Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

Lệnh cấm điên rồ của Việt Nam không cho chia sẻ thông tin trực tuyến & Đạo Hồ và những nhà ngoại cảm Việt Nam

Đạo Hồ và những nhà ngoại cảm Việt Nam

A- Đạo Hồ 

Đạo Hồ (hay Đạo Bác Hồ) dường như có khái niệm từ năm 2005, tồn tại và tìm cách phát triển hơn sau những phản ứng “đưa cao đánh khẻ” của giới chức cầm quyền địa phương, do bà Nguyễn Thị Điền - sau lầu bạo bệnh thập tử nhất sinh - chủ xướng tại thôn Bài Lâm Hạ, xã Hồng Quang, Huyện Ứng Hòa, Hà Nội với ngôi nhà 3 tầng mới, sang trọng được gọi là Điện Hoàng Thiên Long.

Hiện nay “bộ sách Kinh Thiên và kho sách Văn Thiên do Thiên Linh ứng giáng đến nay đã có 50 tập Văn Thiên và còn tiếp nữa vì linh giáng ‘Biển Đông hết nước thì Trời mới hết linh, Trời hết linh thì đầu Điền mới hết chữ.’ ” [theo như nguyên văn: sic] vì đó, theo như bà Điền, là “kho báu Thiên Trao Ngọc Hạp,” là “kho lưu trữ Văn Lang,” và là “kho dược Nam cứu thế” được linh ứng viết ra từ “Thượng Đế Hồ Chí Minh,” kiêm “Đức Hồ Ngọc Phật.”
(“Thầy” Điền, vị giáo chủ, đang thuyết giảng về “Đức Ngọc Đế 
Hồ Chí Minh,” hay “Đức Hồ Ngọc Phật” nơi điện thờ phụ ở nhà mình)
1- Công trình Hoàng Thiên Long:
Hoàng Thiên Long là uy xưng của Đạo Hồ, cũng là “trung ương” lãnh đạo theo chủ trương “hướng đi cách mạng” của bổn giáo như trong đoạn thơ nơi phần giới thiệu:
“Ai đi chiến dịch tâm linh
Dép cao su áo vải -
Hồ Chí Minh theo Ngài
Hồ Chí Minh -
Là vừng sao thiên tử thiên tài
Tâm linh cách mang
Thiên khai mở lời.” [sic với màu đỏ sậm được thêm vào]
Nó bao gồm 3 địa điểm khác nhau, với 3 căn nhà cao tầng mới mẻ cho 3 lầu-điện-thờ:
- Lầu-điện-thờ 1: tại thôn Bài Lâm Hạ, xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa, thủ đô Hà Nội, nơi ngụ của giáo chủ Điền, được gọi là Hoàng Thiên Long: “Tòa Thiên” với điện thờ chính gồm 7 tầng.

 (Bên ngoài Hoàng Thiên Long: “Tòa Thiên”)

(Bên trong là cung thờ 7-tầng “Tòa Thiên” với bức tượng đứng “Ngọc Phật Hồ”)
- Lầu-điện-thờ 2: tại xóm Bái Rồng, xã Thượng Tiến, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, được gọi là Đại Sơn Lâm: “Tòa Âm” với điện thờ chính gồm 3 tầng.
 (Bên ngoài Đại Sơn Lâm: “Tòa Âm”)

(Bên trong là cung thờ 3-tầng “Tòa Âm” cũng với bức tượng đứng “Ngọc Phật Hồ”)
- Lầu-điện-thờ 3: tại thôn Phú Dư, xã Hồng Quang, huyện Ứng hòa, thủ đô Hà Nội, được gọi là Đại Phúc Phúc: “Tòa Nhân Thiện” với điện thờ chính gồm 3 tầng.
 (Bên ngoài Đại Phúc Phúc: “Tòa Nhân Thiện”)

(Cung thờ 3-tầng “Tòa Nhân Thiện” với bức tượng bán thân “Ngọc Phật Hồ”)

2- “Cương lĩnh Cách mạng” của Đạo Hồ:
Trong mục đích “hướng đi cách mạng” quốc giáo cho toàn thể “nhân dân” Việt Nam thuộc phần tử đảng viên hay không đảng viên, đàn ông hay không phải đàn ông, đàn bà hay không phải đàn bà, đến thanh niên thanh nữ, hay thanh niên-nữ hoặc thanh nữ-niên, lẫn thiếu nhi, ấu nhi, và... trùng nhi (mới được thụ thai), bắt đầu từ nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc” và hy vọng sẽ lan xa khắp năm châu bốn biển vạn vạn sông... bé nơi những cộng động người Việt tha hương trốn chạy, cầu thực lao động, và mang tâm linh “bơ vơ, thất thỉu, tàn tạ” --không khác gì ma đói-- nên Đạo Hồ ra đời với “cương lĩnh cách mạng” như sau:
Cách mạng quốc gia âm mở lời là trời khai địa, vậy nói đến âm là nói đến sắc linh, mà sắc linh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là ví tựa như cả thiên đình tổng thể ví cả như năm châu bốn bể. 

Tụng kinh là để mục đích thu phục tất các linh hồn quy về một hướng, để giải nghiệp án chướng. Mà các kiếp trước vẫn bám theo. Nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo và xóa gieo neo vận hạn, xóa đi bao tai nạn của hòn đạn mũi tên. Đưa cuộc sống vững và bền, đó là nền tảng của tương lai.

Muốn có được điều đó đều phải do phép Ngài mở đề tài rồi mới sáng.” [sic]
Và sự “kiên định” được đặt trên nền tảng... lún dẹp dưới sức nặng thiên cân của “Tư tưởng Hồ Chí Minh” trong mọi mặt mà trong đó cho thấy rằng:
-- không chấp nhận bất kỳ lối tín ngưỡng nào mang hình thức ngoại lai như Phật giáo (thờ cúng Đức Phật Thích Ca của Ấn Độ, mang hình thức Trung Hoa, viết tiếng Tàu, tiếng Nôm --tít quắn khó hiểu) hay Công giáo (thờ Chúa Giê-Su Do Thái, mang hình thức Tây phương, nhiều danh từ tây-u --đọc méo miệng, hết cả hơi).
-- không tán đồng việc ăn chay vì thân xát con người là thể chất (vã lại Bác Hồ cũng ăn mặn như đại đa số nhân dân Việt Nam và nhất là trong văn hóa ẩm thực Việt Nam mà đặc biệt là miền Bắc, Trung không thể thiếu món “thịt chó” mà Bác Hồ cũng khoái khẩu mặc dù trong bài viết trên trang tuoitrẻ về “Giáo sư Mỹ xin lỗi về bài viết sai sót về Việt Nam” khi ông Giáo sư Joel Brinkley của trường Đại học Standford, Hoa Kỳ “dám” phê phán về cái văn hóa ẩm thực đó đến nổi ông ta đã thốt lên một cách mĩa mai và khéo léo rằng: “Tôi sẽ viết rằng người Việt Nam cường tráng hơn người dân các quốc gia láng giềng vốn chỉ ăn cơm chứ không có nhiều thứ khác trong khẩu phần của họ.”)
(Đây là cảnh bán thịt chó dọc một con đường nào đó ở miền Bắc Việt Nam,
tuy thế dân Việt Nam vẫn bất bình dữ dội và không nhìn nhận 

là “món ăn khoái khẩu” trong khi tiệm quán thịt chó tràn lan từ Bắc chí Nam sau 1975)
Và với chủ trương là:
“Con đường Tu gia theo tâm linh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã minh chứng “chữa bệnh không dùng thuốc, cứu quốc không dùng gươm” theo linh giáng.” [sic] 
Tất cả nạn nghiệp, bệnh tật, thậm chí bệnh ung thư, hay bất cứ bệnh nào mà bệnh viện chê, đều có thể trị được “chỉ bằng 3 chén nước trắng (nước đã đun sôi, không dùng nước lã)” [sic] mà qua đó vì nhờ “hàng ngày kính dâng trước ban thờ rồi nguyện, niệm kinh tại gia là đã được yểm sắc tố của Thiên Linh, linh hồn các liệt sĩ đã tán luyện thành thuốc dược để chữa bệnh, cứu mệnh.” [sic]
3- Cách thờ tự: 
Đạo Hồ cho rằng cách thờ tự cần phải thay đổi hết (theo đúng theo tôn chỉ là “hướng đi cách mạnh”), phải đúng y theo cách gọi là “Bàn thờ người Đại Việt” gồm có như sau:
a- ảnh hoặc tượng Bác Hồ.
b- cờ đảng (hình búa liềm) và cờ tổ quốc (nền đỏ sao vàng).
c- một lư hương duy nhất
“chúng ta đã hướng theo Hoàng Thiên Long đều phải nghiêm trang thờ cờ Tổ Quốc, ảnh Bác Hồ và tôn thờ đường lối của đảng Cộng Sản Việt Nam. Phải thờ chính ngôi chính giữa vậy đã là chính tâm - chính giác - chính nghĩa và cũng là chính đường thì còn gì phải băn khoăn lo lắng.” [sic]
Và vì “Bác dạy muôn dân Việt Nam: 
‘Việt Nam sách sử sử Thiên ta
Có gốc tại sao lại theo tà
Bỏ gốc Tổ Tiên bỏ đạo nhà
Đạo nhà không kính kính người ta’” [sic]
Có nghĩa là “nhân dân” Việt Nam chỉ nên thờ Bác Hồ, “Thượng Đế Hồ Chí Minh” kiêm “Đức Ngọc Phật Hồ” thì cần gì phải thờ người ngoại quốc nào (có thể hiểu là ngay cả Thiên tử Mao Chủ tịch, hay 3 ông già râu xồm xàm (Marx--Lenin--Angels)).
(Bàn thờ Người Đại Việt tiêu biểu trong mỗi gia đình)
4_ Kinh thơ:
Giáo chủ Điền là người được cho là viết kinh thơ theo linh ứng mà Bác Hồ truyền xuống qua tâm linh, nên gần như mỗi lời nói hay viết ra phần lớn cũng mang “âm” hưởng kinh thơ. Một dòng thơ dường như không bao giờ cạn - theo như “Thầy Điền” cho biết. Đôi khi là loại thơ lục bát, thí dụ:
Thờ Bác - Quỷ quái tự lui
Thấy cờ Tổ quốc - Quỷ lùi vùi sâu
....
Đến ngày luật pháp đổi thay
Phải là ăn mặn - Tâm chay thật lòng [sic]
Hoặc loại lục bát... xà bần (chiêm vào những câu 9-, 10-, hoặc 11-chữ hay những câu 4-, 5-chữ): 

Thuốc thần bổ hạ cử phân
Mang đi thiên hạ cứu dân đồng bào.
Không vì thành tích phong trào
Không thiếu trách nhiệm - ào ào thu quân.
....

Nay mai ta báo rất gần
Có nước giếng Thần - Cần cấp cho ngay
Cho nên bệnh trọng -
Bệnh viện trả về - Ta lại cứu nguy.
Ta cứu thì buộc - Dân phải quy,
Chứ đã mang bệnh - Còn tùy đợi ai? [sic]
Hoặc là loại thơ... không thuộc thể nào ngoại trừ một cước vận liên tục từng câu không cần số chữ:
Chém cha loài quỷ - Sống cạn nông.
Chữ hám chữ ham bỏ tổ tông
Cho nên cuối cuộc - Bị mất công
Đánh vậy biết sao? Lộn cầu vồng.
Hóa ra sinh mệnh lốt tiểu đồng
Vì thế cho nên lột tồng ngồng.
Bé tý tì teo - Thích thổi phồng
....

Quá lửa mỡ khô – Cá hóa sành
Vậy ai đoán được thì nhanh nhanh
Lên dốc gió to đừng bóp phanh
Dốc thẳm vực sâu – chớ có nghoành
Tin không? Thời tiết xuống đành hoành
Hoặc là loại thơ “sớ tấu quân” như:
Tâm vui – nhất độ
Xin yên phần mộ 
Thượng lộ – nhân quyền 
Nay phép bí huyền 
Lời tuyên... thay pháp
Thiên Long ngọn tháp 
Ấm áp tình người 
Cúc nở – sen cười 
Linh mười – pháp nguyện 
Hoặc loại thơ 5 chữ với cước vận liên tục:
Đúng không giờ điểm chốt
Sắc hạ cốt độ bền - Vững móng địa rộng nền
Gọi tận tên càng rõ - Điền chỉ là thằng mõ
Triển vệ võ thuật cao - 0 giờ đã bàn giao
Nén nhận trao sắc yểm [sic]
Nói chung, kinh thơ hầu như là thể thơ... xà bần, nghĩ sao viết vậy, “cảm linh” hứng sao thì vậy. Không hẵn là loại thơ tự do hay thơ văn xuôi. Có thể xem là loại thơ theo kiểu... “cách mạng” mà chỉ có những người “có tầm, có tâm” cách mạng, trong tư tưởng tuyệt đối “vô sản” mới có thể “cảm ứng” thành thơ được. Tuy nhiên, nhờ có Bác và Đảng, giáo chủ Điền và những thành viên đắc lực trở thành “hữu sản” đồ sộ nhưng vẫn không bao giờ thiếu cái “cái tầm, cái tâm vô sản.”
(Một cảnh trong buổi đọc kinh của Đạo Hồ 
trong ngày đúc tượng “Thượng Đế Hồ Chí Minh”)
5- Câu lạc bộ thơ Vân Sơn:
Là một hoạt động song song sau nầy với Đạo Hồ, nó cũng bao gồm số thành viên của Đạo Hồ, nhưng mang tính chất thơ văn đơn thuần hơn nhằm mục đích ca tụng Bác Hồ như là một thứ gia vị thêm cho Đạo Hồ. Cũng thế, nó bao gồm những đảng viên tại chức và về hưu.

B- Những nhà Ngoại cảm Việt Nam:

Khi nói đến vấn đề tâm linh mà không nhắc đến “phong trào” những nhà ngoại cảm Việt Nam -những người được nhà cầm quyền cấp giấy chứng nhận chính thức để hoạt động nhưng không qua một thử nghiệm đơn giản nào về khả năng huyền bí - Đó là những người chuyên mỗi việc là tìm xương cốt của những liệt sĩ, nhưng phải chỉ là những cán binh Cộng sản Việt Nam ngoài ra bất kỳ những ai không được mang danh hiệu đó đều xem như không thuộc công việc của họ. 
Phong trào nầy dường như nở rộ khi chương trình tìm người mất tích trong nhiệm vụ của Hoa Kỳ được cho phép hoạt động ở Việt Nam qua trao đổi bằng sự viện trợ tài chánh cho nhà cầm quyền Việt Nam trong những hoạt động tìm xương cốt liệt sĩ. Sau bao nhiêu năm hoạt động, những người Mỹ đành phải bó tay, nhưng chỉ riêng Việt Nam đạt được những kết quả khiến người Mỹ cảm thấy “hỗ thẹn” vì nhờ những nhà ngoại cảm Việt Nam nhiều đến nổi một Đại đức Thích Nhật Từ trong đoạn utube “Ngoại cảm và Siêu độ -- Thế giới Tâm Linh” đã hãnh diện nói rằng: “Việt Nam là một nước có con số những nhà ngoại cảm nhiều nhất thế giới trong lịch sử nhân loại.”
Những nhà ngoại cảm Việt Nam hầu hết bắt đầu từ những cuộc tiếp xúc trong mơ với bóng vía nào đó của thế giới bên kia --theo như họ kể lại-- sau một giai đoạn thập tử nhất sinh hay hoàn cảnh đặc biệt nào đó đã xảy ra riêng cho mỗi người họ do đó họ bỗng dưng có khả năng khác người (như trường hợp của giáo chủ Điền, Đạo Hồ). Trong sự hạn hẹp bài viết nên chỉ có thể đưa ra vài thí dụ nhỏ của một vài nhà ngoại cảm Việt Nam. Trước hết là qua bài viết trên trang laodong.com.vn “Cuộc đời lạ lùng của nhà ngoại cảm - doanh nhân* Lê Trung Tuấn” vào ngày 07/09/2013 cho biết khái quát như sau:
“Trước kia, Lê Trung Tuấn (TT Hòa Mạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) vốn là một nỗi kinh hoàng và khiếp sợ của nhiều người dân trong vùng khi được gắn mác là con nghiện ma túy hạng nặng, ăn cắp ăn trộm rồi cướp của, đánh người không ghê tay.” [sic]
============
* Xin đừng hiểu lầm hai chữ “doanh nhân” trong bài trên, “doanh nhân” ở đây không phải là người có cơ sở buôn bán, sản xuất lớn, mà Lê Trung Tuấn chỉ là người làm ăn nhỏ theo kiểu những bạn hàng mua trái cây, cá, v.v. từ xa rồi về bán lại. Vì nếu cứ dùng chữ “doanh nhân” áp dụng cho những kiểu buôn bán đó thì dường như quá lạm dụng và tất cả những bạn hàng ngoài chợ nên được gọi là “doanh nhân.” Hoặc những người bán hàng vặt đầu hẽm hay lang thang mua bán đây đó, hoặc những người mua bán chạy ở những khu “chợ trời” cũng là “doanh nhân” (?)
=============
Những thành công của nhà ngoại cảm Lê Trung Tuấn được chính ông ta xác nhận như sau trong bài viết trên vn.news.yahoo.com “Doanh nhân thành đạt trở thành nhà ngoại cảm” vào ngày 15/09/2013 như sau:
“Để chắc chắn những phần hài cốt liệt sỹ tìm được, tôi đều mang đi xét nghiệm ADN. Cầm những kết quả trên tay, tôi xúc động xen lẫn kinh ngạc, vì những lời mách bảo, dẫn dắt của các liệt sỹ cho tôi đều đúng với kết quả giám định ADN. Tôi đã quyết định gác lại công việc kinh doanh của mình cho chị gái quản lý để tập trung vào công việc tìm liệt sỹ. Trong vòng hơn một năm, rất nhiều kết quả xét nghiệm ADN và 2.000 liệt sỹ đã về với quê hương…”
Nhưng tiếp theo sau đó là bài viết của Lê Hương Lan trên trang nhà của mình “Tiết lộ mới: “Danh sách đen” có tên nhà ngoại cảm Lê Trung Quân” cho biết như sau: 
“Thế nhưng, trong cuộc trao đổi với chúng tôi, anh Lê Trung Tuấn phủ nhận những thông tin trên. Anh lớn tiếng khẳng định muốn kiện Th.s thôi miên Nguyễn Mạnh Quân; khẳng định nhà báo viết bài "bố láo"; khẳng định muốn..."vả vào mồm" Thượng tá Nguyễn Lê Cát- Viện Pháp y Quân đội.” [sic]
(Nhà ngoại cảm “kỳ... tài” Việt Nam, Lê Trung Tuấn)
Và cũng trên trang đó, có một đọc giả cho biết thêm tin tức như sau:
“...

Mamamia Qsc Và ngay phía dưới người ta thống kê tạm tính số tiền Trung tâm nhà anh thu được đấy thôi anh:

Tôi chẳng cần phân tích đúng sai, chỉ cần một phép tính nhỏ là thấy các Trung tâm ngoại cảm thu được một lượng tiền như thế nào qua việc tìm Hài cốt Liệt sĩ: Ví dụ trung tâm "cậu Tuấn" Năm 2010 tìm được 1.000 bộ hài cốt liệt sĩ (theo báo và đã được bộ LĐTBXH tặng bằng khen)

- Tiền thuê xe: lấy tiền thuê của gia đình tôi: 22 triệu đồng không kể tiền xăng từ ND-BT-ND, trừ khấu hao xe, lãi suất ngân hàng khi mua xe, tiền công lái xe. Ít nhất lãi 12 triệu đ/1 bộ HCLS. Năm 2010 thu lãi từ tiền thuê xe là 12 triệu đồng (12 triệu đ x 1.000 bộ HCLS)

- Tiền lễ, tiền cảm ơn: Bình quân 1 triệu đ/1 bộ HCLS thu về 1 tỷ đồng (1 triệu x 1.000 1 bộ HCLS)

- Tiền lãi từ việc bán vàng mã, quần áo giấy: Bình quân chi 2 triệu đ (Gia đình tôi chi 6 triệu đồng) lãi 50% Trung tâm thu lãi 1 tỷ đồng

Tổng cộng, năm 2010 trung tâm lãi dòng khoảng 14 tỷ đồng sau khi trừ các khoản chi phi.

...” [sic, chỉ sửa những con số thành chữ cho dễ đọc]
Trong một utube “Nhà ngoại cảm Việt Nam” được quay hình bởi phóng viên ngoại quốc. Nguyễn Văn Bảy là một nhà ngoại cảm có bằng cấp chính thức, hoạt động cho nhà nước. Sau khi vẽ “họa đồ” --chỉ là vài cái hình vòng tròn nhỏ xíu trong một tờ giấy to lớn-- và bảo đảm với thân chủ mức chính xác là 85%, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Bảy chòm qua bàn giấy, đưa tay thu tiền vốn được gọi là “bồi dưỡng,” một cách nhanh nhẹn trước ống kính ngoại quốc từ bà thân chủ “rất tin tưởng” --cũng là một điều kiện chủ yếu của cơ quan Việt Nam hỗ trợ việc tìm hài cốt là Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng (UIA = Science Technology Union for Informations Application) đối với những thân nhân muốn tìm hài cốt liệt sĩ.
(Nhà ngoại cảm “trứ... danh” Nguyễn Văn Bảy đang... 
làm việc... ấy ấy ngay nơi văn phòng và trước ống kính của phóng viên ngoại quốc)
Sau đó là cuộc tìm kiếm ngay nơi nghĩa trang với những nấm mộ liệt sĩ đã có trước đó, cuối cùng nhà ngoại cảm “xác định được” một ngôi mộ vô danh chính là thân nhân của bà khổ chủ, một người con chưa bao giờ biết mặt bố ra sao, ngoài niềm tin như đã giao ước theo quy định của UIA.
(Hài cốt liệt sĩ của bà thân chủ nằm... sẵn trong nấm mộ... vô danh 
mà khi quất lên để mang về chỉ còn là những mớ đất đen, 
nhưng bà ta vẫn rất tin tưởng đó là hài cốt của người cha mình)
Và cũng từ UIA cho biết thêm rằng có những nhà ngoại cảm “rất thiên phú” như sau: 
“Đối với các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Đỗ Bá Hiệp, Vũ Minh Nghĩa, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa, Nguyễn Ngọc Hoài, Nguyễn Văn Lư, Lê Thanh Trong... thì không cần phải có ảnh, thậm chí cũng không cần khai tên hoặc tiểu sử, mà chỉ cần nói họ của người muốn tìm là có thể giao lưu được.” [sic]
Vì họ có khả năng “rất đặc biệt” là không cần đến hiện trường mà chỉ ngồi ở nhà vẫn có thể vẽ được sơ đồ nơi có mộ.” [sic]
Nếu không nhắc đến một nhà ngoại cảm “lừng danh” Việt Nam cả trong và ngoài nước --từng ra ngoại quốc thuyết trình, giảng giãi, và hội thảo-- với khoảng 24 năm kinh nghiệm, Phan Thị Bích Hằng thuộc xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Bình Định, là một thiếu sót rất lớn. Tuy nhiên, gần đây qua phóng viên Thu Uyên trong chương trình “Trở về Ký ức” của đài VTV đã rộ lên cái gì như là “Lật tẩy trò lừa đảo của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng” với sự tham dự của một số đảng viên cao cấp Cộng sản và hàng loạt bài viết khác nhằm phanh phui những sự kiện tìm hài cốt được cho là bịp bợm của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vốn là người có trình độ đại học nên cách du thuyết, diễn thuyết cũng có khá nhiều cơ sở theo cách nhìn khoa học huyền bí của thời đại nên thu hút rất đông khán thính giả ở nhiều nơi trong nước. Lý thuyết và thực hành là hai khía cạnh song đôi để chứng minh một thực nghiệm nhưng cũng không khó mấy khi người ta muốn lèo lách cả hai sao cho ăn khớp mà không cần phải qua sự kiểm chứng khoa học nào, nhất là về vấn đề ngoại cảm ở Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là tại sao mãi đến hôm nay, 10/2013, mới có những phát hiện khác thường để đánh giá về khả năng của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trong suốt 24 năm qua? Một cuộc thử nghiệm về khả năng ngoại cảm của người nào đó có thể được thực hiện qua một trong nhiều cách hết sức đơn giản mà ai ai cũng có thể nghĩ ra thể như trò chơi đoán số, đoán hình của trẻ em. Nhưng dường như những cuộc kiểm chứng đó chưa bao giờ thực hiện ở Việt Nam --có lẽ vì cũng là vấn đề quá “nhạy cảm” theo chủ trương định hướng của Đảng và nhà nước-- cho bất cứ nhà ngoại cảm nào. Cũng như thế, người ta chưa bao giờ nghe đến bất kỳ tin tức thu hoạch gì mà những người Mỹ nhờ phía Việt Nam giúp đỡ --mà chắc chắn là cũng phải qua những nhà ngoại cảm Việt Nam-- tìm những binh lính Mỹ mất tích để đổi lấy sự viện trợ tài chánh từ Hoa Kỳ.
Có phải chăng, chỉ có những liệt sĩ cán binh Cộng sản mới là những linh hồn linh thiêng đã giúp cho những nhà ngoại cảm Việt Nam đạt được những con số đáng kể trong việc tìm ra những hài cốt khắp Việt Nam? Ngoài ra, những chiến binh thuộc phe đối nghịch là những linh hồn ma quỹ, xấu xa nhất nên không bao giờ linh thiêng hay đáng được linh thiêng theo định hướng nào đó của nhà nước? --như nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã nói.
(Nhà ngoại cảm “lừng danh” Việt Nam, Phan Thị Bích Hằng 
đang diễn thuyết vào năm 2013 tại chùa Thắng Phúc)
Thêm vào đó là bài viết trên xaluan.com Phan Thị Bích Hằng và nhận định sai về mộ Lý Thường Kiệt” cho biết là chính “nhà ngoại cảm Bích Hằng đã gọi cụ Lý Thường Kiệt “lên” trò chuyện, rồi khẳng định, người nằm dưới ngôi mộ này chính là Lý Thường Kiệt” [sic] ở cánh đồng thôn Ngọc Quỳnh (thị trấn Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên) trước sự chứng kiến của nhiều người và cả những đảng viên cao cấp Cộng sản. Và còn nhiều rất và nhiều bài viết khác lan tràn nhiều trang báo đảng, đồng loạt tấn công mạnh bạo chủ yếu vào nhà ngoại cảm nầy và một số những nhà ngoại cảm khác như thể là đèn xanh đã được bật lên sau hơn 30 năm... đứt bóng. 
Riêng về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng từng cho biết là bà ta cũng là một Phật tử được thọ giới với pháp danh là Tuệ Đức. Đó là cái gì mà Đạo Hồ không thể chấp nhận, cũng như họ càng khó chấp hơn nếu nhìn thấy những vị Đại sư thuộc Phật giáo Quốc doanh của nhà nước đang biểu diễn điệu múa cầu siêu rất là sáng tạo, không thua gì gánh hát Quảng Đông.
 (Vị Đại sư và người đệ tử bên phải đang biểu diễn 
màn múa ngón tay không thua gì mấy phim Tàu chính gốc)

(Tiếp theo sau là Hai Đại sư đang biểu diễn điệu múa 
cầu siêu không thua gì gánh hát Quảng Đông trong ngày Đại lễ đó)
Và cũng nhờ vậy, những phong trào đồng bóng dị đoan được Đảng nâng lên tầm quốc gia với cái tên khác là “áp vong” như trong trường hợp của của “Thầy Năm Nghĩa” --thực ra là một phụ nữ khoảng 52 tuổi-- đã từng áp vong Bác Hồ trước những Đảng viên cao cấp Cộng sản.
(Cô Năm Nghĩa, (còn có danh hiệu là Nghĩa Đậu 
vì ngày xưa sống bằng nghề làm đậu phụ và nuôi lợn) 
tên thật là Vũ Thị Minh Nghĩa, mặc bộ đồ vest, 
trong giai đoạn xuất vong sau khi áp vong Bác Hồ)
Ngoài ra, điều đáng nhắc đến là sự kiện của một nhà ngoại cảm Quốc Dũng ở tiêu bang Califonia, Hoa Kỳ, cũng rất nổi tiếng nhưng chỉ trong đài PhoBolsaTV.com. Một nhà ngoại cảm trứ danh của khối người Việt làm việc cho Đảng ở nước ngoài, nhưng cũng chưa bao giờ dám thử thách khả năng “thiên phú” của mình qua một cuộc thử nghiệm đơn giản nhất nào.
(Nhà ngoại cảm quốc danh Quốc Dũng đang trợn... 
nhãn quang để tiên đoán về vấn đề hòa hợp hòa giải 
nhưng hoàn toàn trái ngược trong cách tiếp rước của 
cộng đồng Việt Kiều đối với cuộc thăm viếng Hoa Kỳ 
của Chủ tịch Trương Tấn Sang gần đây, vào năm 2013)

C- Kết luận: 

Thiết nghĩ, trong lãnh vực tâm linh, nếu những hoạt động của nó không gây ra những rối loạn cho xã hội thì nhà nước không nên xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của họ cho dù tôn giáo đó là gì. Những gì họ làm sẽ được xã hội đánh giá nên đào thải hay bảo tồn. Nhưng trong một chế độ Cộng sản, tất cả quyền con người phải được đảng và nhà nước “định hướng” như trường hợp của những nhà ngoại cảm Việt Nam. Trong khi đó, nếu bất kỳ tôn giáo, hay nhóm tu tập nào trước đây có khái niệm chỉ hơi khác cách định hướng của Đảng thì xem như bị liệt kê là thành phần phản động như Hòa Hảo, Cao Đài, Công giáo, Pháp Luân Công v.v. Tuy nhiên, Đạo Hồ là một trường hợp rất ngoại lệ mà ai ai cũng có thể biết lý do tại sao.
Sau khi Phật giáo bị quốc doanh hóa hoàn toàn, những hoạt động của nó không ngoài mục đích tuyên truyền, và ủng hộ chủ trương của đảng. Những trò đồng bóng mê tín được khoác lấy những cái tên khác ra vẽ khoa học thực nghiệm hơn, nhưng hoạt động thì vẫn là những phương thức u mê, lừa bịp được hỗ trợ bởi những hệ thống được cấu kết của nhà cầm quyền, bất chấp vấn đề phụng sự khoa học, và thách thức sự hiểu biết của người dân vốn càng ngày càng được khai mở hơn qua sự tiếp cận dù chỉ là gián tiếp với thế giới bên ngoài. Hiện nay, những thối bịp bợm quá lố bịt đó -của những người Cộng sản quen thói từ khi cái đảng ra đời - khó mà đạt được hiệu quả cho dù không ai lên tiếng hoặc chỉ số ít người, nhưng không có nghĩa là nó đã được nhìn nhận. Cái đáng tội nghiệp hơn là dành cho những kẻ bịp bợm, khi mà lúc nào đó, họ và/hoặc gia đình họ bất chợt nhận biết ra rằng chính họ đã từng đưa cái mặt bịp của mình trước công chúng một cách quá ư tự nhiên. Như trường hợp của Thích Chân Quang, một nhà sư quốc doanh, có lần cao ngạo khiển trách cả danh tướng Lý Thường Kiệt, theo định hướng thân Tàu của Đảng. Một hành động mà không người Việt nào dám nghĩ đến ngoại trừ loại người vong nô, gian xảo, xu thời, hèn hạ nhất. Có phải chăng hành động của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng với ngôi mộ của danh tướng Lý Thường Kiệt cũng là một trò đùa bỡn, xem thường hay nói đúng hơn là sự cố ý khinh khi, nhạo báng thanh danh của ông ta theo định hướng của đảng?
____________________________________
Đã đăng:

Ma quái giữa ban ngày – chuyện các nhà “ngoại cảm”

Standard

Vũ Thế Khanh
“Tiến sĩ cận tâm lí” Vũ Thế Khanh đang biểu diễn “tiềm năng”?
Chu Mộng LongThầy mo, ông đồng, bà cốt là những khái niệm xưa nay chỉ giới đồng bóng ma mị, chẳng hiểu sao ở thời văn minh hiện đại này lại được tôn xưng là Nhà ngoại cảm gắn với một ngành khoa học gọi là Bộ môn Cận tâm lí của một Viện Khoa học được Nhà nước cấp phép hẳn hoi: Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người. Tâm linh thì gọi quách là Tâm linh còn bày đặt gọi là Cận tâm lí, mà Cận với Viễn thì có nghĩa gì ở đây. Mà đã là khoa học sao lại có chuyện u u minh minh, cái viện ấy, bộ môn khoa học ấy lập ra đã gần vài mươi năm nay vẫn không chịu làm sáng tỏ được điều gì ngoài việc thêu dệt những huyền thoại để mạ đồng sơn bóng cho những cá nhân dở người dở yêu quái?
Cố tình khoa học hóa, nhà nước hóa (kể cả cấp bằng, chứng nhận?) chuyện ma mị để đe dọa, uy hiếp nhân sinh ư, bởi vì bản chất của đồng bóng là gây ra sợ hãi chứ không hề tạo dựng niềm tin chính đáng!
Mà một khi có chuyện ma và người sống chung, ma xuất hiện giữa ban ngày uy hiếp người thì đích thị là thời đại âm thịnh dương suy rồi!
Marx nói, “con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”, và cái Nhà nước bảo kê cho thứ tôn giáo ấy là thứ “thế giới quan lộn ngược, vì bản thân chúng là thế giới lộn ngược”. Có nghĩa là “sự bất lực của hiện thực đã sinh ra ảo tưởng”, “thay bằng đi tìm hạnh phúc cho nhân dân trong hiện thực, nó đã tạo ra thứ thuốc phiện đưa nhân dân lên thiên đường hạnh phúc trong mộng mị”. (Marx – Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel).
Nhưng đó là Marx nói về tôn giáo chính giáo, còn tà giáo, mà hạt nhân của nó là đồng bóng, hiển nhiên còn tệ hơn!
Tôi cứ nghĩ, nếu thực tâm đền ơn đáp nghĩa, sao Ngân hàng Chính sách của Nhà nước không mang 8 tỉ đồng kia ra ban phát cho gia đình liệt sĩ khó khăn mà lại đưa cho “nhà ngoại cảm” phù phép úm ba la hóa xương bò xương heo thành hài cốt liệt sĩ để ru ngủ nhân dân?
Và người anh hùng liệt sĩ đích thực, sống hòa mình vào núi rừng, chết hóa thân thành linh khí của núi rừng, như Quang Dũng từng viết: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm…/ Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành, chứ làm gì có chuyện nhập vong khóc lóc thảm thương đòi về cố hương như phận nữ nhi thường tình mà các ngài cố tạo ra?
Sử xưa viết, các bậc quân vương khi chết được bí mật chôn tận rừng sâu, danh tướng Hưng Đạo vương để lại di nguyện đưa hài cốt của mình về Vạn Kiếp vùi dưới gốc cây vú sữa… Cớ sao nay có “nhà ngoại cảm” bịa ra chuyện rùng rợn rằng, vong khóc lóc đau đớn vì rễ cây đâm qua cổ họng?
Chức năng “nhà ngoại cảm” rõ ràng gieo rắc sự sợ hãi cho mọi người, chứ chẳng tạo ra một niềm tin tích cực nào!
Hình ảnh vong khóc, vong kêu, vong chập cheng, vong chảnh chọe hành hạ người thân đã là bôi bẩn, nhục mạ anh hùng liệt sĩ chứ chưa nói đến chuyện hoán cốt thành bò thành lợn!
Xung quanh chuyện “nhà ngoại cảm” mọc lên như nấm hiên ngang ngay trong lòng xã hội được bao bọc bởi ý thức hệ của chủ nghĩa Marx, những người kiên định theo chủ nghĩa Marx nói gì khi đọc câu này của ông tổ mình: ” Tồn tại dưới cõi trần của lầm lạc đã bị mất uy tín, một khi sự oratio pro aris et focis (*) trên thượng giới của nó bị bác bỏ.”(Max – Sđd).
Và sự thật, cái uy tín (cả trên lẫn dưới) đã mất thật rồi khi giới hạn cuối cùng của niềm tin bị đổ vỡ!
Tôi là người không bài trừ tín ngưỡng, nhưng từ lâu, tôi đã nói, trừ phi trí tuệ đã cùng quẫn, tuyệt nhiên không thể lấy chuyện tâm linh làm bùa hộ mệnh cho quyền lực khi con người đã biết rõ mặt trời chỉ là lò lửa khổng lồ!
Uy tín dựa vào thần quyền luôn là uy tín giả, uy tín ngụy tạo, bất luận là ai, thế lực nào!
Khi đã để cho thần quyền can dự vào chính trị, giới đồng bóng lên ngôi, tất yếu sẽ đẩy con người chui vào hai tròng nô lệ: thần quyền lẫn cường quyền như lịch sử đã chứng minh!
Cho nên, để khôi phục uy tín của quyền lực chân chính, không chỉ bắt giam “Cậu Thủy”, hãy ném tất cả bọn đồng bóng yêu quái này vào địa ngục, đúng nơi chúng đã sinh ra để trả lại niềm tin và sự bình yên cho cuộc sống trần thế!
Thời đại này không thể chơi trò đe dọa như thời man di của những thầy mo. Bọn chúng hoang tưởng như hàng ngày chúng vẫn hoang tưởng, rằng chúng có đủ “tiềm năng” bắt thời gian quay ngược, nên cùng nhau La đằng Đông, Hét đằng Tây hú họa rằng, chuyện tâm linh là bất khả xâm phạm hay bất khả báng bổ và đòi đưa người tố giác ra tòa? Không thể có tòa án nào kết tội Thu Uyên hay các nhà báo đã phơi trần sự thật, trừ phi loài người chạy lùi về thời trung cổ, dùng giáo lí huyền hoặc kết tội người như đã từng kết tội Galileo!
Tòa án hiện đại trọng chứng hơn trọng cung, mà chứng ở đây bằng người thực, vật thực chứ không phải ra tòa gọi vong về làm chứng đâu, đồng chí Đông La và các đồng chí Đông Hét đứng đằng sau!!!
Thưa các đồng chí lẫn các ngài trên trước, thế giới hiện nay đã vượt qua những huyền thoại bằng trào lưu giải huyền, chuyện Chúa Phục sinh cả mấy nghìn năm trước còn bị lật tẩy huống hồ là ba cái trò đồng bóng nhãn tiền với mưu đồ danh lợi.
—————————————————————–
Hãy xem chuyện “Đệ nhất ngoại cảm” chết đi rồi sống lại (như Chúa Kitô – dù chỉ bị chó cắn) do Bộ môn Cận tâm lí xuất bản tuyên truyền rộng rãi là thật hay giả nhé:

Sự thật về cái chết hụt đầy “bí hiểm” của bà Phan Thị Bích Hằng (P1)

Theo Gia đình và Cuộc sống
Thứ ba 29/10/2013 12:02
(GDVN) – Có một công thức chung đã được mặc định: Những con người có khả năng siêu phàm trong giới ngoại cảm, cô đồng thường phát hiện ra khả năng huyền diệu của mình sau những lần thập tử nhất sinh đầy kỳ bí. Trường hợp bà Phan Thị Bích Hằng cũng không phải là một ngoại lệ.
Câu chuyện về cái chết hụt kỳ bí mà bà Phan Thị Bích Hằng kể lại (được ghi hình, không hiểu bằng cách nào bị phát tán tràn lan trên mạng) được coi là bước ngoặt khiến người phụ nữ này, từ một thiếu nữ thôn quê bình thường trở thành một nhà ngoại cảm. Với nhiều người, chính cái chết hụt đó đã “khai sinh” ra một “huyền thoại” ngoại cảm.
 Cái chết huyền bí
 Theo lời kể của bà Phan Thị Bích Hằng, bà Hằng sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng nghèo thuộc xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình. Năm 1990, khi 17 tuổi, vừa thi đại học về, Hằng cùng một cô bạn gái đang đi trên đường bỗng có một con chó nhảy xổ ra cắn. Hằng bị cắn vào chân trái, cô bạn gái bị cắn vào tay trái. Cũng như người dân ở các vùng nông thôn, Hằng và cô bạn cảm thấy chuyện bị chó cắn rất bình thường, rồi quên ngay sau đó.
Khoảng một tháng sau, cô bạn đột nhiên không nói được nữa, hàm răng cứng lại. Nghĩ là bị đau răng, Hằng đưa cô bạn đi khám. Bác sĩ nha khoa kiểm tra và khẳng định không phải do đau răng. Hai người lại đưa nhau đến Bệnh viện Quân y 5 Ninh Bình.
Sau khi khám xét, bác sĩ bảo bạn gái của Hằng có triệu chứng của người bị bệnh dại. Tưởng như đất dưới chân sụt xuống, tử thần đã nắm tay mình dắt đi, Hằng nói: “Đúng như vậy. Cháu và cô bạn đều bị một con chó cắn”. Sau hôm đó, Hằng cũng hôn mê bất tỉnh. Cô bạn thân đã qua đời.
Gia đình đưa Phan Thị Bích Hằng đi chữa trị nhiều nơi, bằng cả Đông y lẫn Tây y, song các bác sĩ, thầy lang đều lắc đầu, bởi bệnh này từ xưa đến nay không ai chữa khỏi. Khi đến nhà một ông thầy lang theo đạo Thiên Chúa giáo, ông xem xét kỹ biểu hiện cơ thể rồi nói một câu: “Chúa lòng lành sẽ che chở cho con”.
 Sau đó, ông bảo người con trai ra nghĩa địa lấy một mảnh ván quan tài mà người ta vừa bốc mộ lên hôm trước, rồi bào chế với vài vị thuốc. Để giành giật giữa sự sống và cái chết, gia đình Hằng liền cho cô uống ngay vị thuốc này.
Sau khi uống thuốc, ông thầy lang bảo với bố mẹ Hằng: Sau 3 tiếng đồng hồ, cháu sẽ cảm thấy nóng khắp người, lên cơn sốt mê man, nói sảng, thậm chí lên cơn điên cắn xé. Nếu 3 ngày sau cháu hết cơn thì cháu sống được còn nếu lên cơn trở lại thì cháu không sống được nữa. Tôi rất muốn cứu cháu nhưng khả năng của tôi chỉ có vậy.
Đúng như lời ông thầy lang nói, 9h tối Hằng lên cơn cắn xé  điên cuồng, đến 11h đêm mới thiếp đi. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai không thấy triệu chứng gì. Ngày thứ ba, khi cùng người anh trai của cô bạn gái đã mất ra mộ thắp hương thì đột nhiên Hằng cảm thấy có một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Hằng liền nói: “Anh đưa nhanh em về, em sắp lên cơn điên rồi”. Từ đấy, Hằng không còn biết gì nữa.
Vẫn theo lời kể của bà Phan Thị Bích Hằng, đến 1h sáng hôm sau, gia đình không còn hy vọng bởi Hằng đã hoàn toàn tắt thở. Bình thường, những người trẻ tuổi như Hằng ở quê được khâm liệm rất nhanh rồi đem chôn, không tổ chức lễ tang, kèn trống.
Thế nhưng, có một ông cụ dạy chữ nho ở làng rất giỏi tử vi vào nhà Hằng, sau một hồi tính toán, ông bảo: “Thứ nhất, chưa qua giờ Thìn không được khâm liệm cháu; thứ hai, cứ để nó nằm như thế, không được thắp hương”.
Lúc  đó, một ông bác sĩ nói: “Tốt nhất đậy mặt cháu lại, để gia đình đi chuẩn bị cho cháu, tại sao cụ lại nói vậy”. Ông cụ đó nói tiếp: “Các anh thì có cả một nền y học hiện đại, còn tôi chỉ là tàn hương nước thánh, nhưng tôi khẳng định nó không chết”. Nghe cụ già và bác sĩ tranh cãi, gia đình Hằng rất hoang mang, không biết xử trí thế nào. Thế nhưng, ai đi mua gỗ đóng quan tài cứ đi, ai ngồi chờ xem lời ông cụ linh ứng thế nào thì cứ chờ.
Cũng theo lời kể của bà Hằng, hồi khắc khoải chờ chết, Hằng có hỏi bố (bố Hằng là quân nhân): “Vì sao những vị lãnh đạo khi chết người ta lại bắn 7 loạt đại bác”, bố Hằng trả lời: “Để linh hồn mau siêu thoát”. Nghe bố nói vậy, Hằng liền bảo: “Khi con mất bố bắn cho con bảy phát đạn để con mau siêu thoát trở về với gia đình mình”.
7h sáng hôm đó bố Hằng mới về đến nhà. Trông thấy đứa con gái tội nghiệp tắt thở nằm đó ông không kìm được nước mắt. Nhớ lời hứa với đứa con gái, ông lôi súng ngắn ra bắn. Tiếng súng nổ làm Hằng bật tỉnh dậy và phản xạ đầu tiên là lao ra phía tiếng súng gọi: “Bà ơi!”.
Hằng đạp phải những vỏ đạn và ngã rất mạnh xuống sân. Mọi người liền khiêng cô vào trong nhà. Sau khoảng nửa tiếng, Hằng tỉnh lại hoàn toàn. Khi đó, một cảm giác rất kỳ lạ đến với cô. Thân thể dường như mất trọng lượng, như đang bay và nhìn mọi người như ở một thế giới khác.
Theo lời Hằng, trong thời gian 30 phút bất tỉnh do trượt ngã đập đầu xuống sân, cô thấy bà nội và bà ngoại (cả hai đều đã mất) gọi cô. Hằng thấy mình đang đi qua một cây cầu bắc qua con sông lớn với mây mờ sương khói bao phủ. Phía bên kia cầu, bà ngoại cùng rất nhiều người đứng vẫy tay, bà nội thì đứng bên bờ này kéo lại.
Cố vùng vẫy, Hằng tuột khỏi tay bà…
…Nhưng làng quê, bạn bè không ai biết
Cái chết “hụt” của bà Phan Thị Bích Hằng được nhiều tờ báo dẫn lại. Thậm chí, không hiểu bằng cách gì, nó còn được in thành những bộ đĩa bán rất chạy bên ngoài thị trường.
Tuy nhiên, khi phóng viên tìm về ngôi làng nơi bà Hằng và gia đình từng sinh sống, nhiều người lại không hề hay biết về câu chuyện này, và đó thực sự là một khoảng tối cần làm rõ.
“Vợ chồng tôi và ông bà Thọ (bố mẹ của Bích Hằng – PV) vốn rất thân thiết. Mối quan hệ giữa hai gia đình lại càng thêm thân khi thằng Thuần, con trai tôi và Bích Hằng học cùng nhau và giữa hai đứa có nảy sinh tình cảm yêu đương. Tuy nhiên, sau này vì cái duyên, cái số mà hai chúng nó không đến được với nhau”, bà Cạnh, vợ của ông Vũ Văn Trai, là người cùng xóm với nhà bà Phan Thị Bích Hằng tâm sự.
Tuy nhiên, khi cộng tác viên báo Giáo dục Việt Nam dò hỏi về đám tang đầy màu sắc huyền bí với những phát súng chát chúa thì người hàng xóm thân mật, sống cách nhà gia đình bà Phan Thị Bích Hằng ở quê chưa đầy 300m này lại lắc đầu: “Đám tang nào nhỉ? Tôi không biết! Cái Hằng nó có chết thực vật hồi nào đâu mà bảo nó có đám tang”.
“Ngày xưa, tôi và Bích Hằng có học cùng một lớp. Tôi cũng từng có mối quan hệ yêu đương với Bích Hằng nhưng quả thực về cái chết hụt của cô ấy và cái đám tang như lời anh kể thì tôi không biết gì”, anh Thuần, con trai của bác Cạnh tiếp lời.
Khi phóng viên – trong vai 1 sinh viên ngành nhân văn tìm tư liệu viết bài về Bích Hằng đặt câu hỏi: “Vậy còn nhân vật nữ là người cùng làng bị chó dại cắn rồi sau đó tử vong mà chị Bích Hằng kể thì anh có biết không? Theo lời chị Hằng, người này là bạn học cùng lớp, lại là chỗ bạn thân thì chắc anh phải biết chứ?” anh Thuần suy tư một hồi rồi nói: “Nhân vật nữ nào nhỉ? Lớp tôi học không hề có bạn nào bị chó dại cắn chết. Làng tôi sống cũng không có ai học cùng tôi bị chó dại cắn cả”.
Chúng tôi tiếp tục nhập vai sinh viên ngành nhân văn, tìm gặp thầy Nguyễn Tử Nhiên, giáo viên chủ nhiệm 3 năm cấp 3 của Bích Hằng và anh Thuần  (Lớp A2 khóa 1986 – 1988 Trường cấp 3 Yên Khánh B – PV). Khi được hỏi về cô học trò Phan Thị Bích Hằng, người thầy giáo già trầm ngâm nhớ lại: Bích Hằng là một học trò thông minh, có đôi mắt sáng và khả năng cảm thụ văn học rất tốt.
Tuy nhiên, cũng như bà Cạnh và anh Thuần, thầy Nhiên tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi phóng viên hỏi những thông tin về cái chết lâm sàng của bà Phan Thị Bích Hằng do chó dại cắn. Thầy Nhiên nói: “Tôi không biết nhưng chắc là không có thông tin này. Học sinh của tôi cũng không có ai bị chó dại cắn chết cả”.
Tiếp tục bổ sung thêm thông tin, chúng tôi được thầy Nhiên cho số điện thoại của anh Vũ Văn Chinh, là học trò cũ của thầy Nhiên và là bạn cùng lớp cấp 3 với Bích Hằng. Qua nói chuyện, anh Chinh cũng khẳng định: “Tôi cũng chỉ mới nghe kể là Bích Hằng bị chó dại cắn rồi chết lâm sàng. Lớp tôi học cũng không có ai bị chó dại cắn chết cả”.
Trong khi đó, ông Phạm Gia Huấn, nguyên cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Bình lại cho hay: “Tôi là người cùng xã với cô Hằng, vợ tôi lại công tác cùng với dì ruột và bố cô Hằng ở xã. Việc cô Hằng bị chết lâm sàng và có tổ chức đám tang thì tôi không biết nhưng việc cô Hằng bị chó dại cắn là có. Hồi đó, tôi có đến nhà thăm cô Hằng. Tuy nhiên, thông tin về người bạn học cùng, là người cùng làng bị chó dại cắn chết thì tôi cũng không biết”.
Khi có được thông tin trên, phóng viên đã đến gặp trực tiếp mẹ đẻ của Phan Thị Bích Hằng là bà Thọ. Trong vai một người có người nhà bị chó dại cắn, phóng viên khẩn khoản nhờ bà Thọ: “Cháu đến đây là vì cháu đọc báo đài thấy bảo cô Phan Thị Bích Hằng từng bị chó dại cắn rồi nhờ được một ông lang cho uống vị thuốc lạ có gỗ ván thôi. Vậy mong bà chỉ bảo giúp địa chỉ của ông lang mà cô Hằng hay kể tới trên báo đài để cháu tới lấy thuốc”.
Sau ít giây ngập ngừng, bà Thọ nói: “Đó là ông lang Rồng, nhà ở Ninh Sơn, Ninh Bình. Nhưng ông ấy chết được mấy năm rồi”.
Theo lời chỉ dẫn của bà Thọ, phóng viên tìm đến phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình. Nếu căn cứ theo lời kể của bà Phan Thị Bích Hằng, có thể hiểu đây là vị thầy lang đã nói với bà Hằng câu: “Chúa sẽ ban phước lành cho con”. Đúng như lời bà Thọ nói, ông lang Rồng đã qua đời. Phóng viên tìm đến hiệu thuốc mang tên ông nhưng đang được quản lý bởi anh Phạm Văn Hà, là con trai thứ hai của ông lang Rồng. Anh Hà cho biết: “Đúng là bố tôi có chữa chó dại cắn cho bà Phan Thị Bích Hằng. Tuy nhiên, bố tôi là người theo đạo Phật chứ không phải đạo Thiên chúa và Bích Hằng cũng chưa hề đến nhà tôi mà chỉ có người nhà của cô ấy đến lấy thuốc nên bố tôi không thể nói với cô ấy câu: “Chúa sẽ ban phước lành cho con”.
Còn tiếp…
—————-
(*) oratio pro aris et focis: nghĩa đen: diễn ngôn bảo vệ bàn thờ và bếp; nghĩa bóng: biện hộ cho sự bảo vệ xã tắc và quốc gia.

'Cậu Thủy' và 'Cậu Hồ'

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ. Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.
x
Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.
Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.
Nguyễn Hưng Quốc
Hằng ngày, tôi vẫn vào các tờ báo mạng ở trong nước, từ lề phải đến lề trái, để đọc tin. Có điều, hầu như chưa bao giờ tôi mở các bản tin về những chuyện như “tâm linh” hay “ngoại cảm”. Với tôi, chúng đều thuộc loại nhảm nhí, không đáng mất thì giờ: vô ích, hơn nữa, còn có thể gây cảm giác bức bối khó chịu: vô duyên. Vậy mà, tình cờ, sáng nay, một người bạn lại hỏi tôi về “Cậu Thủy”. Tôi ngơ ngác, không biết gì cả. Anh mới kể vắn tắt về các “thành tích” của “cậu”. Thấy thú vị, về nhà, tôi vào internet để… làm quen với “cậu”.

“Cậu” tên thật là Nguyễn Văn Thúy, quê ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh, sinh năm 1959, năm nay 54 tuổi. Trước, “cậu” làm công an; sau, không biết vì lý do gì, “cậu” về làm dân. Quen thói cũ, làm dân, “cậu” cũng không chịu sống một cách lương thiện: Cậu tàng trữ vũ khí quân dụng và lừa đảo hết người này đến người khác. “Cậu” và vợ “cậu” bị bắt và ở tù hơn 10 năm. Được thả về, mấy năm sau, “cậu” bỗng nổi tiếng là một nhà ngoại cảm xuất sắc và càng ngày càng giàu.

Cái giàu của “cậu” có thể nhìn thấy ngay ở ngôi nhà “cậu” ở: Nhà ba tầng, xây theo kiểu biệt thự, trên nóc có hai con rồng chầu; trước cổng, có hai bức tượng sư tử bằng đá trắng lớn sừng sững rất uy nghi. Trong nhà, nghe nói, các vật dụng đều thuộc loại đắt tiền.

Tiền ấy từ đâu ra?

Trước hết là từ khách hàng của cậu, những người muốn tìm hài cốt hoặc mồ mả của thân nhân. Suốt mấy chục năm chiến tranh, số người chết mà không tìm thấy xác hoặc xác bị vùi vội vã đâu đó trong rừng hoặc trên đồng hoang khá nhiều. Sau chiến tranh, một số người bị tù hoặc bị cải tạo chết và bị lấp dối giá đâu đó dưới lớp đất nông cũng không ít. Thân nhân những kẻ bất hạnh ấy không ngừng tìm kiếm. Cách tìm kiếm được báo chí trong nước quảng cáo nhiều nhất là nhờ các nhà ngoại cảm, trong đó, có “Cậu Thủy”.

Nghe nói khách hàng của “cậu” đông đến độ, lúc nào cũng nườm nượp; nhiều người, muốn gặp cậu, phải ăn chực nằm chờ trước nhà “cậu” cả đến mấy ngày trời. Khi gặp, “cậu” yêu cầu ghi tên người chết muốn tìm để “cậu” gọi âm binh tìm kiếm hoặc nhờ “Mẫu” chỉ giúp.  Sau khi đã được “âm binh” báo cáo, “cậu” cho thuê xe chở gia đình khách hàng đi tìm mộ. Toàn bộ chi phí xe cộ và tài xế cho chuyến đi, khách hàng phải trả, khoảng năm bảy chục triệu. Cuối cùng, sau khi tìm được mộ thân nhân rồi, khách lại phải “hậu tạ” cho “cậu” một số tiền nữa. Nói chung, theo dư luận, muốn đến gặp “cậu”, người ta phải chuẩn bị ít nhất là 150 triệu đồng!

Thứ hai, một số cơ quan nhà nước cũng nhờ “cậu”, trong đó, được đề cập đến nhiều nhất là Ngân hàng Chính sách Xã hội. Cơ quan này đã nhờ “cậu Thủy” tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ. Dĩ nhiên là “cậu” làm được ngay. Tổng cộng, “cậu” tìm được 105 bộ hài cốt; mỗi bộ, được trả 75 triệu đồng; như vậy, “cậu” bỏ túi cả thảy được 7.9 tỉ đồng (khoảng gần 400.000 đô la). Các hài cốt được “cậu” tìm, sau đó, được mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ các tỉnh một cách long trọng để mọi người thấy rõ là đảng và chính phủ không hề quên ơn những người con đã hy sinh thân mình cho… cách mạng!

Nhưng mới đây, một số nhà báo, sau nhiều năm âm thầm điều tra, đã tiết lộ một sự thật khủng khiếp: những cái gọi là hài cốt ấy chỉ là xương heo hay xương bò mà “cậu” Thủy đã thuê người chôn sẵn. Chưa hết. “Cậu” còn khôn ngoan chôn theo một số bình tông (“bidon”, bình đựng nước) có khắc tên nguệch ngoạc cũng như một số đôi dép cao su. Có điều phần lớn các bình tông cũng như dép cao su ấy còn khá mới. Nhưng không sao. Ngân hàng Chính sách Xã hội vẫn nhắm mắt trả tiền cho “cậu”. Miễn là có cái xương nào đó mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ để thân nhân của họ an tâm và đồng bào khắp nơi đến thắp nhang kính vái!

Trước những sự thật được vạch trần không thể chối cãi được đó, ngày 28 tháng 10 vừa qua, công an đã đến còng tay “cậu Thủy”. Những ngày sau đó, báo chí khắp nơi nhao nhao chửi bới “cậu” là nhà ngoại cảm dỏm (ý là có những “nhà ngoại cảm” thật?).

Riêng tôi, đọc, tôi lại thấy thương “cậu”. Đương nhiên là “cậu” có lỗi, trước hết và chủ yếu là có lỗi với thân nhân những người đã chết. Những người ấy chắc phải thương bố/mẹ/chồng/vợ/con của mình lắm nên trong bao nhiêu năm không ngừng tìm kiếm; đến khi cầm được bộ xương heo/bò ngỡ là hài cốt của người thân, hẳn họ mừng rỡ vô cùng. Đến lúc nhận ra được sự thật, không biết họ sẽ đau đớn đến độ nào? Nhưng dù vậy, tôi vẫn thương “Cậu Thủy” vì, nghĩ cho cùng, tội của “cậu” cũng chả có gì đặc biệt.
Ở Việt Nam, trong thế kỷ 20 vừa qua, có một “nhà ngoại cảm” khác lừa dối nhiều người và nhận được nhiều tiền thưởng bất chính hơn “cậu Thủy” nhiều: Đó là “Cậu Hồ”.

“Cậu Hồ” cũng có tài sai khiến rất nhiều âm binh. “Cậu” cũng có “Mẫu” chỉ vẽ từng đường đi nước bước. “Cậu” cũng đem nhiều xương heo, xương bò, xương chó… ra lừa dân chúng để mọi người tin đó là thánh tích hay xá lợi của các bậc thần linh rồi sì sụp cúi lạy. “Cậu Thủy” chỉ làm 105 bộ hài cốt liệt sĩ giả; “cậu Hồ” chế tạo không những hài cốt liệt sĩ giả mà cả hài cốt quốc tổ giả và thần thánh giả; không những chỉ quy tập trong các nghĩa trang mà còn dựng sừng sững trong các cung điện, lâu đài, dinh này phủ nọ hết sức lộng lẫy và nguy nga. Nhiều bộ xương đến bây giờ vẫn còn ngọ nguậy và phóng uế tùm lum. “Cậu Thủy” chỉ lừa được một dùm người trong có sáu năm; “Cậu Hồ” thì lừa được cả thiên hạ trong gần một thế kỷ.

“Cậu” nào cũng dỏm. Nhưng nghĩ cho cùng, so với “cậu Hồ”, “cậu Thủy” chỉ là một thằng nhóc khôn lỏi. Có gì mà phải làm ầm ĩ chứ? Thôi, tha cho “cậu” ấy đi mấy bạn công an ạ.
Đồng môn và đồng chí với nhau cả mà.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

Trung tâm tìm kiếm hài cốt liệt sỹ “hạ nhiệt” sau vụ nhà ngoại cảm rởm

(Dân trí) - “Trận bão” thông tin về các nhà ngoại cảm rởm đã khiến Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm hài cốt liệt sỹ bằng phương pháp áp vong lớn nhất Hà Tĩnh “hạ nhiệt”.

Chiều 30/10, PV Dân trí có mặt tại nhà ông Nguyễn Văn Bằng, khối phố Đại Đồng, phường Thạch Linh, TP Hà Tĩnh - nơi hơn hai năm nay là Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm hài cốt liệt sỹ (HCLS) lớn nhất Hà Tĩnh, được nhiều người gọi tắt là “trung tâm ông Bằng”.
Trung tâm tìm kiếm HCLS "hạ nhiệt"
“Trung tâm ông Bằng” ra đời hồi tháng 3/2011 trên khuôn viên rộng hàng trăm mét vuông. Ngay cửa ra vào tòa nhà đặt bàn thờ chính, hòm công đức. Ngôi nhà hai tầng khang trang, bề thế của gia đình được ông sử dụng làm nơi tiếp đón khách thập phương đến đăng ký tìm kiếm hài cốt liệt sỹ và làm việc với các đồng tử giúp việc hằng ngày. Cái ao rộng cũng được gia đình ông cho san lấp, lấy mặt bằng dựng khu nhà bằng khung thép lợp tôn đủ kê hơn 500 cái bàn nhựa để khách thập phương làm bàn thờ cầu vong linh cho liệt sĩ. Cuối khu vườn trổ ra phía bờ sông đặt tiếp một điện thờ.
Thời gian đầu “trung tâm ông Bằng” luôn đông nghịt người dân từ nhiều tỉnh thành, chủ yếu là miền trung và các tỉnh phía bắc đổ về cầu vong linh liệt sĩ. Trong ngôi nhà thiền, hàng trăm bàn thờ liệt sĩ được dựng lên, bày biện đủ hương lễ, suốt từ sáng tới tối mùi nhang khói bốc lên nghi ngút... Cảnh người quỳ lạy, khấn vái để mong vong liệt sỹ về ứng nhập liên tục diễn ra.
Tuy nhiên, thời điểm chúng tôi có mặt, “trung tâm ông Bằng” đã thực sự “hạ nhiệt”. Nơi đây đã không còn cảnh dòng người đông đúc, xe cộ ngột ngạt từ nhiều tỉnh thành đổ về mong được hỗ trợ tìm kiếm HCLS như trước. Con đường bê tông nhỏ chạy trước trung tâm tìm kiếm hài cốt liệt sỹ này cũng không còn cảnh quán hàng bày bán băng rôn, quân phục, hoa phục vụ lễ áp vong. Biển giới thiệu dịch vụ cho thuê xe, dịch vụ cơm nước cũng đã được tháo gỡ. Bên trong, người dân đến ngồi thiên, cầu vong linh các liệt sỹ đã thưa thớt hơn trước rất nhiều. 
 
Trung tâm tìm kiếm hài cốt liệt sỹ “hạ nhiệt” sau vụ nhà ngoại cảm rởm
Số lượng người dân có mặt cầu vong linh liệt sỹ tại "trung tâm ông Bằng" vào chiều ngày 30/10 giảm hẳn so với thời gian trước
Nhiều người dân sống gần “trung tâm ông Bằng” cho biết, nguyên nhân khiến nơi này không còn đông đúc như trước phần nhiều là do những thông tin liên tiếp về các nhà ngoại cảm rởm hiện nay, cũng như thông tin cảnh báo rủi ro của cơ quan chức năng về việc tìm kiếm HCLS bằng ngoại cảm, tâm linh.
Buồn vì người dân mất niềm tin!
Ban đầu ông Bằng khá dè dặt khi tiếp xúc với phóng viên, tuy nhiên sau đó ông đã cởi mở hơn, thông tin rất nhiều về Trung tâm hỗ trợ tìm kiếm HCLS của gia đình. Ông Bằng cho biết, từ khi đi vào hoạt động đến nay, trung tâm đã đón hơn 6.000 gia đình liệt sỹ từ nhiều tỉnh thành đến đăng ký tìm hài cốt liệt sỹ. “Bằng hình thức nhập vong trung tâm chúng tôi đã hỗ trợ tìm kiếm được hơn 1.000 HCLS” - ông Bằng khẳng định.
Ông Nguyễn Văn Bằng
Ông Nguyễn Văn Bằng
Ông Bằng thừa nhận, việc truyền hình, báo chí đồng loạt thông tin về các nhà ngoại cảm rởm lừa đảo tiền của các tổ chức, thân nhân gia đình liệt sỹ đã ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của trung tâm, khiến người dân hoang mang. “Tại trung tâm của tôi, những ngày gần đây đi một vòng trung tâm, tôi thấy nhiều người dân đến đây rất hờ hững. Nhiều người bảo trung tâm gọi thì họ đến, hỏi họ có niềm tin nữa không thì họ nói không có niềm tin lắm. Tôi buồn lắm” - ông Bằng nói thêm.
Cũng theo ông Bằng, không chỉ mình trung tâm của gia đình ông, hiện nhiều trung tâm tìm kiếm hài cốt liệt sỹ bằng phương pháp nhập vong mà ông biết cũng khó hoạt động. Tuy nhiên ông Bằng cho biết vẫn sẽ tiếp tục theo đuổi công việc này bởi ông không thể dừng lại nhiệm vụ mà… các liệt sỹ đã giao cho ông (!).
Cũng trong chiều ngày 30/10, PV Dân trí đã có cuộc gặp chính quyền xã Thạch Linh liên quan đến “trung tâm ông Bằng”. Ông Trương Quang Sơn - Phó Chủ tịch UBND phường Thạch Linh, TP Hà Tĩnh - cho biết, cá nhân ông không tin vào kết quả tìm kiếm HCLS của những trung tâm hoạt động theo hình thức tâm linh. “Chúng ta đang sống giữa thời đại khoa học, nên tốt nhất là những hài cốt liệt sỹ phải được xác định bằng phương pháp thử ADN” - ông Sơn nói.
Tuy nhiên, ông Sơn nói rằng việc xử lý hay can thiệp của chính quyền địa phương vào hoạt động của các trung tâm này là không thể. “Về trách nhiệm của nhà nước, chúng tôi chỉ quan tâm trung tâm đó hoạt động có gây mất trật tự, mất vệ sinh, gây ảnh hưởng đến địa phương, đến những người sống xung quanh hay không. Còn lại đó là hoạt động tâm linh, trên cũng không có văn bản chỉ đạo cụ thể như thế nào nên chính quyền địa phương khó xử lí” – ông Sơn nói.
 Văn Dũng - Huy Thái

Giao lưu trực tuyến "Sự thật của nhà ngoại cảm" (Pê tờ rô dạo này "nhiệt tình" ghê =)))

(PetroTimes) - Đúng 9h sáng ngày 1/11/2013, ba vị khách mời của chương trình giao lưu trực tuyến “Sự thật của nhà ngoại cảm” đã có mặt tại tòa soạn báo Năng lượng Mới - PetroTimes.
>> Người thân liệt sỹ Phùng Chí Kiên rơi lệ xin lỗi nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng
>> Tự sự Phan Thị Bích Hằng
Nhà báo Nguyễn Như Phong - Tổng biên tập báo Năng lượng Mới tiếp đón và giới thiệu các vị khách: "Trước hết thay mặt bạn đọc của Báo Năng lượng Mới và trang tin nhanh điện tử PetroTimes, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các vị khách mời đã nhận lời tham gia buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề “Sự thật của các nhà ngoại cảm”.
Xin phép được giới thiệu tham dự buổi giao lưu trực tuyến ngày hôm nay có nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng; Ông Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA); Thiếu tướng Ngô Tiến Quý, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự (Bộ Công an) - người đã có nhiều năm gắn bó với việc giám định hài cốt bằng phương pháp khoa học.
Thưa bạn đọc, thưa các vị khách mời!
Đất nước ta trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ vĩ đại để giành độc lập cho dân tộc và đã có hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống qua các thời kỳ của cách mạng. Việc những người hi sinh bị thất lạc trong chiến tranh do những hoàn cảnh khách quan đem lại là điều không thể tránh khỏi. Trong nhiều năm qua, Đảng, Chính phủ, Quân đội, Công an và nhiều ngành nhiều cấp khác đã cố gắng tìm và quy tập hài cốt của các liệt sĩ. Tuy nhiên số lượng hài cốt bị thất lạc vẫn còn không ít.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, việc tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm đã phát triển rất nhanh. Bên cạnh những thành công của các nhà ngoại cảm chân chính thì cũng có không ít những vụ việc buồn do những nhà ngoại cảm rởm gây ra. Và thậm chí người ta còn chụp mũ cho các nhà ngoại cảm là lợi dụng mê tín dị đoan, là bịp bợm…
Có một sự thực là không ít vụ lừa đảo của những kẻ đội lốt nhà ngoại cảm gây ra và đã tạo nên một sự nghi ngờ trong xã hội đặc biệt là đối với những gia đình có thân nhân đang bị thất lạc hài cốt… Hoặc đã tìm được hài cốt rồi nhưng lại bán tín, bán nghi…
Thưa bạn đọc, và thưa các vị khách mời, trong quá trình chuẩn bị cho buổi giao lưu này chúng tôi đã nhận được hàng trăm câu hỏi của bạn đọc gửi về với mong muốn được các nhà ngoại cảm và những người đã tham gia trực tiếp vào công việc tìm kiếm và giám định hài cốt trả lời. Chúng tôi tạm chia các câu hỏi ra làm bốn nhóm vấn đề:
Vấn đề thứ nhất: Tại sao việc tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm mới nảy sinh trong vòng 20 năm nay mà xưa kia không có? Vậy đây có phải là biểu hiện của sự “âm thịnh dương suy” hay không? Và người ngoại cảm là người như thế nào? Từ đâu mà họ có khả năng ngoại cảm đấy? Ngoại cảm có phải là thứ trời cho không hay là do tu luyện mà có?
Vấn đề thứ hai: Tính chính xác của việc tìm kiếm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm. Và để đảm bảo được tính chính xác đấy thì phải có những yếu tố gì?
Vấn đề thứ ba: Làm thế nào để phân biệt được nhà ngoại cảm thật, nhà ngoại cảm chân chính với các nhà ngoại cảm rởm?
Vấn đề thứ tư: Việc tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm là phương pháp có thật đã đạt được những hiệu quả to lớn trong việc tìm kiếm hài cốt bị thất lạc vậy có cần phải quản lý các nhà ngoại cảm này không? Và có chế độ chính sách riêng gì cho các nhà ngoại cảm không? Đồng thời ngoài việc tìm kiếm hài cốt có nên sử dụng các nhà ngoại cảm vào những việc khác hay không?
Độc giả Phan Hoàng Linh (Hà Nội): Cá nhân tôi rất vui khi được biết chị đã tham gia buổi giao lưu trực tuyến do Báo điện tử PetroTimes tổ chức. Xin chúc chị mạnh khỏe, luôn tĩnh tâm để giúp ích được cho cả người trên dương thế và người dưới cõi âm.
Xin phép được hỏi chị: Chị phát hiện ra mình có khả năng ngoại cảm từ khi nào? Chị có hoảng sợ khi thấy mình có khả năng nói chuyện được với người cõi âm hay không? Và những người thân trong gia đình chị có lo lắng, sợ hãi khi thấy chị có khả năng siêu phàm đó không?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Tôi đã gặp tai nạn, biến cố và có khả năng ngoại cảm từ đó. Lúc đầu tôi rất sợ, trốn tránh không được, tôi hoang mang, người âm đuổi theo nhờ cậy, không chạy được. Lúc đầu người ta bảo tôi nói gở, hồi sau mọi người mới thấy là thật.
Độc giả Lê Thanh Huy (Bình Dương): Xin chị vui lòng cho biết, chị đã tìm được bao nhiêu hài cốt bị thất lạc. Và độ chính xác là bao nhiêu phần trăm?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Bản thân tôi cũng không thể nhớ hết bao nhiêu nghìn ngôi mộ. Nhưng tôi đã được 3 cơ quan: UIA, Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an và Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống tặng gương Huyền Thông A1000 từ năm 2000.
Tôi không tự đánh giá được mình, nhưng chủ nhiệm chương trình khảo nghiệm đề tài tìm mộ liệt sĩ của 3 cơ quan đã đánh giá là người trong hàng ngũ xuất sắc điển hình, khoảng 70%. Có nghĩa là trong 100 ngôi mộ tôi chịu trách nhiệm phụ trách thì xác suất thành công là 70 ngôi, còn 30 ngôi vì những lý do này khác, tôi chưa thành công.
Độc giả gửi từ email ngoclam@yahoo.com: Có thể tập luyện để nói chuyện được với người cõi âm hay không?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Tôi do bị tai nạn xảy biến cố mà có khả năng. Theo tôi được biết, các bậc tu hành giác ngộ, người ta cũng có khả năng giao lưu với thế giới vô hình. Nhưng những người này thường người ta không tham gia vào những vấn đề xã hội.
Độc giả Nguyễn Thu Minh (thuminh@gmail.com): Thưa ông, ông có thể cho độc giả biết thật vắn tắt lịch sử hình thành của UIA và tại sao gần đây lại sinh ra nhiều nhà ngoại cảm đến như vậy? Phải chăng chúng ta đang ở trong giai đoạn “âm thịnh, dương suy”? Nếu đúng như vậy thì chúng ta phải ứng xử với người cõi âm như thế nào?
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Ngoại cảm vốn có từ xa xưa, chỉ có điều chúng ta chưa nghiên cứu thấu đáo mà thôi: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Nhân Tông, Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường... Còn bây giờ nhà ngoại cảm nhái rất nhiều, trên 90%. Nếu bớt đi 90% của nhái đó đi thì tỷ lệ vẫn như xa xưa mà thôi.
Vì bạn nhìn thấy quá nhiều người tự xưng là nhà ngoại cảm nên bạn nghĩ đó là “âm”. Chứ thực ra không phải vậy. Bao giờ âm dương cũng ở thế cân bằng.
Từ xa xưa, ông cha ta đã có rất nhiều tôn giáo, tín ngưỡng để ứng xử với thế giới vô hình, nhưng hiện nay nhiều người tin theo bọn “nhái” nên sinh ra các hoạt động mê tín dị đoan.
Muốn ứng xử với người cõi âm để cho “âm siêu dương thái” thì phải tìm hiểu và giải mã những thông điệp từ cõi giới tâm linh. Cụ thể là: Không chỉ xây mộ to mộ đẹp, hình tướng bên ngoài là đủ mà phải làm những điều thiện, điều công đức để hồi hướng cho hương linh liệt sĩ và hương linh gia tiên, thực hiện những ước nguyện thiêng liêng của họ. Đó là cách ứng xử tốt nhất với người cõi âm, đó là làm điều thiện để phát nguyện cho họ - đó gọi là âm siêu dương thái.

Độc giả có địa chỉ email tuongminh@gmail.com: Trên thế giới, hầu như quốc gia nào cũng tồn tại khái niệm về người ở cõi âm. Đặc biệt là trong một số tôn giáo như Phật giáo thì điều này càng rõ, đó là thể hiện trong giáo lý nhà Phật về kiếp luân hồi. Vậy theo ông, có kiếp luân hồi hay không? Nếu có thì chúng ta cần phải sống như thế nào để kiếp sau được tốt hơn?
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Luân hồi là 1 quy luật khách quan của vũ trụ, bất cứ cái gì cũng có luân hồi... Tất cả đều tuân theo thuyết nhân quả luân hồi... Vậy thì sự luân hồi của kiếp người (thế giới hữu tình) cũng chỉ là một trong số đó.
Muốn kiếp sau tốt hơn thì kiếp này cần làm những điều thiện và cụ thể nói một cách bóng gió là: Muốn biết mùa sau gặt cái gì thì hãy nhìn hôm nay đang gieo cái gì!
Độc giả Tiến Nguyễn (tiennguyen@gmail.com): Thưa tiến sĩ, là một người từng đứng đầu cơ quan Khoa học Hình sự của Bộ Công an, ông có thể cho biết vì sao Viện Khoa học Hình sự lại là đơn vị được Chính phủ giao cho nhiệm vụ thực hiện chương trình khảo nghiệm tìm mộ liệt sĩ thất lạc bằng các khả năng đặc biệt? Đã có khi nào ông nghĩ đây là chuyện mê tín hay không?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Năm 1996, Viện Khoa học Hình sự được Hiệp hội câu lạc bộ UNESCO Việt Nam mời tham gia "Chương trình tìm lại Nam Cao" cùng 34 tổ chức, cơ quan khoa học khác. Đặc biệt lần đầu tiên có sự tham gia của 7 người có khả năng đặc biệt, mà mọi người thường gọi là các nhà ngoại cảm. Như chúng ta đều biết, chương trình này đã thành công tốt đẹp. Hài cốt của nhà văn Nam Cao đã được đưa về Viện Khoa học Hình sự giám định và sau đó đã chuyển địa phương và gia đình để tổ chức truy điệu và an táng bằng những nghi lễ rất trang trọng.
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, đã có một số nhà ngoại cảm tham gia tìm mộ liệt sĩ, theo đánh giá là có kết quả tốt. Trong dư luận xã hội cuối thập niên 90 có sự phân tâm rất mạnh giữa mê tín và tâm linh xung quanh việc này. Do vậy, giữa năm 1997 các cán bộ khoa học của 3 cơ quan là Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) do GS.TSKH Phan Đăng Nhật làm Giám đốc, Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học ứng dụng (thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học, Kỹ thuật Việt Nam) do TS Vũ Thế Khanh làm Giám đốc và Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an, do tôi là Phó viện trưởng đã có tờ trình Thủ tướng Chính phủ xin được nghiên cứu khảo nghiệm trường hợp anh Nguyễn Văn Liên, sinh năm 1963, quê ở Tứ Kỳ, Hải Dương về khả năng tìm mộ từ xa bằng ngoại cảm. Mục đích của nghiên cứu khảo nghiệm là xác định xem anh Liên thực sự có khả năng tìm mộ từ xa bằng ngoại cảm hay không để báo cáo các cơ quan quản lý Nhà nước và cũng để góp phần ổn định tâm lý xã hội.
Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường (KH-CN&MT) nghiên cứu, trả lời 3 cơ quan. Bộ KH-CN&MT đã ủng hộ việc nghiên cứu, lưu ý tránh mê tín dị đoan.
Tháng 10/1997, Bộ KH-CN&MT có công văn giao Viện Khoa học Hình sự chủ trì phối hợp với Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống và UIA tổ chức nghiên cứu.
Chúng tôi đã nghiêm túc tổ chức nghiên cứu, lựa chọn phương pháp khảo nghiệm phù hợp, tránh mê tín, dị đoan. Với số ca khảo nghiệm và xác suất thành công cao, kết quả nghiên cứu đã khẳng định được khả năng tìm mộ từ xa bằng ngoại cảm của anh Nguyễn Văn Liên là có thật. Đến giữa tháng 2/1998, 3 cơ quan đã có báo cáo kết quả nghiên cứu khảo nghiệm gửi các cơ quan quản lý, Phó thủ tướng Chính phủ phụ trách và các cơ quan của Đảng, Nhà nước.
Ngay từ đầu chúng tôi đã ý thức là việc nghiên cứu khảo nghiệm phải được thực hiện nghiêm túc vì vấn đề được nghiên cứu là cực kỳ nhạy cảm trên mọi phương diện. Đúng là ranh giới giữa tâm linh và mê tín vô cùng mỏng manh. Có người còn ví là không đủ chỗ để “cắm một cái kim”. Nhưng với phương pháp nghiên cứu hiện đại, phù hợp, trong đó chú ý phát hiện những thông tin mang tính cá biệt, có giá trị cao; “khách quan hóa” tối đa những thông tin do nhà ngoại cảm cung cấp (ban đầu hoàn toàn mang tính chủ quan), xác định nhân chứng và đặc biệt là vật chứng bằng các phương pháp giám định tối ưu của kỹ thuật hình sự, pháp y... chúng tôi đã thu được kết quả khách quan, đáng tin cậy và đã tránh được tất cả các yếu tố mê tín, dị đoan.
Do vậy, lãnh đạo và các cơ quan quản lý đã biểu dương, khen thưởng các cơ quan, tập thể cán bộ nghiên cứu và sự hợp tác của nhà ngoại cảm. Đồng thời đồng ý giao cho Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức nghiên cứu tiếp.
PGS.TS Ngô Tiến Quý
Độc giả Nguyen Thi Minh Chau (chauchau7984@gmail.com): Đầu tiên cho tôi gửi lời cảm ơn đến quý báo vì đã mở cuộc giao lưu trực tuyến này. Quả thật những ngày qua vấn đề về nhà ngoại cảm được dư luận hết sức quan tâm, xung quanh vấn đề này có nhiều ý kiến trái chiều. Bản thân tôi luôn ủng hộ chị Phan Thị Bích Hằng, dù rằng chưa một lần gặp mặt. Mong chị vượt qua dư luận và tiếp tục cống hiến khả năng của mình chị nhé.
Tôi chỉ có 2 câu hỏi thôi:
1.1 Về việc 4.000 ngôi mộ liệt sĩ tìm thấy ở Phú Quốc, một số báo nói rằng chị không liên quan đến nhưng một số báo lại nói rằng, việc tìm được là nhờ công của chị, mong chị giải thích rõ hơn?
2.2 Về vụ khách hàng thẩm mỹ viện bị bác sĩ ném xác phi tang, tại sao chị không đứng ra giúp đỡ, dù rằng trong thời gian này rất khó khăn đối với chị, nhưng nếu chị giúp tìm xác được thì theo đó khả năng của chị sẽ minh chứng rõ hơn?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Vừa qua, tôi có nghe thông tin phát trên truyền hình tạo ra dư luận rất trái chiều, là một người đã có hơn 20 năm tận tâm tận lực vất vả với công tác ngoại cảm. Khi nghe được những chuyện như vậy, tôi vô cùng phiền não nhưng nhớ lại lần tìm liệt sĩ ở Phú Quốc, bao nhiêu nghìn liệt sĩ bị tra tấn, bao nhiêu người bị đóng đinh vào đầu ngón tay tóe máu. Tôi mới thấy rằng đau khổ của các liệt sĩ vô cùng tận.
Lúc đầu tôi cũng nghĩ, mình tìm được hàng ngàn, hàng vạn ngôi mộ tôi tìm thấy, với khối lượng công việc như vậy mà bị hoài nghi, tôi cũng thấy tủi thân.
Nhưng khi nghĩ đến những đau khổ của các liệt sĩ mà mình kể công thì cũng hổ thẹn vô cùng. Sau đấy tôi cũng không thấy buồn nữa.
Với câu hỏi thứ hai, đây không phải là lúc tôi chứng minh năng lực của mình, trong 20 năm qua đã có cơ quan khảo nghiệm khoa học, có gia đình các liệt sĩ, có hương linh các liệt sĩ chứng minh cho năng lực của tôi.
Nhà ngoại cảm chỉ làm được khi trạng thái tâm lý thoải mái nhất và sức khỏe tốt nhất.
Nếu là bạn, trong lúc bạn bị ném đá dữ dội, bạn có làm gì được không, nhất là với tôi, làm việc bằng khả năng đặc biệt cần sự tĩnh tâm rất cao.
Độc giả Nguyen Xuan Phuong (phuongxl@yahoo.com): Xin chào và cảm ơn báo điện tử Petrotimes đã tổ chức cuộc giao lưu này. Tôi là Nguyễn Xuân Phương, thạc sỹ kỹ thuật tự động điều khiển. Tôi là người rất tin và mong tìm hiểu những gì trong "thế giới không nhìn thấy" của cô Bích Hằng.
Thời gian qua, các báo chí, cơ quan, cá nhân có nói đến hiện tượng nhà ngoại cảm tự xưng và làm điều sai trái, như "cậu Thủy" vừa bị bắt... Xin cô cho ý kiến về việc có thể có sự tham gia của các vong linh bị “cậu Thủy” lừa đảo để trừng phạt hắn hay không? Bởi vì theo những điều cô đã nói về vong linh hài nhi thì các vong linh rất hiện hữu và theo dõi được những gì dương thế đang làm?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Bất kể ai chứ không cứ gì cậu Thủy, theo giáo lý đạo Phật, làm điều gì sai trái, gian trá, lừa đảo, đổi trắng thay đen trước sau gì cũng bị trừng trị. Chỉ có điều là sớm hay muộn mà thôi.
Độc giả Lê Minh Anh (Đống Đa, Hà Nội): Ông có nghĩ rằng, chúng ta cần phải tập hợp các nhà ngoại cảm lại để ngoài việc tìm kiếm hài cốt bị thất lạc còn có thể làm được những việc khác? Ví dụ: Thăm dò tìm kiếm khoáng sản; tìm mỏ dầu… Và hiện nay những người dân có nhu cầu tìm hài cốt thất lạc đang bị lừa rất nhiều, vậy họ cần phải tìm đến đâu để có thể tin tưởng được?
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Khả năng ngoại cảm là 1 vốn quý không phải ai cũng có được, do vậy, phải trân trọng giữ gìn và sử dụng một cách hợp lý. Việc dùng ngoại cảm tìm mộ chỉ là một khả năng ứng dụng, còn nhiều lĩnh vực ứng dụng khác, ví dụ như tìm hung thủ gây ra tội phạm hình sự, xác minh vật đã mất và góp phần rất nhiều trong công tác dự báo... tùy theo khả năng của mỗi nhà ngoại cảm. Nhưng muốn ngoại cảm trong sáng và hiệu quả thì phải nhổ bỏ những ngoại cảm giả, ngoại cảm nhái thì ngoại cảm chân chính mới có cơ hội phát triển.
Việc dùng ngoại cảm tìm khoáng sản, dầu mỏ cũng chỉ là một ứng dụng, vì khả năng ngoại cảm cũng chỉ là bài toán gần đúng mà thôi. Tránh để cho những kẻ tham lam lợi dụng khả năng này để mưu lợi bất chính.
Cần phải có những biện pháp quản lý các nhà ngoại cảm để sử dụng có hiệu quả, tránh để hoạt động lan man, vô tổ chức. Cần tìm đến các cơ quan quản lý các nhà ngoại cảm như Viện Khoa học Hình sự, UIA, Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống để phối hợp thực hiện. Như thế thì mới tránh được sai sót.
Độc giả Nguyễn Thị Phương Thảo (Ninh Bình): Theo ông, nhà ngoại cảm có khả năng thật sự và nhà ngoại cảm rởm khác nhau lớn nhất ở điểm nào?
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Nhà ngoại cảm rởm không có khả năng gì đặc biệt nhưng lại có hành vi lừa đảo để kiếm tiền trên lòng tin của người khác.
Nhà ngoại cảm thật là người có thể nối dài các giác quan của mình so với người bình thường, nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy những điều mà người thường không thể với tới được.
PGS.TS Ngô Tiến Quý trả lời câu hỏi của độc giả.
Độc giả Lan Trần (tranlan@yahoo.com): Theo tiến sĩ, để giám định hài cốt một cách chính xác thì cần phải có những yếu tố gì và quy trình ra sao? Hiện nay cơ quan giám định nào là có uy tín nhất, có độ tin cậy cao nhất?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Giám định hài cốt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trước hết là sự phân hủy của hài cốt do tác động của môi trường (các chất axit, kiềm, các vi sinh vật...). Nếu hài cốt còn nguyên vẹn thì có thể tiến hành nghiên cứu hình thái xương (Morphologic Analyse), giám định những di vật được chôn cùng tử thi và cuối cùng là thường phải giám định hệ gen ty thể, bởi giám định gen ty thể cho kết quả chính xác cao nhất. Vì gen ty thể được truyền theo dòng mẹ, nên mẫu so sánh (thường là máu) phải thu của thân nhân là những người theo dòng mẹ (bà ngoại, mẹ, chị em gái của mẹ, các con gái của họ...).
Quy trình giám định gen rất khắt khe, đòi hỏi phải có phòng thí nghiệm có đủ trang bị kỹ thuật hiện đại theo chuẩn quốc tế và cán bộ chuyên môn được đào tạo chuyên sâu.
Trước hết, phải thu được mẫu xương đủ chất lượng (1-2 răng hoặc mảnh xương đùi, cánh tay, bả vai). Các mẫu được làm sạch và nghiền thành bột trong nitơ lỏng, rồi ngâm trong hóa chất đặc biệt. Tiếp theo là công đoạn tách chiết, công đoạn nhân bản và giải trình tự gen. Những công đoạn này do máy tự động thực hiện trong môi trường vô trùng. Và cuối cùng một phần mềm máy tính thực hiện việc so sánh trình tự gen của hài cốt với trình tự gen mẫu của thân nhân.
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều phòng thí nghiệm giám định gen, nhưng mục đích hoạt động không giống nhau nên việc đầu tư máy móc kỹ thuật và cán bộ chuyên môn cũng có những sự khác biệt nhau.
Ví dụ, Viện Công nghệ Sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ thuật Việt Nam là cơ quan nghiên cứu và ứng dụng tầm quốc gia nên trang bị hiện đại và có nhiều cán bộ khoa học; Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an là cơ quan giám định tư pháp về gen đáp ứng hầu như tất cả các yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác nên đã triển khai phòng thí nghiệm giám định gen hiện đại vào loại sớm nhất trong cả nước (từ năm 1999), nay đã triển khai giám định gen cả ở Phân viện Đà Nẵng và Phân viện thành phố Hồ Chí Minh.
Viện Khoa học Hình sự có đội ngũ cán bộ chuyên môn đông đảo, được đào tạo cơ bản và có nhiều kinh nghiệm lại thường xuyên hợp tác với các phòng thí nghiệm trong khu vực và quốc tế trong điều tra tội phạm với tư cách là thành viên chính thức của Hiệp hội Giám định Tư pháp; một số bệnh viện cũng đã triển khai giám định gen phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân...
Độc giả Trần Văn Thạo, Thái Bình (vanthaotran@gmail.com): Thưa Thiếu tướng, lực lượng cảnh sát hình sự có bao giờ “nhờ” các nhà ngoại cảm chân chính giúp cho việc phá án không ạ?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Trong công tác điều tra, xác định sự thật của các vụ án, lực lượng cảnh sát điều tra phải phát hiện thu thập và sử dụng rất nhiều các loại thông tin khác nhau, trong đó có thể có những thông tin do các nhà ngoại cảm cung cấp. Tuy nhiên, những thông tin này chỉ được coi là chứng cứ khi được thu thập theo đúng trình tự thủ tục, pháp luật tố tụng hình sự quy định và phải được chứng minh là có thật. Nếu thông tin mà nhà ngoại cảm cung cấp sau đó được chứng minh bằng giám định hình sự, pháp y hoặc các loại hình giám định khác thì có thể được sử dụng làm chứng cứ, phục vụ cho công tác điều tra, phá án.
Độc giả Vũ Gia Minh (Tuyên Quang): Cảm xúc của chị như thế nào trong mấy ngày qua?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Tôi thấy rất phiền não và cũng tương đối căng thẳng bởi vì có quá nhiều cuộc nhắn tin và điện thoại gọi đến hỏi thăm.
Độc giả Lưu Văn Bổng (Phú Yên): Chị có phản ứng như thế nào về những cáo buộc của BTV Thu Uyên trên VTV về chị? Tại sao chị im lặng không có bất kỳ lời giải thích nào? Chị có giải thích gì về trường hợp tìm thủ cấp của liệt sĩ Phùng Chí Kiên?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Lúc đầu tôi có hơi bị sốc nhưng sau đó bình tĩnh lại, tôi nhận thấy không cần thiết phải nói. Thực chất BTV Thu Uyên chỉ đưa một trường hợp của tôi ra để viện dẫn chứ không cáo buộc. Là do dư luận chưa hiểu thấu đáo bản chất của vấn đề chương trình muốn đưa ra. Thật lòng, tôi rất phẫn nộ trước việc làm của Nguyễn Thanh Thúy nên cũng rất ủng hộ chị Thu Uyên.
Khi chương trình phát xong, tôi vẫn đi mua sắm, đóng gói hàng cứu trợ để chuyển cho nhóm từ thiện Sen Xanh mang tặng đồng bào Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Do báo chí đưa thông tin giật tít theo hiệu ứng đám đông nên mới gây làn sóng dư luận trong ngày qua. Tôi không giải thích vì không có lời giải thích nào bằng chính những việc làm của tôi trong hơn 20 năm qua.
Về trường hợp của liệt sĩ Phùng Chí Kiên, tôi nhận lời đề nghị của các bác đồng đội liệt sĩ Phùng Chí Kiên đi tìm thủ cấp của bác ấy. Cảm động trước nghĩa tình đồng đội, nhận thấy đây cũng là sứ mạng thiêng liêng được giao phó, tôi đã làm bằng tất cả khả năng của mình với sự cố gắng cao nhất. Tôi đã tìm đến vị trí cuối cùng theo chỉ dẫn tâm linh của liệt sĩ Phùng Chí Kiên. Sau đó, việc khai quật, cất bốc liệt sĩ do gia đình và các cơ quan chức năng đảm nhiệm, tôi không tham gia công đoạn này.
Độc giả Phong Doan (dongvanchi65@gmail.com): Tôi là một cựu chiến binh chống Mỹ xin được hỏi: 1) Linh hồn là gì? vong là gì? 2) Theo đạo Phật, vong người chết cùng lắm 49 ngày sẽ đầu thai theo luật nhân quả; theo đạo Thiên Chúa, vong người chết sẽ về nước chúa hoặc sa hỏa ngục. Vậy các nhà ngoại cảm giao tiếp với vong nào?
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Linh hồn là một trong những cách gọi để chỉ một phần vật chất mà khi đã chết thì phần vật chất vô hình thoát ra khỏi xác đi trong không gian. Có thể gọi dưới nhiều tên khác nhau: Ma, cô hồn, vong, hương linh, anh linh, giác linh... còn bình thường trong đạo Phật gọi chung là thần thức.
Ví dụ một cách cho dễ hình dung: ví như thể xác là xe, linh hồn là người lái xe. Khi người chết cũng như xe chết máy, người lái xe ra khỏi xe, hồn ra khỏi xác. Thần thức luân hồi, người lái xe có thể lái xe khác.
Nếu viết ra ở đây thì rất dài. Có thể hình dung thế này, sau 49 ngày chỉ là “có thể” được đầu thai. “Có thể” là còn tùy theo duyên, đủ duyên thì mới được đi đầu thai trong lục đạo luân hồi. Phật cũng không nói là 49 ngày là theo hệ quy chiếu của cõi giới nào: thời gian của cõi Ta Bà Dục Giới, cõi Tiên hay các cõi giới khác...
Chúng tôi đã giao lưu với nhiều linh hồn theo đạo Thiên Chúa, họ nói rằng: Phải làm đúng những điều Chúa dạy thì mới đủ tiêu chuẩn lên thiên đàng. Nếu mọi chúng sinh còn đầy tội lỗi, xấu xa, lừa đảo, tham nhũng... mà cũng được lên thiên đàng thì thiên đàng là bãi rác của trần gian hay sao.
Nhà ngoại cảm giao tiếp với vong khi vong còn ở thân Trung ấm, chưa đầu thai, chưa tái sinh vào các cõi giới khác...
Chị Lê Thị Loan Anh, quận Ngô Quyền, Hải Phòng (mechip_tho@yahoo.com): Thưa Thiếu tướng Ngô Tiến Quý, theo luật pháp, nhà ngoại cảm “rởm” đem xương động vật để làm giả hài cốt liệt sĩ sẽ bị xét xử theo tội danh gì?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Theo Điều 139, Bộ luật Hình sự năm 2009, hành vi trên đã phạm vào tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.
Lê Hòa Đàn, Vũng Tàu (danhoale902@yahoo.com): Với trường hợp xét nghiệm ADN thì không đúng nhưng di vật (bi đông, lọ penicilin) lại ghi danh liệt sĩ sẽ phải xử lý như thế nào thưa ông?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Trường hợp tìm hài cốt phát hiện được những vật như bi đông, lọ penicilin hay những vật ghi danh liệt sĩ thì phải giám định xem đây có đúng là những di vật được chôn cùng với hài cốt hay không.
Đã có những trường hợp ghi danh liệt sĩ nhưng không phải được chôn cùng hài cốt (trong những vụ lừa đảo). Viện Khoa học Hình sự đã từng phải giám định chữ viết ở trên tờ giấy ghi danh liệt sĩ xem được viết từ bao giờ hoặc giám định xem là giấy mới hay giấy cũ. Hoặc có trường hợp chữ được viết bằng bút bi mà khi liệt sĩ hy sinh thì không có loại bút này, hoặc là giấy mới được sản xuất.
Thậm chí, có trường hợp chúng tôi còn xác định được chữ viết là chữ của nhà ngoại cảm “rởm” hoặc là chữ viết của một người nào giúp việc cho nhà ngoại cảm “rởm” như lái xe, vệ sĩ, thậm chí cả người thân của họ - những người không tham gia vào việc đi tìm mộ ở hiện trường.
Độc giả Đặng Bích Nga (Phúc Yên, Vĩnh Phúc): Chị có khả năng ngoại cảm từ bao giờ? Chị có nhớ chị đã tìm được bao nhiêu hài cốt? Chị có cảm thấy may mắn khi có khả năng đặc biệt không?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Tôi bắt đầu có khả năng đặc biệt từ năm tôi 17 tuổi. Số lượng hài cốt tôi tìm được trong hơn 20 năm qua chắc cũng tới con số hàng ngàn, nhân dân có, liệt sĩ có.
Thú thực tôi cũng không sung sướng gì khi có khả năng này. Sự đặc biệt đó đã khiến tôi phải chịu rất nhiều thiệt thòi, hy sinh, nếm trải quá nhiều đắng cay, gian khổ. Mà không chỉ riêng tôi, những người thân của tôi cũng phải chịu những thiệt thòi, hy sinh, đặc biệt là hai đứa con nhỏ. Rất nhiều lần tôi mong muốn khả năng đó mất đi để tôi có được cuộc sống bình thường, có lúc tôi đã tự bứt khỏi công việc này, nhưng rồi tôi cứ bị giục giã, thôi thúc buộc phải làm như một sứ mạng không thể chối từ.
2 năm gần đây, tôi quyết tâm dành nhiều thời gian hơn cho chồng và cho con. Khi được cùng con đi chơi, dạy cho con tập xe đạp thì tôi chợt nhận ra rằng "làm một người phụ nữ bình thường thật thú vị".
Độc giả Hồng Thắm Nguyễn (Email: thamnh95@gmail.com): Hoạt động ngoại cảm cho tới nay còn nhiều “ẩn số”. Năng lực ngoại cảm có thật hay không, đối với đa phần các nhà khoa học trên thế giới là một điều cần phải kiểm chứng. Khi mà sự đúng đắn của ngoại cảm còn gây “nghi ngờ” thì những hành vi ngoại cảm giả mạo đã được lật tẩy ở quá nhiều nơi, quá nhiều lần. Để khẳng định tính “chính danh” của Trung tâm UIA, cũng như năng lực thấu thị, ngoại cảm của các nhà ngoại cảm mà UIA cấp bằng chứng nhận, ông và trung tâm UIA có sẵn lòng tiến hành các thử nghiệm một cách khoa học thực nghiệm, có sự chứng kiến của cả những người xưa nay nghi ngờ hoạt động ngoại cảm không tiến sĩ? Chẳng hạn phương pháp đoán đồ vật bị giấu kín, miêu tả đường đi, cấu trúc một khu vực nào đó trên trái đất?
TS Vũ Thế Khanh: Năng lực ngoại cảm đã được khẳng định từ năm 1997 khi Chính phủ và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trực tiếp giao nhiệm vụ khảo nghiệm khả năng đặc biệt cho 3 cơ quan: Viện Khoa học Hình sự (lúc đó là Bộ Nội vụ và giờ là Bộ Công an), Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) và Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử). Trong đề tài này, nhiệm vụ phải trả lời cho Chính phủ và các cơ quan chức năng của Chính phủ là năng lực ngoại cảm có thật hay không? Nếu không thật thì phải kiến nghị với các cơ quan chức năng xóa bỏ hình thái này ra khỏi đời sống văn hóa của nhân dân. Nếu như có thật thì phải tìm ra những điểm tích cực cũng như những điểm còn hạn chế của phương pháp và tiến tới nghiên cứu giai đoạn 2.
Lúc đó, Chính phủ đã giao cho Viện Khoa học Hình sự làm chủ nhiệm đề tài, còn UIA và Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống làm phó chủ nhiệm đề tài và phải thực hiện kiểm định ít nhất là 100 ca để lấy tỉ lệ xác suất. Trong quá trình khảo nghiệm, một công đôi việc thì tiến hành luôn việc tìm mộ liệt sĩ thất lạc, phục vụ chương trình “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, với thời gian 6 tháng đã có trên 3.000 gia đình liệt sĩ đăng ký và chúng tôi đã khảo nghiệm được gần 1.000 ca và cho xác suất số ca thành công là 70% và số ca chưa thành công là 30%. Các hồ sơ khảo nghiệm đều được ghi chép, thống kê và đánh giá theo ngôn ngữ của khoa học hình sự. Hồ sơ nghiệm thu cũng được báo cáo với Chính phủ và cơ quan chức năng và đã được Hội đồng nghiệm thu đánh giá rất cao, đây là kết quả kiểm chứng theo ngôn ngữ của khoa học hiện đại, Chính phủ và các cơ quan Bộ, ban, ngành cũng đã tuyên dương, khen thưởng đối với những kết quả này của ba cơ quan.
Những hồ sơ khảo nghiệm của các giai đoạn đều đang được lưu trữ tại 3 cơ quan thực hiện đề tài (có những hồ sơ hiện vẫn đang được bảo mật). Vậy nên, nếu bạn đọc nào nghi ngờ kết quả thì có thể mang giấy giới thiệu đến UIA, Viện Khoa học Hình sự và Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống để đọc hồ sơ.
Ba cơ quan này cũng chưa bao giờ cấp giấy chứng nhận cho bất kỳ nhà ngoại cảm nào mà chỉ có quyết định lập Hội đồng nghiên cứu cho từng đối tượng xin đăng ký khảo nghiệm và phải khảo nghiệm tại cơ quan chứ không khảo nghiệm tại nhà riêng. Nó giống như việc đăng ký thi đại học và nếu trường hợp nào không đáp ứng được yêu cầu sơ khảo thì sẽ bị loại ngay từ vòng đầu. Nếu những cá nhân có tín hiệu tích cực thì Hội đồng khoa học mới được thành lập và phải thực hiện ít nhất 100 ca.
Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu của chúng tôi đều có sự hỗ trợ của các thiết bị máy móc thuộc Viện Khoa học Hình sự. Và hiện nay, Viện Khoa học Hình sự cũng đang được đánh giá là một trong những viện có thiết bị hiện đại bậc nhất Đông Nam Á.
Về phương pháp đoán đồ vật, giấu kín, miêu tả đường đi... thì đây chỉ là một quy trình rất nhỏ và đơn giản trong quá trình tìm đến mộ liệt sĩ hoặc người mất tích. Chúng tôi cũng đã có nhiều kết quả sâu hơn, thậm chí là vượt cả thời gian, không gian ví dụ như đã tìm những ngôi mộ cách đây hàng trăm năm hoặc đã tìm được những ngôi mộ ở tận Vân Nam (Trung Quốc), Lào, Campuchia... và đặc biệt đã tìm được những anh em thất lạc trên 60 năm nay (mặc dù đã thay tên đổi họ) mà giám định gen đã cho kết quả chuẩn xác.
Độc giả Phạm Minh Chính (Bắc Ninh): Theo tiến sĩ, Chính phủ có cần quản lý hoạt động của các nhà ngoại cảm hay không? Nếu bây giờ đặt ra vấn đề là cấp thẻ hành nghề cho các nhà ngoại cảm thì ông thấy thế nào?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Thời gian qua và ngay cả hiện nay có quá nhiều người tự xưng rồi lại được một bộ phận nhân dân "suy tôn" là nhà ngoại cảm. Rồi rất nhiều các trung tâm ngoại cảm tìm mộ liệt sĩ mọc lên. Tôi không có số liệu thống kê chính xác nhưng chắc chắn tỉ lệ những nhà ngoại cảm "rởm" là cực kỳ cao. Người Việt có một nét văn hóa vô cùng đáng trân trọng là người sống luôn nhớ đến thân nhân đã chết, lo cho ngày giỗ, kỵ, lo cho mồ yên mả đẹp... Do vậy, trong khoảng 20 năm qua, việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, hài cốt thân nhân bị thất lạc đã trở thành một nhu cầu mang tính xã hội rất rộng. Và cũng trong thời gian qua đã xuất hiện nhiều nhà ngoại cảm có khả năng tìm hài cốt.
Qua nghiên cứu của chúng tôi suốt hơn 20 năm qua, cũng như nhiều nhà khoa học khác thì chúng ta không thể phủ nhận được rằng, có những người có khả năng đặc biệt, trong đó có các nhà ngoại cảm. Nhưng tình trạng lộn xộn như hiện nay thì không thể chấp nhận được. Vấn đề đặt ra là phải quản lý thật chặt chẽ việc áp dụng ngoại cảm tìm mộ liệt sĩ.
Chúng tôi đề nghị phải có những tổ chức có đủ năng lực để kiểm tra, xác định xem họ có năng lực ngoại cảm hay không (việc này không khó). Tiếp theo, nếu có khả năng ngoại cảm thì xác định thiên về hướng nào, cao hay thấp, cao đến mức nào... Việc định lượng là tương đối khó và phải khảo nghiệm rất cụ thể và liên tục vì đến nay chúng ta chưa biết cơ chế tiếp cận thông tin của nhà ngoại cảm và vì ngay nhà ngoại cảm có năng lực tốt cũng không biết có khi nào đó mình đưa ra thông tin sai.
Theo tôi không nên coi hoạt động ngoại cảm là một nghề để rồi cấp thẻ cho người tự xưng là nhà ngoại cảm hoạt động. Nhưng cần phải trân trọng khả năng đặc biệt này để có biện pháp sử dụng phù hợp phục vụ yêu cầu xã hội, tránh lãng phí chất xám. Riêng trong việc tìm mộ, nếu có nhiều thông tin, chứng cứ vật chất tin cậy trong vụ việc cụ thể thì có thể không cần giám định gen (để đỡ tốn kém). Còn lại tất cả các trường hợp khác đều phải giám định gen thì mới đủ độ tin cậy.
Cuối cùng, chúng tôi xin đề xuất cụ thể thế này:
1. Cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước nhanh chóng có văn bản nghiêm cấm việc tổ chức hành nghề ngoại cảm tìm mộ liệt sĩ cũng như với những động cơ khác, đặc biệt là liên quan đến chính trị. Cần đưa ra chế tài từ xử lý hành chính, đến bắt buộc chữa bệnh (có nhiều người mắc bệnh tâm thần hoang tưởng), xử lý hình sự (tội lừa đảo, gây rối trật tự...).
2. Với những người được cơ quan khoa học xác định có khả năng ngoại cảm thông qua kết quả khảo nghiệm nghiêm túc (có hồ sơ đầy đủ để có thể kiểm tra, giám sát) cần được các cơ quan này quản lý, sử dụng tiếp vào việc tìm hài cốt liệt sĩ ở giai đoạn đầu. Đặt vấn đề quản lý vì phải thường xuyên giám sát, kịp thời phát hiện thông tin thiếu chính xác (vì ngay nhà ngoại cảm cũng không biết) để có hướng đi tiếp phù hợp, tránh sai sót, tốn kém tiền của của nhân dân.
Các cơ quan khoa học hỗ trợ gia đình đi tìm hài cốt liệt sĩ trong nghiên cứu, đánh giá thông tin để quyết định các bước tiếp theo. Người đi tìm hài cốt liệt sĩ cần luôn tỉnh táo khi tiếp nhận và xử lý thông tin do nhà ngoại cảm cung cấp. Chỉ nên thu một khoản kinh phí nhỏ để bồi dưỡng cho nhà ngoại cảm, cán bộ chuyên môn tư vấn, còn việc đi tìm hài cốt do gia đình tự trang trải.
3. Cần thống kê và công bố rộng rãi các phòng thí nghiệm giám định gen có đủ năng lực giám định gen ty thể để Nhà nước giao nhiệm vụ và nhân dân biết khi có nhu cầu. Chúng tôi cũng đã nghĩ đến việc xây dựng cơ sở dữ liệu (ngân hàng) gen các thân nhân liệt sĩ để tra cứu trong giám định, nhưng sẽ rất tốn kém vì số lượng liệt sĩ chưa xác định được danh tính rất lớn. Trước mắt, cứ trường hợp nào có nhu cầu thì phân tích gen, rồi lưu lại bằng một phần mềm máy tính, có sự kết nối giữa tất cả các phòng thí nghiệm để cùng khai thác. Nhà nước nên có hỗ trợ cho các gia đình liệt sĩ khoản kinh phí nhất định vì giám định gen tương đối tốn kém.
Độc giả Thảo Nguyễn (thaonguyenvan@gmail.com): Thưa Thiếu tướng, trước vụ bắt “cậu” Thủy, lực lượng cảnh sát hình sự đã bao giờ “quan tâm” đến hoạt động rầm rộ của các nhà ngoại cảm để xác minh thật/giả hay chưa?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Tôi tin là với trách nhiệm bảo vệ an ninh trật tự, công an ở các đơn vị hình sự địa phương chắc chắn đã quan tâm tới các hoạt động của các trung tâm ngoại cảm tìm mộ tự phát mọc lên. Tuy nhiên, về mặt Nhà nước, chúng ta chưa có những quy định cụ thể để xử lý những việc làm mang tính lừa đảo hoặc giả danh nhà ngoại cảm… Chỉ khi những trường hợp như đối tượng Thủy có dấu hiệu phạm tội thì cơ quan điều tra mới bắt đầu vào cuộc, tức là khởi tố và bắt bị can.
Độc giả Phạm Hoài Nam (Quảng Trị): Thưa bà, trong số hàng nghìn hài cột liệt sĩ mà bà đã tìm được (từ khắp mọi miền đất nước như báo chí đã nêu) bà có đủ dũng cảm khẳng định những bộ hài cốt đó là tên tuổi thật, hay cũng chỉ là xác suất phần trăm. Trước vong linh các anh hùng liệt sĩ, bà có thể nói một lời hứa danh dự với những gia đình thân nhân mà mình đã được mời gọi đi tìm mộ?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Việc tìm hàng ngàn hài cốt liệt sĩ trong những năm qua, tôi đã làm bằng tất cả tấm lòng tri ân của mình, với cái tâm hoàn toàn trong sáng. Kết quả đã được trả lời bằng những kết quả giám định của các cơ quan chức năng. Tôi xin đơn cử một số trường hợp như việc tìm hài cốt nhà văn Nam Cao, hài cốt lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh, hài cốt nhà yêu nước cách mạng Hồ Ngọc Lân, anh hùng lực lượng vũ trang Đậu Văn Ngôn… đều có kết quả giám định ADN khẳng định là đúng.
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trả lời câu hỏi của độc giả.
Độc giả Lưu Hoàng Yến (Hải Dương): Theo cháu được biết, có khả năng đặc biệt là có thể nói chuyện được với người âm. Vậy cô có thể cho cháu biết cuộc sống ở cõi âm có giống với cuộc sống trên trần gian không? Nếu khác thì khác nhau về những cái gì? Cô đã tham gia tìm bao nhiêu hài cốt liệt sĩ? Và đã chính xác được bao nhiêu phần trăm?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Cô cũng chưa bao giờ nhìn thấy cuộc sống ở dưới âm. Cô chỉ được gặp linh hồn của họ, trong quá trình gặp gỡ, cô nhận thấy họ cũng có cảm xúc vui, buồn, yêu, ghét như những người trên trần gian.
Cô đã tham gia tìm rất nhiều hài cốt trong thời gian khá dài. Có cơ quan khảo cứu khoa học đã ghi chép tổng hợp, đánh giá tỉ lệ chính xác tùy từng thời điểm. Có thời điểm cao nhất theo kết luận của cơ quan khoa học là 75%.
Độc giả Lê Tuấn Anh (tuananh0169@gmail.com): Thưa chị Phan Thị Bích Hằng, được biết chị đã xin nghỉ không tìm mộ liệt sĩ bằng khả năng ngoại cảm từ năm 2009 vì lý do riêng. Vậy có phải là do khả năng ngoại cảm của chị đã thuyên giảm, không còn chính xác nên chị xin thôi? Có thông tin cho rằng, sau khi tuyên bố nghỉ, theo nhu cầu của một số gia đình, chị vẫn tiếp tục tiến hành một số ca tìm mộ liệt sĩ thất lạc, vậy có đúng không?
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: Là một người phụ nữ, tôi rất muốn có một cuộc sống như bao phụ nữ bình thường khác. Nhưng dường như tâm linh đã trao cho tôi sứ mệnh đặc biệt, cho nên trách nhiệm của tôi là phải làm tròn sứ mệnh đó.
Độc giả Hồng Thắm (thamnh95@gmail.com): Việc ông và Trung tâm UIA dễ dãi đặt lòng tin vào những hành vi có tính tà thuật như vậy, không cần thông qua tái kiểm nghiệm khoa học thì cho dù chỉ là phương pháp chỉ báo, ch thị, cũng thấy quá khó để tin rằng, UIA đang kiểm soát mọi hoạt động của mình và các thành viên bằng sự thận trọng của nhà khoa học thực sự. Phải chăng UIA cũng đang hoạt động dựa trên các tiên đề niềm tin về tâm linh? Chứ không phải dựa trên các khảo sát bằng khoa học thực nghiệm?
TS Vũ Thế Khanh: Bạn nói rằng, “UIA dễ dãi đặt lòng tin vào hành vi có tính tà thuật” thì đó chỉ là suy nghĩ cảm tính của riêng của những người chưa được tiếp xúc với hội đồng khảo nghiệm. Nếu như chúng tôi dễ dãi thì làm sao UIA có thể phát hiện ra trên 90% những kẻ giả danh nhà ngoại cảm và lừa đảo. Chúng tôi đã nhiều lần cảnh báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và đặc biệt là trên trang web uia.com.vn. Nếu cần, bạn có thể vào đó tham khảo.
Các kết quả công bố của UIA là thay mặt 3 cơ quan cùng chung nhiệm vụ khảo nghiệm. Và kết quả này không dựa trên niềm tin mà dựa trên bằng chứng của khoa học hình sự. Hiện nay, như tôi đã nói, các hồ sơ mà UIA và cơ quan hình sự đã tiến hành đều được lưu trữ với nhân chứng, vật chứng rõ ràng, thậm chí cả hồ sơ giám định của nhiều cơ quan khác. Có lẽ bạn đã đánh đồng những kẻ ngoại cảm giả mạo với các nhà ngoại thực thụ thuộc 3 cơ quan quản lý.
Hiện nay trong trang web uia.com.vn, chúng tôi có thông báo những nhà ngoại cảm điển hình, còn những người không có tên trong đó thì không thể cho rằng là “những nhà ngoại cảm” do 3 cơ quan quản lý.
Độc giả Đỗ Thùy Dương (thuyduong67@gmail.com):Tôi thấy nói đến nhiều về việc nhà ngoại cảm tìm hài cốt liệt sĩ nhưng không thấy nói đến việc tìm hài cốt người thân mất tích, hoặc mất mồ mả cha ông, hay tìm tàu cổ đắm chẳng hạn? Hay ngược lại, giả sử tìm thấy một bộ hài cốt có thể xác nhận được nhân thân không? Xin Thiếu tướng cho biết, đã có trường hợp nào như vậy không?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Thực ra, nhà ngoại cảm có thể tìm hài cốt của bất cứ ai. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, các cơ quan chúng tôi lồng ghép các việc nghiên cứu với hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tức là ưu tiên tìm hài cốt liệt sĩ. Hiện nay, bất cứ ai có nhu cầu tìm người thân hoặc mồ mả cha ông… đều có thể tìm đến nhà ngoại cảm để được giúp đỡ.
Nếu tìm thấy một bộ hài cốt thì cũng có thể thông qua nhà ngoại cảm biết được tên của người đã mất, họ là ai và thân nhân của họ là ai? Thực tế, đã có nhiều trường hợp nhà ngoại cảm đã nói được tên của người mất hoặc nhắn cho người thân của họ tới nhận hài cốt. Còn việc giám định gen bộ hài cốt để xác định tung tích thì còn phụ thuộc vào mẫu so sánh vì nếu không biết thân nhân là ai thì không có mẫu so sánh.
Độc giả Đỗ Văn Việt, Phúc Thọ, Hà Nội (vietdv73@yahoo.com): Trong số hàng nghìn bộ hài cốt của các nhà ngoại cảm được giám định AND, bao nhiêu phần trăm là sự thật? Trong số đó có bao nhiêu bộ hài cốt không phải là xương người, có khoảng bao nhiêu phần trăm hài cốt bị làm giả, những trường hợp làm giả không phải xương người này là vô tình hay cố ý?
Thiếu tướng, PGS. TS Ngô Tiến Quý: Hiện nay, việc giám định ADN hài cốt được tiến hành ở nhiều phòng thí nghiệm khác nhau. Chúng tôi không có số liệu thống kê cụ thể nên không thể biết được có bao nhiêu phần trăm là sự thật, bao nhiêu phần trăm bộ hài cốt không phải là xương người hay bị làm giả.
Trong buổi giao lưu hôm nay, chúng tôi sẽ đề xuất giải pháp liên kết các phòng thí nghiệm để phối hợp và chia sẻ thông tin trong quá trình giám định hài cốt. Hy vọng là trong thời gian tới, chúng ta sẽ có được số liệu thống kê cụ thể để công bố.
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh
Độc giả Đỗ Văn Việt (Phúc Thọ, Hà Nội): Muốn biết rõ một con người có khả năng ngoại cảm cần kiểm định trong thời gian bao nhiêu lâu. Cụ thể tiến sĩ nhận xét về bà Phan Thị Bích Hằng?
TS Vũ Thế Khanh: Về câu chuyện của Bích Hằng, tôi có thể khẳng định chắc chắn Bích Hằng là một trong những nhà ngoại cảm thật sự, có đóng góp lớn trong việc tìm và quy tập mộ liệt sĩ. Bích Hằng cũng được xem là một trong những nhà ngoại cảm xuất sắc, điển hình đã được tặng, phần thưởng dành cho những nhà ngoại cảm đạt thành tích tìm được ít nhất 1.000 mộ liệt sĩ bằng khả năng đặc biệt của mình.
Trong “hành trình tìm lại Nam Cao”, Bích Hằng là 1 trong 7 nhà ngoại cảm tham gia. Các thông tin dẫn đến việc tìm được mộ liệt sĩ Nam Cao thì Bích Hằng đóng góp tới 60% thông tin cơ bản, còn 40% là do các nhà ngoại cảm khác bổ sung.
Độc giả gửi từ email Nhunguyen71@gmail.com: Thưa ông! Khả năng ngoại cảm của một số ít, rất ít người là có thật và họ đã làm được những việc có thật. Nhưng một số cơ quan như Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì kiên quyết “nói không” với nhà ngoại cảm…
Có phải vì nếu “nhờ” thì coi như các cơ quan của Nhà nước đã “chính thức công nhận” ngoại cảm - điều này thì lại dễ gắn với “mê tín dị đoan”, là công nhận có “thế giới bên kia”… Mà đó là điều mà rất nhiều người không muốn, hoặc không dám công nhận. Ông nghĩ sao về việc này?
TS Vũ Thế Khanh: Tôi cho rằng, phát biểu như các vị ở trên là do các cơ quan này chưa được Chính phủ giao cho nhiệm vụ khảo nghiệm. Đề tài khảo nghiệm là do Chính phủ giao nhiệm vụ trực tiếp cho 3 cơ quan là UIA, Viện Khoa học Hình sự và Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống. Do vậy, các vị ấy phát biểu cũng chẳng có gì mâu thuẫn. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhiều bộ, ban, ngành chức năng đã khen thưởng về những thành tích mà 3 cơ quan đã làm được. Đó chính là sự ghi nhận của Đảng và Chính phủ đối với những đóng góp của các nhà ngoại cảm. Thiết tưởng việc này nhiều người đã biết.
Về nội dung: “Các cơ quan của Nhà nước đã “chính thức công nhận” ngoại cảm - điều này thì lại dễ gắn với “mê tín dị đoan””, tôi nghĩ rằng cần phải phân biệt rõ 2 khái niệm “ngoại cảm” với “mê tín dị đoan”.
- Mê tín dị đoan là tin một cách mê muội về những điều khác thường.
- Ngoại cảm là khả năng “nối dài các giác quan” để cảm nhận được thế giới bên ngoài so với người bình thường.
Nếu không phân biệt rõ hai 2 khái niệm này thì có khi nhà ngoại cảm thực thụ vẫn bị hiểu sai như trường hợp Bích Hằng tìm thủ cấp liệt sĩ Phùng Chí Kiên. Trong quá trình tìm thủ cấp liệt sĩ thì Bích Hằng đã nói đúng người chôn cất là cụ Vò ở Bắc Kạn, cụ là thợ cắt tóc. Cụ đã lấy được thủ cấp của liệt sĩ và mai táng trong cái thùng đồ nghề cắt tóc của mình. Khi mai táng, ông đã dùng bát để kê đầu của liệt sĩ. Như vậy, những mảnh bát là vật chứng quan trọng và được coi là tín hiệu tích cực theo như lời “mách bảo” trước của Bích Hằng. Nhưng người ta lại mang mảnh bát đi giám định gen, đánh tráo khái niệm vật chứng thành “hài cốt” để mọi người hiểu lầm, phủ nhận công lao của Bích Hằng.
Tôi rất tán đồng với chị Thu Uyên (Đài Truyền hình Việt Nam) trong việc “vạch mặt” những kẻ giả danh ngoại cảm. Đối với những đối tượng này cần phải trừng trị nghiêm khắc hơn nữa.
Nhưng nếu như trong chương trình này (phóng sự phát trên chương trình VTV) tách riêng các nhà ngoại cảm thực thụ và ghi nhận thành tích của họ với những kẻ giả danh ngoại cảm thì bài phóng sự sẽ đầy đủ, trọn vẹn, khách quan hơn!
Độc giả Lê Thị Hoa, Nghi Tàm, Hà Nội (hoathile_58@gmail.com):Thưa Thiếu tướng, đã có liệt sĩ công an nào được tìm thấy hài cốt nhờ nhà ngoại cảm chưa?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Tôi xin khẳng định với bạn là đã có nhiều liệt sĩ công an được tìm thấy hài cốt nhờ nhà ngoại cảm. Ví dụ, hài cốt nhiều liệt sĩ tình báo trong tử ngục Chín hầm Côn Đảo như các đồng chí Lý Văn Tố, Phan Hữu Đà… đã được tìm thấy nhờ nhà ngoại cảm.
Độc giả Huyền Nhung, Lê Duẩn, Hà Nội (menhungbeo@yahoo.com): Trường hợp thân nhân xác định được di vật nhưng xét nghiệm ADN không đúng sẽ giải quyết như thế nào, thưa Thiếu tướng?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Mẫu để giám định ADN (theo hệ gen ty thể) phải là răng, xương, tóc. Nếu mà là di vật thì sẽ được giám định bằng kỹ thuật hình sự.
Độc giả Vũ Hùng, Hà Nội (vuhung55@yahoo.com): Thưa Thiếu tướng, là nhà khoa học đích thực và nghề của ông là đi tìm những chứng cứ vật chất cụ thể. Nhưng khi ông quan tâm tới khả năng ngoại cảm của con người thì có phải ông đang từ “duy vật” chuyển sang “duy tâm” không?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Đây là câu hỏi rất hay. Lực lượng kỹ thuật hình sự Công an nhân dân có nhiệm vụ phát hiện, giám định vật chứng và những chứng cứ vật chất của các vụ án. Tôi tham gia vào việc nghiên cứu này với mong muốn, mục đích để phục vụ cho công tác chuyên môn. Với sự giúp đỡ của khoa học kỹ thuật hiện đại, chúng tôi sẽ khách quan hóa những thông tin mang tính chủ quan của nhà ngoại cảm để giúp cho việc tìm hài cốt được chính xác. Đó là việc giám định vật chứng được tùy táng, chôn cùng với hài cốt hoặc giám định trực tiếp hài cốt bằng các phương pháp hình thái học, ADN…
Như vậy, không phải là tôi đang chuyển từ “duy vật” sang “duy tâm” mà tôi vẫn đứng vững trên lập trường “duy vật” để khắc phục những hạn chế của những tư duy mang tính “duy tâm”.
PGS.TS Ngô Tiến Quý
Nhà báo Nguyễn Việt Chiến, Báo Thanh Niên (nguyenvietchien1952@gmail.com): Thưa Thiếu tướng Ngô Tiến Quý, trong 1.000 thông tin tìm mộ liệt sĩ thất lạc của Phan Thị Bích Hằng nhiều năm qua thì có mấy trăm thông tin của chị Hằng được Viện Khoa học Hình sự kết luận bằng ADN? Xác suất đúng và sai là bao nhiêu phần trăm. Ngoài ra, với 12 nhà ngoại cảm được UIA công nhận có tên trong danh sách tìm trên 1.000 thông tin mộ liệt sĩ thất lạc thì Viện Khoa học Hình sự đã kiểm chứng ADN được bao nhiêu thông tin của mỗi nhà ngoại cảm vì đây là vấn đề dư luận rất quan tâm?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Hiện nay, chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng qua nghiên cứu của chúng tôi và của nhiều nhà khoa học khác thì tỉ lệ đúng và được công nhận là 70%. Tuy nhiên, cũng cần chú ý, trong những vụ tìm thấy hài cốt cũng có những thông tin không thật chính xác. Ngược lại, trong những vụ không tìm thấy hài cốt lại có những thông tin chính xác. Đây là do thân nhân, đồng đội của các liệt sĩ xác nhận chứ không phải là tự chúng tôi đưa ra. Chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ xử lý, tổng hợp thông tin. Do vậy, xác suất đúng/sai là đáng tin cậy vì mang tính khách quan.
Viện chúng tôi kiểm tra giám định gen từ năm 1999 là sớm nhất Việt Nam. Trước đó, chưa có kỹ thuật này.
Độc giả tên Biên (bientvxdvn@gmail.com): Thưa tiến sĩ, tại sao tới bây giờ chúng ta vẫn chưa dùng ngoại cảm để làm một số việc rất có ích cho quốc gia như: đi tìm tài nguyên khoáng sản, dầu khí, rà phá bom mìn sau chiến tranh, hay như đưa nhà ngoại cảm ra nước ngoài làm việc như một ngành nghề đặc biệt thu ngoại tệ cho đất nước. Tiến sĩ có cho rằng, riêng về khoa học ngoại cảm Việt Nam đứng đầu thế giới không?
Thiếu tướng, PGS.TS Ngô Tiến Quý: Thực ra bây giờ có rất nhiều người có khả năng đặc biệt khác nhau, ngoại cảm chỉ là một trong số những khả năng đặc biệt đó. Việc tìm khoáng sản, dầu khí hoặc rà phá bom mìn thì chưa thấy nhà ngoại cảm nào bộc lộ khả năng này. Do đó, vấn đề bạn nêu ra chưa thực hiện được.
Cũng chưa ai đặt vấn đề đưa nhà ngoại cảm ra nước ngoài làm việc. Vào đầu năm 2013, Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Liên bang Nga có mời một nhà ngoại cảm của chúng ta (anh Nguyễn Văn Lư, sinh năm 1975) sang Nga để giao lưu với các nhà khoa học. Đích thân Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Nga Osipov Yury Sergeevich đã gặp gỡ, tiếp xúc và rất thán phục khả năng ngoại cảm của anh Lư. Được biết là hiện nay ở Liên bang Nga đang xuất bản một cuốn sách về chuyến thăm và làm việc tại Nga của anh Lư.
Chúng ta cũng chưa có khảo sát về hoạt động ngoại cảm của các quốc gia khác để có so sánh, song chúng tôi biết rằng, ở một số quốc gia phát triển, người ta đã từng sử dụng khả năng đặc biệt này từ cách đây cả trăm năm và có rất nhiều viện nghiên cứu về khả năng đặc biệt này được thành lập. Chúng ta mới chỉ tiếp cận với vấn đề này hơn 20 năm qua.
Tổng biên tập báo Năng lượng Mới - PetroTimes tặng hoa các vị khách mời.
Thưa bạn đọc, thưa các vị khách mời.
Chúng tôi rất tiếc là cho đến giờ này, còn nhiều câu hỏi do bạn đọc gửi đến để nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, Tiến sĩ Vũ Thế Khanh và Tiến sĩ Ngô Tiến Quý, nhưng do thời gian có hạn nên chúng tôi xin phép bạn đọc cho dừng cuộc giao lưu trực tuyến tại đây.
Trong 2 giờ vừa qua, bạn đọc đã được nghe chị Phan Thị Bích Hằng, Tiến sĩ Vũ Thế Khanh và Tiến sĩ Ngô Tiến Quý giải đáp nhiều vấn đề mà có lẽ bấy lâu nay mọi người chưa có điều kiện tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, hoặc còn bán tin, bán nghi về khả năng tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm.
Cũng phải khẳng định rằng, vấn đề tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm là rất nhạy cảm. Nhà nước đã có nhiều quy định cụ thể về việc sử dụng phương pháp ngoại cảm để tìm hài cốt, nhưng mới ở mức độ “nghiên cứu”, “khảo nghiệm”.
Qua những gì mà bạn đọc đã được nghe, chúng ta càng thấy rõ các vấn đề sau:
- Có một số rất ít người có khả năng đặc biệt là có thể "nói chuyện" với người âm là có thật, và thực tế trong những năm qua, một số nhà ngoại cảm đã làm được rất nhiều việc, trong đó có việc đi tìm hài cốt bị thất lạc.
- Việc một số kẻ lừa đảo, bịp bợm đã lợi dụng ngoại cảm, lợi dụng sự ngu muội của không ít người, để trục lợi. Và đáng buồn là trong đó có cả không ít cán bộ, đảng viên tiếp tay cho những hành vi này. Điển hình là các cán bộ của Ngân hàng Chính sách Xã hội trong vụ “cậu” Thúy vừa công an khởi tố, bắt giam về tội lừa đảo. Nếu tội của gã Thúy kia là 1 thì tội của họ phải gấp 10 lần. Chúng ta phải cảnh giác, và rất mong các cơ quan bảo vệ pháp luật có những biện pháp cứng rắn để ngăn chặn những kẻ đội lốt ngoại cảm để lừa bịp.
- Từ thực tế về khả năng tìm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm, thì thấy rằng đã đến lúc các cơ quan quản lý Nhà nước cần có cách quản lý các nhà ngoại cảm, hướng họ đi vào hoạt động đúng luật pháp và có thể phát triển xa hơn nữa, phục vụ cho các nhu cầu khác của người dân.
Thay mặt bạn đọc của Petrotimes, chúng tôi xin chân thành cảm ơn chị Phan Thị Bích Hằng, Tiến sĩ Vũ Thế Khanh và Tiến sĩ Ngô Tiến Quý. Xin cảm ơn các báo bạn là Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, báo CAND, báo CATP HCM, VTC News, VN Media đã tới dự và quan tâm tới buổi giao lưu trực tuyến hôm nay.
Chúc chị Hằng dồi dào sức khỏe để có thể phát huy hơn nữa khả năng đặc biệt của mình.
Chúc Tiến sĩ Vũ Thế Khanh, Tiến sĩ Ngô Tiến Quý và UIA gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong việc xây dựng và phát triển ngoại cảm thành một môn khoa học và không hề mang tính mê tín dị đoan.
Xin cảm ơn bạn đọc của PetroTimes đã theo dõi cuộc trao đổi thú vị và rất nhạy cảm này.
Chương trình giao lưu trực tuyến do Trang tin điện tử PetroTimes.vn của Báo Năng lượng Mới; Trung tâm Truyền thông tâm linh USC và Công ty Truyền thông Năng lượng Việt phối hợp tổ chức.
PetroTimes

Vì sao người Việt nhẹ dạ tin ngoại cảm?

GS Ngô Đức Thịnh cho rằng, khi con người thiếu hụt niềm tin, họ thường bấu víu vào tâm linh. Trong khi đó, tâm linh rất tù mù không chứng minh được rõ ràng đúng sai.
Vừa qua, dư luận quan tâm đặc biệt đến Chương trình "Trở về từ ký ức" của VTV vạch trần về khả năng của một số nhà ngoại cảm. Trong đó, cho thấy không chỉ người dân, ngay cả cơ quan Nhà nước cũng dễ dàng đặt niềm tim mù quáng ngoại cảm. Nhân dịp này, PV có cuộc trao đổi với GS Ngô Đức Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa.
 - 1
Giáo sư Ngô Đức Thịnh (Ảnh: VNP)
Thưa giáo sư, vừa qua VTV có phóng sự phanh phui khả năng và sự lừa đảo một số nhà ngoại cảm tìm hài cốt liệt sĩ. Giáo sư nghĩ sao về phương pháp ngoại cảm để tìm mộ liệt sĩ?
Tôi thấy xã hội có không ít trường hợp nhà ngoại cảm rởm lợi dụng lòng tin của gia đình liệt sĩ để làm trò lừa đảo. Chẳng hạn như gần đây có chuyện “cậu Thủy” - nhà ngoại cảm tham gia tìm hài cốt liệt sĩ bị bắt và khởi tố do nghi vấn "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Tuy nhiên, cũng không nên phủ nhận một cách sạch trơn ngoại cảm. Bởi vẫn có trường hợp đúng chứ. Không thể thống kê cụ thể đúng sai, nhưng tôi từng chứng kiến người thân tìm mộ bằng ngoại cảm. Kết quả kiểm định ADN sau đó cho thấy hoàn toàn đúng.
Theo tôi, tìm hài cốt bằng ngoại cảm phải kèm theo kiểm định khoa học. Nhà ngoại cảm đúng được 20-30% đã tuyệt vời rồi, không có 100% đâu.
Nhưng thường thì ít khi gia đình liệt sĩ kiểm định lại bằng phương pháp khoa học như ADN chẳng hạn, bởi nhà ngoại cảm dọa liệt sĩ quở trách?
Vì tỷ lệ không chính xác rất cao nên nhà ngoại cảm lo sợ. Nhà ngoại cảm cũng có tâm lý,  giám định lại nghĩa là không đặt niềm tin trọn vẹn vào họ. Bản thân gia đình sợ xúc phạm đến tâm linh, linh hồn.
Tôi cho rằng, thực trạng trên không hay, người dân dễ bị nhà ngoại cảm rởm lừa. Do vậy, cả người dân và nhà ngoại cảm đều cần đến phương pháp khoa học hỗ trợ.
Ông nói, đa phần người dân tìm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm bị lừa. Vậy vì sao nhiều người dân Việt dễ tin và dễ lừa như vậy? Có nhà khoa học thốt lên, nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt, làm cho người ta tin hơn nhà khoa học.
Sau nhiều năm, người ta tìm kiếm hài cốt liệt sĩ chưa được nên thường có tâm lý mong mỏi, chờ đợi. Do vậy, khi nhà ngoại cảm mang đến một sự hé lộ nào đó, người ta dễ dàng tin ngay. Các nhà ngoại cảm “đánh” đúng vào tâm lý đó.
Bên cạnh đó, khi con người thiếu hụt niềm tin, không biết tin ai, tin vào đâu... họ thường bấu víu vào thế giới tâm linh. Bởi nó cũng giúp an ủi bản thân và họ hy vọng rằng “biết đâu lại đúng”. Trong khi đó, tâm linh là một thứ rất tù mù, không thể chứng minh được rõ ràng đúng sai.
Ví dụ như chuyện rất thời sự hiện nay là vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường vứt xác nạn nhân. Các "nhà ngoại cảm" từ ở đâu tự tìm đến khu vực sông Hồng để tìm thi thể nạn nhân nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.
Người dân tin vào ngoại cảm đã đành, tại sao ngay cả một số cơ quan nhà nước như Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam cũng tin. Thậm chí, còn bồi dưỡng hơn 7 tỷ  cho “cậu Thúy” tìm hàng trăm hài cốt liệt sĩ lẫn xương động vật?
Tổ chức đó có năng lực tài chính, họ sẵn sàng làm chuyện đó thôi. Mục đích của Ngân hàng Chính sách rất tốt, nhưng đáng tiếc thuê phải nhà ngoại cảm có nhiều nghi vấn lừa đảo.
 - 2
Nguyễn Thanh Thúy đã bị bắt về hành vi làm giả hài cốt và di vật liệt sĩ.
Theo ông, có nhà ngoại cảm thật sự không hay chỉ là mê tín dị đoan?
Trong xã hội hiện nay, 10 người ngoại cảm thì có tới hơn 9 người lừa đảo, may ra được 1 người (hoặc không được 1 người) có khả năng thực sự. Ngoại cảm cũng là hiện tượng khoa học đấy nhưng mình không có năng lực nhận thức ra thôi. Nhiều khi cũng không hẳn là mê tín dị đoan đâu.
Ông nói 10 nhà ngoại cảm có đến 9 lừa đảo, vậy làm sao để người tránh bị lợi dụng, thưa ông?
Trong cuộc sống, đôi khi có nhiều việc mình phải nghe xem nhà ngoại cảm nói gì. Nếu như có nghe cũng phải biết sàng lọc, không phải họ bảo mình A thì mình nghĩ A, bảo B  nghĩ B...
Người lợi dụng ngoại cảm như “cậu Thủy” không ít, chiếm số đông. Cho nên, người nghe phải có bản lĩnh lựa chọn, xử lý thông tin.
Sau khi khả năng một số nhà ngoại cảm được phanh phui, nhiều người đã và đang tìm hài cốt người thân bằng “ngoại cảm” hết sức hoang mang, ông có lời khuyên gì với họ?
Đây là vấn đề tâm lý của mỗi người. Người tìm rồi nếu tâm lý hoang mang, có thể xác minh lại. Có điều sẽ phải tốn thời gian, tiền bạc. Còn những người đang và chưa tìm vẫn có thể vẫn nhờ ngoại cảm, nhưng phải kết hợp phương pháp khoa học để thẩm định.
Ông suy nghĩ thế nào về thế giới tâm linh và niềm tin và vào thế giới tâm linh của nhiều người Việt chúng ta?
Từ xưa, cả nhân loại chứ không riêng Việt Nam, người ta vẫn nghĩ có một thế giới tâm linh. Người ta tin rằng, khi con người mất đi nhưng linh hồn còn tồn tại. Có  khi, linh hồn ngồi ngay bên cạnh mình mà không biết. Con người tin rằng giữa những người sống và những người đã chết (linh hồn đó) phù trợ lẫn nhau.
Từ đó, người Việt thờ cúng tổ tiên, thích nghe bói toán... Vấn đề lưu ý, mình đặt niềm tin vào bói toán ở mức độ nào, khi tiếp nhận thông tin bói toán xử lý như thế nào... phụ thuộc vào bản thân mình. Không được cứ như là con thiêu thân lao vào rồi người ta nói thế nào cũng làm theo thế.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Dương Tùng (thực hiện)

Lệnh cấm điên rồ của Việt Nam không cho chia sẻ thông tin trực tuyến

Slate.com
1-11-2013
Tác giả: Ariel Bogle
Người dịch: BT
1
Nhận xét là Việt Nam có một mối quan hệ không ổn với Internet có lẽ là một cách nói cho nhẹ bớt đi. Bất chấp nỗ lực đàn áp của chính phủ, truyền thông xã hội, đặc biệt là Facebook, là vô cùng phổ biến tại Việt Nam, với ước tính chiếm khoảng 70% người truy cập trên tổng số người dùng Internet. (Khoảng một phần ba trong 90 triệu người dân Việt Nam vào mạng trực tuyến). Giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam dường như đang cố gắng ấp ủ mộng có một Thung lũng Silicon của riêng của mình, và đã có những trang mạng truyền thông xã hội kiểu cây nhà lá vườn như là Zing Me và HaiVL.

Nhưng cho tới lúc này thì các nhà chức trách đã không thể sao chép được hình mẫu Vạn Lý Tường Lửa (Great Firewall) của Trung Quốc để ngăn chặn những nội dung không thân thiện với chế độ, vốn từng bị đàn áp qua các phương cách cũ là sách nhiễu và bắt bớ những nhà bất đồng chính kiến trên mạng. Nói theo cách khác, thì họ dùng kiểu “bắn người đưa tin”, như nhận xét của ông Phil Robertson, Phó giám đốc Khu vực châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch. Người ta ước tính, trong năm nay Việt Nam đã bỏ tù 46 blogger và các nhà hoạt động, chỉ đứng sau Trung Quốc, nên đã được đứng thứ 172 trên 179 quốc gia trên bảng xếp hạng Tự do Báo chí của tổ chức Phóng viên Không biên giới.
Tham vọng của bộ máy cai trị để kiểm soát chặt chẽ thông tin trực tuyến thường đôi lúc bùng lên. Tháng Mười vừa qua, cùng trong một ngày, một người đàn ông Việt Nam bị tuyên án vì những bài viết trên Facebook để kêu gọi trả tự do cho em trai mình, thì một nhà hoạt động khác cũng bị công an bắt giữ vì anh sử dụng Facebook để quảng bá thông tin trên mạng.
Cuộc vận động của Đinh Nhật Uy đòi trả tự do cho anh trai, một nhà hoạt động đang bị cầm tù, đã đem đến một án treo 15 tháng qua bốn bài viết trên Facebook, trong đó anh bị cho là đã “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, theo thông tin từ tổ chức Phóng viên Không biên giới .
Trong khi đó, bạn bè của Blogger đấu tranh cho dân chủ Nguyễn Lân Thắng đã đưa lên Facebook một đoạn video sau khi anh bị bắt tại sân bay Hà Nội, trong đó anh tuyên bố “Khi các bạn nhìn thấy đoạn video này, chắc chắn tôi đã bị lực lượng an ninh bắt giữ.” Đầu năm nay, các quan chức Mỹ đã tỏ ra không hài lòng khi được biết một luật sư từng được đào tạo về nhân quyền tạo Mỹ và đồng thời là một Blogger nổi tiếng, là ông Lê Quốc Quân, đã bị kết án 30 tháng tù giam, về tội liên quan tới việc đóng thuế, nhưng bị cho là vì động cơ chính trị .
Nhưng có lẽ đáng ngạc nhiên nhất, trong một nỗ lực để bảo hộ cho quyền năng của truyền thông nhà nước và trừng trị thẳng tay việc chia sẻ những quan điểm gây tranh cãi, Việt Nam đã thông qua một nghị định (*) cấm đoán việc chia sẻ tin tức trực tuyến. Nghị định này, có hiệu lực vào tháng Chín, làm cho những người dùng mạng truyền thông xã hội trở nên bất hợp pháp khi đưa lên mạng những thông tin được tổng hợp lại từ hầu như tất cả các nguồn tin, dưới danh nghĩa là vì “an ninh quốc gia” và để ngăn chặn vi phạm bản quyền.
Văn bản nghị định được công bố rộng rãi đã nói rõ, “Các trang thông tin điện tử cá nhân chỉ được phép đưa tin tức thuộc sở hữu của người đó, và không được phép ‘trích dẫn’, ‘thu thập’ hoặc tóm tắt thông tin từ cơ quan báo chí hoặc các trang web chính phủ”, theo ông Hoàng Vĩnh Bảo, Cục trưởng Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử. Cũng sẽ là bất hợp pháp nếu như đưa lên các phương tiện truyền thông xã hội  ”những thông tin chống lại nhà nước Việt Nam, phá hoại an ninh quốc gia, trật tự xã hội và khối đoàn kết dân tộc … hoặc các thông tin xuyên tạc, vu khống và bôi nhọ uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.”
Một người dân Mỹ bình thường hẳn sẽ bị sốc nếu thấy có ai đó bị bắt bớ chỉ vì trên trang Facebook của họ đầy những hòn đá của các bác cao niên giận dữ đang tung các đoạn video của hãng Fox News chống lại chính sách Y tế mới của ông Obama. Cũng chẳng phải là điềm tốt lành cho nỗ lực của Việt Nam muốn trở thành một Thung lũng Silicon. Nhưng ngày càng có nhiều người Việt tham gia mạng trực tuyến, nên khả năng của chính phủ nhằm đảm bảo là các công dân của mình nhận thức được rằng chỉ được có “những thông tin đúng đắn và không có vấn đề trên internet ” thôi sẽ là chuyện không thể tồn tại được lâu dài đối với thế giới này .
Ariel Bogle là một nhà nghiên cứu làm việc cho Future Tense.
Bản tiếng Việt © Diễn đàn Xã hội Dân sự 2013
Ảnh: Một cảnh sát cố gắng ngăn chặn một phóng viên nước ngoài chụp ảnh bên ngoài phiên tòa xử ông Phạm Minh Hoàng, một Blogger-Nhà giáo người Pháp gốc Việt, năm  2011.

Ưu quyền và độc quyền!!!

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 182 (01-11-2013)
Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận - Sau màn huy động toàn thể bộ máy truyền thông công cụ (gồm đám lãnh đạo vô liêm sỉ, trí thức gia nô, nhà báo bồi bút và dư luận viên đầy tớ) tạo ra một cuộc lên đồng tập thể quanh ông Võ Nguyên Giáp với những ngôn ngữ tâng bốc tận trời (tôn lên thành thánh thành phật), những so sánh nực cười lố bịch (đặt ngang hàng với Đại đế Alexandre, Hoàng đế Napoléon), những lời thơ ca tụng nịnh hót (đến độ Tố Hữu cũng chào thua), những mô tả về phản ứng của quần chúng theo kiểu bị tẩy não (“ôm thật chặt cột nhà mà khóc cho thỏa nỗi xót thương”…), nay Bộ Chính trị quyết tạo ra một cuộc lên đồng tập thể mới xung quanh Tân Hiến pháp tại cái gọi là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” để bù lại sự thất bại chua cay giữa toàn dân trong hơn 9 tháng trời (ngoại trừ nơi các tổ dân phố bị cưỡng ép hay lừa gạt).
Thấy trước nguy cơ bị đồng bào loại trừ và lịch sử đào thải, đảng nhất định phải chính danh hóa và hợp hiến hóa lần nữa ách cai trị vốn đã chỉ có sai lầm và tội ác, thất bại và tai họa của mình. Chẳng lẽ đổ biết bao xương máu của đảng viên (nhất là xương máu của quần chúng bị mê hoặc) để độc chiếm quyền hành chính trị rồi nhờ đó đã thu tóm quyền lợi kinh tế, nay lại bỏ đi để rồi phải bỏ trốn sao? Chính vì thế, trong tinh thần chỉ đạo chặt chẽ (nghĩa là theo dõi sát sao, khống chế toàn diện), Đảng đã “hoàn thiện bản Dự thảo Hiến pháp cuối cùng” nhờ đám gia nô trong Quốc hội. Nay cái cơ quan này có hơn một tháng trời không phải để thảo luận về nó trong ý thức dân chủ, theo khát vọng nhân dân, với mục tiêu kiến quốc, mà có lẽ để uốn éo câu chữ, mài dũa ngụy lý và chuẩn bị mưu lược để cho ra đời một bản Hiến pháp lấy cương lĩnh đảng làm linh hồn mà áp đặt lên toàn thể Dân tộc, bất chấp hiện tại điêu tàn của xã hội và tương lai vô vọng của Quốc gia.
Quả vậy, tuy có 120 điều, trong đó có cả 36 điều về quyền con người và quyền công dân (chương II), nhưng thật sự Tân Hiến pháp này chỉ có 5 nội dung chính, khẳng định 2 ưu quyền và 3 độc quyền của đảng, với hậu quả là những tác hại khôn lường khác nhau lên Dân tộc.

1- Ưu quyền tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê và tác hại tinh thần.

Như HP 1992, Lời nói đầu và Điều 4 tiếp tục khẳng quyết chủ nghĩa Mác-Lê là ánh sáng chỉ đường lẫn nền tảng tư tưởngcho đảng CS. Khác chủ nghĩa duy vật vô thần hưởng thụ của Tây phương, cái chủ nghĩa duy vật vô thần đấu tranh này (mà nhân loại đã từ lâu ném vào sọt rác lịch sử) là một ý thức hệ chính trị mang tính trói buộc tinh thần và tư tưởng, làm băng hoại lương tâm con người, kìm hãm tư duy sáng tạo và cản trở sự phát triển xã hội. Chính nó, qua hơn nửa thế kỷ, đã gây nên tình trạng xuống dốc thê thảm của đất nước, vì tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền sáng tạo văn học nghệ thuật… Nó khiến cho nền giáo dục (vốn phải lấy nó làm nền tảng trong Luật giáo dục điều 3), ngày càng suy thoái về mặt đức (gian dối và bạo hành trong học đường), lẫn mặt trí (thiếu kiến thức thật, đầy bằng cấp giả và ít ỏi phát minh). Nhất là nó khiến con người sống trong xã hội ngày càng dửng dưng vô cảm (đặc biệt y đức biến mất), quen thói lọc lừa và hành xử man rợ (đặc biệt nơi kẻ có chức quyền).

2- Độc quyền cai trị của đảng Cộng sản và tác hại chính trị.

Cương quyết bảo vệ “chân lý thời đại” (đảng CS là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội), điều 4 quả là lộng hành và mâu thuẫn. Lộng hành vì mặc nhiên khẳng định đảng ở trên lẫn ở ngoài luật pháp, tiên thiên khẳng định ngay bộ luật gốc sự lãnh đạo của đảng. Và như thế là dẹp bỏ quyền bính chính trị vốn thuộc về nhân dân theo lý (và theo cả tuyên truyền mỵ dân của đ ng), một quyền bính mà toàn dân sẽ giao cho một chính đảng hay những chính khách được tín nhiệm qua một cuộc tranh cử và bầu cử công bằng lẫn minh bạch, đa đảng lẫn dân chủ. Mâu thuẫn với Điều 69: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Và như thế là biến Quốc hội thành công cụ của đảng cầm quyền, biến việc người dân bầu đại biểu Quốc hội thành trò dân chủ giả tạo, chưa kể cưỡng bức, tốn kém và lố bịch. Điều 4 đó đặc biệt gây tác hại về mặt chính trị. Nó đã tạo điều kiện cho Đảng CS mắc phải vô số sai lầm lẫn tội ác đối với Dân tộc trong quá khứ và đẩy đất nước vào vô số nguy cơ lẫn thảm họa hiện thời và tương lai mà vẫn không bị trừng phạt.


3- Độc quyền tài nguyên của Nhà nước và tác hại xã hội.

“Vũ như cẩn”, “nguyễn y vân”, Điều 53 tiếp tục tuyên bố mọi tài nguyên đất nước “là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và đại diện chủ sở hữu”. Nó ném vào mặt “thằng dân” lần nữa câu nói: đối với đất đai, mày không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng! Nó cũng thỏ thẻ với quan chức cầm quyền mọi cấp hai điều. Một là cứ đánh đồng “sở hữu nhà nước” với “sở hữu toàn dân” đi để tha hồ tham nhũng, bắt tay tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi. Xã hội đầy bất công, nhân dân lãnh thiệt hại và đất nước rơi vào hỗn loạn mặc kệ. Cũng mặc kệ nốt cảnh hàng ngàn cuộc cưỡng chế đất đai nhà cửa đầy máu và nước mắt, hàng vạn thị dân bị đẩy ra đường vô nghề thất nghiệp, hàng triệu nông dân khiếu nại trong tuyệt vọng khôn cùng, hàng bao thảo dân đã thực hiện hay toan tính phản kháng bằng bạo lực! Hai là nay việc thu hồi đất được “hợp hiến hóa”, lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế–xã hội (điều 54), các “đồng chí” cứ thoải mái cấu kết với các “đại gia” để tha hồ làm giàu, ngõ hầu trung với đảng.

4- Độc quyền công lực của đảng CS và tác hại an sinh.

“Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với đảng và Nhà nước”, Điều 65 với khẳng định mới mẻ này cho thấy đảng đã cùng cực lo sợ bị sụp đổ cũng như sẽ không ngần ngại tiến hành một “Thiên An Môn” kiểu VN. Dẫu biết rằng các lực lượng vũ trang (công an, quân đội) đều từ nhân dân phát xuất, được nhân dân nuôi dưỡng, do nhân dân trang bị, dĩ nhiên chỉ phải “trung với nước, hiếu với dân” thôi, thế nhưng đảng đã tẩy não nhồi sọ, áp bức cưỡng buộc, ru ngủ mua chuộc để họ “chỉ biết còn đảng còn mình”! Bao năm qua, đảng đã chẳng o bế hai lực lượng này đó sao bằng cách để họ được tha hồ làm giàu (nhất là hàng sĩ quan bậc cao), được nhiều điều kiện ưu đãi (lương bổng lớn, thăng cấp nhanh), nhất là được dung túng, khuyến khích những hành động cướp bóc, tàn ác và đồi bại đối với dân lành. Hàng ngàn người dân vô tội đã chết sau khi rơi vào tay công an. Lực lượng này lại còn sử dụng côn đồ làm trợ thủ trong các cuộc đàn áp công dân biểu tình hay oan dân khiếu kiện. Thời gian gần đây, nhiều cuộc gọi là “diễn tập chống khủng bố bạo loạn” được tổ chức ở nhiều nơi, song thực chất là chuẩn bị chống nhân dân xuống đường đòi nhân quyền hay công lý. Đúng là an sinh xã hội nay đã tiêu tùng.


5- Ưu quyền kinh doanh của Nhà nước và tác hại kinh tế quốc dân.

Bất chấp thất bại thực tế, Điều 51 tiếp tục tuyên bố như tín điều: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với… kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Thật ra, đây là kinh tế thị trường hoang dã, chủ nghĩa tư bản Nhà nước, phục vụ các nhóm lợi ích trong đảng cầm quyền. Nó đẻ ra các tổng công ty, đại tập toàn quốc doanh và cưng chiều chúng đến độ chúng trở thành bọn cướp của và phá của. Hàng chục năm qua, dẫu hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi để cạnh tranh bất chính với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngòai, các “quả đấm thép”, “đầu tàu hỏa” của kinh tế nhà nước đều làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất, kìm hãm sự phát triển của đất nước. (Điển hình như hai tổng công ty Vinashin và Vinalines đã làm thiệt hại hàng trăm ngàn tỷ đồng công khố đến nay vẫn chưa trả hết nợ. Còn hai tập đoàn Điện lực và Xăng dầu VN thì bắt dân bù lỗ cũng từng ấy cho các hoạt động đầu tư trái ngành của mình bằng cách liên tục tăng giá xăng và điện). Từ đó kéo theo sự phá sản của hàng ức xí nghiệp tư nhân, sự thất nghiệp của hàng triệu công nhân lao động và sự khốn khổ điêu linh của toàn xã hội. Nay tiếp tục khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đảng rõ ràng muốn tiếp tục làm giàu trên xương máu của nhân dân và sự tan hoang của đất nước.
Các ưu quyền và độc quyền của đảng CS trên đây liên kết hữu cơ với nhau. Nghĩa là sau khi nắm được độc quyền chính trị bằng bạo lực vũ khí, bằng đấu tranh cách mạng tốn máu xương của hàng triệu đồng bào, đảng CS luôn sợ hãi chuyện mất quyền lực và luôn lo lắng chuyện giữ quyền lực. Thành ra qua các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 (có lẽ), đảng càng lúc càng cố tạo thêm các ưu uyền và độc quyền còn lại cho mình bằng bạo lực hành chánh (qua Hiến pháp, và có lúc cũng dùng bạo lực vũ khí nữa) để bảo vệ sự cai trị độc tài của mình! Lúc này đây, thấy tội ác của mình ngày càng chồng chất, sai lầm của mình ngày càng dày đặc, thất bại của mình ngày càng ngổn ngang, thấy nhận thức của dân ngày càng rõ rệt, phản ứng của dân ngày càng quyết liệt, hành động của dân ngày càng mạnh mẽ, đảng CS (cụ thể là Bộ Chính trị) trở thành mù quáng, cuồng tín vào dối trá (ngay trong thời đại thông tin nhanh rộng này), cuồng tín vào bạo lực (ngay trong thời đại liên đới dễ dàng này), để quyết tâm ra cho được cái bản Hiến pháp với những đảng quyền phi lý và khốn nạn nói trên, bất chấp tương lai mịt mờ của Đất nước và hiện tại điêu linh của Dân tộc. 
Lý trí bị đóng khung bởi chủ nghĩa xã hội sai lầm và lương tâm bị mù quáng bởi học thuyết đấu tranh phi nhân, đảng CS quên rằng Hiến pháp chính là bộ luật gốc của đất nước, phát xuất từ toàn dân nhằm liên kết mọi người để cùng nhau thực hiện dự án tương lai chung của Dân tộc. Nó trước hết phải xác định rõ ràng và đầy đủ các nhân quyền dựa trên hiểu biết đúng đắn về bản tính con người cũng như các dân quyền dựa trên quan niệm văn minh của nhân loại về quốc gia. Tiếp đó nó phải xác định rõ ràng và đầy đủ các nghĩa vụ của nhóm công dân (mang tên Nhà nước) vốn được giao cho vinh dự cổ vũ và thăng tiến các nhân quyền lẫn dân quyền nói trên bằng nhiều định chế văn minh và thích hợp, ngõ hầu đất nước phát triển trong hòa bình và thịnh vượng. Đảng và Quốc hội của đảng đang có cơ hội để làm điều này. Nhưng xem ra họ chỉ muốn bị lịch sử đào thải và Dân tộc phỉ nhổ.
Ban biên tập

Có không một “Liên minh kim cương” Nhật bản và một tân “liên phòng Đông Nam Á” cho Việt Nam?

Nguyễn Nhơn (Danlambao) - Bạn chuyển tôi bản tin phỏng vấn “sử gia” Dương Trung Quốc (DTQ) trên hệ thống BBC, yêu cầu đọc và góp ý. Nói cho thật, tôi đã đọc lướt qua bản tin nầy và cả đôi ba bài bình luận liên quan, nhưng chỉ đọc qua cho biết rồi thôi. Bây giờ tôi đọc lại và góp ý. Sử gia DTQ có hai chức lớn: Một là Tổng thơ ký Hội Khoa học Lịch sử VN. Hai là Đại biểu Quốc hội xã nghĩa Việt Nam.
Cả hai chức, chức nào cũng lớn, nhưng lời phát biểu thật khinh xuất, không xứng đáng với danh phận khi ông nói rằng: “Hoa Kỳ đã có hành vi “đồng lõa” với Trung Quốc khi Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay của Chính quyền Sài Gòn, chỉ non một năm sau khi Hiệp định Paris được ký kết.”
Câu nói nầy là khẩu thuyết vô bằng, khi mọi người đều biết Mỹ đã rút quân khỏi Việt Nam và không còn liên hệ gì về hoạt động quân sự theo Điều 4 Hiệp Định Paris, nguyên văn như sau: “Hoa Kỳ sẽ không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam.”
Câu hỏi đặt ra là: Vì sao sử gia DTQ nhà ta bày đặt ra câu chuyện dựng đứng như vậy? Câu trả lời cũng dễ hiểu: Một là kéo “Đế quốc Mỹ” dzô để chia lửa với “Đại Hán xâm lăng Tàu”. Hai là đánh lạc hướng, lắp liếm cái “công hàm bán hai Quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa cho Tàu cọng năm 1958” của Phạm Văn Đồng theo lịnh già hồ.
Câu chuyện dựng đứng, dối trá thứ 2 là: “Sử gia cho rằng sau khi có một “nước Việt Nam thống nhất,” Hoa Kỳ và Trung Quốc tiếp tục có hành vi “bao vây” Việt Nam, với Trung Quốc thậm chí đã tiến hành chiến tranh ở Biên giới phía Bắc Việt Nam, còn Hoa Kỳ “đứng sau lưng Pol Pot”.
Câu chuyện nầy còn nghiêm trọng hơn. Nó toan tính đánh đồng cuộc chiến tranh biên giới Trung Việt với cuộc chiến cộng sản Việt Nam xâm lăng Campuchia vì để gở thế kìm kẹp của Mỹ ở phía Nam, nghĩa lả đảng cộng sản (cs) ta có chánh nghĩa Bắc chống Tàu, Nam chống Mỹ kìm kẹp, chớ không phải xâm lăng nhuộm đỏ Campuchia (cs Pol Pot thân Tàu) theo lịnh quan thầy Liên Xô.
Tới đây thi ông thầy “giết” sử lên gân theo kiểu người hùng, khuyến nghị một câu lẫm liệt như vầy: “Ông Dương Trung Quốc nhấn mạnh bài học lớn nhất mà Việt Nam cần rút ra là Việt Nam cần “tự mình định đoạt số phận của mình” vì theo ông “chừng nào không giữ được độc lập, tự chủ” thì chừng đó “khó đạt được mục tiêu của mình.”
Cùng một lúc, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng viện chiến lược bộ công an lại ca cương như vầy: “Việt Nam không bao giờ kích động tinh thần dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc. Và thứ hai, Việt Nam không kéo bè kéo cánh, liên kết với bất kỳ quốc gia nào để chống Trung Quốc.”
Nghĩa là cặp song ca, một nhà “giết” sử, một “chiến luộc da” bên tung bên hứng, vừa trấn an công luận là đảng độc lập chớ chẳng phải “hèn với giặc”, vừa trấn an quan thầy Tàu là em chả,... em chả theo Mỹ, theo mẽo gì sất!
Cũng có nghĩa là đảng ta “trung lập,” chẳng dựa Mỹ cũng chẳng theo Tàu, chẳng qua là thực thi 16 vàng, 4 tốt nên phải nhượng biên giới, nhượng biển đảo, nhượng đất liền chinatown cho bạn xài tạm cho trọn tình đồng chí hữu nghị, hữu hão vậy thôi!
Nói tóm lại là từ sách “bên thắng bên thua” tới các cuộc phỏng dzấn các nhà lý luận kể trên và vụ 900 xung kích “dư luận viên” đều là nằm trong chiến dịch phản công các báo lề dân và các bloggers vận động dân chủ do ban tuyên huấn chỉ đạo “đột xuất lý luận” chớ chẳng có gì lạ.
Để kết luận, xin mượn câu chỉ rõ đặc tính cộng sản do tổ sư cs Gorbachev phát ngôn là rõ ràng: “Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”
Tới đây là kể như tôi đã phản hồi theo ý bạn đủ rồi, nhưng vì cái câu: “Sử gia cho rằng sau khi có một “nước Việt Nam thống nhất,” Hoa Kỳ và Trung Quốc tiếp tục có hành vi “bao vây” Việt Nam...” và câu của ông ca Cương: “Việt Nam không kéo bè kéo cánh, liên kết với bất kỳ quốc gia nào để chống Trung Quốc,” tôi viết thêm một đoạn về việc ai liên kết với ai và ai bao vây ai?

Liên minh kim cương Nhật Bản

Ông “giết sử” DQT nói rằng là “Hoa Kỳ và Trung Quốc tiếp tục có hành vi “bao vây” Việt Nam...” thì không có đâu, bởi vì Mỹ không hơi đâu làm việc tào lao, bao vây xã nghĩa An Nam làm giống gì. Trái lại Mỹ muốn kéo Việt Nam ra khỏi sự khống chế của Tàu đỏ để áp sát mặt phía Nam (Quảng Đông) của Tàu thì có!
Hiện tại thì coi như An nam xã nghĩa như là tên lính gác cửa phía nam của Tàu cộng.
Cho nên Nhật Bổn mới toan tính đề ra học thuyết “Tân Đại Đông Á” nhằm khống chế Trung cộng. Trong khi chưa tính chuyện được với các nước Thái Lan, Mã Lai, Singapore chỉ biết thương mại làm ăn, không quen trận mạc, Thủ tướng Nhật tân cử Shinzo Abe đi thẳng qua Ấn Độ bàn chuyện lập “Liên minh Kim cương.”
Nó là cái gì vậy?
Cứ kéo một đường thẳng trên bản đồ, từ Tokyo, Nhật Bổn thẳng qua New Delhi, Ấn Độ. Rồi từ Ấn Độ kéo một đường thẳng xuống tới Úc châu. Từ Úc lại kéo một đường thẳng ngược lên Hawaii (Mỹ), từ đó kéo một đường thẳng nữa trở lại Nhật Bổn là giáp vòng. Trên bản đồ hiện ra hình một quả trám thường gọi là hình kim cương. Kiểm điểm lại thì mỗi mủi nhọn tượng trưng cho một cường quốc: Nhật, Ấn, Úc, Mỹ.
Mục đích của Liên minh là gì? Công khai thì là bảo vệ an ninh hàng hải Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Ẩn tàng phía sau là thế bao vây con gấu đỏ Tàu đang nhe nanh, múa vuốt gồm thâu cả biển Hoa Nam (Biển Đông Việt Nam) và cả biển Hoa Đông áp sát Đảo Senkaku Nhựt Bổn (Tàu gọi là Đảo Điếu Ngư).


Một tân liên phòng Đông Nam Á cho Việt Nam

Ở bên trong cái khung Liên minh Kim cương cứng hơn sắt thép nầy, VN xã nghĩa đứng ở vị trí nào?
Cứ theo phương châm 16 chữ vàng, An nam xã nghĩa ta chánh thức và long trọng cam kết với Tàu cộng là: “Láng giềng hữu nghị; Hợp tác toàn diện; Ổn định lâu dài; Hướng tới tương lai.”
Hợp tác toàn diện có nghĩa là hợp tác mọi thứ Kinh tế, Chánh trị và trước hết là… Quân sự, cũng có nghĩa là “liên minh tay đôi.” Hay nói theo kiểu binh dân: Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai.
Như vậy là cộng sản nhà ta là cái đuôi ngúc ngoắc phía dưới Quảng Đông, Quảng Tây của Tàu phù, lọt thõm trong cái khung kim cương!
Vậy thử hỏi có cách nào thoát ra được không?
Có một cách, chẳng những thoát khỏi vòng kim cô Tàu phù mà còn trở thành mủi nhọn của khối kim cương chọc thẳng vào mạn Nam của Tàu đỏ để tự phòng vệ khi thời bình và chống xâm lược trong thời chiến: Quay lại bắt tay với các nước Đông Nam Á, vận động sự bảo trợ của Mỹ, Ấn, Nhật để tái lập khối “Liên Phòng Đông Nam Á” (SEATO: South Est Asia Treaty Organisation). Nước mình nhỏ, kinh tế mong manh, phải kết hợp với Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Nam Dương thành một khối mới khả dĩ chận đứng được nạn bành trướng, xâm lăng của đại hán phương Bắc.
Muốn được như vậy thì điều kiện tiên quyết là phải giải trừ chế độ cộng sản An Nam, xóa bỏ Liên minh 16 chữ vàng. Đó cũng là cách “Thoát Trung” duy nhất để cứu dân, cứu nước.
Nguyễn Nhơn
danlambaovn.blogspot.com

Đoàn Khắc Xuyên: Chuyện từ chức và văn hóa chính trị

Đoàn Khắc Xuyên
Tất nhiên, không phải cứ có vụ việc gì xảy ra trong lĩnh vực mình phụ trách thì quan chức phải nghĩ ngay đến việc từ chức. Tuy nhiên, điều người ta thấy là ở nhiều nước, chỉ cần một cây cầu gãy là ông bộ trưởng giao thông đã có thể tuyên bố từ chức để nhận trách nhiệm vì đã để xảy ra sự cố trong hệ thống do mình phụ trách, mặc dù có thể ông ta không có trách nhiệm trực tiếp trong việc xây dựng hay vận hành chiếc cầu ấy. Ở ta thì có lẽ đó là chuyện trong mơ.
“Cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị”, “Cần sự góp sức của toàn xã hội”… Thường nghe các quan chức của ta phát biểu như vậy khi xảy ra những vụ việc, sai phạm nghiêm trọng khiến công luận bức xúc. Và rồi bắt đầu kịch bản đổ lỗi: ngành dọc đổ cho địa phương, cấp trên đổ cho cấp dưới, bộ đổ cho sở, sở đổ cho phòng. Trái bóng trách nhiệm cứ thế lăn, ngày càng mù mờ, thậm chí cuối cùng trách nhiệm không còn biết là của ai, mà là của “toàn xã hội”.
Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, xã hội có thể có tác động lên hành xử của con người trong bộ máy công quyền. Nhưng xã hội là một khái niệm quá rộng để có thể nói là phải chịu trách nhiệm về hành xử của một con người trong bộ máy. Bởi khi được tuyển dụng vào làm việc trong bộ máy, được đặt để vào một vị trí nào đó, họ đã được giao nhiệm vụ, với quyền hạn và trách nhiệm tương đối rõ ràng, với những điều phải làm và những điều phải tránh, không được làm.
Chuyện y đức là một chuyện như vậy. Bác sĩ cũng là một con người, sống trong xã hội này họ cũng chịu sự tác động của xu hướng chạy theo đồng tiền bằng mọi giá, tác động của sự suy đồi đạo đức xã hội nói chung. Nhưng, là người được đào tạo và được giao nhiệm vụ cứu người, họ phải nắm chắc đâu là việc phải làm và đâu là những giới hạn không thể vượt qua. Một khi vi phạm giới hạn ấy họ phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc làm của mình. Còn với quan chức lãnh đạo ngành y, một nhiệm vụ không thể thoái thác là làm thế nào để mọi bác sĩ và nhân viên trong ngành của mình luôn tuân thủ y đức vì đó là lẽ sống của nghề. Không làm tròn nhiệm vụ đó, họ không thể đổ cho ai khác.
Nhưng tiếc thay, chúng ta đã chứng kiến điều ngược lại, đó là đổ lỗi cho xã hội nói chung và đổ lỗi qua lại sau những vụ việc chấn động liên quan đến ngành y vừa qua . Không ai nghĩ mình phải gánh trách nhiệm cá nhân, không ai nghĩ đến việc từ chức.
Nếu việc biết từ chức là một thứ văn hóa thể hiện thái độ trách nhiệm cá nhân của quan chức đối với việc làm sai trái hoặc chỉ là không đúng mực của chính mình hoặc của thuộc cấp trong hệ thống do mình phụ trách thì ngược lại, việc không biết hoặc không dám từ chức gắn liền với một thứ văn hóa chính trị trong đó trách nhiệm cá nhân không được đề cao, mọi sai trái, yếu kém đều được đổ cho tập thể, mặc dù khi có thành tích thì người ta vẫn có thể vơ vào cho riêng mình để tiếp tục thăng quan tiến chức.
Đó là một thứ văn hóa chính trị gắn liền với cơ chế trong đó quan chức chủ yếu chỉ phải chịu trách nhiệm trước tổ chức, trước cấp trên đã cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm họ chứ không phải trước người dân. Trong thứ văn hóa chính trị ấy, người dân nhiều lúc cảm thấy mình đứng ngoài những quá trình chính trị chính thức mà họ không sao tác động tới được. Sự bất bình của họ, nếu có, cũng không tác động gì được tới sự vận hành của những quá trình ấy. Hệ quả là, nói theo ngôn ngữ lý thuyết văn hóa chính trị, tính tham dự của người dân và lòng tin của họ vào hệ thống chính trị, nhân tố chủ yếu trong văn hóa chính trị, dựa trên sự thỏa mãn ngày càng nhiều các giá trị vật chất (như sự an toàn kinh tế và thân thể) và hậu vật chất (như sự bình đẳng xã hội) ngày càng suy giảm.
Như vậy, việc thiếu dũng cảm nhận lãnh trách nhiệm cá nhân, thiếu văn hóa từ chức của quan chức trước những sai phạm nghiêm trọng cuối cùng chỉ làm tổn hại cho văn hóa chính trị của cả hệ thống. Để có được lòng tin của người dân, một hệ thống với văn hóa chính trị lành mạnh phải dám đối diện và nhận lãnh trách nhiệm đối với những yếu kém, sai phạm của chính mình.
Người Đô Thị. Tranh TL

Trung Quốc - CON SỐ 5 GIỮA HÀ ĐỒ - Kỳ 5

* BÙI VĂN BỒNG
(tiếp theo - Kỳ 5)
5 – Quân Cờ Đen và quân Quảng Tây
* Trận cửa Thuận An
Cuối tháng 7 năm 1883, tại Hà Nội, toàn quyền Harmand họp với các tướng lĩnh Pháp và quyết định phải hành động gấp rút. Thời cơ đang rất thuận lợi vì chỉ hai tuần trước đó, ngày 17 tháng 7 năm 1883, vua  Tự Đức băng hà, triều đình Việt Nam đang bối rối trong việc chọn người kế vị, vì người cháu được vua Tự Đức chọn lên, tức vua Dục Đức, bị quan Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết lật đổ vì nghi vua Dục Đức chủ trương "thỏa hiệp" với Pháp.
Ngày 16 tháng 8 năm 1883, một hạm đội nhỏ gồm 7 tàu chiến, trong đó có hai tàu bọc thép, chở hơn một ngàn quân Pháp do Đô đốc Amédé Coubert chỉ huy tiến vào cảng Đà Nẵng. Hai ngày sau, quân Pháp dùng thuyền đi ngược lên sông Hương bắn phá pháo đài Trấn Hải của quân Nam. Quân Nam bắn lại suốt ngày hôm đó, nhưng do vũ khí quá thua kém nên đến cuối ngày các pháo lũy đều bị phá hủy, lực lượng phòng thủ bị tổn thất hết mà quân Pháp không bị thiệt hại gì, quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân nhảy xuống sông tự tử. Quân Pháp chiếm được cửa Thuận An (Huế). Dưới sức ép quân sự của Pháp, ngày 25 tháng 8, nhà Nguyễn phải chấp thuận ký hòa ước với Pháp, theo đó chấp thuận sự bảo hộ của Pháp. Tuy nhiên các quan chủ chiến của nhà Nguyễn vẫn còn ở miền Bắc, và quân Cờ đen còn rất mạnh, nên chiến sự tiếp diễn.    >>+ Mời xem từ: > Kỳ 1  Kỳ 2   Kỳ 3  ;   Kỳ 4  
* Trận thành Sơn Tây
Ngày 15 tháng 8, 1.500 quân Pháp do tướng Bouet chỉ huy chia làm ba cánh mở chiến dịch tấn công. Quân Pháp dự định tấn công quân Cờ đen đóng ở phủ Hoài Đức (nằm ở vị trí sở Dịch Vọng huyện Từ Liêm phủ Hoài Đức, ngày nay là đường Nguyễn Phong Sắc quận Cầu Giấy) và làng Vệ (làng Vẽ (xã Đông Ngạc Từ Liêm)), rồi đánh về Sơn Tây. Cánh quân bên phải bị quân cờ Đen trong làng đánh lại quyết liệt và bị hệ thống chiến lũy quanh làng cản bước tiến. Đêm hôm đó quân Cờ đen bỏ phủ Hoài Đức rút về cố thủ ở đồn Phùng (quân Pháp gọi là làng Phong), xây dựng rất nhiều chiến lũy bắn vào quân Pháp. Sau ba ngày giao chiến đẫm máu, quân Pháp vẫn chưa chiếm được làng Vệ và làng Phong, mất 42 lính bị giết, phải rút về Hà Nội.
Ngày 1 tháng 9, được tin thắng trận ở Huế, quân Pháp lại tiến về Sơn Tây đánh quân Cờ đen. Lần này quân Pháp vào được làng Ba Giang (Pháp gọi là Palan và gọi trận này là trận Palan) thuộc huyện Đan Phượng (nằm tại ngã ba sông Đáy nhận nước sông Hồng), nhưng khi đó nước lũ lên rất to, đê bị vỡ, khiến Lưu Vĩnh Phúc phải tưởng rằng quân Pháp phá đê cho nước tràn vào. Lưu Vĩnh Phúc cũng nhận được lệnh của Hoàng Kế Viêm rút về củng cố phòng thủ Sơn Tây. Triều đình Huế cử Nguyễn Trọng Hợp truyền lệnh cho Hoàng Kế Viêm (đóng ở Sơn Tây) và Trương Quang Đản (đóng tại Bắc Ninh) phải về kinh, các quan lại khi đó người thì tuân lệnh, người thì nộp bỏ ấn tín, bỏ về mộ quân phối hợp với quân Thanh để chống lại quân Pháp.
Tình hình quân Cờ đen tại Sơn Tây cũng không sáng sủa hơn nhiều. Thanh triều yêu cầu quân Vân NamQuảng Tây phối hợp hoạt động chặt chẽ với Lưu Vĩnh Phúc. Ngân khố tỉnh Quảng Tây cũng được chỉ thị cấp cho quân Cờ đen 100.000 quan bằng bạc làm quân phí, nhưng quân Cờ đen vẫn chưa nhận được đồng nào. Quân Quảng Tây dù được lệnh tiến về Sơn Tây, chỉ tiến đến Bắc Ninh rồi dừng lại, vì các sỹ quan Quảng Tây cho rằng thành Bắc Ninh mới có tầm quan trọng chiến lược như tuyến đầu phòng thủ tỉnh Quảng Tây, còn vai trò chủ yếu của Sơn Tây là bảo vệ tuyến đường thủy đi về Vân Nam. Kết quả là tham gia phòng thủ Sơn Tây, ngoài 5.000 quân của Hoàng Kế Viêm, chỉ có khoảng 3.000 quân Cờ đen, 1.000 quân Vân Nam và chừng 500 quân Quảng Tây[5].
Trong khi đó, Đô đốc Coubert vẫn tiếp tục củng cố lực lượng, quân Pháp nhận thêm nhiều đơn vị quân Ả rập và quân Lê Dương. Tới đầu tháng 12 năm 1883, thêm 4.000 quân Pháp đổ bộ vào Bắc kỳ, nâng tổng số quân Pháp ở Bắc kỳ lên 9.000 người. Ngày 11 tháng 12, 5.500 quân Pháp, trong đó có một đội lính bản xứ mộ tại Nam kỳ và một đại đội lính Bắc kỳ tuyển từ những người theo công giáo, rời Hà Nội đi đánh thành Sơn Tây. Khoảng một nửa quân Pháp đi theo đường bộ, nửa còn lại theo đường thủy đổ bộ gần Sơn Tây (huyện Phúc Thọ). Thành Sơn Tây được xây dựng theo kiểu Vauban, nằm giữa thị xã Sơn Tây. Xung quanh thành Sơn Tây quân Nam đã xây một chiến lũy cao gần 20 bộ, dày 5 bộ[6], xung quanh có hào nước. Phía bờ sông Cái quân Nam củng cố đê bối rất kiên cố, biến nó thành một chiến lũy mang tên Phù Sa (nay thuộc phường Viên Sơn thị xã Sơn Tây) vì đoán quân Pháp từ đường sông sẽ đổ bộ vào đây.
Ngày 14 tháng 12, quân Pháp theo đường sông đánh vào bờ đê sông Hồng. Có ưu thế cả về quân số và hỏa lực, quân Pháp tấn công dữ dội và tới chiều đã chiếm được đê bối. Tới tối, quân Cờ đen mở một cuộc phản kích để chiếm lại đê, nhưng một phần nhờ trời sáng trăng, quân Pháp đẩy lùi cuộc tấn công đó. Trong suốt ngày hôm sau, quân Pháp củng cố các vị trí chiếm được, rồi chuyển pháo lên bắn vào thành từ sáng đến tối ngày 16, quân Cờ đen đánh lại rất quyết liệt. Trời sẩm tối, quân Pháp mở cuộc tiến công chiếm chiến lũy đối diện bờ đê thì phát hiện quân Cờ đen đã rút vào thành. Đêm đó quân Nam và quân Thanh rút chạy, quân Cờ đen cũng phải rút lui theo lên thành Hưng Hóa thuộc Hưng Hóa ở mạn ngược sông Hồng. Quân Pháp mất 83 người bị giết và 380 người bị thương. Về phía quân Cờ đen và quân Nam mất chừng một nghìn người. Đến thế kỷ 20, khi làm thủy lợi ở vùng này (trạm bơm Phù Sa (Sơn Tây)), người ta vẫn còn thu thập được hài cốt hàng trăm quân (Việt Nam và Trung Quốc) chết trận.
Trong trận này, lần đầu tiên quân chính quy nhà Thanh trương kỳ hiệu đối đầu với quân Pháp. Tin thất trận truyền về Trung Quốc thoạt tiên làm nhà Thanh hoảng hốt, vì tưởng Lưu Vĩnh Phúc chết trận. Chỉ vài ngày sau khi thành Sơn Tây thất thủ, tuần phủ Quảng Tây Trương Thụ Thanh dẫn một đoàn quân lớn tiến vào Lạng Sơn rồi cho củng cố thành Bắc Ninh. Khắp miền Bắc Việt khi đó đâu đâu cũng có quân Thanh và quân Việt đóng. Tháng 1 năm 1884, 12.000 quân Thanh do Sầm Dục Anh chỉ huy từ Vân Nam tiến vào Lào Cai, rồi tiến vào Hưng Hóa hội binh với Lưu Vĩnh Phúc. Quân Cờ đen được tăng cường lực lượng, lên đến 3000 người trở lại. Tổng số quân Thanh ở Bắc Việt khi đó lên tới chừng 50.000 người[8], kể cả quân Cờ đen, đóng thành một vòng cung từ Hưng Hóa, Thái Nguyên đến Bắc Ninh.
* Trận thành Bắc Ninh
Trong khoảng thời gian 3 tháng sau trận Sơn Tây, quân Pháp được tăng cường lên 16.000 người, trong đó khoảng một phần tư là lính tập, và 10 đội pháo thủ. Tướng Millot được cử lên thay Đô đốc Courbet vào tháng 2 năm 1884. Quân Pháp định đánh thành Hưng Hóa trước, nhưng do đường sông cạn nước, pháo thuyền và thuyền tiếp tế không lên được, nên quân Pháp phải chuyển hướng sang chuẩn bị tấn công Bắc Ninh. Quân Thanh cho rằng quân Pháp sẽ theo con đường cái quan đánh vào Bắc Ninh, nên tổ chức rất nhiều vị trí phòng thủ dọc theo hướng đó. Quân Pháp chia làm hai cánh, cánh thứ nhất do thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân qua sông Hồng, rồi theo sông Đuống (sông Thiên Đức) đi về phía đông. Cánh quân của thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, sau khi hội quân với thiếu tướng Brière de l'Isle, cả thủy bộ theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến đánh Bắc Ninh.
Quân Cờ đen đến Bắc Ninh một tuần trước đó đã tổ chức phòng thủ trên các ngọn đồi phía ngoài thành Bắc Ninh, nhưng sự chuẩn bị của quân Thanh nhìn chung rất sơ sài. Pháo thủ quân Thanh không biết sử dụng hiệu quả pháo binh, dù quân Thanh được trang bị khá đầy đủ, quân Thanh không bố trí trên các cao điểm xung quanh thành phố. Thêm vào đó quân Thanh cướp phá, nhũng nhiễu dân chúng, cưỡng bức đàn bà con gái nên dân chúng địa phương có thái độ rất thù nghịch với quân Trung Quốc.
Quân Pháp bắt đầu tấn công từ ngày 11 tháng 2 (âm lịch) và nhanh chóng chiếm đóng các điểm cao nhìn vào thành phố. Khi Đáp Cầu thất thủ, quân Quảng Tây thấy mất đường về Lạng Sơn, hoảng hốt bỏ chạy toán loạn về Thái Nguyên, quân Cờ đen lại rút chạy về Hưng Hóa. Quân Quảng Tây trong lúc hoảng loạn bỏ lại 10 khẩu pháo Krupp và 200.000 dollar bằng bạc, mang vác theo đàn bà con gái và của cải cướp bóc được, bị dân địa phương truy đuổi. Tối ngày 6 tháng 2 (âm lịch), quân Pháp vào được thành Bắc Ninh. Trận Bắc Ninh là trận thua chiến lược của quân Thanh, nên do thất bại nhục nhã này mà hai viên chỉ huy của quân Thanh bị chặt đầu, Hsu Yen-hsu (Từ Diên Húc) bị bắt về Bắc Kinh xử tội và chết trong ngục. Quân Pháp trận này chỉ mất 8 người chết và 40 người bị thương. Thiếu tướng Brière de l'Isle thừa thắng đem quân lên đánh Yên Thế, rồi một tuần sau đánh hạ thành Thái Nguyên.
*Trận thành Hưng Hóa
Thiếu tướng Brière de l'Isle cùng lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà. Hai bên đánh nhau từ sáng ngày 15 tháng 3 (âm lịch), đến 2 giờ chiều thì quân Pháp sang sông ở chỗ gần huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng ngày 16 tháng 3 (âm lịch), thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nhì tiếp đến, cả hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Chỉ chừng sau một giờ, quân Cờ đen và quân Thanh thấy không chống cự nổi, đốt hết phố xá, rồi bỏ chạy lên mạn ngược. Hoàng Kế Viêm kéo quân lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 12 tháng 4 (tức 17 tháng 3 âm lịch), quân Pháp vào thành Hưng Hóa, rối thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.
Quân Pháp đánh chiếm thành Hưng HóaTuyên Quang rồi ký Hòa ước Patrenôtre với triều đình Huế. Theo Hòa ước này, Triều đình Huế công nhận quyền Bảo hộ của Pháp. Phía Pháp cũng buộc Triều đình Huế từ bỏ thần phục nhà Thanh bằng cách giao nộp biểu tượng quyền lực của nhà Thanh là chiếc ấn bạc nặng gần 6 kg khắc hình lạc đà mà nhà Thanh dùng để phong vương cho vua Gia Long. Triều đình Huế không chấp nhận, kết quả là hai bên thỏa hiệp nấu chảy chiếc ấn đi để phá hủy nó.
*Trận Bắc Lệ
Tại Thiên Tân, trong các ngày 11 tháng 5 và ngày 9 tháng 6 năm 1884, nhà Thanh ký các thỏa thuận với Pháp chấp thuận Hòa ước Huế. Theo Hiệp ước này, quân Thanh sẽ rút khỏi Bắc Việt và bàn giao lại địa bàn này cho quân Pháp. Tướng Pháp Millot phái một cánh quân dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Dugenne gồm 800 binh lính và khoảng ngần ấy dân phu vận đồ lên tiếp nhận Lạng Sơn. Ngày 19 tháng 6 năm 1884, quân Pháp đến làng Bắc Lệ, chỉ cách Lạng Sơn gần 30 km, thì phải dừng lại do mưa lũ. Ngày 23 tháng 6, khi quân Pháp tiếp tục tiến lên, họ bị quân Thanh mai phục ở hai bên đường bắn chặn lại làm vài người bị thương. Chỉ huy quân Thanh tại Lạng Sơn thông báo cho phía Pháp biết họ chưa có lệnh rút quân, dù rằng thời hạn 20 ngày để hoàn tất việc rút quân theo Hiệp định đã hết, và yêu cầu phía Pháp điện về Bắc Kinh để thúc giục chỉ thị giúp họ. Chỉ huy Pháp từ chối và đòi quân Thanh phải rút khỏi các vị trí trong vòng một giờ. Khi thời hạn hết, quân Pháp tiến lên liền bị quân Thanh mai phục sẵn, vũ trang bằng súng trường Remington, bắn chặn lại quyết liệt. Quân Pháp không tiến lên được, phải rút lui. Trận này quân Pháp mất 22 người chết và 60 người bị thương. Cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa Pháp và nhà Thanh bùng nổ.
Các sỹ quan hải quân và lục quân Pháp tại chiến trường muốn đánh thẳng vào Bắc Kinh, nhưng Thủ tướng Pháp Jules Ferry chỉ chấp thuận tiến hành các hoạt động quân sự tại Đông Dương và vùng Biển Đông, vì ông lo ngại một cuộc tấn công vào Bắc Kinh sẽ chọc giận các cường quốc Âu châu khác, đặc biệt là Anh quốcNga. Hải quân Pháp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Amédée Courbet phong tỏa các cảng biên Cơ LongĐạm Thủy của Đài Loan và tiến hành đổ bộ đánh các lực lượng quân Thanh trên đảo. Trong số những người tham gia chiến dịch có cả đại úy công binh Joseph Joffre, thống chế tương lai của nước Pháp.
* Trận Phúc Châu
Ngày 23 tháng 8 năm 1884, trong trận Phúc Châu, hải quân Pháp gồm 7 tàu chiến và hai tàu phóng lôi nhỏ loại 30 tấn, với hỏa lực vượt trội tấn công hạm đội Thanh bỏ neo tại cảng, (điều trớ trêu là hạm đội này được ông Prosper Giquel, một công dân Pháp xây dựng). Hạm đội Thanh có 9 tàu chiến, bao gồm cả tàu vận tải vũ trang và pháo hạm, chia làm hai cụm bỏ neo tại bờ tây bắc và tây nam của khúc quanh sông Mân, ngoài ra còn có một số ghe vũ trang, ca nô phóng lôi và 2 tàu vận tải nối liền hai cụm. Trận đánh diễn ra không quá 30 phút, quân Pháp tiêu diệt hoàn toàn hạm đội Thanh. Ngày hôm sau, thuyền chiến Pháp pháo kích và phá hủy công xưởng hải quân Thanh. Tới ngày 25 tháng 8, hạm đội Pháp hướng ra biển, trên đường đi họ bắn phá và dễ dàng tiêu diệt tất cả các pháo lũy của nhà Thanh bố trí dọc theo bờ sông, vì tất cả các pháo lũy này đều hướng ra phía biển. Kể từ mồng 1 tháng 10 năm 1884 đến tháng 6 năm 1885, quân Pháp chiếm đóng Cơ Long, và từ ngày 29 tháng 3 năm 1885 chiếm luôn Bành Hồ.
Tuy nhiên tại Bắc kỳ, quân Pháp không triển khai chiến dịch được vì mùa mưa đến. Điều này giúp cho quân Thanh tiến đến tận vùng châu thổ sông Hồng. Trong quá trình chiến dịch, quân Thanh vây hãm thành Tuyên Quang, được bảo vệ bởi một tiểu đoàn quân Lê-dương Pháp. Trận này cho tới giờ vẫn được ca tụng trong khúc quân hành của quân đoàn Lê-dương.
* Trận Shipu
Trong trận này, hải quân hạm đội Nam Dương nhà Thanh xuất phát từ Thượng Hải từ tháng 12, định phá vòng phong tỏa của hải quân Pháp. Lực lượng đặc nhiệm Thanh gồm có 3 tàu tuần dương hạm, 1 tàu khu trục và 1 thuyền buồm loại nhỏ, chỉ huy bởi Đô đốc Wu An-k'ang. Tới mãi tận giữa tháng hai, quân Thanh mới đến Shipu và chạm trán hạm đội Pháp, nhưng vì hạm đội Pháp có ưu thế vượt trội về hỏa lực nên quân Thanh quyết định nhanh chóng tháo lui. Chiếc khu trục hạm Yu-yuen và thuyền buồm Teng Ch'ing vì chạy chậm hơn nên bị rớt lại, phải quay lại bỏ neo tại cảng Shipu. Trong đêm ngày 14, rạng sáng ngày 15 tháng hai năm 1885, quân Pháp sử dụng 2 tàu phóng ngư lôi để tấn công quân Thanh. Khu trục hạm Yu-yuen bị đánh chìm, còn chiếc Teng Ch'ing có lẽ bị thủy thủ đoàn tự đánh đắm. Trận này thường bị nhầm với trận Foochow, vì trong trận đó quân Pháp cũng dùng ngư lôi để đánh chìm 2 tàu chiến của quân Thanh, trong đó có cả kỳ hạm của quân Thanh. Trận này còn được gọi là trận "Shei-poo".
Ba tuần dương hạm còn lại của Nam Dương hạm đội chạy về đến Ninh ba, cùng với 2 tàu hộ vệ của Phúc Kiến bị hải quân Pháp phong tỏa trong cảng và không có bất kỳ một đóng góp quân sự gì cho tới khi chiến tranh kết thúc. Lực lượng Bắc Dương hạm đội cũng án binh bất động dù sở hữu một số tàu chiến hiện đại và có hỏa lực mạnh đủ để đương đầu với tàu chiến Pháp, nên dù hải quân Pháp bị dàn trải mỏng vẫn có thể phong tỏa bờ biển miền nam và tây nam Trung Quốc. Tuy bị nhiều thất bại, nhưng với cuộc chiến ở vào thế giằng co, nghịch lý là uy tín hải quân Thanh trên trường quốc tế dường như lại tăng lên một chút, vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc đối đầu với một siêu cường Châu Âu và cuộc chiến ở vào thế bất phân thắng bại[9].
* Trận Ải Nam Quan và Lạng Sơn
Một đạo quân viễn chinh Pháp gồm 2 lữ đoàn hành quân lên miền bắc xứ Bắc kỳ và chiếm Lạng Sơn vào tháng 2 năm 1885. Một lữ đoàn sau đó tiến về giải vây Tuyên Quang, nên tại Lạng Sơn chỉ còn lại một lữ đoàn không có lực lượng yểm trợ. Chỉ huy đơn vị này vì muốn tiêu hao sức mạnh tấn công của quân Thanh nên tổ chức tấn công quân Thanh dọc biên giới và bị đánh bại tại trận Trấn Nam Quan. Quân Pháp rút lui về Lạng Sơn và đánh bại cuộc tấn công của quân Thanh trong trận Kỳ Lừa. Tuy nhiên trong khi giao chiến, viên chỉ huy Pháp bị thương, và người thay thế ông ta, có lẽ bị hoảng hốt, vội vã hạ lệnh bỏ Lạng Sơn vào ngày 28 tháng 3. Lữ đoàn rút chạy hỗn loạn về vùng châu thổ sông Hồng, mất hết các chiến quả thu được trong chiến dịch năm 1885, khiến cho chỉ huy quân viễn chinh Pháp, Henri Briere de l'Isle, tưởng là tình hinh vùng trung châu đã trở nên hết sức nguy kich. Ông ta đánh điện báo về Paris, và hậu quả là chính phủ của thủ tướng Jules Ferry sụp đổ.
Vài ngày sau, Briere de l'Isle nhận ra là tình hình không đến nỗi xấu như ông ta tưởng, tuy nhiên Nội các mới lên thay ở Pháp đã quyết định chấm dứt chiến tranh.
Trận thua này, mà người Pháp gọi là "Sự kiện Bắc kỳ", là một scandal chính trị lớn cho những người ủng hộ chủ nghĩa việc bành trướng thuộc địa. Mãi cho đến cuối thập niên 1890 họ mới giành lại được sự tín nhiệm trên chính trường.
Hệ quả
Mặc dù phải rút khỏi Lạng Sơn, nhìn tổng thể thì quân Pháp vẫn chiếm ưu thế, cộng với các chiến thắng trên biển, khiến cho Lý Hồng Chương phải ký một hiệp ước gây nhiều tranh cãi ngày 6 tháng 9 năm 1885. Theo hiệp ước này, nhà Thanh chấp nhận Hòa ước Huế và từ bỏ quyền bá chủ trên lãnh thổ Việt Nam. Không lâu sau An-nam (Trung kỳ) và Bắc kỳ bị sát nhập vào miền Nam kỳ thuộc Pháp. Ảnh hưởng đáng kể nhất của cuộc chiến với Pháp là nó hạ bệ chính phủ lâu năm của Ferry. Ông Ferry không bao giờ có thể lại trở thành Thủ tướng được nữa.(Tai sao?)
Bản Hiệp ước này gây nhiều tranh cãi đến mức Lý Hồng Chương và chính quyền nhà Thanh phải chịu nhiều chỉ trích nặng nề, đồng thời tạo ra một làn sóng ái quốc khắp Trung Hoa. Cuộc chiến tranh là một bước quan trọng trong quá trình sụp đổ của nhà Thanh, do bị mất uy tín và do sự hủy diệt Nam dương Hạm đội. Nó cũng chỉ ra những yếu kém trong hệ thống quân sự cuối đời nhà Thanh, khi mà các đơn vị địa phương quân, cũng như bắc quân (gồm cả hải-lục quân) từ chối tham chiến. Tuy không bị thất bại trên chiến trường, nhưng các mục tiêu chính trị mà nhà Thanh đặt ra đều không thực hiện được, như ngăn chặn sự hiện diện quân sự của Pháp ở Bắc Việt, nhà Thanh phải chấp nhận mất nước chư hầu Việt Nam và chấp nhận tất cả các hòa ước mà Pháp đã ký với nhà Nguyễn. Về mặt quân sự, tuy các tổn thất nhân mạng có thể chấp nhận được, thì các thiệt hại vật chất rất to lớn và khó bù đắp. Hạm đội Phúc Kiến (tức Nam Dương hạm đội) bị hủy diệt, cảng Phúc Châu bị phá hủy, tổn thất về khí tài, chi phí quân sự, thiệt hại kinh tế của nhà Thanh lên đến 100 triệu lạng bạc, đồng thời mắc nợ thêm 20 triệu lạng bạc nữa[10].
Hệ quả chính trị là phái cải cách trong chính phủ nhà Thanh hoàn toàn mất uy tín và bị gán trách nhiệm cho thất bại. Phong trào Tự cường thực hiện được hai mươi năm nay bị phá sản. Việc mất Việt Nam cũng mở đường cho Đế quốc Anh đặt yêu sách lên nhà Thanh đòi tách Miến Điện khỏi vùng ảnh hưởng của Trung Quốc vào năm 1885 (dù vẫn chấp thuận để Miến Điện tiếp tục triều cống), và Nhật Bản nhân cơ hội bắt đầu tỏ ý nhòm ngó Triều Tiên. (TL: WKP-TV)...
(còn tiếp)

------------------

2 nhận xét:

  1. TRIỆU LƯƠNG DÂN
    KÍNH THĂM NHẠC SĨ TÔ HẢI ...
    THÂN MONG Bậc Sĩ phu như Ông chóng bình phục

    Thân quý


    Thoát Hán bằng Con đường hướng về Tây phương như Minh trị Thiên hoàng dẫn dắt Dân tộc Nhật Bản
    ****************************************************


    Thoát Hán bằng Đường về Tây phương

    Tựa Phong trào Duy Tân (0) viễn kiến phi thường

    Như Minh trị Thiên hoàng dẫn dắt Dân Nhật

    Nhìn Tượng Cha Đắc Lộ (1) nghĩ kính thương

    Cất công ngày đêm La tinh hóa Tiếng Mẹ

    Thoát Hán chữ ngoằn ngèo rắn rết vươn

    Dễ phổ thông hóa chống nạn mù chữ

    Hội nhập sáu châu lục năm đại dương

    Đi giữa phố Paris Người từng qua Một thuở

    Nhìn trời thấy Hy Mã (0) kính dâng Nhang hương .. ..



    TRIỆU DÂN LÀNH
    ngày 24 tháng 3 năm 1926 - ngày 24 tháng 3 năm 1926...
    Quận 14, Paris - Nhân Kỷ niệm 60 Năm ngày Húy
    nhật Chí sĩ Phan Châu Trinh




    (0) Chí sĩ Phan Châu Trinh bút hiệu Hy Mã Người khởi
    xướng Phong trào Duy Tân chủ trương Bất bạo động
    cùng thời với Thánh Gandhi và Con đường Dân chủ
    hóa hướng về ngả Tây phương...


    (1) Đức Cha Alexandre de Rhodes, sinh tại Avignon,
    Miền Nam nước Pháp ngày 15 tháng Ba năm 1591 có
    thời qua Việt Nam truyền đạo và sáng chế ra Tiếng
    Việt hiện đại ... và mất ngày 5 tháng 11 năm 1660
    tại Ispahan (Perse xứ Ba Tư )
    Trả lời
  2. TRIỆU LƯƠNG DÂN


    Viện Khổng Tử (1) : dây cung của chiếc "nỏ thần" Trung Quốc
    *************************************************


    Khổng giáo - cái tôn giáo đạo kinh doanh rất mềm nhưng cực cứng !
    Khổng giáo chợt hồi sinh bơm bởi Bắc Kinh
    Sự trỗi dậy Hòa Bình ( !!) vươn lên của Trung Quốc
    Sau khi Cách mạng Văn hóa Mao Trạch Đông vứt vào thùng rác Tàu sử
    Viện Khổng Tử mọc lên như nấm dại
    Thay cho lỗ trống tư tưởng Cộng sản
    Khổng giáo - cái tôn giáo đạo kinh doanh rất mềm nhưng cực cứng !
    Khổng giáo là lão ông thần tài Trung Hoa thờ trong góc xó
    Khổng giáo bành truớng quảng bá trên toàn thế giới
    Nhất là châu Phi châu Á như cột trụ quyền lực mềm Tàu
    Khổng Tử - Lão Tử - Mặc Tử - Tôn Tử
    Quyến rũ hớp hồn hàng triệu chú lọ cô lem
    Quyến rũ hớp hồn hàng triệu chú nghệ cô vàng mất hướng lạc hồn
    Để cho gió đông gió Tàu hợp tác mua chuộc lôi cuốn
    Khổng giáo như làn gío LÀNH hay gió CHƯỚNG thổi khắp bốn phương
    Luồn theo cơn bão Tòan cầu
    Len vào cơn lốc khủng hoảng tài chính thế giới
    Vận hội rồng mây cho Tàu nâng cao quyền lực mềm hỗ trợ bành trướng Đại Hán kinh tế
    Mô hình Trung Quốc tiếp thị chào đời
    Quên cả biên giới biên cương
    Quên quà tặng tẩm thuốc độc
    Quên tặng phẩm là viên đạn bọc đường

    TỶ LƯƠNG DÂN

    1. Từ năm 2004, đã có gần 300 Học viện Khổng giáo
    được dựng lên trên khắp thế giới, trong số này Thái Lan
    lãnh đủ 30 Viện Khổng Tử và 30.000 sinh viên Thái lan
    du học Trung Quốc năm 2008 vượt con số du học Mỹ là
    đích đến của sinh viên Thái lan du học trước đây !!

    Mấy lời ngắn ngủi về Ông

    .
    Nói ra cũng chỉ là chuyện buồn, và cho đến bây giờ, chẳng có gì mới nữa. Nhận thức của con người ít nhiều cũng đã có sự thay đổi. Nhưng tôi nhắc lại để vơi đi phần nào nỗi ưu tư về Ông.
    Tôi biết đến Ông Ngô Đình Diệm qua một bài hát từ hồi còn trẻ con. Dạo ấy, tôi là thiếu nhi, nghe các anh phụ trách dạy, đến giờ tôi vẫn còn nhớ:
    “Con cò bay lả bay la
    Kim Sơn Phát Diệm quê nhà
    …….
    Bán nước buôn nòi, quân kia bán nước buôn nòi, Ngô Đình Diệm bán nước buôn nói. Chó săn cho đế quốc Mỹ, bịp lừa dân ta vào Nam”
    Lúc ấy, tôi cũng chỉ biết thế, làm sao mà biết ông Diệm là ai. Chỉ nghĩ rằng ông ấy rất xấu.
    Rồi tôi lại được nghe người lớn nói chuyện rằng, Bác Hồ đến kẻ thù nó cũng phải nể phục. Ta gọi là thằng Ngô Đình Diệm, chứ phía chúng nó đâu có dám gọi Bác là thằng.
    Lớn lên, có học, có chút kiến thức văn hóa, tôi mới hiểu tại sao miền Bắc gọi ông Diệm là thằng, còn miền Nam không gọi ông Hồ là thằng. Tôi xấu hổ.
    Ông Diệm, Ông Nhu bị giết trong cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, cách đây tròn 50 năm, Cái chết của hai Ông rất thảm thương.
    Ông là người có ý thức dân tộc rất cao. Ông không theo Pháp, cũng chẳng chịu lệ thuộc vào Mỹ. Vì thế, Mỹ mới đứng đằng sau cuộc đảo chính nhằm hạ bệ Ông. Nếu ông ngoan ngoãn theo Mỹ thì chắc kết cục không đến nỗi bi thảm như thế.
    Kỷ niệm 50 năm ngày Tổng thống đầu tiên của chính thể Việt Nam Cộng hòa bị hạ sát, xin được thắp nén hương tượng trưng trước mộ ông ở nghĩa trang Lái Thiêu. Mong Ông tha thứ cho tôi vì ít nhất cũng đã có lần tôi gọi Ông bằng thằng.
    Trong những hình ảnh vê Ông còn lưu lại, tôi xin chọn ra đây một bức ảnh và một clip:
    1. Ảnh Ông Ngô Đình Diệm, một vị Tổng thống nằm nghỉ trên đường đi kinh lý.
    2. Video Clip Tổng thống Mỹ Eisenhower đón tiếp tổng thống Ngô Đình Diệm tại sân bay quốc tế Washington Dulles ngày 8/5/1957
    đi kinh lý
    Ông Ngô Đình Diệm nằm nghỉ trên đường đi kinh lý
    .
    Tổng thống Mỹ Eisenhower đón tiếp tổng thống Ngô Đình Diệm
    http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=WYMsA2WfZ9M
    .
    1/11/2013
    NTT

    Hạ Long Bụt sĩ - Nửa thế kỷ- 1963-2013, nhìn lại Sử Việt: Chính Biến Tháng 11-1963


    Hạ Long Bụt sĩ
    Lịch sử Việt Nam thế kỷ XX ghi nhận 3 chính biến có tầm vóc lớn, huy động đông đảo quần chúng:
    * Cuộc khởi nghĩa Yên Bái 1930, huy động được khối quần chúng châu thổ sông Hồng, tuy không thành công nhưng đã gieo được mầm cách mạng kháng chiến trong lòng dân tộc từ Bắc chí Nam. Chủ trương phong trào kháng Pháp này do các nhóm trí thức bậc trung, Nho sinh, giáo viên, hương sư, cai, đội... gần với đại khối bình dân.

    * Cuộc kháng chiến mười lăm năm sau, 1945, thừa hưởng mầm cách mạng dân tộc, huy động quần chúng toàn quốc, hội đủ thời, thế và cơ, nên thành công. Tiếc rằng cáithế lại phải dựa vào thế đang lên của Cộng Sản quốc tế, nên cuộc kháng chiến tiến hành với âm mưu phục sẵn dẫn dắt vào quỹ đạo đỏ. Quần chúng yêu nước đổ xương máu bầy cỗ cho nhóm yêu Đảng ăn.

    * Cuộc chống đối chính quyền họ Ngô, năm 1963 phức tạp hơn vì có dính líu tới tôn giáo và ngoại nhân (Hoa Kỳ), nhưng không thể phủ nhận tầm vóc quần chúng tham gia đông đảo chưa từng thấy sau 1945.
    *
    Chính quyền Ngô Ðình Diệm trong những năm đầu (1954 - 60) đã gặt hái nhiều thành quả và có hậu thuẫn quần chúng. Những chương trình kiến quốc đề ra như Dinh điền, Khu trù mật, Ấp chiến lược... đều đi đúng đường mặc dầu cấp thừa hành không thực hiện đến nơi đến chốn. Riêng năm 1960, những thành quả kinh tế đưa Nam VN lên hàng thứ 3 tại Á châu, hơn Đại Hàn, Ấn, Thái… (1) Đây là một chính quyền quốc gia vững mạnh nhất, có chủ đạo, có tổ chức, có nhân sự hậu thuẫn, có cốt lõi trung ương chỉ đạo, có quốc tế ủng hộ (khối Thiên Chúa Giáo) kể từ sau chính phủ Trần Trọng Kim 1945.

    Những năm sau chính quyền họ Ngô càng ngày càng cô lập và gặp nhiều chống đối: Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị mưu sát hụt năm 1958 ở Ban Mê Thuột, bị đảo chính hụt năm 1960, bị thả bom vào dinh Ðộc Lập năm 1962, cho nên chính biến kết liễu tháng 11-1963 chỉ là hệ quả của một chuỗi chống đối, trong đó yếu tố tôn giáo và Hoa Kỳ không đủ để giải thích.

    Những nhân sĩ tư cách cao như Nguyễn Thế Truyền, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tường Tam... chống đối họ Ngô chắc chắn không phải vì chống đối đạo Cơ Ðốc hoặc vì Mỹ mua chuộc, các sinh viên học sinh bãi khóa đánh nhau với Cảnh Sát Dã Chiến ở Sàigòn và ở nhiều tỉnh, người không làm chính trị bao giờ như Vũ Hoàng Chương... cũng phản đối chính quyền... đại khối quần chúng đã chống đối thì phải có nguyên nhân sâu xa hơn, đó là:
    1- Khoảng cách giữa gia đình họ Ngô với quảng đại quần chúng mỗi ngày một xa, một đẳng cấp quan lại, khoa bảng thượng lưu có thể thành công ở thời bình và ở một nước đã ổn định, nhưng không thể thành công ở một xã hội chậm tiến, nghèo và giao thời, giao động mạnh vì Cộng Sản như Việt Nam. Chính quyền họ Ngô không có những nhân sự cán bộ bắt được tâm mạch quần chúng, vận động được cộng đồng và sống hòa nhịp với các giai tầng xã hội. Ðó cũng là lỗi lầm của Tưởng Giới Thạch và gia đình giầu sang họ Tống đã làm mất quần chúng về phe địch thời 1940 bên Tầu. Tổng quát, ta đã rơi vào bẫy chiến lược “ Lấy nông thôn bao vây thành thị ”  của Mao.
    2- Sau ngày chia đôi đất nước 1954, các thành phần quốc gia đều tập hợp về miền Nam, ủng hộ họ Ngô trong công cuộc diệt Phong, Thực và Cộng. Mọi người đều chờ đợi quá nhiều vào lãnh tụ và lãnh tụ đã không đáp ứng được sự chờ đợi nôn nóng đó. Nhiều thành phần bắt đầu bất mãn và chống đối, chính quyền thay vì điều chỉnh cho hợp dân ý lại quay ra độc tôn, độc đoán, phá mất phên dậu miền Nam là các giáo phái. Chỉ cần một chút giao tế rộng lượng, lãnh tụ Ngô Ðình Diệm đã có thể quy tụ được nhiều thành phần quốc gia đảng phái trong cuộc chống Cộng cứu nước, chỉ cần một chút tế nhị khôn khéo ông đã có thể tránh được những va chạm tôn giáo tối kỵ trong lĩnh vực chính trị (2). Người dân trên mảnh đất miền Nam chờ đợi cuộc đại đoàn kết, họ Ngô lại gây chia rẽ địa phương, tôn giáo, phe phái; đảng phái quốc gia muốn đóng góp vào đại cuộc chống Cộng, họ Ngô lại muốn độc quyền chống Cộng. Ba chữ “Cần-Trung-Công” ( Cần Lao, Trung phần, Công giáo) trở thành dấu ấn, vô tình hay ác ý, của dân chúng gắn cho chính quyền.

     Thành ra từ một lãnh tụ có tư cách và được ủng hộ, họ Ngô đã lần lần từ bỏ những ưu điểm của mình để phơi bầy ra những nhược điểm và trở thành đối tượng chống đối của quần chúng đông đảo.

    3- Quần chúng đông đảo dựa vào phong trào Phật giáo để chống đối hữu hiệu chính quyền họ Ngô nhưng không có nghĩa là chống lại đạo Công Giáo. Có chăng là chống lại một số người đi quá đà mang Công giáo vào chính quyền, cũng như quần chúng đã bỏ rơi phong trào Phật giáo tranh đấu khi có một số nhà tu kiêu ngạo và Phật tử đi quá lố vào thế tục chính trị, rất dễ cho CS xâm nhập, trong những năm 1964 - 65... Sau này người dân chống đối TT Nguyễn Văn Thiệu không phải vì ông theo đạo Chúa mà vì ông nghi kỵ nhân sự và dung túng tham nhũng. Thế nên ở Việt Nam có lẽ vấn đề địa phương có tầm mức quan trọng hơn là tôn giáo, tranh chấp tôn giáo nếu có cũng chỉ xảy ra lẻ tẻ và hạn hẹp . Trong xã hội, trong giáo dục, tuyệt nhiên không có sự hiềm khích với Công giáo, các giáo sư linh mục khả kính vẫn tiếp tục giảng dậy, sau chính biến 1963, tại các trường lớp từ tiểu học tới Đại học với các học sinh, sinh viên đa phần không Công giáo. Nước đục thả câu, CS khai thác triệt để, làm nước đục, đục thêm, bé xé ra to, tạo hỏa mù rồi đổ vấy !
    4- Hai câu hỏi kế tiếp: tại sao phong trào Phật giáo đấu tranh lại nổ ra rất mạnh và kéo rất lâu ở vùng Huế, và tại sao Huế lại bị thảm sát cả ngàn người trong Tết Mậu Thân 1968?
    Trong lịch sử Việt Nam cận đại Huế đã là một trung tâm chính trị văn hóa của Đàng Trong từ thế kỷ 16 với Chúa Nguyễn Hoàng và đã là thủ đô của nước Việt từ thế kỷ 19 tới 1945. Trong thời Pháp thuộc, Huế vẫn có vua và vẫn là linh hồn của nước Việt cổ truyền, Huế và lãnh thổ An Nam là cứ điểm cuối cùng của văn hóa dân tộc trong khi Hà Nội và Sài Gòn đã bị Âu hóa khá mạnh. Trung tâm văn hóa cổ truyền Huế cũng là một trung tâm Phật giáo lâu đời, suốt mấy trăm năm Phật giáo mặc nhiên giữ ngôi vị quốc giáo, người dân Huế sống trong không khí cổ kính đó nên dễ bị “xốc” khi có những ảnh hưởng Âu Tây tới. Một ngôi giáo đường Cơ Ðốc mới xây ở Sài Gòn, Vũng Tầu... có thể tạo nên những nét mới cho thành phố mới, nhưng nếu ở Huế, sẽ là những nét lạ không ăn khớp với bức tranh cổ. Thế nên nếu bị va chạm, dù chỉ là hình thức như cờ quạt phản ứng tâm lý trở thành một dị ứng mãnh liệt, nó ăn sâu vào tiềm thức, vào danh dự dân tộc, vào tập quán cộng thể. Có lẽ họ Ngô và thân cận không hiểu nổi chiều sâu của dị ứng đó, chỉ đánh giá như một phản ứng bất mãn tầm thường của quần chúng và đã đối lại bằng những phương pháp tầm thường như chữa bệnh nội tạng bằng thuốc ngoài da vậy, khi thấy dị ứng đó lan khắp cơ thể dân tộc thì lại đổ tất cả cho Cộng Sản nằm vùng, CIA dật giây mà không chịu tìm nguồn gốc sâu xa của phản ứng.
    Trung tâm Huế là thành trì của tinh thần dân tộc cổ truyền, có một lớp tu sĩ đầy bản lãnh và khối quần chúng đông đảo có ý thức quốc gia và thuần thành Phật giáo, nên sẽ là một trở ngại lớn cho làn sóng Nam xâm Cộng Sản, vì thế, 5 năm sau 1963, trong Tết Mậu Thân 1968, Huế đã bị thảm sát tập thể nhiều ngàn người. Ngoài sự trả thù sân hận cá nhân, ân oán chính trị Quốc –Cộng vùng này rất nặng từ những năm 1940-50, đây là một kế hoạch có tính toán, cân nhắc giữa thất nhân tâm và thực tế chiến lược. Hà Nội thấy rõ mức quan trọng của tâm thức Huế đối với ý thức hệ Mác Lê nên đã thẳng tay san bằng thành trì dân tộc vững chắc này để dọn đường xa cho cuộc Nam xâm.
    VÀI HỆ QUẢ TÍCH CỰC SAU CHÍNH BIẾN
    Từ 1954-1963 chính quyền miền Nam quốc gia tiếp tục đường lối từ chính quyền Bảo Đại, giới lãnh đạo chính trị và ưu thế xã hội vẫn là giới cũ, trí thức khoa bảng và thân Pháp. Sau 11-1963 xã hội miền Nam thay đổi mạnh, tại học đường văn hoá dân tộc trỗi dậy, Phật học và Thiền học bắt đầu lấy lại chân đứng, lan tràn qua sách báo, cơ sở Phật giáo, thành lập Nha Tuyên úy Phật giáo, Đại học Vạn Hạnh... Giới thân Pháp, nhất là ở Đại học, co cụm lại, bỏ VN về Pháp, sinh viên quốc gia sinh hoạt mạnh mẽ hơn, từ tổ chức sinh viên, truyền thông báo chí, tới tôn giáo chính trị. Nhiều Phân khoa, như Y Nha Dược, dần dần bỏ chuyển ngữ Pháp sang Việt, số trường trung tiểu học Pháp cũng bắt đầu theo chương trình Việt.

    Gia đình và bản thân TT Ngô Đình Diệm thuộc thế hệ cổ kính, có học thức, có tư cách, nhưng họ là những con người của thế hệ tiền chiến 1930-40, chứ không thể là thế hệ lãnh đạo của thập niên 1960, không bắt nhịp được với giới bình dân, không uyển chuyển nổi theo xu hướng thiên Anh Mỹ ở vòng đai Đông Nam Á, mà vẫn chịu ảnh hưởng lối nhìn nửa nạc nửa mỡ, nửa Hữu nửa Tả của Pháp. Nước nhược tiểu, vốn phải dựa vào đại cường, đại cường Mỹ lúc này chủ trương chống và cản CS, như đã làm ở Triều Tiên, thì Nam VN không thể có chiến lược riêng - như trung lập, như bắt tay với phe Tả v..v nhận viện trợ mà làm khác đi, thì khó mà được yên thân.

    Sau chính quyền Ngô Đình Diệm, chiến tranh lan rộng hơn, quyền lực chuyển sang quân đội với thành phần trẻ trung cách cụ Diệm ( 1900) cụ Nhu ( 1910)... cả một thế hệ, như Nguyễn văn Thiệu (1924), Nguyễn Cao Kỳ (1930)… thành phần trẻ trung này, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, non chính trị, nhưng được một ưu điểm : họ gần dân hơn, bớt kênh kiệu hơn, và họ có một khối ủng hộ đầy nhiệt huyết là đồng đội. Nước tao loạn, không lấy quân đội làm chủ chốt thì lấy ai ? Vả lại quân đội miền Nam đồng thời cũng là những người có ăn học, không làm mất giá trị truyền thống xã hội sĩ, nông, công, thương, trí thức vẫn được trọng dụng, nắm giữ các phủ, bộ, hành chánh, chuyên môn, khác hẳn thể chế độc tài CS tiêu diệt Trí, Phú…
    *
    Sau 50 năm trôi qua, 1963-2013, nhìn lại có 2 điều đáng tiếc:
    • Lãnh tụ Ngô Ðình Diệm có đủ điều kiện để kiến tạo miền Nam nhưng đã để vụt mất cơ hội, làm mất dần thế đoàn kết quốc gia, thiếu vận động quốc tế làm sáng tỏ ngọn đuốc chính nghĩa, để địch thủ nắm cờ lộng giả thành chân, đi từ không đến có qua tuyên truyền như thời 1945. Rút cục miền Nam thiếu mất nền tảng vững chắc để sinh tồn tự chủ.

    • Phong trào Phật giáo đã dấy động được quần chúng đông đảo, đã có thể tái dựng một nền tảng văn hoá quốc gia, có viễn kiến lịch sử, nhưng lại vướng mắc vào thế tục chính trị, tranh chấp nội bộ vì dị biệt đường lối, không thức thời và thiếu thực tế, nhiều ảo tưởng nên dễ bị phe Tả cực đoan lợi dụng, tương kế tựu kế. Thế nên phe quốc gia lại mất đi một nội lực huyết mạch đáng lẽ có thể phục hồi cơ thể dân tộc.
    Chính ngã mạn đã đưa họ Ngô vào thảm kịch, cũng chính ngã mạn đã đưa Phật giáo đến đổ vỡ, đó là bài học của biến chính tháng 11-1963.

    Hạ Long Bụt sĩ
    Ghi Chú về Chủ thuyết Cần Lao Nhân Vị và ông Ngô Đình Nhu
    Theo Ký Ức  tập I, của Huỳnh Văn Lang, chương 5 và 6, thì ông Ngô Đình Nhu xây dựng học thuyết này trong những năm ẩn dật ở Đà Lạt ( 1946-1952), về triết lý thì dựa trên Nhân vị thuyết ( Personalisme) của triết gia Pháp Emmanuel Mounier, hồn và xác là hai phần bổ túc cho nhau; về phương pháp thực tế, kinh tế nhân bản quân bình chú trọng tới nhu cầu người dân, phân phối lợi tức đồng đều, thì dựa vào cha Louis Lebret (người Bretagne, Pháp, 1897-1966- dòng Dominicain, chủ nhiệm tạp chí Economie & Humanisme-Kinh tế & Nhân bản, là tài liệu học tập nghiên cứu cốt lõi của nhóm ông Ngô Đình Nhu). Cha Lebret đến Việt Nam mấy lần và nghiên cứu về đời sống dân Việt, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đồng thời cha có khuyến cáo TT Ngô Đình Diệm là nên có Thủ Tướng với ba Tổng bộ (Văn hoá Giáo dục Y tế - Kinh Tài Canh nông công chánh - Nội vụ Quốc phòng-Ngoại giao đứng riêng) và chính cha cũng cho rằng không nên có thứ quyền bính trong bóng tối (pouvoir obscur) như ông Ngô Đình Nhu đang làm, vì lịch sử đế quốc Roma và Hy Lạp đã chứng minh thứ chính phủ đen tối đó gây nhiều hệ luỵ bất hạnh! Cha Lebret cũng đã có lời hứa của ông Nhu là cải tổ chính phủ.

    Thiết nghĩ lấy Công giáo làm chủ lực chống CS không phải là hoàn toàn vô lý, tiếc rằng trong bối cảnh miền Nam, Công giáo chỉ chiếm khoảng 7% dân số và chủ thuyết Nhân vị cũng không có gì mới lạ đối với tinh thần Nhân bản, Nhân chủ, bình sản, đồng tôn, trong tư tưởng Việt.
    (1)Theo bài của Trần Đăng Hồng-Ph.D, 5-2013 (websiteTranDang.net) : So sánh GDP đầu người của VN và vài nước Á  Châu: GDP VNCH 1960 đứng thứ ba, sau Singapore, Mã Lai, Phi, nhưng đứng trên Nam Hàn, Thái Lan, Tầu, Ấn, nhờ xuất cảng gạo…

    (2)Tự thiêu trong Phật giáo là một cách cúng dường thân xác cho chân lý, cuộc tự thiêu tự nguyện của Hòa thượng Quảng Đức từ 1963, cho đến nay, vẫn bị hiểu lầm, đến nỗi HT Tâm Châu gần đây vẫn còn phải giải tỏa cặn kẽ trên YouTube.

    Vì Nước bỏ đảng - vì đảng bỏ Nước!?

    Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - Có thể chúng ta sẽ không cùng quan điểm khi nhận xét về nhân cách cá nhân họ. Tuy nhiên không thể nào không công nhận, họ là những người Cộng Sản yêu nước chân chính nhất hiện nay khi họ tự tách ra, vượt lên trên 3 triệu “đồng chí” của họ, gạt bỏ mọi “vinh hoa phú quí” để như vắt máu từ trong trái tim mình nhỏ từng giọt hòa theo dòng lịch sử dân tộc.
    Dù đau như đoạn trường bởi nhiều lý do khác nhau nhưng cuối cùng vì văn minh tự do dân chủ, vì lẽ phải công bằng, vì tương lai tiền đồ dân tộc vì vận nước thôi thúc, khẳng khái từ bỏ đảng CS độc tài lạc hậu - Họ là ai?
    Nhiều lắm, một thời là tinh hoa của chế độ CSVN như các ông bà: Dương Quỳnh Hoa - Nguyễn Hộ - Trần Xuân Bách - Trần Độ - Hoàng Minh Chính - Vi Đức Hồi - Bùi Tín - Nguyễn Minh Cần - Nguyễn Mạnh Tường - Dương Thu Hương – Lê Hồng Hà - Phạm Đình Trọng - Trần Mạnh Hảo - Huỳnh Nhật Hải - Huỳnh Nhật Tấn v.v...
    Không quá lời khi nói, họ vì đất nước mà dứt khoát từ bỏ “đảng” để: “vắt từ trong trái tim mình, từng giọt máu hòa theo dòng lịch sử dân tộc” Những giọt máu viết thành lời của họ (những người yêu nước ấy) công khai quang minh chính trực để các “đồng chí CS” một thời của họ phải cúi đầu nghiệm suy:
    Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa 

    Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa bộ trưởng Y Tế Mặt Trận GPMN, từ bỏ đảng CSVN năm 1979. Bà công khai phát biểu:
    “Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”.

    Nhận định về ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, Bà nói: “Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”
    Ông Nguyễn Hộ
    Ông Nguyễn Hộ: UV/thường vụ thành ủy TP/Hồ Chí Minh, CT/MT/Tổ Quốc TP/Hồ Chí Minh - UV/TW/MTTQ/Việt Nam, ông từ bỏ Đảng CS năm 1991 sau hơn 53 năm. Ông từng được trao giải thưởng Hellman-Hammett của Tổ chức quốc tế Nhân quyền.
    “…Đảng cộng sản Việt Nam phát động chống đa nguyên, đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước, kiềm hãm dân tộc Việt Nam mãi trong mê muội tối tăm, mù quáng. Không phải vì dân tộc, vì đất nước mà chính là vì sợ mất vai trò lãnh đạo và đặc quyền, đặc lợi của cá nhân, một nhóm người lãnh đạo, mà Đảng cộng sản Việt Nam đã chà đạp thô bạo Hiến Pháp của nước CHXHCN Việt nam, biến nó thành một thứ trang trí, không có giá trị thực tiễn trong việc bảo vệ dân chủ tự do và lợi ích của công dân; mặt khác nó che đậy khéo léo bản chất độc tài phản dân chủ của Đảng CSVN... ”[1]

    Trung tướng Trần Độ

    Trung tướng Trần Độ: Phó Chính ủy - Phó Bí thư Quân ủy MTGPMN-Phó CT/QH khóa 7, ủy viên Hội đồng Nhà nước (1989-1992) - Ông chấp nhận khai trừ đảng ngày 4 tháng 1 năm 1999 để được tự do viết theo nhận xét của mình trong “Nhật ký Rồng Rắn”:
    “…Đảng nói những lời rất hay, làm ra Hiến pháp và luật pháp, nhưng bộ máy của đảng đều làm ngược lại Hiến pháp và luật pháp, bất chấp đạo lý.

    Đảng tuyên truyền khẩu hiệu “sống theo Pháp luật” thì đảng lại là người sống ngoài vòng pháp luật và sống trên pháp luật trắng trợn nhất. Và đảng cũng chỉ đạo các cơ quan nhà nước làm như vậy. Xã hội ta ở trong tình trạng như vô pháp luật hiện nay, người đầu tiên gây ra tình trạng đó chính là đảng.

    Đảng dùng mọi thủ đoạn lừa bịp, dối trá, ngụy biện để nhằm một mục đích duy nhất là duy trì và giữ vững bộ máy cai trị mà họ gọi là “sự lãnh đạo của đảng”. Do đó, trong thực tế bộ máy này là bộ máy phá dân chủ, phản dân chủ một cách trắng trợn, tinh vi và tàn bạo nhất”.

    Ông Lê Hồng Hà: 
    Ông Lê Hồng Hà: Cựu đại tá Chánh văn phòng Bộ Công an dưới thời Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, ông đã bị khai trừ khỏi đảng (Vụ án xét lại chống Đảng thập niên 1990). bị kết án, vào tù một thời gian.
    “…Đảng hiện nay chỉ còn là vai trò kìm hãm xã hội, nhưng ĐCSVN vẫn cố tô vẽ cho thực trạng hiện nay những điều không có thực, vẫn tự khoe khoang, huyênh hoang rằng nhờ mình thì đất nước mới có nhiều điều tiến bộ nhưng thực tế đã cho thấy Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN tụt hậu về nhiều mặt so với các nước trong khu vực. Xây dựng và phát triển đất nước mà lại theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì sai hoàn toàn. Chủ nghĩa Marx-Lenin là một học thuyết đấu tranh giai cấp bằng bạo quyền, là một học thuyết “phản” phát triển. Trong tình hình hiện nay của đất nước thì cái Đảng này không thể đổi mới được. Chỉ có dân mới có thể tạo ra đổi mới. Nếu cái Đảng này có làm được cái gì tiến bộ thì cũng phải dựa vào sức ép của dân. Nhân dân sẽ là người bắt Đảng phải thay đổi - Tôi không kêu gọi thủ tiêu “anh” nhưng “anh” muốn tồn tại thì phải thực hiện đa nguyên, đa đảng, dân chủ, để mà tồn tại”. [2]


    Ông Vi Đức Hồi:
    Ông Vi Đức Hồi: Giám đốc trường Đảng Hữu Lũng, Tỉnh Lạng Sơn, năm 2007 ông bị khai trừ, vì các bài viết phê phán đảng, ông được Human Rights Watch trao giải Hellman/Hammett năm 2009. Ông bị CSVN tuyên án tám năm tù giam vì tội tuyên truyền chống nhà nước.
    “…Quân đội là của nhân dân, từ nhân dân mà ra, do nhân dân nuôi dưỡng. Ở các nước dân chủ, văn minh, quân đội chỉ làm nhiệm vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật, nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành quân đội. Quân đội không thể là công cụ của bất cứ một đảng phái nào, nhiệm vụ thiêng liêng nhất của quân đội là bảo vệ nhân dân, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.

    Một lực lượng hùng hậu, được trang bị các phương tiện và vũ khí tối tân, được chăm lo bằng những đồng tiền thuế của nhân dân đóng góp mà nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu lại là để bảo vệ cho sự tồn tại sống còn của một cái “đảng”, thì quả là kỳ lạ…”

    Đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng
    Đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng: “Tôi là Phạm Đình Trọng, nhà văn, là đảng viên Cộng sản tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lý tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng.” [3]
    “... Cải cách ruộng đất lấy danh nghĩa là đánh đổ tầng lớp bóc lột ở nông thôn nhưng những gì diễn ra đã chứng tỏ rằng đó là cuộc phát động gây hận thù ngay trong lòng dân tộc. Lấy bạo lực chuyên chính vô sản đánh vào giá trị văn hóa, đánh vào đạo lý gia đình, đánh vào văn hóa làng quê, đánh cả vào tín ngưỡng tâm linh, những nền tảng của văn hóa dân tộc.

    Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh đã phá sạch cơ sở vật chất của nền sản xuất công nghiệp tư nhân vừa hình thành, biến những người chủ giỏi tính toán làm ăn, biết gây dựng cơ đồ thành trắng tay, thành người làm thuê bằng cơ bắp. Sử dụng cơ bắp XHCN làm thuê làm cho nền kinh tế miền Bắc thụt lùi hàng trăm năm. Tiếp tục cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã đưa kinh tế cả nước xuống vực thẳm, đưa dân tộc Việt Nam thông minh, tài giỏi tới nghèo khổ, hèn mọn. Dòng người bỏ nước ra đi kéo dài trong nhiều năm...” 

    Ông Huỳnh Nhật Hải (trái) và ông Huỳnh Nhật Tấn 
    Ông Huỳnh Nhật Hải và ông Huỳnh Nhật TấnHai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã cùng nhau ly khai, ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ quan trọng đang đảm nhiệm đầy quyền lực, quyền lợi - (ông Huỳnh Nhật Hải là PCT/UBND/TP Đà Lạt kiêm Thành ủy viên và ông Huỳnh Nhật Tấn là Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết). Cả hai ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn có chung quan niệm để cùng chia sẻ với đồng bào công luận: “Anh em chúng tôi trước khi quyết định từ bỏ đảng đã nói với nhau là: chúng ta đi làm cách mạng không phải để góp phần xây dựng nên một nhà nước chuyên chính độc tài toàn trị như thế này.” [4]
    Các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng Hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho một số viên chức chính quyền miền Nam đọc cả cương lĩnh của Mặt trận GPMN nhưng những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
    Với câu hỏi: Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
    Ông Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.
    Đó là một số tiêu biểu những tấm gương người CS “vì nước, bỏ đảng”.
    Ngược lại, khi mà: “Liên Xô, đế chế hùng mạnh hàng đầu thế giới, lãnh đạo CS quốc tế và toàn khối CS Đông Âu cũng như các quốc gia XHCN vệ tinh, 90% những chế độ một thời theo CS trên toàn thế giới ấy, đã tự nguyện từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, vứt bỏ tư tưởng Mac, đạp đổ tượng đài Lê Nin để đưa quốc gia hội nhập với trào lưu tiến hóa dân chủ hay đa nguyên văn minh của nhân loại, cụ thể như thế giới hiện nay, mà đảng CSVN và nhất là 14 cái “da mặt dày” trong “bộ cai trị”CSVN đã chứng kiến xuyên suốt hơn 20 năm qua…” thì mới đây 23/10/2013….
    Tại nghị trường QH - Trong phiên thảo luận tại tổ về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Ông Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: "Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”!? (khi thiên hạ đang chôn lấp nó??)


    Không biết trong nhóm 14 khuôn mặt “dày da” này có ma nào trả lời được câu hỏi của ngài TBT: "Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. ”!? – Khi quá khứ CSVN đã lấy 4 triệu sinh mạng nhân dân mình làm nhiên liệu đổ vào cỗ máy XHCN chạy suốt 70 năm qua nhưng hiện tại chỉ mới thấy cái nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin đặt lên số phận 500. 000 ngàn thanh niên con em xuất khẩu xin tư bản trước khi “giãy chết” hãy vui lòng bóc lột trả bằng ngoại tệ để CSVN lấy đó định hướng kinh tế thị trường kiểu tư bản mà quá độ lên CNXH!?. Một thứ chủ nghĩa ảo vọng hiện nay như là một món ăn ôi thiu mà thiên hạ đã nôn thốc nôn tháo ra ngoài khi lỡ ăn vào, nhưng CSVN vẫn cứ bịp bợm tri hô là món ngon của đầu bếp Hồ… Chí Minh chế biến bắt cả dân tộc nuốt vào!?.
    Hơn ai hết 14 khuôn mặt này đều biết tỏng tòng tong CNXH là ảo vọng là không thể có thật trên cõi đời này nhưng vì quyền lợi nhóm màu mỡ vì bã vinh hoa phú quí nên câu kết lừa dân, dối lòng, duy trì độc tài bạo quyền lạc hậu của đảng CS mà bỏ qua vận mệnh của đất nước.
    Họ, những kẻ hèn mọn “vì đảng, bỏ nước” nhân cách hoàn toàn khác biệt với các đồng chí của họ nói trên “vì nước, bỏ đảng”.
    Lịch sử vốn dĩ như lăng kính tinh khiết, không có trái tim nên rất lạnh lùng công minh khi phản chiếu phán xét: Ai? Vì Nước bỏ đảng và Ai? Vì đảng bỏ Nước!? Cả dân tộc sẽ vinh danh, nguyền rủa hay trừng phạt, thời điểm ấy không còn xa lắm, khi CS/XHCN như ánh tà dương hiu hắt hấp hối cuối ngày trên toàn thế giới.
    Hoàng Thanh Trúc
     

    Bộ công cụ của người bất đồng chính kiến

    Muốn lật đổ một kẻ độc tài? Các cuộc biểu tình đường phố chỉ là một trong số nhiều công cụ.
    Bởi ERICA CHENOWETH | Foreign Policy/Ngọc Hoà (The Pacific Chronicle) dịch - Trong vài năm qua, chúng ta ngày càng quen với các hình tượng biểu tình. Trong cao trào của Mùa Xuân Ả Rập, hình ảnh người biểu tình đường phố trẻ tuổi giận dữ đang la hét bằng khẩu hiệu, bằng bảng hiệu, và đối đầu với lực lượng an ninh đã trở thành gần như phổ biến. Nhưng chúng ta cũng như thường xuyên nhìn thấy các chiến dịch biểu tình công khai bị lúng túng hoặc bị đảo ngược: chỉ cần nhìn vào Ai Cập và Libya là thấy những trường hợp nổi bật nhất. Các cuộc biểu tình đường phố ở Sudan nổi lên gần đây một lần nữa khiến chúng ta phải đối mặt với một câu hỏi cơ bản: Làm cách nào để cuộc biểu tình công khai làm suy yếu chính phủ độc tài ? Các cuộc biểu tình có thực sự là chìa khóa để lật đổ kẻ độc tài ?
    Ếch nhái cũng cần đến một chiến lược xanh. (Ảnh: Internet)
    Nghiên cứu cho thấy trên thực tế, những cuộc biểu tình chỉ là một trong nhiều công cụ mà phong trào phản kháng dân sự có thể sử dụng để tác động thay đổi. Những phong trào thành công là những phong trào đã sử dụng một loạt các phương pháp để gây sức ép lên nhà nước trong khi vẫn giúp các nhà hoạt động của họ được an toàn. Chiến thuật biểu tình mà chúng ta thấy chỉ là một trong hàng trăm chiến thuật sẵn có cho những người dân tìm kiếm sự thay đổi – và chiến dịch thành công tạo ra sự thay đổi phải sử dụng nhiều hơn là chỉ một chiến thuật duy nhất.
    Maria Stephan và tôi tiến hành nghiên cứu về một câu hỏi có liên quan nhưng bao hàm rộng hơn: “Khi nào sự phản kháng dân sự có hiệu quả?” Các kết quả từ chương trình nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các chiến dịch đối kháng thành công khi chúng xử lý được ba vấn đề quan trọng: 
    (1) thu hút được sự tham gia rộng rãi và đa dạng, 
    (2) phát triển một chiến lược cho phép họ kéo dãn cuộc đàn áp, và 
    (3) khuyến khích hành vi đào tẩu, từ bỏ lòng trung thành, hoặc bất tuân lệnh trong giới ưu tú của chế độ và/hoặc lực lượng an ninh.
    Thu hút sự tham gia có lẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất trong số những nhiệm vụ đó, vì khả năng khuyến khích đào tẩu và kéo dãn tình hình thường phụ thuộc vào việc vận động được sự ủng hộ lớn trên diện rộng. Yếu tố quan trọng bậc nhất cho một chiến dịch thành công là tỷ lệ tham gia của nó. Theo tập hợp dữ liệu của NAVCO, trong đó xác định kết quả của hơn 300 chiến dịch có tính bất bạo động hoặc bạo động trên toàn thế giới từ 1900 đến 2006, không một trường hợp nào bị thất bại sau khi đạt được tỷ lệ tham gia tích cực và bền vững chỉ của 3,5 phần trăm dân số – có một số trong số các chiến dịch đó đã thành công với ít tỷ lệ còn ít hơn. Tất nhiên, 3,5 phần trăm là không phải là điều đáng xem thường. Ở Hoa Kỳ ngày nay, nó tạo thành con số hơn 11 triệu người. Nhưng làm thế nào để các phong trào có thể trở nên lớn như vậy lúc ban đầu, đặc biệt là tại những quốc gia mà sự tham gia công khai vào một phong trào quần chúng lại rất nguy hiểm?
    Một cách để các nhà tổ chức có thể phát triển phong trào của họ là bao gồm các chiến thuật an toàn hơn và do đó thu hút sự tham gia của những người sợ rủi ro. Ví dụ, thay vì chỉ dựa vào các cuộc biểu tình hoặc phản đối, nhiều phong trào có thể cho phép mọi người tham gia vào “các cuộc đình công bằng điện”, trong đó mọi người tắt điện vào thời điểm phối hợp trong ngày, hoặc bằng cách đập vào nồi và chảo lúc nửa đêm để báo hiệu sức mạnh về số lượng. Tham gia vào các loại hành động như vậy có thể thu hút nhiều người còn lưỡng lự, đồng thời cũng cho phép họ cơ hội để phát triển ý thức đồng nhất với phong trào và mục tiêu của nó. Ví dụ, ở Chile dưới thời Pinochet, các cuộc biểu tình trực diện chống lại nhà độc tài là quá nguy hiểm. Trong một trường hợp, Pinochet cảm thấy rất bị đe dọa bởi những ẩn ý trong một số bài hát nổi tiếng mà ông ta cấm cho hát công khai, nó không mất nhiều công sức. Nhưng khi người ta bắt đầu đập vào nồi và chảo, nó cho phép họ thể hiện sự thách thức của họ một cách nặc danh và an toàn trong nhà riêng của họ. Khi những tiếng kêu vang đòi thay đổi bằng kim loại trở nên ngày một lớn hơn, các nhà tổ chức chống lại Pinochet và những kẻ ủng hộ họ trở nên bạo dạn hơn để thúc hành động gây rối và công khai hơn.
    Một phong trào tương tự đang được tiến hành ở Ai Cập ngày hôm nay, nơi mà phong trào “Masmou” đã khiến hàng ngàn người đập vào chậu và chảo trong nhà của họ vào lúc 9 giờ mỗi đêm để báo hiệu rằng có những lựa chọn hữu hiệu khác đối với cả chính phủ al-Sisi và Nhóm Anh em Hồi giáo. Trong môi trường đàn áp cao độ, quả thực là vẫn có an toàn cho số đông. Những hành động như thế có thể báo hiệu rằng không ai bị cô lập, trong khi gây khó khăn cho chính phủ trong việc đàn áp những người tham gia.
    Một khi mọi người bắt đầu được động viên, sự tác động đến chính trị nội bộ của một chế độ độc tài có thể là rất lớn. Như ông Gene Sharp lập luận một cách đúng đắn, không có chế độ nào là một nguyên khối. Tất cả các nhà lãnh đạo đều 100 phần trăm phụ thuộc vào sự hợp tác, sự tuân lời và giúp đỡ của những kẻ tạo thành trụ cột hỗ trợ cho chế độ: lực lượng an ninh, các phương tiện truyền thông nhà nước, giới kinh doanh hay ngành giáo dục, các nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan chức dân sự. Khi những người đó bắt đầu đánh giá lại vai trò của chính quyền đối với lợi ích lâu dài của họ, họ có thể thực sự bị lôi kéo để từ bỏ hỗ trợ kẻ lãnh đạo. Điều này rất có khả năng xảy ra khi càng có nhiều người được huy động để chống lại đối thủ của phong trào.
    Tại sao vậy? Bởi vì không một ai trung thành với chế độ ở bất cứ nước nào sống hoàn toàn cô lập với dân chúng của chính họ. Họ có bạn bè, họ có gia đình, và có mối quan hệ hiện tại sẽ còn tồn tại với họ trong thời gian dài, bất kể là nhà lãnh đạo còn tồn tại hay đã ra đi. Như nhà phê bình văn học Robert Inchausti được cho là đã nói rằng, “Bất bạo động là một sự đánh cược — không phải vì sự tốt lành của nhân loại mà là vì độ phức tạp vô hạn của nó”. Lấy một ví dụ từ cái gọi là “Cuộc cách mạng máy ủi”, một cuộc cách mạng của người Serbia chống lại Slobodan Milosevic để lật đổ ông ta vào tháng 10 năm 2000. Trong trường hợp này, một khi đã trở nên hiển nhiên rằng hàng trăm ngàn người Serbia đã đổ về Belgrade để yêu cầu Milosevic từ bỏ chức vụ, cảnh sát phớt lờ lệnh bắn vào người biểu tình. Khi được hỏi lý do tại sao đã làm như vậy, một trong số những người đó nói: “Tôi biết những đứa con của tôi đang ở trong đám đông.”
    Vị cảnh sát này không phải là duy nhất ở Serbia hoặc ở nơi khác. Chúng tôi thấy rằng nhìn chung, lực lượng an ninh có xu hướng đào tẩu thường xuyên hơn khi họ phải đối mặt với chiến dịch bất bạo động (so với cuộc nổi dậy vũ trang), đặc biệt là khi con số tham gia gia tăng. Sau khi lưu ý đến các yếu tố khác, khoảng hơn 60 phần trăm khả năng lực lượng an ninh đào thoát khi đối đầu với các chiến dịch bất bạo động lớn nhất, và hơn 30 phần trăm có khả năng đào thoát trước các chiến dịch bất bạo động vừa phải. Vụ đào tẩu của lực lượng an ninh xảy ra trong hàng ngũ của lực lượng vũ trang Iran trong cuộc kháng chiến chống Shah, trong lực lượng vũ trang Philippines trong cuộc nổi dậy chống Marcos, và trong quân đội Israel trong cuộc nổi dậy lần đầu tiên của người Palestine, chỉ để nêu ra vài ví dụ. Những sự thay đổi lòng trung thành đó có thể là rất quan trọng đối với kết quả của các chiến dịch: Chúng làm tăng cơ hội thành công của chiến dịch lên hơn 60 phần trăm.
    Tất nhiên, các cuộc biểu tình – và những phong trào quần chúng nói chung – có xu hướng thường xuyên bị thất bại cũng như các cuộc biểu tình thành công. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào những thất bại hoàn toàn – như Thiên An Môn, cuộc nổi dậy Hungary năm 1956, hay Cách mạng Vàng Nghệ tại Miến Điện năm 2007 – sẽ thấy rõ rệt một vài nét chính. Các chiến dịch thất bại không bao giờ lan rộng để bao gồm tỷ lệ lớn dân chúng, hoặc bị thất bại vì không thể thay đổi giữa chiến thuật rủi ro rất cao và những chiến thuật an toàn hơn. Nhưng họ cũng thất bại trong việc thiết lập một chiến lược dài hạn để thực hiện các chiến dịch bền vững có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trước sự đàn áp tàn bạo của nhà nước. Thời gian tồn tại trung bình của một chiến dịch bất bạo động là từ hai năm rưỡi đến ba năm, nhưng rất ít chiến dịch trong số này đã có một chiến lược dài hạn, ngoài những hy vọng đầy mơ tưởng rằng những chiến thắng về chiến thuật có thể làm cho chế độ phải đáp ứng yêu cầu của họ.
    Các chiến dịch phản kháng dân sự đang được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới, từ Bahrain đến Maldives, từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Bulgaria. Trong tất cả các trường hợp này, các nhà vận động phong trào cần phải phân tích một cách cẩn thận những ảnh hưởng chính trị mà các chiến thuật như vụ biểu tình gây ra. Nếu các chiến thuật này không làm tăng thiện cảm đối với chiến dịch trong và ngoài nước, không làm đa dạng hóa các cơ sở của người tham gia, và không khuyến khích sự đào thoát trong giới ưu tú của chế độ, thì chúng sẽ không giúp mang lại cơ hội thành công cho phong trào. Nhưng thay vì từ bỏ đấu tranh vì các cuộc biểu tình không hiệu quả, sẽ tốt hơn nếu các nhà lãnh đạo phong trào đánh giá cao nhiều phương pháp phản kháng bất bạo động và bất hợp tác khác để có thể chống chọi với đối thủ của họ. Các chiến dịch cuối cùng sẽ thành công là những chiến dịch hoàn toàn áp dụng lời cảnh báo của Tôn Tử rằng “chiến thuật mà không có chiến lược là tiếng huyên náo om sòm trước khi thất bại.”
    [*] Erica Chenoweth là Phó giáo sư tại trường Nghiên cứu Quốc tế Josef Korbel của Đại học Denver và nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện Nghiên cứu Hòa bình ở Oslo. Bài viết này được chuyển thể từ các cuộc nói chuyện tại TEDxBoulder và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2013 của những người đoạt giải Nobel Hòa bình ở Warszawa.
    Nguồn: Dịch từ tiếng Anh: Erica Chenoweth, The Dissident’s Toolkit, Foreign Policy, ngày 25 Tháng Mười 2013.
    Bản Tiếng Việt © 2013 The Pacific Chronicle

    Nguyễn Văn Thạnh - Những sai lầm "thơm ngon"

    Nguyễn Văn Thạnh
    Tác giả gửi tới Dân Luận
    Câu hỏi đặt ra là tại sao một điều căn bản của kinh tế học, không có gì cao siêu khó hiểu - phải nói là đến con nít cũng biết - mà dân tộc chúng ta cứ lâm vào hết lần này đến lần khác?

    image001_32.jpg
    Vậy là điều gì đến cũng đã đến. Với món nợ lên gần cả 100.000 tỷ, trong khi thực lực chỉ là vài chục con tàu nát vương vãi khắp thế giới, phá sản là điều không thể tránh khỏi của quả đấm thép hùng tráng một thời: Vinashin. Điều đặc biệt ở đây không phải phá sản theo lệ thông thường mà đổi tên từ Vinashin thành SBIC. Một ảo thuật để (gần) 90 triệu dân đang đói kém quên đi nguồn cơn của nỗi khốn khó?
    Cũng như những con quái vật, trước khi chết, chúng cũng sẽ ra sức giãy dụa, tiêu hao sinh lực rất nhiều. Ban đầu, chúng được những vị quan to nhất nước trấn an tinh thần kiểu như “sau tái cơ cấu, Vinashin sẽ phục hồi và có lãi” rồi “Vinashin tự vay tự trả, nhà nước không chịu trách nhiệm” rồi “tái cơ cấu chuyển Vinashin cho Vinalines tiếp quản” rồi “chính phủ bảo lãnh trả nợ thông qua phát hành trái phiếu”,... và cuối cùng là đổi tên. Thật hồi hộp và chóng mặt với đường đi đầy ảo thuật của quả đấm thép bao năm qua. Mỗi chặn đường tiêu tốn không biết bao mồ hôi, nước mắt của muôn dân vì phải đóng thuế, gánh nợ.
    Kết quả thực tế là món nợ càng ngày càng tăng theo lãi suất và hàng chục con tàu nát ngày càng mục hơn và vẫn vươn vãi khắp nơi trên thế giới.
    Không có gì phải vội với món tiền lãi chóng mặt, đơn giản vì đó không phải tiền của các vị có trách nhiệm. Đã có mồ hôi, sức lao động và tài nguyên “gái đẹp” của cả dân tộc gánh vác. Chẳng những gánh vác món nợ khổng lồ đó mà còn gánh vài chục biệt thực, siêu xe cho các vị lãnh đạo Vinaline cưng chiều bồ nhí.
    Thật là thảm họa. Đây có phải là sai lầm đầu tiên dân tộc Việt Nam mắc phải? Xin thưa không?
    Ngay từ khi cướp chính quyền, Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện nền kinh tế nhà nước chủ đạo với hợp tác xã nông nghiệp. Kết quả là đói vàng mắt với thảm cảnh:
    Mỗi người làm việc bằng hai
    Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe
    Mỗi người làm việc bằng ba
    Để cho quản trị xây nhà xây sân.
    "
    (Tương tự với nông nghiệp là chương trình cải tạo công thương nghiệp với chủ trương quốc hữu hóa nhà máy, xí nghiệp kho tàng. Kết quả là một số hưởng lợi khi nắm quyền lãnh đạo, điều khiển còn công nhân thì lương ba cọc, ba đồng. Nền công thương nghiệp lụn bại).
    Đói quá thì đầu óc cũng phải mềm đi, đỡ sắc máu, đỡ kiên định trong mê muội. Lãnh đạo cũng buộc phải suy nghĩ lại và phát hiện ra sai lầm căn bản “cha chung không ai khóc, tiền chùa không ai quản lý nổi”. Ok, một nguyên lý kinh tế học rất đơn giản, dễ hiểu. Thế là đổi mới, giao ruộng lại cho cá nhân. Vinh quang khoán 10 mà có vị còn tuyên bố chắc nịch đó là sáng tạo của Đảng trong đổi mới, hay “không có Đảng CS không có đổi mới”.
    Người dân sau bao năm tháng đói mòn đói mỏi, hẳn họ không còn nghĩ gì cao siêu hơn là lăn ra đồng cày cấy để có bát cơm đầy, ăn no mặt ấm cho ra con người. Điều kỳ diệu là không những họ đủ ăn mà còn xuất cảng hàng năm vài triệu tấn thóc. Dù bị hai công ty lương thực độc quyền thu mua, bán giá rẻ như bèo ra thị trường thế giới để đạt thành tích trên giao, nhưng hàng năm cũng thu về cho đất nước món tiền $ kha khá.
    (Bên cạnh đó hàng triệu con em nước Việt bị vắt kiệt sức lao động trong các nhà máy gia công hay xuất khẩu lao động cũng mang về cho tổ quốc món tiền $ kha khá không kém.
    Tài nguyên được cào bán cũng thu về kha khá $).
    No cơm ấm cật, các quan to lại nghĩ cách tiêu tiền. Những đại dự án liên tiếp ra đời như chương trình một triệu tấn đường, chương trình xi măng, chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình bò sữa,… Toàn những giấc mơ hoành tránh với lời tuyên bố chắc nịch là đã rút kinh nghiệm, chắc chắn thành công.
    Kết cục lại như nhau: phá sản, đổ bể!
    Mỗi một đại dự án đổ bể là một hội nghị tổng kết, phân tích, nghiên cứu và cuối cùng nguyên nhân vẫn là “cha chung không ai khóc, tiền chùa không ai quản lý nổi”. Lại quá đúng!
    Câu hỏi đặt ra là tại sao một điều căn bản của kinh tế học, không có gì cao siêu khó hiểu - phải nói là đến con nít cũng biết - mà dân tộc chúng ta cứ lâm vào hết lần này đến lần khác?
    Sau nhiều lần trăn trở với câu hỏi trên, tôi phát hiện ra một nguyên nhân rất đơn giản: vì đó là sai lầm thơm ngon!
    Sai lầm thơm ngon này, ai hưởng, hẳn các bạn cũng biết.
    Cái dã man của tình đồng bào là ở chỗ này: vì một chút thơm ngon mà một nhóm nhỏ người sẵn sàng xô cả một dân tộc vào bãi lầy hết lần này, đến lần khác: mặc bao em thơ đói rét không có tương lai, bao mẹ già bước chân không ngừng nghỉ kiếm ăn qua cọc vé số, bao cô gái trẻ bán mình nơi xứ người, bao chàng trai khôi ngô, sáng láng bán sức cho thiên hạ khắp năm châu bốn biển xa gia đình vợ con,… Viết những dòng này mà lòng đau như cắt!
    Thông thường, một đứa trẻ, sau khi vấp ngã, chúng sẽ ghi nhớ lỗi lầm mà tránh. Nhờ thế chúng ngày càng trưởng thành.
    Xem ra một dân tộc đến 90 triệu khối óc, qua bao nhiêu vấp ngã đau thương tại cùng một vị trí mà không rút được kinh nghiệm thì có lẽ dân tộc đó vẫn còn là trẻ con hoặc là bị đần.
    Nguyễn Văn Thạnh
     

    CHẾT CHẲNG ĐƯỢC CHÔN!

    .
    Biết Mày bệnh trọng từ lâu
    Nhưng có Bác sĩ giỏi đâu mà mần?
    Toàn loại Y tá nhì nhằng
    Đại phẩu không phẫu, phẫu bằng sữa tươi.
    Uống cho ễnh bụng thì thôi
    Mày “trớ” ra, đã có Người “ực” ngay!
    Thoạt trông Mày thực béo quay
    Lục phủ ngũ tạng của Mày đã tiêu!
    Kháng sinh phải dã đúng liều
    Ung nhọt tiêu tán, bởi yêu mến Mày
    Mười một dao mổ cầm tay(*)
    Mày lên bàn mổ, thương Mày, lại thôi!
    Thực ra Mày chết đứ rồi!
    Là do “Thể chế”… đáng đời Mày chưa?
    Đám tang Mày có ai đưa?
    Bởi “Thể chế” bảo: Mày chưa chết mà!
    Thương Mày, nước mắt chan hoà
    Khóc mà thành tiếng người ta chê cười…
    Tao đành chỉ nức nở thôi
    Mày thông cảm nhé!
    Đáng đời Mày chưa?
    …………………………….
    Thời tiết sáng nắng, chiều mưa
    Hôm nay Tao được đi đưa đám Mày…
    Ngày 31/11/2013
    Thanh Sơn

    .
    (1) Mười một đoàn kiểm tra, thanh tra của các ngành các cấp đều không phát hiện ra các sai phạm của Vinashin
    Tác giả gửi cho NTT blog