Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2014

Nhiều khả năng Việt Nam sẽ không kiện China

Nhiều khả năng Việt Nam sẽ không kiện China

Mới đây, hôm 23.6.2014, Việt Nam và Tòa Trọng tài thường trực (PCA) (khác với Tòa án Công lý quốc tế của Liên Hiệp Quốc (ICJ) là cơ quan tư pháp của Liên Hiệp Quốc cũng có trụ sở tại La Haye, hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) là một cơ quan tư pháp thành lập theo Công ước Luật Biển 1982 có trụ sở đặt tại Hamburg, CH Liên bang Đức), đã ký Hiệp định nước chủ nhà và thư trao đổi về hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và PCA (đây là Tòa mà Philippines cũng đã chọn tòa này để khởi kiện China về “đường lưỡi bò” và một số nội dung khác), nhiều người cho rằng, đây có thể là bước chuẩn bị các thủ tục cần thiết, cho việc Việt Nam sẽ tiến hành khởi kiện China. Tuy nhiên, có vẻ như sự việc lại không hẳn lại như vậy. Bởi vì, quan hệ Việt Nam – China rất phức tạp, có nhiều mảng tối mà đa số người Việt không thể biết được.
Theo như sự hiểu biết của nhiều người, thì Việt Nam có thể kiện China lên một số Tòa án quốc tế, với các “gói” như sau:

1. Kiện về “Đường lưỡi bò” do China vẽ ra là không có cơ sở (Philippines khởi kiện China nội dung này là chính và một số nội dung khác.

2. China dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa vào năm 1974;

3. China dùng vũ lực cưỡng chiếm đảo Gạc Ma và 6 đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.

4. China đưa giàn khoan Haiyang Shiyou 981 (HD-981) trái phép vào sâu trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý thuộc chủ quyền Việt Nam, từ hôm 02.5.2014.

5. China đã có hành động vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam bằng việc nhiều lần, nhiều năm… đâm chìm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam khi đang đánh bắt hải sản ở ngư trường truyền thống của Việt Nam.

6. China đang xây dựng các căn cứ quân sự ở Trường Sa, làm thay đổi hiện trạng so với cam kết “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)” mà China đã ký kết với Việt Nam và các nước ASEAN có liên quan.

tapcanbinh-nguyenphutrong-danlambao

Sở dĩ có thể dự đoán rằng, nhiều khả năng Việt Nam (thực ra là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam), sẽ không khởi kiện China là bởi vì:

1. Qua giọng điệu mà Bắc Kinh đã ra lệnh, với cái gọi là “bốn không được”, ta rất dễ nhận ra, đây là mệnh lệnh của kẻ ở bề trên, vượt ra khỏi khuôn khổ ngoại giao bình đẳng giữa hai nước theo thông lệ quốc tế. Rõ ràng, phải như thế nào ở phía sau hậu trường, thì Tân Hoa Xã, hãng thông tấn chính thức của China, mới dám giở giọng “ông chủ” như thế.

2. Có một thông tin đáng chú ý: sáng 26.62014, ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có tiếp xúc với cư tri tại TP Hồ Chí Minh, tại buổi tiếp xúc này, ông cựu Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, đã đặt câu hỏi với ông Trương Tấn Sang, rằng “Trung Quốc đưa ra miếng mồi 20 tỉ USD ODA và 100 tỉ USD tín dụng. Bên cạnh đó họ nói không ràng buộc về chính trị nhưng thực chất như thế nào?”. Nếu như ai cũng hiểu được: “Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA”, thì trong 20 tỷ USD vốn ODA nói trên, sẽ có ít nhất là 4 tỷ USD, là viện trợ không hoàn lại của Bắc Kinh cho Việt Nam. Đây là khoản tiền rất lớn đối với Việt Nam trong thời điểm này. Và vì vậy, Hà Nội nếu kiện China thì khác nào sẽ “há miệng mắc quai”. Ngoài ra, còn gần 50 “công trình trọng điểm” của Việt Nam, mà 100 tỷ USD nói trên đang góp phần làm “ổn định xã hội”.

Có thể khẳng định rằng, câu hỏi mà ông Lê Kế Lâm nêu ra trên đây là rất có cơ sở (bài báo cũng không đề cập việc ông Trương Tấn Sang trả lời ông Lê Kế Lâm). Với nguồn dự trữ ngoại tệ đứng đầu thế giới hiện nay, với số tiền là 3.312 tỷ USD (ba nghìn ba trăm mười hai tỷ đô la Mỹ – tài khóa 2012-2013), thì việc bỏ ra 120 tỷ USD cho Việt Nam vay để nhằm khống chế chính trị, thì là quá rẻ, và Bắc Kinh đang rất thành công ở Việt Nam ngoài sự mong đợi.

Như vậy, có thể nói, bằng những khoản tín dụng và đầu tư lớn, Bắc Kinh đã buộc Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, gần như phải khuất phục. Do đó, việc báo chí lên tiếng về khả năng Việt Nam khởi kiện China, phải chăng đây chỉ là động thái an dân và trấn an dư luận của Đảng Cộng sản Việt Nam?

3. Một lưu ý nữa để mọi người quan tâm cùng suy luận, rằng, quan hệ Việt Nam – China, nếu vẫn chỉ là quan hệ giữa hai đảng cộng sản (thực chất là như vậy), thì sẽ không có chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam lại đi kiện Đảng Cộng sản China. Bằng chứng là, bất chấp căng thẳng giữa hai nước từ vụ giàn khoan HD-981, thì hai đảng vẫn “bồi dưỡng đào tạo cán bộ giữa hai đảng Trung Việt, triển khai công tác đào tạo cán bộ cho Đảng Cộng sản Việt Nam, kế hoạch trong 5 năm đào tạo 300 cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam; trong đó, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, mỗi thành phố 100,và 100 cán bộ của các tỉnh có quan hệ hợp tác với Quảng Đông như TP Hải Phòng, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam…

Với những luận cứ trên đây, việc nghi ngờ rằng, khả năng Việt Nam sẽ không khởi kiện China, về các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam ngoài Biển Đông là hoàn toàn có cơ sở nếu không có một vài diễn biến khác, mà không ai có thể ngờ được, như chính những góc khuất giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản China đã tồn tại gần 85 năm qua.

Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, phần thua đã chắc chắn thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ thua với đối thủ là Đảng Cộng sản China, mà đau hơn, Đảng Cộng sản Việt Nam còn thua ngay với chính Nhân Dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang là gì trong con mắt Nhân Dân, thì đã có câu trả lời.

05.7.2014
Hoàng Mai
  (BVN) 

Từ năm 1938 Việt Nam đã tính chuyện khởi kiện vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa trước tòa quốc tế La Haye

Việt Nam có vùng biên giới biển đảo rộng dài nên trong suốt nửa đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều tác phẩm du ký, ghi chép, điều tra về các vùng duyên hải và biển đảo. Trong dự kiến thực hiện công trình sưu tập Du ký về biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, bước đầu chúng tôi đã tập trung điều tra, sưu tập, kiểm kê, phân loại và tổng hợp các tác phẩm du ký trên các loại sách báo khắp trong Nam ngoài Bắc, kể cả ở nước ngoài (chủ yếu lưu trữ ở Pháp) viết về các vùng biển đảo Việt Nam từ Quảng Ninh đến Kiên Giang (gồm 5 vùng: Quảng Ninh – Hà Tĩnh, Quảng Bình – Bình Định, Phú Yên – Bắc Bình Thuận, Nam Bình Thuận – Bạc Liêu, Cà Mau – Kiên Giang), trên cơ sở kết quảtư liệu văn bản tác phẩm sẽ tiến hành nghiên cứu theo hệ thống chuyên đề, chủ đề, nội dung (các sáng tác văn xuôi theo phong cách ký, ký sự, ghi chép, hồi ức về các chuyến đi, các điểm du lịch, các điểm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và nhiều phương diện của an ninh, quốc phòng, hoạt động du lịch, xã hội học, dân tộc học khác nữa). Đơn cử một số tác phẩm du ký tiêu biểu của Trần Trọng Kim: Sự du lịch đất Hải Ninh (Nam phong Tạp chí, 1923); Đông Hồ: Thăm đảo Phú Quốc (Nam phong tạp chí,1927); Mộng Tuyết: Chơi Phú Quốc, Trúc Phong: Tết chơi biển (Nam phong tạp chí,1934); Phan Thị Nga: Ra Cù Lao Yến (Ngày nay, 1935); Vĩnh Phúc: Một tuần ở đảo Hoàng Sa (Tràng An báo,1938), Biểu Chánh: Hà Tiên du ngoạn (Nam Kỳ tuần báo, 1943);Khuông Việt: Tôi ăn tết ở Côn Lôn (Nam Kỳ tuần báo,1944), v.v...


Việt Nam có đủ các bằng chứng lịch sử về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Chưa kể đến các nguồn tài liệu cổ, thư tịch Hán Nôm, chỉ tính riêng trên báo quốc ngữ đầu thế kỷ XX cũng thấy rõ nhà nước Việt – Pháp thời bấy giờ đã lên tiếng bàn luận và xác nhận, khẳng định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Riêng trên báo Tràng An báoxuất bản tại Huế vào khoảng giữa năm 1938 đã có cả loạt bài thông tin, điều tra, khảo cứu và đặc biệt nhấn mạnh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Xin nói trước, đặt trong bối cảnh lịch sử đương thời thì chính quyền thuộc địa Pháp có tính cách nhà nước bảo hộ Việt Nam; thêm nữa, sự can thiệp của người Nhật ngày ấy cũng chỉ mang tính lâm thời, cục bộ và hạn chế.
Nhận thức về tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề quần đảo Hoàng Sa, tác giả Thúc Dật xác định ngay từ những dòng mở đầu bài báo Một vấn đề tối quan trọng hiện thời – đảo Hoàng Sa (Archipel des Paracels) – Chúng tôi quả quyết nói lớn rằng: Nước Nam khai thác đảo Hoàng Sa đã 240 năm nay! Trước tòa quốc tế trọng tài La Haye cái thuyết của chúng tôi phải thắng (Tràng An báo, số 338, ra ngày 15/7/1938, tr.1+3):
“Nhơn cuộc Trung - Nhật chiến tranh mà mới đây vấn đề chủ quyền đảo Hoàng Sa lại thấy tranh luận ở giữa nước Pháp và nước Nhật. Dư luận bên Pháp và bên ta rất chú ý đến vấn đề ấy, cho rằng đảo Hoàng Sa là cái chìa khóa của các con đường hàng hải của xứ Đông Pháp.
Trên các báo chương, bàn tới đảo Hoàng Sa, có nhắc lại các việc kinh lý của nước ta ở vùng đảo ấy từ đời vua Gia Long, nghĩa là từ hơn 100 năm nay.
Nhưng vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, chắc còn làm đầu đề tranh luận cho các nhà ngoại giao Pháp – Nhật nhiều nữa; và có lẽ hai nước sẽ đem nó ra giữa tòa án quốc tế La Haye để nhờ những tay pháp luật quốc tế trung lập phán xử cho.
Sự tranh luận này có quan hệ cho lãnh thổ nước ta”…
Từ đây tác giả chú trọng sưu tập, hệ thống hóa, “cung hiến thêm một vài tài liệu chắc chắn về vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa”:
“Những sử sách chép đến quần đảo ấy có:
1. Quyển Phủ biên tạp lục của ông Lê Quý Đôn soạn trong năm Lê Cảnh Hưng thứ 37 (1776). Sách này tư rằng: Đảo Hoàng Sa thuộc hải phận xã Yên Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Đại Nam nhất thống chí toàn đồ vẽ một dãy nhiều đảo nhỏ thuộc về phương đông hải phận tỉnh Quảng Nam và các tỉnh đi nam, ghi tên là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.
3. Quyển cổĐại Nam nhất thống chí.
4. Quyển Lịch triều loại chí của ông Phan Huy Chú.
5. Quyển Đại Nam nhất thống chí của ông Cao Xuân Dục soạn trong triều vua Duy Tân.
6. Quyển Minh Mạng chính yếu do Quốc sử quán soạn trong năm Thiệu Trị thứ nhất (1840), sách này thuật chuyện tàu Anh Cát Lợi bị đắm ở đảo Hoàng Sa năm 1836”...
Tiếp sau các dẫn chứng, tác giả đi đến phân tích, lý giải, kết luận, khẳng định lẽ phải và ý chí tự quyết, kiên định, ngoan cường của dân tộc Việt Nam về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa:
“Chứ chiếu theo đồ thư biên chép và luật quốc tế hiện hành thời nước ta hoàn toàn có quyền sở hữu trên vùng đảo Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa mà nay người ta gọi là quần đảo Paracels.
Cách 300 năm trước, vì trên hoàn cầu, đất vô chủ nhiều, nên hễ người một nước nào đi đến một cõi đất nào và cắm cờ nước mình lên, thời tự nhiên cõi đất ấy thuộc về nước ấy.
Gần đây Quốc tế công luật lại định rằng: sự cắm cờ chưa đủ trao quyền sở hữu; một nước nào tìm thấy một cõi đất vô chủ, trừ sự cắm cờ của mình, lại còn phải kinh lý và đồn binh mới được công nhận là có chủ quyền.
Thời đối với quần đảo Paracels, nước ta, từ đời vua Hiến Minh (1702) đã có đặt đội quân Hoàng Sa trông nom quần đảo, đã có khai thác tìm được bạc, thiết, đồng, v.v… đã có trồng cây, đã có xây miếu lập bia.
Dấu vết đồn binh và kinh lý của nước ta đã hiển nhiên.
Nếu vấn đề quần đảo Parscels đem ra giữa tòa án quốc tế La Haye phán xử, thời nước Pháp, lấy danh nghĩa là đại diện cho nước An Nam, chẳng những có thể đem sử sách của ta ra mà chứng cớ, lại còn có thể mượn đoạn sử hàng hải của nước Anh trong năm 1836 và sử Tàu về đời Càn Long (1753) để chứng minh cho lý thuyết của mình. Sự hơn kiện chắc là về phần nước Pháp.
Nhưng nếu có một nước nào cậy cường quyền, không kể công lý, đem vũ lực tranh giành quần đảo ấy, thời nước Pháp hiện đứng bảo hộ cho nước Nam, cũng là một nước hùng cường về bực nhất trên thế giới, không lẽ chịu nhượng bộ để mất lãnh thổ quan yếu ở hải phận nước ta, và quốc dân ta không lẽ ngồi yên mà chịu mất đất của ông cha mình khai thác mấy trăm năm trước”.
Ngay sau đó ký giả Trương Lập Tạo (có thể là một quan chức, nhà biên khảo lịch sử) đã in liền ba kỳ bài báo Một vấn đề quốc tế nghiêm trọng hiện thời: lịch sử cận đại của đảo Paracels (Tràng An báo, số 340, ra ngày 22/7/1938, tr.1+4; số 341, ra ngày 26/7/1938, tr.1+4; số 343, ra ngày 2/8/1938, tr.1+4), trong đó chủ yếu tập trung phân tích hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam giai đoạn hơn ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Ngay từ những dòng mở đầu, người viết tỏ rõ thái độ khách quan và nhấn mạnh khả năng cần đưa vấn đề ra trước tòa án quốc tế La Haye:
“Chúng ta đã biết: từ mấy hôm nay, dư luận thế giới đều xôn xao về vụ nước Pháp cho binh lính An Nam đổ lên quần đảo Paracels - người Tàu gọi là quần đảo Tây Sa?
Chánh phủ Pháp thì bảo quần đảo đó thuộc quyền sở hữu của nước Nam từ thế kỷ 19, nhưng cả hai nước Tàu và Nhựt lại không nhìn nhận, và quả quyết rằng mình làm chủ quần đảo Tây Sa trước nước Nam kia.
Đọc tin vô tuyến điện ở báo nầy về cuộc chiến tranh Hoa - Nhựt, độc giả đã lấy làm lo ngại mà thấy máy bay Nhựt liệng bom xuống cù lao Hải Nam mấy lượt, rồi kế xẩy ra vụ Pháp đem binh chiếm cứ quần đảo Tây Sa, gây nên cuộc tranh giành lợi quyền giữa ba nước Pháp, Tàu và Nhựt, mà không khéo rồi đây cả ba phải dắt nhau đến tòa án quốc tế La Haye phân xử, chúng ta liền phải nảy sinh một ý nghĩa này: quần đảo Tây Sa, đứng sau cù lao Hải Nam, là những hải đảo sau này có một địa vị đệ nhất quan hệ về quân sự ở biển Đại Thanh, vì nó sẽ là một căn cứ địa cho chiến hạm Pháp giữ phần phòng thủ miền duyên hải suốt Đông Dương.
Ở đây, chúng tôi không phải là nhà chuyên môn quân sự mà đem cái phương diện của nhà binh ra xem xét về quần đảo Tây Sa.
Chúng tôi chỉ căn cứ về phương diện luật pháp mà xem xét coi quần đảo Tây Sa thuộc quyền sở hữu của nước nào, vậy là chúng tôi đã động đến cái then chốt của một vụ kiện thưa quốc tế có lẽ kéo dài đến cơn binh cách ở Thái Bình Dương sau này”…
Người viết đi sâu phân tích các sự kiện đối nội, đối ngoại của nhà nước bảo hộ và chính quyền Pháp ở Việt Nam liên quan đến vấn đề quần đảo Hoàng Sa và đi đến khẳng định:
“Lịch sử đã chỉ cho ta thấy rằng sự đòi hỏi của họ là không căn cứ vào đâu hết, quần đảo Tây Sa vốn là của nước Nam.
Của nước Nam, ấy là của nước Pháp”.
Theo một cách nhìn khác, trong bài viết Vì có vấn đề quần đảo Paracels, danh hiệu nước Việt Nam sẽ xuất hiện trên trường quốc tế: Chúng ta nên nhân dịp này mà làm cho quốc gia Việt Nam được thực hiện (Tràng An báo, số 344, ra ngày 5/8/1938, tr.1+4), ký giả T. A. cho rằng việc ngoại bang tranh chấp quần đảo Hoàng Sa lại là dịp thử thách lòng ái quốc của người dân đất Việt, đồng thời việc đưa vấn đề này ra trước dư luận quốc tế và tòa án La Haye xét xử thì chắc chắn nước Pháp – Nam thắng, góp phần nâng cao danh hiệu Việt Nam trên trường quốc tế:
“Nước Việt Nam trong khoảng năm sáu mươi năm nay nương náu dưới bóng cờ ba sắc tịch mịch êm đềm, trên trường quốc tế tranh luận lâu nay, tuồng như không ai nhắc nhở đến danh hiệu của nó nữa. Cái danh hiệu của một nước mà không ai nhắc nhở đến thì cái địa vị của nước ấy ra thế nào? Tưởng những người ái quốc ai cũng lấy làm ngậm ngùi đau đớn.
Muốn khôi phục lại, tất phải có thời cơ dun dủi, cái thời cơ ấy, quốc dân không thể bỏ qua. Cái thời cơ ấy ở đâu? Chính là vấn đề quần đảo Paracels, hiện đang sôi nổi dư luận trên thế giới vậy.
Quần đảo Paracels cũng như danh hiệu nước Việt Nam, lâu nay vẫn tịch mịch êm đềm, không ai nhắc nhủ đến nó. Độp một cái! chiến hạm phi cơ nước Nhật đùng đùng kéo đến đảo Hải Nam. Nước Pháp vì sự phòng thủ, phải đem quân và hạm đội ra đóng ở Paracels, tức thì người Tàu người Nhật đều nhao nhao lên tranh giành quyền sở hữu ở đảo ấy. Vì thế mà vấn đề quần đảo Paracels thành ra một vấn đề quan trọng, có lẽ nay mai sẽ đem ra giữa tòa án quốc tế La Haye phán xử, không khéo lại gây ra một cuộc binh cách cũng nên.
Mấy số Tràng An báo trước, bạn Thúc Dật và bạn Trương Lập Tạo đã kê cứu lịch sử nước Nam chiếm cứ đảo Hoàng Sa (tức Paracels) trước hai trăm năm đến nay, để cống hiến tài liệu cho chánh phủ về vấn đề tranh luận quần đảo ấy. Theo những chứng cớ xác thực mà hai bạn đã trưng ra đó, thì quần đảo Paracels đích là sở hữu của nước Việt Nam rồi. Nếu vấn đề ấy mà ra giữa trường quốc tế La Haye, thì nước Pháp thế nào cũng cầm chắc cái lẽ tất thắng. Nước Pháp sở dĩ nắm phần thắng, là nhờ có cái danh hiệu nước Việt Nam. Vậy thì từ đây cái danh hiệu Việt Nam, người ta sẽ nhắc nhủ đến luôn trên trường quốc tế vậy”...
Sau khi phân tích mối quan hệ giữa vấn đề quần đảo Hoàng Sa với lịch sử Việt Nam, chính thể Việt - Pháp, đặc thù Việt Nam trong các xu thế độc lập và liên lập ở tầm khu vực và quốc tế, người viết đi đến lời kết: “Nói rút lại, nước Pháp đã lấy danh hiệu nước Việt Nammà giành quần đảo Paracels, thì chúng ta cũng nên lấy hòa ước năm 1884 mà yêu cầu cho được cái phần nội trị hoàn toàn”.
Như vậy, qua mấy trang tư liệu trên Tràng An báo (1938) cho thấy người Việt Nam và nhà nước Việt - Pháp khi ấy đã có suy tính, đoán định và chủ trương đưa vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra trước tòa án quốc tế La Haye. Câu chuyện cách ngày nay 76 năm vẫn còn nguyên tính thời sự.
Xin nói thêm, trên Tràng An báo trong năm 1938 này còn mấy mục tin tức thời sự liên quan đến đảo Hải Nam và việc phòng thủ Đông Dương trước hiểm họa chiến tranh thế giới thứ hai vùng Đông Á; một bài điều tra thực sự công phu củaVĩnh Phúc: Một tuần ở Hoàng Sa (số 345, ra ngày 9/8/1938, tr.1+4); một bài bình luận, phân tích chính trị sâu sắc của Hoàng Văn Sự: Trong một buổi chuyện với người đại diện của Chánh phủ từ 7 năm trước, tôi đã nói đến đảo Hải Nam và Đông Dương đối với mắt Nhật (Những lẽ khiến người Nam cần phải cùng người Pháp cố giữ Đông Dương) (số 347, ra ngày 16/8/1938, tr.1+3)…
Nguyễn Hữu Sơn
(Văn hóa Nghệ an)

Nguyễn Tiến Trung - Chào mừng Hội Nhà báo Độc lập!

Anh Phạm Chí Dũng và một số anh em khác đã thành lập Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam vào ngày thứ sáu 4/7/2014. Mình rất vui vì lại có thêm một hội đoàn độc lập nữa ra đời để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng, nghề nghiệp, tương trợ giữa những người cầm viết.

Lại nhớ tới anh Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) và chị Tạ Phong Tần vẫn đang bị giam cầm vì đã tham gia thành lập Câu lạc bộ Nhà báo tự do. Các anh chị bị mức án rất nặng vì đã công khai thực hiện quyền công dân của mình: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hội họp.

Dù vậy, có thể thấy những vụ bắt bớ và xử mức án nặng đã không thể làm những người Việt Nam yêu tự do và dân chủ chùn bước hay sợ hãi. Ngày thứ sáu 4/7 vừa qua, lại có thêm một hội đoàn nhà báo độc lập được thành lập. Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cần thấy rõ rằng việc đàn áp cuối cùng đã phản tác dụng. Việc bắt bớ những công dân thực hiện quyền làm người của mình chỉ mang đến nỗi nhục nhã cho Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Ngoài ra, lại càng thêm nhiều người căm phẫn trước bất công và lại tham gia vào phong trào dân chủ. Chúng ta có thể thấy ngay cả các trí thức lớn của đất nước, các cựu chiến binh, thanh niên - sinh viên, người dân bình thường, dân oan… tham gia ủng hộ dân chủ ngày càng nhiều.

Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cần nhận thức rằng hành vi những công dân tự thực hiện quyền của mình hoàn toàn không phải là hành vi “chống đối”. Không công dân nào cấm đoán những đảng viên cộng sản thực hiện quyền công dân như tự do hội họp, tự do báo chí,… Do đó, đảng viên cộng sản có quyền gì thì công dân có quyền đó, chiếu theo nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”, và “không ai bị phân biệt đối xử” như đã quy định tại điều 16 Hiến pháp. Không thể quy chụp công dân một cách vô cớ! Thật ra thì chính những người lãnh đạo Đảng Cộng sản đã chống đối lại nhân dân khi tước đoạt quyền của dân.

Vừa rồi có một anh an ninh nói rằng những quan điểm của mình đã vi phạm điều 4 Hiến pháp quy định Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mình đã chỉ ra rằng thật ra những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã vi phạm điều 2 Hiến pháp quy định “nhân dân làm chủ”. Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản tự cho mình quyền lãnh đạo không cần qua bầu cử, nghĩa là quyền lựa chọn người lãnh đạo đất nước của nhân dân đã bị tước đoạt. Như vậy điều 2 Hiến pháp đã bị vi phạm do điều 4 Hiến pháp.

Tóm lại, điều 4 Hiến pháp đã vi phạm điều 2 và điều 16 Hiến pháp. Và những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cần chấm dứt chuyện sai phạm này, trả lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, để công dân tự do thực hiện quyền của mình.

Cần nhắc lại rằng ngay ở thời thực dân Pháp báo chí tư nhân khá phát triển, góp phần lớn vào công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ và nâng cao dân trí. Nhưng kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền thì trong nước không còn tờ báo tư nhân nào. Việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân bây giờ còn tệ hơn cả vào thời thực dân Pháp. Do đó, việc anh Phạm Chí Dũng và các anh khác lập Hội nhà báo Độc lập là hợp pháp, hợp đạo lý và cần thiết. Chúng ta cần phải tự cởi trói cho chúng ta.

Dưới đây là ảnh chụp tại nhà riêng với anh Phạm Chí Dũng và chị Tân, vợ anh Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày).
clip_image002
Nguyễn Tiến Trung
  Nguồn: FB Nguyễn Tiến Trung
 

Ông Ngô Văn Khánh, khối tài sản khủng và Kết luận thanh tra đáng ngờ tại EVN

Ông Ngô Văn Khánh, khối tài sản khủng và Kết luận thanh tra đáng ngờ tại EVN

Khối tài sản khủng của các Ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, Ông Trần Văn Truyền, Nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ tiếp tục là đề tài thu hút dư luận. Vấn đề là, vật chất không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi. Nhưng chiếu theo nguyên lý này thì người viết thấy thật khó cho Ông Khánh, Ông Truyền trong giải thích nguồn gốc khối tài sản trên. Bởi, chẳng lẽ, Ở Việt Nam, đối với quan chức cỡ bự, vật chất lại sinh ra, mất đi theo quy luật khác…
nvk_pttt.jpg

Liên quan đến kết luận về những sai phạm đặc biệt nghiêm trọng trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại EVN thời gian qua của Thanh tra Chính phủ (TTCP), dư luận tiếp tục đòi hỏi TTCP, cá nhân Ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng TTCP, các Bộ, Ngành Công Thương, Tài chính, Văn phòng Chính phủ (VPCP), EVN và Thủ tướng Chính phủ công khai làm rõ: Vì sao hàng loạt sai phạm hết sức nghiêm trọng tại EVN lại được bỏ qua dễ dàng như thế; vì sao một cuộc thanh tra kéo dài, tốn nhiều công sức và tiền bạc nhưng kết luận lại mỗi lúc một khác như trò hề, bất chấp luật pháp như thế?

Còn nhớ, cuộc thanh tra được mở đầu từ năm 2011, đến ngày 31/10/2012, TTCP có văn bản 2835/TTCP-VI do Phó Tổng Nguyễn Văn Sản ký, báo cáo Thủ tướng về dự thảo kết luận thanh tra tại EVN. Theo đó, số tiền sai phạm cần xử lý hơn 7.000 tỷ đồng. Gần tháng sau, ngày 30/11/2012, VPCP thông báo Thủ tướng đồng ý với kết luận thanh tra (VB 2024/VPCP-V1). Vậy nhưng 11 tháng sau đó, Phó Tổng TTCP Ngô Văn Khánh đã ký kết luận thanh tra số 2181/KL-TTCP ngày 30/9/2013. Theo kết luận này, hơn 6.500 tỷ đồng sai phạm đã được hợp thức hoá.

Giải thích về kết luận thanh tra đã lược bỏ gần 6.500 tỷ đồng do các sai phạm cố ý, có hệ thống, có tổ chức tại EVN, Ông Ngô Văn Khánh, trong cuộc họp báo ngày 15/10/2003 liền vấy ngay cho tập thể. Ông Khánh nói Ông dựa trên ý kiến của Vụ Giám sát Thẩm định và cuộc họp của tập thể lãnh đạo TTCP đã quyết định việc cắt giảm này. Kỳ thực thì đây là kết luận thanh tra có nhiều biểu hiện mất dân chủ, thiếu công khai, minh bạch; có dấu hiệu bao che, chạy tội cho EVN. Hầu hết các thành viên đoàn thanh tra đều không đồng tình với bản kết luận này. Họ đã không được giải thích đầy đủ vì đâu mà có sự sai khác quá lớn giữa 2 bản kết luận thanh tra, được ký cách nhau gần 1 năm giữa 2 phó Tổng TTCP Nguyễn Văn Sản và Ngô Văn Khánh. Hơn nữa, khi thay đổi kết luận thanh tra, hẳn nhiên, hệ thống các biên bản làm việc với đối tượng và các số liệu đi kèm bắt buộc cũng phải ký lại theo quy định. Vậy nhưng lần này thì Ông Ngô Văn Khánh đã bất chấp…

(http://nguoicaotuoi.org.vn/phap-luat/lien-quan-den-ket-luan-thanh-tra-tap-doan-dien-luc-viet-nam-evn-ong-ngo-van-khanh-pho-tong-ttcp-cat-giam-6-500-ti-dong-nham-muc-dich-gi.html)

Để hiểu rõ hơn, hãy xem những sai phạm nào của EVN đã được Ông Ngô Văn Khánh và TTCP “linh động” bỏ qua?

1. Để giảm bớt khó khăn cho ngành điện, Chính phủ đã bảo lãnh cho EVN vay 8.170 tỷ đồng (giá trị vay bằng đồng yên Nhật, theo tỷ giá tạm tính tại thời điểm 31/12/2012) (Vốn ODA của Nhật bản, lãi suất 1,7%/năm). Mục đích của Chính phủ là giúp EVN giảm chi phí từ đó kéo giá thành điện xuống để góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và cải thiện đời sống nhân dân. Nhưng không, EVN đã lợi dụng ưu đãi này làm vụ “áp phe” vi phạm pháp luật nghiêm trọng. EVN đã luân chuyển lòng vòng nguồn vốn này: Cho nhà máy nhiệt điện Phả lại (Nay là Công ty cổ phần nhiệt điện Phả lại, PPC) vay rồi vay lại PPC. Cụ thể, EVN nhận vốn vay từ Chính phủ với lãi suất 1,7%/năm và chuyển cho nhà máy nhiệt điện Phả lại vay cũng với lãi suất ưu đãi đó. Thế rồi bằng các hợp đồng số 03/2010/EVN-PPC ngày 20/11/2010 cho EVN vay 350 tỉ đồng; hợp đồng số 01/2011/EVN-PPC ngày 20/8/2011 cho EVN vay 1.000 tỉ đồng và hợp đồng số 02/2011/EVN-PPC ngày 25/10/2011 cho EVN vay 1.000 tỉ đồng (Tổng cộng, PPC cho EVN vay lại 2.350 tỷ đồng), nhưng chết người ở chỗ lãi suất mà EVN vay lại của PPC lên tới 17%/năm, gấp 10 lần khi EVN cho PPC vay!

Cú “áp phe” này đã làm lợi phi pháp cho PPC cùng nhóm lợi ích EVN và đương nhiên móc túi của người dùng điện ít nhất 300 tỷ/năm. Vô lý đến vậy nhưng TTCP và các Bộ Ngành – Công bộc của dân vẫn cho rằng EVN vô can, EVN đang phát huy nội lực?!

Đây là hành vi cố ý làm trái không thể chối cãi. Vi phạm luật doanh nghiệp. Theo đó, PPC cho EVN vay 2.350 tỷ đồng theo mức lãi suất áp dụng tại các ngân hàng thương mại là sai so với giấy phép đăng ký kinh doanh số 0403000380 ngày 25/01/2008 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải dương cấp. Nói cách khác, PPC không có chức năng kinh doanh tài chính nên không được phép tiến hành hoạt động cho vay và hưởng chênh lệch (trái quy định tại điều 8 luật các tổ chức tín dụng: “Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của Công ty chứng khoán”.

Trong một hoạt động có liên quan, EVN đã cho vay và thu phí theo tỷ lệ áp dụng tại tổ chức tài chính trái quy định 112 tỷ đồng. Bản chất của hoạt động này là EVN tăng thu trái phép đồng thời đã làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh điện thêm 112 tỷ đồng.

Ngoài ra, những năm qua, lãi suất ngân hàng rất cao, có lúc chi phí vốn xấp xỉ 20%/năm thì Ban Tài chính kế toán EVN, vì lợi ích cá nhân, đã móc nối tận dụng dòng tiền thu được mỗi ngày (thu tiền điện hàng ngày), gửi tại các ngân hàng, hưởng lãi suất qua đêm hàng trăm tỷ đồng, mặc cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư lúc nào cũng thiếu vốn. Đáng tiếc việc này đã được một số thành viên đoàn thanh tra sờ tới nhưng đã được chỉ đạo bỏ qua?!

Cần khẳng định, sai phạm này của EVN giống hệt đại án tham nhũng xảy ra tại Công ty ALC II. Công ty ALC II chỉ có chức năng cho thuê tài chính, không được thực hiện nghĩa vụ cho vay. Vậy nhưng, các Bị cáo đã ký hợp đồng cho thuê tài chính núp bóng cho vay, gây thiệt hại 500 tỷ mà toà vừa tuyên 2 án tử hình. Tổn thất mà EVN gây ra (và người dùng điện phải gánh chịu) trong sai phạm này lớn hơn nhiều. Mỗi năm, PPC và EVN thụ hưởng trái pháp luật chừng 500 tỷ đồng còn người dân, dù kiệt quệ, vẫn phải cam chịu vét hầu bao để “cõng” EVN. Thử hỏi, còn nghịch lý nào lớn hơn như vậy?

Hãy so sánh hành vi kinh doanh trái phép này và hành vi kinh doanh của bầu Kiên vừa bị tuyên rất nặng (Tổng cộng 30 năm tù giam trong đó có tội kinh doanh không đúng ngành nghề trong giấy phép hoạt động) sẽ thấy sự bất công, chà đạp pháp luật của TTCP, Bộ Công Thương và các cơ quan quản lý nhà nước khác khi cùng một hành vi, thích thì xử không thích thì dùng mọi biện pháp để bao biện, lấp liếm. Phải chăng do EVN độc quyền, hay EVN là DNNN?. Dư luận mong Ban Nội chính và Cơ quan đều tra sớm vào cuộc, loại khoản chi phí trái pháp luật này ra khỏi giá thành ngành điện. Xin các vị đừng “đánh trống bỏ dùi” nữa, vì như thế là nối giáo cho giặc đấy.

2. Hạch toán sai chế độ, sai quy định của nhà nước; dối trên, lừa dưới, không minh bạch; giao chỉ tiêu lỗ cho các đơn vị thành viên để trốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp, trắng trợn biến tiền lãi thành chi phí sản xuất…EVN đã không từ thủ đoạn nào nhằm mục đích đánh lừa dư luận và các cơ quan quản lý để tăng giá điện.

EVN lúc nào cũng tự coi mình là Chính phủ thu nhỏ, bất chấp các Bộ Ngành, bất chấp quy định của nhà nước về quản lý kinh tế. Tự tiện hướng dẫn hạch toán chuyển nguồn vốn sai quy định tại 11 dự án. Hậu quả là tiền lãi thu được biến thành chi phí sản xuất kinh doanh, tức là làm tăng giá điện có chủ đích để móc túi người dùng điện. Số tiền 224 tỷ đồng.

http://dantri.com.vn/chinh-tri/thanh-tra-khang-dinh-hang-loat-sai-pham-tai-evn-825962.htm

Kinh doanh viễn thông thua lỗ 3.000 tỷ đồng, chưa biết đẩy vào đâu, EVN liền bày trò gian dối chuyển lỗ cho các đơn vị 3.366 tỷ đồng bằng cách tự mình quy định giá bán buôn nội bộ trái pháp luật. Kết quả thanh tra chỉ rõ, theo thông tư 05/2011/TT-BCT ngày 25/2/2011, giá bán buôn theo quy định là 891,4 đồng/kWh nhưng EVN tự ý xác định giá bán bán buôn nội bộ bình quân năm 2011 là 978,78 đồng/kWh, làm cho các Công ty điện lực lỗ 3.366 tỷ đồng. Cũng có nghĩa là EVN thu thêm được từng ấy. Cách biến báo này đã làm nhà nước thất thu 200 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp. Tương tự, Chi phí truyền tải của Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia cũng được EVN “tự quyết” theo hướng giảm 165 tỷ so với mức được Bộ Công thương phê duyệt, làm cho ngân sách nhà nước thất thu thêm 41,3 tỷ đồng.

http://laodong.com.vn/kinh-te/tien-dien-cua-dan-ganh-nhung-du-an-thua-lo-cua-evn-141701.bld

Tất cả những việc làm sai trái này đã vi phạm nghiêm trọng các quy định về kế toán, thống kê, làm méo mó và biến dạng giá thành điện năng gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý nói chung. EVN làm như vậy nhằm cố ý che dấu khoản lỗ do đầu tư ngoài ngành trái quy định và kém hiệu quả của EVN đồng thời lừa dối người tiêu dùng để dễ bề tăng giá điện. Ấy vậy mà Ông Ngô Văn Khánh, TTCP và các Bộ Ngành vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ qua hết thảy hoặc có chăng cũng chỉ nhắc nhở qua loa. Dư luận mong các cơ quan chức năng khẩn trương điều tra làm rõ, công khai minh bạch để người dân được biết.

3. Là Doanh nghiệp độc quyền, mọi chi phí được dễ dàng hạch toán vào giá điện, sai đúng thế nào đã có người dùng gánh chịu. Tận dụng triệt để lợi thế đó, EVN đã không ngần ngại chi hàng triệu USD để đào tạo thạc sỹ QTKD “chui”, bằng thạc sỹ đến nay vẫn không được công nhận. Kết quả thanh tra đã làm rõ, hợp đồng đào tạo 4 lớp thạc sỹ QTKD với khoa sau đại học, Đại học Quốc gia Hà nội có nhiều dấu hiệu sai phạm. EVN ký hợp đồng đào tạo với Khoa sau đại học, Đại học Quốc gia nhưng thực tế hợp đồng lại do trung tâm công nghệ đào tạo và hệ thống việc làm (ETC) thực hiện; giá cả thoả thuận lúc đầu và giá cả thực hiện theo hợp đồng chênh lệch theo hướng thiệt hại cho EVN, khoản chênh lệch hợp đồng (hơn 5 tỷ đồng) rơi vào túi ai chưa được làm rõ…

(http://www.baomoi.com/Ve-ket-luan-thanh-tra-tai-Tap-doan-Dien-luc-Viet-Nam-EVN-Ong-Ngo-Van-Khanh-Pho-Tong-Thanh-tra-Chinh-phu-cat-giam-hon-6000-ti-dong-tien-vi-pham/45/12908630.epi).

Dư luận băn khoăn vì không có Doanh nghiệp nào hào phóng bỏ hàng triệu USD để tạo tạo thạc sỹ mà đến nay ai cũng biết chỉ có những người mua bán bằng cấp để thăng quan tiến chức mới được đào tạo tại lò này. Phải chăng, các thạc sỹ, tiến sỹ và các nhà quản lý của EVN đều được đào tạo từ đây, hèn gì mà mà chất lượng quản lý càng ngày càng theo hướng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Vì sao khi ký kết luận thanh tra, Ông Ngô Văn Khánh không gắn sai phạm này tại EVN với hàng loạt sai phạm tại ETC mà TTCP đã có kết luận rất nghiêm khắc trước đó? Nên chăng, những người có trách nhiệm trong thương thảo, ký kết HĐ đào tạo này và các học viên phải trả lại tiền cho EVN. Bởi đơn giản, đó là tiền của dân, Dân không thể tối ngày “đầu tắt mặt tối” trả giá điện cao cho cán bộ ngành điện tung tẩy đi học thạc sỹ chui cốt để lấy tấm bằng tiến thân như vậy.

4. Với việc đầu tư ngoài ngành (EVN telecom) làm cho EVN thua lỗ trầm trọng dẫn đến mất hết vốn. Tính đến thời điểm bàn giao tài sản cho Viettel (29/11/2011), EVN đã đầu tư vào viễn thông hơn 2.425 tỷ đồng, thì phải gánh khoản lỗ lên tới 3.000 tỷ đồng. Nguyên nhân được cho là do lãnh đạo EVN đã có sai lầm khuyết điểm trong việc đánh giá, lựa chọn công nghệ không phù hợp, mô hình tổ chức vẫn theo lối độc quyền, thiếu chuyên nghiệp. Tuy nhiên, theo các thanh tra viên thì đó chỉ là nguyên nhân bề ngoài. Thực tế cho thấy hàng trăm trạm tiếp sóng, hàng chục tấn thiết bị được EVN nhắm mắt nhập về, 30% trong số đó coi như lãng phí vì lắp đặt xong nhưng không sử dụng. Nhiều lô thiết bị lớn được tranh thủ hết sức để nhập ngay khi biết chủ trương chuyển giao EVN Telecom sang Viettel, và đương nhiên là vô dụng…

Chứng kiến sự sụp đổ của Vinashin và Phạm Thanh Bình, Vinalines và Dương Chí Dũng, nhân dân và công luận đã “xây xẩm mặt mày”. Nhưng tất cả đều không thể so sánh với thất thoát kinh hoàng mà EVN gây ra trong thương vụ EVN telecom. Dư luận mong mỏi Ban Nội chính Trung ương và cơ quan điều tra nhanh chóng vào cuộc làm rõ thất thoát, tham nhũng và các hành vi cố ý làm trái tại EVN liên quan đến đầu tư kinh doanh viễn thông, làm rõ trách nhiệm và thu hồi tài sản cho nhà nước, cho nhân dân.

Kinh doanh viễn thông thì mất luôn vốn như nói ở trên, nhưng khi bàn giao EVN telecom, khoản tiền cho Viettel thuê cột điện, đường chuyền trị giá 10.000 tỷ đồng trong 30 năm, tương đương 350 tỷ/năm) đáng lẽ phải thu về cho EVN để giảm giá thành thì với sự vô trách nhiệm vô hạn với người dùng điện, EVN đã biếu không cho Viettel. Không còn nghi ngờ gì nữa, khoản tiền này Viettel đã được hưởng lợi một cách phi pháp còn người dân thì lại phải nai lưng gánh chịu một cách oan uổng. Đến bao giờ người dùng điện mới thoát khỏi cảnh ngộ bi kịch này? Sao khi ký kết luận thanh tra, Ông Ngô Văn Khánh không quyết liệt yêu cầu khoản lỗ này tuyệt đối không được hạch toán vào giá điện dưới mọi hình thức? Phải chăng đã có sự bôi trơn nào ở đây?

5. Vấn đề đưa cả “bikini” vào giá điện và mua xe sang vượt tiêu chuẩn. Đây là cách ví von hài hước nhưng đắng cay của nhà báo Đào Tuấn trên báo Lao động. Thật đáng kinh ngạc, sai phạm rõ như ban ngày thế rồi mà EVN cứ nói vòng quanh. Sự thiếu trung thực, coi thường dư luận của EVN đã đến mức thượng thừa. Có thể khẳng định nếu không có thanh tra thì 600 tỷ đồng để đầu tư xây dựng biệt thự (đơn lập, song lập…), bể bơi, sân tennis đã được hạch toán êm ru vào giá điện. Trắng trợn và bất chấp luật pháp như thế nhưng Ông Chủ tịch EVN vẫn bao biện là việc cần thiết và nhân văn, lại còn dối trá khi cho rằng EVN hạch toán riêng, không hạch toán vào giá điện…?!

Được ngồi trên tiền, lại không có ai kiểm tra kiểm soát, nếu chẳng may sai phạm thì được anh nọ, chị kia; bộ này, ngành khác chống lưng việc gì EVN cũng dám làm. Pháp luật quy định một đằng nhưng EVN cứ làm một nẻo, chẳng làm gì được nhau. Thì đây, việc mua xe sang gấp 2 - 3 lần quy định là một thí dụ. Lãnh đạo EVN, những người chủ trương chà đạp lên các quy định của pháp luật trong việc mua bán, sử dụng xe công vẫn bình an vô sự. Ông Ngô Văn Khánh và TTCP chỉ đề nghị kiểm điểm qua loa, thế là xong chuyện. Thật đáng tiếc, TTCP chỉ phát hiện được 2 xe vượt tiêu chuẩn tại cơ quan EVN để trang bị cho Chủ tịch và Tổng Giám đốc EVN, thế còn hàng trăm xe khác tại các đơn vị, cũng chỉ để Chủ tịch và Tổng Giám đốc đơn vị đi thì nghiễm nhiên được dội vào giá thành sản xuất kinh doanh điện năng.

Hàng ngày, hàng giờ những sai phạm trên vẫn đang diễn ra tại EVN. Mỗi năm sai dăm ngàn tỷ. Thế rồi lại chính EVN, Bộ Công thương tìm đủ mọi cách lấp liếm, lừa dối dư luận chỉ để nhằm tăng giá điện, đổ lên đầu nhân dân, làm kiệt quệ nền kinh tế và bần cùng hoá các “ông chủ”. Chủ đạo là thế đấy!


Thanh tra là công cụ quan trọng thuộc hàng bậc nhất trong công cuộc phòng chống tham nhũng lãng phí. Mỗi cuộc thanh tra đều kéo dài thời gian hàng 6 tháng – 1 năm, kéo theo rất nhiều tiền của, công sức. Quá trình thanh tra các thanh tra viên đã phải đối mặt và vượt qua nhiều cám dỗ, hiểm nguy. Kết luận thanh tra phải nghiêm minh, công khai minh bạch, phản ánh khách quan diễn biến quá trình thanh tra. Kết luận thanh tra do lãnh đạo TTCP ký ban hành nhưng phải được cả đối tượng thanh tra, các thành viên đoàn thanh tra và nhân dân tâm phục khẩu phục trên cơ sở đối thoại thẳng thắn, công khai dưới sự giám sát của nhân dân, công luận. Thử hỏi Kết luận thanh tra tại EVN vừa qua do Ông Ngô Văn Khánh, phó Tổng TTCP ký ban hành đã đạt được những yêu cầu tối thiểu này chưa, hay chỉ úp úp, mở mở; dấu giếm như mèo dấu…vậy, chẳng khác nào chạy án!

Thanh tra như vậy thì ắt, EVN sẽ ngày càng lấn tới, bất chấp luật pháp hơn. Chẳng thế mà Phạm Lê Thanh, Tổng Giám đốc EVN trong lần tiếp xúc báo chí mới đây đã lớn tiếng: “Tìm đâu ra một doanh nghiệp gánh trên vai hơn 90 triệu dân …?!”. Ổng còn nói: “…Nói là Tập đoàn điện lực Việt nam, nhưng bản chất chính là chính phủ Việt nam. Nếu vỡ nợ thì sẽ thế nào…”. Ô hay…

http://baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/tong-giam-doc-evn-khong-nuoc-nao-cho-nganh-dien-pha-san-2364017/

Mấy hôm nay, dân lại kêu thấu trời vì bỗng dưng hoá đơn tiền điện tăng gấp hai, gấp ba, thậm chí gấp mười lần. Cách giải thích vẫn lòng vòng, trơ tráo theo bổn cũ soạn lại. Quá khứ đã vậy, lần này cũng thế thôi. Nếu có bị nhân dân bắt quả tang, trưng ra bằng chứng không thể chối cãi thì … đành kỷ luật qua loa vài nhân viên thấp cổ bé họng là xong. Xem ra, nhân dân còn khổ dài dài với kiểu cách làm ăn của EVN…
Anh Quân
(Dân luận) 

Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94


Tác phẩm Dế Mèn Phiêu Lưu Ký của nhà văn Tô Hoài được tái bản rất nhiều lần

Nhà văn Tô Hoài, một trong những cây viết tên tuổi của nền văn học cận đại ở Việt Nam, vừa qua đời sáng 6/7 tại Hà Nội, thọ 94 tuổi.

Ông tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại huyện Thanh Oai, Hà Nội, và lớn lên tại làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội)
Sáng tác nhiều ở các thể loại khác nhau như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, v.v..., nhưng có lẽ 'Dế Mèn Phiêu Lưu Ký' mà ông viết hồi năm 1941 là một trong những tác phẩm của ông gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc thiếu niên Việt Nam nhất.

Tác phẩm này cũng từng được dịch ra hàng chục thứ tiếng.

'Vợ Chồng A Phủ', một sáng tác khác của ông, được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa phổ thông và được dựng thành phim ở Việt Nam.
'Cách nhìn chính thống'

Năm 1992, hồi ký 'Cát Bụi Chân Ai' của ông đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.

Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.

Gần đây hơn, tác phẩm 'Ba Người Khác' mà ông viết về thời cải cách ruộng đất, cũng gây tiếng vang ít nhiều. Được biết tiểu thuyết này được viết xong từ 1992 nhưng tới 2006 mới được phép in.

Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng nhiều giải thưởng văn học, gồm Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (1996), Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam 1956, Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội (1970), Giải thưởng Hội Nhà văn Á - Phi (1970).

Tin ông qua đời chỉ trong vài giờ đồng hồ thu hút hơn nửa triệu người xem trên trang Facebook của BBC Tiếng Việt, với hàng chục ngàn người bấm nút Likes, hàng ngàn người tham gia bình luận và hơn một ngàn người bấm nút Shares.
  (BBC)

Dân bị đánh "đúng quy trình”, không liên quan “người lạ”!

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Thư tâm tình của BS Huỳnh Tấn Mẫm gởi các bạn Thanh niên.- sinh viên- học sinh

Cùng các bạn Thanh niên-Sinh viên-Học sinh thân mến,

H3

Tôi là Huỳnh Tấn Mẫm, không mang một danh phận nào trong guồng máy công quyền hay một địa vị xã hội, tôi chỉ là một thanh niên – nếu các bạn cho tội dùng từ này – một thanh niên nhiều tuổi, và hơn thế, là một công dân có ý thức trách nhiệm về tình hình đất nước hiện nay. Tôi tiếc là không còn nhiều thời gian và sinh lực như các bạn, để có thể cống hiến một cách xứng đáng và trọn vẹn cho một vận hội mới đang đến với dân tộc.

Như các bạn đã biết, sự kiện giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 của Trung Quốc hiện diện hai tháng nay ở vùng lãnh hải Việt Nam, không phải là sự kiện lớn đơn thuần, mà nó biểu hiện một tiến trình vô cùng hệ trọng đối với sinh mệnh của Tổ Quốc chúng ta, nó là màn mở đầu công khai cuộc xâm lược của Trung Quốc vào lãnh thổ, lãnh hải nước ta trong kế hoạch có quy mô thôn tính cả Biển Đông, từng bước khống chế toàn vùng Đông Nam Á, để thực hiện mộng siêu cường bá chủ không giấu diếm của mình. Nó còn bộc lộ cho toàn dân ta biết mối quan hệ mờ ám được che giấu lâu nay dưới các từ ngữ và khẩu hiệu đẹp đẽ của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Việt Nam ta.

Nhưng đồng thời cũng cần hiểu rằng đây là vận hội mới cho dân tộc, vì nó mang ý nghĩa thức tỉnh toàn diện của một giai đoạn lịch sử, bởi toàn bộ sự thật đã được phơi bày.

Việt Nam là một nước nhỏ về quy mô dân số và diện tích so với họ, lại chậm phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật, về công nghệ thông tin, công nghệ quân sự… lại đúng vào lúc xã hội đang suy yếu, kinh tế bên bờ vực thẳm, tầng lớp lãnh đạo thì suy thoái tư tưởng- đạo đức – lối sống, tham lam, nhũng nhiễu đầy khắp. Thử hỏi trong tình thế đó làm sao có thể đối địch trước một tham vọng vĩ cuồng như thế của đối phương?

Câu hỏi ấy đang xoáy vào lòng mỗi người dân nước ta, và chúng ta thật sự day dứt về câu trả lời.

Dù chúng ta yêu hòa bình bao nhiêu, chân thành mong muốn hữu nghị bao nhiêu, tất cả cũng bằng thừa, nếu không nói là tự huyễn hoặc lấy mình, trước tham vọng của chủ nghĩa Đại Hán phương Bắc.

Bành trướng Bắc Kinh đang tiến công chúng ta ở thế áp đảo về bạo lực, thế thượng phong về kinh tế, đánh phủ đầu ta về ngoại giao tuyên truyền. Quan chức cao cấp của Trung Quốc – Dương Khiết Trì – đến nước ta, đưa ra một thông điệp với tư cách cao ngạo của một nước lớn, thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng không phải đột nhiên mới có: yêu cầu ta chấm dứt cái gọi là “quấy nhiễu” chúng ở giàn khoan HY981, đe dọa nếu ta kiện chúng ra tòa án quốc tế, ta sẽ nhận lấy “hậu quả” khôn lường. Nếu ta “ngoan cố” không hàng phục, chúng sẽ phong tỏa kinh tế, phong tỏa bờ Biển Đông, và mọi tai họa khác sẽ xảy đến. Chúng ngăn cản ta không được mở rộng liên minh quân sự với Mỹ và các nước khác, bởi làm như thế chúng quy là ta mang tội “khiêu khích” chúng.

Các bạn thử nghĩ xem. Họ bao vây và khống chế ta, nhưng không cho ta la lên để nhờ người can thiệp, không cho ai giúp sức, vâng, trói lại và đánh, buộc ta phải tự nguyện đầu hàng!

Qua cách nói và hành động của họ, cơ hồ như ta đã là quốc gia phụ thuộc không có bao nhiêu chủ quyền?

Các quốc gia có chủ quyền, có quan hệ bình đẳng, bất kể là nước lớn hay nhỏ, chưa từng nói năng như thế. Hồ đồ, trịch thượng phải bắt nguồn từ một thực tế. Song, yếu kém, nhu nhược vốn cũng không phải không có nguyên nhân. Có khi là sự tương thích bắt nguồn từ những sự kiện chưa bộc lộ từ phía nhà cầm quyền nước ta chăng? Dù sao cũng đã có một câu phương ngôn đáng nhớ: “Nếu ta đứng lên, là ta ngang hàng, nếu ta quỳ xuống, thì ngang rốn đối phương”.

Các bạn thân mến,

Đó là kết quả của một thực tế yếu kém, hay từ một tinh thần bạc nhược, hay cả hai? Sự than trách hay nguyền rủa đối phương lúc này quả là một sự xa xỉ.

Làm công dân của một nước, làm sao ta không thấy đau lòng khi đất nước bị xâm lăng? Làm sao ta không thấy nhục khi bị kẻ khác lăng nhục vào dân tộc mình? Trên những con đường mà các bạn đi làm hay đi học hằng ngày, trong công viên mà các bạn dạo chơi, trong sách sử mà các bạn đã đọc, luôn phảng phất bóng dáng của tiền nhân, mang tên những vị anh hùng, trong lịch sử hàng nghìn năm trải qua từng thế hệ, đã chống trả lại bọn xâm lược phương Bắc oanh liệt ra sao, và không hề khiếp sợ. Tiền nhân đã để lại cho chúng ta một giang sơn vẻ vang. Đến lượt chúng ta, chúng ta không thể thoái thác, và không hề thoái thác bởi bất cứ lý do gì, để hết lòng bảo vệ giang sơn ấy.

Nhưng lời tâm tình của tôi là vô nghĩa, nếu tôi không nói với các bạn rằng, sức mạnh có ưu thế nhất đang lớn lên từ trong tim và trong trí tuệ của các bạn, là niềm hy vọng của dân tộc – những thế hệ Thanh niên-Sinh viên-Học sinh hôm nay. Các bạn đang đứng ở đầu thề kỷ 21 của một nhân loại đang toàn cầu hóa, mà tri thức thì trở nên vô biên giới và không ai có thể che giấu hay độc quyền được.

Một cuộc chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc bằng mọi biện pháp và thông minh mà các bạn sẵn sàng dấn thân, và một xã hội mà các bạn cần xây dựng, có tương lai như thế nào, là hai vấn đề quyện vào nhau mà có lẽ các bạn đang suy nghĩ?

Để có một đất nước độc lập tự do, trước hết mỗi chúng ta cần có một trí tuệ độc lập tự do, không để bị nhuộm đen, nhuộm đỏ, hay bất cứ màu nào khác; nó phải là lòng yêu nước nồng nàn, trong sáng, yêu hòa bình độc lập và dân chủ bằng một nhận thức kịp thời đại. Một cuộc chiến đấu chỉ bằng niềm tin và sinh mạng dù rất cao cả, nhưng nó sẽ đem lại một kết quả ra sao?

Một xã hội các bạn mong muốn, chưa biết là thế nào, nhưng ít nhất, và chắc chắn nó không thể là một xã hội như các bạn đang nhìn thấy, nó đầy dẫy những bất công, trên một tầng nền của hẹp hòi và thiển cận, nó không bao giờ là bền vững!

Tôi không muốn nói một câu như sáo ngữ: tương lai đang nằm trong tay thanh niên, với nghĩa nó là màu hồng. Không, có thể nó không đến các bạn với màu hồng, nò tùy thuộc vào ý thức của các bạn. Đó là cái nhìn thẳng vào thực tế với đôi mắt biết đúng sai và nói được tiếng nói của trái tim mình. Một cuộc chiến đấu sẽ rất mạnh mẽ khi nó có đầy đủ chân lý.

Điều tôi muốn nói cùng các bạn, chúng ta phải cương quyết làm người công dân tự do, dù xã hội chưa có luật pháp thừa nhận tự do đúng nghĩa. Chúng ta cương quyết làm con người có quyền con người, dù quyền con người chưa được thừa nhận đầy đủ. Chúng ta có quyền và có nghĩa vụ – quyền sống tự do và nghĩa vụ bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Tôi trộm nghĩ, tự do trong bối cảnh Việt Nam hôm nay quan trọng hơn vì nó chứa cả sự độc lập. Tôi muốn nói đến một thể chế dân chủ, một xã hội dân sự, nó sẽ không bị đem ra mua bán hay đổi chác bất ngờ bởi một đất nước, nếu nằm gọn trong tay của một nhóm người độc quyền.

Chúng ta tin tưởng sẽ giữ được độc lập tự do, sẽ bảo vệ được giang sơn vì chúng ta có hai điều quan trọng:

- Một, chúng ta có chính nghĩa, lẽ phải ở về phía chúng ta. Thế giới bây giờ là sự liên kết rộng lớn và có sức mạnh vô tận, vấn đề là ta có làm cho sức mạnh ấy hội tụ lại được hay không? Chúng ta có làm rõ chính nghĩa để xứng đáng được nhận sự ủng hộ đó hay không? Chế độ phát xít của Bắc Kinh hiện nay với chủ trương bạo lực và bành trướng đang tự đào mồ cho mình, và nhân loại sẽ chôn chúng. Tôi tin chắc chắn điều đó sẽ xảy ra như lịch sử nhân loại đã cho thấy.

- Hai, chúng ta biết sửa mình. Một quốc gia hùng mạnh là vì có phương hướng đúng, một quốc gia yếu kém là vì có phương hướng sai. Đó là một thể chế chính trị tiến bộ hay lạc hậu, có tạo được sức mạnh đoàn kết của toàn dân hay không mà Việt Nam ta phải cấp bách xem xét để sửa đổi. Sự sửa đổi đó phải đến từ sức mạnh đoàn kết của nhân dân, kể cả những lực lượng, những con người từ trong bộ máy nhà nước, và đồng bào ở nước ngoài.

Tôi tự hỏi, có lẽ cũng giống như các bạn, vì chúng ta không muốn hy sinh xương máu khi chưa cần thiết, và nếu chúng ta là chính nghĩa, tại sao chúng ta không dám kiện để đưa họ ra tòa án quốc tế? Thế giới ngày nay không còn ở thời kỳ hồng hoang, nhân loại không phải là bầy thú trong rừng để con lớn dễ dàng giày xéo con bé, hay chính chúng ta mang mặc cảm tự ti, tội lỗi và hẹp hòi mà không dám nhìn nhận và tiếp nhận sức mạnh đang rộng mở của thời đại? Làm sao chúng ta có thể tin là an toàn và có giá trị khi tự thu mình, núp vào hang ổ “hữu nghị” giả dối dưới nách của kẻ xâm lược?

Thưa các bạn,

Bao giờ, hay ngay bây giờ chúng ta có thể cất lên tiếng nói thống nhất, mạnh mẽ đối với những người đang mang trọng trách dẫn dắt dân tộc?

Hiện nay, tôi không tán thành nhiều điều, trong đó có hai điều căn bản và cấp bách mà Chính phủ của Đảng Cộng sản Việt Nam đang thực hiện:

1- Đặt Hiến pháp cũng như luật pháp của một Quốc gia dưới cương lĩnh và các chỉ thị của Đảng Cộng sản. Thay vì ngược lại, Đảng Cộng sản phải đặt mình dưới Hiến pháp và luật pháp nhà nước, với chức năng là thi hành chứ không phải chỉ đạo. Từ sự trái ngược đó, với quyền hành độc đoán trong tay, Đảng đã tự tha hóa và suy thoái (như đã tự thừa nhận), đưa đến một Chính phủ thiếu trách nhiệm và không hiệu quả, làm cho xã hội rệu rã, không phát triển và mất dần sức sống, người dân trở nên lơ láo, mất phương hướng và tích lũy nỗi bất bình. Tình trạng này là điều kiện phù hợp ý muốn của kẻ xâm lược.

2- Đường lối đối ngoại hiện nay, là thuộc về Đảng Cộng sản, cụ thể là Bộ Chính trị, chứ không phải do một Chính phủ của nhân dân, vì thế đã không giữ được tư thế chính danh của một Quốc gia, đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc. Các từ ngữ: hữu nghị, bạn, môi răng, đồng chí, anh em, 16 chữ vàng (*), 4 tốt…đã xóa tan tư cách và khoảng cách phải có của một quốc gia với một quốc gia. Mối quan hệ mang tính chất tình cảm quá đà và độc hại đó đã tràn ngập trong tư tưởng giới lãnh đạo, quan chức, các đoàn thể, kể cả Đoàn Thanh niên Cộng sản mới lớn sau chiến tranh, thể hiện lời nói, phong cách trong các văn kiện cũng như trong cách hành xử, chứng tỏ một tinh thần dựa dẫm, bấu víu, lệ thuộc, thiếu tự tin của tâm lý nhược tiểu chưa trưởng thành về mặt quốc gia, làm mất quốc thể, của giới lãnh đạo hiện nay. Lẽ ra, mối quan hệ không chính danh đó phải được chấm dứt, khi chiến tranh chấm dứt và đất nước thống nhất. “Ân đền oán trả” gì khi còn nằm trong rừng sâu suối lạnh, thì cũng phải minh bạch trong chính sách ngoại giao, không “giáo dục” toàn dân theo cách “xóa tan biên cương” mập mờ như thế được! Vì thế, làm sao trách thái độ kẻ cả của Dương Khiết Trì khi bảo Việt Nam “quấy rối” chúng ở giàn khoan, hay kêu gọi Việt Nam “ đứa con đi hoang hãy sớm quay đầu về”, hoặc bí thư Quảng Đông gởi “danh mục công việc phải làm” cho Bộ Ngoại giao ta?

Tôi sống ở miền Nam, và biết người dân miền Nam đều nhận thấy cực kỳ phẫn nộ về cách ngoại giao xa lạ như trên.

Thưa các bạn,

Văn hóa ngoại giao cũng là biểu hiện chiều sâu của thực thể. Lẽ nào tôi dám nói ép, nói oan cho các lãnh đạo Việt Nam chăng, khi cho rằng mối quan hệ được biểu hiện như thế là xuất phát từ hành vi và tư duy lệ thuộc do quán tính, hoặc do “tận đáy lòng”?

Tôi không tán thành về mối quan hệ bất bình đẳng, được gọi là “hữu nghị” giữa Việt Nam và Trung Quốc lâu nay, mà ông Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đang cố gắng níu kéo một cách vô vọng trong cô đơn và sợ hãi, có tác dụng cuốn cả đất nước rơi vào quỹ đạo của bành trướng Bắc Kinh. Tôi cho rằng Trung Quốc là không đáng sợ, một nước rộng về đất, đông về dân, mạnh về bạo lực, chứ không hề là một nước lớn với ý nghĩa là có sức mạnh văn hóa, văn minh và đáng nể trọng. Không tự cúi người xuống để phong Trung Quốc là đại ca vô địch. Cũng không thể có ý nghĩ đến việc có thể hay không thể “rinh” đất nước chạy đi nơi khác với lời than thở vô nghĩa: “Có ai chọn được láng giềng đâu!”. Thật ra đó là ý của một tướng Tàu đã nói ở Hà Nội các đây hai năm, nhằm đe nẹt Việt Nam đã lỡ nằm cạnh Trung Quốc, không thể “chọn” thân phận khác được đâu, lẽ ra không nên lặp lại theo cách áo não như thế. Thủ tướng Nhật, chưa từng than van chuyện phải bê mấy hòn đảo của mình đi đâu. Nữ Tổng thống Hàn Quốc cũng không có một lời nào tương tự!

Tôi chân thành bày tỏ, chia sẻ cùng các bạn về niềm tự tin và tự hào của dân tộc, trước vó ngựa của quân Nguyên-Mông xưa, nay là trước sự hung hăng của quân Tập, với tinh thần là nhân dân phải biết làm chủ vận mệnh của mình, thông qua một thể chế dân chủ bởi một Hiến pháp đứng đắn, và quan hệ bình đẳng không lệ thuộc Bắc Kinh. Đó là khẳng định căn bản và lâu dài, dù cho nay mai giàn khoan có thể rút đi, hay thay một chiếc khác. Mối quan hệ giữa “hai” dân tộc – theo nghĩa dân sự – xưa nay chưa từng có vấn đề, ngoại trừ bọn cầm quyền hung hăng mỗi lúc. Nhắc lại điều này với dân chúng cũng lại là một xa xỉ nữa.

Hai điều nêu trên, không phải là vô cùng hệ trọng của hiện tình đất nước đáng trăn trở hay sao?
Chúng ta không để sự thờ ơ của hôm nay là nỗi hối tiếc của ngày mai. Chúng ta không muốn một đồng bào nào của mình phải tự thiêu như người Tây Tạng, không muốn những nhóm thanh niên ta đến lúc phải vung dao liều chết vào bọn Hán tộc ở các bến tàu như ở Tân Cương. Và chúng ta cũng cần tinh tường cảnh giác về những kẻ diễn hài nội địa.

Một phương châm chân chính đã từng vang lên trong lòng dân tộc: “Chúng ta yêu hòa bình nhưng sẵn sàng chiến tranh” để bảo vệ Tổ quốc.

Mong rằng tôi có nhiều cơ may được gặp các bạn, góp phần nhỏ bé của mình cùng các bạn bước tới, cùng cả đất nước đứng hẳn lên đấu tranh, giữ vững độc lập trước sự khống chế và xâm lược của Bắc Kinh, xây dựng một xã hội dân sự vững chắc, công bằng và dân chủ.
Ao ước thay!

Trân trọng kính chào.

Huỳnh Tấn Mẫm – một thanh niên nhiều tuổi.
——————————————————–
(*) “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan” (!) – thập lục tự phương châm – do Trung Quốc đưa ra, dịch thành phương châm hành động: Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
(Blog Huỳnh Ngọc Chênh)

Dân bị đánh "đúng quy trình”, không liên quan “người lạ”!

Khi người vi phạm giao thông cự cãi với cảnh sát, họ thường “ngẫu nhiên” va chạm với một nhóm “người lạ”.
 Cái chết bất thường của ông Nguyễn Văn Chín sau khi bị CSGT gọi vào đo nồng độ cồn, CA TP HCM cho biết nhóm CSGT đã thực hiện đúng quy trình, chưa thấy mối liên hệ nhân quả nào giữa việc ông Chín tử vong và chuyện bị xử lý vi phạm giao thông. 
 
a
Bức ảnh chụp lại cảnh người vi phạm giao thông bị “người lạ” hành hung ngay trước mặt CSGT (ảnh báo Thanh Niên) 
Về vụ việc ông Nguyễn Văn Chín (44 tuổi, ngụ hẻm 1050 Quang Trung, Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh) bị nhóm người lạ đánh đến tử vong sau khi bị CSGT đo nồng độ cồn ở khu vực ngã tư Trường Chinh - Tân Kỳ Tân Quý (quận Tân Bình, TP.HCM), báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh thông tin: “Thiếu tá Nguyễn Quang Thắng - Phó Chánh Văn phòng Công an TP.HCM cho biết qua kiểm tra bước đầu tổ CSGT làm nhiệm vụ hôm xảy ra sự việc đã thực hiện đúng các quy trình công tác. 
Thiếu tá Nguyễn Quang Thắng nhấn mạnh chưa thấy có mối liên hệ nhân quả giữa việc ông Chín bị xử phạt vi phạm giao thông vào đêm 25/6 với việc ông bị tử vong (kể cả bị hành hung). Hiện tổ CSGT thuộc đội CSGT - Công an quận Tân Bình làm nhiệm vụ đêm 25/6 trên đường Trường Chinh - Tân Kỳ Tân Quý vẫn công tác bình thường.
Lời giải thích này của người đại diện Công an TP Hồ Chí Minh không phải là điều bất ngờ với nhiều độc giả. Bởi vì đây không phải lần đầu có chuyện người bị xử lý vi phạm giao thông bị người lạ hành hung đến chết và không phải lần đầu tiên, đại diện lực lượng công an đưa ra giải thích này.  
Trong bài báo: “Thấy gì từ những vụ bị “người lạ” đánh dằn mặt sau khi có “va chạm” với CSGT”, tác giả cho biết: “Có thể nói vụ người vi phạm giao thông bị “người lạ” đánh ngay trước mặt nhóm CSGT xảy ra trên cung đường Nguyễn Hữu Cảnh, quận 1 hồi cuối năm 2012 đã mở màn cho những sự việc tương tự, nhưng hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn về sau. 
Ngày 28/6/2013, các nhà báo đã trực tiếp quay được cảnh một người đàn ông mặc thường phục luôn "sánh đôi" cùng nhóm CSGT trên đường Nguyễn Hữu Cảnh. Người này đã lao vào đánh người vi phạm giao thông mà cảnh sát thổi lại ngay trước mắt nhóm cảnh sát. Đáng nói là nhóm CSGT này chỉ đứng nhìn chứ không có bất cứ hành động can thiệp nào”.
Và trường hợp xấu số như ông Nguyễn Văn Chín không phải là cá biệt. Bài báo trên cho biết, tháng 4-2013, ông Trần Văn Hiền (42 tuổi, ngụ Bình Tân, TP.HCM) cùng một người bạn nữa chạy xe về nhà sau một cuộc nhậu. 
Khi đến đoạn đường Lê Trọng Tấn quận Tân Phú, ông Hiền bị CSGT chặn lại, yêu cầu kiểm tra nồng độ cồn. Dù đã “lót tay” để cho qua nhưng không được, sẵn hơi men, ông Hiền đã cự cãi với nhóm CSGT rồi bắt xe ôm về nhà. Thế nhưng, ngay khi đi khỏi vị trí trên khoảng 300 mét thì có hai thanh niên mặc thường phục, đi trên một chiếc xe SH đuổi theo. Ông Hiền bị hai người này kéo ngã xuống đường và bị đánh cho đến khi ngất xỉu. Đánh xong, hai thanh niên này bỏ đi còn nạn nhân Hiền tử vong sau đó.
Nội dung thông tin phản hồi của phía công an về “vụ ông Hiền” cũng không khác gì “vụ ông Chín”, phía CSGT khẳng định không hề có tranh cãi với nạn nhân và hoàn toàn không hay biết về vụ ẩu đả đêm đó cho đến khi báo chí đưa tin. 
Chỉ cần xâu chuỗi lại một chút thì bạn đọc nào dẫu có chỉ số thông minh bình thường nhất cũng hiểu ra một vấn đề thế này: Khi người vi phạm giao thông cự cãi với cảnh sát, họ thường “ngẫu nhiên” va chạm với một nhóm “người lạ”. 
Tuy nhiên, CSGT thường không hề biết đến cuộc va chạm này và đặc biệt là không hề có mối liên quan nào đến nhóm “người lạ”. Như lời ông Chánh Văn phòng Công an TP Hồ Chí Minh là “chưa thấy có mối liên hệ nhân quả giữa việc ông Chín bị xử phạt vi phạm giao thông vào đêm 25/6 với việc ông bị tử vong (kể cả bị hành hung)”.
CSGT dĩ nhiên là không có gì lạ bởi họ mặc sắc phục thể hiện quyền lực được người dân đóng thuế trao cho họ để họ đảm bảo an toàn trật tự cho xã hội, thực thi công lý, công bằng theo tinh thần thượng tôn pháp luật. 
Nhóm người đánh chết dân sau khi họ gặp CSGT dĩ nhiên là các anh CSGT đã khẳng định đó "người lạ" rồi, còn những người dân bị "người lạ" đánh tưng bừng, người bị đánh chết rồi thì không nói được nữa, những người dân sống sót sau trận "đòn lạ" ấy đều khẳng định họ không có quan hệ gì với đám "người lạ" đã đánh họ, từ đó có thể suy ra những người dân bị đánh, xét từ cái nhìn của đám côn đồ kia, hẳn nhiên cũng là "dân lạ"! 
Nghĩa là, nếu không xác định được mối quan hệ biện chứng nhân quả giữa các sự việc hiển nhiên thì chỉ có đám côn đồ lạ, dân lạ....mà thôi! Mà phải phân biệt rõ "người lạ" với "người dưng nước lã" nhé, khác nhau lắm đấy.Nói cho vuông, thế nhé!
Từ ý kiến phản hồi của người đọc trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội, vấn đề đặt ra là nên có một lực lượng điều tra độc lập (không hề liên quan đến lực lượng công an) để điều tra rõ ràng trắng đen những vụ việc này. Đề xuất này là hoàn toàn xác đáng, tuy nhiên, từ trước tới nay, điều này chưa từng có trong thực tế. 
Như vậy, những trường hợp nạn nhân đã chịu một cái chết đau đớn oan khiên như ông Hiền, ông Chín có lẽ sẽ phải chấp nhận số phận không may của mình. Không may vì họ luôn “ngẫu nhiên” va chạm với “người lạ” sau khi cãi vã với CSGT, không may vì họ đã mãi mãi nằm im dưới những nấm mồ. 
Tôi muốn kể cho bạn đọc nghe một câu chuyện đẹp về người cảnh sát Nhật Bản đang lan truyền trên mạng xã hội vài hôm nay, từ một phiên dịch người Việt ở Nhật, cô được mời đến để phiên dịch cho một tu nghiệp sinh bị bắt vì tham gia trộm cắp trong một cửa hàng. 
Mặc dù người bị bắt luôn miệng chối tội rằng mình không biết gì nhưng ông cảnh sát tầm 50 tuổi, người to béo đã rất nhẹ nhàng giải thích cho người đó hiểu rằng cậu ta đang đánh mất cả tương lai của mình. Người trẻ tuổi đã khóc, cuối cùng cũng nhận tội và mong sự nương nhẹ. 
Người phiên dịch kể lại: “Khi ra về, ông cảnh sát nói với tôi: cảnh sát có 2 nhiệm vụ chính. Một là bắt kẻ phạm tội. Hai là giáo dục người đã phạm tội không bao giờ tái phạm hoặc răn đe để người bình thường không phạm tội”.
Những lời vị cảnh sát người Nhật nói có gì cao siêu không thưa bạn đọc? Có khó thực hiện không? Không hề! Tôi nhớ lực lượng Công an nhân dân Việt Nam còn có 6 điều Bác Hồ dạy vô cùng ngắn gọn, thấm thía, trong đó đặc biệt có điều thứ 4: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. 
Đặt hai câu chuyện này cạnh nhau, chúng ta sẽ hiểu điều gì đang thực sự diễn ra. Và nếu bạn cũng cảm thấy buồn như tôi, thì hãy nói ra suy nghĩ của mình. 
  My An  (Đất Việt)