Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Bài viết đáng chú ý

Các khái niệm dân chủ, pháp quyền, cộng hoà và xã hội: Lý thuyết và thực tế

Vấn đề

Một trong những góp ý tu chỉnh Hiến pháp Việt Nam là đề xuất du nhập mô hình dân chủ của nhà nước phương Tây. Dân chủ là một khái niệm luật Hiến pháp nhằm quy định hình thức cai trị, nhưng lại gắn liền với các khái niệm pháp quyền, cộng hoà và xã hội. Dù có liên hệ nhau nhưng các khái niệm này có nhiều giá trị tương đồng và dị biệt mà tiểu luận này sẽ giới thiệu những mối quan hệ lý thuyết để đối chiếu với thực tế của Hiến pháp Việt Nam.
Lý thuyết luật Hiến pháp
Dân chủ và pháp quyền
Ý nghiã dị biệt
Ý nghĩa chính của dân chủ là toàn dân có thẩm quyền tối thượng trong việc quyết định vận mệnh của đất nước và con người, mà không ai khác thay thế. Vào thời trung cổ giáo quyền chiếm vai trò chủ yếu trong việc quyết định mọi sinh hoạt thế quyền. Sau khi Cách mạng Pháp thành công, toàn dân trở thành nguồn quyền lực duy nhất của đất nước, điển hình là thẩm quyền lập hiến. Toàn dân là tác giả Hiến pháp mà nội dung là quy định một trật tự cho sự chung sống trong xã hội và quan trọng nhất là các nguyên tắc tổ chức nhà nước. Tại Đức, nguyên tắc quyền dân tộc tối thượng lần đầu tiên được ghi trong Hiến pháp Weimar 1919, nguyên tắc này cũng được công nhận trong Hiến pháp các tiểu bang; Hiến pháp Paulkirchen 1849 tuy đề cao một vài yếu tố dân chủ nhưng lại không công nhận quyền dân tộc tối thượng như Pháp. Dân chủ, do đó, không đi sâu về nội dung luật pháp, tính chính thống hay kiểm soát các hoạt động nhà nước.
Khái niệm dân chủ tại Hoa kỳ và châu Âu có nhiều dị biệt. Dân chủ tại Hoa kỳ không là một phong trào đấu tranh trong nội bộ của một nước mà trước tiên là đòi hỏi quyền tự do tôn giáo và quyền tự trị. Sự hình thành các tiểu bang New England (Đông Hoa Kỳ) nhằm tách rời khỏi quyền thống trị của mẩu quốc Anh là một minh chứng. Truyền thống tư duy tại châu Âu khác hơn. John Locke cho rằng dân quyền tại Anh là tình trạng tự nhiên có sẳn của xã hội mà vai trò của chính quyền là phải bảo đảm quyền này được thực thi. Locke không coi dân chủ là quyền tối thượng và nằm trong truyền thống đấu tranh như tại Pháp. Lịch sử của Pháp cho thấy toàn dân có một quá trình chống đối và với cải cách liên tục của chính quyền mà khái niệm về dân chủ mới thành hình. Nhờ thế dân chủ trở thành quyền tốí thượng và không thể chuyển nhượng.
Nhà nước pháp quyền, ngược lại, đặt vấn đề nội dung, phạm vi và luật thủ tục trong việc điều hành các hoạt động của nhà nước, cụ thể là quy định mọi giới hạn của nhà nước và người dân vào luật pháp. Nguyên tắc ràng buộc này nhằm bảo đảm quyền tự do của cá nhân, cụ thể là nhà nước phải tôn trọng việc thực thi dân quyền, các thủ tục luật hành chính và có nền tư pháp độc lập. Tôn trọng luật pháp là một phương tiện cho nhà nước thực thi nguyên tắc dân chủ được hữu hiệu hơn.
Lịch sử chứng minh các chế độ quân chủ hiến định vào thế kỷ XIX, dù không dân chủ, nhưng cũng tôn trọng nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Nguợc lại, các chế độ dân chủ hiện nay luôn đề cao trọng pháp, mà mức độ áp dụng trong thực tế bị giới hạn.
Mục tiêu tương đồng
Nội dung của khái niệm nhà nước pháp quyền nhằm bảo vệ dân quyền một cách tổng quát, không đặc biệt hướng về ý kiến của người dân trong các quyết định cụ thể. Dù khác nhau về chiều hướng nhưng hai khái niệm dân chủ và pháp quyền cùng theo đuổi một mục tiêu chung là bảo vệ dân quyền, mà tự do ngôn luận, báo chí, thông tin và hội họp là điển hình. Quyền tự do dân chủ là một điểm nối kết cho hai khái niệm này gặp nhau. Đó cũng chính làm điểm phân biệt giũa chế độ dân chủ và độc tài. Tự do có quan hệ với dân chủ vì là nguyên tắc hình thức tổ chức cho một nhà nước, trong khi chế độ độc tài, ngược lại, không tạo điều kiện này. Do đó, dân chủ và pháp quyền có một chức năng chung là bảo vệ dân quyền và tự do trong một thể thống nhất.
Hai nguyên tắc dân chủ và pháp quyền không hề cạnh tranh hay đối nghịch mà bổ sung nhau, tạo thành một khuôn khổ chung làm cho luật Hiến pháp có giá trị bền vững hợn. Ý nghĩa của phân quyền nếu nằm trong khuôn khổ dân chủ thì sẽ dễ thành hình hơn; quyền lực của nhà nước, do đó, được quân bình hơn và có điều kiện kiểm soát chặt chẻ hơn. Thí dụ điển hình nhất là vai trò độc lập của cơ quan tư pháp. Tinh thần độc lập và khách quan của tòa án làm cho việc giải quyết các tranh chấp không bị quyền lợi cá nhân hay phe nhóm gây ảnh hưởng.
Toàn dân nắm quyền lực cai trị đất nước, nên nhà nước pháp quyền cũng bị giới hạn trong nguyên tắc này. Có lập luận cho là tam quyền phân lập ngày càng chuyên môn hoá cao độ nên làm suy yếu việc thực thi dân chủ. Thực tế cho thấy phân biệt chức năng trong quyền lực của bộ máy nhà nước không làm mất đi quyền kiểm soát của người dân, vì việc quân bình và kiểm soát sẽ hữu hiệu hơn, dĩ nhiên trong điều kiện là nếu nhà nước tôn trọng uy lực của luật pháp
Dân chủ và cộng hòa
Cộng hoà là một khái niệm cổ điển của luật Hiến pháp nhằm quy định về tổ chức nhà nước và có hai nghĩa hình thức hay nội dung.
Hình thức
Miachiavelli là người đầu tiên du nhập khái niệm cộng hoà vào luật Hiến pháp. Ông cho  rằng nhà nước cộng hoà có hai chức năng là nắm quyền lực và lãnh đạo mà trước đó thuộc về nhà vua. Nhà nước cộng hoà được hiểu là tương phản và thay thế cho nhà nước quân chủ. Do đó, chúng ta không thể gọi chế độ quân quyền của Anh và Thụy Điển là cộng hoà. Qua sự hình thành và phát triển của khái niệm dân chủ, chế độ cộng hoà sẽ làm dân chủ hóa cho đất nước về hình thức. Ngày nay, khái niệm cộng hoà đã thay đổi nhiều vì không chú trọng đến cá nhân lãnh đạo mà coi là một hình thức cai trị cộng đồng, bao gồm tất cả sinh hoạt chung của đất nước và con người.
Mối quan hệ giữa dân chủ và cộng hòa không đối nghịch hay đồng nghĩa vì cả hai có   chiều hướng khác nhau. Nhưng du nhập khái niệm cộng hoà cho một chế độ dân chủ cũng không làm cho nguyên tắc dân chủ suy yếu hay mạnh hơn. Thực tế cho thấy các nước độc tài chuyên chế hoặc theo xã hội chủ nghĩa đã lạm dụng khái niệm cộng hòa khi khái niệm chuyên chính vô sản không hề phù hợp với cộng hoà dù theo nghĩa hình thức.
Nội dung
Nội dung của khái niệm cộng hoà được Cicero và Kant đề cao. Cicero cho là dân tộc không chỉ là một tập hợp của một số người hổn tạp mà là một sư đồng thuận chung sống trong quy luật chung và sử dụng các tài sản chung. Cộng hoà là việc điều hành các vấn đề chung cho mọi người trong cộng đồng, thí dụ như trong cùng thành phố thời cổ Hy Lạp. Do dó, quyền lợi của cá nhân hay một phe nhóm không có ý nghĩa cộng hoà mà thuộc về tất cả các thành viên trong cộng đồng. Cá nhân và lãnh đạo cùng theo đuổi mục đích chung sống trong chế độ cộng hoà trong tinh thần trọng pháp. Chế độ cộng hoà không còn là một hình thức không quân chủ hay chuyên chế mà là một chế độ chính trị, một biểu hiện có nội dung là mọi quyết định phải phù hợp với quyền lợi công cộng. Trong nội dung này, cộng hoà có ý nghiã của khái niệm nhà nước pháp quyền hiện nay.
Theo Kant, cộng hoà không có nội dung giáo điều mà là một khái niệm luật Hiến pháp đề ra các quy phạm căn bản cho sự chung sống trong xã hội và ba điều kiện tiên quyết là tự do, ràng buộc về luật pháp và bình đẳng. Nội dung này không cách biệt với khái niệm tự do dân chủ hiện đại. Kant mơ ước là nếu Hiến pháp cộng hoà thực hiện được trong từng quốc gia và có sự hợp tác quốc tế hữu hiệu thì một nền hoà bình vĩnh cữu cho nhân loại là khả thi.
Dân chủ và xã hội
Ủy nhiệm mục tiêu
Nhà nước xã hội là một khái niệm hiện đại của luật Hiến pháp, không phải là một nguyên tắc hiến định để tạo thành nhà nước XHCN, không thuộc về dân quyền hay pháp quyền, mà là một mục tiêu của nhà nước để đem lại công bình và an toàn xã hội. Đúng hơn đây là một sự ủy nhiệm của luật Hiến pháp cho nhà nước và các cơ quan chức năng thi hành các biện pháp xã hội để bảo đảm cuộc sống cho toàn dân, thí dụ tạo an sinh cộng đồng, phúc lợi xã hội, phòng chống thiên tai, công bình trong hệ thống thuế khọá, phân phối lợi tức, các biện pháp bảo hiểm sức khoẻ, thất nghiệp, hưu bổng và trợ cấp xã hội vv…
Hai khái niệm dân chủ và nhà nước xã hội không đối nghịch mà hổ trợ nhau. Nếu bất công là một hậu quả tất yếu trong đời sống xã hội, thì dân chủ là một khả năng để giải quyết vấn đề. Việc thực hiện các mục tiêu của nhà nước xã hội đề ra cần đến dân chủ. Dân chủ đem lại sư bình đẳng chính trị cho toàn dân, dân có quyền định chọn lãnh đạo qua hình thức đầu phiếu. Do đó, các bất công xã hội cũng phải do dân giải quyết qua phương thức dân chủ.
Triển vọng khó khăn
Trở ngại chính là nguyên tắc dân chủ quy định quá tổng quát, trong khi mang lại công bình và an toàn xã hội cho toàn dân là mục tiêu lý tưởng. Đồng thuận dân chủ không thể đề ra một thể chế tối ưu và một giải pháp khi nhà nước không có phương tiện. Hiện nay, bất công xã hội không thuần túy nằm trong sự bóc lột công nhân qua quá trình sản xuất như Marx mô tả mà thực tế phức tạp hơn nhiều. Toàn cầu hoá, nợ công lan tràn và suy thoái kinh tế là các vấn đề xã hội trầm trọng của các nuớc phương Tây. Khả năng giải quyết vấn đề càng thu hẹp, nên nhà nước càng cần hợp tác quốc tế và các tổ chức dân sự, kể cả sự chấp nhận hy sinh và khắc khổ của dân chúng.
Luật Hiến pháp không cho phép nguời dân có tố quyền hiến định về một quyền lợi xã hội. Triển vọng về việc phát triển quyền này thành một nhân quyền càng khó khăn hơn vì tình hình kinh tế không cho phép. Tạo công bình trong phân phối phúc lợi và an toàn xã hội cho toàn dân, giải quyết bất công qua đánh thuế doanh nghiệp, thuế di sản và thuế lợi tức là những biện pháp luật định. Do đó, vấn đề không những cần dân chủ mà còn cần đến pháp quyền. Mối quan hệ này cần được đặt ra. Việc phân chia phúc lợi xã hội công bình trong tương lai càng bất trắc hơn.
Thực tế Hiến pháp Việt Nam
Thực trạng
Dù tự hào dân chủ của Việt Nam là tốt đẹp vạn lần hơn của các nước phương Tây, nhưng Việt Nam chưa hề có một Hiến pháp nào đúng nghĩa là của dân làm ra, nên không có điều kiện tương đồng để so chiếu với các khái niệm vừa trình bày và suy diễn về tương lai Hiến pháp. Nếu chấp nhận giá trị phổ quát của các khái niệm trên để soi sáng cho thực trạng Hiến pháp thì chúng ta thấy một thực tế khác.
Hiến pháp không có dân chủ, vì ngườì dân không có cơ hội hành sử thẩm quyền lập hiến và không có tố quyền hiến định về các vi phạm nhân quyền. Hiến pháp không bảo đảm tự do báo chí mà trước đây thực dân Pháp đã triệt để tôn trọng.
Hiến pháp không có pháp quyền soi sáng vì Đảng quyền can thiệp toàn diện và triệt để vào mọi sinh hoạt xã hội, do đó vi phạm về sự phân biệt giữa chính quyền và xã hội.
Hiến pháp không theo thể chế cộng hoà dù quốc hiệu minh danh là cộng hòa xã hội chủ nghiã. Quyền dân chủ nhân dân mà chế độ Đảng cử dân bầu và quyền sở hữu nhà nước  không phù hợp theo ý niệm cổ điển cộng hoà.
Hiến pháp không theo quan điểm nhà nước xã hội vì định hướng XHCN. Chính sách này không đem lại công bình trong phân chia phúc lợi và an toàn xã hội. Bốn khiếm khuyết này quá hiển nhiên nên không cần lý giải thêm.
Nguyên nhân
Lý thuyết Mác xít cho rằng các khái niệm thượng tôn luật pháp, tôn trọng nhân quyền, tam quyền phân lập, chính thể lập hiến và đại nghị là những sản phẩm sai lầm của ý thức trong xã hội tư sản mà tranh chấp quyền lợi của các giai cấp là một thực tại khách quan. Hiến pháp phản ảnh một tình trạng đấu tranh giai cấp, một phương tiện cho giai cấp thống trị đàn áp các giai cấp khác và cuối cùng đi đến thoả hiệp về hình thức hay nội dung trong một thời kỳ nhất định. Sự thoả hiệp này không còn nửa khi giai cấp công nhân thắng thế trong cuộc đấu tranh cách mạng. Giai cấp vô sản là đại diện chính thống cho toàn xã hội và có thẩm quyền tối thượng về lập hiến. Với bạo lực cách mạng và độc quyền chuyên chính vô sản Hiến pháp XHCN là một công cụ lý tưởng để xây dựng xã hội và đem lại công bình tuyệt đối. Các mối quan hệ về các khái niệm dân chủ, pháp quyền, cộng hoà và xã hội sẽ bị hủy diệt theo ánh sáng của nền dân chủ nhân dân.
Thực tế đấu tranh cách mạng dành đôc lập và giải phóng dân tộc tạo cho Đảng có một ưu quyền tối thượng và Việt Nam có một đặc thù là Đảng, nhà nước và xã hội là một thể thống nhất. Soạn thảo Hiến pháp là sự cải biên các Nghị quyết và Cương lĩnh của Đảng; Hiến pháp không do thẩm quyền lập hiến của toàn dân quyết định và nội dung không là ý chí chung sống của toàn dân trong nguyên tắc đồng thuận. Từ sự áp đặt của Đảng quyền mà Hiến pháp không có giá trị về mặt pháp lý và thực tế.  
Giải pháp
Lý thuyết về luật Hiến pháp rất đa dạng cần được góp ý, nhưng ít ai quan tâm, kể cả học giới. Đảng chưa thuyết phục được về khái niệm NNPQXHCN và không còn thuyết phục được về khái niệm chuyên chính vô sản và quyền sở hữu toàn dân. Tất cả lý thuyết làm kìm chế sự thịnh vượng đất nước. Nếu Quốc hội tiếp tục sao chép Cương lĩnh của Đảng thì Hiến pháp tương lai sẽ là một áp đặt của tư bản nhà nước với giai cấp vô sản mới, nạn nhân của Đảng. Cuối cùng, Hiến pháp không phát huy được khái niệm đối lập chính trị trong sinh hoạt dân chủ mà chỉ duy trì khái niệm phản động, thế lực thù địch và suy thoái đạo đức.
Thực tế về góp ý tu chỉnh không dựa theo lý thuyết luật pháp XHCN mà theo công lý cá nhân và đạo đức xã hội để lập luận. Dân oan thấy là luật pháp không còn là công cụ của tư sản bóc lột mà đã trở thành phương tiện cưõng chế của tư bản thân tộc. Dân không thấy có thành phần giai cấp vô sản vùng lên mà chỉ biết có các nhóm lợi ích dành nhau định đoạt vận mệnh đất nước. Dân không tự xác định được mình có thẩm quyền lập hiến tối thượng, vì cho là hoang tưởng và dè dặt hơn khi góp ý theo chỉ đạo của Đảng. Dĩ nhiên cũng có một thiểu số khác phê phán Đảng nghiêm khác hơn với tất cả thành tâm. Dù cả hai thiện chí này đều đáng được tôn trọng, nhưng không đem lại giá trị cho việc tu chỉnh được cao cả hơn, vì vô hình chung là họ chấp nhận duy trì tình trạng vô luật pháp hiện nay.
Đảng muốn tiếp tục lãnh đạo, nhưng dân cần có cơ hội đối thoại trong tinh thần bình đẳng hơn là theo sự chỉ đạo của Đảng. Giữa dân và Đảng cần hiểu nhau nhiều hơn mà hệ thống thông tin của nhà nước và cộng đồng mạng không thể đáp ứng được nhu cầu này. Để chuẩn bị tìm ra mô hình Hiến pháp mới, các khái niệm hiến định là quan trọng cho học giới, vì họ cần có cơ sở để đóng góp thiết thực hơn. Một cuộc thăm dò dư luận khách quan sẽ đem lại nguồn thông tin khả tín và phương tiện cần thiết. Tìm hiểu y kiến công luận về triển vọng hình thành các định hướng lập hiến này là một sinh hoạt bình thường của một đất nước dân chủ. Việc Đảng và dân chúng đồng thuận tham gia cho bước khởi đầu này trở thành vấn đề nghiêm túc cần thảo luận sâu rộng hơn.   
Kết luận
Trình độ luật pháp biểu hiện nền văn hoá của một nước. Tu chỉnh Hiến pháp là một nhu cầu bức thiết của thời đại để chứng tỏ là một tinh hoa văn hóa đáng cho thế hệ hôm nay tự hào và mai sau kế thừa. Tiến trình cải cách thêm xa vì chúng ta không có một chủ thuyết lập hiến mở lối và cũng không có kinh nghiệm thực tế để thu ngắn.
Nguyên uỷ chuyển động cho tương lai Hiến pháp cần đến một khởi điểm tinh thần: cả nước tìm hiểu và mến yêu những giá trị cao đẹp của Hiến pháp và biến kiến thức và ý thức này thành một tinh thần yêu nước. Luận đề này do triết gia Jürgen Habermas khởi xướng. Tinh thần yêu nước hôm nay là phát huy những giá trị đích thực của tự do, công bình, nhân quyền và ràng buộc pháp luật. Toàn dân thay đổi tư duy về thẩm quyền lập hiến là khởi điểm và Đảng thăm dò dư luận theo phương cách khoa học là biện pháp.
Đỗ Kim Thêm*
CTV Phía Trước

* Dr. Đỗ Kim Thêm L.L. M., M. A, Legal Member, Competition Law and Policy and Consumers Protection Branch, United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD), Geneva. Views expressed are personal.
Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân.
(TCPT)

38 năm, Việt Nam đen tối hơn bao giờ hết!


Cứ tưởng sau 30/4/1975 khi đất nước đã quy về một mối, hết còn chiến tranh thì mọi người Việt Nam ở hai chiến tuyến Bắc-Nam sẽ tay bắt mặt mừng, cùng nhau xây dựng lại Tổ quốc để được sống hạnh phúc, nhưng 38 năm sau lòng người vẫn phân tán, hạnh phúc còn xa tầm tay và đất nước chưa thấy ngày mai.
Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn thấy nhưng nó đã xảy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận mình sẽ đi về đâu.
Sau đây là những nguyên nhân tạo thành bức tranh u ám ấy:
Thứ nhất, đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dười thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “ tư do tư tưởng” đã bị khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.
Ngay cả những bài viết, được người dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân của Tác gỉa N.V.L. (Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn về những việc cần phải sửa đổi  trong xã hội và chính quyền cũng bị rút lại.
Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách bóp nghẹt hà khắc được áp dụng theo Cương lĩnh gọi là “Xây dựng đất  nước trong thời ký qúa độ lên Chủ nghĩa Xã hội”. Kinh tế phát triển ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tham nhũng nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi các nước Cộng sản Đông Âu rồi Nga Xô tan rã (từ 1989 đến 1991).
Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lý  thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng rãi ở Việt Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng năm 1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đã ký với Trung Cộng một thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”, nhưng cả hai phiá đều “giữ bí mật”.
Ngoài việc hai nước nối lại bang giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam buộc phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên mà Việt Nam đã xâm lăng tháng 12/1978, đảng CSVN không cho ai biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đã “thỏa hiệp” với Trung Cộng những gì!
Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đã công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lãnh thổ đến chính trị mà Việt Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu rã thêm với tình trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy quyền lên cao. Cán bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là “máu thịt” giữa dân và đảng loãng ra.
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Đến Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) , sau khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí Thư, thì Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp thuận ngày 31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết: “ Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”.
Nghị quyết nói rõ rằng : “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như thế thì đảng CSVN đã “ mất định hướng” chưa hay vẫn còn nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, chưa đến tình trạng “tự rã đám” hay “tự ý tan hàng” ?
Ai theo Tàu hơn ai?
Thứ hai, nội bộ thì như thế, nhưng trong quan hệ với Trung Cộng thì ông Phiêu đã lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.
Dù Việt Namđã nhiều lần cải chính, nhưng việc  nhượng đất ở biên giới và lãnh hải cho Trung Cộng của “triều đại” Lê Khả Phiêu đã rõ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999); “Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và“Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” (25/12/2000)
Cụ thể Việt Nam đã mất đất như thế nào thì hãy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau:
“Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ý đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi không đạt được thì trở mặt…. Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ xa, nhòm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai bên đã có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục(?), cuối cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn thì mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trãi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay  ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi xuống mãi đến chợ Tân Thanh, đối diện đã là trụ sở hải quan của Trung Quốc….” (17-03-2010, Bauxite Viet Nam)
Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông Đức Mạnh lên giữ chức Tổng Bí thư liền hai khoá đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011).
Trong 10 năm, ông Mạnh đã để cho Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban Trung ương đảng và của Quốc hội.  Rất nhiều Công ty của Trung Cộng đã được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với giá rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua kế họach cho thuê đất rừng dài hạn đến 50 năm!
Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Kết luận viết: “ Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông); đồng thời, chỉ đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
“Đối tác nước ngòai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh !
Mắc mưu Trung Công?
Thứ ba, việc làm ì ạch của hai nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) đã khiến nhiều chuyên viên lo ngại sẽ sa lầy như nhiều dự án kinh tế khác có bàn tay người Trung Quốc dính vào.
Sự lo âu này đã được trả lời bằng việc sản xuất chậm mất 2 năm của nhà máy Tân Rai, nhưng sau khi chính phủ quyết định đình chỉ kế họach làm cảng Kê Gà,Bình Thuận (18/02/2013) vì phương án xây dựng cảng “không mang lại hiệu quả” để xuất khẩu quặng Alumin (sản xuất từ quặng Bauxite) thì các chuyên viên đã báo động “sẽ thua lỗ nặng” nếu Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cứ “cố đấm ăn xôi”.
Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin 20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai!
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013 báo động: “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát … là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).”
Báo này viết: “ Đã 3 ngày qua, hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải nghỉ triền miên.
Anh Nguyễn Đình Đề (tài xế xe ủi) phản ánh, anh đã làm việc ở đây đã sáu năm liền. Từ đó đến nay, anh và nhiều anh em khác chỉ được hưởng lương theo khối lượng công việc. Trong khi đó việc làm thì thất thường, mỗi tháng chỉ làm việc khoảng 16 ngày công.
Cũng theo anh Đề, từ đầu năm 2013 đến nay, lương của anh em rất thấp. Tháng 1, anh Đề chỉ nhận được gần 1,1 triệu đồng và tháng 2 là 1,2 triệu đồng, hiện vẫn chưa nhận được lương tháng 3. Định mức xăng dầu dùng cho các đầu xe ngày càng xuống thấp khiến tài xế lâm vào cảnh nợ nần.”
Ông Nguyễn Văn Thắng, phó tổng giám đốc Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng nói : “Nhà máy tuyển quặng và nhà máy sản xuất alumin đang chạy theo công suất không tương xứng nhau. Nhà máy tuyển quặng đã bàn giao nên sản xuất hết công suất, còn nhà máy alumin thì đang chạy thử nên chỉ chạy 50% công suất”.
Hiện tại, kho của nhà máy tuyển quặng đang tồn 40.000 tấn quặng tinh, nhà máy alumin tồn kho 20.000 tấn do chưa bán được. Hiện nhà máy alumin vẫn tiếp tục hoạt động, mỗi ngày sản xuất khoảng 1.000 tấn.
Ông Thắng cho biết hiện sản phẩm alumin chỉ mới được tiêu thụ trong nước với số lượng rất ít và chưa có hợp đồng xuất khẩu. Dự kiến đến tháng 6/2013 toàn bộ tổ hợp mới được bàn giao từ nhà thầu Chalieco (Trung Quốc). Khi việc kinh doanh sản phẩm alumin đi vào ổn định, hạn chế tồn kho thì 1.300 công nhân tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai mới ổn định việc làm.”
Một trở ngại lớn và quan trọng khác là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để  chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.
Báo Đầt Việt cho biết: “Quốc lộ 20 sẽ là cung đường chính phục vụ quá trình vận chuyển bauxite từ nhà máy Alumin Tân Rai (Lâm Đồng) về cảng Gò Dầu (Đồng Nai). Mặc dù việc nâng cấp, cải tạo đã thực hiện hơn 1 năm nhưng đến nay, con đường này vẫn chằng chịt ổ voi, ổ gà khiến người lưu thông qua đây lúc nào cũng nơm nớp lo tai nạn.
Trước đó Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 20 đoạn từ ngã tư Dầu Giây, huyện Thống Nhất - Đồng Nai đến TP Bảo Lộc - Lâm Đồng dài 120 km, khởi công từ tháng 12/2011 với tổng vốn đầu tư hơn 4.600 tỉ đồng từ nguồn vốn ngân sách, do Công ty Cổ phần BT20 thực hiện dưới hình thức xây dựng - chuyển giao.
 Mục tiêu của dự án là làm cho con đường cũ kỹ, xuống cấp này có đủ độ lớn và sức chịu tải phục vụ quá trình vận chuyển bauxite, đồng thời bảo đảm nhu cầu đi lại an toàn cho người dân. Thế nhưng chỉ riêng đoạn đường dài hơn 75 km chạy qua các huyện Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú - Đồng Nai vẫn đầy rẫy ổ gà, ổ voi.
Mặt đường hẹp, có đoạn không đến 7 m, sờn tróc nham nhở và không có phần đường riêng cho xe máy. Một số đoạn đã thi công, cải tạo nhưng những “miếng vá” chưa kịp khô đã lại bong tróc và trở thành cái “bẫy” trên đường.”
Như thế thì “giấc mơ sẽ lời to” của dự án Bauxite Tây Nguyên sẽ đi về đâu? Và trong khi thị trường quặng Alumin đang hạ giá trên thế giới  khỏang 320 Mỹ kim 1 tấn thì các chuyên viên Khoáng sản độc lập của Việt Nam lo ngại Công ty Vinacomin của Chính phủ chỉ có thua và lỗ nặng, nếu họ thật lòng công khai và minh bạch “tổng cộng giá thành” gồm tất cả các khỏan tiền phí tổn để có được 1 tấn Alumin!
Giả thử như Trung Cộng sẽ mua nhưng bắt Việt Nam phải hạ giá xuống đến mức tối đa, trong khi không nước nào muốn mua hàng Việt Nam thì Vinacomin tính sao? Chẳng nhẽ cứ “giữ hàng tồn kho” để chờ giá lên cao mới bán thì đến bao giờ?
Và trong khi “hàng làm ra nhiều mà bán chẳng được bao nhiêu” thì lấy tiến đâu trả nợ và trả tiền công cho nhân viên, thợ thuyền?
Đấy là hiểm họa kinh tế đang treo trên đầu mỗi người dân Việt Nam, chưa kể thảm họa “bùn đỏ” độc hại ở thượng nguồn Tây Nguyên mà ông Nông Đức Mạnh đã để lại cho người dân sau 10 năm làm Tổng Bí thư đảng!
Cùng khai thác của ai?
Thứ tư, sau ông Mạnh thì đến phiên ông Nguyễn Phú Trọng nhận chức Tổng Bí thư ngày 19/01/2011 tại Đại hội đảng khóa XI.
Nhưng chỉ 10 tháng sau đó ông Trọng đã sang Bắc Kinh, gọi là thăm Trung Cộng, nhưng thật ra là để ký 6 điểm thỏa hiệp với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Hồ Cẩm Đào, được gọi hoa mỹ là “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung”, trong đó điểm nổi bật và then chốt là “hợp tác cùng phát triển”.
Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng  ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là:
Điểm 2: ”Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Điều 4:” Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểm 5: “ Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Cha đẻ của thuyết “gác tranh chấp để cùng khai thác”, ông Đặng Tiểu Bình cũng chính  là người  đã xua khỏang 600,000 quân Trung Cộng vượt  biên giới đánh sang 6 tỉnh cực bắc của Việt Nam hồi tháng 2/1979 mà ông ta bảo là “dạy cho Việt Nam một bài học” !
Nhưng Trung Cộng làm gì có chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông mà đòi “hợp tác cùng phát triển” ? Và dù biết rõ hai-năm-rõ-mười như thế mà tại sao ông Nguyễn Phú Trọng dám ký để “chia đôi  chủ quyền” với người hàng xóm chưa bao giờ “làm theo lời hứa” này ?
Giờ đây, Trung Cộng đã gọi đấu thầu Quốc tế ít nhất là 9 lô tìm kiếm dầu trong vùng “đăc quyền kinh tế” , hoặc  “nằm chồng lên” các lô tìm kiếm mà chính Việt Nam đã gọi thầu Quốc tế trước Trung Cộng ở giữa Quần đảo Trường Sa và bở biển tỉnh Khánh Hòa !
Trung Cộng cũng đã và đang  khai thác dầu trong vùng Vịnh Bắc Bộ dù hai bên chưa ngã ngũ về đường ranh giới chủ quyền, theo Thỏa hiệp năm 2000 thời ông Lê Khả Phiêu ?
Tăng cường đe dọa Việt Nam
Thứ năm, song song với hành động chiếm lấn chủ quyền biển đảo trắng trợn này, Trung Cộng còn tăng cường các tàu Hải quân, ngụy trang Hải Giám có võ trang đi tuần tra khắp vùng Biển Đông từ Hòang Sa xuống Trường Sa của Việt Nam để ngăn chặn, truy kích và bắn phá các ngư dân Việt Nam đến đánh cá ở Hòang Sa và Trường Sa.
Nhiều tàu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm khi đang hành nghề sâu trong vùng biển Vũng Tàu, Hải Phòng, Đà Nẵng và Quảng Ngãi từ 2 năm qua mà Hải quân và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam không làm gì được!
Bằng chứng bỏ ngư trường mà chạy để bảo vệ tính mạng và tài sản đã được ngư dân đảo Lý Sơn nói thằng với Chủ tịch Nước Trương Tấn Sáng khi ông ra thăm đảo ngày 15/4/2013 vừa qua.
Đấy là chưa kể vụ 1 tàu cá Quảng Ngãi bị tàu Hải Giám Trung Cộng bắn cháy rụi nóc tàu ngày 20/3/2013 mà Trung Cộng bảo vì tàu Việt Nam xâm phạm “vùng biền của  họ” ?
Những vụ tấn công tàu cá Việt Nam diễn ra song song với cuộc tập trận 16 ngày (17/3-1/4/013)  ở Biển Đông của 4 tàu chiến Trung Cộng thuộc Hạm đội Hải Nam đã khiến các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và Phi Luật Tân lo ngại.
Nhưng Hải quân Trung Cộng đã cho biết các tàu chiến của họ sẽ tập trận quy mô hơn thêm 40 lần nữa ở Biển Đông trong năm 2013. Các sĩ quan Hải quân Trung Cộng nói là các cuộc tập trận là nhằm “đánh dấu lãnh thổ” của Trung Cộng trên Biển Đông !
Trên mặt trận tuyên truyền để giành lấy biển đảo, Trung Cộng đã tổ chức du lịch ở Hòang Sa và tung ra bản đồ mới vẽ Hòang Sa và Trường Sa là của Trung Cộng, nhưng Việt Nam chỉ “phản đối suông” và cổ võ “giải quyết tranh chấp với Trung Cộng bằng biện pháp hòa bình”!
Những tiếng nói phẫn uất
Trước hiểm họa “lưỡng đầu thọ địch” của đất nước như thế mà lãnh đạo Đảng chỉ biết tập trung vào công tác đàn áp dân lành đi khiếu kiện oan sai và tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng như đe dọa  của ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ đưa ra tại Hà Nội ngày 18/4 /2013 thì có lương tâm không?
Bản tin của Ban Thanh tra viết: “Riêng UBND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh phải kịp thời nắm bắt tình hình khiếu kiện đông người, có phương án cưỡng chế, giải toả đối với các công dân khiếu nại, tố cáo tập trung sai quy định về Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước để tổ chức tiếp, hướng dẫn, vận động công dân trở về địa phương.
Đồng thời, không để các đoàn khiếu kiện đông người đến các khu vực hội trường nơi diễn ra các cuộc họp và nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, xử lý kiên quyết hiện tượng người khiếu kiện trưng băng rôn, biểu ngữ, ngăn chặn việc chặn, đón xe Đại biểu Quốc hội.”
Như thế là ông Tranh chỉ mong sao cho các Ủy viên Trung ương đảng về họp Hội nghị kỳ 7 ở Hà Nội vào đầu tháng 5/2013 và sau đó đến lượt các Đại biểu Quốc hội về họp khoá 5, khai mạc ngày 20/5/2013, đừng nhìn thấy mặt dân khiếu kiện kẻo xấu mặt nhà nước hay sao?
Vì tính toán có hành động phản dân chủ, việc coi thường dân của Chính phủ trong khi lại chểnh mảng trước đe dọa của Trung Cộng ở Biển Đông đã rõ như ban ngày đã làm cho một số cựu tuớng lãnh, nhà thơ và nhà báo nổi tiếng của Việt Nam phải lên tiếng trong phẫn uất chưa bao giờ thấy ở Việt Nam.
Trước hết hãy đọc lời cảnh giác  của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên Đại sứ của CSVN gtại Trung Cộng): “Việt Nam ta tất yếu phải cuốn theo kinh tế thị trường, nhưng lãnh đạo vẫn lấy CN Mác – Lênin làm cơ sở tư tưởng, vẫn chủ trương xây dựng CNXH. Thử hỏi xây dựng CNXH theo mô hình nào? Trong xã hội ta hiện nay, nội dung gì là XHCN, không ai chỉ ra được. Còn nói phát triển kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN”. Cái đuôi “theo định hướng XHCN” thật là mơ hồ, vô nghĩa.”
Ông nói thẳng với lãnh đạo Nhà nước: “Vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay là: thoát ra khỏi mọi ràng buộc tham lam, ác ý, thực hiện đường lối chủ trương độc lập tự chủ, thực hiện ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn, một mặt không phá bỏ hiện trạng hữu nghị hòa bình với Trung Quốc, mặt khác thắt chặt mối quan hệ hữu nghị với các nước lớn Nga, Nhật, Ấn Độ, Mỹ, cải cách thể chế, thực hiện dân chủ, gắn bó với khối đại đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền tài, xóa bỏ mọi lợi ích nhóm, phe phái quyền lực để đưa đất nước thoát khỏi yếu kém tụt hậu và tiến lên.”
(Trích từ Bài viết mới nhất của ông phổ biến trên các mạng báo Truyền  thông Xã hội trong nước: “Giữa Việt Nam và Trung Quốc không truyền thống hữu nghị, cũng không tương đồng về ý thức hệ)
Và sau đây là những dòng thơ thật buồn cho hòan cảnh của đất nước hôm nay của một số nhà thơ, nhà báo nổi tiếng ở Việt Nam.
Hãy đọc thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trường ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương:
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt

Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành

Như kẻ khát nước qua sa mạc

Chung quanh yên ắng cả

Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua

Người giàu, người nghèo đều ngủ

Cả bầy ve vừa lột xác

Sao mình thức ?

Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành ?

Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội

Có còn bay trong đêm

Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?

Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng

Mong gặp một con cá hanh khác ?

Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường

Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi

Ấm áp ly cà phê sớm

Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời

Hớn hở tập thể dục

Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má

Không phải gạt vội vì xấu hổ

Ngước mắt, tin yêu mọi người

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta

Trong không gian đầy sợ hãi ?

Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh

Đời đời an ủi

Cho người đã khuất và người sống hôm nay …
(22/04/103)
(Trích từ blog Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
Điềm ơi!
Ông Lê Duy Phương viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm:

Khi Điềm còn ở trên cao

Cái buồn thế sự đã vào chúng tôi

Bây giờ trời đã chiều rồi

Ngẫn ra thì muộn khóc cười làm chi

Phố phường vẫn lắm người đi

Hoa vẫn nở chẳng có gì khác đâu

Khác là ở chốn xa sâu

Trẻ em đi học không cầu qua sông

Khác là tận ngoài biển đông

Chủ quyền ta họ nói không lâp lờ

Riêng màu đỏ của ngọn cờ

Ở Đại Nội hay biển bờ xa xôi

Vẫn luôn phơi phới đỏ tươi

Nhạt là nhạt ở tình người Điềm ơi
Lê Duy Phương
(Nguồn blog Quê Choa)
Và nhà thơ Trần Mạnh Hảo đáp lời:

Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?

Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ

Những dòng sông là đất nước thở dài

Chó sủa trăng nhà ai ?

Không phải vầng trăng đất nước

Tôi ngồi ngót bảy mươi năm

Chờ một lời nói thật

Bầy sói tru ý thức hệ lang băm

Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ

Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi

Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành

Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt(1)

Có kẻ rước giặc lên bàn thờ

Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa

Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ

Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó

Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân

Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột

Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần

Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc

Đám gà què bàn hiến pháp cối xay

Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay

Những thiên đường vỡ chợ

Những học thuyết đứng đường

Hoàn lương tượng đài

Hoàn lương chân lý

Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương

Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy

Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do

Mơ được đứng bên lề đường

Nói một câu gan ruột

Đất nước buồn

Đất nước bị ruồi bu

Đất nước bị cầm tù trong ngực trái

Chưa kịp nghĩ một điều gì

Sao đã toát mồ hôi ?

Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?

Lý tưởng của loài dơi là muỗi

Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn

Không ai tin vào hoa hồng nữa

Không ai tin vào dơi nữa

Dơi trở về làm chuột khoét quê hương
Sài Gòn, 24-4-2013
(nguồn Internet)
(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”  do phiá Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh năm 1999.
Bùi Minh Quốc
Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

 Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?*

 Hãy trông kìa !

 Hãy trông kìa !

 Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc

 Bịt biệng người kêu nỗi đau Ải Bắc

 Bóp cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa

 Sông có nghe nỗi nhục chuyển sơn hà ?

 Hãy trông kìa !

 Hãy trông kìa !

 Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc

 Một lũ sói nhe nanh kết bầy nhâng nháo khắp

 Móc túi dân

 Cướp đất dân

 Bóp cổ dân

 Nỗi oan dâng núi thét sông gầm !…

 Hỡi sông Hồng

 Hỡi sông Hồng

 Hỡi sông Hồng tiếng thét bốn nghìn năm

 Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?
Đà Lạt, 12/09/2008
 * Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ” của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu :
 Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
(Nguồn: blog Quê Choa)
Sau cùng, chúng ta hãy lắng nghe tác giả Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN giãi bầy tâm tư của ông trước thời thế  trên mạng báo Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập :
“Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi đồng cảm nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn, nhà thơ đã từng có thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi buồn của nhiều ông tướng, ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi buồn mất đất của nông dân, nỗi buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo dục bế tắc…
Còn trong hệ thống chính trị, không thiếu những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng… Lại con gái, con trai mấy vị vào hàng “nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước  ngoài, chỉ suốt ngày gái gú, chơi game… Khi cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm ru hái ra tiền. Con gái một vị to đầu tư cho một khu đô thị sinh thái chiếm đoạt 500 ha đất canh tác của nông dân, nay không rõ ôm tiền đi đâu. Đặc biệt, những thông tin về nhóm lợi ích, về phe phái này “chiến đấu” với phái kia, dường như “một mất một còn”.
Một số vị ở vị trí cao của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ…
Vì sao, đất nước sau gần 40 năm được thống nhất, có độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ phải “trần như nhông” để “bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã cấp hộ chiếu cho gần 30 vạn phụ nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”, “lấy chồng”, trong nước còn có đến 30 vạn gái điếm và một lũ “đĩ quý tộc”?..
Ông Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thứ của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư hỏng…” mà lại chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều năm. Bộ máy chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan liêu. Cơ quan hành chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật định thì bị ghép vào tội làm mất trật tự xã hội.”
Tất xả những dòng chữ, dòng thơ trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang một nỗi buồn man mác như thúc giục  phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.
Cái  mốc thời gian của 38 năm sau ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có buồn thảm đến nhường này?
Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả chúng ta, những người  dân đã sống nhục quen ?
Phạm Trần
(Thông luận)

Đào Hiếu - Đám trẻ ham ca điệp khúc 30 tháng Tư

Ngày 30/4/1975 tôi có ba đứa con: năm tuổi, bốn tuổi và một tuổi. Bây giờ chúng đã là những viên chức, có chỗ đứng tốt trong xã hội.

Chúng có học vấn, có cuộc sống ổn định. Chúng sống bình lặng, khiêm nhường và lương thiện như mọi công dân Việt Nam khác.


Nhưng không phải ai cũng sống bình thường như vậy.

Bởi vì cũng có những đứa trẻ của ngày 30/4/75 đang sống khá đặc biệt.

Đó là những người hiện nay thuộc lứa tuổi từ 50 trở xuống - tức là ở thời điểm 30/4/75 các vị ấy chỉ vừa mới cất tiếng khóc chào đời cho đến 12 tuổi - chẳng những không hề tham gia cách mạng mà thậm chí không biết cách mạng là gì, chiến tranh là gì, nhưng hiện nay họ là những ông bà quan lớn cách mạng, giàu có và đầy quyền lực.

Họ coi chính quyền này là của riêng họ, làm như thể chính họ đẻ ra cái chính quyền này, họ là bố mẹ của dân, là ông chủ của dân.

Trong hàng ngũ các bộ trưởng, thứ trưởng, giám đốc, chủ tịch tỉnh, chủ tịch quận, chủ tịch phường, xã… không ít những người thuộc thế hệ ấy - có những vị bộ trưởng chỉ mới 48 tuổi, có vị chỉ 45 tuổi, bí thư tỉnh Hà Giang 45 tuổi, phó chủ tịch Đà Nẵng 35 tuổi - con trai một ủy viên Bộ Chính trị - còn ở cấp quận, huyện, phường, xã… thì người trẻ vô số.

Thế hệ Tân Gia Ba

Nói theo kiểu dân gian: họ là những người “tân gia ba” tức là mới tham gia cách mạng sau ngày Ba mươi tháng Tư, nhưng họ vẫn hùng hồn tuyên bố:

“Chúng ta đã đổ bao nhiêu xương máu để giành lấy chính quyền này thì không thể nào chúng ta có thể để chính quyền lọt vào tay kẻ khác”.

Rõ ràng là họ coi chính quyền này như một chiến lợi phẩm mà - tiếc thay - họ chỉ là kẻ thừa hưởng chứ không hề tự tay mình giành lấy, đừng nói tới chuyện “đổ xương máu”.

Họ có thể biện bạch rằng: tuy chúng tôi không đổ xương máu nhưng đó chính là xương máu của cha anh chúng tôi.

"Rõ ràng là họ coi chính quyền này như một chiến lợi phẩm mà - tiếc thay - họ chỉ là kẻ thừa hưởng" - Đào Hiếu
Thật vậy sao?

Vậy mà người ta cứ nghĩ rằng đó là xương máu những người thân của đám dân đen đang chui rúc trong xóm lao động kia, là con, là chồng, là cha của những người nông dân đang đổ mồ hôi và nước mắt trên những luống cày tại những làng quê nghèo khó.

Tôi không có ý chê bai những người mới tham gia vào guồng máy chính quyền hiện nay sau ngày 30/4/75 bởi vì điều đó thật vô lý.

Tôi cũng không có ý coi thường những cán bộ trẻ bởi vì họ đang đầy sức sống và năng lực, nhưng quả thật là hiện nay đang có những nhà lãnh đạo trẻ, cứ tiếp tục cái điệp khúc: “chúng ta đã hy sinh xương máu… nên không thể để chính quyền lọt vào tay người khác”… đã trở nên quá nhàm chán.

Tôi nghĩ, thay vì cứ tự hào về cái quá khứ mà họ không hề tham dự, họ nên hành động, nên suy nghĩ độc lập, biết đột phá, biết tìm con đường mới, biết mở cánh cửa tự do dân chủ, tránh vết xe đổ của lớp đàn anh vừa đi qua thì phúc cho dân tộc này biết chừng nào.

Những người từng đổ xương máu cho chính quyền này là hàng triệu chiến sĩ đã chết ngoài mặt trận, chết nơi ngục tù.

Những người ấy giờ chỉ còn là cát bụi, không tài sản, không địa vị, không quyền lực và hiện nay thân nhân của họ đang sống rất nghèo khổ.

Họ là những người duy nhất có quyền được tuyên bố rằng mình đã đổ xương máu cho chính quyền này, nhưng không bao giờ những mộ bia quạnh hiu nơi nghĩa trang liệt sĩ, những nấm đất vô danh nơi rừng sâu núi thẳm kia có thể thốt nên lời.

Số còn lại thì đã già, đã về hưu, chỉ còn một số ít vẫn đang nắm quyền nhưng rồi chẳng bao lâu họ cũng sẽ xuôi tay nhắm mắt mà không biết rằng mình sẽ để lại cho đời sau những tiếng thơm hay những lời nguyền rủa.

Đổ xương máu hay không đổ xương máu thì cũng chỉ còn lại một nước Việt buồn.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà văn Đào Hiếu, hiện sống tại Sài Gòn.


Nhà văn Đào Hiếu
Nhà văn Đào Hiếu
Viết cho BBCVietnamese.com từ Sài Gòn

Thử tả chân một trong 'Tứ trụ': Nguyễn Phú Trọng

Triết lý nhóm lửa
Mái tóc bạch kim rạch đường ngôi thẳng thớn tạo bờm, cái trán ngắn có hai nếp nhăn mờ song song không đứt khúc, đôi mắt hẹp núp dưới cặp lông mày chim trĩ, nhân trung khá sâu, hai đường pháp quyền hình cánh cung ôm lấy miệng, một gương mặt rất dễ dung hòa, dễ thăng tiến trong quan trường. Đó cũng là một con người rất chỉn chu giữ nếp nhà đồng thời rất bảo thủ, ít nhu cầu sáng tạo, không muốn thay đổi những gì đã có, không bứt phá…
Người sở hữu gương mặt ấy là ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hơn một năm trước, khi ông Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng bí thư, dù chả bất ngờ, và cũng chẳng kỳ vọng, nhưng nhiều nhà báo đã nịnh hót thô thiển.
Một tờ báo đưa lời cô giáo Đặng Thị Phúc, rằng cách đây 56 năm, khi cô 22 tuổi và trò Trọng đang học lớp 4, cô đã “rất tinh tế và chuẩn xác khi đánh giá trò Trọng rất có tài có đức, triển vọng làm lãnh đạo”. Cũng tờ báo đó, dẫn lời thầy giáo Nguyễn Gia Quế, chủ nhiệm lớp 9B, ca ngợi Nguyễn Phú Trọng là người có năng khiếu lãnh đạo tập thể rất tốt, ông nói: “Tôi rất nhàn khi trò Trọng làm bí thư chi đoàn kiêm trưởng lớp. Trong những buổi sinh hoạt lớp, tôi chỉ ngồi nhìn Trọng điều khiển!”.
Một thầy giáo khác ở trường phổ thông trung học Nguyễn Gia Thiều: “Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy Uỷ viên bộ chính trị, Bí thư thành ủy Nguyễn Phú Trọng đi xe máy về dự buổi hợp mặt của trường !”.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng thì bốc thơm tài, đức Nguyễn Phú Trọng khi ông làm Chủ tịch Quốc hội: “Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII là nhiệm kỳ thành công nhất, công đó có vai trò rất quan trọng của chủ tịch Nguyễn Phú Trọng. Mặc dù ngày 20-6-2006, người đứng đầu Quốc hội phát biểu rất khiêm nhường, là chưa hiểu biết nhiều về công tác lập pháp và hoạt động nói chung của Quốc hội! Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng rất khiêm nhường, dù ngồi trên ghế chủ tọa, nhưng Chủ tịch nhường cho các phó chủ tịch điều khiển, khi ở ngoài hành lang hội trường, Chủ tịch rất giản dị chan hòa với các đại biểu”.
Đại văn hào Uyliam Sechxpia nói: “Sự giản dị và khiêm tốn là thứ xa xỉ nhất của bậc trưởng giả!”. Ông Nguyễn Phú Trọng đã biết sử dụng thứ xa xỉ ấy đúng lúc, đúng chỗ.
Chuyện các thầy cô giáo già hoài niệm về người học trò thành đạt của mình không nói làm gì, nhưng một trí thức bậc thầy và là đại biểu Quốc mấy khóa liền, như giáo sư Nguyễn Lân Dũng lại khen nịnh như thế mà không biết ngượng mồn thì kể cũng lạ?
Ai cũng biết, người thổi luồng gió mới vào Quốc hội, làm cho nghị trường có không khí dân chủ, những cuộc chất vấn nhiều người muốn theo dõi là ông Nguyễn Văn An. Luồng gió mới ấy, ông Nguyễn Phú Trọng đã ngăn lại, như ông Dũng nói, là “ tiết chế căng thẳng” trong những phiên chất vấn.
Ấn tượng Nguyễn Phú Trọng để lại sâu đậm nhất trong nhiệm kỳ làm chủ tịch Quốc hội là, khi Trung Quốc cắt cáp ngầm tàu thăm dò địa chấn, đâm tàu cá, bắt ngư dân Việt Nam, vẽ bản đồ đường lưỡi bò trùm lên biển đảo Việt Nam và các nước khu vực… làm biển Đông sôi sùng sục, đại biểu Quốc Hội đề nghị đưa vấn đó vào thảo luận, thì ông cười, thản nhiên: “ Tình hình biển Đông không có gì mới, nói biển Đông mà không phải Biển Đông!”.
“Nói biển Đông mà không phải biển Đông” là nói cái gỉ? Ông Nguyễn Phú Trọng không nói ra, bỏ lửng một câu đầy ẩn dụ, đến nay vẫn chưa có lời giải! Phải chăng cái không phải biển Đông là 16 chữ vàng, là 4 tốt, là đụng chạm tới “Tình đồng chí môi hở răng lạnh” (!?).
Nguyễn Phú Trọng nhảy lên Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, vinh quang tột đình sau 39 năm, kể từ ngày đầu tiên đặt chân vào chốn quan trường, không một lần bị va vấp. Quãng thời gian bằng hơn nửa một đời người đó, hầu như ông chìm ngập trong đống sách vở lý luận chủ nghĩa Max-Lê: Phóng viên, biên tập viên, phó trưởng ban, trưởng ban rồi Tổng biên tập tờ Tạp chí cộng sản, cơ quan nghiên cứu lý luận độc nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Khi đã làm phó bí thư, rồi bí thư thành ủy Hà Nội, ông vẫn là cây lý luận số một, tác giả của Nghị quyết đại hội Đảng IX, X. Người ta nói, ông là một lý thuyết gia thuần túy không phải là một nhân vật từng trải thực tế, ông vẫn tin vào chủ nghĩa xã hội, tin vào lý tưởng, là sẽ xây dựng được một nhà nước ưu việt thuần túy cộng sản ?
Về đời tư, Nguyễn Phú Trọng phần nào còn giữ được cái thanh liêm của những người cộng sản đi trước, giữ được nếp nhà không để vợ con gây tai tiếng. Đó là lợi thế của ông trong không khí ngột ngạt bất mãn cao độ của nhân dân, trước thực trạng cán bộ, đảng viên, trong đó một bộ phận không nhỏ là lãnh đạo lao vào hưởng thụ, bị những cám dỗ vật chất làm sa đọa.
Những ngày đầu làm Tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng tỏ thái kiên quyết làm trong sạch nội bộ đảng. Ông tạm gác khẩu hiệu: “Đồng tâm, đồng chí, đồng ý, đồng lòng” (Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghỉ hưu Hà Nội 9-2-2012) để “loại trừ những cán bộ đảng viên hư hỏng ra khỏi đội ngũ”.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Một bộ phân không nhỏ trong đảng, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp thoái hóa hư hỏng đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ”. Ông có một câu rất nổi tiếng “Đảng viên nhan nhản, cộng sản mấy người!”. Thực ra, câu nói này không phải là phát kiến của ông, mà ông nhắc lại một luồng dư luận như thế đang rất phổ biến trong xã hội, để thể hiện TBT dám “nói thẳng nói thật”. Câu nói này mà phát ra từ miệng người nảo đó, thỉ chắc chắn sẽ bị chụp ngay cái mũ “Thế lực thủ địch!”. Nhưng đó là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ông bày tỏ sự bức xúc thực tâm, và nó đã thành nội dung cốt lõi trong Nghị quyết trung ương 4: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay!”. Ông cùng không quên những câu nói thẳng nói thật khác trước đông đảo cử tri Hà Nội: “Tiêu cực, tham nhũng nhìn đâu cung xthấy, sờ vào đâu cũng có, Trung ương cũng sốt ruột lắm”. Nhưng rồi cái máu nghề nghiệp của thầy giáo triết học - đường lối, của nhà Tuyên giáo, của ông Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương năm nào lại xen vào: “Tuy vậy, xem xét, giải quyết phải hết sức khách quan, biện chứng”! Và quả nhiên điều đó là tất yếu đối với ông, chủ thể nếp tư duy vốn đã mặc định của nhà chuyên nghiệp phản ánh luận mácxít-lêninnít.
Chưa có nghị quyết nào của đảng được dân kỳ vọng đến thế và thất vọng đến thế, thất vọng ê chề!
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá rất cao Nghị quyết trung ương 4. Ông ví Nghị quyết trung ương 4 như một “cuộc tắm rửa vĩ đại nhất” trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Ông hạ quyết tâm phải làm thật kỹ lưỡng, thật cụ thể, không xuê xoa, không bênh che, nể nang, phải “loại trừ những cán bộ, đảng viên hư hỏng ra khỏi đội ngũ!”. Và ông đặt Đảng cộng sản lên thớt: “Đợt này mà không làm đến nơi đến chốn, không thành công thì không còn cơ hội nào nữa để đảng lấy lại hình ảnh và niềm tin trước dân!”.
Một cuộc vân động rầm rộ, hơn 700 tờ báo chính thống cất lên một bản đồng ca, một cuộc thanh lọc nội bộ được nguyên Thượng tướng Tổng bí thư Lê Khả Phiêu ví như một chiến dịch cực lớn, huy động đủ các loại xe tăng đại bác!
Không biết trong chiến dịch này, ngoài công sức, Đảng cộng sản Việt Nam ngốn hết bao nhiêu tiền của dân, nhưng kết quả cuối cùng là một gương mặt méo mó, một giọng nói nghẹn ngào như bật khóc: “Bộ Chính trị đã thống nhất 100% xin được nhận một hình thức kỷ luật, và xin hình thức kỷ luật một đồng chí. Nhưng 100% Ủy viên Trung ương bỏ phiếu không kỷ luật Bộ chính trị và đồng chí X”. Thật bi hài!
Ba cuộc hội nghị liên tiếp, các cuộc họp của Bộ chính trị, Ban bí thư, Ban chấp hành trung ương, rồi hội nghị cán bộ toàn quốc…, cuộc “tắm rửa” kéo dài gần một năm trời, với khẩu hiệu “Nhìn thẳng vào sự thật, không giấu giếm loanh quanh, vạch mặt chỉ tên, không phân biệt bất kỳ ai”, kết quả là một dãy số không: Không chỉ ra được bộ phận phận nào thoái hóa biến chất? Không vạch được nhóm lợi ích nào? Không biết bầy sâu nào? Không chỉ ra đồng chí X là ai? Không kỷ luật Bộ chính tri! Không kỷ luật đồng chí X, dù hình thức nhẹ hều chỉ là khiển trách cho có, mà cũng không có! …
Nguyễn Phú Trọng đã có thể rực lên như một ngôi sao sáng, nhưng ông đã để vuột mất cơ hội! Bây giờ uy tín của ông thấp hơn nhiểu so với lúc xuất phát.
Phải nói thẳng, đây là việc ngoài ý muốn của Nguyễn Phú Trọng, không như người ta nói ông không muốn làm. Tương quan lực lượng không cho phép ông làm. Và cái đống rác Nông Đức Mạnh bỏ bê, dồn đống mười năm để lại quá to!
Giá như Nguyễn Phú Trọng mở lòng nói thật, chắc chắn nhân dân thông cảm cho ông. Nhưng hình như cái tuổi Giáp Thân cầm tinh con khỉ, quá khôn ngoan và có đặc tính loanh quanh, nên ông không thừa nhận thất bại mà xuê xoa trám nhét, như người ta dùng bao bố trám nhét thủy điện Sông Tranh! Năm Nhâm Thìn 2012 được coi là “năm Tam hạp Thân - Tý - Thìn của ông, thế mà hầu như ông bị thiếu chí quyết, kém bản lĩnh, thiếu nhạy bén chớp thời cơ, nên vẫn ít được mỹ mãn? Cơ hội thì không thể đến hai lần.
Trước kia ông riết róng bao nhiêu, giờ xuê xoa bấy nhiêu. Ông dùng cách chẻ chữ để ‘mềm hóa’, ‘đảo chiều’ những khái niệm chính ông nêu lên rồi chính ông phủ định!
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Nghị quyết trung ương 4 ban hành trước hết là cảnh tỉnh với những người đang ngủ quên. Bên cạnh đó là răn đe, ngăn chặn những suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống”. Rồi ông hỏi và tự trả lời: “Vừa rồi chúng ta răn đe được chưa? Khối anh sợ đấy!”. Ông nói: “Lấy cảnh báo, cảnh tỉnh, giáo dục, răn đe ngăn chặn, trên tinh thần đồng chí thương yên nhau là chính” và “Không phải cứ kỷ luật là tốt. Kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù hằn, đối phó, thành phe phái rối nội bộ, phải khoan dung, đó là phần nhân văn đặc thù của Việt Nam!”.
Từ sự giải thích vòng vèo như vậy, nhà lý luận ‘Mácxít’ số 1 Việt Nam đưa ra cái “Triết lý nhóm lò” khi tiếp xúc cử tri Hà Nội ngày 1/12/2012, biện minh cho sự bất thành sau Hội nghị Trung ương 6: “Làm sao cố gắng để với tinh thần nhân văn của Bác Hồ. Kỷ luật sắt nhưng với tinh thần tự giác. Ví như nhóm một cái lò, có củi khô, có củi tươi, có củi vừa vừa. Nhưng quan trọng nhất là bước đầu phải nhóm được cái lò lên, tạo thành hơi ấm thì khi đó củi khô, củi tươi đưa vào cũng phải cháy hết. Sâu xa là như thế. Phải đồng lòng, nhất trí hết, nhóm lò lên”.
Đưa ra để luận giải triết lý này, chắc ông đã đọc kỹ truyền ngắn ‘Nhóm lửa’ (Tiếng gọi nơi hoang dã) của nhà văn Jack London. Và chắc chắn ông đã thuộc bài thơ ‘Nhóm lửa’ của Cụ Hồ đăng trên báo ‘Việt Nam Độc lập’ ngày 1/8/1942: “Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa / Biết bao nhiêu là sự khó khăn? / Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân / Cũng lo sợ lửa khi tắt mất…. / Việc cách mạng cũng là như thế / Bước ban đầu là bước gian nan… / Hở một chút, tức là thất bại / Sai một li là hại cho dân”. Dù nói vậy, nhưng bao nhiêu củi khô ngon lành ông thứ thì bị mất cắp, thứ thì ông ‘đem cho’ người ta hết rồi, lấy gì nhóm? Mà nếu có thì ngay đến củi khô ông cũng đâu có dùng đúng lúc, dùng khi cần để ‘nhóm lò’? Nhưng trong bài thơ “Nhóm lửa” thì Bác Hồ không dạy cái “tinh thần nhân văn”, Bác nhấn mạnh về sự kiên trì, khéo léo, nhưng đừng để hở, đừng làm sai, dù chỉ hở một chút, sai một li là thất bại, lửa bị tắt ngóm. Cơ hội giành thắng lớn Nghị quyết TW 4 đã đến, như lửa đã cháy lên, nhưng ông lại chần chừ, xao nhãng, để mất cơ hội từ trước Hội nghị Trung ương 6. Ai cũng biết khi đó, ông và số đông trong Bộ Chính trị đã để ‘hở một chút” và quyết định “sai một li”. Đã biết chắc chắn rằng ‘một bộ phận không nhỏ’ tất yếu là bỏ phiếu sẽ chiếm tỉ lệ cao, mà còn sơ sẩy như vậy, quả là đáng tiếc cho ‘người nhóm lò”. Một cuộc cách mạng mà gom luôn người xấu người tốt vào một rọ như thế tính triệt để và minh bạch ở đâu hở ông …trời. Cho nên, bạn đọc Huỳnh Văn Úc đã viết trên blog Nguyễn Tường Thụy: “Bỗng dưng từ đâu ào ào nước đổ / Người buồn, lửa tắt, sâu cười”.
Trong khi xuê xoa với đồng chí mình, Nguyễn Phú Trọng riết róng với dân. Ông ngăn chặn tức thì việc quyền tư hữu của người dân trong sửa Luật đất đai, cứ khư khư giữ “sở hữu toàn dân” một cách chung chung, tưởng ai cũng có phần trong đó, nhưng không ai có quyền gì về sử dụng đất; và thẳng thừng bác bỏ việc sửa đổi điều 4 Hiến pháp. Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn giữ nếp cũ là nghĩ thay, nói thay dân. Ông nói: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử!” ( Phát biểu ở trường đảng cao cấp Nico Lopez, Cu Ba)
Một kiểu lý luận giáo điều như thế mà sang rao giảng ở trường đảng cao cấp Nico Lopez, Cu Ba, để đến nỗi, phải chăng vì thế, bà Tổng thống Brazil Dima Rouseeff phải từ chối đón tiếp vào phút chót, gây ra vụ scandal chưa từng có trong ngành ngoại giao Viết Nam, gười ta nói “Trước kia các lãnh tụ Việt Nam hình như chơi trò giấu bài kín đáo và khôn ngoan hơn!”.
Ông Nguyễn Phú Trọng bây giờ hay dùng hình thức số hóa và quy nhóm kiểu Trung Quốc. Nói chuyên ở Hội nghị tổng kết công tác tuyên giáo ngày 9-1-2013, ở Hà Nội vừa qua ông nói: “Công tác tuyên giáo vừa qua 8 ưu điểm, 10 hạn chế, 5 nguyên nhân, 7 nhiêm vụ, 6 giải pháp” và ông đổ cho “thế lực thù địch làm giảm niềm tin của nhân dân vào đảng, âm mưu “Làm xanh hóa cái đầu đỏ!”. Ông Trọng nói: “Bây giờ các thế lực bên ngoài thấy chúng ta chăm chút công tác tư tưởng, uốn nắn những tư tường lệch lạc, thì họ bảo là bất đồng chính kiến chúng ta lại đi trừng trị, vi phạm quyền con người!”.
Không biết Nguyễn Phú Trọng ám chỉ cái “Thế lực bên ngoài” là bọn nào, nhưng dứt khoát không phải Trung Quốc, ví ông đã khẳng định “Tiếp tục vun đắp quan hệ láng giềng tốt, xây dựng hòa bình và hữu nghị, chống âm mưu phá hoại từ bên ngoài, ổn định hợp tác phát triển cùng nước bạn!” (Phát biểu trong chuyến thăm Lào Cai).
Ông Nguyễn Phú Trọng có một câu nói rất đúng: “Mỗi người nghĩ một khác, mỗi người thích đi một hướng thì làm sao chở được con đó sang sông!?”.
Một hệ thống chính trị quyền lực thuộc về nhân dân, do dân, phụng sự lợi ích của dân chứ không phục vụ lợi ích một đảng phái, một số ngưới giàu có, thì chính thể đó, dù như con thuyền chẳng may mắc cạn, dân cũng chung tay chèo chống qua sống. Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân! Hình như Nguyễn Trãi nói như vậy!
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)

Điều gì chờ đ/c X sau hội nghị cấp cao Asean 22?

Hiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các nhà lãnh đạo ASEAN đang tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 22, trong hai ngày 24 – 25/4 tại Brunei để xúc tiến việc thành lập cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và hy vọng hàn gắn được những rạn nứt xung quanh vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông giữa một số nước thành viên với Trung Quốc.
Trong bối cảnh chủ quyền trên biển Đông là vấn đề sống còn đối với Việt Nam thì đòi hỏi vai trò, trách nhiệm và tiếng nói của Thủ tướng càng to lớn hơn. Có một quy luật bất di bất dịch là các nước dù muốn dù không thì cũng đều đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên hết, vậy nên Thủ tướng sẽ phải thể hiện vị thế của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền lãnh hải. Cần chủ động, mạnh dạn đưa ra đề xuất, giữ vững lập trường và bày tỏ quan điểm để các nước trong khu vực nói riêng và quốc tế nói chung đồng thanh ủng hộ. Để thế giới càng thế rõ hơn Việt Nam không hề muốn gây hấn mà luôn duy trì con đường hòa bình với Trung Quốc. Do đó, Việt Nam phải bảo vệ lợi ích chính đáng của mình bằng việc công khai hóa, quốc tế hóa vấn đề tranh chấp biển Đông, điều này không chỉ tốt cho Việt Nam và còn tốt cho cả cộng đồng ASEAN.
Việc Hội nghị Cấp cao ASEAN 22 có thể đưa ra một tuyên bố thống nhất về chủ quyền biển Đông hay không vẫn còn là một ẩn số? Song có một điều chắc chắn rằng ngay khi kết thúc Hội nghị này trở về nước thì sẽ có nhiều vấn đề trong nước đang chờ Thủ tướng giải quyết.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Đơn cử như câu chuyện nên hay không xây cầu vượt qua di chỉ Đàn Xã Tắc (Hà Nội). Hiện đang có hai luồng dư luận trái chiều nhau về vấn đề này, phía Nhà sử học Dương Trung Quốc cùng các giáo sư: Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc – Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền… đều đồng lòng lên tiếng phản đối việc Thủ đô Hà Nội cho xây dựng cầu vượt qua Đàn Xã Tắc vì cho rằng đây là “bàn thờ trời đất” của tổ tiên, vậy nên con cháu không nên có những hành động bất kính.
Nghiêm trọng hơn khi báo chí đăng tải ý kiến “người ngu mới nói phá Đàn Xã Tắc để xóa tàn dư phong kiến” của Nhà sử học Dương Trung Quốc khi hay tin Hiệp hội Vận tải đề xuất nên phá đàn Xã Tắc, xây dựng cầu vượt để giảm thiểu ùn tắc giao thông tại khu vực này. Sau khi thông tin này được phát đi, ông Bùi Danh Liên – Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội lập tức có phản ứng, và ông Dương Trung Quốc cũng đã công khai trước báo giới gửi lời xin lỗi tới ông Bùi Danh Liên song ông vẫn giữ lập trường phản đối hành động phá dỡ Đàn Xã Tắc.
Phía đơn vị xây dựng, Ban quản lý các dự án trọng điểm của Hà Nội vẫn kiên quyết giữ vững lập trường của mình và khẳng định việc xây dựng cầu vượt sẽ không trùm lên di tích, vì phần mố cầu chỉ chạm vào mép khu vực khoanh vùng.

Khu vực xây cầu vượt ở nút giao thông Ô Chợ Dừa
Đến nay cuộc tranh luận vẫn không thể đưa ra một kết quả đồng thuận, vậy nên Nhà sử học Dương Trung Quốc đã ký một văn bản của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam gửi Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan khác đề đề nghị tổ chức  cuộc gặp với các cơ quan liên quan, các nhà khoa học lịch sử, nhà khảo cổ học, để làm rõ một số nội dung thông tin liên quan đến dự án này.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có thông báo cụ thể về việc bảo tồn khu di tích Đàn Xã Tắc – Hà Nội. Nêu rõ: “Đàn Xã Tắc là di tích lịch sử gắn với Kinh thành Thăng Long, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, cần phải được bảo tồn song cũng cần bảo đảm việc phát triển giao thông đô thị khu vực này”.
Thực tế để có thể bảo tồn một di tích một di tích lịch sử, gắn liền với đời sống tâm linh của người dân là điều cực kỳ quan trọng của đất nước. Song Hà Nội là một đô thị đang phát triển mạnh, đồng thời cũng là nơi tập trung khá nhiều Đền thờ, Đình, Chùa… Vì thế đây là vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp, vậy nên đòi hỏi Thủ tướng phải bàn thảo, tính toán kỹ lưỡng để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo, hợp tình hợp lý nhất để vừa gìn giữ được một di tích có một không hai của Thủ đô, vừa không vi phạm cảnh quan văn hóa chung lại giải quyết được vấn nạn ùn tắc giao thông của thành phố. Tin rằng khi vấn đề được trình lên Thủ tướng và đưa ra bàn thảo tính toán kỹ lưỡng thì tất cả các bên sẽ đi đến được sự đồng thuận thống nhất.
Bạch Dương
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả) 

Cuộc chiến 3-4: Chuyện kể từ Núi Pháo

(TTHN) - Chuyện Núi Pháo là nơi từ lâu xôn xao tin cô con gái rượu của “đồng chí X” can thiệp cho tập đoàn Masan nhảy vào thế chân và đã kiếm một mẻ kha khá. Chuyện này lại được đưa lên báo trước HNTW7. Anh 4 có ý gì đây?
Khi quyết định mua lại Núi Pháo, tập đoàn Masan đã bước vào một cuộc chơi có tính toán nhưng cũng không ít rủi ro.
Ngày xửa ngày xưa...
Núi Pháo nằm ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, cách Hà Nội 80 ki lô mét đường bộ về phía Bắc, vốn là một vùng thuần nông. Cư dân ở đây chủ yếu làm ruộng và làm chè. Mặc dù có quốc lộ 37 chạy qua, nhưng lưu lượng xe qua lại không nhiều và không tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho người dân Đại Từ.
Cho đến tận giữa thập niên 1990, Núi Pháo được Tiberon Minerals, một công ty của Canada, phát hiện đây là mỏ đa kim có trữ lượng khá lớn. Sau một giai đoạn dài thực hiện khảo sát, đánh giá chất lượng và hàm lượng quặng, lập dự án tiền khả thi, đến năm 2004, Tiberon Minerals được cấp phép đầu tư.
Quản lý dự án ở Núi Pháo
Khác với nhiều dự án khai khoáng ở Việt Nam, ngay từ thời Tiberon, dự án đã được định hướng để triển khai một cách bài bản, từ việc giải tỏa tái định cư tới việc triển khai dự án. Núi Pháo đã xây dựng các hệ thống đánh giá tác động môi trường tự nhiên và môi trường xã hội (ESIA) và chương trình hành động về môi trường và xã hội (ESAP) theo các tiêu chuẩn của Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (WB), trong đó có hệ thống tiêu chuẩn vàng Equator Principles. Trong khuôn khổ ESAP, Núi Pháo phải thực hiện theo đúng chuẩn của WB liên quan đến nhiều hoạt động như tái định cư, sức khỏe và an toàn lao động, xây lắp tại mỏ, xử lý phế thải, và phản ứng trong các tình huống khẩn cấp.
Quá trình xây dựng đã có sự góp mặt của các nhà thầu uy tín thế giới như Jacobs Engineering Group (JEC), Orica, SGS, và nhiều nhà thầu kinh nghiệm ở Việt Nam, cho tới nay chưa hề xảy ra bất cứ một tai nạn dẫn tới thương vong nào. Các tiêu chuẩn về môi trường cũng được tuân thủ nghiêm ngặt từ khâu bóc và thải các nền đất đá (chống xói mòn, sạt lở, và tạo cảnh quan), nổ mìn (giảm tiếng ồn), nghiền và tuyển quặng (chống khói bụi), và lưu trữ, xử lý nước thải và chất thải trên các hồ trữ đuôi quặng (chống ô nhiễm nguồn nước). Theo chính quyền địa phương, cho tới nay, chưa có bất kỳ vấn đề môi trường đáng tiếc nào từ dự án này.
Nhưng vào cuối năm 2006, Tiberon Minerals (chiếm 70% sở hữu mỏ) đã bán lại phần của mình cho Dragon Capital trong một giao dịch, mà theo hãng tin Bloomberg(1), có giá là 225 triệu đô la Mỹ. Việc chuyển nhượng sở hữu từ Tiberon Minerals sang Dragon Capital được thực hiện xong vào đầu năm 2007.
Tại thời điểm này, dự án Núi Pháo cơ bản vẫn nằm trên giấy và việc đền bù giải tỏa mới chỉ bắt đầu được khởi xướng mặc dù giấy phép đầu tư đã được cấp từ ba năm trước. Để triển khai tiếp dự án này, chủ đầu tư cần phải có nguồn tài chính lớn, ước tính tại thời điểm đó lên tới gần 500 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên việc thu xếp vốn để triển khai tiếp dự án lại gặp khó khăn bởi từ năm 2008 kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng và giá các loại khoáng sản giảm mạnh(2). Một bài viết trên báo Nông nghiệp Việt Nam(3) cho biết việc chi trả, đền bù và giải phóng mặt bằng của dự án đã dừng lại từ tháng 10-2008, các kế hoạch phát triển dự án đến thời điểm quí 3-2009 đã ngưng trệ do thiếu tiền và liên doanh đã phải cho một nửa số nhân viên nghỉ việc. Vào thời điểm này dự án Núi Pháo bị đặt trước nguy cơ có thể bị rút giấy phép đầu tư và giấy phép khai thác khoáng sản.
Đứng trước tình thế đó, Dragon Capital tìm mọi cách xoay chuyển tình hình. Đầu năm 2010, tập đoàn Masan đồng ý thực hiện mua lại phần vốn góp của Dragon Capital ở Núi Pháo thông qua hình thức tương tự như hoán đổi cổ phiếu(4).
Masan ở Núi Pháo
Khi quyết định mua lại Núi Pháo, Masan đã bước vào một cuộc chơi có tính toán nhưng cũng không ít rủi ro. Có thể nói đây là dự án đầu tư lớn nhất trong lĩnh vực khai thác khoáng sản mà một công ty tư nhân Việt Nam từng làm.
Masan đã huy động được 100 triệu đô la Mỹ từ Quỹ đầu tư Mount Kelett vào đầu tháng 1-2011 cho dự án. Masan cũng huy động được các khoản vay gần 200 triệu đô la Mỹ vốn dài hạn từ các ngân hàng trong nước và 80 triệu đô la Mỹ từ Ngân hàng Standard Chartered. Như vậy, một nguồn tài chính tương đương gần 8.000 tỉ đồng đã được đổ vào dự án từ giữa năm 2010 tới nay.
Nhờ nguồn tiền đầu tư mạnh nên việc đền bù giải tỏa, vốn bị ách tắc từ những năm trước, đã được khai thông. Đến cuối năm 2012, việc đền bù và di dời đã thực hiện được trên 98% tại năm khu vực hoạt động chính của dự án, và tổng số tiền đền bù tính tới tháng 3-2013 đã lên tới hơn 80 triệu đô la Mỹ.
Theo số liệu từ Núi Pháo, tính đến thời điểm cuối năm 2012, có 255 người bị ảnh hưởng bởi dự án cũng đang là nhân viên chính thức của dự án. Chủ dự án đang đào tạo chuyên môn cao cho 230 nhân sự là những người trong vùng bị ảnh hưởng. Số nhân sự này sẽ làm việc tại mỏ khi dự án chính thức vận hành. Các nhà thầu của Núi Pháo đã tuyển dụng 94 người trong vùng bị ảnh hưởng, bên cạnh con số 351 việc làm không thường xuyên được dự án cung cấp cho người trong vùng bị ảnh hưởng.
Hiện nay dự án Núi Pháo đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng, lắp đặt và đang đi vào giai đoạn chạy thử. Theo tính toán của Masan, khi dự án đi vào hoạt động, số tiền đóng góp cho ngân sách của tỉnh và Nhà nước trong suốt vòng đời 16 năm của dự án có thể lên tới 1 tỉ đô la Mỹ, trong đó có 430 triệu đô la Mỹ là thuế tài nguyên, 320 triệu thuế xuất khẩu, và khoảng 290 triệu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trữ lượng Núi Pháo
Dự án Núi Pháo trải rộng trên một diện tích khoảng 9,21 ki lô mét vuông. Theo các kết quả thẩm định, đây là mỏ đa kim có trữ lượng khá lớn về Vonfram (còn gọi là Tungsten), Florit (còn gọi là Fluorspar), và Bismut (còn gọi là Bismuth).
Vonfram là kim loại siêu cứng và có điểm nóng chảy cao được dùng chế tạo sợi tóc bóng đèn, mũi khoan, chế tạo vũ khí, hay động cơ phản lực. Florit là một khoáng chất chứa canxi flourua (CaF2) được dùng nhiều trong công nghiệp luyện kim và tạo chất làm lạnh trong điều hòa không khí. Bismut là kim loại rất dễ nóng chảy, có độ dẫn điện và dẫn nhiệt thấp, được dùng để thay chì trong nhiều ứng dụng vì Bismut không độc hại.
Tuy không được xếp vào loại “chén thánh” (holy grail), hàm lượng khoáng chất trong quặng ở Núi Pháo cũng đảm bảo để việc khai thác mang lại hiệu quả kinh tế tương đối với hàm lượng Vonfram chiếm 0,21%, Florit chiếm 8%, Bismut chiếm 0,1%, và đồng chiếm 0,21%.
Khi đi vào hoạt động, trữ lượng quặng ở Núi Pháo có thể cho phép duy trì khai thác trong khoảng 16 năm. Mỗi năm, sản lượng Vonfram do mỏ này sản xuất ra sẽ chiếm khoảng gần 7% tổng sản lượng Vonfram toàn cầu. Con số này đối với Florit và Bismut là 3% và 12%. Lượng đồng sản xuất ra ở mỏ này không đáng kể. Xét về mặt sản lượng hàng năm, Núi Pháo sẽ là mỏ lớn thứ nhất toàn cầu về Vonfram và Florit, thứ hai về Bismut trong số các mỏ nằm ngoài Trung Quốc.
Việc dự án triển khai thành công cũng đem lại lợi ích trực tiếp cho một chủ nhân cũ của Núi Pháo là Dragon Capital. Nếu như ba năm trước đây, Dragon Capital đứng trước nguy cơ mất trắng khoản đầu tư vào Núi Pháo vì bế tắc trong việc huy động vốn để triển khai dự án thì nay, nhờ cấu trúc giao dịch mua bán Núi Pháo với Masan, Dragon đã cơ bản lấy lại được những gì họ đã bỏ ra cho Tiberon Minerals xét về mặt giá trị.
Theo cấu trúc giao dịch giữa Dragon Capital và Masan được mô tả trong Báo cáo thường niên năm 2010 của Masan, Dragon hiện nay có thể sở hữu 29.770.465 cổ phần phổ thông của Masan và vẫn nắm một phần ở Núi Pháo (dao động từ 15-35% tùy theo biến động của giá ammonium paratungstate - sản phẩm sơ chế khi tuyển Vonfram từ quặng). Masan có quyền chọn mua lại toàn bộ phần sở hữu này của Dragon Capital ở Núi Pháo tại bất cứ thời điểm nào trong vòng ba năm kể từ ngày hai bên ký kết giao dịch với số tiền lên tới 90 triệu đô la Mỹ vào cuối năm thứ ba kể từ ngày thực hiện giao dịch.
Với mức thị giá cổ phiếu của Masan hiện nay khoảng 5,5 đô la Mỹ, số 29.770.465 cổ phần phổ thông mà Dragon có quyền nắm giữ có giá trị khoảng 164 triệu đô la Mỹ. Giả sử Masan thực hiện quyền mua lại toàn bộ sở hữu của Dragon Capital ở Núi Pháo với giá 90 triệu đô la Mỹ thì tổng giá trị tài sản mà nhà đầu tư này sở hữu từ thương vụ bán lại Núi Pháo cho Masan là 254 triệu đô la Mỹ. So với số tiền mua phần vốn góp của Tiberon Minearals ở Núi Pháo là 225 triệu đô la Mỹ hồi đầu năm 2007, Dragon Capital đã có lãi. Nói cách khác, sự thành công của Masan đã giúp Dragon Capital gỡ được bàn thua trông thấy và biến câu chuyện tưởng như là một thảm họa trở thành một thương vụ đầu tư thành công.
Theo tính toán của Masan, doanh thu của dự án khi đi vào khai thác sẽ từ 250-350 triệu đô la Mỹ mỗi năm. Lợi nhuận trước chi phí, thuế và khấu hao (EBITDA) của dự án mỗi năm sẽ vào khoảng từ 100-175 triệu đô la Mỹ. Masan không đưa ra con số lợi nhuận sau thuế ước tính, nhưng với quy mô đầu tư lớn và số tiền vay ngân hàng không nhỏ (200 triệu đô la Mỹ từ ngân hàng trong nước và 80 triệu đô la Mỹ từ ngân hàng nước ngoài), khoản giảm trừ khỏi EBITDA từ khấu hao và chi trả lãi suất sẽ không nhỏ trước khi tính đến khoản trả thuế thu nhập doanh nghiệp.
Để có doanh thu và lợi nhuận, việc đầu tiên là phải bán được hàng. Đại diện của Masan cho biết Núi Pháo đã ký hợp đồng mua bán thành phẩm Florit và Bismut với CMC Cometals (một công ty con của Commercial Metals Company - CMC). Riêng hợp đồng bao tiêu sản phẩm Vonfram, Núi Pháo vẫn chưa ký với bất cứ bên nào, mặc dù các cuộc thương lượng đang diễn ra.
Thêm vào đó, về mặt thị trường là cả ba sản phẩm chủ lực ở Núi Pháo vẫn thuộc quyền chi phối của ông lớn khác trên thế giới. Đó là chưa kể các rủi ro kinh tế vĩ mô toàn cầu tới nay vẫn chưa có hồi kết kể từ khi khủng hoảng nổ ra hồi cuối năm 2008. Cả hai yếu tố này đều quyết định đến giá các thành phẩm mà Núi Pháo sản xuất ra.
----------------
(4) Xem báo cáo thường niên của Masan năm 2010

Chuyện NH Nhà nước 'rửa' vàng: Có thể bịt miệng thế gian?

Hôm Thứ Năm báo Thanh Niên phải lên tiếng xin lỗi Ngân hàng Nhà nước CSVN  về việc đăng bài “Rửa vàng bằng cơ chế” với nhiễu dữ liệu tham chiếu và chứng minh.
“Rửa vàng bằng cơ chế” được đăng ngày 24 tháng 4-2013. Tác giả dựa vào các số liệu của Hiệp hội Vàng Thế giới để tìm câu trả lời cho thắc mắc chung của dân chúng: Tại sao giá vàng tại Việt Nam luôn cao hơn giá vàng trên thế giới (vào lúc này, mức độ chênh lệch lên tới sáu triệu đồng/lượng)?
Tại sao Ngân hàng Nhà nước CSVN tìm mọi cách xóa bỏ các thương hiệu vàng để hướng thị trường vàng Việt Nam tới chỗ, chỉ còn một thương hiệu duy nhất là SJC? Tại sao nguồn vàng trong nước không thiếu nhưng không dùng trực tiếp mà lạị tạo thêm qui trình “tạm xuất, tái nhập” (gom vàng hiện có, tạm chuyển ra nước ngoài, sau đó mang trở lại Việt Nam), rồi mới sử dụng để đúc thành vàng miếng?
Câu trả lời từ phía tác giả là vàng đã, đang, cũng như sẽ tiếp tục đổ vào Việt Nam dưới dạng nhập lậu, với số lượng lên tới hàng chục tấn/năm (tại sao có thể mang lậu vào Việt Nam hàng chục tấn vàng thì phải điều tra) và nỗ lực hướng thị trường vàng ở Việt Nam tới chỗ chỉ còn một thương hiệu duy nhất là SJC chính là cơ sở để cho phép “tạm nhập, tái xuất”. Nói cách khác, “tạm nhập, tái xuất” chính là phương thức chuyển hóa vàng nhập lậu thành vàng hợp pháp.

Giá vàng và giá USD tại Việt Nam luôn đặt ra những câu hỏi lớn về năng lực cũng như ý đồ thật sự của những kẻ điều hành Ngân hàng Nhà nước và nhà cầm quyền CSVN. (Hình: Tuổi Trẻ). 
Tuy “Rửa vàng bằng cơ chế” được công chúng tán thưởng nhưng Ngân hàng Nhà nước lại nổi giận. Ngay trong ngày 24 tháng 4, Ngân hàng Nhà nước soạn – gửi một văn bản đề nghị Tổng cục An ninh của Bộ Công an điều tra, xử lý vì tác giả “cố tình suy diễn, bóp méo hàng loạt chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý thị trường vàng, chuyển tải tới người đọc thông điệp sai về cơ chế, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, tạo ra sự hoài nghi đối với các chủ trương, chính sách quản lý thị trường vàng và các nỗ lực phối hợp phòng, chống buôn lậu của các cơ quan Nhà nước”.
Nếu tờ Thanh Niên sai, tại sao Ngân hàng Nhà nước không hành xử theo các quy định sẵn có tại Luật Báo chí: Yêu cầu đính chính. Kiện đòi cải chính và bồi thường thiệt hại mà lại đề nghị Tổng cục An ninh, cơ quan chuyên trách trong việc bảo vệ sự ổn định chính trị nhập cuộc?
Nếu đã từng quan sát các diễn biến thực tế trong lĩnh vực tiền tệ - tài chính – ngân hàng thì có thể trả lời ngay rằng, đó là vì Ngân hàng Nhà nước muốn răn đe báo chí.
Trong vài năm qua, các chuyên gia kinh tế đã từng phân tích, khẳng định nhiều lần rằng, tình trạng hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, hàng chục triệu người thất nghiệp, lạm phát tăng vọt, dân chúng lao đao trong cuộc vật lộn để mưu tìm cơm áo là do hàng loạt sai lầm của Ngân hàng Nhà nước và là lỗi của nội các đương nhiệm do ông Nguyễn Tấn Dũng lãnh đạo.

Biểu đồ về lượng vàng nhập cảng và phí tổn nhập cảng vàng trong hai năm 2011, 2012 dựa trên các số liệu do Hiệp hội Vàng Thế giới công bố. Mỗi năm, Việt Nam mất hơn $4 tỉ USD để nhập vàng nhưng giá vàng ở Việt Nam luôn luôn cao hơn giá vàng trên thị trường thế giới. Bài của báo Thanh Niên về vụ “rửa vàng lậu” bị tờ báo gỡ bỏ. (Hình: Thanh Niên).
Cũng trong vài năm qua, cả Quốc hội CSVN, lẫn chính phủ do ông Dũng điều hành đã có hàng chục lần thừa nhận (khi trực tiếp, lúc gián tiếp) rằng, những phân tích, những kết luận ấy không sai. Chỉ có điều là ông Dũng vẫn tại vị, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vẫn cứ là ông Nguyễn Văn Bình và đã năm, bảy lần, cả Thủ tướng lẫn thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói xa, nói gần về chuyện điều hành - thực hiện chính sách tiền tệ - tài chính – ngân hàng kém hiệu quả vì… báo chí làm dân chúng hoang mang.
Dưới nhãn quan của chính quyền ở một xứ cộng sản, hoang mang tất nhiên là có “màu sắc chính trị” và khi đã có “màu sắc chính trị” thì đương nhiên phải mời Tổng cục An ninh nhập cuộc. Có như thế, báo giới mới… kinh!
Trừ chuyện tờ Thanh Niên - ở vị trí “đương sự” - đăng toàn văn, văn bản phản bác “Rửa vàng bằng cơ chế” của Ngân hàng Nhà nước, kèm “đính chính” do tác giả “hiểu chưa đúng về các thuật ngữ nên nhầm lẫn, dẫn tới sai sót khi phân tích”, chưa có dấu hiệu nào cho thấy báo giới đã cảm thấy… kinh
Ngay vào ngày tờ Thanh Niên đính chính, tờ Tuổi Trẻ đăng “Ai mua hơn 12 tấn vàng đấu thầu?”, tờ Pháp Luật TP.HCM đăng “Thị trường vàng: Nguy cấp! Điều hành vàng: Thất bại!”. Cả hai bài viết vừa kể, không dùng số liệu của Hiệp hội Vàng thế giới như “Rửa vàng bằng cơ chế”  đã đăng trên Thanh Niên, mà dùng thực tế và ý kiến của những người trong cuộc: Doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh vàng, chuyên gia kinh tế để cùng khẳng định, Ngân hàng Nhà nước rất đáng ngờ, ít nhất là về năng lực!
Cũng trong ngày đó, ông Nguyễn Vạn Phú, một nhà báo sắc sảo về kinh tế, đưa lên blog của ông bài “Bài báo của Thanh Niên chỉ sai về mặt kỹ thuật, về bản chất không có gì sai cả”. Theo nhận xét của ông Phú, “Rửa vàng bằng cơ chế” chỉ sai về kỹ thuật khi diễn giải số liệu (trong diễn đạt, đã đổi “nhu cầu vàng” thành “vàng nhập lậu”, thành ra không chặt chẽ) và nhận định thiếu kín kẽ (thay vì chỉ cảnh báo về khả năng có người lợi dụng chính sách để trục lợi thì quy buộc Ngân hàng Nhà nước soạn ra chính sách để “rửa” vàng nhập lậu).   
Chưa biết sắp tới, Tổng cục An ninh của Bộ Công an sẽ làm gì, báo giới có câm hay không (?) nhưng chắc chắn dân chúng, doanh giới và các chuyên gia kinh tế sẽ tiếp tục nói trên mạng xã hội và nói với nhau.
Bạo lực thường làm người ta sợ nhưng khi cơm không đủ no, áo không đủ mặc, tài sản tích cóp từ mồ hôi, nước mắt, đột nhiên tan thành mây khói, chỉ vì một mớ chủ trương, chính sách vừa ngu, vừa gian thì làm sao bảo người ta nín nhịn mãi được.
Gia Định
(Người Việt)

Kỷ luật Tổng biên tập Đinh Đức Lập về mặt chính quyền

TBT Đinh Đức Lập
Vụ Đinh Đức Lập: ông Vũ Trọng Kim chỉ đạo kỷ luật Tổng biên tập Đinh Đức Lập về mặt chính quyền
Với nhiều sai phạm đã được Kết luận số 42 và 43 của Đảng Đoàn MTTQ Việt Nam nêu, nguyên Bí thư chi bộ báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập đã bị xem xét và tiến hành kỷ luật về Đảng. Xét một số sai phạm để kỷ luật, ông Lập đã bị kỷ luật ở mức Khiển Trách. Hình thức kỷ luật này mới chỉ công  bố ở cuộc họp chi bộ chứ chưa thông báo toàn cơ quan.
Sau khi bị kỷ luật, Tổng biên tập Đinh Đức Lập ngay lập tức đã lập ra cái gọi là Hội đồng kỷ luật để cho mình cái quyền xét xử ba lãnh đạo báo đã và đang tiếp tục tố cáo mình là: Nhà báo Bùi Hữu Phước (Hữu Nguyên), nhà báo Đặng Thị Kim Ngân và nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng. Theo đó, Bí thư chi bộ - Phó Tổng biên tập Nguyễn Quốc Khánh là Chủ tịch Hội đồng. Cũng theo kịch bản chuẩn bị sẵn, ông Mai Ngọc Tuyền – Chủ tịch BCH Công đoàn báo đã được ông Lập bố trí đi Trường Sa dịp cuối tháng 4 này để cô Bùi Hoàng Yến – Phó Chủ tịch BCH Công đoàn nhận vị trí đại diện cho Công đoàn trong Hội đồng, vì lẽ gần đây ông Tuyền có nhiều ý kiến không đồng thuận với ông Lập.
Sau khi vào vị trí, ông Khánh đã hai lần ra Thông báo cho ba nhà báo để viết kiểm điểm và tự nhận hình thức kỷ luật. Ba nhà báo tiếp tục làm đơn khiếu nại và làm đơn tố cáo, đề nghị bảo vệ lên lãnh đạo MTTQ Việt Nam. Blog Teu đã đăng bài về đơn của hai nhà báo Đặng Thị Kim Ngân và Nguyễn Mạnh Thắng.
Sáng thứ hai, ngày 22/4/2013, giữa cuộc họp giao ban lãnh đạo, Tổng biên tập Đinh Đức Lập chỉ đạo Ban Trị sự đưa vào lịch công tác tuần hai nội dung: 14 giờ chiều ngày 24/4/2013 Hội đồng kỷ luật xem xét và đề xuất hình thức kỷ luật đối với ông Nguyễn Mạnh Thắng - Phó trưởng ban kỹ thuật Quản trị mạng; 14 giờ chiều ngày 25/4/2013, Hội đồng kỷ luật xem xét và đề xuất hình thức kỷ luật đối với ông Bùi Hữu Phước (Hữu Nguyên) - Phó trưởng ban Đại diện báo tại TP. Hồ Chí Minh. Cũng theo dự kiến, nếu không có gì thay đổi sang đầu tháng 5, sau dịp nghỉ lễ 30.4 sẽ đến lượt nhà báo Kim Ngân bị phán xét kỷ luật.
Sự đời nhiều khi “người tính không bằng trời tính”. Theo nguồn tin riêng, chúng tôi được biết: Chiều 23/4/2013, ông Vũ Trọng Kim - Bí thư Đảng ủy đã triệu tập cuộc họp Đảng ủy MTTQ Việt Nam. Bí thư chi bộ báo Đại Đoàn Kết Nguyễn Quốc Khánh được mời dự cùng ông Đinh Đức Lập - Đảng ủy viên. Khi được yêu cầu, Bí thư chi bộ báo Nguyễn Quốc Khánh đã báo cáo tình hình của cơ quan Đại Đoàn Kết. Chỉ mới nghe được vài câu của ông Khánh, ông Lập đã lớn giọng cắt ngang: “Cứ theo lời anh Khánh thì tình hình báo đen tối quá!”. Bí thư Đảng ủy Vũ Trọng Kim yêu cầu ông Lập im lặng để nghe.
Sau khi lắng nghe một số ý kiến phát biểu, Bí thư Đảng ủy Vũ Trọng Kim nói: Vừa qua, chi bộ báo Đại Đoàn Kết đã tiến hành kiểm điểm đảng viên Đinh Đức Lập. Việc kiểm điểm còn qua loa, không có tinh thần của Nghị quyết 4, nội bộ chi bộ còn phân hóa. Ông Kim chỉ đạo: Phải dừng ngay việc tiến hành kỷ luật ba nhà báo Bùi Hữu Phước (Hữu Nguyên), Đặng Thị Kim Ngân và Nguyễn Mạnh Thắng. Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết làm gì cũng phải đúng luật. Ông Đinh Đức Lập nghe thế không kìm được phản ứng lại. Bí thư Đảng ủy Vũ Trọng Kim nghiêm giọng yêu cầu anh Lập ngồi im lắng nghe.
Theo chỉ đạo của Bí thư Vũ Trọng Kim: Tới đây, Ban Thường trực MTTQ Việt Nam sẽ có hình thức kỷ luật về mặt chính quyền đối với Tổng biên tập Đinh Đức Lập và những người liên quan đến sai phạm của ông Lập. Theo nguồn tin khác từ Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương trong buổi xuống làm việc với Chủ tịch Huỳnh Đảm – Bí thư Đảng Đoàn Mặt trận và ông Vũ Trọng Kim – Bí thư Đảng ủy thì: Thời gian tới, việc kỷ luật về chính quyền đối với ông Lập sẽ xử nặng, xử nghiêm chứ không dễ dãi như kỷ luật Đảng.
Ông Vũ Trọng Kim chỉ đạo: Việc cần làm ngay của Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết là tổ chức họp hòa giải giữa các bên.Nếu một ngày không xong thì hai ngày hoặc ba ngày. Ông Nguyễn Quốc Khánh được giao nhiệm vụ điều hành hòa giải. Tổng biên tập Đinh Đức Lập vì “vung tay vung chân, phát ngôn nhiều rồi” – (chữ dùng của ông Kim)  nên phải chịu khó lắng nghe.
Những tưởng việc chỉ đạo đã sát sao như thế là xong, ai ngờ ngay sáng hôm sau, ngày 24/4/2013, ông Kim lại triệu tập Tổng biên tập Đinh Đức Lập, Phó Tổng biên tập Nguyễn Quốc Khánh và Thư ký tòa soạn Hà Văn Thọ (Hà Trọng Nghĩa) lên trao đổi. Cuộc họp giao ban báo Đại Đoàn Kết bị hủy. Theo đó: Nhắc lại yêu cầu không được tiến hành Hội đồng kỷ luật; Việc kỷ luật về chính quyền sẽ sớm được thực hiện với ông Lập; Ông Khánh phải khẩn trương tổ chức hòa giải. Một số trao đổi khác với lãnh đạo báo Đại Đoàn Kết của ông Kim chúng tôi sẽ trình bày dịp khác…
Gần 12 giờ trưa, trở về từ Mặt trận, ông Lập tổ chức ngay cuộc họp với một số lãnh đạo báo và thành viên Hội đồng kỷ luật. Theo đó: ông Lập kiên quyết đưa ra ý kiến phải tiến hành kỷ luật ba nhà báo, mà mở màn ngay chiều nay là nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng. Đồng thuận và tỏ ý ủng hộ quyết liệt nhất với ý kiến này của ông Lập là bà Nguyễn Thu Phương – Trưởng ban Khoa giáo – người được coi là một cố vấn trụ cột của ông Lập. Bà Phương từng nổi tiếng với bài viết: “Trúng khẩu đồng từ” trên báo Đại Đoàn Kết và được Blog Nguyễn Thông bình luận khá sâu sắc. Cũng bà Phương này có bài viết “Khi thị phi lộng hành” đăng trên báo Đại Đoàn Kết ngày 03/01/2013 về nhà thờ của gia đình Thủ tướng ở Kiên Giang trên báo Đại Đoàn Kết khi bà chưa một lần đến thăm ngôi nhà này...
Lấy ý kiến Bí thư chi bộ, ông Khánh đã dùng quyền phủ quyết. Đồng thời chỉ đạo Ban trị sự có trách nhiệm điện khẩn đến các thành viên Hội đồng về việc giải tán cuộc họp không xác định thời hạn.
Phải chăng, với diễn tiến này, Phó Bí thư Đảng Đoàn, Bí thư Đảng ủy Mặt trận, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Mặt trận – Thủ trưởng cơ quan (Ông Kim còn là Ủy viên Ban Phòng chống tham nhũng trung ương) muốn khẳng định với dư luận việc đồn đoán là ông sẽ bao che bằng được cho ông Lập là sai?.

Chúng tôi sẽ trở lại sự việc sau.
(Blog Nguyễn Xuân Diện)

Nhiều nghi vấn quanh 'hòn đá lạ' phá yểm

Những giải thích của người trong cuộc liên quan đến hòn đá lạ, có chức năng trấn yểm, hóa giải tai ương, cầu may cho cả dân tộc thực sự chưa đủ thuyết phục.
Hòn đá “phá yểm” khiến không ít người bức xúc
Hòn đá lạ với những hình vẽ và ký tự khó hiểu đặt tại đền Thượng thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng vẫn gây sự tò mò cho dư luận trong thời gian qua. Mặc dù, phía những cá nhân và tổ chức có liên quan đến hòn đá lạ đã lên tiếng giải thích về ý nghĩa tốt đẹp của những hình vẻ và ký tự khó hiểu trên là nhằm phá yểm, hóa giải tai ương, cầu may cho cả dân tộc. Nhưng mọi lý lẽ của người trong cuộc vẫn chưa thỏa mãn được nhiều người. Lý do sự có mặt của hòn đá lạ với tư cách là để phá yểm khiến không ít người tỏ ra bức xúc, một mặt họ không tin về việc Đền Hùng bị yểm. Mặt khác, việc hòn đá có thể phá yểm càng trở nên khó chấp nhận.
Một số chuyên gia về Sử học, đông phương học, tâm linh khi được hỏi về nhận định như thế nào về hòn đá lạ và sự lý giải từ phía ban quản lý di tích lịch sử Đền Hùng và của người trong cuộc. Tất cả đều chung quan điểm, ngay cả ở khía cạnh tâm linh, việc yểm hay phá yểm cần phải tuân thủ quy tắc của nó. Nhiều câu chuyện truyền miệng trong dân gian có nói về thuật phong thủy, trấn yểm, bùa chú, đều thống nhất một mô típ không thể yểm hay phá yểm một vùng đất chỉ với một hiện vật, dù đó là đá hay bất kỳ một linh vật nào khác (Thăng Long Tứ Trấn là một ví dụ điển hình). Còn tất cả đều cho rằng, việc dùng bất cứ phương pháp nào để yểm một vùng đất chỉ là điều hoang đường. Còn dùng đá để trừ tà khí, hóa giải tai ương vốn là quan niệm của dân gian, hiện nay người dân vẫn dùng phương pháp này, nó trở thành một thú chơi được gọi chơi đá phong thủy. Thú chơi này cũng mang màu sắc huyền bí, thiếu cơ sở khoa học, không thể tin.

Hòn đá không có trong hồ sơ di sản nhưng ngang nhiên đặt ở Đền Thượng.
Ông Nguyễn Phúc Giác Hải cho rằng, bản thân Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người cũng chưa từng biết đến việc có mặt của hòn đá này trước đây. Thông tin về viên gạch lạ và việc Đền Hùng bị “pháp sư” của Tàu yểm cũng chưa từng nghe. Các chuyên gia trong Trung tâm cũng chưa từng được mời tham gia công việc nào có liên quan đến hòn đá lạ. Đền Hùng là vùng đất thiêng, không gì có thể yểm được, ông Giác Hải nhấn mạnh.
Bản thân ông Giác Hải đề nghị rằng, nếu cần chứng minh, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người sẵn sàng cử các nhà ngoại cảm đến để cảm nhận. Sẵn sàng vào cuộc để làm rõ thực hư việc Đền Hùng có bị yểm bùa hay không.
Ông Giác Hải tỏ ra nghi ngờ, hòn đá lạ có thể mang ý nghĩa khác, không loại trừ khả năng nó cầu phúc cho cá nhân, không mang ý nghĩa quốc gia. Điều này có thể chứng minh được bằng sự cảm nhận của các nhà ngoại cảm. Đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải, một chuyên gia ngoại cảm tại Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người cũng khẳng định, thông tin đền Hùng bị yểm là không có thật, cần thiết sẵn sàng lên cảm nhận và làm rõ.
Nhà Sử học Dương Trung Quốc.
Nên đưa “hòn đá lạ” ra khỏi khu di tích?
Liên quan đến hòn đá lạ mang nhiều hình vẽ và ký tự khó hiểu đang được đặt tại đền Thượng, PV báo ĐS&PL đã trao đổi với nhà Sử học Dương Trung Quốc. Được biết, trong thời gian trùng tu, tôn tạo khu di tích lịch sử đền Hùng vào năm 2008 - 2009, ông Dương Trung Quốc là một thành viên trong hội đồng di sản, giám sát công tác trùng tu, tôn tạo di tích.
Nhiều thắc mắc chúng tôi đặt ra về hòn đá lạ, được ông Dương Trung Quốc thẳng thắn chia sẻ. Theo nhà sử học này, trong hồ sơ di sản lúc đó, thì hòn đá lạ trên không thuộc bất cứ một hạng mục nào trong quần thể di tích Đền Hùng. Điều này có nghĩa, nó sẽ không được tự tiện đem vào trong khu di tích. Theo lập luận của ông Quốc, bất cứ một yếu tố bổ sung di tích phải tiến hành theo luật định. Có nghĩa cần lập hồ sơ, làm rõ lý do, do một hội đồng khoa học bao gồm những người có uy tín thẩm định thì mới được bổ sung vào hồ sơ di sản. Chỉ lúc đó, hiện vật mới được đem vào khu di tích lịch sử.
Ý kiến riêng của nhà sử học Dương Trung Quốc là không đồng ý với cách làm trên, bởi nó không đúng quy định của pháp luật. “Đền Hùng là một di tích lịch sử đặc biệt vì vậy không thể làm một cách cảm tính được" - nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh. Khi được hỏi về ý nghĩa của hòn đá lạ với chức năng phá yểm, hóa giải tai phù, tích tụ khí thiêng, cầu may cho dân tộc, nhà sử học Dương Trung Quốc đưa ra quan điểm: "Phong thủy, trấn yểm vốn dĩ đã rất mơ hồ. Công tác này được tiến hành tại một nơi trang nghiêm bậc nhất của dân tộc cần phải thận trọng. Nếu làm, phải làm rõ được lý do, cần nhiều chuyên gia nghiên cứu kỹ, không nên vội vàng. Đối với những người chủ ý đưa hòn đá này vào đặt tại đền thượng, có thể tâm họ sáng, nhưng đây là việc làm không đúng chỗ".
Việc dư luận trong thời gian qua quan tâm đến sự hiện diện của hòn đá này nó phản ánh một điều với mọi người Đền Hùng là chốn thiêng liêng không ai có thể tùy tiện xâm phạm. Theo tôi, trước mắt nên mang hòn đá này ra khỏi khu di tích, vì nó vừa không đúng luật di sản, lại khiến nhiều người bất bình. Nếu thực sự cần thiết một công tác tâm linh cho Đền Hùng thì cần phải xem xét lại, nghiên cứu kỹ rồi mới tiến hành. Làm gì cũng cần thận trọng, đặc biệt vấn đề tâm linh càng khó hơn bởi rất khó để xác định nên, hay không nên do đó càng phải thận trọng và "Đền Hùng là một vùng đất thiêng của dân tộc, không cần thiết phải trấn yểm".
Đồng quan điểm với ông Dương Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa khi được hỏi cũng cho rằng, nếu cần thiết làm công tác tâm linh cho Đền Hùng thì nên tiến hành thảo luận, trao đổi, để nhất trí phương án. Nhưng phải thận trọng, đúng cách. Còn việc xử lý hòn đá lạ, trước mắt nên đưa ra khỏi di tích, dù nó mang ý nghĩa tốt đi nữa nhưng rõ ràng việc làm này trái luật. Mọi vấn đề cần phải tuân thủ theo luật pháp, không thể tùy tiện theo ý mình. "Rõ ràng việc đặt hòn đá dù mục đích rất tốt đi chăng nữa nhưng đó là việc làm không đúng quy định. Đã không đúng thì nên mang ra ngoài đừng để nó tạo tiền lệ xấu ảnh hưởng đến công tác quản lý khu di tích lịch sử mang tầm quốc tế của nước ta" - một Đại biểu Quốc hội cho biết.
Hiến tặng cũng phải biết cách
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, việc để hòn đá lạ tại đền Thượng là một trong rất nhiều sai phạm của công tác quản lý di tích lịch sử hiện nay. Trong điều kiện kinh tế phát triển, nhiều người có lòng tốt, muốn cung tiến cho đình, đền, chùa và nhiều di tích khác nữa những hiện vật có giá trị và kèm theo ý nghĩa tốt. Nhưng việc cung tiến không đúng cách, một mặt vì đa số người dân không hiểu. Sự cung tiến thành tâm của nhiều người vô tình làm ảnh hưởng đến giá trị lịch sử văn hóa, phá hoại cảnh quan và ý nghĩa của nhiều khu di tích lịch sử văn hóa. Mặt khác, cơ quan quản lý làm việc chưa hoàn thành trách nhiệm. Từ vụ việc về hòn đá lạ của Đền Hùng, những nhà quản lý di tích lịch sử văn hóa cần rút ra bài học kinh nghiệm.
Như Hải

Bùi Tín - Mẫu số chung: Nhân quyền

Gia đình nông dân Ðoàn Văn Vươn bị đưa ra xét xử tại Tòa án Nhân dân thành phố Hải Phòng, ngày 2/4/2013.
25.04.2013
Các vấn đề thời sự Việt Nam nóng hổi hiện nay hầu như tập trung vào một mẫu số chung là Nhân quyền. Vụ án «Cống Rộc» vừa được xử sơ thẩm ở Hải Phòng, kết tội một cách khắc nghiệt những công dân lương thiện, nhẹ nhàng với các quan chức đảng tham ô là một bằng chứng sống động về tình trạng vi phạm nghiêm trọng Nhân quyền có hệ thống ở Việt Nam. Người công dân lương thiện cảm thấy bất an vì chính quyền và nền tư pháp độc đảng vẫn ngang nhiên chà đạp lên quyền sống tự do của con người.

Việc thảo luận về sửa đổi Hiến pháp theo kiểu cưỡng ép của lãnh đạo đảng Cộng sản, vừa đưa ra một bản dự thảo rồi coi mọi ý kiến khác biệt là suy thoái, là phản động, rồi cho phổ biến những con số bịa đặt, thổi phồng quá đáng - thoạt tiên là 20 triệu, kế đó là 22 triệu, phóng bừa lên 40 triệu, rồi 44 triệu ý kiến đồng tình - nay rút xuống còn 9 triệu, chỉ phơi bày thêm rõ nét tình trạng nhân phẩm, quyền tự do của con người bị chà đạp nghiêm trọng đến mức nào.

Cuộc đối thoại định kỳ về Nhân quyền giữa Hoa Kỳ và Việt Nam ngày càng nhạt nhẽo, đình đốn suốt năm 2012, cũng như quan hệ Việt Nam với Liên minh châu Âu gặp trở ngại cũng chỉ vì thành tích về Nhân quyền của Việt Nam đã liên tục tuột dốc trong 4 năm qua, khi đảng Cộng sản ngày càng ngả về phía Trung Quốc, giảm rõ nhiệt độ trong quan hệ với Hoa Kỳ và châu Âu. Lãnh đạo đảng Cộng sản không thể sử dụng chiến thuật ngoại giao «đi giây thăng bằng» giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ để che dấu chiến lược nhất quán «nhất biên đảo» của họ đối với Trung Quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà gần đây các mối quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ không tiến triển được chút nào, lại có những dấu hiệu giảm sút. Cuộc kỷ niệm ồn ào «đánh thắng đế quốc Mỹ» nhân dịp kỷ niệm 40 năm «Điện Biên Phủ trên không» (tháng 12-1972/12/2012) khác hẳn với không khí im lìm kỷ niệm chiến tranh biên giới Việt - Campuchia và Việt - Trung (1978/2013). Cũng gần đây các nhà tuyên huấn cấp cao đều lặp đi lặp lại luận điệu mang hơi hướng hoài cổ «chống đế quốc Mỹ», rằng Hoa Kỳ «chưa bao giờ có thiện chí với Việt Nam», như viên Đại tá Trần Đăng Thanh đăng đàn rêu rao về «tội ác tày trời của đế quốc Mỹ ở Việt Nam».

Cũng không phải ngẫu nhiên các blogger tự do, các nhà dân chủ trong nước vẫn nhắc đến lời nhắn nhủ chân tình của Tổng thống Barack Obama khi nhậm chức hướng đến các chính quyền độc đoán: «Đối với những người bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy biết rằng quý vị đang đi ngược dòng lịch sử, nhưng chúng tôi sẽ chìa tay ra nếu quý vị biết từ bỏ nắm đấm». Rất nhiều blogger tự do đã nhắc lại phát biểu sáng suốt của Luật sư Cù Huy Hà Vũ: «Liên minh quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại ». Cng như chính kiến của tướng Đặng Quốc Bảo: «Đất nước ta cần liên minh với Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản … để đối phó với hiểm họa Trung Quốc».

Cũng không phải ngẫu nhiên mà cả Hạ viện lẫn Thượng viện Hoa Kỳ hiện nay đều tỏ ra sốt ruột về thành tích Nhân quyền của Việt Nam đi xuống một cách tệ hại, không thể chấp nhận được, và các nhân vật có thế lực đều đòi Hà Nội phải tỏ ra biết điều với chính đồng bào của mình bằng hành động nếu muốn có quan hệ chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ. Dân biểu Chris Smith còn yêu cầu đưa lại Việt Nam vào danh sách «các nước cần quan tâm đặc biệt» - CPC - vì Hà Nội đã và đang vi phạm quyền tự do tôn giáo một cách có hệ thống.

Việc Việt Nam xin gia nhập tổ chức kinh tế rộng lớn xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Strategic Economic Agrement) đang bị trở ngại vì cơ cấu kinh tế quốc doanh quá cứng nhắc đi cùng hệ thống chính trị phi nhân quyền. Nếu được thu nhận vào tổ chức này - có thể gồm 10 nước: Chile, Brunei, New Zealand, Singapore, Úc, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam - Hà Nội sẽ có thêm nhiều điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh xuất nhật khẩu và thu hút vốn đầu tư ước ngoài. Thế là lại thêm một thời cơ thuận lợi nữa của nước ta bị bỏ qua, nước ta lại bị lỡ thêm một chuyến tàu dẫn đến hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, có lợi không nhỏ cho tốc độ phát triển kinh tế, vì đảng Cộng sản vẫn một mực duy trì chính sách phủ nhận quyền công dân, quyền làm người của nhân dân.

Chính do chính sách ngoan cố chà đạp quyền con người của những người lãnh đạo Cộng sản mà cả một phong trào công dân đòi tự do, đòi quyền làm người đang bật dậy mạnh mẽ, khắp nông thôn và đô thị, từ phong trào đòi công lý của dân oan, đòi quyền sở hữu tư nhân về đất đai, đồng ruộng của nông dân, đến phong trào công dân tự do của trí thức, sinh viên, người lao động, nhà kinh doanh vừa và nhỏ. « Chúng tôi là công dân tự do, là người tự do, từ khi sinh ra đã là như thế, không cần xin phép ai, không cần chờ ai cho phép cả». Đó là sự khẳng định công khai, đàng hoàng, rộng khắp, lan truyền mạnh mẽ, tuyên chiến ôn hòa với mọi thế lực độc đoán, chống sự đàn áp phi pháp của chính quyền cảnh sát, độc đảng, là nét chính trị đặc sắc nhất, mới mẻ nhất của năm 2013 này.

Là những con người tự do, các công dân Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, và có thể của cả Đà Nẵng, Huế nữa, đang vẫy gọi nhau tụ họp dã ngoại - nghĩa là ngoài trời - để cùng nhau trò chuyện, trao đổi về quyền sống, quyền con người, dựa vững trên những quyền tự do của công dân được hiến pháp bảo vệ. Đồng bào, bạn bè, người thân với nhau nói chuyện, trao đổi về cuộc sống của mình, của cộng đồng, ai có quyền cấm đoán, ngăn cản? Ai muốn ngăn cản, cấm đoán, hãy mời họ cùng nhau nói chuyện trước đã, trao đổi trước đã. Chúng tôi không nói xấu ai, không bôi xấu ai, không vu cáo ai, cũng không lật đổ ai, chúng tôi bàn về quyền con người dược hiến pháp và các văn kiện quốc tế bảo đảm, thế thôi. Cuộc trao đổi về nhân quyền ở dã ngoại, nơi thanh thiên bạch nhật, giữa không khí tự do dưới ánh mặt trời, sẽ diễn ra vào ngày 5 tháng 5 năm 2013 tới, một ngày chủ nhật mùa Xuân tự do mát mẻ.

Ấy thế mà ông Tổng thanh tra chính phủ Huỳnh Phong Tranh đã vội vã vào cuộc. Ông ta đe dọa: «Yêu cầu cưỡng chế đám đông người tụ họp mang tính chất chính trị». Thế nào là mang tính chất chính trị? Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo có là tự do chính trị? Quyền con người có là vấn đề chính trị? Sao lại cấm? Chỉ có đảng Cộng sản được hội họp mang tính chất chính trị thôi ư? Đó là chính sách ngu dân, khủng bố nhân dân, chống quyền làm chủ của nhân dân, luôn coi dân là kẻ thù tiềm năng, vốn là căn bệnh cố hữu của một đảng độc đoán lại đang thất thế.

Tháng 5 tới dồn dập nhiều sự kiện lớn: Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 7 tổng kết về cuộc tự phê bình và phê bình các cấp ủy đảng từ Bộ Chính trị, trung ương trở xuống; cuộc họp Quốc hội giữa năm bàn về sửa đổi Hiến pháp, bổ sung Luật đất đai, chống tham nhũng, cơ cấu lại nền kinh tế - tài chính; rồi lại còn cuộc Đối thoại an ninh - quốc phòng ở Đông Nam Á Shangri-La lần thứ 12 ở Singapore, nơi Thủ tướng Nguyển Tấn Dũng là một diễn giả sẽ bị săm soi chặt chẽ về thành tích nhân quyền.

Và trên hết là sắp tới lãnh đạo đảng Cộng sản có điều chỉnh gì không về thái độ của họ đối với quyền con người của nhân dân, mẫu số chung của mọi vấn đề. Họ vẫn coi 80 triệu đồng bào của họ là nô lệ thời hiện đại, hay họ sẽ tỉnh ra, coi đó là anh chị em ruột thịt bình đẳng, phải được sống trong tự do và nhân phẩm, như phần lớn đồng loại trên hành tinh này.

* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Đào Tuấn - Khi nào người ta dùng luật rừng?

Tưới xăng đốt người. Chặt chân. Nổ mìn. Đặt quan tài. Thông báo “tìm người thân” để truy tìm. Bắt cóc. Nhắn tin khủng bố. Thuê thương binh đến ăn ở tại nhà. Ném mắm tôm, trứng thối. Đặt vòng hoa viếng người sống…
Không cần nói thêm nữa. Đây đích thị là những biện pháp đã dùng để đòi nợ. Có thể gọi gì khác hơn khi bản chất của hiện tượng là việc chủ nợ thuê xã hội đen để dùng luật rừng.
Theo báo cáo của Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an, tình trạng tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay, thuê, cầm cố tài sản với lãi suất cao dưới dạng tín dụng đen đang diễn ra rất phức tạp. Chỉ tính từ đầu năm 2012 đến nay, trên phạm vi cả nước đã xảy ra trên 4.300 vụ việc liên quan đến hoạt động này…
4.300 vụ luật rừng. Từ 4.300 nỗi bức xúc, sót của. Và 4.300 tâm trạng không biết bấu víu vào đâu.
Nhưng vì sao chủ nợ không “báo quan” mà lại thuê xã hội đen, để đòi nợ bằng luật rừng?
Bình Thuận là một câu trả lời. Ngay tháng trước, Công an tỉnh Bình Thuận đã tước danh hiệu một viên cảnh sát khi anh này đòi nợ thuê số tiền chỉ 28 triệu đồng.
Công an không có chức năng đi đòi nợ thuê, một quan hệ thuộc về phạm trù dân sự. Trong khi đưa ra tòa, thì như các cụ đã nói “Được vạ thì má đã sưng”.
Không ai muốn thuê xã hội đen, dùng luật rừng, để rất dễ, như thực tế chứng minh, tự đẩy mình vào thế của người mắc nợ, với pháp luật. Nhưng rõ ràng khi pháp luật, khi cơ quan chức năng, vì một lý do nào đó, không giúp cho họ thì người ta phải dùng các biện pháp ngoài luật thôi. Bởi bên ngoài lý do “của đau con sót”, đặc điểm chung của những người phải cậy nhờ đến xã hội đen, đến luật rừng là họ thân yếu thế cô, họ không thể nhờ ai khác để bảo vệ quyền lợi của mình. Và lớn nhất, là sự bất lực.
Vấn đề ở chỗ một hệ thống quy phạm dày đặc vẫn để thủng lỗ chỗ những khe hở khiến người dân không thể cậy nhờ thì rõ ràng, phải xem lại hệ thống đó, chứ không thể ngồi chờ hạnh vi phạm tội xảy ra rồi mới bắt.
Nhưng đến hôm qua, còn xuất hiện thêm một khía cạnh khác của việc dùng luật rừng khi ở Hải Phòng, “đầu gấu” được thuê để “giải phóng mặt bằng”. Một cuộc đánh đập, truy sát đã diễn ra, ngay giữa ban ngày ban mặt với những nạn nhân đã bị “trọng thương”. Có một chi tiết rất đáng chú ý là câu trả lời sau đó của Giám đốc Công ty cổ phần Nam Thành, đơn vị được UBND TP Hải Phòng giao đất: “Công ty đã nhiều lần kiến nghị bằng văn bản lên thành phố, đặc biệt từ cuối năm 2011 khi cuộc bảo vệ thi công của chính quyền cho doanh nghiệp không thành, công ty đã thúc giục nhưng không được giải quyết quyết liệt”.
“Cuộc bảo vệ thi công của chính quyền cho DN không thành”. Và đây là lý do khiến DN thuê đầu gấu?
Có người đã thở phào khi Hải Phòng đã chính thức lên tiếng yêu cầu các cơ quan liên quan xác minh làm rõ. Công an Thành phố cũng đã “chỉ đạo các phòng nghiệp vụ phối hợp với Công an huyện Tiên Lãng khẩn trương xác minh, làm rõ vụ việc để xử lý nghiêm vụ việc theo quy định của pháp luật”.
Lạc quan thì thấy điều tồi tệ nhất còn chưa xảy ra. Bởi sẽ là loạn nếu như người những tên đầu gấu dùng nắm tay, gót chân cùng cưỡng chế thu hồi đất với lực lượng công an mặc sắc phục.
Nhưng, một cách cẩn trọng sẽ thấy việc dửng dưng bàng quang trong việc trả lời “không biết” với một sự việc nghiêm trọng, to bằng cái đình, cũng chẳng khác một cái đèn xanh cho luật rừng. Trong vụ Bình Thuận, viên cảnh sát, một biểu tượng của sự bảo vệ và pháp luật, khi được thuê, đã thuê lại những tên đầu gấu chỉ có thói quen dùng luật rừng.
Đào Tuấn

Việt Nam, Philippines đồng quan điểm về vấn đề tranh chấp biển đảo

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị Thượng Đỉnh ASEAN lần thứ 22 tại Darussalam, Brunei.
25.04.2013
Tổng Thống Philippines họp song phương với Thủ Tướng Việt Nam bên lề hội nghị thượng đỉnh ASEAN.

Tin của tờ Sun Star Manila nói Tổng Thống Benigno Aquino và Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý củng cố quan hệ hợp tác giữa hai nước.

Hai nhà lãnh đạo mở một cuộc họp song phương bên lề Hội nghị Thượng Đỉnh ASEAN lần thứ 22 diễn ra ở Darussalam, Brunei.

Hãng tin ABS-CBN hôm nay trích lời người phát ngôn của Tổng Thống Philippines Edwin Lacierda nói rằng trong dịp này Việt Nam đã bày tỏ sự ủng hộ đối với lập trường của Philippines về các cuộc tranh chấp tại Biển Đông.

Ông Lacierda cho biết là trong cuộc họp song phương, hai nhà lãnh đạo còn đề cập tới vấn đề hợp tác kinh tế giữa hai nước.

Ông Lacierda nói: “Lãnh đạo hai nước đều hài lòng về sự tiến bộ trong các quan hệ kinh tế và thảo luận về cách thức nhằm củng cố hơn nữa các quan hệ này.”

Tờ Sunday Star của Philippines nói rằng cả hai nước thừa nhận sự cải thiện trong an ninh biển giữa hai nước, và Việt Nam bày tỏ ủng hộ các sáng kiến quốc tế của Philippines về vấn đề này.

Philippines đã nộp đơn kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để đòi Trung Quốc ngưng các hành động xâm phạm khu vực mà Philippines tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Liên minh Châu Âu gần đây đã ra nghị quyết ủng hộ sáng kiến của Philippines đưa cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc ra trước tòa án trọng tài quốc tế.

Hôm qua, 24 tháng Tư, Bộ Ngoại giao Philippines đã ra tuyên bố ca ngợi nghị quyết của Liên hiệp Châu Âu là một dấu mốc trong nỗ lực của Philippines gây sự chú ý của cộng đồng quốc tế để giải quyết cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc một cách ôn hòa.

Cuộc họp song phương giữa Việt Nam và Philippines diễn ra bất chấp một loan báo trước đó của Bộ Ngoại giao Philippines nói rằng Tổng Thống Aquino sẽ không mở bất cứ cuộc họp song phương nào tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN.

Nguồn: ABS-CBN News, Sun Star Manila, Thanhnien News
(VOA)

EU hậu thuẫn Philippines kiện TQ


Philippines đã đưa vấn đề tranh chấp biển ra tòa án quốc tế

Việc Philippines kêu gọi đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông gần đây đã được thúc đẩy thêm, với việc Nghị viện Âu châu ra nghị quyết ủng hộ sáng kiến của Manila.

Nghị viện Âu châu đã ra nghị quyết hôm 14/3 theo đó thông qua một bản phúc trình có nội dung ủng hộ sáng kiến trọng tài của Philippines theo Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc 1982 (UNCLOS), nhằm làm rõ các quyền trên biển của nước này tại Biển Đông.

Bản phúc trình cũng kêu gọi Trung Quốc "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong việc theo đuổi các mục tiêu ở nước ngoài".

Bộ Ngoại giao của Philippines trong một tuyên bố đã hoan nghênh nghị quyết này là một "cột mốc" trong các nỗ lực của Philippines trong việc thu hút chú ý tới chuyện xử lý bất đồng về chủ quyền ở các vùng đang có tranh cãi trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình như đưa ra trọng tài.

Trang tin Gulfnews.com dẫn lời Ngoại trưởng Albert del Rosario nói: "Nghị quyết của Nghị viện Âu châu là một cột mốc cho các nỗ lực của đất nước chúng ta trong việc tạo ra sự nhận thức chung và sự ủng hộ cho các nỗ lực tìm kiếm giải pháp bằng con đường trọng tài."

Năm ngoái, Thượng viện Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua một nghị quyết về việc giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình.

Biển Đông, mà Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa, còn Philippines gọi là Biển Tây Phi, là nơi giàu nguồn cá và trữ lượng tài nguyên.

Đây hiện đang là nơi tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia như Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Brunei, Philippines, Trung Quốc và các nước khác.

Biển Đông cũng là nơi có tuyến hải hành quan trọng cho việc giao thông ở châu Á, Thái Bình Dương và cho việc thương mại toàn cầu.

ASEAN kiềm chế


Hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm nay đặt vấn đề tranh chấp lãnh hải vào nghị trình họp

Tuy nhiên, các lãnh đạo ASEAN, hiện đang tham dự hội nghị thượng đỉnh thường niên, năm nay được tổ chức tại Brunei, đã giảm bớt những ngôn từ hùng hồn trong việc cáo buộc thái độ hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, bài blog trên Wall Street Journal viết.

Mục tiêu, theo lời các quan chức, là nhằm tránh đổ vỡ như đã xảy ra hồi hè năm ngoái, khi các ngoại trưởng khối ASEAN đã không ra được tuyên bố bế mạc hội nghị, điều hiếm xảy ra, do có những khác biệt về việc nên dùng ngôn từ găng ở mức nào trong vấn đề Biển Đông.

Năm nay, Brunei, nước giữ chức chủ tịch luân phiên ASEAN, đã có chiến lược rõ ràng. Đó là để các nước tuyên bố chủ quyền biển như Việt Nam và Philippines được quyền lên tiếng từ sớm, và làm rõ rằng tranh chấp biển sẽ nằm trong nghị trình họp và sẽ được đề cập trong các cuộc thảo luận chính thức.

Năm trước, tại hội nghị thượng đỉnh 2012, chủ tịch ASEAN khi đó là Campuchia đã khai mạc với việc đề nghị đặt các vấn đề Biển Đông ra ngoài nghị trình họp.

Trung Quốc phớt lờ


Trung Quốc gần đây liên tục tranh cãi với các nước láng giềng về vấn đề lãnh hải

Tuy nhiên, các nỗ lực nhằm giải quyết tranh chấp trên Biển Đông vẫn đang trong thế bế tắc.

Các lãnh đạo ASEAN tới dự họp ở Brunei đã hy vọng là Trung Quốc sẽ sớm đồng ý bắt đầu các cuộc đàm phán về một thỏa thuận kiềm chế nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy ra đụng độ lớn tại các vùng lãnh thổ có tranh chấp, điều có thể gây tổn hại cho các nền kinh tế trong khu vực.

Thế nhưng Trung Quốc đến nay vẫn không hề ra một chỉ dấu rõ rệt về việc khi nào Bắc Kinh sẽ đồng ý thương thuyết về Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông này.

"Mọi người đều quan tâm một giải pháp hòa bình và cũng đều lên tiếng quan ngại về tình trạng gia tăng tranh chấp trên biển," AP trích lời Tổng thống Philippines Benigno Aquino III nói với các phóng viên sau khi ông và các vị lãnh đạo quốc gia khác có bữa ăn tối truyền thống hôm thứ Tư.

Cuộc chiến giành chủ quyền ở vùng biển này từng gây ra cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam hồi 1988, khiến hơn 70 thủy thủ Việt Nam thiệt mạng.

Các vụ đụng độ lại nổ ra trong vòng hai năm qua, và căng thẳng đặc biệt dâng cao khi Trung Quốc triển khai tàu tuần tra tới kiểm soát khu vực Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và thành lập thành phố Tam Sa ở khu đảo Hải Nam nhằm quản lý hành chính khu vực.

Cuộc va chạm giữa tàu của Trung Quốc và Philippines ở bãi đá cạn Scarborough hồi năm ngoái vẫn chưa được giải quyết, khiến Manila đệ đơn lên cơ quan giải quyết tranh chấp theo UNCLOS.

Bắc Kinh đã phớt lờ bước đi pháp lý này của Philippines.
(BBC)

Nạn buôn người Việt vào nhà chứa ở Nga


Một Việt Kiều ở Mỹ cầm ảnh em gái, cô Huỳnh Thị Bé Hương, bị lừa vào nhà chứa tại Nga

Theo một tổ chức nhân quyền có trụ sở tại Hoa Kỳ, trường hợp 15 phụ nữ Việt Nam bị buộc hành nghề mại dâm ở Moscow cho thấy một vấn đề rộng lớn hơn - nạn buôn người liên quan tới hàng nghìn người Việt tại Nga.

Nhiều nạn nhân đã bị cầm giữ bởi chính người Việt tại Nga, các nhóm điều hành hàng trăm xưởng thợ bóc lột lao động hoặc cả các ổ chứa ở Moscow và ngoại ô, theo tổ chức chống buôn lậu người mang tên 'Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở châu Á (CAMSA).

Tổ chức này gần đây mới tiết lộ cho biết về số phận của 15 phụ nữ là nạn nhân của đường dây buôn người từ Việt Nam sang Nga và bị buộc phải hành nghề mại dâm tại một nhà chứa.

Trả lời BBC Việt Ngữ, ông Nguyễn Đình Thắng, người đồng sáng lập CAMSA, cho biết vụ việc liên quan tới một phụ nữ tên Nguyễn Thúy An, mà CAMSA cáo buộc là chủ nhà chứa nói trên.

Được biết sau khi vụ việc bị lộ, bà Thúy An đã phải trả hộ chiếu cho những phụ nữ này và họ đã từng đợt được đưa về lại Việt Nam trong tháng Ba, mà người cuối cùng là cô Trang Thị Diệu, 25 tuổi, về tới Việt Nam hôm 19/4, ông Nguyễn Đình Thắng cho biết.

Tổ chức CAMSA còn cáo buộc hoạt động của nhà chứa nơi 15 phụ nữ này bị cầm giữ "đã được một vài nhân viên đang làm việc tại tòa đại sứ Việt Nam ở Moscow bao che".

BBC Việt Ngữ đã liên lạc qua điện thoại với ông Nguyễn Đông Triều, Tham tán công sứ của Đại sứ quán Việt Nam ở Nga, để hỏi về cáo giác này nhưng ông đã từ chối không trả lời và yêu cầu BBC "hỏi cơ quan chức năng nào khác".

Ông Triều cũng nói:

"Tôi không có trách nhiệm trả lời nhà báo,"

"Những cái gì cứ gửi tới cơ quan có thẩm quyền."

Khi được hỏi ông làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam, và nếu Đại sứ quán Việt Nam không phải là cơ quan có thẩm quyền thì cơ quan thẩm quyền mà ông nói là cơ quan nào, ông Triều đã bỏ máy.

Phản hồi từ Phòng lãnh sự

Sau nhiều lần gọi điện, emails và cả gửi fax trong hai ngày 24 và 25 tháng Tư để có được thông tin kiểm chứng và phản hồi của tòa đại sứ Việt Nam ở Liên Bang Nga trước những cáo buộc của tổ chức CAMSA và trước lời kể của một số nạn nhân đã được đưa trở lại Việt Nam mới đây, hồi 16.24 chiều thứ Năm 25/4, BBC Việt Ngữ đã nhận được thư phản hồi, ký tên "Phòng lãnh sự, Đại sứ quán Việt Nam tại Nga".

Các câu hỏi của BBC Tiếng Việt đã không được trả lời trực tiếp

Trong thư phản hồi này, Phòng lãnh sự đã không hề trả lời bất cứ câu hỏi nào của BBC để kiểm chứng thực hư của những cáo giác nói trên mà viết rằng:

"Mong BBC Việt ngữ khi đưa tin về các vụ việc liên quan đến người Việt Nam tại LB Nga cần tìm hiểu kỹ, xác minh để bảo đảm tính khách quan, chính xác, tránh theo ý kiến của một vài cá nhân có thể vì những lý do khác mà đưa tin thổi phồng, thậm chí làm chứng sai sự thật."

Không có tương lai

Theo ước tính của tổ chức CAMSA, tại Moscow có khoảng ba ngàn xưởng của người Việt, mỗi xưởng có thể thuê từ vài người tới hàng trăm nhân công, và nhiều người là nạn nhân của tình trạng lao động cưỡng bức.

Cũng tại thành phố này có “không ít” các nhà chứa do người gốc Việt làm chủ mà chủ yếu để phục vụ khách Việt Nam, theo CAMSA.

Tại đây các cô gái trẻ người Việt bị buộc phải làm gái mại dâm sau khi bị lừa sang Nga với hứa hẹn có công ăn việc làm.
"Các nạn nhân Việt của tình trạng buôn người ở Nga trên thực tế không có cơ hội tìm được tự do. Cơ chế hiện hành tại Nga khiến cho nạn nhân không thể tìm cách bỏ trốn hay tìm kiếm trợ giúp."
Nguyễn Đình Thắng, người đồng sáng lập CAMSA

Trả lời BBC Việt Ngữ, cô Duyên và cô Trang, hai trong số 15 phụ nữ đã được về lại Việt Nam sau một thời gian bị buộc phải hành nghề mại dâm dưới sự quản lý của bà Nguyễn Thúy An, cho biết họ được hứa hẹn sang Nga để làm nhà hàng.

Trước khi đi, họ cũng được hứa mỗi ngày sẽ nhận trên 100 đô la tiền công nhưng thực tế họ đã được đưa thẳng tới nhà chứa của bà An để đi khách.

Theo cô Duyên, khi mới tới đây, có khoảng 9-10 chị em phụ nữ đã ở đó rồi và dần dần con số này lên thành 15 người, sống trong căn hộ với hai phòng ngủ, không có giường.

Họ nói vật dụng là những tấm đệm mỏng, căng rèm, vừa là phòng ngủ của cả 15 người vừa là phòng để phục vụ khách luôn.

Cả hai chị cho biết tiền nong bà An đều nắm giữ và bị trừ các tiền chi phí, chưa kể các loại tiền phạt nếu họ không làm theo đúng các quy định do bà An đặt ra.

Ông Nguyễn Đình Thắng đã làm việc với sáu trường hợp liên quan tới khoảng 300 người Việt là nạn nhân của tình trạng buôn lậu người tại Nga trong năm ngoái.

“Nó khiến người ta phần nào biết được về tình trạng buôn lậu người phức tạp và tăm tối tại đất nước rộng lớn này,” ông Thắng nói tại buổi điều trần trước Quốc hội Mỹ về nạn buôn lậu người hôm 11/4 vừa qua.

“Các nạn nhân Việt của tình trạng buôn lậu người ở Nga trên thực tế không có cơ hội tìm được tự do,” ông nói thêm.

“Cơ chế hiện hành tại Nga khiến cho nạn nhân không thể tìm cách bỏ trốn hay tìm kiếm trợ giúp."

Cho tới nay những người trong đường dây đưa người sang Nga và buộc họ trở thành nô lệ tình dục vẫn chưa bị bắt và cảnh sát Nga “rất chậm chạp” trong việc có phản ứng trước những vụ như thế này, ông Thắng nói.

Cảnh sát 'đồng lõa'

Khoảng một nửa số nạn nhân mà tổ chức CAMSA tìm cách giải cứu trong vòng 18 tháng qua vẫn đang bị những kẻ buôn lậu người cầm giữ.

Nhiều người trong số này bỏ trốn khỏi các xưởng lao động đã bị chính cảnh sát Nga, mà CAMSA nói “có quan hệ chặt chẽ với những kẻ buôn lậu người”, đem trả lại cho chủ người Việt, ông Thắng cho biết.

Trao đổi với BBC Việt Ngữ, ông Thắng nói: “Chính phủ Nga không quan tâm về vấn đề chống buôn lậu người.”

“Cảnh sát địa phương thì rất tham nhũng. Còn cảnh sát liên bang thì không đủ nhân sự và lại thiếu huấn luyện. Do đó có luật để trừng phạt kẻ buôn người nhưng phần lớn các vụ buôn người lại không được nhận diện là buôn người nên luật cũng không được áp dụng,” ông Thắng giải thích thêm.

Chính phủ Việt Nam ước tính 30% trong số 10 ngàn người Việt Nam đang làm việc tại Nga là đi theo chương trình xuất khẩu lao động chính thức, số còn lại là sang theo visa du lịch, có nghĩa là có khoảng 7 ngàn người lao động bất hợp pháp tại nước này.

Tuy nhiên tổ chức CAMSA ước tính con số thực có thể cao hơn rất nhiều.

Không chỉ là điểm đến của các tuyến đưa người lậu từ Việt Nam, Nga còn là nguồn và điểm trung chuyển nạn nhân buôn lậu người.

Về phía mình, Việt Nam cũng là cả điểm đến của nhiều nạn nhân được đưa lậu tới từ các nước Đông Nam Á khác, một số tổ chức nhân quyền cho biết.

Trong bản phúc trình toàn cầu thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ về buôn lậu người năm 2012, Nga được xếp hạng ở “Bậc 2 cần theo dõi” – nước có nguy cơ tụt xuống hạng 3, gồm các nước không tuân thủ các tiêu chuẩn chống buôn lậu người.

Việt Nam được nâng cấp từ “Bậc 2 cần theo dõi” lên “Bậc 2” trong bảng xếp hạng nói trên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Vụ 'bán phụ nữ Việt vào nhà chức tại Nga' cũng đã được một số báo Mỹ đăng tải.

BBC Việt Ngữ sẽ tiếp tục cập nhật thêm các thông tin liên quan tới số 15 phụ nữ đã được đưa về nước.

Hà Mi
BBC Việt Ngữ

Tân Cương, một Tây Tạng thứ hai của Trung Quốc

Chính quyền Tân Cương triển khai lực lượng cảnh sát dã chiến (REUTERS /C. Barria/Files)
Chính quyền Tân Cương triển khai lực lượng cảnh sát dã chiến (REUTERS /C. Barria/Files)

Trung Quốc lên án « khủng bố hồi giáo » phục kích hạ sát 15 cảnh sát và cán bộ huyện trong cuộc xung đột làm chết 21 người vào ngày hôm qua 24/04/2013 tại huyện Ba Thục, Tân Cương. Trái với người dân Tây Tạng tranh đấu ôn hòa, người dân Tân Cương kháng chiến bằng máu. Bàn đạp trong chiến lược bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc đã trở thành chiếc gai trong gót chân của Bắc Kinh.

Theo Hoàn Cầu Thời Báo ngày 25/04/2013, cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản Trung Quốc thì vào thứ ba 23/04/2013 vừa qua chính quyền Ba Thục,Tân Cương, nhận được báo cáo có một toán người tình nghi trang bị đao kiếm. Khi công an và cán bộ huyện đến nơi để « kiểm tra » thì bị « khủng bố Duy Ngô Nhĩ » phục kích.

Xung đột xảy ra làm chết 21 người trong đó có 15 công an và cán bộ bị tử thương. Trong khi đó, cộng đồng người Duy Ngô Nhĩ lên án công an, cảnh sát Trung Quốc sử dụng bạo lực. Chính phủ Hoa Kỳ cũng kêu gọi Bắc Kinh phải tôn trọng quyền của sắc dân thiểu số và làm rõ vụ xung đột ngày thứ ba vừa qua.

Theo giới phân tích thì phân hóa giữa cộng đồng người Hán và người Duy Ngô Nhĩ nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ tại Tân Cương đã đến giai đoạn không thể hàn gắn được. Chuyên gia Pháp Jean-Vincent Brisset thuộc Viện nghiên cứu Quan hệ quốc tế và Chiến lược IRIS nhận định Tân Cương đã đi đến tình trạng « người Hán và Duy Ngô Nhĩ căm thù nhau, không bên nào dung thứ bên nào ».

Tháng 7 năm 2009, một cuộc xung đột sắc tộc kéo dài gần một tuần lễ. Chính quyền Bắc Kinh phải huy động 10 ngàn công an võ trang và xe bọc thép can thiệp. Tổng cộng hơn 200 người thiệt mạng theo số liệu của nhà nước và hàng chục bản án tử hình ban ra sau đó dành cho người Duy Ngô Nhĩ .

Theo phân tích của chuyên gia Jean-Vincent Brisset, căn nguyên nguồn cội của tình trạng hận thù dân tộc này bắt nguồn từ chính sách « thực dân » của Bắc Kinh.

Cũng như Tây Tạng, Tân Cương bị Trung Quốc đô hộ dưới danh nghĩa « tự trị ». Thực tế là Trung Quốc đã đưa người Hán lên hai vùng lãnh thổ chiếm đóng này để khai thác với mục tiêu biến dân bản địa trở thành thiểu số.
Tuy nhiên, trái với trường hợp Tây Tạng theo đạo Phật, người dân kháng cự bằng biện pháp bất bạo động và tự thiêu, 117 người tính từ 2009, tại Tân Cương, cộng đồng Hồi giáo sẵn sàng tranh đấu trực diện bằng mọi phương tiện. Tuy được gọi là « tự trị » nhưng Tân Cương bị trói buộc sinh hoạt theo giờ Bắc Kinh. Nhân danh « ổn định xã hội » toàn bộ chức vụ chính trị nằm trong tay người Hán.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Trung Quốc tuyên truyền giải phóng Tân Cương khỏi « giai cấp phong kiến bốc lột » nhưng lại kềm kẹp Tân Cương khắc nghiệt như vậy ? Thứ nhất là do Tân Cương giàu tài nguyên thiên nhiên : dầu khí, quặng mỏ kim loại và uranium, khám phá vào năm 2008.

Từ năm 2008, ngoài than đá với trữ lượng hàng đầu tại Trung Quốc, Tân Cương trở thành khu vực cung ứng dầu hỏa đứng hàng thứ hai cho Trung Quốc với 27,4 triệu tấn dầu thô mỗi năm, chỉ sau Đại Khánh ở Hắc Long Giang. Về khí đốt, Tân Cương đứng hàng thứ ba và sẽ tăng lượng khí đốt khai thác 24 tỷ mét khối hiện nay lên gấp đôi vào năm 2020 cung ứng cho nhu cầu Hoa lục.

Tân Cương còn là một khu vực địa chiến lược giáp ranh với Trung Á và là nơi đặt đường ống dẫn dầu từ Kazakhstan giúp cho Bắc Kinh phần nào bớt lệ thuộc vào Trung Cận Đông. Tân Cương cũng nằm trên con đường « thương mại » giúp Trung Quốc xâm nhập thị trường sang Iran.

Cuối cùng, Tân Cương còn có căn cứ Lop-Nor nơi Trung Quốc thử bom nguyên tử và tên lửa mang đầu đạn vi trùng, không kể một thành phố bí mật tên Malan nơi đặt một trung tâm nghiên cứu hạt nhân, rất có thể là căn cứ vũ khí hạt nhân bí mật.

Theo chuyên gia Thierry Kellner, thuộc Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đương đại tại Bruxelles, Bắc Kinh xem Tân Cương là « chiếc cầu » để tranh giành ảnh hưởng với Nga tại Trung Á và mở rộng thế lực đến các vùng khác từ Trung Đông cho đến Nam Á và Đông Nam Á.

Liệu chiếc cầu này có thể xây dựng trên sự căm thù bất đội trời chung của hai sắc dân địa phương hay không ?
Tú Anh (RFI)

Mỹ thúc giục Trung Quốc bảo vệ người Duy Ngô Nhĩ

Người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương bất bình trước chính sách Hán hóa của Trung Quốc (© Reuters)
Người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương bất bình trước chính sách Hán hóa của Trung Quốc (© Reuters)

Hôm qua, 24/04/2013, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ Patrick Ventrell kêu gọi Trung Quốc làm dịu tình hình ở Tân Cương sau bạo động làm 21 người thiệt mạng. Trả lời báo chí, ông Ventrell nói thêm : Hoa Kỳ bày tỏ "quan ngại sâu sắc" trước những hành vi phân biệt đối xứ nhắm vào cộng đồng người Duy Ngô Nghĩ nói riêng cũng như vào những người Hồi giáo tại Trung Quốc nói chung.

Washington mong muốn Bắc Kinh nhanh chóng « chấm dứt mọi chính sách nhằm giới hạn tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng tên toàn quốc. Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến hoàn cảnh của người Duy Ngô Nhĩ ».

Do vậy chính phủ Mỹ khuyến khích Trung Quốc « điều tra một cách minh bạch » về sự cố đã xảy ra tại Tân Cương cách nay 2 ngày. Hôm 23/04/2013 bạo động đã nổ ra tại Kasghar thuộc khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương. 21 người thiệt mạng.

Theo các nguồn tin từ chính quyền địa phương trong số đó có từ 10 đến 15 nạn nhân là người Duy Ngô Nhĩ, trong đó có nhân viên cảnh sát và cán bộ huyện. Tám người đã bị câu lưu. Bộ Ngoại giao Trung Quốc lập tức lên án « những phần tử khủng bố » gây xáo trộn tại Tân Cương.

Bạo động đã xảy ra đúng vào lúc đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc Gary Locke đang dẫn đầu mội phái đoàn Mỹ gồm đại diện các tập đoàn năng lượng, đường sắt đến Tân Cương.

Vùng tự trị Tân Cương là nơi thường xảy ra căng thẳng giữa cộng đồng người Hán và đa số người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi. Người Duy Ngô Nhĩ thường xuyên bị chính quyền tố cáo là các thành phần « khủng bố ». Hiện có khoảng 9 triệu người Duy Ngô Nhĩ đang sống ở Tân Cương.

Họ bất bình trước chính sách Hán hóa của Trung Quốc và tố cáo Bắc Kinh chà đạp các quyền tự do tín ngưỡng, muốn tiêu diệt văn hóa của người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi. Tân Cương là một vùng đất còn nghèo và kém phát triển nhưng lại có nhiều tài nguyên thiên nhiên.

Thanh Hà (RFI)

Sự nguy hại của “mơ hồ chiến lược” ở Biển Đông

Việc Mỹ lưỡng lự trong động thái “xoay trục” sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã tạo ra một tình trạng mơ hồ chiến lược ở  Biển Đông.
 Tàu chiến cận bờ USS Freedom của Mỹ đồn trú ở Singapore.

Theo nhà báo Roberto Tofani - đồng sáng lập www.planetnext.net, trong khi các nước trong khu vực tin rằng Washington sẽ thực hiện chính sách “xoay trục” chuyển 60% sức mạnh hải quân đến khu vực này vào năm 2020, hiện vẫn chưa rõ sự thay đổi chiến lược này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tranh chấp biển đảo đang ngày càng leo thang trong khu vực.

"Xoay trục" nửa vời?

Có ý kiến cho rằng Mỹ có ý định tăng cường sự hiện diện trong khu vực chỉ đến mức độ không làm cho Trung Quốc khó chịu. Sự mơ hồ chiến lược này và thái độ nghi ngờ về quyết tâm chính trị của Mỹ đang khiến cho các bên hữu quan tăng cường liên minh với các cường quốc khác trong khu vực như Australia, Ấn Độ và Nhật Bản. Một số nhà phân tích cho rằng liên minh chồng chéo và có phần cạnh tranh nhau này có thể gây mất ổn định khu vực, khi Trung Quốc bắt đầu cảm thấy bị các nước bên ngoài khu vực bao vây.

Đã có ý kiến nghi ngờ về khả năng tài chính của Mỹ trong việc thực hiện “'xoay trục” một cách có ý nghĩa chiến lược và bền vững. Với kế hoạch cắt giảm ngân sách quân sự đáng kể tại Washington, các nước đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực tự hỏi liệu Mỹ có thể theo kịp tốc độ tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc, trong đó có kinh phí đáng kể để tăng cường sức mạnh hải quân.

Việc bố trí lại 290 tàu hải quân Mỹ đã bắt đầu với việc triển khai tàu chiến cận bờ USS Freedom đến Singapore. Việc cung cấp cho Philippines một tàu chiến Mỹ thứ hai (mặc dù đã gỡ bỏ hệ thống vũ khí và thông tin liên lạc tiên tiến) đã làm gia tăng kỳ vọng của các bên tranh chấp về việc Mỹ muốn thay đổi tương quan lực lượng trong khu vực. Tuy nhiên, động thái này lại gây căng thẳng với Trung Quốc, nước vốn kịch liệt phản đối mọi hoạt động hay nỗ lực nào nhằm quốc tế hóa các tranh chấp biển đảo hiện nay.

Một số nhà phân tích khu vực cho rằng Mỹ không nhằm mục đích “kiềm chế” Trung Quốc và vẫn hy vọng nước này trở thành một cường quốc “có trách nhiệm” trong khu vực. Người ta không loại trừ khả năng Mỹ sẽ rút lại chiến lược “xoay trục” để tránh chọc tức Trung Quốc

Mục tiêu chiến lược của Mỹ khá mơ hồ

Mặc dù đã ký Hiệp ước phòng thủ chung với Philippines năm 1951, thời gian qua, Mỹ đã thể hiện rõ thái độ tránh xung đột trong tranh chấp biển đảo giữa Manila và Bắc Kinh. Mặc dù hiệp ước này qui định phòng thủ chung, nhưng không chắc Mỹ sẽ đến tiếp viện cho Philippines trong một cuộc đụng độ trên khu vực tranh chấp. Vụ tranh chấp bãi cạn Scarborough ở Biển Đông là một bằng chứng rõ ràng.

Gần đây, Philippines đã thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc thông qua tòa án trọng tài quốc tế theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, một động thái được Mỹ hậu thuẫn.  Trong khi nhà chức trách Philippines gọi việc đưa tranh chấp biển đảo ra trước trọng tài quốc tế là “hành động thân thiện”, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói hành động nói trên của Mainla là “không đúng đắn về khía cạnh lịch sử và pháp lý cũng như hàm chứa những cáo buộc không thể chấp nhận đối với Trung Quốc”.

Các nước hữu quan đã cáo buộc Bắc Kinh cứng nhắc về tranh chấp biển đảo, trong đó có việc bám lấy cái gọi là bản đồ “đường chín đoạn” đòi hỏi chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông. Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã củng cố tuyên bố chủ quyền của mình bằng các cuộc tuần tra biển dày đặc hơn, báo hiệu lập trường cứng rắn của Bắc Kinh trước sự can thiệp của nước ngoài, trong đó có cam kết “xoay trục” của Mỹ.

Giáo sư khoa học chính trị và quan hệ quốc tế Soeya Yoshihide của Đại học Keio (Nhật Bản) nhận định: “Các quốc gia Đông Nam Á đang lo lắng về sự nổi lên của Trung Quốc, nhưng lại không sẵn sàng theo đuổi cách tiếp cận đối đầu với Bắc Kinh. Về phần mình, Trung Quốc sẽ không thay đổi lập trường hiện nay”.

Tình hình đang trở nên phức tạp hơn, khi không phải tất cả các nước thành viên ASEAN đều hoan nghênh sự hiện diện quân sự nhiều hơn của Mỹ để làm đối trọng với Trung Quốc. Indonesia được cho là ưu tiên các biện pháp ngoại giao hơn chính sách cân bằng sức mạnh trong khu vực do Mỹ hậu thuẫn. Trong khi một số nước ASEAN muốn Ấn Độ, Nhật Bản có vai trò tích cực hơn ở Biển Đông, một vài nước khác lại sợ sự can dự của hai nước nói trên sẽ khiến cho tình hình khu vực thêm mất ổn định. Nhận thức về sự cam kết yếu hơn của Mỹ đang trở thành một yếu tố quan trọng trong việc hoạch định chính sách của các nước ven Biển Đông.

Bất kể Mỹ có “xoay trục” hay không, Trung Quốc ít có khuynh hướng chấp nhận đối thoại đa phương (thông qua ASEAN hay ở bất cứ nơi nào khác) để giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển đảo. Thay vào đó, Trung Quốc thiên về hướng củng cố lập trường của mình để chặn trước sự can dự của nước ngoài vào vấn đề Biển Đông trong tương lai.

Bằng cách tăng cường các cuộc tuần tra hải quân trong khu vực tranh chấp, Trung Quốc đang củng cố tuyên bố chủ quyền và tăng cường lợi thế chiến lược ở Biển Đông. Trong khi mục tiêu chiến lược của Mỹ vẫn còn khá mơ hồ, mục tiêu chiến lược của Trung Quốc dường như ngày càng trở nên rõ nét.
  (Kiến thức)
 

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm

Trả lời cử tri quận 4, TP.HCM, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm.
Chiều 25/4, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng tổ đại biểu số 1 đã có buổi tiếp xúc cử tri quận 4 (TP.HCM).
Đầu tư quốc phòng
Nhiều vấn đề đã được các cử tri nêu lên và đề nghị có biện pháp xử lý, trong đó “nóng” nhất vẫn là chủ quyền biển đảo, việc thực hiện lời hứa của các bộ trưởng, giám sát và phản biện xã hội…
Cử tri Thân Trọng Khoa cho rằng, vừa qua Trung Quốc có nhiều hành động xâm phạm chủ quyền hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam như điều tàu chiến đến, bắn vào cabin tàu cá của ngư dân, công bố bản đồ và quy hoạch phát triển hải dương...
“Nhưng chúng ta vẫn ôn hòa. Bộ Ngoại giao chỉ gửi công hàm phản đối những hành động khiêu khích của Trung Quốc, yêu cầu nước này thực hiện đúng công ước quốc tế về luật Biển, chứ không có những hành động mạnh hơn. Hiện nay, việc đầu tư cho kinh tế được nâng lên, nhưng liệu đầu tư cho quốc phòng của chúng ta có được như các nước châu Á hay không?”, cử tri Khoa hỏi.

chủ tịch nước, chủ quyền
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp xúc với cử tri quận 4, TP.HCM trước kỳ họp Quốc hội. Ảnh: Tá Lâm
Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Vinh Ngọc lý giải thêm, gần đây các vị lãnh đạo tiếp xúc ngư dân ở Lý Sơn (Quảng Ngãi) đã làm cho người dân tin tưởng về đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về chủ quyền biển đảo.
“Nhưng cần phải có biện pháp thiết thực hơn. Tôi đề nghị QH, Đảng và Nhà nước quan tâm hơn bằng cách nâng cao nhận thức của người dân trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, tăng cường quảng bá hình ảnh Hoàng Sa và Trường Sa”, ông Vinh nói.
Ông cũng đề nghị Nhà nước cần phát triển mạnh kinh tế biển, đặc biệt là tạo điều kiện cho ngư dân có nguồn vốn lớn để đóng những con tàu có công suất lớn ra biển đánh bắt cá xa bờ. Chính phủ cần tháo gỡ khó khăn về vốn, đồng thời có những chính sách hỗ trợ ngư dân khi gặp thiên tai… “Có như thế ngư dân mới yên tâm bám biển”, ông khẳng định.
Trả lời cử tri, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho biết, vấn đề chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm, đó là chuyện nhất quán, bất di bất dịch.
Theo Chủ tịch nước, khi có tranh chấp, Việt Nam luôn dùng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển Liên hợp quốc.
“Chúng ta và rất nhiều nước tôn trọng điều này, chúng ta mong muốn các nước có liên quan cũng tôn trọng và làm đúng điều này. Biện pháp hòa bình dựa vào luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển và những thỏa thuận liên quan đến giải pháp hòa bình trong các hội nghị quốc tế, điều này chúng ta đã và đang làm”, ông Trương Tấn Sang khẳng định.
Về câu hỏi xây dựng quốc phòng của cử tri Khoa, Chủ tịch nước cho biết, đường lối của Việt Nam là phát triển kinh tế và xây dựng quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hài hòa, song song với nhau.
Uốn nắn dần việc thực hiện lời hứa
Trong buổi tiếp xúc cử tri, nhiều đại biểu cũng đề nghị có chế tài để các vị bộ trưởng thực hiện lời hứa trước Quốc hội, chứ không phải hứa xong rồi để mặc đó.
Cử tri Nguyễn Đình Khiêm cho rằng, để thúc đẩy kinh tế - xã hội, các chủ trương của Nhà nước thì rất đúng nhưng việc nói và làm trong quá trình triển khai chưa thực hiện được. “Nói xong nhưng làm chưa được nhiều. Cụ thể, trong tái cơ cấu kinh tế, tiến độ rất chậm”, ông Khiêm nói.
Về vấn đề này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu: "Tôi đề nghị các đồng chí, trong hội trường này cũng có nhiều người là đảng viên, chú ý mỗi năm, đến cuối năm chúng ta có kiểm điểm ở các cấp, phải hết sức liên hệ những gì chúng ta đã hứa trước tập thể. Cái này phải uốn nắn dần. Phương pháp là thế. Chúng ta hứa với nhau rất nhiều ở trong hội nghị này. Tổng bí thư cũng hứa, chúng tôi cũng hứa, mọi người ở đây cũng hứa”, Chủ tịch nước nói.
Tá Lâm
(VNN)

TT Phillipines: ASEAN đúng hướng trong vấn đề Biển Đông

Tổng thống Phillipines Benigno Aquino III cho  rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang "đi đúng hướng" trong vấn đề Biển Đông.
Tổng thống Phillipines Benigno Aquino III rất hài lòng với kết quả hội đàm giữa các nước ASEAN về vấn đề Biển Đông.

Tổng thống Phillipines đã tuyên bố như trên, sau khi các nhà lãnh đạo ASEAN nhất trí về sự cần thiết tìm ra giải pháp hòa bình cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.

Ngày 24/4, trong bữa ăn tối do Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah tổ chức, vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đã được đưa ra thảo luận và rút ra kết luận về sự cần thiết phải duy trì "bình tĩnh" trong khu vực và "đối thoại tỉnh táo".

Tổng thống Aquino cho biết cuộc họp "diễn ra tốt đẹp", với việc Philippines có thể tuyên bố lập trường  của mình về việc đưa vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ra trước tòa án trọng tài quốc tế, theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982. Philippines cũng nhấn mạnh việc cần soạn thảo một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc trên Biển Đông.

Ông Aquino nhấn mạnh sự cần thiết của bộ quy tắc ứng xử, trong đó xác định "nghĩa vụ" và "quyền lợi" của các bên. Ông nói: “Xem ra, có một sự đồng thuận thực sự giữa các lãnh đạo (ASEAN) để cùng tiến tới xác định quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi nước trên Biển Đông. Tất cả mọi người đều lắng nghe và thảo luận về vấn đề, không một ai phản đối cả. Vì vậy, tôi nghĩ đó là một bước đi đúng hướng".

Ông Aquino còn nhận định có "sự thống nhất trong mục đích" giữa các nước ASEAN về việc các vụ tranh chấp nên được "xử lý" một cách hòa bình.

 "Mọi người đều quan tâm đến việc cần có một giải pháp hòa bình và cũng bày tỏ rằng mối quan tâm này đang ngày càng gia tăng. Chúng tôi cùng bàn bạc về các tranh chấp và nhấn mạnh vào cách giải quyết. Nói tóm lại là cần có một cách giải quyết hòa bình", ông Aquino nói.

Ông Aquino kết luận: "Vì vậy, chúng ta cần tỉnh táo và bình tĩnh, tiếp tục đối thoại theo đúng hướng mà chúng ta đang theo đuổi. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả các nước thành viên ASEAN đang tham dự vào chương trình nghị sự và cùng đưa ra cách giải quyết tích cực; đặc biệt là kể từ khi chúng tôi gặp nhau lần cuối để thảo ra Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC)".
  (Kiến thức)

Việt Nam tìm cách tái khởi động nền kinh tế

Nhưng những nhóm lợi ích ngoan cố chắc chắn sẽ cản đường
Các nhà đầu tư đã quá đau đớn để nhận ra rằng Việt Nam, từng có được lòng ưu ái của giới đầu tư toàn cầu khi tỉ lệ tăng trưởng của nó đạt đến 7,2% từ 1990 đến 2010, đã bắt đầu rơi vào tuyệt vọng.
Sống trong ngạo mạn suốt hai thập niên qua, chính quyền Cộng sản giờ đây đang cố gắng thoát khỏi hố sâu bằng cách nói rằng họ muốn cải cách lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh thiếu hiệu quả và mời gọi giới đầu tư ngoại quốc. Nhưng họ đã từng làm việc này trước đây với kết quả không đáng kể. Mặc dù tranh chấp nội bộ đang làm suy yếu cả phe thủ tướng lẫn chủ tịch nước, họ không thể được xem như là những nhà cách tân trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Trong khi các thị trường châu Á mới nổi lên đang hồi phục khỏi cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu nhanh hơn phương tây, sự phục hồi của Việt Nam tương đối chậm chạp và đau đớn, với tỉ lệ tăng trưởng trong năm 2012 ở mức 5%, thấp nhất trong 13 năm qua, thua xa cả Philippine vốn rất tồi tệ hiện ở mức 6,6% và Indonesia đang ở mức 6,2%.
Những khó khăn kinh tế được chỉ rõ trong một báo cáo mới đầy chi tiết của Học viện Nghiên cứu Kinh tế Samsung (Samsung Economic Research Institute - SERI). Nhưng bên cạnh báo cáo này, sự bất mãn và phản đối của công chúng đang tăng với những cuộc biểu tình xảy ra hầu như mỗi ngày với những mức độ khác nhau tại các văn phòng của Đảng và chính quyền ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thường là về vấn đề đất canh tác bị trưng thu với giá đền bù rẻ mạt.
“Sự trì trệ của kinh tế Việt Nam không phải là tạm thời, và vì những lý do về cơ cấu,” bản báo cáo SERI cho biết. “Nếu không cải cách toàn diện, tỉ lệ tăng trưởng chắc chắn sẽ không đạt lại được tầm mức trước đây. Dự đoán này chủ yếu dựa trên những tiên đoán rằng sự đóng góp từ lực lượng lao động và sự hình thành vốn, vốn là những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những năm 2000, sẽ suy giảm nghiêm trọng”.
Vào tháng Chín 2012, công ty Moody’s đã hạ điểm đánh giá tín dụng của Việt Nam. Thị trường chứng khoán vẫn ở mức 40% so với giá trị trước thời kỳ khủng hoảng trong khi cổ phiếu của Indonesia, Thái lan và Philippine đã tăng hơn 160% vào thời điểm cao nhất.

Vietnam's outraged farmers
Nông dân nổi giận
Sai lầm ở đâu?

Quốc gia này dường như đối diện với những khó khăn thường thấy của một nền kinh tế chỉ đạo, trong đó các lãnh đạo nhà nước cứng đầu không chịu từ bỏ nền kinh tế nhà nước đồ sộ và thiếu hiệu quả, ngay cả khi đối diện với bằng chứng hiển nhiên từ việc tái cơ cấu trong năm 1986 rằng cải cách chính là giảì pháp. Từ bỏ một cách dứt khoát quyền lực kinh tế có nghĩa là từ bỏ quyền lực chính trị và giới cán bộ tìm kiếm đặc lợi với mối quen biết rộng rãi.
Đảng Cộng sản bị bắt buộc phải đưa ra một lời xin lỗi đầy nhục nhã trước công chúng vào tháng Mười năm ngoái vì những sai lầm trong quản lý kinh tế. Giờ đây chính quyền nói rằng họ sẽ bán đi những tài sản từ các doanh nghiệp nhà nước mặc dù kế hoạch để thực thi việc này đã bị kềm hãm trong cả một thập niên. Họ cũng dự định chấp dứt việc đầu tư vào những kinh doanh không cốt lõi và bán tài sản của 600 tập đoàn mà họ là cổ đông duy nhất, và được biết là “cũng đang cân nhắc việc tăng cường vai trò của các công ty vốn nước ngoài trong nền kinh tế của mình”
Chính quyền cũng nói rằng họ sẽ tái tổ chức lĩnh vực nhà nước để chú trọng hơn vào quốc phòng, ”những độc quyền tự nhiên,” những hàng hoá công cốt lõi và các ngành chiến lược kỹ nghệ cao vốn có những ảnh hưởng dây chuyền. Điều này dường như có nghĩa là chính quyền sẽ đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế và dẫn đến những câu hỏi về sự cam kết của họ.
”Bất chấp toàn bộ những nỗ lực, vẫn có tiềm năng làm chậm nhịp độ cải cách vì những mâu thuẫn chính trị và tình trạng suy giảm của thị trường tài chính, bản báo cáo SERI cho biết. “Vì nhiều thành phần, bao gồm cả chính quyền trung ương, chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước đều dính líu đến hoạt động của các tập đoàn nhà nước, họ có thể thụ động trong việc bán tài sản và tái cơ cấu.
”Cũng có khả năng là động lượng cải cách sẽ mất đà vì những thay đổi chính trị. Quyền lực được chia xẻ giữa các nhà lãnh đạo đảng, chủ tịch nước và thủ tướng. Ba nhóm này đang đấu đá lẫn nhau, và thủ tướng đang bị quốc hội và đảng chỉ trích vì những chính sách kinh tế của ông.”
Sai lầm vẫn tiếp tục xảy ra. Khi chính quyền cắt giảm tín dụng vào năm 2011, các công ty nhà nước đã phải đối diện với khó khăn cụ thể, trong đó có Vinashin, công ty đóng tàu nhà nước đã vỡ nợ vào cuối năm 2010 vì sai lầm trong quản lý. Ở thời điểm đỉnh, Vinashin từng sở hữu hơn 400 công ty con và xuống còn 160 vào lúc vỡ nợ. Một số quan chức lãnh đạo công ty đã bị bắt và truy tố tội tham nhũng. Những doanh nghiệp nhà nước khác, với sản lượng thấp và tình trạng tài chính mong manh, đã thiệt hại nặng nề. Nợ trong lĩnh vực ngân hàng tăng mạnh, từ 2,1% vào cuối năm 2011 lên đến 8,8% vào tháng Chín 2012.
Căn cứ theo báo cáo của SERI, hàng loạt những khó khăn đang xuất hiện. Liên Hiệp Quốc dự tính rằng tỉ lệ tăng trưởng hàng năm của thành phần dân số tham gia vào nền kinh tế của Việt Nam sẽ tụt từ 2,6% trong giai đoạn 2005-2010 xuống còn 2,1% trong giai đoạn 2010-2015, và xuống đến 0,8% trong giai đoạn 2015-2020.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế nói rằng tỉ lệ giữa đầu tư quốc gia và GDP sẽ bị sút giảm từ 38,7% (2005-2009) xuống 34,4% (2010-2014). Dựa trên những dự đoán này, công ty McKinsey tiên đoán rằng ngay cả nếu tỉ lệ tăng trưởng trong thập niên qua vẫn sẽ tiếp tục tăng trong thập niên tới, nền kinh tế cũng chỉ tăng ở mức trung bình hàng năm là 4,5% -5,0%, thua xa chỉ tiêu 7% của chính quyền.
Bằng chứng cho thấy việc tái cơ cấu sẽ khó khăn như thế nào là, 27 năm qua kể từ khi nhà thiết kế kinh tế Nguyễn Xuân Oánh, một kinh tế gia được đào tạo tại Đại học Harvard, thuyết phục chính quyền phát động chính sách Đổi Mới, một chiến dịch tái cơ cấu vào năm 1986 nhắm vào nông nghiệp, giá cả, kinh tế, giải phóng thị trường và tỉ lệ hối đoái. Sau công cuộc cải cách của ông Oánh, nhịp độ tái tổ chức đã dừng lại, với việc giới lãnh đạo chính quyền không muốn từ bỏ vai trò của nhà nước.
Kể từ năm 2005, chính quyền đã thiết lập những ”tập đoàn kinh tế nhà nước” và sát nhập toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước (các tập đoàn kinh tế nhà nước là công ty mẹ, sở hữu những cơ phận điều khiển của các công ty con). Trong cùng lúc, chính quyền tiếp tục quá trình tư nhân hoá, cắt giảm con số các doanh nghiệp nhà nước xuống còn 3.300 công ty vào năm 2009, và giảm thiểu cổ phần của mình trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp từ 34% vào năm 2000 xuống còn 17% vào năm 2010.
Dù thế, báo cáo SERI cũng cho thấy rằng trong giai đoạn 2009-2010, các công ty nhà nước lại chiếm đến 99% trong lĩnh vực phân bón, 97% trong ngành than và 94% thị trường khí đốt.
Các doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm đến 41% thị trường bia, 37% đường và 21% vải sợi.
Vào cuối những năm 2000, chính quyền đã mở rộng đầu tư qua ngã các tập đoàn nhà nước trong nỗ lực nhằm hồi sinh nền kinh tế. Trước đó, đầu tư trong lĩnh vực nhà nước đã giảm từ 59,8% trong năm 2001 xuống còn 33,9% vào năm 2008.
Tuy nhiên đến năm 2011, đầu tư quốc doanh đã quay lại ở mức 38,9% qua việc chính quyền tăng cường chi tiêu sau cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu, bản báo cáo SERI cho thấy. ”Hơn nữa, với thị trường chứng khoán đang suy thoái, việc ‘cổ phần hoá’ các tập đoàn nhà nước đã bị đình chỉ.”
Với nguồn vốn dồi dào từ các ngân hàng nhà nước, các công ty quốc doanh đã khuếch trương vào những lĩnh vực không thuộc ngành kinh doanh cốt lõi của mình. Các doanh nghiệp nhà nước nhúng tay vào ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và địa ốc, những lĩnh vực đã tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn bong bóng tài chính. Những hoạt động trục lợi của quan chức cũng tăng lên.
Thị trường tài chính ổn định lại sau khi chính quyền thông báo đưa ra gói kích cầu và kế hoạch tái cơ cấu trong lĩnh vực tài chính. Ngân hàng trung ương đã cắt lãi suất bảy lần từ tháng Ba 2013 đến tháng Ba 2013, với tổng cộng là 7%. Vào tháng Ba 2013, chính quyền đã thông qua gói kích cầu trị giá 1,3 tỉ Mỹ kim. Khi giới đầu tư tỏ vẻ hưởng ứng kế hoạch cải cách của nhà nước, thị trường chứng khoán đã tăng trong quí đầu của năm (đến ngày 22 tháng Ba, thị trường chứng khoán đã tăng 17,1% so với đầu năm.) Lĩnh vực ngân hàng cũng ổn định khi tỉ lệ nợ xấu giảm từ 8,8% trong tháng Chín 2012 xuống 6% vào tháng Hai 2013. Nhờ kế hoạch của chính quyền, Ngân hàng Thế giới đã quyết định tài trợ quốc gia này 250 triệu Mỹ kim qua Chương trình Tín dụng Hỗ trợ Quản lý Kinh tế vào tháng Ba 2013.
Diên Vỹ/Dân Luận chuyển ngữ

Ông Nguyễn Bá Thanh: "bắt nhốt hết, nhưng chỉ ở Đà nẵng thôi"

"Có bức xúc gì, bà con cứ điện cho tui!" - ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, khẳng định như vậy với tư cách Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Đà Nẵng trong buổi tiếp xúc cử tri TP này ngày 25/4.
"Bắt nhốt hết!
Ông Thanh cho biết đây là buổi tiếp xúc cuối cùng của ông với tư cách trưởng đoàn đại biểu Quốc hội (QH) Đà Nẵng. Nhiệm vụ này sẽ được trao lại cho Phó Trưởng đoàn Đại biểu QH Đà Nẵng Huỳnh Nghĩa.
Tại buổi tiếp xúc, ông Thanh đã chia sẻ cùng cử tri Đà Nẵng về nhiệm vụ mới, đồng thời tin tưởng vào lãnh đạo mới của Đà Nẵng: “Tui đi, Đà Nẵng như mất một “tiền đạo” nhưng tui tin cán bộ sẽ làm được việc, công việc vẫn xong. Các công trình trọng điểm: Cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cáp treo thứ 3 Bà Nà… được khánh thành đúng tiến độ đó thôi”.

Ông Thanh dặn dò cử tri: “Bà con thấy gì thiệt bức xúc cứ điện thoại cho tui
Ông Thanh dặn dò cử tri: “Bà con thấy gì thiệt bức xúc cứ điện thoại cho tui"..
Ông Thanh cũng dặn dò cử tri: “Bà con thấy gì thiệt bức xúc cứ điện thoại cho tui. Mọi người thấy tui đi, cho rằng tui không theo dõi, giám sát ở đây là nhầm”.
Ông Thanh cho biết vừa “xử” một cán bộ Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng đặt hàng làm sổ theo dõi khám - chữa bệnh không đảm bảo chất lượng, giấy mỏng nhưng lại có giá hơn 2.000 đồng/sổ, trong khi thực chất chỉ 800-900 đồng/sổ. “Xây bệnh viện là để từ thiện, nhũng nhiễu ở đây là ác lắm, có lỗi với dân” - ông Thanh bức xúc.
Ông Thanh cũng chỉ đạo ngành chức năng kiểm tra, xác minh, kịp thời bố trí cho những những hộ thực sự bức xúc về nhà ở. Riêng vấn nạn "cò" chung cư, cán bộ nhũng nhiễu, bắt chung chi, ông Thanh đề nghị ngành công an phải quyết liệt xử lý triệt để, "bắt nhốt hết".
Bức xúc vì cán bộ công chức ăn cắp giờ công
Cũng trong buổi tiếp xúc, hàng trăm cử tri Đà Nẵng bày tỏ lo ngại về công tác cải cách tại một số bộ, ngành hiện nay còn nhiều bất cập khiến người dân lo lắng. Chẳng hạn, Bộ GD-ĐT càng cải cách lại càng rối rắm, chất lượng lại giảm chưa thấy tăng. Bộ LĐ-TB-XH thì vẫn loay hoay mãi với câu chuyện tăng lương, còn Bộ Y tế vẫn chưa thoát khỏi câu chuyện về y đức và tiền bạc. Trong khi đó, việc tinh giảm biên chế trong bộ máy công chức cũng đã nói lâu nhưng vẫn chưa thấy thực sự tinh giảm.
Cử tri Nguyễn Thanh (quận Hải Châu) tỏ ra lo lắng đối với việc tăng lương, bởi khi tăng lương cơ bản, những người có hệ số lương thấp thì lại càng thấp, những người có hệ số lượng cao lại càng cao nên ngày càng tạo ra khoảng cách giàu nghèo ngay trong những cán bộ công chức. Vì vậy, các cử tri đề nghị QH nên xem xét lại và phân loại mức lương để tăng nhằm tạo công bằng trong cán bộ và người lao động.
Nhiều cử tri bức xúc phản ản hiện nay, tình trạng cán bộ công chức ăn cắp giờ công, bỏ bê công việc để cà phê, đi chợ diễn ra đầy rẫy. Vì thế, phải nghiêm trị những trường hợp vi phạm này thì người dân mới thấy hài lòng.
(Người Lao Động)
 

Thảm hoạ Chernobyl: 27 năm vẫn bàng hoàng

Cả đống mặt nạ chống độc nằm la liệt trên sàn cửa hàng, chiếc ô tô đồ chơi hoen gỉ nằm bất động, một nửa mảnh giấy dán tường rơi xuống sàn căn nhà hoang…

Những hình ảnh đầy ám ảnh tại Chernobyl cho thấy cuộc sống vẫn chưa hồi sinh tại Chernobyl và thành phố Pripyat 27 năm sau thảm họa thử nghiệm lò phản ứng hạt nhân thất bại.
La liệt mặt nạ chống độc trong một cửa hàng ở TP. Prypyat, nơi sinh sống của 50.000 dân ở nơi gần biên giới Ukraina
Thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử loài người khiến chính phủ Ukraina phải sơ tán 350.000 dân, lập vùng cấm vào đến tận ngày nay.
Người dân bị cấm vào khu vực rộng hơn 1000 dặm vuông quanh nhà máy hạt nhân để tránh bị tác động bởi phóng xạ còn sót lại. Một số người dân từ chối rời đi, và vài người già muốn quay trở về để gần mồ mả tổ tiên, nhưng cả khu vực rộng lớn này gần như vẫn chưa có ai sinh sống, nên giờ hầu như chỉ toàn cây cối.
Khách du lịch có thể tới thăm trong ngày, và các công nhân làm nhiệm vụ xây mộ chỉ được phép tới làm việc vài giờ mỗi tháng. Các nhà khoa học cho biết khu vực này chỉ đủ an toàn để sinh sống sau 20.000 năm nữa.
Đầu tháng 4, nhiếp ảnh gia Hélène Veilleux được phép vào đây, và trong suốt 4 ngày chị liên tục ghi lại hình ảnh hoang tàn nơi hàng trăm nghìn gia đình từng sinh sống.

 - 2
Nơi từng giòn giã tiếng cười trẻ thơ giờ cũng đứng im bất động
 - 3
Hàng trăm ngàn người phải sơ tán, để lại hàng loạt nhà hoang
 - 4
Bể bơi công cộng giờ cũng đã cạn khô
 - 5
Ngày mai là tròn 27 năm xảy ra thảm họa hạt nhân Chernobyl
 - 6
Hai chiếc xe tăng được sơn sặc sỡ chĩa nòng vào nhau và đứng im
 - 7
Tòa nhà công cộng giờ tan nát
 - 8
Những đứa trẻ phải sơ tán khỏi Chernobyl giờ đã thành người lớn
 - 9
Hộp bóng điện rơi lủng lẳng trong nhà hoang
 - 10
Khi con người bị buộc phải sơ tán thì thiên nhiên đã bắt đầu lấy lại sức sống, và những cuộc đấu tranh sinh tồn tiếp tục diễn ra (trong ảnh là phần còn lại của một con nai đã bị loài thú dữ nào đó ăn thịt) 
 - 11
Phòng cộng đồng trong trường học tan nát vì thiếu con người
 - 12
Nhà công cộng hay nhà riêng đều đã hỏng phần nhiều
 - 13
Cây trồi lên bật tung gạch nền ở nơi đang bị thiên nhiên lấn át
 - 14
Vụ nổ lò hạt nhân giải phóng lượng phóng xạ lớn vào không khí
 - 15
Thảm họa bắt đầu từ lò phản ứng số 4 trong lúc thử nghiệm hệ thống, dẫn đến hàng loạt vụ nổ hơi nước và hỏa hoạn, giải phóng lượng phóng xạ lớn ảnh hưởng tới cả khu vực châu Âu
Nguồn: Quỳnh Chi/Khampha

Thái Bình: Dân “tố” bị cảnh sát cơ động đánh dùi cui vào mặt

Sáng 25.4, anh Phan Văn Miền (SN 1987, trú tại xóm 2 xã Vũ Lễ, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) vẫn đang phải nằm điều trị tại khoa Răng-Hàm-Mặt (BV Đa khoa tỉnh Thái Bình).
Theo chẩn đoán của các bác sĩỹ, anh bị gãy xương gò má bên trái (xấp xỉ 6cm) và bị một vết thương xuyên thấu môi trên (6cm).

Dân “tố” bị cảnh sát cơ động đánh dùi cui vào mặt
Anh Phan Văn Miền khi được đưa đi cấp cứu vào tối 23.4 (ảnh do người nhà nạn nhân cung cấp).
Theo đơn tố cáo của gia đình anh Miền, khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23.4, anh Miền đi xe môtô không đội mũ bảo hiểm, chở sau là anh Phan Thanh Thanh (SN 1992; trú xóm 2 xã Vũ Lễ) đi từ hướng thành phố về xã Vũ Lạc (TP. Thái Bình). Khi đến ngã ba cầu Kìm rẽ Vũ Lạc, hai anh đã vượt đèn đỏ nên bị một tổ cảnh sát cơ động chặn đường yêu cầu dừng xe, nhưng hai anh không dừng mà quay đầu bỏ chạy theo hướng TP. Thái Bình - thị trấn Kiến Xương. “...đến trạm dừng xe bus Hoàng Hà, cháu Miền bị tổ cảnh sát cơ động (gồm 3 người ) dùng dùi cui quật liên tiếp vào mặt làm cháu bị gãy xương má, môi rách làm đôi, hàm răng cửa trên và dưới bị lung lay hoàn toàn...”- đơn tố cáo viết.
Anh Miền kể lại: “Nghe thấy bụp một cái, tôi tiếp tục đi một đoạn khoảng 500m nữa thì thấy mình bị chảy nhiều máu, tôi quay ngược xe lại để đi trở lại chỗ anh họ ở”. Anh họ của Miền tên là Phan Quang Trung, ở ngay sát cầu Kìm. 
Anh Trung cho biết: Khi nghe Miền nói mình bị cảnh sát cơ động đánh, anh liền ra chỗ cảnh sát cơ động hỏi ai đánh Miền, nhưng không ai nhận. Sau đó, anh Miền cũng chạy ra, nói bị cảnh sát cơ động đánh, nhưng cũng không ai nhận.
Đến khoảng 20 giờ 30 ngày 23.4, anh Miền nhập Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình.
Anh Phan Thanh Thanh trao đổi với phóng viên.
Anh Phan Thanh Thanh thì kể lại: “Khi Miền quay xe, tôi nhảy xuống rồi chạy bộ theo xe máy, nhìn tận mắt thấy có 4 cảnh sát cơ động- 1 người ở mép đường, 3 người đứng ra ngoài- đều vụt dùi cui. Sau khi bị vụt, xe máy loạng choạng nhưng Miền vẫn cố đi, khoảng 3 phút sau thì quay lại. Tôi chạy theo xe thì thấy mặt Miền đầy máu”.

Chiều ngày 24.4, trao đổi với phóng viên, thượng tá Nguyễn Văn Chở- Phó phòng Cảnh sát cơ động và bảo vệ- PC65 (CA tỉnh Thái Bình)- cho biết: “Sự việc cụ thể như thế nào, chúng tôi đang làm rõ”. Ông cho biết đã trao đổi với tổ công tác tối hôm đó và đã nghe anh em báo cáo lại vụ việc. “Anh này (tức Miền) có chạy qua, xông thẳng vào giữa 2 đồng chí khiến cả hai phải té ra hai bên”- ông Chở nói.

Khi được hỏi có việc dùng dùi cui đánh anh Miền không, ông Chở cho biết: “Chưa rõ cụ thể vì xảy ra rất nhanh”.

Đội phó Đội cảnh sát cơ động - ông Nguyễn Văn Hớn - cho biết: “Chúng tôi đang xác minh xem có đánh hay không đánh, hay là vì ngã ở đâu... Các anh cũng thông cảm là trong quá trình anh em làm nhiệm vụ, có thể người tốt cũng rất nhiều, người xấu cũng không ít, cho nên có thể ở đâu đánh nhau hoặc là trong quá trình uống rượu say, nhớ không rõ, bị ngã ở đâu, rồi bị người ta kích động rồi cứ đổ cho CA, rồi làm ầm lên, ví dụ thế chẳng hạn”.

Ông Chở cho biết: “Sự việc cụ thể như thế nào, hiện chúng tôi đang xác minh làm rõ, khi nào có kết quả chúng tôi sẽ cung cấp thông tin tới các anh”.
(Lao động)