tính quyết định. Nói đến yếu tố con
người chúng ta không thể không nhắc đến ba nhân vật: kỹ sư Trần Huỳnh
Duy Thức, kỹ sư Lê Thăng Long và luật sư Lê Công Định, ba nhân vật này
là những người đã đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền móng cho
phong trào CĐVN. Họ là những người đã xây dựng và vạch ra cương lĩnh,
mục tiêu, phương thức và mô hình hoạt động của phong trào. Được sự chuẩn
bị và tính toán kỹ lưỡng, ngày 10/06/2012 Lê Thăng Long thay mặt ba
nhân vật tuyên bố phát động phong trào mang tên “CON ĐƯỜNG VIỆT NAM”.
Sau một thời gian dài hoạt động thì hiện nay Lê Quốc Tuấn, một thành
viên trong ban sáng lập đã thông báo thay đổi mô hình hoạt động của
phong trào mặc dù bản thông báo đề tên Lê Thăng Long, nhưng sẽ càng khó
giải thích tại sao thông báo đó không phải do Lê Thăng Long công bố?.
Việc thay đổi mô hình hoạt động sẽ dẫn tới việc thay đổi toàn bộ về cách
thức tổ chức, phương thức hoạt động và trách nhiệm của từng thành viên
đối với phong trào và đối với pháp luật… Từ sự thay đổi này, có một số
vấn đề mà chúng ta cần phải suy nghĩ và nghiêm túc xem xét:
Thứ
nhất: Việc thay đổi này có được sự đồng ý, thống nhất của đông đảo các
thành viên trong nhóm khởi xướng hay không?. Hiện tại kỹ sư Trần Huỳnh
Duy Thức và luật sư Lê Công Định đang thụ án trong tù vậy những người
quan trọng này có được lấy ý kiến hay không? Hay Lê Thăng Long và một số
người khác cho rằng hai nhân vật trên đang ở tù thì chẳng cần phải lấy ý
kiến?. Việc họ có tên trong danh sách thành viên là chỉ để cho đẹp đội
hình, có càng nhiều những tên tuổi nỗi tiếng thì càng có nhiều người
quan tâm và ủng hộ thôi chứ họ chẳng có chút vai trò gì?. Nếu thật sự
như vậy thì kỹ sư Lê Thăng Long nên xem xét lại những gì mình đang làm
và nên tôn trọng những gì mà họ đã hi sinh để phong trào có được những
kết quả như ngày hôm nay. Còn nếu Lê Thăng Long cho rằng Lê Công Định và
Trần Huỳnh Duy Thức đã ủng hộ phong trào thì trước sau gì cũng ủng hộ
và không cần phải lấy ý kiến thì đó là một sự sai lầm chủ quan duy ý
chí. Làm như vậy sẽ không công bằng cho họ, một khi mô hình thay đổi thì
bộ mặt của phong trào sẽ thay đổi theo, họ có thể đồng tình với mô hình
củ nhưng chưa chắc đã đồng tình với mô hình mới.
Thứ hai: Một
phong trào mà tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang từng nhận xét: “Trong lịch sử
Việt Nam cận-hiện đại sau Nhân văn-Giai phẩm, chưa có tổ chức chính trị
đối lập nào (kiểu như: Khối 8406, Đảng Dân chủ XXI, Đảng Dân chủ Nhân
dân, Hiệp hội Đoàn kết Công Nông …) ngay khi xuất hiện đã tỏ ra đàng
hoàng, chững chạc, có tư thế đáng nể trọng như Phong trào Con đường Việt
Nam”. Vậy mà mới bốn tháng hoạt động phong trào đã có sự thay đổi lớn,
mang tính bước ngoặt. Không biết ông tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang nghĩ gì
về điều này?. Nói chung những sự thay đổi theo hướng tích cực thì đáng
được khích lệ và tán thành, cái gì chưa hoặc không phù hợp thì cần được
thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên đối với một phong trào hoạt động trên
lĩnh vực chính trị - xã hội, muốn được sự đồng tình, ủng hộ và đánh giá
cao thì cần phải đảm bảo được tính ổn định và phát triển bền vững, những
người sáng lập phải có đủ cái tầm để định hướng và vạch ra những chiến
lượt phát triển phong trào. Một phong trào không ổn định, nay thế này
mai thế khác thì sớm muộn nó sẽ bị biến chất, bị thao túng bởi một số cá
nhân, phong trào sẽ không phục vụ cho những mục tiêu, phương hướng ban
đầu mà chủ yếu phục vụ cho mục đích, ý đồ của số cá nhân xấu.
Thứ
ba: Xung quanh việc thay đổi mô hình phát triển của phong trào CĐVN thì
cũng có nhiều lời bàn tán ra vào. Nhiều ý kiến khen chê trong đó có ý
kiến cho rằng sở dĩ có sự thay đổi này là do phong trào nhiều lần bị ném
đá, bị chỉ trích từ phía dư luận. Phong trào đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ
là mang lại quyền con người cho nhân dân, đem lại sự tự do, dân chủ cho
xã hội nhưng lại độc quyền trong việc thể hiện quan điểm. Những ý kiến
mang tính xây dựng nhưng trái ý ban điều hành thì lập tức bị loại bỏ.
Trong cuộc thi “Quyền con người và tôi” do phong trào CĐVN phát động
cũng đã có nhiều bài viết có giá trị, phản ánh những suy nghĩ, cảm nhận
riêng của người viết về đời sống xã hội nhưng không đúng ý đồ của ban tổ
chức thì những bài viết đó cũng không được đón nhận. Chính sự thiếu
công bằng, thiếu dân chủ của ban tổ chức đã làm cho một số cá nhân có sự
quan tâm đến phong trào càng ngày càng xa rời và quay sang chỉ trích.
Sự thay đổi mô hình phát triển theo hướng xã hội hóa của phong trào là
nhằm né tránh sự phản ứng, công kích từ phía dư luận và còn mục đích đẩy
phần trách nhiệm của mình ra cho xã hội. Có thể nói sự thay đổi chỉ là
giải pháp tình thế nhằm thoát khỏi sự khủng hoảng của phong trào, sự chỉ
trích từ phía dư luận.
Hồ Phương Lan
* Bài do tác giả gửi tới TTHN