Đúng Boong!
NATO xoải cánh vào Libya
Cú bắn giã từ của Robert Gates phơi ra nhược điểm quân sự của Châu Âu
Sau
đây là bản dịch bài viết của Charlemagne trên tờ The Economist "On
Target", do độc giả Thương Đăng có thiện chí thực hiện cho quý vị, với
vài hiệu đính nhỏ của Dainamax. Phần chú thích trong ngoặc vuông [ ] là
của người dịch. Dainamax xin cảm tạ vị độc giả cần cù và tài hoa này.
Cuộc
chiến tại Libya đã bước sang tháng thứ ba và lập luận tự tin rằng lực
lượng của Muammar Qaddafi[1] bị bom đạn của NATO đập tan giờ này lại kéo
theo nỗi lo, rằng chính các lực lượng đồng minh bắt đầu cảm thấy sự hao
mòn do một chiến dịch quân sự kéo dài. Tư lệnh Hải quân Anh cho biết,
nếu cuộc chiến kéo dài qua mùa Thu, ông sẽ buộc phải ra “những quyết
định gai góc” về cách điều động các hạm đội Anh. Ở nước Pháp kế bên,
người tương nhiệm của ông lại than phiền rằng, nếu hàng không mẫu hạm
duy nhất của Pháp, chiến hạm Charles de Gaulle, lại tham chiến ở Libya
đến hết năm, thì nó phải ngưng hoạt động để tiến hành bảo dưỡng tới năm
2012. Na Uy, một nước hiếm hoi trong số đồng minh cứng cỏi đã sẵn sàng
oanh kích lực lượng của Đại Tá Qaddafi, cho biết lực lượng không quân
khiêm tốn của họ hiện không còn sức: trước mắt sẽ cắt số phi vụ, rồi
ngưng toàn bộ hoạt động vào ngày một tháng Tám tới đây.
Tuy
nhiên, cú bắn sấm sét trước khi về hưu của Robert Gates, Tổng trưởng
Quốc phòng đang ra đi của Hoa Kỳ, mới phũ phàng phơi bày những khuyết
khuyết của Châu Âu. Từ khởi thủy, các nước Châu Âu dựa vào Hoa Kỳ để xứ
này lãnh đạo chiến dịch Libya. Giờ đây dưới quyền chỉ huy của NATO, họ
vẫn phụ thuộc vào Hoa Kỳ trong việc xác định mục tiêu và thi hành tiếp
liệu trên không. Các chuyên gia Mỹ đang đổ xô và thành phố Naples [của
Ý] để tiếp sức cho Bộ Chỉ huy NATO. Ông Gates nói thẳng ra: “Liên minh
quân sự hùng mạnh nhất trong lịch sử này chỉ mới qua 11 tuần tham gia
chiến dịch chống lại một chính quyền võ trang kém ở một quốc gia dân cư
thưa thớt. Vậy mà nhiều nước đồng minh đã bắt đầu thiếu đạn, rồi đòi Hoa
Kỳ, một lần nữa [2], bù cho phần thiếu hụt.”
Lý
do bên dưới khuyết điểm này không là bí mật. Đa số quốc gia Châu Âu chi
tiêu rất ít cho quốc phòng mà lại lãng phí rất nhiều. Việc các nước
Châu Âu phải chật vật, về cả quân sự lẫn chính trị, để duy trì vài chục
ngàn quân ở xứ Afghanistan (A Phú Hãn) xa xôi là điều dễ hiễu. Nhưng
việc họ thấy mệt mỏi trong chiến dịch không tập có hạn chế ở vùng biên
vực Âu Châu (chẳng hạn cường độ còn thấp hơn cuộc chiến ở Kosovo hồi năm
1999) cho ta thấy điều gì đó còn nghiêm trọng hơn.
Chiến
sự Lybia đang mở ra một sự thật không thoải mái về NATO. Sức mạnh quân
sự của họ chủ yếu phụ thuộc vào nguồn lực mà Hoa Kỳ sẵn sàng châm thêm.
Nếu không có Hoa Kỳ, thì đòn quân sự của các cường quốc mạnh của Châu
Âu, như Anh và Pháp, cũng bị giới hạn. Hơn thế nữa, như ông Gates cũng
phát biểu, Châu Âu đừng nên tin vào sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Gates là
một trong các cựu chiến binh Mỹ cuối cùng của thời Chiến tranh lạnh hiện
còn đương chức; một thế hệ mới (của Hoa Kỳ) có thể sẽ không tán thành
sự gắn bó giữa ông với liên minh này, thậm chí còn có thể coi các đồng
minh Châu Âu như gánh nặng. Nếu Châu Âu không nỗ lực hơn, thì NATO trước
sau cũng đối diện với “sự tồn tại không đáng kể của tập thể quân sự” và
một “tương lai tối tăm ảm đạm”[3].
Lời
lẽ của ông Gates có thể bị gạt qua như sự lèm bèm của một chính khách
bẳn tính sắp về hưu. Ngần ấy chính quyền Hoa Kỳ vẫn đe nẹt Châu Âu về
chuyện chia sẻ gánh nặng. John Foster Dulles, Ngoại trưởng trào
Eisenhower, đã đe dọa “một vụ tái thẩm định chết người”[4] hồi năm 1953.
Lãnh đạo Mỹ đều nhất quán khi xem các nước Châu Âu là đồng minh chính
trị hữu dụng, nếu không là đồng minh quân sự. Ngay cả một tay đơn phương
xông xáo như ông Bush con [George W. Bush] cũng đành chịu đựng những
lời đả kích từ Âu Châu. Giữa nỗi khổ tâm về Iraq, các tướng lãnh Mỹ đã
trích lời Churchill[5]: “Ít ra còn một thứ tệ hơn cả việc tham chiến bên
các đồng minh - là tham chiến mà không có đồng minh.”
Cho
đến nay, NATO đã thọ quá sứ mệnh ban đầu, là đối đầu với Liên bang Xô
viết. Liên minh này băn khoăn bất tận về mục đích tồn tại, và bây giờ
thì bận rộn hơn bao giờ hết. Nhưng nội bộ đã có một sự thay đổi nhận
thức, theo lời Kurt Volker, một cựu đại sứ Mỹ tại NATO. "Với Châu Âu,
NATO chính là Hoa Kỳ; với Hoa Kỳ thì nó là Âu Châu. Giờ thì nó không còn
thuộc phe nào trong chúng ta.” Sự xa cách này có thể sẽ trầm trọng hơn.
Khi chiến tranh lạnh kết thúc, mối quan ngại về an ninh của Hoa Kỳ đã
chuyển từ Châu Âu sang Trung Đông, Nam Á, và cuối cùng đến nước Trung
Hoa đang trỗi dậy. Châu Âu phải tự lo lấy chuyện an ninh; giá trị [hay
sự xứng đáng] của họ nằm ở chỗ có giúp ích gì được gì không.
Nhưng
vụ khủng hoảng nợ nần ở Châu Âu có nghĩa là các quốc gia ở lục địa này
phải giảm chi về quốc phòng. Hiện chỉ có ba nước đạt chỉ tiêu của NATO
là chi tối thiểu 2% Tổng sản lượng Nội địa GDP cho yêu cầu phòng vệ: đó
là Anh, Pháp và Hy Lạp. Nhiều xứ khác chỉ chi 1%, hoặc còn ít hơn. So
với mức cam kết của Mỹ là chi khoảng 5% GDP cho quốc phòng. Khi cũng bắt
đầu cắt giảm quân phí, thì Mỹ sẽ phê phán nặng hơn các đồng minh đi
bóong tại Châu Âu[6].
Chẳng bõ công[7]
Libya
là dấu hiệu cảnh báo. Hoa Kỳ không còn muốn lãnh đạo chiến dịch quân
sự; thậm chí vai trò giám trận cũng gây tranh luận trong nước. Lẽ ra,
khu vực phía Nam bên kia Địa Trung Hải phải là trọng yếu cho cả Châu
Âu. Nếu họ không thể hành động ở đây, thì việc chi ra 275 tỷ Mỹ kim cho
quốc phòng còn có nghĩa lý gì? Vào những lúc kham khổ như hiện nay, các
nước Châu Âu sẽ không đột ngột tăng chi quốc phòng. Nhưng tối thiểu cũng
có thể tránh cắt giảm quân phí quá mạnh - và phối hợp khá hơn để giúp
NATO duy trì được cán cân lực lượng.
Giờ
đây, hơn lúc nào hết, Châu Âu cần chi cho đáng đồng tiền bát gạo. Họ có
nhiều binh lính hơn Mỹ, nhưng khả năng trải quân ra hải ngoại thì thấp
hơn nhiều. Ngân sách của họ bị xé vụn cho quá nhiều quân chủng, như bộ
binh, hải quân và không quân. Châu Âu sản xuất ra đến 20 loại xe bọc
thép khác nhau, sáu loại tàu ngầm tấn công và ba loại chiến đấu cơ. Với
mức quân phí gia tăng hơn tốc độ lạm phát, rõ ràng là các nước Châu Âu
cần tìm ra giải pháp tiết kiệm nhờ quy mô lớn hơn. Nói vậy không có
nghĩa là họ nên thành lập một đạo quân Châu Âu, như có người mong muốn.
Đây là một công thức dẫn đến tê liệt: hãy thử điều động lữ đoàn Pháp-Đức
đến A Phú Hãn, chưa nói gì đến Lybia. Thay vào đó, các nước Châu Âu nên
chuyên biệt hóa (quân đội của họ) và khi thực hiện những việc tương tự,
họ nên gom chung trang thiết bị quân sự.
Những
việc trên đều không dễ. Các nước thường không muốn lệ thuộc vào xứ khác
hoặc bị lôi vào cuộc chiến của xứ khác. Một số nước có thể kích hoạt
nền công nghiệp quốc phòng. Nhưng Đan Mạch đã buông các tiềm thủy đĩnh;
cho chúng thủ vai quan trọng hơn tại A Phú Hãn và Libya. Nhiều quốc gia
thì dùng chung vận tải cơ C-17. Năm qua, hiệp ước phòng vệ chung của
Pháp và Anh đã chỉ ra con đường đi: hai quốc gia này sẽ gia tăng phối
hợp, trong nhiều lĩnh vực thì có thử nghiệm vũ khí hạt nhân, điều động
hàng không mẫu hạm và lực lượng viễn chinh liên hợp, cũng như sứ mệnh
thiếu hấp dẫn mà thiết yếu, là yểm trợ[8]. Bài học rất rõ ràng: hoặc gom
sức hoặc kiệt sức.
--------------------------------------------------------------------------------
Chú thích của Người Dịch
[1]
Có thể chỗ này tác giả nhắc đến vụ Quốc hội Hoa Kỳ nhận được một lá thư
dài đến ba trang, được cho là do ông Qaddafi gởi hồi thượng tuần tháng
Sáu vừa rồi, kêu gọi Quốc hội Mỹ tiếp tục điều tra hành động quân sự của
NATO và các đồng minh tại Lybia mà tác giả cho là rõ ràng vi phạm nghị
quyết 1973 của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc
[2] Ông cựu chiến binh này tế nhị nhắc đến vụ Hoa Kỳ tham chiến cùng các đồng minh Châu Âu hồi Đệ Nhị Thế Chiến.
[3] Nguyên văn: “collective military irrelevance” & “dim and dismal future”.
[4]
Cái này là nhắc lại vụ tháng Chạp năm 1953, lúc ông Foster Dulles cảnh
báo Châu Âu rằng mấy nước này cứ lộn xộn, còn Pháp Đức cứ đứng ngoài, để
kế hoạch xây dựng EDC (European Defence Community - Cộng đồng
Phòng thủ Âu Châu, tiền thân của NATO ngày nay) thất bại, thì Hoa Kỳ sẽ
bỏ mặc Châu Âu, quay lại Châu Á và chỉ phòng thủ khu vực Tây bán cầu.
[5] William Churchill, Thủ tướng Anh thời Đệ Nhị Thế Chiến, ra cầm quyền hai lần (1940–1945 và 1951–1955)
[6] Nguyên văn: “free-riders”, nghĩa là "những kẻ đi boóng",
người hưởng lợi mà không bỏ ra công sức hay tiền của tương ứng. Trong
văn cảnh này, có lẽ ám chỉ các quốc gia khác trong khối NATO đang hưởng
xái của Hoa Kỳ
[7] Câu này "big bucks, small bangs" bắt nguồn từ thành ngữ “bang for the buck”, là phải đáng đồng tiền bát gạo, và ý ngược là cho rất nhiều mà hưởng chẳng bao nhiêu! "Nén pháo đùng ra pháo tẹt" cũng có thể là một cách dịch.
[8] Chắc là cái này nói tới vụ cho phép các phi đội của quân lực Pháp dùng không phận Anh để tiếp vận nhiên liệu theo hiệp ước. Có khi là vụ các trung đoàn Đức và Pháp phải thuê vận tải cơ Ukraine để đưa quân vào A Phú Hãn hoàn thành nghĩa vụ với NATO vào cuối năm 2001.
[8] Chắc là cái này nói tới vụ cho phép các phi đội của quân lực Pháp dùng không phận Anh để tiếp vận nhiên liệu theo hiệp ước. Có khi là vụ các trung đoàn Đức và Pháp phải thuê vận tải cơ Ukraine để đưa quân vào A Phú Hãn hoàn thành nghĩa vụ với NATO vào cuối năm 2001.
Labels:
Thời sự Ngày mai
NATO Ô Hô và Đông Phương Hồng
2011-07-07
Nguyễn Xuân Nghĩa - Việt Tribune San Jose Ngày 110707
Nhưng, việc các thành viên Âu Châu không chịu gom tiền đánh giặc mà ông Gates nói tới chỉ là một vấn đề. Vấn đề kia là chuyện... định nghĩa: giặc là ai?
READ MORE - NATO Ô Hô và Đông Phương Hồng
Từ Minh ước NATO đến Trung Quốc....
NATO - cờ bay như phướn
Tháng trước là lần đầu tiên từ hai ngàn năm nay mà thế giới cùng ngó vào Hy Lạp!
Khác với thời
Thượng Cổ, khi Hy Lạp còn là Đế quốc chế ngự cả "thế giới văn minh" tập
trung quanh Địa trung hải, ngày nay, Hy Lạp là một con bệnh Âu Châu.
Tháng trước, cả thế giới chú ý đến xứ này khi Chính quyền của Thủ tướng
George Papandreou xoay trở với Quốc hội để khỏi bị bãi nhiệm và còn hai
lần đề nghị các biện pháp kinh tế khắc khổ, trong khi dân chúng xuống
đường biểu tình phản đối.
Hy Lạp phải
trải qua giai đoạn kiệm ước khắc khổ để được các nước cấp cứu hầu khỏi
bị vỡ nợ. Các nước phải trợ giúp Hy Lạp để cứu lấy đồng Euro, đơn vị
tiền tệ thống nhất của 17 quốc gia trong số 27 nước hội viên của Liên
hiệp Âu Châu.
Với dân số hơn
500 triệu, Liên Âu là khối kinh tế có sản lượng hơn 15 ngàn tỷ một năm,
cao nhất thế giới - hơn cả Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Nếu Hy Lạp
bị khủng hoảng, đồng Euro mà bị sứt mẻ thì Liên Âu càng khó thoát khỏi
tình trạng kinh tế èo uột hiện này. Khủng hoảng sẽ dội vào các quốc gia
đang ở vào hoàn cảnh chi thu bấp bênh nhất, đa số ở miền Nam....
Vì vậy, các thủ đô và trung tâm tài chánh thế giới đều nín thở nhìn vào Hy Lạp, một cái chốt cho chuyện áo cơm của thiên hạ.
Khi ấy, người ta ít chú ý đến một chuyện khác.... chuyện súng đạn.
***
Chuẩn bị về
hưu sau gần năm năm làm Tổng trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, ông Robert Gates
giã từ các đồng minh Âu Châu trong Minh ước Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương
NATO bằng những lời phê phán rất nặng.
Là một viên
chức ôn hoà, nguyên Giám đốc CIA và Khoa trưởng Đại học, mà cũng chẳng
có tham vọng chính trị gì, Robert Gates không có thói ăn nói lung tung
tùy hứng. Ông than phiền các nước Âu Châu không gánh vác trách nhiệm
trong minh ước NATO mà cứ lệ thuộc vào Hoa Kỳ và trong nhiều năm liền
chẳng đầu tư phần tối thiểu vào ngân sách quốc phòng nên không còn khả
năng bảo vệ nền an ninh của Âu Châu.
Dịp này, tuần báo The Economist của Anh đã có bài nhận định về sự thể được ông Gates nêu ra ("On Target" ngày 18 Tháng Sáu 2011, mà người viết xin tạm dịch là "Đúng Boong!" và Dainamax sẽ giới thiệu bản dịch của một độc giả).
Chúng ta quan
tâm đến chuyện Hy Lạp và hồ sơ kinh tế nên cho rằng Âu Châu bị bội chi
ngân sách hoặc vung tay tiêu xài và mắc nợ nên hết phương tiện đầu tư
vào quân sự. Trong 28 thành viên của liên minh quân sự này, chỉ có Hoa
Kỳ, Anh, Pháp và Hy Lạp còn giữ chỉ tiêu là dành tối thiểu 2% ngân sách
quốc gia cho quốc phòng. Nhiều thành viên khác thì chưa đạt tới 1%.
Vì vậy, chưa
đầy trăm ngày sau khi can thiệp vào Libya vì một nghị quyết do chính Âu
Châu đề nghị, nhiều nước đã thiếu đạn và lại cầu cứu Hoa Kỳ. Bị mắng là
phải.
Nhưng thật ra, vấn đề nó trầm trọng hơn vậy!
Các quốc gia
Âu Châu thiếu tiền mua ổ khóa hay võ khí để bảo vệ quyền lợi và lối sống
của họ. Mà lại thừa khôn ngoan chính trị để vừa trông cậy vào Hoa Kỳ
vừa đả kích nước Mỹ ưa can thiệp vào thiên hạ sự! Ngày xưa, họ có lý cớ
bằng vàng là chủ trương hung hăng của Tổng thống George W. Bush. Sau đó,
họ hết lòng ủng hộ Nghị sĩ Barack H. Obama vì mong rằng lập trường trí
thức bất nhất của một tay hùng biện thiếu thực chất sẽ làm suy yếu nước
Mỹ.
Khiến Âu Châu
hy vọng trở thành lực đối trọng trong một thế giới đa cực thay vì cứ bị
chi phối bởi một siêu cường độc bá là Hoa Kỳ. Nhưng đấy chỉ là trò ngoại
giao dễ hiểu giữa các nước.
Nó cũng phi lý
như việc thống nhất tiền tệ và thống nhất khuôn khổ sinh hoạt kinh tế
mà không có cơ chế thống nhất về chính trị có khả năng cưỡng hành về
chánh sách, khiến nhiều nước Âu Châu khôn ngoan mặc tình vay tiền ban
phát phúc lợi ở bên trong và gây khủng hoảng khiến xứ khác phải gánh nợ
cho mình. Về kinh tế, các nước khôn ngoan trông chờ vào Đức, về an ninh,
họ núp dưới cây dù của Mỹ.
Nhìn xa hơn vậy, ta còn thấy ra nguy cơ khủng hoảng của Minh ước NATO và sự suy bại của Âu Châu sau 500 năm tung hoành toàn cầu.
***
Thế giới bắt
đầu gặp "Hiệu ứng Âu Châu" - bị Âu Châu chi phối - từ năm 1492 là khi
Columbus giăng buồm thám hiểm và tìm ra "Tân thế giới".
Từ đó, cả địa
cầu phải sinh hoạt theo quy ước Âu Châu (chẳng hạn một xứ Viễn Đông như
Philippines có quốc hiệu từ tên một ông vua Âu Châu, đất Viễn Tây của Mỹ
cũng đầy tên các vị Thánh). Năm 1991, khi cường quốc Âu Châu sau cùng
là Liên bang Xô viết tan rã thì cái "Trật tự Âu Châu" đó chấm dứt.
Khi ấy, thế giới lạc quan gọi sự kết thúc của Chiến tranh lạnh là sự "cáo chung của lịch sử", là mở đầu cho một "Trật tự Toàn cầu mới", v.v.... mà không nhìn ra sự khủng hoảng của NATO.
Khi ấy, thế giới lạc quan gọi sự kết thúc của Chiến tranh lạnh là sự "cáo chung của lịch sử", là mở đầu cho một "Trật tự Toàn cầu mới", v.v.... mà không nhìn ra sự khủng hoảng của NATO.
Minh ước này
là lá chắn bảo vệ an ninh cho Tây Âu trước đà bành trướng và đe dọa của
Liên Xô. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, các nước Âu Châu không giải
quyết nổi một vấn đề nội bộ là sự tan rã và nội chiến của Cộng hoà Liên
bang Nam Tư. Lần đầu tiên lá chắn NATO xẹt lửa là khi NATO can thiệp vào
Kosovo năm 1999 để cứu lấy người dân theo Hồi giáo nơi đây trước nguy
cơ tàn sát của Cộng hoà Serbia dưới chế độ độc tài Slobodan Milosevic.
Liên Xô tan rã
khiến hậu thân là Liên bang Nga bị đẩy lui. Thừa thắng xông lên, lá
chắn NATO cứ thế Đông tiến:. minh ước mở rộng theo đà phát triển dân
chủ muôn màu để bao gồm các nước Cộng hoà Baltic, các nước Đông Âu và
Trung Âu.... Từ đó, minh ước mất định hướng. Bên trong là sự ỷ lại vào
thế lực Hoa Kỳ.
Mất định hướng vì NATO có ba khối nhìn ra ba hướng.
Các nước phía
Bắc, từ Anh quốc trở lên, thì đồng ý với tinh thần Bắc Đại Tây Dương
nguyên thủy, là chặt chẽ hợp tác với Hoa Kỳ để bảo vệ mọi thành viên
trước mọi nguy cơ về an ninh, dù là Nga hay Iran hay A Phú Hãn. Các nước
Tây Âu cũ – Pháp, Đức, Bỉ, Ý. v.v... – trong lục địa thì nhìn xuống
miền Nam và chủ trương hợp tác với Liên bang Nga vì nguồn lợi kinh tế,
năng lượng và đầu tư. Các nước Đông Âu vừa thoát khỏi khối Xô viết thì
không quên kinh nghiệm lịch sử là đà bành trướng của Đế quốc Nga, nhất
là khi Nga và Đức lại cùng hợp tác để tấn công họ từ hai ngả Đông-Tây.
Họ âu lo nhìn về mối nguy từ hướng Đông.
Khi Liên bang
Nga phục hồi và tranh thủ lại những quyền lợi đã mất trong vùng quỹ đạo
truyền thống của mình - khởi điểm là việc tấn công Cộng hoà Georgia và
khuynh đảo Cộng hoà Ukraine từ năm 2008 – NATO lâm khủng hoảng.
Khi ấy, thế
giới chỉ nói đến khủng hoảng tài chánh và suy trầm kinh tế. Rồi nguy cơ
vỡ nợ của Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, v.v.... NATO lâm khủng hoảng
vì hết xác định nổi mục tiêu và chiến lược giữa ba ngả chọn lựa của ba
nhóm địa dư.
Trong khi Hoa Kỳ bất định vì Barack Obama cứ lang ba vi bộ!
Obama cần hợp
tác với Nga để giải quyết ưu tiên của ông là chiến trường A Phú Hãn,
đồng thời can gián một đối thủ hung hăng là Iran vì ảnh hưởng của xứ này
vào chiến trường Iraq. Vì cần hợp tác nên có lập trường đảo điên về
việc bảo vệ các nước Đông Âu, cụ thể là kế hoạch phòng thủ chiến lược
BMD cho Ba Lan và Cộng hoà Tiệp đã được chính quyền Bush hứa hẹn trước
đó.
Trong khi ấy,
vì ở xa nước Nga, cả Pháp và Đức đều yên tâm nghĩ đến mối lợi kinh tế -
như khí đốt của Nga – và tìm giải pháp thỏa hiệp với Moscow, bất chấp sự
e ngại của nhóm Đông Âu và Trung Âu. Ngược với Hung, Tiệp và Ba Lan,
hai cường quốc Âu Châu là Pháp Đức lại hài lòng với sự lật lọng của Hoa
Kỳ về kế hoạch BMD. Vì khỏi làm phật lòng Liên bang Nga.
Và nói chung,
sau khi chống việc Mỹ tham chiến vào Iraq, các nước Âu Châu đều tìm cách
rủt khỏi chiến trường A Phú Hãn, để đỡ tốn xương máu và khỏi gây hiềm
khích với khối Hồi giáo!
Trong hoàn
cảnh đó, sau ba lần thay đổi chiến lược từ khi Chiến tranh lạnh kết
thúc, đến tháng 10 năm ngoái NATO vẫn chưa thống nhất được chủ trương.
Rồi lại còn bị ba nước Anh, Pháp, Ý dẫn vào một cuộc hành trình chưa có
lối ra, là Libya! Cậu bé quàng khăn đỏ Obama bị các cáo gìà Âu Châu dẫn
vào chỗ lạ khiến người chỉ huy quân đội là Robert Gates phải nói nặng
trước khi ra về!
***
Nhưng, việc các thành viên Âu Châu không chịu gom tiền đánh giặc mà ông Gates nói tới chỉ là một vấn đề. Vấn đề kia là chuyện... định nghĩa: giặc là ai?
Là nguy cơ Hồi
giáo từ miền Nam, từ Trung Đông, là chế độ hung đồ Iran với kế hoạch
hạch tâm nguyên tử? Là sự bành trướng của Liên bang Nga? Hay là sự tan
rã của nhiều quốc gia trong khối Bắc Phi Trung Đông khiến di dân sẽ vượt
biển Địa Trung Hải, bên trong có cả con buôn ma túy lẫn đặc công khủng
bố?....
Nhìn trên toàn cảnh và trong lâu dài, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, mối quan tâm của Hoa Kỳ đã chuyển hướng.
Hết là kẻ thù đáng sợ, Liên bang Nga chỉ còn là đối thủ, nên có thể tùy từng hồ sơ mà đổi chác – và hy sinh xứ khác. Sau vụ khủng bố 9-11, mối quan tâm ấy chuyển qua sự bất ổn của Trung Đông rồi Trung Á, và nay đã lan vào tiểu lục địa Nam Á.
Hết là kẻ thù đáng sợ, Liên bang Nga chỉ còn là đối thủ, nên có thể tùy từng hồ sơ mà đổi chác – và hy sinh xứ khác. Sau vụ khủng bố 9-11, mối quan tâm ấy chuyển qua sự bất ổn của Trung Đông rồi Trung Á, và nay đã lan vào tiểu lục địa Nam Á.
Âu Châu hết là
trọng lực của thế giới và sự hèn nhát hay ỷ lại của khối này chỉ là vấn
đề... của Âu Châu. Ông Robert Gates có cảnh báo điều ấy thì cũng do
lòng ái ngại chứ bản thân ông và cả Hoa Kỳ nay đã phải lo chuyện khác!
May ra, trong
cương vị Chủ tịch luân phiên của Liên Âu kể từ Tháng Bảy này, Ba Lan có
thể nhắc nhở các nước về hai nhu cầu song hành: áo cơm và võ khí! Về lâu
dài, có thể Ba Lan sẽ nhìn sâu xuống miền Nam và hợp tác với một cường
quốc dân chủ Hồi giáo trong Minh ước NATO, là Turkey, để xây dựng một
trục phòng thủ Bắc Nam nẳm giữa cõi Âu Châu, từ biển Baltic xuống Hắc
hải.
Nhưng đó là chuyện 10 năm sau....
***
"Đông phương hồng" từ dưới hố đen
Chuyện trước
mắt là nếu có giải quyết xong mối lo Hồi giáo tại Trung Đông, rồi Trung
Á, Nam Á - tại Iraq, A Phú Hãn rồi Pakistan - Hoa Kỳ sẽ đi ngược ánh mặt
trời mà trở về Đông Á. Tại Đông Á, một cường quốc mới nổi là Trung Quốc
đang e ngại kịch bản đó, nhất là khi Obama hết làm Tổng thống và nước
Mỹ sẽ lạnh lùng xác định lại ưu tiên cho rõ rệt hơn.
Chúng ta trở về chuyện Đông hải!
Lồng trong
nhiều biến động trên mặt nổi đã thấy từ đầu năm nay, người ta chú ý đến
một hiện tượng khác, trở thành rõ rệt nhân lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành
lập đảng Cộng sản Trung Quốc. Đó là sự tái sinh của - hay lòng hoài niệm
về - tư tưởng Mao Trạch Đông! "Văn hoá đỏ" trong nhạc khúc "Đông phương
hồng" đã trở thành chiến dịch rợp trời.
Đây không chỉ
là sáng kiến của Bí thư Trùng Khánh là Bạc Hy Lai nhằm tranh thủ một ghế
rất cao trong Thường vụ Bộ Chính trị sau Đại hội khóa 18 năm tới của
đảng. Nó phản ảnh tâm tư luyến nhớ của nhiều đảng viên và cả thường dân
Trung Quốc về thời Mao Trạch Đông nắm quyền.
Thời ấy, Trung
Quốc không bị thế giới đe dọa – nhờ chánh sách bế quan tỏa cảng và tự
cung tự cấp – lại còn làm thế giới lo ngại – vì chiến lược bành trướng
cách mạng vô sản để lãnh đạo Thế giới Thứ ba. Lòng hoài niệm về Mao có
khả năng... "lọc lựa ký ức", là chỉ nhớ những gì đáng nhớ mà quên hẳn
nhiều tội ác của bạo chúa.
Người ta không
nên đánh giá sai phản ứng này mà cho rằng cũng khôi hài như khi dân Nga
luyến nhớ thời ổn định và huy hoàng của Liên bang Xô viết. Phản ứng này
có khác mà lại dễ hoà nhập với một tâm lý truyền thống. Là tinh thần
bài ngoại, là mặc cảm tự tôn, là sự biến thái của chủ nghĩa duy chủng -
chủng tộc của ta là nhất - là việc đề cao chủ nghĩa Đại Hán!
Tinh thần này thường bùng phát mỗi khi có một biến cố ngoại nhập.
Ngày nay là
tranh chấp chủ quyền với Nhật trên đảo Điếu Ngư Đài mà Nhật gọi là
Senkaku, với các nước Đông Nam Á về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày
xưa là khi Thế vận hội Bắc Kinh 2008 bị nhiều nước phản đối vì chuyện
Tây Tạng, hoặc khi Sứ quán Trung Quốc tại Belgrade bị NATO oanh tạc lầm
vào năm 1999. Xa xưa hơn nữa thì có cả chục vụ trong lịch sử... Từ trận
Thảm sát Nam Kinh đến Loạn Quyền phỉ hay Thái bình Thiên quốc, v.v...
Vì vậy, cho dù
việc Bạc Hy Lai khôi phục tinh thần Mao Trạch Đông sẽ khó tái diễn thảm
kịch siêu hiện thực bên trong là "Cách mạng Văn hoá Vô sản Vĩ đại", nó
lại dễ bắn điện vào những gì đó còn nguy hiểm hơn cho thế giới bên
ngoài.
Tình trạng ấy
càng dễ xảy ra khi lãnh đạo đảng đang lúng túng trước quá nhiều vấn đề
ngổn ngang ở bên trong. Thực tế là thả nổi bản năng đập phá vì động lực
gọi là "dân tộc", "ái quốc" và chấp nhận những đề nghị rất phiêu lưu của
quân đội, được các trí thức khoác áo viện sĩ biện minh bằng những lý
luận hàm hồ. Xưa kia, trong thời tao loạn, các Nho thần cũng đã từng
uyên áo nên ra loại lý luận ấy, trước sự bần thần của một Thiên tử bị
rối trí....
Vốn đang tập
trung vào nhiều ưu tiên khác, Hoa Kỳ không muốn châm lửa vào thùng thuốc
súng ở bên kia Thái bình dương. Nhưng bộ máy an ninh và đối ngoại cũng
biết là sẽ có ngày phải ứng phó với kịch bản tồi tệ nhất tại Đông Á. Vì
vậy, chuyện Âu Châu và NATO chỉ là vụn vặt! Và những loay hoay của Obama
chỉ là nhất thời....
Labels:
Thời sự Ngày mai
Trung Quốc Giương Cờ và Hạ Cánh
2011-07-06
Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa - RFA ngày 20110706
Lãnh đạo Bắc Kinh thấy những gì ở bên trong?
Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc hôm mùng một vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu rằng đảng phải đảm bảo ổn định xã hội nếu không thì mọi thành quả đạt được đều tiêu vong.
- Năm 1992, sau khi tuần thú các tỉnh miền Nam, Đặng Tiểu Bình tiếp tục cho phát triển khu vực kinh tế tư doanh vì đấy là động lực cần thiết cho phát triển, nhưng lại củng cố quyền lực đảng cho chặt chẽ hơn. Khi ấy, thiên hạ mới nói đến phép lạ kinh tế Trung Quốc mà ít chú ý đến phí tổn xã hội của cái phép lạ này. Sau khi họ Đặng tạ thế năm 1997, thế hệ thứ ba lên lãnh đạo là Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ tiếp tục chiến lược đó và lấy xuất khẩu làm đầu máy tăng trưởng nên mới có tốc độ tăng trưởng gọi là rồng cọp, nhất là từ khi xứ này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001.
- Điều sáng tạo của Giang Trạch Dân mà Việt Nam cũng đang kín đáo và dè dặt áp dụng là kết nạp tư doanh vào hệ thống chính trị, cụ thể là cho doanh gia được gia nhập đảng để đảng có thể kiểm soát được doanh trường. Nhưng kết quả lại là sự cấu kết giữa các đảng viên và đại gia kinh doanh để chia chác đặc quyền và đặc lợi. Chính là sự cấu kết này mới cản trở nhiều nỗ lực cải cách của thế hệ lãnh đạo thứ tư là Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ngày nay.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhìn từ cơ cấu địa dư hình thể Trung Quốc, ta thấy xứ này có ba khu vực khác biệt theo lối ta gọi là "nhất quốc tam kinh", một quốc gia có ba nền kinh tế mà diễn đàn của chúng ta nhiều lần đề cập tới từ mấy năm qua. Thế hệ Giang Trạch Dân có thấy ra vấn đề là tốc độ tăng trưởng không đều giữa các khu vực nhưng vẫn ưu tiên phát triển khu vực trù phú nhất ờ vùng duyên hải, qua chiến lược xuất khẩu.
- Thế hệ Hồ Cẩm Đào càng thấy ra vấn đề chính trị của lối phát triển đầy bất công xã hội nên muốn tập trung quyền lực để trung ương tái phân phối lợi tức cho các tỉnh nghèo và cho các thành phần cùng khốn ở thôn quê hầu tránh nguy cơ động loạn xã hội. Nhưng họ bị chính hệ thống cấu kết giữa các thế lực kinh tế và đảng bộ địa phương cản trở.
Tình trạng cấu kết ấy thực tế khai thác đặc lợi cho một thiểu số chừng 70 triệu đảng viên và hai ba chục triệu đại gia kinh tế, tổng cộng là trăm triệu người so với dân số một tỷ ba, và họ cưỡng chống những chủ trương cải cách bất lợi cho họ. Hệ thống kinh tế chính trị này thực tế là một thế lực phản tiến hóa rất mạnh.
Vũ Hoàng: Một trọng điểm của chiến lược Đặng Tiểu Bình được Giang Trạch dân tiếp tục chính là lấy xuất khẩu làm đầu máy. Thưa ông, tình hình bây giờ có khác hay không và thế hệ Hồ Cẩm Đào hay thế hệ nối tiếp sau Đại hội 18 vào năm tới có chọn lựa nào khác chăng?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau khi lên lãnh đạo từ năm 2003, thế hệ Hồ Cẩm Đào đã muốn thay đổi và tìm một lực đẩy khác hơn là xuất khẩu hầu tránh được sự khác biệt lợi tức quá lớn giữa các khu vực và thành phần kinh tế. Nhưng họ làm không nổi vì sức kéo hay sự cưỡng chống của các đảng bộ kiếm lời nhờ chiến lược này. Thực tế thì ngày nay, họ vẫn đang phải áp dụng chiến lược xuất khẩu trong khi thế giới đã đổi khác.
- Đổi khác vì thế giới ngày nay hết còn các đầu máy nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc như xưa. Cụ thể là ba khối kinh tế giàu mạnh nhất là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản đang phải giảm chi và tiêu thụ ít hơn nên xuất khẩu không còn tạo ra tác dụng đòn bẩy cho kinh tế Trung Quốc, cho nên thị trường tiêu thụ nội địa của xứ này phải giữ vai trò thay thế, mà thật ra vẫn chưa đủ lực.
- Người ta cứ nói đến sức mạnh rồng cọp của kinh tế Trung Quốc chứ lợi tức một người dân xứ này chỉ bằng 8% lợi tức bình quân của dân Mỹ thôi. Vì vậy, trong những năm tới, với sức mua nội địa chưa đủ mạnh để bù đắp thiếu hụt về xuất cảng, kinh tế Trung Quốc sẽ có đà tăng trưởng chậm hơn trung bình mấy chục năm qua.
- Nếu tăng trưởng dưới 8% một năm là bộ máy sản xuất không hấp thụ nổi 14 triệu thanh niên hàng năm đến tuổi gia nhập thị trường lao động và thất nghiệp trong giới trẻ sẽ là yếu tố khủng hoảng khác, ngoài sự bất mãn phổ biến của dân nghèo về đời sống của họ và về sự lạm dụng của hệ thống kinh tế chính trị, của các tay tư bản đỏ được nhiều đảng viên bảo trợ phía sau. Chính là sự bất mãn phổ biến này mới khiến đảng nói đến việc chuyển hướng từ lượng sang phẩm trong Kế hoạch Năm năm thứ 12, từ 2011 đến 2016. Nếu không thì xứ này có thể bị loạn và càng dễ bị loạn nếu kinh tế hạ cánh không an toàn trong thời gian tới đây.
Vũ Hoàng: Phải chăng vì vậy mà đảng Cộng sản Trung Quốc
mới đang củng cố quyền lực và lại tung ra khẩu hiệu cách mạng đỏ như
dưới thời Mao Trạch Đông?
READ MORE - Trung Quốc Giương Cờ và Hạ Cánh
Lãnh đạo Bắc Kinh thấy những gì ở bên trong?
Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc hôm mùng một vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu rằng đảng phải đảm bảo ổn định xã hội nếu không thì mọi thành quả đạt được đều tiêu vong.
Ông
nói thêm rằng trong tiến trình phát triển hiện nay, thể nào cũng có
vấn đề và xung đột. Trong khi ấy, người ta chú ý đến sự kiện là tư
tưởng cực tả thời Mao Trạch Đông đã tái xuất hiện và đang trở thành một
chủ nghĩa dân tộc không chỉ nhắm vào Tây phương mà còn có chiều hướng
chỉ đạo phương thức sinh hoạt và suy tư của người dân.
Lãnh đạo Trung Quốc đang thấy những gì ở bên trong, 90 năm sau khi đảng Cộng sản ra đời, 60 năm sau khi thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và 30 năm sau khi tiến hành cải cách kinh tế? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi cho nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa qua cuộc trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Vũ Hoàng: Đài Á Châu Tự Do xin kính chào ông Nguyễn Xuân
Nghĩa. Thưa ông, mùng một Tháng Bảy vừa rồi, Trung Quốc long trọng tổ
chức lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Trung Hoa. Trong dịp
này người ta lại chú ý đến lời phát biểu đầy ưu lo của Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào, người lãnh đạo cả đảng, nhà nước và quân đội Trung Quốc.
Trong khi ấy, thế giới cũng nói đến sự tái xuất hiện của phong trào "Văn hóa đỏ" - nhất là ở thành phố Trùng Khánh - khiến người ta nhớ đến cuộc "Cách mạng Văn hóa" xảy ra đúng 45 năm trước. Thưa ông, câu hỏi mà nhiều người nêu lên là "chuyện gì đang xảy ra tại Trung Quốc"?
Lãnh đạo đảng Cộng sản xứ này thấy những gì mà có vẻ e ngại và dường như còn đang huy động quần chúng vào những chiến dịch tuyên truyền đã từng thấy ngày xưa?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng xứ này đang ở vào một khúc quanh khá ngặt nghèo về kinh tế xã hội, lại đang ở giữa giai đoạn chuyển giao quyền lực qua một đại hội đảng, và đảng Cộng sản Trung Quốc thấy ra những bất ổn về chính trị nên mới tìm về phản ứng cách mạng năm xưa. Đây là điều rất đáng lo ngại cho người dân ở bên trong và cho các lân bang bên ngoài.
Vũ Hoàng: Chúng ta không quên rằng 30 năm sau khi ông Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, Trung Quốc đã vọt lên thành một cường quốc kinh tế và năm nay vừa qua mặt Nhật Bản. Thế thì vì sao lãnh đạo của họ lại có vẻ ưu lo như vậy?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, có lẽ ta nên nhìn vào bối cảnh chung của các quốc gia khi khởi sự công nghiệp hóa, với quy luật phổ biến là "đà gia tốc của khoa học kỹ thuật" khiến các nước đi sau có thể tiến nhanh hơn vì tiếp nhận kinh nghiệm và kiến thức của các nước đi trước.
- Chẳng hạn như Tây phương mất chừng 200 năm để công nghiệp hóa; sau đó, Nhật Bản mất 125 năm; đến các nước tân hưng Đông Á thì chỉ mất có 50 năm. Cũng trong giai đoạn khởi phát đó, nước Anh mất gần 60 năm để nhân đôi lợi tức bình quân một đầu người, sau đó Hoa Kỳ mất chừng 47 năm, Nhật Bản mất có 34 năm và Nam Hàn mất 11 năm. Trung Quốc cũng thế, từ khi chuyển hướng kinh tế vào năm 1979, xứ này đã thấy lợi tức nhân đôi trong vòng chưa đầy 10 năm đầu tiên.
- Với một dân số cực lớn là hơn một tỷ 300 triệu người, tổng sản lượng tăng vọt sau 150 năm lụn bại của xứ này mới gây ấn tượng về một "sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc", hoặc về thành tích của đảng Cộng sản Trung Quốc. Đó là nói về số lượng và thời khoảng trong giai đoạn "cất cánh" hay khởi phát của một quốc gia.
- Nhưng 30 năm sau Đặng Tiểu Bình, chiến lược kinh tế đã đi hết sự vận hành dễ dàng ban đầu và đảng cần có những chọn lựa khác trong khi lại gặp nhiều mâu thuẫn bên trong do chính hệ thống kinh tế chính trị gây ra. Cho nên, kinh tế có thể hạ cánh thiếu an toàn và có khi chính trị sẽ lâm khủng hoảng. Nỗi bất an đó mới khiến một số xu hướng trong đảng phát huy lại tinh thần cách mạng thời Mao Trạch Đông để bảo vệ quyền lực đảng. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có nói đến yêu cầu chiến lược là ổn định thì cũng vì sự ưu lo ấy.
Vũ Hoàng: Ông vừa nói rằng chiến lược kinh tế của Đặng
Tiểu Bình đã đi hết sự vận hành dễ dãi ban đầu và xứ này gặp nhiều mâu
thuẫn do hệ thống kinh tế chính trị gây ra. Xin ông giải thích cho
thính giả hiểu rõ hơn sự thể ấy vì dường như Việt Nam cũng áp dụng mô
thức cải cách kinh tế của Trung Quốc và đang gặp một số vấn đề tương
tự.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau giai đoạn cách mạng hoang tưởng và duy ý chí của Mao khiến xứ này còn lụn bại hơn trước, Đặng Tiểu Bình đã tiến hành cải cách qua việc giải phóng khả năng sản xuất của khu vực tư nhân và áp dụng quy luật tự do của thị trường một cách có chọn lọc. Nhờ vậy mà sản lượng kinh tế tăng vọt nếu ta so sánh với sự suy sụp thảm khốc của "Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại" thời Mao. Nhưng chỉ 10 năm sau thôi, quy luật thị trường cũng gây ra vấn đề về kinh tế, trước tiên là lạm phát. Và hệ thống kiểm soát chính trị trong nền kinh tế tự do hơn lại sản sinh ra thuộc tính của mọi chế độ độc tài, là nạn tham nhũng, Do đó, năm 1989, xứ này mới bị khủng hoảng, kết thúc bằng vụ thảm sát Thiên an môn vào tháng Sáu năm đó.
Lãnh đạo Trung Quốc đang thấy những gì ở bên trong, 90 năm sau khi đảng Cộng sản ra đời, 60 năm sau khi thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và 30 năm sau khi tiến hành cải cách kinh tế? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi cho nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa qua cuộc trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Lãnh đạo TQ âu lo?
Trong khi ấy, thế giới cũng nói đến sự tái xuất hiện của phong trào "Văn hóa đỏ" - nhất là ở thành phố Trùng Khánh - khiến người ta nhớ đến cuộc "Cách mạng Văn hóa" xảy ra đúng 45 năm trước. Thưa ông, câu hỏi mà nhiều người nêu lên là "chuyện gì đang xảy ra tại Trung Quốc"?
Lãnh đạo đảng Cộng sản xứ này thấy những gì mà có vẻ e ngại và dường như còn đang huy động quần chúng vào những chiến dịch tuyên truyền đã từng thấy ngày xưa?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng xứ này đang ở vào một khúc quanh khá ngặt nghèo về kinh tế xã hội, lại đang ở giữa giai đoạn chuyển giao quyền lực qua một đại hội đảng, và đảng Cộng sản Trung Quốc thấy ra những bất ổn về chính trị nên mới tìm về phản ứng cách mạng năm xưa. Đây là điều rất đáng lo ngại cho người dân ở bên trong và cho các lân bang bên ngoài.
Vũ Hoàng: Chúng ta không quên rằng 30 năm sau khi ông Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, Trung Quốc đã vọt lên thành một cường quốc kinh tế và năm nay vừa qua mặt Nhật Bản. Thế thì vì sao lãnh đạo của họ lại có vẻ ưu lo như vậy?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, có lẽ ta nên nhìn vào bối cảnh chung của các quốc gia khi khởi sự công nghiệp hóa, với quy luật phổ biến là "đà gia tốc của khoa học kỹ thuật" khiến các nước đi sau có thể tiến nhanh hơn vì tiếp nhận kinh nghiệm và kiến thức của các nước đi trước.
- Chẳng hạn như Tây phương mất chừng 200 năm để công nghiệp hóa; sau đó, Nhật Bản mất 125 năm; đến các nước tân hưng Đông Á thì chỉ mất có 50 năm. Cũng trong giai đoạn khởi phát đó, nước Anh mất gần 60 năm để nhân đôi lợi tức bình quân một đầu người, sau đó Hoa Kỳ mất chừng 47 năm, Nhật Bản mất có 34 năm và Nam Hàn mất 11 năm. Trung Quốc cũng thế, từ khi chuyển hướng kinh tế vào năm 1979, xứ này đã thấy lợi tức nhân đôi trong vòng chưa đầy 10 năm đầu tiên.
- Với một dân số cực lớn là hơn một tỷ 300 triệu người, tổng sản lượng tăng vọt sau 150 năm lụn bại của xứ này mới gây ấn tượng về một "sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc", hoặc về thành tích của đảng Cộng sản Trung Quốc. Đó là nói về số lượng và thời khoảng trong giai đoạn "cất cánh" hay khởi phát của một quốc gia.
- Nhưng 30 năm sau Đặng Tiểu Bình, chiến lược kinh tế đã đi hết sự vận hành dễ dàng ban đầu và đảng cần có những chọn lựa khác trong khi lại gặp nhiều mâu thuẫn bên trong do chính hệ thống kinh tế chính trị gây ra. Cho nên, kinh tế có thể hạ cánh thiếu an toàn và có khi chính trị sẽ lâm khủng hoảng. Nỗi bất an đó mới khiến một số xu hướng trong đảng phát huy lại tinh thần cách mạng thời Mao Trạch Đông để bảo vệ quyền lực đảng. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có nói đến yêu cầu chiến lược là ổn định thì cũng vì sự ưu lo ấy.
Mâu thuẫn chính trị-kinh tế
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau giai đoạn cách mạng hoang tưởng và duy ý chí của Mao khiến xứ này còn lụn bại hơn trước, Đặng Tiểu Bình đã tiến hành cải cách qua việc giải phóng khả năng sản xuất của khu vực tư nhân và áp dụng quy luật tự do của thị trường một cách có chọn lọc. Nhờ vậy mà sản lượng kinh tế tăng vọt nếu ta so sánh với sự suy sụp thảm khốc của "Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại" thời Mao. Nhưng chỉ 10 năm sau thôi, quy luật thị trường cũng gây ra vấn đề về kinh tế, trước tiên là lạm phát. Và hệ thống kiểm soát chính trị trong nền kinh tế tự do hơn lại sản sinh ra thuộc tính của mọi chế độ độc tài, là nạn tham nhũng, Do đó, năm 1989, xứ này mới bị khủng hoảng, kết thúc bằng vụ thảm sát Thiên an môn vào tháng Sáu năm đó.
- Năm 1992, sau khi tuần thú các tỉnh miền Nam, Đặng Tiểu Bình tiếp tục cho phát triển khu vực kinh tế tư doanh vì đấy là động lực cần thiết cho phát triển, nhưng lại củng cố quyền lực đảng cho chặt chẽ hơn. Khi ấy, thiên hạ mới nói đến phép lạ kinh tế Trung Quốc mà ít chú ý đến phí tổn xã hội của cái phép lạ này. Sau khi họ Đặng tạ thế năm 1997, thế hệ thứ ba lên lãnh đạo là Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ tiếp tục chiến lược đó và lấy xuất khẩu làm đầu máy tăng trưởng nên mới có tốc độ tăng trưởng gọi là rồng cọp, nhất là từ khi xứ này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001.
- Điều sáng tạo của Giang Trạch Dân mà Việt Nam cũng đang kín đáo và dè dặt áp dụng là kết nạp tư doanh vào hệ thống chính trị, cụ thể là cho doanh gia được gia nhập đảng để đảng có thể kiểm soát được doanh trường. Nhưng kết quả lại là sự cấu kết giữa các đảng viên và đại gia kinh doanh để chia chác đặc quyền và đặc lợi. Chính là sự cấu kết này mới cản trở nhiều nỗ lực cải cách của thế hệ lãnh đạo thứ tư là Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ngày nay.
Nhưng kết quả lại là sự cấu kết giữa các đảng viên và đại gia kinh doanh để chia chác đặc quyền và đặc lợi. Chính là sự cấu kết này mới cản trở nhiều nỗ lực cải cách của thế hệ lãnh đạo thứ tư là Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ngày nay.Vũ Hoàng: Nhưng thưa ông vì sao thế hệ thứ tư lại phải tiến hành cải cách và họ bị cản trở như thế nào?
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhìn từ cơ cấu địa dư hình thể Trung Quốc, ta thấy xứ này có ba khu vực khác biệt theo lối ta gọi là "nhất quốc tam kinh", một quốc gia có ba nền kinh tế mà diễn đàn của chúng ta nhiều lần đề cập tới từ mấy năm qua. Thế hệ Giang Trạch Dân có thấy ra vấn đề là tốc độ tăng trưởng không đều giữa các khu vực nhưng vẫn ưu tiên phát triển khu vực trù phú nhất ờ vùng duyên hải, qua chiến lược xuất khẩu.
- Thế hệ Hồ Cẩm Đào càng thấy ra vấn đề chính trị của lối phát triển đầy bất công xã hội nên muốn tập trung quyền lực để trung ương tái phân phối lợi tức cho các tỉnh nghèo và cho các thành phần cùng khốn ở thôn quê hầu tránh nguy cơ động loạn xã hội. Nhưng họ bị chính hệ thống cấu kết giữa các thế lực kinh tế và đảng bộ địa phương cản trở.
Tình trạng cấu kết ấy thực tế khai thác đặc lợi cho một thiểu số chừng 70 triệu đảng viên và hai ba chục triệu đại gia kinh tế, tổng cộng là trăm triệu người so với dân số một tỷ ba, và họ cưỡng chống những chủ trương cải cách bất lợi cho họ. Hệ thống kinh tế chính trị này thực tế là một thế lực phản tiến hóa rất mạnh.
Vũ Hoàng: Một trọng điểm của chiến lược Đặng Tiểu Bình được Giang Trạch dân tiếp tục chính là lấy xuất khẩu làm đầu máy. Thưa ông, tình hình bây giờ có khác hay không và thế hệ Hồ Cẩm Đào hay thế hệ nối tiếp sau Đại hội 18 vào năm tới có chọn lựa nào khác chăng?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau khi lên lãnh đạo từ năm 2003, thế hệ Hồ Cẩm Đào đã muốn thay đổi và tìm một lực đẩy khác hơn là xuất khẩu hầu tránh được sự khác biệt lợi tức quá lớn giữa các khu vực và thành phần kinh tế. Nhưng họ làm không nổi vì sức kéo hay sự cưỡng chống của các đảng bộ kiếm lời nhờ chiến lược này. Thực tế thì ngày nay, họ vẫn đang phải áp dụng chiến lược xuất khẩu trong khi thế giới đã đổi khác.
- Đổi khác vì thế giới ngày nay hết còn các đầu máy nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc như xưa. Cụ thể là ba khối kinh tế giàu mạnh nhất là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản đang phải giảm chi và tiêu thụ ít hơn nên xuất khẩu không còn tạo ra tác dụng đòn bẩy cho kinh tế Trung Quốc, cho nên thị trường tiêu thụ nội địa của xứ này phải giữ vai trò thay thế, mà thật ra vẫn chưa đủ lực.
- Người ta cứ nói đến sức mạnh rồng cọp của kinh tế Trung Quốc chứ lợi tức một người dân xứ này chỉ bằng 8% lợi tức bình quân của dân Mỹ thôi. Vì vậy, trong những năm tới, với sức mua nội địa chưa đủ mạnh để bù đắp thiếu hụt về xuất cảng, kinh tế Trung Quốc sẽ có đà tăng trưởng chậm hơn trung bình mấy chục năm qua.
- Nếu tăng trưởng dưới 8% một năm là bộ máy sản xuất không hấp thụ nổi 14 triệu thanh niên hàng năm đến tuổi gia nhập thị trường lao động và thất nghiệp trong giới trẻ sẽ là yếu tố khủng hoảng khác, ngoài sự bất mãn phổ biến của dân nghèo về đời sống của họ và về sự lạm dụng của hệ thống kinh tế chính trị, của các tay tư bản đỏ được nhiều đảng viên bảo trợ phía sau. Chính là sự bất mãn phổ biến này mới khiến đảng nói đến việc chuyển hướng từ lượng sang phẩm trong Kế hoạch Năm năm thứ 12, từ 2011 đến 2016. Nếu không thì xứ này có thể bị loạn và càng dễ bị loạn nếu kinh tế hạ cánh không an toàn trong thời gian tới đây.
Củng cố quyền lực
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi
có cảm tưởng là lãnh đạo Trung Quốc đang thiếu thống nhất về các ưu
tiên và sau Đại hội năm tới thì Thường vụ Bộ Chính trị có thay đổi lớn
với bảy ủy viên mới bên cạnh hai nhân vật có thể lãnh đạo là Tập Cận
Bình và Lý Khắc Cường. Trong hoàn cảnh bất nhất của lãnh đạo trước các
mục tiêu mâu thuẫn, lại gặp bất ổn về kinh tế và tranh giành quyền lực
trên thượng tầng, Trung Quốc có thể gặp rủi ro lớn.
- Chính là trong không khí ấy ta mới thấy xuất hiện xu hướng mị dân lối cực tả là phát huy sức mạnh của quần chúng bằng khẩu hiệu cách mạng như Mao Trạch Đông. Hiện tượng Trùng Khánh giương cờ đỏ là một biểu hiện rõ rệt nhất. Lồng trong đó là tư tưởng ái quốc theo kiểu chủ nghĩa Đại Hán chống mối nguy lũng đoạn của Tây phương hay sự cấu kết của các đảng viên tham ô biến chất với doanh nghiệp nước ngoài. Rồi còn phản ứng bành trướng của nhiều tướng lãnh, vốn cũng có tiếng nói trong hai cơ chế lãnh đạo quân đội là Quân ủy Trung ương của đảng và của nhà nước. Họ đang đẩy những kẻ có tham vọng lên lãnh đạo vào chủ trương bá quyền của nước lớn để tìm thêm phương tiện cho quân đội.
- Nếu nhìn về dài thì khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị rút lui vì đã cao tuổi sau năm 1992, ông ta vẫn duy trì chiến lược mở cửa về kinh tế nhưng tuyệt đối kiểm soát chính trị và dựa vào quân đội để chuẩn bị việc chuyển quyền êm thấm cho thế hệ Giang Trạch Dân mà còn chọn người sẽ kế nhiệm Giang Trạch Dân là Hồ Cẩm Đào.
- Hơn hai chục năm sau, khi Hồ Cẩm Đào chuẩn bị rút lui, kinh tế bắt đầu có triệu chứng suy trầm với lạm phát và rủi ro bể bóng đầu tư, mà ông ta lại không có uy tín hay ảnh hưởng lớn mạnh như Đặng Tiểu Bình và thực tế thì vẫn phải nương vào các tướng lãnh mà không chọn được người sẽ kế vị sau này.
- Kết cuộc thì nếu không thay đổi, đảng sẽ bị khủng hoảng, mà thay đổi không khéo thì càng dễ bị khủng hoảng! Chính là sự phân vân ấy mới là cơ hội tái xuất hiện của các phản ứng cực đoan nhất, khiến nhà nước sẽ kiểm soát kinh tế chặt chẽ hơn và đảng sẽ lấy ý thức hệ cách mạng làm kim chỉ nam, một kịch bản có rất nhiều rủi ro cho các lân bang yếu kém như Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã giành cho cuộc phỏng vấn này.
- Chính là trong không khí ấy ta mới thấy xuất hiện xu hướng mị dân lối cực tả là phát huy sức mạnh của quần chúng bằng khẩu hiệu cách mạng như Mao Trạch Đông. Hiện tượng Trùng Khánh giương cờ đỏ là một biểu hiện rõ rệt nhất. Lồng trong đó là tư tưởng ái quốc theo kiểu chủ nghĩa Đại Hán chống mối nguy lũng đoạn của Tây phương hay sự cấu kết của các đảng viên tham ô biến chất với doanh nghiệp nước ngoài. Rồi còn phản ứng bành trướng của nhiều tướng lãnh, vốn cũng có tiếng nói trong hai cơ chế lãnh đạo quân đội là Quân ủy Trung ương của đảng và của nhà nước. Họ đang đẩy những kẻ có tham vọng lên lãnh đạo vào chủ trương bá quyền của nước lớn để tìm thêm phương tiện cho quân đội.
- Nếu nhìn về dài thì khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị rút lui vì đã cao tuổi sau năm 1992, ông ta vẫn duy trì chiến lược mở cửa về kinh tế nhưng tuyệt đối kiểm soát chính trị và dựa vào quân đội để chuẩn bị việc chuyển quyền êm thấm cho thế hệ Giang Trạch Dân mà còn chọn người sẽ kế nhiệm Giang Trạch Dân là Hồ Cẩm Đào.
Trong hoàn cảnh bất nhất của lãnh đạo trước các mục tiêu mâu thuẫn, lại gặp bất ổn về kinh tế và tranh giành quyền lực trên thượng tầng, Trung Quốc có thể gặp rủi ro lớn.
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
- Hơn hai chục năm sau, khi Hồ Cẩm Đào chuẩn bị rút lui, kinh tế bắt đầu có triệu chứng suy trầm với lạm phát và rủi ro bể bóng đầu tư, mà ông ta lại không có uy tín hay ảnh hưởng lớn mạnh như Đặng Tiểu Bình và thực tế thì vẫn phải nương vào các tướng lãnh mà không chọn được người sẽ kế vị sau này.
- Kết cuộc thì nếu không thay đổi, đảng sẽ bị khủng hoảng, mà thay đổi không khéo thì càng dễ bị khủng hoảng! Chính là sự phân vân ấy mới là cơ hội tái xuất hiện của các phản ứng cực đoan nhất, khiến nhà nước sẽ kiểm soát kinh tế chặt chẽ hơn và đảng sẽ lấy ý thức hệ cách mạng làm kim chỉ nam, một kịch bản có rất nhiều rủi ro cho các lân bang yếu kém như Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã giành cho cuộc phỏng vấn này.
Labels:
Mặt Trái của Trung Quốc
Đúng Boong!
Charlemagne - June 16th 2011
READ MORE - Đúng Boong!
On target
Sự yếu kém quân sự của Âu Châu...
Robert Gates’s parting shot exposes Europe’s military failings
Tuần báo The Economist của
Anh trong số đề ngày 18-24 Tháng Sáu vừa qua có một bài rất lạnh lùng
của Charlemagne (bút hiệu của tác giả chuyên về đề tài Âu Châu). Dù đã
cũ vẫn đáng được giới thiệu nguyên bản dưới đây.
Trên đường về hưu, Tổng trưởng Quốc
phòng Robert Gates của Hoa Kỳ dữ dội than phiền về khả năng quân sự quá
tệ của các thành viên Âu Châu trong Minh ước Phòng thủ Bắc Đại Tây
Dương NATO. "Một liên minh quân sự lớn mạnh nhất trong lịch sử mới chỉ
có 11 tuần tham dự một chiến dịch chống một chế độ có trang bị quân sự
nghèo nàn trong một xứ thưa thớt dân cư, vậy mà nhiều đồng minh đã thiếu
đạn, rồi lại nhờ Hoa Kỳ bù đắp!" Đó là tình trạng bi hài của Âu Châu
trong chiến dịch Libya - và còn xa hơn thế. Có một câu cũng rất đáng chú
ý: "Sau Chiến tranh lạnh, mối quan tâm về an ninh của Hoa Kỳ đã chuyển
dịch về Trung Đông, Nam Á và sau cùng sẽ là Trung Quốc. Âu Châu cần lo
lấy việc an ninh của mình...." Đúng boong!
THREE
months into the war in Libya, and confident talk of Muammar Qaddafi’s
forces being broken by NATO’s bombs is being accompanied by worries that
the alliance itself is feeling the strain of a prolonged campaign. The
British naval chief says that, if the war drags on beyond the autumn, he
will have to take “challenging decisions” about how to deploy his
ships. His French counterpart complains that if his only carrier, the Charles de Gaulle,
remains off Libya for the rest of the year it will have to be out of
service for maintenance throughout 2012. Norway, one of the few
stalwarts ready to bomb Colonel Qaddafi’s forces, says its small air
force can no longer cope: it will cut back operations now, and cease
them altogether on August 1st.
Yet
it was a thunderous parting shot from Robert Gates, the outgoing
American defence secretary, that most cruelly exposed Europe’s
shortcomings. At the outset Europeans relied on the Americans to lead
the operation in Libya. Now under NATO control, they still depend on
America to identify targets and provide air-to-air refuelling. American
experts were rushed in to boost NATO’s command centre in Naples. “The
mightiest military alliance in history is only 11 weeks into an
operation against a poorly armed regime in a sparsely populated
country,” Mr Gates pointed out. “Yet many allies are beginning to run
short of munitions, requiring the US, once more, to make up the
difference.”
The
underlying reason for these failings is no secret. Most Europeans spend
too little on defence, and what they do is often wasted. That Europeans
would struggle, militarily and politically, to maintain tens of
thousands of troops in far-off Afghanistan is understandable. That they
should be tiring in a limited air campaign on Europe’s own borderlands
(less intense than the Kosovo war of 1999, for instance) suggests
something bigger is amiss.
Libya
reveals an uncomfortable fact about NATO. Its military strength is
determined mainly by what America is ready to put in. Without America,
the military punch of even the most powerful European members, Britain
and France, is limited. What is more, as Mr Gates also said, Europeans
should not take America’s commitment for granted. He is among the last
American cold warriors to hold office; a new generation of leaders may
not share his attachment to the alliance, and may even come to see it as
a burden. Unless Europe does more, NATO faces “collective military
irrelevance” and a “dim and dismal future”.
Mr
Gates’s words may be dismissed as the curmudgeonly mutterings of a
retiring politician. Every American administration has hectored the
Europeans about burden-sharing. John Foster Dulles, Eisenhower’s
secretary of state, threatened an “agonising reappraisal” in 1953.
American leaders invariably come to value the Europeans as useful
political allies if not military ones. Even the unilateralist George
Bush junior made up with his European critics. Amid the agonies of Iraq,
American generals took to quoting Churchill: “There is at least one
thing worse than fighting with allies—and that is to fight without
them.”
NATO
has survived long past its initial mission of confronting the Soviet
Union. It frets endlessly about its purpose, but is now busier than
ever. And yet there is a mental change, says Kurt Volker, a former
American ambassador to NATO. “For Europeans NATO means America; for
America it means Europe. It no longer belongs to any of us.” This
estrangement could worsen. With the end of the cold war, America’s
security concerns have shifted from Europe to the Middle East, South
Asia and, ultimately, to a rising China. Europe should take care of its
own security; its value lies in what help it can give.
But
the debt crisis means that European countries are cutting defence
spending. Just three now reach NATO’s target of spending at least 2% of
GDP on defence: Britain, France, and Greece. Several spend 1% or less.
This compares with America’s commitment of some 5% of GDP. As America,
too, starts to pare back defence, it will become more critical of
European free-riders.
Libya
is a warning. America no longer expects to lead military action; even
its backseat role is controversial at home. The southern Mediterranean
should be of vital importance to Europeans. If they cannot act here,
what is the point of their spending $275 billion on defence? In these
days of austerity, Europeans will not suddenly spend more. But they
could at least spare defence the biggest cuts—and they could co-ordinate
better to ensure that NATO retains a balance of forces.
Now,
more than ever, Europeans need to get more bangs for their bucks. They
have more soldiers than America, but can deploy far fewer abroad. Their
budgets are fragmented among lots of armies, navies and air forces.
Europe produces 20 different kinds of armoured vehicles, six types of
attack submarines and three of fighter jets. With the cost of military
equipment rising faster than inflation, European countries plainly need
to find greater economies of scale. This does not imply creating a
European army, as some favour. That would be a recipe for paralysis:
just try sending the Franco-German brigade to Afghanistan, let alone
Libya. Instead Europeans need to specialise and, when they do similar
things, they should pool equipment.
None
of this is easy. Countries want neither to depend on others nor to be
dragged into somebody else’s war. Some have defence industries to prop
up. But Denmark has given up submarines, letting it play a bigger role
in Afghanistan and Libya. Several countries share C-17 transport
aircraft. Last year’s Franco-British defence pact points the way: the
two countries will co-operate in, among other things, nuclear tests,
aircraft-carrier operations and a joint expeditionary force, as well as
unglamorous but vital support tasks. The lesson is clear: pool it or
lose it.
Economist.com/blogs/charlemagne
Economist.com/blogs/charlemagne
http://www.economist.com/node/18836734
Labels:
Thời sự Ngày mai
Trung Quốc - Hạ Cánh Tơi Bời
A. Gary Shilling - Bloomberg
Năm bài về những lý do khiến Trung Quốc có thể "hạ cánh thiếu an toàn"
READ MORE - Trung Quốc - Hạ Cánh Tơi Bời
Năm bài về những lý do khiến Trung Quốc có thể "hạ cánh thiếu an toàn"
Quang diện Trung Hoa rất hoa lệ....
Không chỉ Dainamax
Magazine mới trình bày mãi những lý do khiến kinh tế Trung Quốc có thể
trôi vào khủng hoảng. Tuần qua, trên hệ thống truyền thông chuyên đề có
uy tín của Hoa Kỳ về kinh tế tài chánh là Bloomberg, nhà tư vấn kinh tế
A. Gary Shilling và Chủ tịch của doanh nghiệp tư vấn A Gary Shiliing
& Co. có một loạt năm bài về lý do tại sao Trung Quốc có thể gặp
hiện tượng "hạ cánh tơi bời" chứ không an toàn. A. Gary Shilling là
người đã tiên báo nhiều biến cố kinh tề từ mấy chục năm nay nên lời cảnh
báo của ông rất đáng chú ý.
Dainamax xin phép
trình bày nguyên văn Anh ngữ. Những ai ở Hà Nội muốn biết về sự yếu mạnh
thực tế của Trung Quốc để thoát khỏi nỗi sợ Bắc Kinh và dự đoán về kinh
tế Việt Nam nên chịu khó... phiên dịch lấy! Những người khôn ngoan tại
Sàigòn cũng có thể tìm thấy trong loạt bài này một số dự báo về tình
hình trị trường, cái gì sẽ lên giá hay xuống giá, và tại sao.... Phần
phụ đề các bức tranh minh họa là của Dainamax... cho nó vui đời!
Why China’s Heading for a Hard Landing
Part 1: by A. Gary Shilling – Bloomberg - Jun 27, 2011
Part 1: by A. Gary Shilling – Bloomberg - Jun 27, 2011
(A. Gary
Shilling is president of A. Gary Shilling & Co. and author of “The
Age of Deleveraging: Investment Strategies for a Decade of Slow Growth
and Deflation.” The opinions expressed are his own. This is the first in
a five-part series.)
Few countries are more important to the global economy than China.
But its reputation as an unstoppable giant -- as a country with an
unending supply of cheap labor and limitless capacity for growth --
masks some serious and worsening economic problems.
China’s
labor force is aging. Its consumers save too much and spend too little.
Its political and economic policy tools remain crude. Its state
bureaucracy seems likely to curb spending just as exports weaken, and
thus risks deflation. As U.S. consumers retrench, and as the global
commodity bubble begins to dissipate, these fundamental weaknesses will
combine in a way that’s unlikely to end well for China -- or for the
rest of the world.
To
start, China is much more vulnerable to an international slowdown than
is generally understood. In late 2007, my firm’s research found that too
few people in China had the discretionary spending capability to
support its economy domestically. Our analysis showed that it took a
per-capita gross domestic product of about $5,000 to have meaningful
discretionary spending power in China.
About
110 million Chinese had that much or more, but they constituted only 8
percent of the population and accounted for just 35 percent of GDP in
2009, while exports accounted for 27 percent. Even China’s middle and
upper classes had only 6 percent of Americans’ purchasing power.
Why Overconfidence Abounds
With such limited domestic spending, why do so many analysts predict that China can continue its robust growth?
In
part because they believe in the misguided concept of global decoupling
-- the idea that even if the U.S. economy suffers a setback, the rest
of the world, especially developing countries such as China and India,
will continue to flourish. Recently -- after China’s huge $586 billion
stimulus program in 2009; massive imports of industrial materials such
as iron ore
and copper; booms in construction of cement, steel and power plants,
and other industrial capacity; and a pickup in economic growth -- the
decoupling argument has been back in vogue.
This
concept is flawed for a simple reason: Almost all developing countries
depend on exports for growth, a point underscored by their persistent
trade surpluses and the huge size of Asian exports relative to GDP.
Further, the majority of exports by Asian countries go directly or
indirectly to the U.S. We saw the effects of this starting in 2008: As
U.S. consumers retrenched and global recession reigned, China and most
other developing Asian countries suffered keenly.
Overconfidence
in China’s ability to keep its economy booming is also partly
psychological. It reminds me of the admiration and envy (even fear) that
many felt toward Japan during its bubble days in the 1980s. As Japanese companies bought California’s Pebble Beach, Iowa farmland and Rockefeller Center in New York,
what was safe from their zillions? Then the Japanese stock and
real-estate bubbles collapsed, and Japan entered the deflationary
depression in which it’s still mired.
Success and Complacency
What’s
more, China’s recent successes have been so pronounced that they’ve led
many to conclude that its economy is a juggernaut. And, indeed, the
Chinese have much to be proud of: Last year, China passed Japan to
become the world’s second largest economy, a huge achievement
considering China started in the late 1970s with a tiny
pre-industrialized economy.
But
this success may have led to complacency. I suspect that the 2007-2009
global recession, and the dramatic transformation by U.S. consumers from
gay-abandon borrowers-and- spenders to Scrooge-like savers, caught
Chinese leaders flat- footed. They probably planned to encourage consumer spending and domestic-led growth, but later -- much later.
Growth Machine
They were enjoying a well-oiled growth machine. Growing exports, especially to American consumers, stimulated the capital spending
needed to produce yet more exports and jobs for the millions of Chinese
streaming from farms to cities. Wages remained low, due to ample labor
supplies, and held down consumer spending. So did the high Chinese
consumer saving rate. Because Chinese could not invest offshore, much of
that saving went into state banks at low interest rates. The money was then lent to the many inefficient government-owned enterprises at subsidized rates.
In a country where stability is almost worshipped, why would any leader want to disrupt such a smoothly running economy?
But before you worry about China’s becoming No. 1 any time soon, consider the remaining gap between its economy and the U.S. economy.
In 2009, China’s GDP was $4.9 trillion, only 34 percent of the U.S.’s
$14.3 trillion. Because China has 1.32 billion people, or 4.3 times as
many as the U.S. has, the gap in per-capita GDP was even bigger: China’s
$3,709 was only 8 percent of the U.S.’s $46,405.
A Wide Gap
Just
to maintain this gap at current levels, Chinese GDP will need to grow
at double-digit rates for four years before tapering off, or rise
sixfold in three decades (assuming that U.S. real GDP increases 2
percent per year on average for the next 30 years, and using government
population projections). To close the per-capita GDP gap in 30 years,
Chinese GDP would need to grow about 10 percent per year for three
decades, or expand to 17.8 times its current size in that period.
Such rates of growth seem close to impossible if the global economy slows.
As the announcer for the Cleveland Indians used to say when the Tribe was hopelessly behind, “They have their work cut out for them!”
Vỡ đồ gia bảo
Hard Landing - Part 2: June 27, 2011
China
has become an economic giant because it has so many people who are
producing moderate amounts. In most ways, however, China remains an
underdeveloped country with political and economic policy tools that are
crude by Western standards. Those tools can spur impressive growth
--but they also mask some deep structural weaknesses in China’s economy.
It’s relatively easy for developing countries
to grow by emulating the technology of advanced nations or, in China’s
case, by forcing them to share it as the price of doing business or by
simply stealing it.
And
a tightly controlled economy can get results quickly. That’s what
happened with China’s $586 billion stimulus program introduced in 2009.
Growth in gross domestic product leaped from a 6 percent rate in early
2009 back to double digits. Most of the money was channeled through
government-controlled banks, whose lending increased by $1.4 trillion,
or 32 percent, over the course of 2009 after being flat since early
2006. The money supply increased by 29 percent.
Those
loans financed public and industrial infrastructure and real estate.
Property prices in January 2010 were up 9.5 percent from a year earlier,
according to government numbers, and much more by private realistic
estimates. Employment gained along with economic activity, and in the
third quarter of 2009, there were 94 job openings for every 100
applicants, up from 85 in depressed 2008, and close to the pre-crisis
average of 97.
Unsustainable Growth
Here’s
what we should remember: This kind of growth is unsustainable, and it
won’t be able to cover up China’s underlying vulnerabilities forever.
China’s
reliance on exports and a controlled currency for growth, for instance,
will no longer work if U.S. consumers are engaged in a chronic saving
spree, as I believe they will be. Chinese export growth, which averaged
21 percent per year in the last decade, is bound to suffer.
The
country’s seemingly inexhaustible pool of cheap labor is expected to
peak in 2014, in part due to its rigid one-child policy. By some
estimates, ample labor has boosted GDP growth by 1.8 percentage points
annually since the late 1970s, but the contraction of the working-age
population will reduce growth by 0.7 percentage points by 2030.
Wages and Ages
Wages are already rising, and even Chinese manufacturers are moving production to Vietnam and Pakistan,
where pay levels are a third of China’s. Some factory workers have seen
wage increases of 20 percent to 30 percent in the last year or so, with
those producing goods for foreign companies seeing especially large
boosts. At the same time, better conditions in rural areas have reduced
the flow of cheap labor into coastal cities.
As
the Chinese population ages, the ratio of retirees to working-age
people is forecast to rise from 39 percent last year to 46 percent in
2025.
This
does not bode well for China’s future growth. When Communist Party
leaders transitioned China’s economy from a cradle-to-grave nanny state
to a progressively free-market one starting in 1978, no meaningful
unemployment, retirement or state health systems were instituted.
(Although President Hu Jintao
said in October that China will “institute a social safety net that
covers all,” and the government has set a goal of providing basic
medical care for all Chinese by 2020.)
Prodigious Saving
So
the Chinese must save prodigiously to provide for their welfare and
retirement. This has contributed mightily to China’s high rate of saving
and low rate of spending, and its consequent reliance on exports.
Chinese households save close to 30 percent of income on average, in
large part to cover old age and medical costs.
Yes,
the Chinese saving rate will be pushed down in time by aging Chinese
who still consume but no longer work, much as it has in Japan.
Nevertheless, less saving and more Chinese consumption won’t substitute
for weakening exports any time soon. Chinese consumers buy only about
one-tenth of those in Europe and the U.S. combined. As the euro zone
remains troubled, and the U.K. slashes government stimulus and U.S.
consumers continue to retrench, it’s unlikely that a drop in Chinese
saving could offset the negative effects of reduced exports.
Inflation Looming
Finally,
China’s state-controlled economic boom may soon lead to crippling
inflation. In February 2010, the director of the National Bureau of
Statistics said that “asset-price increases pose a challenge for
macroeconomic policy.”
The
housing boom has pushed up prices to the point that apartments in
Beijing are affordable to only the top 20 percent of earners -- they’re
selling at about 22 times average income (average U.S. house prices
peaked at six times average income). A square meter of property in China
costs an estimated 164 times per-capita income, compared with 33 times
in high-priced Japan.
The
2009 stimulus package also spurred consumer price inflation to a
year-over-year acceleration of 5.5 percent in May. Food prices are very
sensitive politically because so many Chinese are at subsistence
incomes, and they rose 11.7 percent in May from a year earlier.
Chinese
leaders are not amused, and are taking stringent restraining actions.
But with only blunt-force economic tools available, it’s not clear that
they’ll be capable of managing a controlled slowdown without significant
pain.
Húc bừa càng bể!
Hard Landing - Part 3 - June 28, 2011
China
is hoping to cool its white- hot economy without precipitating a
recession. Doing so will be extremely difficult: Inflation fears are
growing, the government’s ability to respond is quite limited, and
China’s economic model, which leaves bureaucrats guessing about the
market effects of their directives, is ultimately untenable.
Inflation worries start with housing. With Chinese exports curtailed by U.S. consumer retrenchment, capital spending
threatened by government restraints and excess capacity, and domestic
spending less than robust, housing has been China’s big generator of
economic growth in recent years. By some estimates, half of Chinese GDP
is linked to real-estate activity.
The
government is fearful of rising prices, and has moved to prevent
speculation. Buyers must now put down 60 percent of the purchase price
on second homes, and 30 percent on first homes. The government is
pressing banks to contain mortgages, and some have raised interest rates. In January, the mayor of Shanghai announced a new tax on property transactions that may be copied nationwide as other officials attempt to cool prices.
With
these restraints in place, and with supply starting to catch up with
demand, housing sales have slowed. But this has not fully curtailed
China’s real-estate bubble: Housing starts rose about 40 percent last
year. Developers are rushing to build while they try to support
faltering prices by delaying completions and creating artificial
shortages. Of course, these efforts are difficult to maintain because
they tie up capital in uncompleted houses. Houses are now being built at
about twice the rate they’re being sold, well above earlier norms.
Huge Loans
A
report this week by China’s National Audit Office found that a
significant chunk of bank loans made to provincial- government financing
vehicles were improperly funneled into property investments,
contributing to a debt load equal to some 27 percent of GDP. Other huge loans to state-owned enterprises, intended to finance infrastructure, also reportedly went into real estate and may be at risk.
With
inventories soaring while demand softens, and the government clamping
down on speculation, a collapse of the housing bubble seems increasingly
likely.
Prices Rising
Housing
isn’t the only area where signs of inflation are popping up. In May,
consumer prices increased 5.5 percent versus a year earlier. In
December, Chinese leaders agreed to “put stabilizing the overall price
level in a more prominent position” in their ranking of economic
priorities. In a country where many live at or below the poverty level,
food costs are obviously a major concern, and they jumped 11.7 percent
in May from a year earlier.
The
government appears increasingly worried about social unrest. In
November, it said it was ready to impose price controls to reduce
inflation, especially on food and energy, and said it would help the
poor with higher welfare payments. The unrest continues and,
significantly, has moved from rural areas to the cities.
Income inequality also remains a problem. The flow of Chinese to more prosperous urban areas has increased average living standards,
but the difference between the rich and the rest continues to widen. In
2010, annual per-capita income was about $2,900 in cities and about
$900 in rural areas. (Adjusting for lower costs in rural areas reduces
this gap.)
Limited Response
China’s ability to respond to these worries is extremely limited. The central bank relies on adjusting reserve requirements
and limits on bank lending to implement monetary policy. Since January
2010, it has raised reserve requirements 12 times (to 21.5 percent),
while only increasing the one-year lending rate four times (to 6.31
percent), to accommodate inefficient state-enterprise borrowers, which
provide a lot of jobs.
Finally,
implementing any policy in an economy that is partly
government-controlled, partly market-driven is very difficult. In a
completely controlled economy, as China’s used to be, government leaders
might have made economically inefficient decisions, but their authority
wasn’t disputed. In an open economy, as in Singapore, the markets make the decisions, and politicians have little involvement.
But
under China’s current arrangement, officials making major decisions
have to guess what market reactions will result, then try to mitigate
the unintended consequences of their actions.
Unintended Consequences
With a managed floating exchange rate,
for example, officials have to estimate how much hot money will enter
China in anticipation of a stronger currency, and then determine how to
neutralize the undesired effects of this flow. Government policies that
encourage exports and trade surpluses have pushed China’s
foreign-currency reserves to more than $3 trillion. Until recently, all
the foreign-currency earnings of Chinese exporters had to be traded in
for yuan, but then the central bank was forced to issue securities to
sop up that money to avoid depreciation.
Similarly,
the Chinese government sets yearly limits on bank loans in advance, but
leaves it up to the banks and demand to determine the monthly lending
pattern. So the banks rush to make loans early in the year for fear that
the government will reduce the limit in a midcourse correction.
I
suspect that such a hybrid market system is too unwieldy to allow the
Chinese government to manage a soft landing for its economy. By my
reckoning, the Federal Reserve
has tried 12 times in the post-World War II era to cool an overheating
economy without precipitating a recession. It succeeded only once. Can
the politically controlled Chinese central bank, and the government
leaders who really call the shots, be more successful than the
independent Fed?
That seems unlikely. And the consequences, for China and the world economy, could be unfortunate.
Lửa đổ thêm dầu... cặn
Hard Landing - Part 4 - June 29, 2011
Past performance, in China’s case, may be indicative of future results.
In late 2007, the Chinese government was scrambling to control a capital-spending
boom. The central bank was concerned about 11 percent growth in gross
domestic product, far above its official target of 8 percent, and about
money flooding in from exports and direct foreign investment.
By
Nov. 1, the People’s Bank of China had raised its one- year lending
rate five times and reserve requirements eight times to soak up excess
liquidity.
My
firm’s research predicted then that the government would curb capital
spending and excess liquidity just as exports weakened. Then, as excess
capacity mounted, direct foreign investment would disappear and
deflation would reign.
That’s
essentially what happened in 2008 and 2009, as the effects of China’s
fiscal and monetary restraint coincided with the worldwide economic
slump. The growth rate dropped to 6 percent, which in China constituted a
major recession.
Don’t be surprised if history repeats itself in the next few years.
This
time around, some signs of cooling are already apparent. Besides
dampened housing demand, the HSBC Flash China Manufacturing Purchasing
Managers Index in June fell to 50.1, its lowest level in 11 months.
Passenger-vehicle sales grew 33 percent in 2010, when the government
subsidized small-car purchases, but only 3 percent this April over a
year earlier.
Money, Banks, Stocks
Growth
in the broadest measure of China’s money supply has declined from 30
percent year-over-year in December 2009 to 15 percent year-over-year at
the end of May. Bank loans fell 25 percent in May from April. Excavator
sales fell
10 percent in May from a year earlier, possibly foreshadowing a
construction bust. The 14.3 percent decline in the Shanghai Composite
Index last year and the 10 percent drop since mid-April also don’t bode
well for growth.
Despite
all these negatives, with recent data showing first-quarter GDP
expanding by a still-healthy 9.7 percent, and consumer inflation at its
highest levels since July 2008, China has continued to tighten its
economic policy. The government raised banks’ reserve requirements to
21.5 percent in June, the ninth such increase since November. And it
will probably continue to tighten until it sees decisive results -- that
is, a hard landing.
What will happen next?
No Floating Yuan
For
one thing, even though a hard landing could cause hot money to flee the
country and weaken the yuan, China will not float its currency. Many
Western governments argue that if China allowed the tightly controlled
yuan to float freely, it would rise against the dollar and other major
currencies. That, the thinking goes, would discourage exports, encourage
imports and quickly eliminate China’s chronic trade surplus.
The
Chinese have repeatedly told Western officials that they will not be
pushed into floating the yuan. They worry that a jump in the currency’s
value would wreak havoc on Chinese exporters and force them to move
production to cheaper venues. A stronger yuan would also reduce the
value of China’s foreign- currency reserves.
Furthermore,
exchange rates have only limited effects on import or export prices
and, therefore, imports and exports themselves. The key determinant of a
country’s exports is the economic health of its trading partners. If
their economies are robust, they buy more of everything, including
imports.
The
dammed-up zeal to own the Chinese currency would dissipate quickly if
all barriers were removed and it became clear that a more expensive yuan
was not ending China’s trade surplus. Pressure from foreign governments
for a stronger yuan would then evaporate, as would interest in owning
more Chinese currency in anticipation of higher values. And the removal
of restrictions that prevent Chinese from diversifying their investments
abroad might actually depress the yuan by encouraging money to flow out
of China.
Holding Treasuries
China also won’t be selling its $1 trillion in reserves of U.S. Treasuries
in great amounts, as some have feared. The Chinese are well aware that
doing so would be disastrous for their economy, because the resulting
nosedive in Treasury prices and the dollar would decimate the value of
China’s remaining holdings of U.S. debt and other assets. A global depression might well ensue, with China and other export-dependent countries as the biggest losers.
Excess Capacity
Instead, China’s most likely reaction -- to focus still more on exports -- will exacerbate its hard landing. If consumer spending
doesn’t increase substantially in the next few years, China will have a
serious problem using all the industrial capacity it has built, partly
to keep people employed. Capacity is mushrooming so rapidly that even in
China’s booming economy, most manufacturers are still seeing flat or
falling utilization rates.
This
unused capacity portends weak profits and trouble for the loans that
financed it. My judgment is that it will once again be used for exports
aimed at the U.S. and Europe. And once again, this will add to global excess supply and put downward pressure on prices.
Then
China, along with other export-dependent emerging economies, will be
competing fiercely in a world of slow growth and deflation.
Phục uyển: nồi cơm úp!
Hard Landing - Part 5: June 30, 2011
The
hard landing that I foresee for China will probably prick the global
commodity bubble, which is already showing signs of topping out.
Agricultural
product prices have jumped, the result of robust demand, bad weather
last year in Russia, recent floods in Australia, and dry and hot La Nina
conditions in Argentina.
Industrial metals such as copper were on a tear. So were precious metals, such as silver.
But
much of the leap in commodity prices was due to investors and other
speculators. Exchange-traded funds had already tied up much of the
physical supplies of gold and other precious metals. Futures contracts
held by speculators were up 12 percent in 2010 through October, with
sharp increases in bullish bets on crude oil, copper and silver.
Volatility forced futures exchanges to raise margin requirements on a
number of commodities.
The
confidence that China would continue to buy huge quantities of almost
all commodities has been the bedrock belief of speculators. For example,
there were rumors that China was again building its emergency petroleum
reserve in the first half of this year.
I’ve
studied many bubbles over the years, and concentrated on predicting
their demises. Commodities show every sign of being in one.
Rare-Earth Exports
China
added to the commodity frenzy last year by slashing exports of
rare-earth metals used in high-tech batteries, TV sets, mobile phones
and defense products. China supplies 95 percent of these elements, and
consumes 60 percent, exporting the rest. Its exports of rare earths fell
9 percent in 2010, but still exceeded the government’s quota by a
third.
Chinese
authorities cut the export quota for the first half of this year by 35
percent from a year earlier. Japanese manufacturers of high-tech gear
are seeking alternative supplies. Of course, China maintains that its
ongoing trade and political spats with Japan have nothing to do with the
tighter quotas. They were necessary, Chinese leaders say, to sustain
rare-earth development and deal with environmental damage caused by
mining.
Speculators
are starting to take stock of the evidence of a hard landing in China,
and industrial commodity prices, including copper, are swooning. As in
the past, warnings about shortages in key industrial inputs are
magically being contradicted as unaccounted-for stockpiles materialize.
Weather-Driven Supply
Agricultural
producers are influenced by global demand and by weather-driven supply.
I’ll leave it to others to forecast the weather. But note that ideal
growing weather often follows the kind of bad weather we’ve seen lately,
and bumper crops and surpluses often replace worrying shortages in a
crop-year or two.
Furthermore,
China imports (and might have stockpiled) soybeans and other
agricultural products that would suffer from a slowing economy. Weakness
in industrial commodities can easily spread to the agricultural area.
Notice the close correlation among all commodity groups in recent years.
The huge quantities of hot, highly leveraged money now sloshing around
the world tend to end up on the same side of the same trade at the same
time.
As
speculators suffer setbacks in one area, they quickly bail out of
other, fundamentally unrelated areas to preserve their capital.
Commodity Exporters
The
bursting of the commodities bubble will be bad news for
developing-country producers such as Brazil, which has thus far largely
escaped recent global economic and financial woes but is a major
exporter of iron ore and other commodities to China. Developed commodity
exporters -- Canada, New Zealand and Australia -- as well as their
currencies, may also suffer.
I’ve
long believed that a hard landing in China would be preceded by a price
collapse in copper and other industrial commodities. Copper prices
peaked in February, and Barrick Gold Corp. (ABX)’s
agreement on April 25 to acquire copper producer Equinox Minerals Ltd.
to gain mineral resources outside its area of specialization is a
classic sign of a peak.
Another
classic sign of a speculative price peak was the sudden appearance of
copper inventories where none were thought to exist. As prices start to
break, hoarded commodities suddenly become available for sale by highly
leveraged owners. Copper in China was so abundant that bonded warehouses
were full. In January and February, extra copper was sold abroad as
Chinese exports were eight times the year-earlier total.
Falling Copper Prices
London
Metal Exchange bonded warehouses saw copper inventories leap 17 percent
in the first quarter. Furthermore, to circumvent tight bank lending in
China, borrowers are relying more on available letters of credit to
finance copper arbitrage trading and otherwise have the use of the
borrowed money with copper purchases as their collateral. If copper
prices continue to fall, those borrowers will have to sell their copper
on the market to prevent further losses, resulting in still-lower
prices.
Meanwhile,
sugar topped out in February, and cotton in March. I pointed this out
in a speech to an investor conference in April, and several people in
the audience questioned my facts. I compared those who hadn’t noticed
this peak to Wile E. Coyote of the “Road Runner” cartoons, who runs off
the cliff and finds himself suspended in air before dropping to the
valley floor.
Further
confirmation came May 2, when silver prices, which had skyrocketed
earlier, started to collapse and virtually all other commodities
followed: crude oil, cotton, copper, grains and even gold.
Moving in Lockstep
As
I noted earlier, there is so much leverage money floating around the
world that regardless of how it’s managed -- by fundamental, momentum or
technical strategies -- it tends to end up on the same side of the same
trades at the same time. So, when one of these positions reverses, the
effects spread rapidly as speculators bail out of their positions to
reduce risk and preserve their capital. Keep in mind that the prices of
the wide variety of commodities continue to move in lockstep.
Many
commodity bulls see this trend as a short-lived midcourse price
correction and have maintained their long positions in copper, crude
oil, corn and even silver. But markets anticipate, and it now appears
the declines in commodities are foreshadowing a hard landing in China,
with the effects spreading globally.
Labels:
Mặt Trái của Trung Quốc
Subscribe to:
Posts (Atom)
Thời sự Ngày mai
Giang Trạch Dân đã sang sông?
Vừa viết về sức khỏe của Hugo Chavez xứ Venezuela thì có tin là nguyên chủ tịch Giang Trạch Dân của Trung Quốc đã từ trần! Mới chỉ là tin đồn thôi khi truyền thông quốc tế và Hong Kong không thấy ông ta xuất hiện trong ngày sinh nhật 90 tuổi của đảng và Tháng Năm thì đã hủy một cuộc họp với lãnh tụ Bắc Hàn là Kim Chính Nhật.
Họ Giang mà mất thì Hồ Cẩm Đào mới lên ngôi Thái thượng hoàng và chấm người kế vị chứ không phải thỉnh ý người tiền nhiệm hoặc thỏa hiệp với phe của Giang và "cánh Thượng Hải" như Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm, v.v....
Chính là Giang và phe cánh duyên hải mới cản trở nỗ lực cải cách của Hồ Cẩm Đào và gài người vào vị trí chiến lược sau Đại hội 18 năm tới. Nếu Giang lâm trọng bệnh ở tuổi 84 vàphải ra đi thì Hồ Cẩm Đào quả là gặp may.
Xin tiếp tục theo dõi....
Quán vào Âm Thanh theo công phu Đại Thủ Ấn
Của một đại sư Tây Tạng:
Vừa viết về sức khỏe của Hugo Chavez xứ Venezuela thì có tin là nguyên chủ tịch Giang Trạch Dân của Trung Quốc đã từ trần! Mới chỉ là tin đồn thôi khi truyền thông quốc tế và Hong Kong không thấy ông ta xuất hiện trong ngày sinh nhật 90 tuổi của đảng và Tháng Năm thì đã hủy một cuộc họp với lãnh tụ Bắc Hàn là Kim Chính Nhật.
Họ Giang mà mất thì Hồ Cẩm Đào mới lên ngôi Thái thượng hoàng và chấm người kế vị chứ không phải thỉnh ý người tiền nhiệm hoặc thỏa hiệp với phe của Giang và "cánh Thượng Hải" như Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm, v.v....
Chính là Giang và phe cánh duyên hải mới cản trở nỗ lực cải cách của Hồ Cẩm Đào và gài người vào vị trí chiến lược sau Đại hội 18 năm tới. Nếu Giang lâm trọng bệnh ở tuổi 84 vàphải ra đi thì Hồ Cẩm Đào quả là gặp may.
Xin tiếp tục theo dõi....
Quán vào Âm Thanh theo công phu Đại Thủ Ấn
Của một đại sư Tây Tạng:
Simply
focusing on the sound and resting one-pointedly on it is shamatha
meditation. Recognizing the nature of the sound is vipashyana
meditation. Focusing on the sound, looking directly at the nature of the
thought apprehending the sound, then letting go and relaxing into the
nature of that thought is mahamudra meditation.
Resting
in a state free from the duality of perceived and perceiver - an object
of sound and a thought apprehending - is meditation according to the
chittamatra approach. But if you are really skilled, it will become
mahamudra meditation. It all depends on your level of skill. If you
recognize that sounds, like dreams, are the expressive power of mind's
abiding nature, mahamudra-luminosity, and if you look directly at their
nature and relax within it, that is mahamudra meditation.
Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche
Quote of the Week - July 1 , 2011
Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche, from his commentary on The Profound Inner Reality given at Karme Choling, Vermont, 2000 (p. 154). Translated by Elizabeth Callahan.
NXN xin giải thích và lược dịch với tâm thành là được quý vị chỉ dẫn thêm:
Rinpoche là đạo vị của các cao tăng Tây Tạng, có thể gọi là Báu sư hay Bảo sư.
Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche là một cao tăng Tây Tạng thuộc tông phái Kagyu, Kagyupa, hay Kagyud
(nếu có phiên âm theo Hán Việt là Ca Nhĩ Tư thì cũng chẳng rõ hơn tiếng
Phạn hay tiếng Tây Tạng!) một trong bốn tông phái Phật giáo Tây Tạng.
Ngài
Tsultrim Gyamtso sinh năm 1934. Năm 1959 đã vượt Hy Mã Lạp Sơn thoát
khỏi Tây Tạng đến xứ Bhutan khi thủ đô Lhasa bị Trung Cộng chiếm đóng,
rồi hoàn tất hai học vị cao nhất của Phật giáo Tây Tạng tại Ấn Độ (học
vị "Khenpo" từ ngài Karmapa đời thứ 16 và học vị "Geshe Lharampa" từ Đức
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14). Nay đang giảng pháp ở các nước Tây phương.
Đoạn chỉ dẫn ngắn gọn trên đây là một phần tinh túy của công phu Đại thủ ấn (Mahamudra), một giáo pháp tối cao của Kim cương thừa (Vajrayana), tương truyền là do Phổ Hiền Bồ Tát truyền cho các đời sau, trong các đời sau đó có Maropa, Marpa và Milarepa.
Cho
nôm na dễ hiểu, người ta thường cho rằng Đại thủ ấn là một hình thái
Thiền tông của Phật giáo Tây Tạng, trong ý nghĩa về phương pháp thiền
định (meditation).
Phép tu là Chỉ (Shamatha) mà ta có thể hiểu là ngưng đọng mọi niệm, để Quán (Vipashyana)
là tập trung quan sát hay quán sát bằng trí huệ, hầu thoát khỏi sự phân
biệt giữa "căn" và "trần" - thí dụ như giữa "cái nhìn" (mắt) hay "cái
nghe" (tai) với "cái nhìn thấy" hoặc "nghe thấy" (perceiver vả perceived, signifiant và signifié). Khi tu luyện đến trình độ ấy thì sẽ chứng ngộ được tính Không (Sunyata) của vạn vật và giải thoát khỏi Luân hồi.
Trong đoạn trên, ngài Rinpoche chỉ cho một phép tu tập bằng cách quán vào thanh âm theo phương pháp Duy thức (chittamatra approach). Nếu đạt tới trình độ thoát khỏi sự phân biệt nhị nguyên giữa nhĩ (tai) và thanh
(cái nghe thấy) thì cũng có thể đạt công phu Đại thủ ấn. Khi quán được
rằng âm thanh hay giấc mơ chỉ là năng lực của cái tâm thường hằng, và
nếu trực kiến được sự thống nhất của Không và Ánh Sáng để ung dung tự
tại (không cần cố gắng) ở trong đó thì đấy là đạt được quả vị thanh tịnh
của Đại thủ ấn.
Đoạn chỉ dẫn trên đây tóm
lược ba khía cạnh cốt tủy của Đại thủ ấn là Kiến, Tu và Hành. Nếu có
duyên phước gặp được thầy giỏi và chịu khó tu tập thì có lẽ quý vị sẽ
hiểu ra nhiều hơn những gì mà kẻ sơ cơ này muốn phiên dịch và diễn giải!
DSK sẽ ra về - rồi đi đâu?
Một
ngày sau khi Tổg trưởng Kinh tế Pháp là bà Christine Lagarde được bổ
nhiệm vào trách vụ Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF thì vì tiền
nhiệm mà cũng là đồng hương của bà là ông Dominique Strauss-Kahn đã có
thể thở ra nhẹ nhõm.
Ông phải từ chức sau khi bị
truy tố một loạt tội danh về tình dục ở New York và trải qua một đoạn
đường khổ ải khi bị còng tay rồi lôi ra toà, bị tam giam. v.v.... Đó là
vụ xì-căng-đan DSK - tên gọi tắt của nhân vật đang tràn đầy triển vọng
trở về Pháp để ra tranh cử Tổng thống năm tới.
Bây
giờ, cả công tố viên của chính quyền New York lẫn dàn luật sư biện họ
cho DSK lại có vẻ... nhất trí. Người cáo buộc DSK, nữ nhân viên dọn
phòng trong khách sạn, là nhân vật không đáng tin. Không đáng tin từ lời
khai ban đầu cho đến lý lịch thiếu minh bạch trước đó, kể cả mối quan
hệ với một con buôn ma túy!
Tin giờ chót đang gây
chấn động vào đêm Thứ Năm 30 Tháng Sáu, giờ miền Đông Hoa Kỳ: bên nguyên
lẫn bên bị đều đang xin Tối cao Pháp viện của tiểu bang cho phép giải
toả bớt điều kiện canh chừng DSK.
Và nhiều phần thì ông sẽ được tự do vì hồ sơ cáo buộc sẽ tanh bành khi ra trước vành móng ngựa.
Nhưng
nếu có được trả tự do, DSK vẫn không thể trở về IMF làm việc như xưa.
Rồi ông sẽ đi đâu? Ông chỉ còn một cửa là trở về dạy học. Trừ phi là...
lại cởi áo để cứu lấy đảng Xã Hội của ông trong cuộc tranh cử Tổng
thống Pháp.
Các nhà xuất bản Mỹ thì đã nhanh nhẩu nghĩ đến "Hồi ký DSK - Từ Paris đến New York"... Hấp dẫn lắm!
Điều
an ủi nho nhỏ cho DSK là nhà chức trách và biện lý New York hơi bị bẽ
mặt trong vụ này. Nhưng nghĩ lại thì công lý Hoa Kỳ vẫn thắng lớn!
Cũng lạ!
Tái bút: Chuyện
lý thú không kém là tin về ông DSK lại do nữ ký giả Virigina Harrison
từ Sydney phóng đi trước tiên trên báo điện tử Market Watch của tờ Wall
Street Journal. Sau đó mới thấy New York Times rồi Washington Post nói
tới, trước các nhật báo Pháp như Le Monde hay Le Figaro. Địa cầu xoay
nhanh quá, đến chóng mặt!
Âm Nhạc Vỗ Về
Loading...
Nguồn Tin
Loading...