CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Hoan hô Đà Nẵng! Sẽ
Tưởng nhớ ngày hải chiến Trường Sa năm 1988 (TT). Hy vọng sẽ không có chỉ đạo ngầm nào cản trở hoạt động này, hoặc hạn chế đưa tin. - Chương trình “Tháng ba biên giới”:
Muốn ổn định phải có biên giới vững chắc. – Nhà văn Trường Thanh:
Ông cố vấn trở thành Chính ủy (TP) - Còn màn này của đoàn “quốc doanh” thì chỉ nặng hình thức:
10.000 lá cờ cho ngư dân và Trường Sa (TT).
-
Trao hơn 10 tỉ đồng để huyện Trường Sa xây trường học ở đảo (PLTP). -
12 tỉ đồng xây trường cho học sinh Trường Sa (TN).
<-
Mưu đồ Trung Quốc in đậm trên đồ dân dụng (ĐV).
-
Báo Trung Quốc: Không nên dọa dẫm láng giềng (VnMedia). –
Tàu Trung Quốc gia tăng hoạt động tại Biển Đông (RFI).
“Đội
tàu dân sự này vừa nhằm bảo vệ ngư dân Trung Quốc vừa nhằm ‘ngăn chặn
không cho các quốc gia ven biển thực hiện quyền chủ quyền trong vùng
biển tranh chấp được khoanh trong tấm bản đồ chín đường gián đoạn hình
chữ U’ đã được Bắc Kinh công bố”.
-
Bắc Kinh công kích Nhật trước thềm Chính hiệp (DT). -
Tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư: “Thùng thuốc súng” đáng sợ (ANTĐ).
-
Sâu sắc 40 năm quan hệ Việt-Nhật (VnMedia).
-
Ngân sách Mỹ bị cắt giảm nhưng chiến lược “trục” châu Á [vẫn] tiếp diễn (RFI). –
TQ tiếp tục tăng ngân sách quốc phòng (BBC).
“Với thái độ hiện nay, Trung Quốc sẽ không cho nước nào bắt nạt được mình”. Không lẽ Việt Nam đang bắt nạt TQ? -
Những sát thủ trên biển (TN).
-
Bộ trưởng Quốc phòng Nga “thị sát” căn cứ Cam Ranh (ĐV).
- Trần Gia Phụng:
Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (1) – Tương quan lực lượng –
Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (2) – Chiến trận (ĐCV).
-
“Quân đội không thể và không nên trung lập” – Lịch sử đã cảnh báo (TCCS). “
Quân
đội luôn là một lực lượng chính trị, một bộ phận đặc biệt quan trọng
của chính quyền nhà nước. Mọi điều kêu gọi trung lập hay chia tách sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đối với quân đội đều là vô nghĩa, phản khoa học, kéo theo những tư tưởng chính trị phản động. Điều này đã được lịch sử chứng minh”.
Ngụy biện! Không ai chia tách sự lãnh đạo của đảng cầm quyền với quân
đội mà mọi người muốn đảng phải trả quân đội về đúng vị trí, đúng nhiệm
vụ của quân đội: đó là bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân, thay vì bảo vệ
đảng. Nếu quân đội chỉ bảo vệ cho một đảng phái nào đó, trong trường hợp
cái đảng đó phản bội lại lợi ích của dân tộc thì sao? Quân đội vẫn tiếp
tục bảo vệ đảng đó à?
-
Quân đội phải trung với nước và Tổ Quốc (Phi Vũ). –
Sự xấc xược không phải tình cờ (Tổ Quốc) (Thông Luận). “
Mục
đích của điều 70 là để ngăn cản Nguyễn Tấn Dũng đảo chính nhân danh tổ
quốc và nhân dân. Những người viết dự thảo này hy vọng với một hiến pháp
đặt Đảng trước tổ quốc và nhân dân như thế không ai còn có thể lôi kéo
quân đội đảo chính lật đổ ban lãnh đạo đảng được nữa”.
- Mai Thái Lĩnh: Lộ trình xây dựng một Hiến pháp dân chủ (BoxitVN).
- Nguyễn Chính Kết: BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP LÀ TỰ SÁT, HAY KHÔNG BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP MỚI LÀ TỰ SÁT ? (TNM). “Rất
mong các ông lãnh đạo chế độ và Quốc hội CSVN hãy tỉnh táo sớm bãi bỏ
điều 4 hiến pháp và những điều phi lý khác trong hiến pháp, đồng thời
sớm thực hiện chế độ dân chủ đa đảng khi mấy ông còn nắm quyền và còn có
thể làm được cho toàn dân nhờ. Các ông không chịu làm những điều đó thì
mới chính là tự sát”.
- BS Nguyễn Đan Quế: ĐÃ ĐẾN LÚC HUỶ BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP (Quỳnh Trâm). – Bốn không hay không Bốn?
(Người Việt). “Không Bốn” thì chết từ từ rồi sẽ tỉnh lại, còn giữ “Bốn”
lại càng chết sớm, chết không kịp ngáp kiểu Gaddafi hay Saddam Hussein,
lại còn để tiếng dơ cho muôn đời sau, như Gaddafi bị lôi lên từ ống
cống, hay Saddam Hussein trốn chui, trốn nhủi không khác gì con chuột bị
lôi ra từ cái hầm. Nên hiểu rằng sức chịu đựng của người dân có giới
hạn, không nên tiếp tục thử khả năng chịu đựng của người dân nữa, dồn ép
dân quá sức, cũng giống như cái lò xo, bị nén quá nhiều thì sức bật sẽ
rất lớn.
- Hoàng Đạo Sử: NẾU ĐẢNG ĐƯA ĐƯỢC VIỆT NAM LÊN THÀNH “CON RỒNG” CHÂU Á THÌ CHẲNG AI LẠI ĐÒI HỦY ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP ! (Phạm Viết Đào).
- Quyền nhân dân trong quy trình, thủ tục lập hiến (VTC). – Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: Nhân dân cần có quyền được phúc quyết Hiến pháp
(báo Đồng Nai). Phúc quyết bằng cách nào đây khi mà mọi góp ý đều phải
theo ý của đảng và nhà nước, còn nói khác đi thì bị biến thành “các thế
lực thù địch”, rồi đòi “xử lý” người ta? – Suy thoái hết cả rồi! (Hành Nhân). – ĐỂ DÂN PHÚC QUYẾT Ư? THÌ ĐÂY, ĐẢNG ĐANG ĐỂ DÂN GÓP Ý ! (TSYG). – TẬN CÙNG CỦA NGỤY BIỆN (Quỳnh Trâm).
- Hoàng Văn Vương: Ý kiến cá nhân về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (Điều 4) (BS). – HAI XE ÔM ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP (Phạm Viết Đào). – Xin các ngài hãy đặt mình là một người Việt Nam bình thường, lắng nghe những ý kiến khác biệt (DĐCN). – Video: Góp ý sửa đổi hiến pháp 1992 – 01/03/2013 (VTV).
- Thư giãn: Lời kêu gọi ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 (Dân Luận). “Hỡi
đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn quyền con người, chúng ta đã nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Đảng CSVN càng lấn tới, vì họ
quyết tâm ngăn cấm chúng ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
nhất định không để đất nước tụt hậu. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải ký
tên [vào bản kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992]!…Hễ là người Việt Nam thì
nên ký tên vào bản kiến nghị để đòi quyền dân chủ”.
- Nhật ký mở lại (mở lần thứ 34): BÁO ĐỘNG! BÁO ĐỘNG! LŨ THÚ PHÁT CUỒNG! ĐỒNG BÀO CẨN THẬN (Nhát sỹ Tô Hải). “Đã
đến lúc: ĐỒNG BÀO HÃY ĐỨNG LÊN! AI CÓ GẬY DÙNG GẬY! AI CÓ DAO DÙNG DAO!
CÓ GẠCH ĐÁ DÙNG GẠCH ĐÁ CHỐNG LẠI KHI BỌN CHÚNG RA TAY KHỦNG BỐ ĐỒNG
BÀO!” – Ha Ngoc – “Đảng ta vĩ đại thật” (Dân Luận). Tiếp tục đổi mới để tiếng lên! =>
- Trang Cùng viết Hiến Pháp có mở mục Khảo sát về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Khảo sát này gồm 27 câu hỏi multiple choice, có câu chỉ có 1 lựa chọn,
có câu được chọn nhiều câu trả lời khác nhau. Ngoài ra còn có câu cần
điền vào câu trả lời, như câu này: “Nếu được thêm một điều vào Hiến pháp thì bạn thêm điều gì?” Đây là câu trả lời của BTV để các độc giả tham khảo: “Người
dân phải được quyền bầu trực tiếp lãnh đạo đất nước và lãnh đạo địa
phương, cũng như được quyền bầu những người đại diện cho mình như nghị
sĩ, ĐBQH. Ngoài ra, người dân được quyền bỏ phiếu các sắc lệnh, các dự
luật ảnh hưởng đến đời sống của dân”. BTV xin góp ý với người set up
mục khảo sát này: để có kết quả chính xác, mỗi người chỉ nên làm khảo
sát 1 lần. Hãy tìm cách block cookie và block IP address như mục thăm dò
của chúng tôi trên blog này, nếu không các “dư luận viên” sẽ tham gia
liên tục, mỗi người làm vài chục lần/ ngày, kết quả sẽ không đúng.
- Việt Nam : Lời tuyên bố của các công dân tự do (RFI). – Hàng ngàn ‘công dân tự do’ đòi tuyển cử lập hiến ở Việt Nam (Người Việt). - ĐÃ CÓ 2.100 NGƯỜI KÝ TÊN TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO (Huỳnh Ngọc Chênh).
- “Ngày D” của Tổ quốc Việt Nam đã điểm? (DLB).
- Thư gửi Bọ: Bọ phải nghe câu ni nì Bọ: Quay đầu là bờ, Bọ ơi (Cu Làng Cát).
- Phạm Hồng Sơn: ‘Góp ý hiến pháp: hơn một sự ngộ nhận’ (BBC). Cho tới bài “bút đàm” này thì càng rõ hơn về Phạm Hồng Sơn, sau vài lời phi lộ cho bài của Phạm Thị Hoài mà bữa qua chúng tôi đã nhắc lại. Ngoài
việc dùng thứ từ ngữ lập lờ như lần trước, PHS còn đẩy cao hơn, miệt
thị và xuyên tạc bản chất việc làm của những người khởi xướng Kiến nghị
72, khi anh ta chụp cho nó hai chữ “khấu đầu”. Mặc dù cũng đã
“học” được chút ít sau khi lĩnh hội khá nhiều phân tích trên mạng tự do
về ý nghĩa của đợt tranh đấu liên quan sửa đổi Hiến pháp này, ví như
thừa nhận sự “tăng cường hiểu biết”, “tập dượt” cho người dân,
song PHS lại vẫn tỏ ra ngây thơ quá độ, làm chúng tôi không khỏi nghi
ngờ, khi cho là mục tiêu của mọi người tham gia kiến nghị chỉ có vậy.
Đến như những câu hỏi gợi ý sát sạt của
BBC, như truy vấn, đòi hỏi một quan điểm chính trị mạch lạc, cũng chỉ
làm cho PHS thêm cố gắng ngụy biện khi thổi phồng thực tế, cho rằng giới
lãnh đạo ở VN “đã chuẩn bị xong những bước đầu tiên cho sự truyền ngôi cho thế hệ con cháu của họ”, cứ
như thể với vài ba cái ghế sắp xếp cho các “con ông cháu cha” vừa qua,
mọi người dân VN này sẽ chẳng còn làm gì được nữa ngoài việc ngồi đó
than vãn và thúc thủ, một phần vì tin vào “tiên đoán” ngon lành của anh
ta cho tương lai VN là “các phe phái độc tài sẽ thay nhau nắm quyền sắt đá” như ở nước Nga.
Càng rõ thêm khi PHS chẳng đưa ra được một phương cách gì cho người dân
VN để cải thiện tình hình. Chính điểm này giúp phân biệt một con người
cấp tiến thực sự với một kẻ … “giả bộ cấp tiến”, để có ngày sẽ đi tới
kết luận có hay không một “nhà đấu tranh dân chủ cuội“. (Bổ sung, phải viết thêm đoạn này vì có độc giả – D.Nhật Lệ đã vội cho là đoạn văn “để có ngày … dân chủ cuội” là “hơi có phần chụp mũ”: xin mời đọc lại kỹ, nhất là mấy chữ “để có một ngày” và “có hay không”. Lạ
hơn, là khi chúng tôi mới chỉ hoàn toàn bình luận về nội dung bài viết,
thậm chí chưa khẳng định bản chất con người, làm sao có thể nhận định
dễ dãi là “tính chuyện chia rẽ”? Ai “chụp mũ” ai ở đây? Không lẽ lại phải đặt nghi vấn ngược lại với chính độc giả này, bằng từ “chia rẽ” đó, hay sao?).
Lại nữa, tương tự Phạm Thị Hoài, làm như
ngây ngô cho là ở Đức người ta không lấy ý kiến nhân dân, không có
trưng cầu dân ý cho sửa đổi Hiến pháp, thì ở VN hà cớ gì phải đòi cho
dân quyền phúc quyết hiến pháp, Phạm Hồng Sơn đã đem nước Anh ra so sánh
về việc có cần “bản văn hiến pháp” hay không; như cố tình
không đi cụ thể vào vấn đề khi biện luận, mà chỉ loanh quanh gây lóa
mắt người đọc bằng đôi ba kiến thức vặt “Đông Tây kim cổ” làm lạc hướng
chủ đề. Cụ thể đó là:
+ Hiến pháp 1992 và bản Dự thảo sửa đổi hiện nay đang mang trong nó những nội dung tệ hại, cần bỏ nó, sửa đổi nó, và người dân đang, sẽ đấu tranh liên tục nhiều năm tới, bất chấp nó sẽ được thông qua theo cách nào;
+ trò “lấy ý
kiến nhân dân” thực chất là dối trá, nhưng phải vạch trần bằng nhiều
cách, để sẽ có hàng triệu người dân chưa hiểu rồi dần hiểu (và đã có
ngay kết quả cho những ai từng mơ hồ, ảo tưởng về một ông TBT “lú nhưng
mà tốt”);
+ giới bảo
thủ, thủ lợi cố níu giữ quyền lực độc tôn ẩn nấp sau những mỹ từ dân
chủ, trà trộn giữa những người tử tế, đang cực kỳ lo sợ bị lộ mặt, vậy
cần phải vạch mặt, cũng để khích lệ, bảo vệ những nhân tố tiến bộ nằm
ngay trong hệ thống;
+ người dân
cần hiểu nhau, hiểu những trí thức, nhân sĩ, cán bộ đảng viên có thể dám
dấn thân đứng về phía họ; có như vậy chúng ta mới có những người như
Nguyễn Đắc Kiên;
+ người dân
cũng cần những động lực, cơ hội để được gắn bó với nhau, đây là cơ hội
hiếm có (phong trào lấy chữ ký ủng hộ Nguyễn Đắc Kiên là minh chứng tiếp
sau việc lấy chữ ký cho bản Kiến nghị 72); … và còn nhiều lý do nữa,
song những điều này đã bị PHS … “quên”.
Gắng đọc qua phần 2, cũng không có gì rõ hơn ngoài những lời khuyên dạy chung chung kiểu chúng ta phải thế này, phải thế kia, như “chúng ta cần thẳng thắn hơn với ĐCSVN và thành thật hơn với bản thân mình“, rồi “giới tinh hoa hôm nay cần phải mạnh dạn hơn trong việc khẳng định tư cách độc lập”, cùng lối diễn giải méo mó tình hình thực tế, trích dẫn què cụt vài quan điểm đấu tranh qua bài viết của vài người.
Nhưng … dù sao, cố tìm kiếm thì cũng
thấy được một giải pháp cụ thể duy nhất nghe như mơ, đó là PHS “khuyên
khéo” hàng triệu người bỏ đảng. Nói nó “mơ” là ở chỗ PHS đã chẳng cần
biết làm thế nào mà tự nhiên có được con số hoành tráng đó, nếu như
không có những cuộc tranh đấu, như với việc đưa ra Kiến nghị 72, cùng
rất nhiều bài viết, ý kiến, lời kêu gọi liên quan, mà PHS đang bài bác
kia. Nói nó “mơ” bởi vì trên cả thế giới này, chẳng có một nơi đâu, thời
nào người dân chỉ đấu tranh bằng mỗi một phương cách theo kiểu “ảo
tưởng qua một đêm” như vậy cả.
Ngoài ra, vài ba “giải pháp” như đòi hỏi
tự do báo chí, tham dự phiên tòa, v.v.. đều là những thứ đâu phải không
có ai làm, chưa làm? Và còn nhiều điều nữa để nói, nhưng tệ nhất về
kiến thức (nếu như đúng là chỉ vì kiến thức) của PHS khi anh ta cho rằng
dẫu có được “một bản Hiến pháp tuyệt vời đến mấy” thì nó cũng “mới chỉ là giấy”.
Nó “tệ” thêm nữa và nực cười là chính PHS đã mâu thuẫn với chính mình,
với ngay nội dung trước đó, khi khen ngợi, khích lệ bản Tuyên bố năm
ngoái, trong đó đòi hỏi “bỏ điều 88″ trong luật Hình sự, mà quên là dẫu
có bỏ được thì theo quan điểm của chính anh ta, nó cũng “mới chỉ là giấy”.
<-
Vừa xong lời bình trên thì chúng tôi nhận được đường link giới thiệu
bài viết của Nhà văn Bùi Mai Hạnh từ Úc, đăng trên Nhịp cầu thế giới,
như góp phần bổ sung thêm: CHỮA BỆNH HÈN TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN.
- ĐỀ NGHỊ ĐẶT LẠI TÊN NƯỚC LÀ “VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA” (Nguyễn
Trọng Tạo). Thấy thấp thoáng bóng cái đầu hói của ông Chủ tịch Quốc hội
ở đây, tự nhiên phải đặt dấu hỏi: liệu có phải là một màn vừa xoa dịu
dư luận, vừa đánh lạc hướng, cùng lắm thì dùng nó như một thứ “thỏa
hiệp” nho nhỏ duy nhất với dân khi đã bị đẩy tới chân tường? – Và đây
nữa là những lời dối trá: CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NGUYỄN SINH HÙNG: Không cấm, không chặn các ý kiến khác (PLTP).
Có lẽ các vị khởi xướng bản Kiến nghị 72 cũng nên chuẩn bị cho công
luận cả nước biết ông này đã diễn những màn “vận động vỉa hè” ra sao,
ngoài thông tin mới đây của Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo liên quan cựu bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc.
- “Không tạo kẽ hở khiến quyền con người bị lợi dụng” (GDVN). - Góp ý sửa đổi hiến pháp: Lắng nghe dân cho đến khi Quốc hội giơ tay biểu quyết (TN). - Các quyền tự do ghi trong Hiến pháp sẽ được thực thi (PLTP). - Cần đưa quyền, nghĩa vụ của tuổi trẻ vào Dự thảo Hiến pháp (VOV). – Bài của Nguyễn Viết Thông trên Nhân dân, VOV đăng lại: Tính hợp lý của Ðiều 4 trong Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi).
-
Vì sao phải đi đến tận cùng của sự thật? (Caybay Thiem). – Mời xem lại bài của TS Hà Sỹ Phu: Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân (BVN/ BS).
- Phan Văn Song:
ĐẦU XUÂN BÀN CHUYỆN VIỆT NAM VỚI TUỔI TRẺ – KỲ 2: QUÁ KHỨ ANH HÙNG, TƯƠNG LAI MỜ MỊT (TNM). –
NGHĨ QUẨN … (Võ Trung Hiếu). “
Ở
một đất nước người dân không buồn lên tiếng/ Thậm chí nhiều người không
thèm đọc báo nghe đài/ Không hề là chuyện đùa/ Hẳn phải có lý do…/ Ở
một đất nước mà đi đâu cũng nghe hai từ ‘nhân dân’/ Nhưng Hiến Pháp được
hàng nghìn người yêu cầu viết lại/ Không hề là chuyện đùa/ Hẳn phải có
lý do…/ Ở một đất nước mà nhân tài không buồn cống hiến/ Nhiều cuộc
tuyển chọn kết quả đến từ cửa sau/ Không hề là chuyện đùa/ Hẳn phải có
lý do…”
- Video:
Đại biểu QH không tiếp những người mặc áo đỏ (Quang Huy). –
Sao nỡ quay mặt lại với dân? (Phe áo đỏ). -
Đa sở hữu đất đai: Tại sao không? (Nguyễn Vạn Phú). –
Không được tổ chức cưỡng chế trong đêm (VnMedia). “
Không
tiến hành cưỡng chế thu hồi đất trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ
sáng ngày hôm sau. Không tiến hành cưỡng chế trước và sau Tết Nguyên Đán
15 ngày, trong các ngày nghỉ, ngày lễ khác… là những điểm mới được quy
định trong Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 64…”
- Hoan hô báo QĐND đã “tự diễn biến” khi giới thiệu
Cuốn tiểu thuyết kinh điển của George Orwell đến tay độc giả Việt. – Độc giả Q.M. méc:
bài trên báo QĐND đã biến mất, hiện chỉ còn trên baomoi.com, bà con nhớ lưu lại. – Mời xem lại:
George Orwell – Trại súc vật (Phạm Nguyên Trường). - Hoan hô thêm tạp chí VNQĐ đã vinh danh nhà văn George Orwell:
Ngày George Orwell sẽ được kỷ niệm hàng năm.
- Lê Xuân Khoa:
Việt Nam 1945-1995 – Chương 10: Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia
(BS). Đây là chương cuối của quyển sách. Sau chương này sẽ còn đăng
thêm một số phụ lục, là những thông tin quan trọng, có thể nhiều độc
giả chưa biết, như: “Thư của TT Lyndon B. Johnson gửi Hồ Chí Minh và thư
trả lời của Hồ Chí Minh”; “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất –
XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO”, của LS Nguyễn Mạnh Tường”; 2 tờ chiếu của
vua Bảo Đại; Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, VN… GS Lê Xuân Khoa
đang viết tiếp cuốn 2, hiện GS tuổi đã cao, hy vọng thời gian cho phép,
nếu GS sống hơn 100 tuổi, biết đâu xong cuốn 2 sẽ còn tiếp cuốn 3?
-
Nhà thờ Thái Hà đêm 2-3-2013: Thắp nến cầu nguyện cho anh em luật sư Lê Quốc Quân (Dân Luận). -
Lễ cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân và gia đình (Nguyễn Tường Thụy).
-
Tương đồng và khác biệt giữa dự án bauxite Tây Nguyên và dự án nhà máy điện hạt nhân (BoxitVN). -
Tư liệu liên quan đến bản Kiến nghị 2009 (13). -
Bô–xít Tây Nguyên: Cận cảnh nhà máy Tân Rai (KT).
-
Ai sợ ai? –
Bữa tiệc nào rồi cũng đến lúc tàn! –
Liệu Hội Nghị 6 có lặp lại? (VLB). –
Tướng Hưởng về hưu, có chi mà ồn ào? (Quê Choa). “
Một
lần mình hỏi ông bạn nhà báo rất thân quen ông Hưởng, nói ông Hưởng là
người thế nào? Ông nhà báo này ngẫm nghĩ hồi lâu, nói hồi mới gặp mình
gọi bằng ông, quen rồi mình gọi bằng anh, bây giờ thì ngay cả khi trước
mặt hắn mình cũng gọi bằng thằng”. –
TƯỚNG HƯỞNG VỀ HƯU NHƯNG SẼ KHÔNG CÓ LƯƠNG HƯU ?! (Phạm Viết Đào). Bao năm vơ vét đủ rồi, cần gì lương hưu, mấy đồng bạc lẻ?
-
‘Được’ hay ‘bị’ về hưu? (VNN). -
Tăng tuổi nghỉ hưu: Coi chừng lợi ích nhóm (PLTP).
- “Quái vật” tham nhũng và những nạn nhân:
Kỳ 3: “Tất cả vì tương lai con em chúng ta” (TT). Mời xem lại:
Kỳ 1 –
Kỳ 2.
-
Gia đình Đoàn Văn Vươn được xây nhà ở nhưng không được xây… công trình phụ (PT). Hơn một năm rồi, mà chúng nó vẫn ngâm tôm không đưa ông Vươn ra xử. Ông Thủ tướng bó tay rồi ư?
Chính quyền xã Quang Vinh cho vợ con ông Vươn xây nhà ở nhưng không cho xây công trình phụ =>
-
TS Nguyễn Quang A: Vì sao chính sách tồi? (DV).
-
Xây dựng nông thôn mới phải lấy dân làm gốc (TN).
-
Không chê cười các ông mới lạ! (DT).
-
Cải cách giúp dân (TN).
-
Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực (TTXVN).
-
Hội chứng chửi dân lại ngóc đầu dậy (PLTP).
-
Màu mỡ truyền hình trả tiền (TN).
-
Tiếp tục đề xuất phạt xe không sang tên đổi chủ (TN). -
Nhiều biển báo tốc độ là “bẫy” xử phạt (TT).
-
Rắc rối pháp lý của cô giáo chuyển đổi giới tính (TN). -
Ðồng tính đang là vấn đề đương đại ở Việt Nam? (SKĐS).
-
Bộ GT-VT vẫn muốn phạt xe không chính chủ (VTC). –
Mũ bảo hiểm ‘xịn’, xuống cấp: Cũng bị phạt? (VTC).
-
CÂU CHUYỆN CẢNH SÁT 2 (NP Nepal).
-
HỌ SỐNG BẰNG CÁI ĐẦU NGƯỜI KHÁC ! (Bùi Văn Bồng).
- Bài điểm trong tin trưa hôm qua, nhưng blogger Phước Béo đã viết thêm phần cuối, nên điểm lại:
Dư luận viên, vô dụng và hữu ích (Phước Béo).
-
NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 16) (Nhật Tuấn).
-
Chuyện tào lao: ĐỒ QUẸT KHU! (Faxuca).
-
Bóng ma và hồn ma (Phi Vũ).
-
Dân Hồng Kông phẫn nộ vì thái độ phục tùng Bắc Kinh của Jackie Chan (RFI). -
Phóng viên điều tra Trung Quốc bỏ việc do sức ép (TTXVN). - Trung Quốc:
Quyết tâm đổi mới (TP).
-
Bêu rếu tử tội trên truyền hình : Đại cường Trung Quốc muốn dằn mặt (RFI).
“…
việc người nước ngoài sát hại 13 người Trung Quốc, được đại cường mới
này xem là một sự đối đầu. Bắc Kinh đã cố dùng mọi cách để truy lùng cho
bằng được các thủ phạm, thậm chí còn nghĩ đến phương án sử dụng máy bay
không người lái vũ trang để bắn hạ họ. Cuối cùng thì Trung Quốc cho gởi
một đội biệt kích đến Lào để bắt sống, với sự trợ giúp của chính quyền
địa phương”.
-
Hai miền Triều Tiên đua nhau tập trận (TN). -
Triều Tiên có bao nhiêu vũ khí hạt nhân và tên lửa? (PT).
-
Dự luật in ấn tại Miến Điện bị lên án phản lại quyền tự do báo chí (RFI).
-
Nghị sỹ Nga phải từ nhiệm nếu sở hữu tài sản ở nước ngoài (TP).
KINH TẾ
-
Tản mạn đầu Xuân: Câu chuyện kinh tế Việt Nam – Phần I (Nguyễn Đại Hoàng) (Anh Vũ).
<-
Nợ xấu bỗng nhiên về 6%: Đáng vui hay đáng ngờ? (VEF). -
NHNN triển khai nhiều giải pháp thu hẹp khoảng cách giá vàng (Vietstock). -
Nhiều khách hàng không được thông báo, không biết bị thu phí ATM nội mạng (Vietstock).
- Xung quanh vụ đề xuất đánh thuế thu nhập từ tiền gửi:
3 lý do khẳng định không thể đánh thuế thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm (GDVN). -
Đánh thuế tiết kiệm, phá giá VND: Vội quên lãi suất cao? (VnEco). -
Quốc hội đã từng bác đề xuất đánh thuế tiền lãi tiết kiệm! (PLTP). -
Thu thuế tiền gửi tiết kiệm: Sáng kiến hay Tối kiến? (VOV). -
Rõ là ”lợi bất cập hại”! (HNM).
Một kiến nghị thiếu hiểu biết, vô đạo đức (PLTP). -
Chủ tịch HOREA lớn tiếng kêu đừng gửi tiền ngân hàng nữa (Sống mới).
-
Một kiến nghị tai hại! (TBKTSG).
-
Chênh giá khi chuyển đổi vàng phi SJC vào túi ai? (VnEco). -
Nhà đầu tư bi quan, giá vàng tuần tới khó tăng (DT). -
Thị trường vàng tít mù rồi lại vòng quanh (ANTĐ).
-
Không khéo lại “béo” ngân hàng? (ANTĐ).
-
Cái bắt tay của 3 ‘ông lớn’ độc quyền (Sống mới).
-
Thu nhập đầu người của Việt Nam đạt 10.000 USD trong thập kỷ tới? (DT).
-
Họp khẩn cứu con cá tra (PLTP).
-
Những thương hiệu Việt bị đánh cắp (VEF).
-
Sống chết mặc bay… (PT).
-
Du lịch ế ẩm (TN).
- Xung quanh vụ việc “sữa dê Danlait” của Pháp:
Lỗi cũng tại các bà mẹ (PT).
-
Hàng Trung Quốc bủa vây người tiêu dùng (TN).
-
Giá tiêu dùng ở Nhật tiếp tục sụt giảm (BBC). -
Mỹ – Nhật: Kỳ vọng và thất vọng (VNE).
-
Tư pháp Mỹ hủy bỏ gần một nửa số tiền phạt mà Samsung phải đền cho Apple (RFI).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Trần Quốc Vượng:
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM (Việt sử ký).
-
Tây Sơn thất hổ tướng – Kỳ 7: Vì dân, vì nước đâu phải vì ngôi báu (TN).
-
Phục hồi di tích Đông Khuyết đài tại Hoàng thành Huế (TN).
-
Về Quảng Nam xem Lễ hội Bà Thu Bồn (PT). -
Có những lễ hội… (PLTP). -
Rộn ràng khai hội Đền Vạn (DT). =>
- Du Tử Lê:
Tuấn Huy, nhà văn nhìn từ phía định mệnh (Người Việt).
-
Cuộc đối thoại của hai cá tính (TP).
-
Không chỉ là hoài niệm (TN).
- Sân khấu hài kịch phía Bắc:
Chờ những nụ cười thâm thuý, tự nhiên (SGTT).
-
Phim Việt 2013 – Cạnh tranh khốc liệt (SGGP). -
Khói lửa phim trường (PLTP). -
Bậc thầy khói lửa Hollywood (PLTP).
-
“Ông bụt” họa sĩ (PLTP).
-
HOÀNG YÊN LƯU: THẾ LỮ (Sơn Trung).
-
Bãi biển quê hương tôi (Người Việt).
-
PHAN: CHIẾC ĐỒNG HỒ BẠC (Sơn Trung).
-
Văn học miền Nam: Văn xuôi Thanh Tâm Tuyền (Nhị Linh).
-
Chè chén vỉa hè (SGGP).
-
TỊNH LẶNG “StillnessSpeaks” – Chương Một – Trần Sơn lược dịch (NQ&TD).
-
Thần nhãn (ĐCV).
-
Mùa ốc gạo (Hồ Trung Tú).
-
Christophe, Thiên đường tìm lại nhân 50 năm sự nghiệp (RFI).
-
Triển lãm phong lan thế giới ở New York (BBC).
-
Giải Ảnh Vườn Quốc tế năm 2013 (BBC).
-
Bầu Đức, bầu Thắng còn gồng được bao lâu? (PLTP).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
-
Nhiều quan điểm khác nhau trong xây dựng điểm sàn mới –
Cùng giải “Bài toán điểm sàn” –
Chỉ nên có một điểm sàn –
Trường thuộc “tốp trên” nên lấy điểm cao hơn –
Phổ điểm từng môn thi là căn cứ quan trọng xác định điểm sàn (GD&TĐ).
-
Nghĩa vụ quân sự: Phải công bằng! (NLĐ).
-
‘Bẻ cong’ NĐ Chính phủ: Quan chức Sở ‘đi vắng, có việc gấp’ (GDVN).
<- Thầy Cao Huy Thảo – Hiệu trưởng trường THPT Quốc tế Việt – Úc:
“Lợi bất cập hại” khi đầu tư không mục đích rõ ràng! (LĐ).
-
GS Chu Hảo:Sẽ cho ra lò những “thợ” văn nghệ vô cảm? (ĐV). Cái tựa không ổn!
-
Người “trồng hoa” trên đỉnh Phá Đánh (SGTT).
-
Cậu học trò không ngón tay (TT).
-
Choáng với lời chửi bố tục tĩu của nữ sinh (VNN).
-
Ba bước để viết một bài luận (NLĐ).
-
Hiệu quả của sản phẩm khoa học là cốt lõi (TVN).
-
Người Việt nhận giải thưởng khoa học cao quý nhất của Đức (VnMedia). –
PGS Viện Quân y 108 nhận giải thưởng khoa học cao quý nhất của Đức (GDVN).
- Thừa Thiên Huế:
Tổ chức thành công cuộc thi KHKT dành cho HS (GD&TĐ).
-
Trục trặc kỹ thuật gây trì hoãn cho phi thuyền Dragon (VOA).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
-
Tỷ lệ trẻ Việt Nam thiếu vitamin cao nhất khu vực (Sống mới).
-
Vụ vớt được gỗ huê dưới sông Son: Đã bán trót lọt ? (TN).
-
Đề nghị ngưng thu mua ồ ạt lá cây giá tỵ (TN).
-
Trà chanh “chém gió” pha hóa chất vẫn đắt khách (KT/ VEF). =>
-
Cây cầu của ông Dũng (TT).
-
Coi bói bỏ việc, bỏ người yêu (TT).
-
Hà Nội: Xông vào nhà cướp iPhone, iPad trên tay cháu bé (VNE/GDVN).
-
Mại dâm nơi đất khách: Những mảnh đời trôi nổi (ANTG).
-
Bé gái 8 tuổi lái ô tô trên đường tuyết (BBC).
-
Tai nạn Fukushima làm tăng nguy cơ ung thư (RFI).
QUỐC TẾ
-
Giao tranh ác liệt tại Syria, nhiều binh sĩ và quân nổi dậy thiệt mạng (VOA). –
Ngoại trưởng Syria tố cáo Mỹ áp dụng tiêu chuẩn đôi (VOA). -
Ngoại trưởng Syria đến Iran (TN). -
Các binh sĩ bị thương của Syria được điều trị ở Iraq (TTXVN).
-
Thủ tướng Israel có thêm 14 ngày để thành lập chính phủ (VOV).
-
NATO xin lỗi vụ không kích tại Afghanistan (VOV).
-
Lợi ích nào, đối tác nấy (TN).
<-
Ai Cập: Biểu tình bạo lực lan rộng ra các thành phố (DV).
-
Cảnh sát Nam Phi bạo hành dân sự (BBC).
-
Pháp thận trọng về thông tin thủ lãnh Al Qaeda chết tại Mali (RFI). –
Lực lượng Chad hạ sát chỉ huy hàng đầu của al-Qaida (VOA).
-
Obama chuẩn y kế hoạch giảm ngân sách (BBC). –
TT Obama ký lệnh cắt giảm chi tiêu 85 tỉ đô la (VOA). –
Obama thúc giục Quốc hội thỏa hiệp vào lúc lệnh cắt giảm ngân sách có hiệu lực (RFI). -
Tổng thống Mỹ hối thúc Quốc hội thỏa hiệp (VOV). -
Obama ký sắc lệnh cắt giảm ngân sách (TN).
-
Ông Chavez ‘hô hấp bằng thiết bị hỗ trợ’ (BBC). –
TT Chavez được điều trị bằng liệu pháp hóa trị (VOA). -
Nhiều đồn đoán trái ngược về ông Chavez (TP). -
Venezuela cáo buộc Mỹ tài trợ cho các nhóm đối lập (TTXVN).
-
Tại các khu ổ chuột Kenya, thuốc chữa bệnh AIDS được mang bán để mua thức ăn (VOA).
-
Cảnh sát Thụy Điển vẫn cố giải quyết vụ sát hại Olof Palme cách đây 27 năm (RFI).
-
Biểu tình ở Matxcơva đòi cấm người ngoại quốc nhận con nuôi Nga (RFI).
-
Malaysia: 14 người chết sau vụ tấn công vào nhóm vũ trang Philippines (RFI).
-
Nổ bom ở miền nam Thái Lan giết chết hai binh sĩ chính phủ (VOA).
-
Malaysia sẽ không thỏa hiệp với nhóm vũ trang Philippines (VTV).
-
Cựu TT Musharraf định về Pakistan trong vài tuần nữa (VOA).
* VTV1: + Chào buổi sáng – 02/03/2013; +
Tạp chí kinh tế cuối tuần – 02/03/2013; +
Tài chính tiêu dùng – 02/03/2013; +
Việt Nam – Đất nước – Con người : Trà Quế vào xuân; +
Câu chuyện văn hóa – 02/03/2013; +
Nhịp đập 360 độ thể thao – 02/03/2013; +
Thể thao 24/7 – 02/03/2013; +
Trang địa phương – 02/03/2013; +
Sự kiện và bình luận – 02/03/2013; +
Nông thôn mới – 02/03/2013; +
Chiếc nón kì diệu – 02/03/2013; +
Khoảnh khắc cuối tuần – 02/03/2013; +
Cuộc sống thường ngày – 02/03/2013; +
Thời tiết du lịch – 02/03/2013; +
Thời sự 12h – 02/03/2013.
Danlambao 3/3/2013
Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao)
– Khi nhắc đến “Ngày D” (D-Day) mọi người trên thế giới đều liên tưởng
đến ngày đổ bộ vào vùng bờ biển Normandy Pháp của lực lượng đồng minh
Hoa Kỳ, Anh, Úc và một số quốc gia, trước giải phóng nước Pháp sau các
nước Âu Châu, cuối cùng tiêu diệt phát xít Đức và kết thúc cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ hai.
Lúc 16 giờ 30 chiều nay, 2/3/2013, sau khi tham dự tiệc mừng sinh
nhật của blogger Hoàng Vi tại số 558 Bình Quới (P28, Q. Bình Thạnh), anh
Lê Hoàng Tân khi ra về thì bất ngờ bị hai tên an ninh chìm lao vào hành
hung và đập nát máy ảnh.
Mai Thái Lĩnh (Procontra)
– Hạ tuần tháng 1 năm 2013, trước Tết Nguyên đán, đã xảy ra một sự kiện
gây chấn động dư luận. Đó là việc 72 vị nhân sĩ, trí thức đã cùng nhau
ký một bản kiến nghị có tên là
“Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” (đề ngày 19-1-2013)
[1].
Điều đáng chú ý là trong danh sách những người khởi xướng, có ít nhất
một nửa là đảng viên cộng sản, trong đó có những người đã từng giữ chức
vụ cao hoặc đã từng làm cố vấn cho các nhà lãnh đạo cao cấp trong hệ
thống chính trị hiện hành. Lướt qua nội dung của kiến nghị cũng như bản
dự thảo Hiến pháp đính kèm (được coi như một tài liệu để tham khảo và
thảo luận), chúng ta dễ dàng nhận thấy những người ký kiến nghị đã bày
tỏ một quan điểm về hiến pháp chẳng những vượt ra khỏi khuôn khổ của
hiến pháp hiện hành (tức Hiến pháp 1992 – bản sửa đổi năm 2001) mà còn
vượt xa bản hiến pháp đầu tiên do đảng Cộng sản soạn thảo dưới danh
nghĩa của tổ chức Việt Minh (tức Hiến pháp 1946).
Hà Nội (NV)
– Chỉ trong vòng 24 giờ, đã có hơn 1,400 người (tính đến chiều 1 tháng
3, giờ California) khắp nơi và gồm đủ mọi thành phần xã hội xưng là
“công dân tự do” ký tên đòi hỏi đảng CSVN trả lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân bằng cách tổ chức tuyển cử lập hiến.
Con số này dự đoán sẽ tăng lên nhanh chóng chứng tỏ phong trào quần
chúng đòi xóa bỏ chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng bè phái
tại Việt Nam đang tiến lên những cao điểm áp lực mới.
Thánh lễ cầu nguyện cho luật sư Lê Quốc Quân – Nguồn Video: Facebook – Lê Quốc Quyết
Nguyễn Tường Thụy - Tối nay 2/3/2013, hàng ngàn tín đồ công giáo, các bạn bè của
Luật sư Lê Quốc Quân đã đổ về
nhà thờ Thái Hà để tham gia Lễ cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân, doanh nhân Lê Đình Quản và gia đình Lê Quốc Quân.
Ngụy biện là lối lý luận phổ biến trong thế giới cộng sản, bởi lẽ đối
tượng được nghe những lập luận này thường là giới bình dân dể bị đánh
lừa; đó là những lập luận được sử dụng đi trước mũi súng và nhà tù nên
chẳng ai có thể phổ biến những phản biện được.
Nhã Trần (Danlambao)
– Lúc các ông bày cái trò “trăm hoa đua nở” trong việc khuyến khích
nhân dân góp ý sửa hiến pháp, và mạnh miệng tuyên bố “không có vùng
cấm”, là lúc các ông vẫn còn an nhiên tự tại ngẫm rằng cái đám dân ngu
khu đen lo kiếm miếng ăn khổ khó trăm bề, đầu óc cạn cợt có đâu rỗi việc
mà nghiên cứu với góp ý; thêm nữa mấy triệu đảng viên trong đó nhiều vị
trông chừng cái sổ hưu để an thân thì bỏ đảng có mà chết à! Từ tư duy
hủ bại này các ông “tọa sơn” nhìn thần dân gieo hạt giồng hoa kiểu gì?
Và yên tâm, ta vẫn còn đấy những hạt giống đỏ phó giáo sư tiến sỹ chuyên
về lý luận, trang bị Mác Lê đầy mình sẵn sàng bóp chết những hạt giống…
đen!
Lạc Hồng Quốc (Danlambao) - Từ
ngày có thông báo về việc kêu gọi tham gia ‘Góp ý dự thảo sửa đổi hiến
pháp năm 1992′, với đặc thù công việc nên tôi có điều kiện tiếp xúc
thường xuyên với thanh niên, những người được sinh ra sau ngày đất nước
thống nhất.
Le Nguyen (Danlambao) -
…Hiện tượng Nguyễn Đắc Kiên chỉ ra cho đảng cộng sản Việt Nam thấy
rằng, đã qua rồi cái thời vì nhiều lý do thế hệ Hồ Chí Minh, thế hệ biết
đảng nói láo, cam chịu nghe đảng nói láo, làm theo lời đảng nói láo
“đảng lãnh đạo là sự lựa chọn của lịch sử được nhân dân thừa nhận”.
Chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra nghèo đói lạc hậu chậm
tiến, kiềm hãm bước phát triển văn minh tiến bộ của dân tộc…
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=S1-yxq2w9AM
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=1LyQgUlbDNY&list=PL17A8654170DE045A
Chính trị – Xã hội
Trung Quốc xua hải tuần ra biển Đông, hợp tác với Indonesia - (Phunutoday) —-
Hải tuần Trung Quốc đang kéo xuống Trường Sa, Việt Nam - Phunutoday.vn —-
Tàu Trung Quốc gia tăng hoạt động tại Biển Đông (RFI)
Đài Loan ‘nối gót’ Trung Quốc, tập trận bắn đạn thật ở Trường Sa (Infonet) —-
Mưu đồ Trung Quốc in đậm trên đồ dân dụng (ĐV) —
Báo Trung Quốc: Không nên dọa dẫm láng giềng (VnMedia)
Đảng yếu nên sợ hãi đa nguyên đa đảng? (RFA) –
Hàng ngàn ‘công dân tự do’ đòi tuyển cử lập hiến ở Việt Nam (Nguoiviet)
Bốn không hay không Bốn? (Ngô nhân Dụng – Nguoiviet) -Ngày
hôm qua, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam chính thức góp ý kiến vào việc sửa
đổi Hiến Pháp, và không ngần ngại nêu ý kiến phải bãi bỏ độc quyền cai
trị của đảng Cộng sản.
SV Sài Gòn và Điều 4 Hiến Pháp (VB) —
Hiếu Dân: Tâm thư gửi bác Nguyễn Phú Trọng (viet-studies 2-3-13)
Báo chí phản biện chính sách như “đi trên dây”? (Trung Đức -SGTT) —
Tập trung “hiến kế” cho việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Infonet)
Nhận định của TS Nguyễn Thanh Giang qua lời phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng về kiến nghị sửa đổi hiến pháp. (RCTM)
Bà Nguyễn Thị Thúy và gia đình, những dân oan đang sống lây lất tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng lên tiếng (RCTM)
San Jose dựng bảng Little Saigon (NV)====>>>
SAN JOSE CÓ BẢNG TÊN LITTLE SAIGON (Nuoiviet/xem ảnh)
TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt đề án tái cấu trúc Vinalines (RFA) —–
Nguồn cung nhân lực CNTT đang khan hiếm - Sohoa.net
Pháp luật & Xã hội -
Nhiều khu “đất vàng”, biến thành bãi trông xe, sân bóng đá trái phép
Ông đồng, bà cốt chạy đua với chùa quốc doanh (NV) —-
Cần Thơ: Nổ Lớn, Có Thể Để Có Cớ Xiết Góp Ý Hiến Pháp? (VB) –
Hà Nội xử lý cán bộ đi ăn uống với chủ đầu tư vi phạm (Infonet) —-
HĐND TP.HCM sẽ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm(Infonet) —-Tàu chữa cháy gần 50 tỷ đầu tiên tại TP.HCM(Infonet)
Khởi công xây dựng Trung tâm an điều dưỡng lực lượng tàu ngầm (Infonet)
Từ ngày 15/4, đội mũ bảo hiểm giả sẽ bị phạt (Infonet) —
“Chưa có cơ sở pháp lý phạt người đội mũ bảo hiểm giả” (Dantri)
Bé 1 tháng tuổi đa dị tật bị bố mẹ bỏ rơi tại bệnh viện (Dân
trí) – Vừa lọt lòng mẹ, bé đã mang trên mình đa dị tật bẩm sinh, chân
tay co quắp, phủ tạng đảo ngược. Trong chiếc lồng kính, bé thở từng hơi
yếu ớt rồi đưa ánh mắt dò tìm mẹ, nhưng đau đớn thay, bé đã bị bố mẹ bỏ
mặc ra đi…
Chính phủ: Người dân thận trọng với tin đồn và cả phân tích của cá nhân về kinh tế (Dân trí) —
Một thượng tướng và hàng loạt Thứ trưởng nghỉ hưu (DV)
BS Nguyễn Đan Quế: ĐÃ ĐẾN LÚC HUỶ BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP (Quỳnh Trâm)
HỌ SỐNG BẰNG CÁI ĐẦU NGƯỜI KHÁC ! (Bùi Văn Bồng)
80 Năm, Lần Cuối - Giao chỉ, San Jose (Vietbao)
Có Vàng Còn Phải Có Tâm - Nguyễn Xuân Nghĩa (Vietbao)
“Đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng” (Gocomay)
BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN GIỚI THIỆU TIỂU THUYẾT ” CHUYỆN Ở NÔNG TRẠI ” CỦA ORWELL ? (Phamvietdao) -Lời
bàn của Phúc Lộc Thọ: Khi viết cuốn tiểu thuyết này phải chăng Orwell
muốn ám chỉ những cuộc cách mạng do “giai cấp vô sản” lãnh đạo ?====>>>
Tựa sách dịch mà cũng “né”-Mời xem Tác phẩm có chép trên thanh ngang ở đầu trang chủ “TRẠI SÚC VẬT”
TƯỚNG HƯỞNG VỀ HƯU NHƯNG SẼ KHÔNG CÓ LƯƠNG HƯU ?! (PVD)
NẾU ĐẢNG ĐƯA ĐƯỢC VIỆT NAM LÊN THÀNH “CON RỒNG” CHÂU Á THÌ CHẲNG AI LẠI ĐÒI HỦY ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP ! – Hoàng Đạo Sử.- (PVD)
Nhà nước Việt Nam “bị hố” khi kêu gọi người dân đóng góp ý kiến sửa đổi hiến pháp -DCVOnline – Tin AP
Sáng tạo chính là Đối kháng -Lê Văn – DCVOnline – Ở tuổi 93, ông Stéphane Hessel trở thành thần tượng của những phong trào đối kháng trên toàn thế giới.
Kinh tế
Thanh Niên -
Du lịch ế ẩm —-Hai luật về kinh doanh bất động sản sẽ được sửa đổi -Vietnam Plus
Nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam giảm ‘bất thường’ (NV) —
Cam Bốt: Xuất Cảng Gạo Tăng 165% (VB)
10 Sếp Mất 43 Triệu Đô/Tháng, Điạ ốc VN Còn Suy 6 Năm Nữa; GFMS Dự Báo: Nhu Cầu Đầu Tư Vàng Ở Việt Nam Sẽ Giảm 25% (VB)
Thép VN Tiêu Thụ Giảm 40%, Nhiều Xưởng Thép Đóng Cửa; Trong 2 tháng đầu năm 2013: tới 8.600 doanh nghiệp VN Sập Tiệm (VB)
VN Bế Tắc:
Tồn Kho Tăng 20%, Nhiều Ngân Hàng Lỗ Vì Vàng; SBS lỗ 84,4 triệu đôla,
Sacombank bị đẩy khỏi thị trường chứng khoán vì âm vốn 12 triệu đô; ngân
hàng ACB lỗ 86 triệu đô… (VB)
Đánh thuế tiền tiết kiệm: “Gậy ông đập lưng ông” (Infonet) —
Đánh thuế tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu để cứu bất động sản? (Dantri)
Thế giới
Mỹ-Nhật: củng cố liên minh, đối đầu Trung Quốc-Bắc Hàn (RFA) – —
TQ bác bỏ cáo buộc du khách Hoa Lục tràn ngập Hong Kong(RFA) -
Cựu CT ngân hàng Nga được tỵ nạn tại Anh(RFA) -
Đụng độ phía bắc Syria khiến hàng chục người thiệt mạng(RFA) - –Giao tranh ác liệt tại Syria, nhiều binh sĩ và quân nổi dậy thiệt mạng (VOA)
TT Sri Lanka phủ nhận quân đội giết con của thủ lĩnh phe Hổ Tamil(RFA) – —Cảnh sát Bangladesh bắn chết 3 người biểu tình(RFA) -
Kenya: thuốc chữa bệnh AIDS được mang bán để mua thức ăn (VOA) —
Ấn Độ phấn đấu để vẫn là quốc gia không có bệnh bại liệt (VOA)
Iran khẳng định sự ủng hộ Tổng thống Syria Assad (TTXVN) —
Giá tiêu dùng ở Nhật tiếp tục sụt giảm (BBC)
Văn hóa – Giáo dục – Khoa học
Khám phá vành đai phóng xạ thứ ba quanh Trái Ðất (NV)
Làm thế nào để học sinh hào hứng học? (Dantri) -Trước
tình hình nhiều học sinh không say học, nhiều thầy cô không đổi mới
cách dạy, đã có các thầy cô giáo trăn trở về khơi dòng nhiệt huyết của
người thầy để giờ học có sinh khí.
“Học sinh bây giờ khổ cực quá” (Dantri) —Đề xuất nâng mức vay tín dụng cho học sinh, sinh viên(Dantri)
ĐH Đồng Tháp tuyển 3.500 chỉ tiêu năm 2013(Dantri) — Hai học sinh Việt Nam được vinh danh tại Australia (Dantri) -Hai
em Bùi Trung Hiếu và Trần Đặng Đình Áng đã vinh dự được nhận bằng khen
từ Toàn quyền bang New South Wales (Australia) cùng phần thưởng trị giá
1.000 AUD/em cho những thành tích nổi trội.
Ngắm người đẹp khoe bầu “ngực mướp” nặng trĩu -Ngoisao.vn====>>>
<<<===”Nàng thơ” của Thành Long bốc lửa, siêu “nóng” (DV)
Phản cảm cảnh ký vào… vòng ba của sao nữ Nhật - Dân Việt
Khampha.vn -
Nhảy lầu tự tử, nữ sinh viên chết tại chỗ
Thanh Niên -
Hàng Trung Quốc bủa vây người tiêu dùng
Thanh Niên -
Tiếp tục đề xuất phạt xe không sang tên đổi chủ
Khách bị ‘chặt, chém,’ 3 lẩu cá lóc giá 130 đôla (NV)
<<<===10 mỹ nữ Hàn sở hữu vòng một quyến rũ(VnEx)
Người đẹp
Thành thật với tình yêu Kim Hye Soo nổi tiếng là
nghệ sĩ thông minh, đa tài. Hye Soo nhiều lần được bình chọn là một
trong những người phụ nữ gợi cảm nhất xứ kim chi.
Bắt giữ ba xe khách chở lậu hơn 6.000 con gia cầm (VN+)
Quảng Ngãi: Dân đổ xô đi tìm, đào gốc cây xá xị (VN+)
Giải cứu năm thiếu nữ bị lừa bán sang Trung Quốc(VN+) –
Truy sát trong đêm ở ‘phố Tây’ Sài Gòn (VnEx) —-Truy sát kinh hoàng tại ‘phố Tây’ Sài Gòn (Infonet)
Góc khuất chuyện người đẹp Việt lấy chồng Tây (Dân trí)
TP.HCM: Công an nổ súng truy bắt kẻ trộm táo tợn (DV) —
Lời kể của bé trai về vụ xộc vào nhà cướp iPhone và Ipad (DV)
Cận cảnh đại lộ hiện đại nhất Việt Nam nứt lún, nham nhở ổ trâu, ổ gà(DV)
Nạn nhân chết, sau 3 tháng, công an chưa tìm được thủ phạm(DV)
Ý kiến cá nhân về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (Điều 4)
Tâm tư của người thanh niên sinh ra trong thời bình mong muốn đất nước đổi mới hơn nữa
Hoàng Văn Vương
02-03-2013
Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ
gian khổ chống Pháp, Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của ĐCS vì lý tưởng không có
gì quý hơn độc lập, tự do, hạnh phúc. Bao lớp thanh niên xung phong lên
đường ra chiến trận với mong muốn vì đất nược được hòa bình, tự do,
thống nhất. Đó là lòng yêu nước chân chính và tính tự tôn Dân tộc cao
cả. Họ hi sinh vì thế hệ mai sau, vì thế hệ của chúng tôi có được
như ngày hôm nay.
Sau năm 1975, đất nước được hòa bình
thống nhất. Nhân dân hoan hỉ vui mừng cho ngày hội lớn của cả một
Dân tộc. Một chặng đường lịch sử mới mở ra, cùng với những thách thức
không nhỏ trong tình hình mới đối với ĐCS trên cương vị lãnh đạo đất
nước xuyên suốt trong thời chiến cũng như trong thời bình. Khẳng định
rằng, vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với Nhân dân, với Dân tộc, Tổ quốc
là không nhỏ.
Tuy nhiên, trong qua trình lãnh đạo của
ĐCS, ngoài những thành công to lớn ấy, bên cạnh có những sai lầm cần
có cách nhìn nhận đúng đắn kịp thời sửa sai như các vị tiền bối đã làm.
Và trong bối cảnh hiện tại, việc sửa đổi Hiến pháp trở nên cấp bách và
cần thiết. Cũng như hiểu cho đúng về một bản Hiến pháp cho một quốc
gia, một Dân tộc cần tách bạch rõ ràng với vai trò lãnh đạo của ĐCS
như điều 4 Hiến pháp đã nêu.
Qua nhiều kênh thông tin về góp ý sửa
đổi Hiến pháp năm 1992, quả thực lời đầu tiên tôi thấy rất buồn và thất
vọng. Bởi vì bản Hiến pháp có vai trò quan trọng của cả một Dân tộc,
của một quốc gia. Đó là bản kế ước mà người dân trao quyền cho bất kỳ tổ
chức nào lãnh đạo đất nước, thì cần có thời gian nghiên cứu kỹ và sửa
đổi trong tình hình đất nước như hiện nay. Hiện trạng đó là như thế nào
chắc mọi người ai cũng có thể nắm rõ và hiểu thông qua thông tin
đại chúng mà Đảng và chính quyền đưa tin.
Về lĩnh vực kinh tế, rõ ràng là việc
lấy tổng công ty, công ty, doanh nghiệp quốc doanh làm vai trò chủ
đạo có những sai lầm chết người trong thực thi chính sách dẫn đến
những sai phạm nghiêm trọng mà khó truy cứu trách nhiệm cá nhân. Thể
hiện ở chỗ tham nhũng tràn lan, mà ngành nào, lĩnh vực nào cũng có đã
phá hoại nghiêm trọng đến tổng thể của một nền kinh tế – chính trị – xã
hội. Dẫn đến lòng dân ly tán, niềm tin không còn thì cực kỳ nguy hiểm.
Mà nhớ lại thời cha ông ta ngày xưa, như lời Nguyễn Trãi đã nêu trong
“Bình Ngô đại cao”: “Việc đại nghĩa cốt ở yên dân…”. Mà nhìn lại thực
trạng của đất nước, kinh tế thì khủng hoảng, dân oan mất đất khắp,
bao nhiêu khiếu kiện chưa giải quyết dứt điểm và thỏa đáng. Rồi bao
nhiêu cảnh đàn áp người biểu tình vì mất đất, vì lý tưởng yêu nước chân
chính, vì toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam mà trong lòng đau đáu
mong muốn sự đổi mới để yên dân, để dân còn tin vào lý tưởng mà ĐCS đã
nêu trong suốt hai cuộc kháng chiến ấy.
Vì thực tế cho thấy rằng, tất cả lâm vào
sự khủng hoảng toàn diện: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, giáo dục,
y tế,… Nó thể hiện nền tảng đạo đức trong xã hội bị băng hoại: cướp
giận, giết, hiếp, gian lận, tham nhũng, tham ô mà báo chí đưa tin; sự
vô cảm của người dân đến đến khiếp sợ thì sự lâm nguy hiện hữu trước
mắt như nghị quyết TƯ 4 và hội nghị TƯ 6 mà ĐCS đã nêu.
Qua đó, nhìn nhận một cách tổng thể từ
trong quá khứ đến hiện tại. Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo to lớn
của Đảng, nhưng bên cạnh đó ĐCS cho thấy những sai lầm đã được khắc
phục. Cụ thể là: Cải cách ruộng đất năm 1946 mà Hồ Chủ Tịch đã phải
khóc xin lỗi đồng bào mà có những chính sách thay đổi. Rồi trong phong
trào Nhân văn – giai phẩmn năm 1955. Thời kỳ bao cấp, đánh kinh tế tư
nhân, tiểu sư sản. Mà bắt buộc chúng ta phải đổi mới hội nhập để có
được thành quả nhất định.
Hội nghị TƯ 6 khóa XI vừa qua, TBT
Nguyễn Phú Trong trong lời tổng kết hội nghị đã phải xin lỗi trước đồng
bào về sự yếu kém trong vấn đề quản lý kinh tế, làm thất thoát rất
nhiều tiền của nhà nước, của nhân nhân. Thì rõ ràng những sai lầm đó đã
được thấy rõ. Quan trọng là sớm thấy và khắc phục kịp thời để tránh
đau thương cho Dân tộc như đã từng xảy ra, mà kéo lùi sự phát triển của
xã hội, của đất nước Việt Nam, làm cho đất nước không hội nhập kịp
thời với thế giới.
Việc lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp lần
này thực sự bức bách và cần thiết. Xác định lại cho đúng vai trò của
Hiến pháp của một quốc gia, một Dân tộc; và vai trò của ĐCS lãnh đạo
đất nước ấy. Tuy nhiên thời gian lấy ý kiến sửa đổi mà ban dự thảo sửa
đổi Hiến pháp đưa ra thì cực ngắn vào đúng dịp gần Tết. Tôi cho đó là
mục đích của Đảng và chính quyền muốn vậy, chứ thực chất có muốn người
dân tham gia sửa đổi hay không? Cụ thể trong lời phát biểu của TBT
Nguyễn Phú Trọng như đã đưa tin:
“Vừa rồi đã có các luồng ý kiến, cũng
có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền
phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có
những quan điểm đấy, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thế
là suy thoái chứ còn gì nữa. Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập
thể, thì nó là cái gì? Nên phải quan tâm xử lý những điều đó.”
Quả thực tôi không hiểu, suy thoái đạo
đực, suy thoái lối sống, suy thoải tư tưởng, suy thoái chính trị là như
thế nào? Đành rằng đã là góp ý kiến sửa đổi thì dù muốn hay không muốn
có những ý kiến trái chiều, đồng ý có, không đồng ý có, muốn và không
muốn vai trò lãnh đạo của ĐCS. Nhưng ở đây, chúng ta phải hiểu là bản
Hiến pháp cho một Dân tộc, Tổ quốc và Nhân dân chứ đâu phải cho
bất kỳ tổ chức Đảng phái nào. Hai cái này phải tách biệt không thể xen
lẫn mà có cách nhìn không đúng. Nên tôi cho rằng TBT có ý kiến phát
biểu như thế chỉ có thể chấp nhận trên phương diện cá nhân của TBT
nhưng trên cương vị là một TBT thì cần phải xem xét lại. Chắc chắn
rằng, điều đó gây ảnh hưởng xấu sâu rộng trong xã hội. Cha ông thường
nói rằng: thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng. Phải biết chấp nhận,
biết sửa đổi như Đảng đã sửa đổi, đã phải đổi mới mà lòng tin của Nhân
dân đối với Đảng cho đến ngày hôm nay.
Và hiển nhiên trong quy luật vạn vật, và
lịch sử đã minh chứng không một thực thể nào, tổ chức nào có thể tồn
tại một cách vĩnh cửu. Chỉ có Dân tộc, Tổ quốc, Nhân dân mới trường tồn.
Từ ý niệm đó đã hình thành nên chủ nghĩa Dân tộc, chủ nghĩa yêu nước
chân chính với mong muống tự do, dân chủ và hạnh phúc vì quyền công dân,
vì người cày có ruộng như trước đây lý tưởng ấy được Đảng reo vào lòng
dân mà Nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành lấy quyền, giành độc lập
non sông thống nhất đất nước. Lòng tin lúc đó đối với Đảng là đỉnh điểm
đem lại thắng lợi to lớn trong hai cuốc chiến tranh trường kỳ gian khổ
đó. Thì không cớ gì cái quyền ấy không được duy trì và là cơ sở căn bản
để xây dựng Hiến pháp cho một Dân tộc, một quốc gia.
Có thể thấy lời mở đầu của một Hiến pháp
bắt nguồn cho nội dung câu chữ bao hàm bên trong nó, thể hiện cho bản
Hiến pháp đó có thời gian sống và đáp ứng ý nguyện lòng dân hay không.
Lời mở đầu Hiến pháp 1787 của Hoa Kỳ có ghi: “Chúng
tôi, Nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với mục đích xây dựng một liên
bang hoàn hảo hơn nữa, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước,
tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong toàn khối, giữ
vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định xây dựng
Hiến pháp này cho Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ”.
Cho thấy ẩn ý sâu xa trong câu chữ, nó
thể hiện tuổi thọ lâu dài của một bản Hiến pháp phù hợp với ý nguyện
lòng dân. Lấy Nhân dân là chủ thể, lấy thượng tôn pháp luật xây dựng
đất nước thịnh vượng. Cho nên dù bất kỳ tổ chức đảng phái nào tồn tại
hoạt động đều phải tôn trọng các quy định, luật định ấy. Vì vậy, việc
xóa bỏ điều 4 Hiến pháp là điều tất yếu, vì đảng cũng là tổ chức, là
những người do dân bầu ra hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật.
Việc đề cao ĐCS trước Nhân dân, Dân tộc,
Tổ quốc, việc quy cho bỏ điều 4 Hiến pháp là bỏ vai trò lãnh đạo của
ĐCS là luận điệu không thể chấp nhận được. Nó ngược với tiến bộ của lịch
sử hiện đại của loài người, cho thấy một bản Hiến pháp không có tuổi
thọ vững bền. Ai có thể chắc chắn rằng, sau 10 năm thậm chí 100 năm,
1000 năm hay lâu hơn nữa ĐCS sẽ còn tồn tại đến lúc đó. Chỉ có Nhân
dân, Tổ quốc, Dân tộc mới tồn tại mãi. Có Nhân dân mới có ĐCS, ĐCS
cũng từ những người dân ưu tú được Nhân dân bầu ra lãnh đạo đất nước,
ủy quyền điều hành trên mọi phương diện từ đối nội, đối ngoại.
Và tôi cho rằng, ngay lúc này đây, việc
sửa đổi Hiến pháp 1992, là cơ hội để cho Đảng lấy lại niềm tin trong
Nhân dân như những năm thập niên 1986s mà Đảng đã làm là phải đổi mới.
Hãy tách bạch nội dung của Hiến pháp với vai trò của ĐCS để có cách
nhìn nhận sáng suốt cho ra bản Hiến pháp có tuổi thọ lâu dài, hợp với
đa số con dân Việt Nam trong và ngoài nước. Cũng là cơ hội để hòa giải
Dân tộc mà bấy lâu nay chưa làm được. Lòng dân ly tán là điều khủng
khiếp nhất hơn cả chiến tranh, đổ máu đối với một Tổ quốc.
Vì vậy, không để điều 4 trong Hiến pháp
là tất yếu, điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS
hiện tại mà còn thể hiện cái nhìn xa trông rộng của nhiều nhà tri thức
và các tầng lớp Nhân dân, các Đảng viên lão thành muốn xây dựng một bản
Hiến pháp lâu dài bền vững cho Dân tộc Việt Nam.
Hàn Quốc, ngày 02 tháng 03 năm 2013
Hoàng Văn Vương
1644. Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân
Bauxite Việt Nam
Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân
Hà Sĩ Phu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sáng 19-2-2013 đọc báo mạng thấy trang Anhbasam có điểm hai bài tương phản: “Tiêu Dao Bảo Cự: Từ Ngô Kha, soi rọi và giải mã một thế hệ dấn thân (Diễn Đàn); Blogger Caubay Thiem có bài phản biện lại bài này bên Facebook”.
Mặc dù tôi mới ở bệnh viện về, tình
trạng mắt được bác sĩ yêu cầu hết sức hạn chế đọc và viết, tôi vẫn phải
“đánh liều” viết đôi điều ngắn gọn về chuyện “xung đột” âm ỉ từ lâu này
(nếu có thể gọi như thế), giữa những người đáng kính, vì mấy lẽ sau
đây:
- Thế hệ dấn thân theo con đường cộng
sản như nhà văn TDBC bao gồm nhiều người (ở miền Bắc còn nhiều hơn miền
Nam), trong đó số đã thức tỉnh ở những mức độ khác nhau, đang cố gắng
làm những điều nhằm sửa lại hay chống lại thực tại sai lầm của ĐCS cũng
ngày càng nhiều thêm, nhưng việc tự đánh giá giai đoạn quá khứ của mình
xem chừng chưa có gì nhất trí, ổn thỏa, thanh thoát, như có những tâm
trạng uẩn khúc bên trong nên phải đặt vấn đề “giải mã”.
- Việc “giải mã” cũng liên quan
đến cả những người CS hiện nay đang được dư luận ca ngợi, tán thưởng
(kể cả dư luận khó tính ở hải ngoại), như nghệ sĩ Kim Chi khước từ sự có
mặt trong nhà ở của mình chữ ký của một kẻ cao cấp “hại nước hại dân” – vì chị tự hào mình là một người “Cộng sản chân chính”!
Những đảng viên trong 72 vị khởi xướng đợt góp ý Hiến pháp hiện nay
cũng vậy, chắc phần đông cũng là những người muốn hành xử như những
người “Cộng sản chân chính” để phân biệt mình với loại “CS thoái hóa”. Vậy có thể tồn tại khái niệm “người CS chân chính” hay không, cũng là điều cần xác định cho rõ.
- Trong hàng ngũ những bạn bè thân hữu
đang nỗ lực góp phần mình vào công cuộc dân chủ hóa xã hội hiện nay cũng
có hai “phe” với hai cách nhìn ngược nhau trong việc đánh giá quá khứ
tham gia Cộng sản.
Tóm lại, tình hình khác nhau trong việc
nhìn nhận giai đoạn quá khứ tham gia hoặc ủng hộ CS là điều tốt hay
không tốt, là công hay tội, nên nhớ đến để tôn vinh hay nhắc đến chỉ
thêm ân hận… là một thực tế rộng lớn, tuy không phải mâu thuẫn đến mức
nặng nề nhưng vẫn âm ỉ như một chút gợn, một cái gai, hay một cái nhọt
trong đội ngũ những người từng có nợ với quá khứ và đang phải băn khoăn
về trách nhiệm với hiện tại và tương lai đất nước (còn những kẻ vô trách
nhiệm, thờ ơ hay cố bám sự hủ bại thì không đáng bàn đến ở đây).
Khoảng một hai năm gần đây, khả năng
lãnh đạo của đảng cầm quyền ngày càng sút kém, bất lực, những mâu thuẫn
đối nội và đối ngoại thúc đẩy phải có những thay đổi, kéo theo đó là sự
phân hóa phức tạp trong xã hội về nhân sự, tổ chức, phong trào, phe
nhóm… Bên cạnh chủ trương đối xử cứng rắn với giới dân chủ tiên phong là sự nới rộng có kiểm soát với giới trí thức cận thần,
có cái mới vừa sáng tạo ra, có cái vốn cũ đang được dùng lại. Trong bối
cảnh phân hóa đó, sự khác nhau tiềm ẩn trong quá khứ của giới “pro-Đảng”
nay cần phải tách bạch. Việc điểm tin hai bài ngược chiều nói trên của
“nhật báo Basam”, mà tránh không bình luận, có lẽ cũng là một biểu hiện
nhạy cảm và tế nhị. Những người nhạy cảm thấy đã đến lúc nên có sự trao
đổi thẳng thắn với tư cách giữa những người được giả thiết là “chung một
chiến hào”. Vướng một cái gai, anh chiến sĩ vẫn có thể chiến đấu, nhưng
“giải quyết” được cái gai tất nhiên sức chiến đấu sẽ tốt hơn nhiều.
Suốt trong quá khứ tôi không dính dáng
trực tiếp gì đến chính trị, nhưng bạn bè thuộc cả hai “phe” cũng có
nhiều thân hữu. Trong điều kiện sức khỏe không thuận lợi, tôi không dám
hy vọng có thể đề cập vấn đề một cách thấu đáo, chỉ xin đưa ra một vài ý
chung, tản mạn, để góp phần gọi là “giải mã” một thực tiễn khá nhiều tế nhị.
II. MẤY ĐIỀU CƠ BẢN GỢI Ý CÓ THỂ DÙNG TRONG LÝ GIẢI
1/ Phải chăng sự hiểu biết lúc ấy chưa đủ tầm để sàng lọc?
Hiện tượng một chủ nghĩa ảo tưởng, phi
lý và phản tiến hóa như chủ nghĩa CS lại rộ lên một thời rộng lớn, thu
hút đám đông, trong đó có cả những trí thức lớn, nghịch lý quá lớn ấy
khiến thiên hạ phải chiêm nghiệm mà đúc kết thành một quy luật, quy luật
liên kết và hoán vị loại trừ lẫn nhau trong 3 thành tố, tạm gọi là
luật “Loại trừ một trong ba” hay luật “Hai khử một”.
Ba thành tố ấy là Tâm hồn Lương thiện, Trí tuệ Thông thái và Lập trường Cộng sản, liên kết và loại trừ nhau như sau:
- Đã Thông thái và Cộng sản thì không Lương thiện ( phải mưu mẹo, gian hùng).
- Đã Lương thiện và Cộng sản thì không Thông thái ( phải nhẹ dạ, nông cạn).
- Đã Lương thiện và đủ Thông thái thì không theo Cộng sản [1].
Những ai tự nhận mình luôn lương thiện
trong sáng và đã theo CS thì ứng với trường hợp thứ hai, tức là trí tuệ
nông cạn, không đủ tầm để sàng lọc trước một vấn đề ở tầm thời đại.
Trước mắt mới nhìn bề ngoài tưởng là tốt thì theo thôi.
Xem ra nhiều đảng viên lương thiện không
chịu nhận là lúc ấy mình ngu, cứ khẳng định khi ấy chỉ có theo đảng là
thông minh nhất. Có vị còn khăng khăng rằng: Nếu bây giờ lịch sử lặp lại
thì ông ta cũng lại chọn đúng con đường cũ chứ không thể khác. Sở dĩ có
sự tự ái như vậy do chưa hiểu sự “ngu đần” có thể là tầm của cả một dân
tộc trong một thời kỳ chứ chẳng riêng ai, người viết những dòng này
cũng đâu thoát khỏi mê cung ấy? Phê phán bạn cũng là phê phán mình. Chỉ
cần so sánh với một dân tộc văn minh và khôn ngoan hơn sẽ thấy ngay sự
kém cỏi, dân trí lạc hậu của cả dân tộc mình thì sẽ tránh được tâm lý tự
ái cá nhân.
Hiện tượng có mấy nhà bác học nổi tiếng
vẫn say mê CS cũng chẳng biện bạch được gì hơn vì có thể vị bác học ấy
giàu lý tưởng, lý thuyết, hiểu biết chuyên môn nhưng rất ngây thơ, ảo
tưởng, cũng dốt về chính trị-xã hội. Chấp làm gì những vị trí thức nọ
trí thức kia mù quáng thân Cộng, khi “ông trùm CS” của nước mình là Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi quyết định theo con đường Cộng sản cũng chưa hiểu
Cộng sản là gì kia mà?
Cú “nhích chân” của Nguyễn Ái Quốc từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa”, “Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì, thì tôi (tức Nguyễn Ái Quốc) chưa hiểu”. Thậm chí Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy Nguyễn Ái Quốc”cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi” [2].
Nhưng cũng không chấp ông HCM làm gì, khi chính ông Mác ông Lê cũng “khái quát vội, khái quát nhầm” ít nhất là 9 điều căn bản [3] tức
là cũng hụt hẫng về Trí tuệ khi cả gan nghĩ ra một chủ nghĩa mới toanh
hòng cứu rỗi nhân loại nhưng vượt quá tầm Trí tuệ của mình (chủ nghĩa
Xã hội khoa học ít nhất cũng có một khuyết điểm cơ bản là phi khoa học!), thì một đảng viên CS nhỏ bé có tự nhận là “Trí tuệ không đủ để sàng lọc” cũng chẳng có gì đáng phải băn khoăn!
Vậy thì thôi, ta cứ yên trí nhận là trước đây ta theo CS vì chưa đủ thông thái để sàng lọc là ổn.
Nhưng mâu thuẫn vẫn chưa hết. Các bạn
lại bảo: tôi theo CS không phải là yêu CS gì hết, chỉ vì yêu nước, yêu
hòa bình-thống nhất, ghét Mỹ xâm lược. Nếu bạn chỉ mượn CS làm phương
tiện như thế thì khi mục đích đã xong, Mỹ đã rút, đã có “hòa bình-thống
nhất” thì bạn còn ôm cái “phương tiện” ấy làm gì, bạn phải chủ động rời
bỏ nó ngay mới phải, như qua sông rồi thì bỏ con thuyền ở lại chứ?
Nếu bạn lại bảo: tôi chưa hiểu gì về chủ
nghĩa CS nên hãy cứ theo xem sao? Vậy đến hôm nay bạn đã hiểu chưa? Với
tư cách một đảng viên bạn có tìm hiểu mọi thông tin trên mạng và trên
thực tế không, có biết nghị quyết 1481 của Nghị viện châu Âu, biết nhân
loại đã vứt một Chủ nghĩa ảo tưởng vào sọt rác lịch sử? Nếu có đủ thông
tin thì chắc bạn không còn đủ dũng khí để tự hào là một đảng viên CS,
vì tôi tin bạn là người có trí óc bình thường và còn dây “thần kinh xấu
hổ”. Theo lô-gich của môn “liêm-sỉ-học” (liemsiology!) thì bạn phải hành xử như Trần Độ, như Phạm Đình Trọng, như Nguyễn Chí Đức… mới phải.
Nhưng chưa, bạn chưa đến chân tường, vì
bạn còn một câu trả lời khả dĩ hữu lý: Tôi phải ở lại trong Đảng để
“chiến đấu”, với tư cách “người CS chân chính” chống bè lũ “CS thoái hóa”. Vâng, vậy xin chuyển tiếp sang phần sau.
2/ Có hay không khái niệm gọi là “người Cộng sản chân chính”?
Những người tự hào là “CS chân chính”
vì nghĩ rằng cái đảng mà mình gia nhập là một đảng chân chính, nay “một
số không nhỏ” (tất nhiên nằm trong lãnh đạo tối cao) đã THOÁI HÓA và
PHẢN BỘI, nên mình phải đấu tranh chống lại sự tha hóa để phục hồi một
ĐCS chân chính, nghĩa là mình đấu tranh (chống những cán bộ lãnh đạo
xấu) với tư thế của người “đòi nợ”, đòi cái món nợ mà đảng đã hứa (trong
lời tuyên bố) trước nhân dân nhưng bây giờ họ “quỵt nợ, vỗ nợ”!
Phải công nhận, nếu như vậy thì trong 3
yếu tố Lương tâm, Trí tuệ và Cộng sản bạn đáp ứng đầy đủ hai yếu tố
Lương tâm và Cộng sản nhưng quá yếu về Trí tuệ (theo đúng quy luật Hai khử một đã
nói ở đoạn trên), nên trở thành duy cảm, thiếu duy lý. Sự THOÁI HÓA và
PHẢN BỘI đã nằm sẵn trong mớ tín điều của chủ nghĩa, đã được “chương
trình hóa” ngay từ khi khởi lập. Những biểu hiện thoái hóa và phản bội
mà bạn nhìn thấy bây giờ thực ra đã được tiền định từ đầu (trước khi bạn
gia nhập đảng rất lâu): không một ĐCS cầm quyền nào có thể thoát khỏi tình trạng thoái hóa và phản bội!
Về lý thuyết chính Mác đã tự chống lại
mình, khi triết học Mác thì duy vật, chống duy tâm-duy ý chí nhưng chính
trị Mác thì rất duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Một lý thuyết ảo tưởng
phi khoa học thì sẽ bị thực tế chống lại nên dần dần phải làm ngược lại
hết, CS phải tự làm ngược lại những tín điều của mình mới mong tồn tại. Cuối cùng, ngày nay mỗi đảng viên đều phải chọn cho mình một sự giã từ, một sự “phản bội”: hoặc là trung thành với chủ nghĩa thì phản bội nhân dân, muốn trung thành với nước với dân thì phải phản lại chủ nghĩa[4]!
Khi bạn trung thành với nước với dân, với nhân tâm, với chân lý phổ quát thì bạn là “con người chân chính”, rất chân chính, tôi yêu quý bạn, nhưng bạn không còn là “người CS chân chính” nữa đâu, âu cũng là lối tự hào do cảm tính, xin đừng nhầm lẫn!
Bạn lại bảo: Tôi trung thành với chủ nghĩa CS là trung thành với lý tưởng cao đẹp của nó. Bạn lại nhầm rồi.Nhân tố chủ yếu làm nên một chủ nghĩa, phân biệt chủ nghĩa này với chủ nghĩa khác không phải ở mục đích mà nó tuyên bố, mà ở con đường mà nó vạch ra,
vì mục đích sau cùng thì bao giờ chẳng tốt đẹp, căn bản đều phải hướng
đến tự do-hạnh phúc cho con người. Nhưng khi con đường sai hoặc ảo tưởng
thì không đến đích mong muốn hoặc chỉ đem đến kết quả ngược lại như
trường hợp chủ nghĩa Mác-Lênin [5].
Ngoài ra, có cách đi đến đáp án đơn giản hơn nhiều:
Khi một chủ nghĩa ảo tưởng chỉ đem lại
kết quả ngược với mong muốn thì chủ nghĩa ấy không thể coi là CHÂN CHÍNH
được. Chủ nghĩa đã không CHÂN CHÍNH thì làm sao tín đồ của nó lại CHÂN
CHÍNH được? Bạn chỉ có thể là một CON NGƯỜI CHÂN CHÍNH vì thực ra bạn đã
làm ngược tín điều của Chủ nghĩa rồi, chắc bạn là người nặng về duy cảm
nên không nỡ hay không dám để cho bộ óc Duy lý được đứng trước gương mà
phán xét đó thôi! Xin nói với nhau một lời thông cảm thực lòng như
vậy.
III. LẤY ĐÍCH DÂN CHỦ-ĐỘC LẬP-PHÚ CƯỜNG LÀM SỢI DÂY LIÊN KẾT
Chỉ cần nhìn các nước quanh ta với một
xuất phát “same-same” như nhau đủ thấy trong cuộc chạy đua thế kỷ,
ViệtNamchúng ta là kẻ thua cuộc, là đoàn khách nhỡ tàu.
Chỉ nhìn kinh tế – kỹ thuật đã thấy thua
các nước bạn trong khu vực vài chục năm nhưng sự thua kém về độc lập –
tự do, về văn hóa – nhân phẩm còn đáng lo hơn nhiều.
Nay muốn đoàn kết để thực hiện dân chủ
ắt phải chấp nhận đa dạng đã đành, nhưng ở một nước vừa trải qua mấy
cuộc phân ly kinh khủng, lại đang bị ngự trị bởi một Ý thức hệ đoàn kết giả để phân ly thật thì
lòng người ly tán là một trở ngại khổng lồ, nếu không biết chấp nhận sự
khác biệt thì lấy đâu sức mạnh cho một sứ mệnh cũng khổng lồ tương
xứng? (Sứ mệnh lập lại một xã hội đã bị phá nát từ gốc, quay lại một
con đường đã đi ngược trên nửa thế kỷ, chống lại một anh hàng xóm khổng
lồ chỉ muốn kìm giữ Việt Nam yên vị như một con cừu Ý thức hệ vừa ngoan vừa chậm vừa ngu để hắn có thể ngoạm dần hết cơ thể con mồi trong cái áo choàng hữu nghị đểu).
- Muốn có khối đoàn kết toàn dân tộc, trước hết hãy tìm khả năng đoàn kết giữa các khối người tích cựcmà
họ đang rất khác nhau như trên đã nói. Hãy quý sự khác nhau ấy vì đó
chẳng những là thực tiễn buộc phải chấp nhận, là tất yếu trong tinh thần
dân chủ, mà còn là thuận lợi để diễn tiến xã hội đi lên một cách hòa bình. Nếu không có những “trí thức cận thần”,
còn rất khác những người có tư duy triệt để (biết phải thay đổi cái cũ
tận gốc), đồng thời lại có những người trung gian giữa hai thái cực ấy
thì sao có thể nối với nhau thành những nhịp cầu chuyển hóa dần dần? Nối
tiếp với nhau được nếu tất cả đều hướng về phía trước, dẫu kẻ trước
người sau nhưng phải chống những kẻ ngược chiều hoặc mưu toan cơ hội trụ
lại nửa chừng để chia hoa lợi!
Một ví dụ: trong những người đã có thời
hăng hái theo đảng làm một cuộc gọi là “chống Mỹ cứu nước” có người
không muốn nhắc lại “thành tích đáng buồn” cũ (như anh em Huỳnh Nhật
Hải-Huỳnh Nhật Tấn) trong khi rất nhiều người vẫn muốn nhắc lại những kỷ
niệm một thời tranh đấu “hào hùng”. Không sao, miễn là khi nhắc lại
chuyện cũ phải nhìn dưới lăng kính mới, vượt trên cái cũ với óc phê phán
để phục vụ cho cái mới. Chẳng hạn phải hiểu vì sao trong chế độ cũ (mà
ta quyết đánh đổ) ta có thể ngang nhiên tranh đấu, tuyên bố hùng dũng,
thậm chí lãng mạn bay bổng, thỏa chí tang bồng chống lại giới cầm quyền,
còn trong chế độ mới (mà ta mơ ước) ta chỉ dám làm bằng 1 phần trăm
thời xưa thôi mà đã phải rụt rè? Chẳng hạn ngày trước dưới cái nhìn bồng
bột ta chỉ thấy cái gọi là “Mỹ Ngụy” là thấp hèn, tàn ác, đáng khinh
ghét, nay dưới cái nhìn dân chủ và toàn cầu ta lại mong sao bây giờ được
bằng cái mà ta đã quyết diệt [6], mong trở lại cơ hội cũ mà ta đánh mất, để rồi từ đó tiếp tục đi lên thì dễ dàng hơn.
Chẳng hạn ta nhận ra sự “hào hùng” cũ thật là “bi tráng” (như nhà văn TDBC nhận thấy), nhưng “bi” không ở chỗ bị kẻ thù tàn sát, thất bại đau đớn như cái bi hùng của phong trào Nguyễn Thái Học, mà ngược đời, “bi” lại ở chỗ muốn thắng cuộc thì nhất thời đã thắng, nhưng nghĩ lại, thà đừng thắng thì hơn! “Bi” ở chỗ cái “tinh hoa phẩm chất”
của tuổi thanh niên (nhưng còn bồng bột, cảm tính, bị tuyên truyền),
tương tự như cái vốn quý giá mà Dương Thu Hương gọi là “một khối vàng
ròng”, nhưng đã bị lợi dụng, bị dùng nhầm, dùng phí phạm, đáng tiếc.
Song cái “bi” ở đây cũng không hề “bi lụy” nếu ta quyết hồi sinh cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi trẻ ấy, với sự bổ khuyết rất cần thiết bằng các tri thức hiện đại, trưởng thành, để dùng vào công cuộc hôm nay, như để bù đắp cho điều đáng tiếc cũ, thì sự hồi tưởng như thế thật là hồi tưởng vô cùng tích cực.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng vậy, nghĩ lại thời đã qua để thấy trách nhiệm của mình. “Cả tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt, để đúc nên chính cỗ máy này”, cái cỗ máy của sự “đểu cáng lên ngôi”.
Hồi ức chuyện cũ để mà hối tiếc cho nhiệt huyết của mình không đem lại
kết quả mong muốn, và thấy trách nhiệm của mình trong hiện tại! Một khi
cùng hướng về phía trước và hành động cụ thể là nhất định gặp nhau.
(Không biết trong hàng ngũ của các anh có ai muốn ôn chuyện cũ để kể
công, để che dấu cái hèn hiện tại, để lập một cái gì đó chung chiêng hay
không thì tôi không rõ, tất nhiên không bàn).
- Hãy biết ơn những người tiên phong.
Nếu như trên mặt phẳng nằm ngang ta hình
dung đoàn người nối tiếp nhau như cây cầu bắc từ chế độ độc tài toàn
trị đến cuối cầu là chân trời Dân chủ-Độc lập-Phú cường, trong đó những
tư tưởng tiên phong luôn dẫn đầu đi trước, thì đừng quên một đường dây
thẳng đứng, người nọ đứng lên vai người kia, để đưa nhau từ đáy giếng lên bờ. Trên
cái “chồng người” thẳng đứng ấy những người tiên phong đứng ở dưới cùng
cho đồng đội được đứng lên vai. Những người tiên phong ấy sẽ lên bờ sau
cùng hoặc lúc khải hoàn có thể không còn họ nữa.
Về Độc lập dân tộc nếu không có những anh hùng liệt nữ đã hy sinh liệu ngày nay ta có còn quốc gia không để mà tranh đấu? Chúng ta đã đứng trên vai họ để có hôm nay.
Về Dân chủ-Tự do cũng vậy. Nếu không có những người dân chủ tiên phong
như Nguyễn Mạnh Tường, như Hữu Loan, như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Minh
Chính, Nguyễn Kiến Giang, Lê Hồng Hà, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hòa
thượng Thích Quảng Độ, cha Nguyễn Văn Lý, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ
Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức… vân vân và vân vân… mà hầu hết họ đều bị
tù đày, và biết bao tiếng nói dân chủ từ bên ngoài hỗ trợ thì làm sao
có chút nền dân chủ cỏn con để có thể tồn tại những trang web dân chủ
trong nước như trang Bô-xít, trang Basam và các blogger? Rồi đến lượt,
nếu không có những trang web và blogger ấy làm chỗ tựa làm sao đoàn trí
thức 16 vị có thể được đón tiếp để trao những kiến nghị và dự thảo Hiến
pháp quá mạnh dạn kia, cũng như cá nhân tôi lúc này có thể công khai
công bố những lời đóng góp thẳng thắn nhường này? Chúng ta
đã được đứng trên vai họ, những người dân chủ tiên phong chịu nạn tù đày
để giành lấy từng tý chút dân chủ cho ta tiếp tục. Hãy nhớ ơn họ!
Nói đến chuyện đứng trên vai nhau, tôi
lại thầm hỏi mình: nếu không có đồng đội lấy vai cho mình đứng, lại
không có một điểm tựa nào đó từ môi trường, dù là điểm tựa vô tình hay
vô tri thì một cá nhân đơn độc làm sao có thể vượt qua cái vai của mình?
Tự mình vượt qua chính mình mới thật là điều khó lắm thay! Làm sao có
thể tự thắng cái khối lượng ì ạch của bản thân với tất cả những sức cản
nặng nề đã ràng buộc mình vào cuộc đời này?
Đà Lạt ngày 24-2-2013
H.S.P.
Nguồn:
Bauxite Việt Nam
———————————————————————————-
[1] “Quy luật” tương tự này tôi đọc thấy đã lâu, gần đây thấy nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh và nhà báo
Lê Diễn Đức nhắc tới. Tôi diễn đạt lại cho rõ hơn (HSP)
[2] Xưa nhích chân đi giờ nhích lại: HCM quyết định theo Quốc tế 3 khi chưa hiểu CS là gì ! Tư liệu trích từ:
-
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hànội (in lần thứ tám), 1975, trang 44.
-
Hồ Chí Minh:Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000, trang 126.
-
Lữ Phương:Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, THƯ NHÀ xuất bản,Australia, 2002, trang 40.
[3] Xem bài
Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (HSP)
[4] Từ vụ Bauxite nghĩ về vận nước (www.hasiphu.com/baivietmoi_40.html)
[5] Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí tuệ
[6] Nguyên Ngọc (S:
Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn …).Huy Đức: “
bên (cần)được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”.
Việt Nam 1945-1995 – Chương 10: Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia
Chương 10: Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia
GS Lê Xuân Khoa
Càng cần hoà giải hơn nữa khi đất nước đang ở một
khúc ngoặt lịch sử quan trọng trong những tương quan quốc tế mới đòi hỏi
sự đóng góp của mọi nguồn nhân lực và tài lực ở trong và ngoài nước.
Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mọi người đều nhìn nhận rằng trong
cuộc chiến tranh quốc gia-cộng sản, các chiến sĩ ở cả hai bên đều chiến
đấu vì lòng yêu nước nhưng cũng bị biến thành công cụ của những thế lực
quốc tế. Vì vậy, mọi người cần phải rút ra được bài học của quá khứ,
thẳng thắn nhìn nhận các sai lầm và dẹp bỏ hận thù để cùng nhau đưa nước
Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu và trở thành một quốc gia giàu
mạnh, dân chủ và tiến bộ. Bởi vì sự thật đau lòng là cuộc chiến tranh
tàn phá nhất và giết nhiều người nhất trong lịch sử Việt Nam thực tế là một cuộc chiến mà tất cả mọi phe đều thua, và nạn nhân chính vẫn là dân tộc và đất nước Việt Nam.
Chương Một và Chương Năm trên đây đã có
dịp phân tích những nguyên nhân thất bại của các đảng phái quốc gia
trong cuộc tranh giành với đảng cộng sản vai trò lãnh đạo dân tộc chống
thực dân Pháp, từ trước 1945 cho đến hội nghị Genève 1954. Chính phủ
Trần Trọng Kim, thuộc phe quốc gia nhưng không chống Việt Minh, đã được
đánh giá khá đầy đủ ở chương Một. Chương này sẽ chỉ nhận định khái quát
về các chính quyền quốc gia trong cuộc chiến tranh chống Pháp, trước và
sau Hiệp định Élysée (Auriol-Bảo Đại) năm 1949, và chú trọng nhiều hơn
vào những chính phủ ở miền Nam trong hai mươi năm xung đột với miền Bắc.
Thời kỳ hậu-Genève này gồm có Đệ nhất Cộng Hòa với chính quyền Ngô Đình
Diệm (1955-1963), bốn năm chuyển tiếp gồm Hội đồng Quân nhân Cách mạng,
các chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Huy
Quát, Nguyễn Cao Kỳ (1963-1967), và cuối cùng là Đệ nhị Cộng Hòa với
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975).
Sai lầm căn
bản của tất cả các chính phủ quốc gia là không có một chính sách và một
chiến lược hữu hiệu để tranh thủ nhân tâm chống lại chiến dịch tuyên
truyền của chính phủ cộng sản miền Bắc. Trong cuộc “chiến tranh nhân
dân” do đảng cộng sản điều động, mặt trận chính trị còn quan trọng hơn
cả mặt trận quân sự, vì quan hệ giữa quân với dân được ví như cá với
nước, không có nước (dân) thì cá (quân) không sống được. Bộ đội du kích
kiểm soát được dân bằng cách sống gần gũi với dân và nhờ sự che chở của
dân, mặc dù cũng đe dọa hay trừng phạt dân trong những trường hợp bất
hợp tác. Cán bộ cộng sản làm công tác tuyên truyền không rao giảng chủ
nghĩa Mác-Lênin mà chỉ nhấn mạnh vào chính nghĩa của cuộc chiến là lòng
yêu nước: nếu trước kia chống thực dân Pháp để đòi lại độc lập thì nay
chống đế quốc Mỹ để cứu nước và bảo vệ độc lập. Ngoài ra, vì đối tượng
chính là dân chúng ở nông thôn, cuộc tuyên truyền được nhấn mạnh vào
việc bôi xấu chế độ VNCH và thổi phồng những “tội ác của Mỹ-Ngụy,” trong
khi hứa hẹn đem lại cho dân chúng một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc và tự
do hơn.
Trước khi kiểm điểm những sai lầm của
các chính quyền quốc gia, ta hãy đánh giá tính chất chính đáng của các
chính quyền ấy qua hai cuộc chiến tranh từ 1945 đến 1975. Để cho việc
nhận định về các chính quyền chống cộng không bị thiếu sót, những chính
quyền do Pháp dựng nên trước khi Quốc Gia Việt Nam chính thức thành lập
do Hiệp định Élysée 1949 cũng cần được nhắc đến.
Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba
1946 được ký kết, Pháp đã chuẩn bị cho ra đời một Chính phủ Nam kỳ Tự
trị nhằm chống lại điều khoản đầu tiên của hiệp định dự liệu tổ chức một
cuộc trưng cầu dân ý để cho nhân dân ba miền ở Việt Nam tự quyết định
về vấn đề thống nhất lãnh thổ. Ngày 12 tháng Ba, ủy viên Cộng hòa Pháp ở
miền Nam Jean Cèdile tuyên bố Hiệp định 6 tháng Ba chỉ có tính cách địa
phương giữa ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Bắc là Sainteny và Việt Minh,
không có giá trị đối với phần lãnh thổ ở phía Nam vĩ tuyến 16. Lời phủ
nhận của Cèdile trái ngược với quyết định của chính phủ Félix Gouin chấp
thuận hiệp định này. Trong cùng một ngày, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, đại
biểu Hội đồng Tư vấn Nam kỳ, đề nghị với Cèdile cho Nam Kỳ tiến đến tự
trị bằng cách được hưởng những điều kiện tương tự như Hiệp định Sơ bộ 6
tháng Ba cho miền Bắc.1
Sau một chiến dịch bằng báo chí như tờ Tân Việt và Le Populaire,
và một loạt những cuộc biểu tình do Đảng Dân Chủ Nam Kỳ và Mặt Trận
Bình Dân Nam Kỳ tổ chức, Cédile sắp đặt cho một phái đoàn do Nguyễn Văn
Xuân cầm đầu sang Pháp ngày 23 tháng Tư để vận động cho Nam Kỳ tự trị.
Đây là âm mưu của d’Argenlieu và Cédile nhằm mục đích phá Hội nghị
Việt-Pháp về vấn đề thi hành Hiệp định Sơ bộ khai mạc ngày 19 tháng Tư
tại Đà-lạt. Phái đoàn Nguyễn Văn Xuân tới Paris ba ngày trước khi một
phái đoàn Quốc Hội Việt Nam do Phạm Văn Đồng hướng dẫn sang viếng thăm
thiện chí Quốc hội và Chính phủ Pháp. Ngày 11 tháng Năm, hội nghị Đà-lạt
không đạt được kết quả, phải hoãn vô thời hạn. Hồ Chí Minh quyết định
sang Paris để hỗ trợ cho phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Fontainebleau
như một nỗ lực cuối cùng cho việc thi hành hiệp định sơ bộ. Phái đoàn
Việt Nam đáng lẽ do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu, nhưng
ông Tam vào ngày chót cáo bệnh không đi nên Phạm Văn Đồng, khi đó đang ở
lại Paris để chờ phái đoàn, được chỉ định làm trưởng đoàn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng phái đoàn lên đường ngày 31 tháng Năm thì ngay ngày hôm
sau, 1 tháng Sáu, Chính phủ Tự Trị Nam Kỳ được thành lập.2
Chính phủ Nam kỳ Tự trị do Nguyễn Văn
Thinh cầm đầu được Pháp cho ra đời chính là để phủ nhận Hiệp định sơ bộ 6
tháng Ba và phá hoại những cố gắng cứu vãn hòa bình của Hồ Chí Minh tại
Hội nghị Fontainebleau. Chính phủ ấy gồm một số trí thức và nghiệp chủ
thân Pháp đích thực là một chính phủ bù nhìn dựa vào thế lực của Pháp,
hoàn toàn không có một cơ sở chính đáng nào về chủng tộc và lịch sử, và
đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng,
những người chủ trương Nam kỳ tự trị không hẳn là những người phủ nhận
gốc rễ chủng tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Ngoài cảm tình và
lòng ngưỡng mộ văn hóa Pháp mà họ chịu ảnh hưởng sâu đậm hơn do quy chế
thuộc địa, họ còn có những quyền lợi vật chất và tinh thần cần được bảo
vệ trước viễn tượng của một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng
sản. Do đó, chủ trương Nam kỳ tự trị cần được hiểu như một nhu cầu chính
trị, một phản ứng tự vệ của một địa phương trước sự đe dọa bị chiếm
đoạt và trừng phạt của một chính quyền cộng sản trung ương từ miền Bắc.
Muốn tự vệ và bảo vệ quyền lợi của mình, giới trí thức và nghiệp chủ ở
miền Nam không có đủ khả năng chống lại làn sóng cách mạng do Việt Minh
lãnh đạo nên bắt buộc phải dựa vào đồng minh là Pháp để hai bên cùng có
lợi. Lúc này Bảo Đại chưa xuất hiện như một giải pháp và một cơ hội cho
các đảng phái quốc gia có thể liên kết với nhau thành một lực lượng
chính trị đối phó với Việt Minh.
Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Thủ tướng Chính
phủ Nam Kỳ Tự Trị, được biết là một người có lòng tốt và không có đầu
óc kỳ thị Nam-Bắc, ngoài nhu cầu chính trị trước mắt. Khi miền Bắc bị
nạn đói năm 1945, ông đã đáp ứng lời kêu gọi của chính phủ Trần Trọng
Kim, thành lập một tổ chức quyên được khá nhiều tiền cứu giúp nạn nhân
đói kém. Vụ ông treo cổ tự tử sau hơn bốn tháng làm thủ tướng, dù vẫn
còn là một nghi vấn chưa được giải đáp rõ rệt, được nhiều người tin là
vì ông bất mãn với những lời hứa hẹn không thực hiện của Pháp về những
quyền lợi chính trị và kinh tế của miền Nam, và ông hối hận vì đã tin
tưởng sai lầm vào chính phủ Pháp. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng xác nhận như
vậy.
Sau khi Lê Văn Hoạch được Hội Đồng Tư
vấn Nam Kỳ bầu làm Thủ tướng thay thế Nguyễn Văn Thinh, vai trò của Bảo
Đại càng ngày càng được nhắc đến như một giải pháp thích hợp, có thể
được Pháp và Hoa Kỳ hỗ trợ để đối phó với cộng sản và xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, dân chủ thân Tây phương. Giữa tháng Hai 1947, Mặt Trận
Quốc Gia Liên Hiệp (MTQGLH)3 họp ở Nam Kinh ra tuyên ngôn
ủng hộ Cựu Hoàng Bảo Đại để thành lập một chính phủ đoàn kết quốc gia.
Các nhân vật chính trị miền Nam như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Tỷ, Nguyễn
Tấn Cường, Trần Văn Hữu bắt đầu chuyển hướng sang lập trường thống nhất
ba kỳ. Ngày 23 tháng Tám, Thủ tướng Lê Văn Hoạch tiếp xúc với Bảo Đại ở
Hong Kong và khi trở về muốn cải tổ chính phủ theo chiều hướng của
MTQGLH nhưng gặp khó khăn từ phía Pháp và một số người trong Hội đồng Tư
vấn Nam kỳ. Ngày 9 tháng Chín, Bảo Đại triệu tập ở Hong Kong hội nghị
tham khảo MTQGLH và đại diện các đảng phái chính trị và tôn giáo từ ba
miền ở trong nước. Hội nghị ra tuyên cáo chung yêu cầu Bảo Đại ra cầm
quyền và mở cuộc đàm phán với Pháp nhằm đem lại hòa bình và độc lập cho
Việt Nam. Ngày 18 tháng Chín, Bảo Đại ra tuyên cáo với quốc dân, nhắc
đến việc hai năm trước ông đã từ bỏ ngai vàng của tổ tiên để tránh một
cuộc đổ máu giữa người Việt và người Việt. Ông cho biết đã chọn cuộc
sống lưu vong để không gây trở ngại cho chính quyền mới mà đa số nhân
dân khi đó đã lựa chọn vì tin tưởng sẽ đem lại được hòa bình và hạnh
phúc cho dân tộc. Tuy nhiên sau hai năm kinh nghiệm đau thương, nhân dân
mong mỏi đất nước thoát khỏi nạn chiến tranh và được sống dưới một chế
độ chính trị mới. Vì vậy, ông long trọng tuyên bố:
Đáp lời kêu gọi của quốc dân đồng bào,
tôi nhận lãnh nhiệm vụ được quốc dân giao phó và sẵn sàng tiếp xúc với
nhà cầm quyền Pháp. Tôi sẽ cùng với họ xem xét một cách khách quan những
đề nghị đã nhận được.
Trước hết, tôi muốn đạt được độc lập và
thống nhất đúng với nguyện vọng của đồng bào, tiến đến các thỏa hiệp về
những đảm bảo giữa đôi bên, và có thể đoan chắc rằng lý tưởng mà chúng
ta đã anh dũng theo đuổi trong một cuộc chiến khốc liệt sẽ phải đạt
được.
Như vậy, tôi sẽ tận lực hòa giải mối mâu
thuẫn giữa các nhóm với nhau, bởi vì một khi chúng ta đã đạt được mục
đích thì không có gì có thể chống lại việc vãn hồi hòa bình. Tôi muốn
duy trì nền hòa bình này để đem lại an ninh và thịnh vượng cho đồng bào.
Thời gian sẽ làm dịu bớt những tình cảm mãnh liệt. Trong tình đoàn kết,
tất cả mọi người Việt Nam sẽ xây dựng lại xứ sở đẹp đẽ của chúng ta
trên những nền tảng mới, khơi nguồn sinh lực trong những truyền thống
mạnh mẽ của chúng ta.”4
Vì Pháp vẫn muốn duy trì chính phủ Nam
kỳ tự trị, ngày 29 tháng Chín, chính phủ Lê Văn Hoạch từ chức. Nguyễn
Văn Xuân được Hội đồng Tư vấn ủy cho lập chính phủ mới. Đây là một lỗi
lầm rất lớn của Pháp vì phá hoại chính nghĩa quốc gia của các chính phủ
do Bảo Đại cầm đầu sau này.
Điều đáng tiếc là phe quốc gia đã bỏ lỡ
những cơ hội tốt đẹp nhất cho giải pháp Bảo Đại có thể đạt được mục tiêu
độc lập và thống nhất cho đất nước. Hội nghị 9 tháng Chín 1947 do Bảo
Đại triệu tập ở Hong Kong lần đầu tiên quy tụ được khá đầy đủ đại diện
các đảng phái và tôn giáo ở trong và ngoài nước, gây được nhiều tiếng
vang và có triển vọng được sự ủng hộ rộng rãi của mọi giới. Theo sử gia
Joseph Buttinger, trong một cuộc gặp gỡ ở Hong Kong với William Bullitt,
cựu Đại sứ Mỹ ở Pháp và Liên Xô, Bảo Đại được biết là Hoa Kỳ sẽ ủng hộ
một chính phủ Việt Nam không cộng sản.5 Những chính khách chủ
trương Nam Kỳ tự trị cũng đã nhận thấy cơ sở chính đáng cho một liên
minh chính trị toàn quốc và đã bắt đầu ủng hộ hoặc tham gia vào MTQGLH.
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cũng viết thư cho Chủ tịch Quốc Hội Pháp yêu cầu
thương thuyết với Bảo Đại. Như vậy, nếu các đoàn thể quốc gia đại diện
cho cả ba miền có thể kết hợp thành một lực lượng hậu thuẫn cho Bảo Đại
để tranh đấu với Pháp thì chính nghĩa quốc gia sẽ được sáng tỏ và có
nhiều hi vọng được Hoa Kỳ và quốc tế ủng hộ. Tuy nhiên, cơ hội này đã bị
làm hỏng vì hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, là sự phá hoại của Pháp bằng
việc lung lạc Hội Đồng Tư Vấn Nam Kỳ và xây dựng vai trò Nguyễn Văn Xuân
trong ý đồ thành lập một Liên Minh Ba Kỳ. Theo sự tiết lộ của Bảo Đại,
khi thấy chính phủ Nam Kỳ Tự Trị không có hi vọng tồn tại, các giới
chính trị Pháp nghĩ đến một giải pháp “trung đạo”, giữa giải pháp
mác-xít và giải pháp quân chủ, nghe có vẻ phù hợp với triết lý
Khổng-Mạnh. Ý đồ của ông Xuân là trong giai đoạn đầu thành lập Liên Minh
Ba Kỳ: miền Bắc với Hồ Chí Minh, miền Trung với Bảo Đại, và miền Nam
với Nguyễn Văn Xuân. Giai đoạn thứ nhì là loại bỏ Hồ Chí Minh cộng sản
và Bảo Đại quân chủ để xây dựng một chính thể cộng hòa tiến bộ. Cuộc
khủng hoảng chính trị ở Pháp đưa đến sự sụp đổ của chính phủ Ramadier và
dư luận bất lợi ở trong nước đã khiến cho ý đồ liên minh ba Kỳ không
thể tiến hành được. Nguyễn Văn Xuân đổi tên “Chính phủ Cộng Hoà Nam kỳ
Tự trị” thành “Chính phủ Lâm thời miền Nam,” nhưng ý niệm ly khai vẫn
còn đó.6
Thứ hai —và đây mới là nguyên nhân
chính— là sự bất đồng ý kiến giữa các lãnh tụ chính trị quốc gia. Giải
pháp Bảo Đại có nhiều triển vọng thành công trong những năm 1947-1949
khi lực lượng Việt Minh còn yếu kém vì chưa được Liên Xô và Trung Quốc
viện trợ. Ý thức được vai trò cần thiết và thời cơ thuận lợi của mình,
Bảo Đại đã đòi Pháp những điều kiện có lợi cho Việt Nam hơn là bản hiệp
định sơ bộ 6 tháng Ba hay bản tạm ước 14 tháng Chín 1946 giữa Hồ Chí
Minh và Marius Moutet. Trong một buổi hội kiến với Dân biểu Walter H.
Judd và các thành viên trong Tiểu ban Ngoại vụ của Hạ viện Mỹ thăm Việt
Nam vào cuối tháng Mười Một, 1953, Bảo Đại kể lại rằng buổi tối trước
ngày ký Hiệp ước Élysée 8.3.1949, Việt Minh đã cử đại diện tới gặp chính
phủ Pháp, đặt vấn đề: “Tại sao các ông lại nhượng bộ nhiều thế? Chúng
tôi sẽ ký với các ông một hiệp định ngưng bắn khác theo những điều khoản
của hiệp định 1946.”7 MTQGLH có triển vọng trở thành một
liên minh chính trị có uy tín, quy tụ được đông đảo các đảng phái chính
trị, các tổ chức tôn siáo và đoàn thể quần chúng trên toàn quốc để hậu
thuẫn cho Bảo Đại trong những cuộc thương nghị đem lại độc lập, thống
nhất và hòa bình cho xứ sở. Khi đó, Hồ Chí Minh cũng muốn điều đình với
Pháp, nhưng cần phải ngăn chặn MTQGLH lôi cuốn những phần tử yêu nước
không cộng sản trong Mặt trận Việt Minh. Kết quả là một số lãnh tụ quốc
gia bị ám sát như Huỳnh Phú sổ, giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo, Nguyễn Văn
Sâm, một trong những người cầm đầu MTQGLH, và Trương Đình Tri, Chủ tịch
Hội Đồng An Dân Bắc phần và là cựu Bộ trưởng Y tế trong Chính Phủ Liên
Hiệp của Việt Minh.
Nhược điểm cố hữu của phe quốc gia là
không thể nào kết hợp được với nhau thành một khối, vì khác biệt ý kiến
hoặc vì quyền lợi cá nhân hay bè phái. Tất cả các nhà lãnh đạo đảng phái
hay đoàn thể tôn giáo, xã hội đều thấy mình quan trọng như nhau, không
có một lãnh tụ nào vượt trội có đủ uy tín và quyền lực để mọi người tuân
phục như Hồ Chí Minh đối với Mặt trận Việt Minh. Các lãnh tụ chính trị
cùng một Đảng như Đại Việt cũng có năm ba phe, chẳng hạn phe Nguyễn Tôn
Hoàn (miền Nam) không ưa phe Phan Huy Quát (miền Bắc). Thủ Tướng chính
phủ trung ương Trần Văn Hữu chống Thủ hiến miền Trung Phan Văn Giáo, và
cuộc vận động của Phan Văn Giáo với Bảo Đại để ông kiêm nhiệm Tư lệnh Sư
đoàn miền Trung đã khiến tư lệnh người Pháp Lorillot nhận xét rằng Thủ
hiến Giáo muốn tạo ra “một quốc gia trong một quốc gia.”8 Trần Văn Hữu cũng chống Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí vì ông Trí chỉ trích ông Hữu tham nhũng và kiêm nhiệm quá nhiều bộ.9
và đòi hỏi các Bộ Quốc phòng, Kinh tế và Giáo dục cho đảng Đại Việt.
Tướng de Lattre phải can thiệp và hòa giải. Phe Công giáo ở Bùi Chu,
Phát Diệm dưới sự lãnh đạo của Giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi thì
muốn tồn tại trong tư thế độc lập nên khai thác cả hai phía Hồ Chí Minh
và Bảo Đại, tức là vừa kháng chiến chống Pháp vừa nhận viện trợ của
chính phủ quốc gia. số giáo dân khi ấy đi theo Việt Minh cũng còn khá
nhiều. De Lattre phải sang Vatican vận động Đức Giáo Hoàng nên vào đầu
tháng Mười Một 1951, Khâm Mạng Tòa Thánh tại Đông Dương John Dooley
triệu tập Hội Nghị các Giám Mục Đông Dương tại Hà Nội và ra thông cáo
chung gửi các tín hữu Ki-tô, nhấn mạnh rằng:
Đức Thánh Cha của chúng ta đã tuyên cáo
rằng tuyệt đối không bao giờ có thể vừa theo Cộng sản vừa theo Ki-tô
giáo được, và người Ki-tô nào gia nhập đảng cộng sản thì thực tế tách
rời khỏi Giáo hội. Chẳng những Đức Thánh Cha cấm các giáo dân không được
gia nhập đảng cộng sản mà còn không được cộng tác với họ hay giúp đỡ họ
nắm chính quyền dù dưới hình thức nào….10
Bảo Đại không phải là một lãnh tụ chính
trị có khả năng tổ chức và chỉ huy một Mặt Trận tranh đấu với tinh thần
cách mạng, mà chỉ là một khuôn mặt tượng trưng, được kính nể với tư cách
một cựu hoàng đế và cựu “cố vấn tối cao” của chính phủ Hồ Chí Minh. Bảo
Đại cần có một chính phủ gồm những người yêu nước có uy tín. Trong khi
đó, MTQGLH hay bất cứ hình thức liên minh nào khác của các tổ chức quốc
gia đều chỉ được thành lập do yêu cầu nhất thời của tình thế, nhưng
không thể nhất trí trong đường lối, thống nhất trong cơ cấu tổ chức và
kỷ luật làm việc. Với quan niệm lãnh đạo phong kiến cổ truyền, các lãnh
tụ chính trị không chấp nhận ý kiến khác biệt hay đối lập và cũng không
tuân hành nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Bởi thế, các liên minh
chính trị quốc gia luôn luôn có một cơ cấu lỏng lẻo, thiếu lãnh đạo, chỉ
có bề ngoài dân chủ mà không có tinh thần dân chủ, và vì vậy có thể tan
rã dễ dàng.
Các nhà lãnh đạo chính trị quốc gia, vì
cạnh tranh với nhau, cần phải chứng tỏ tinh thần ái quốc cao độ của mình
nên thường không chịu chấp nhận cả những giải pháp ôn hòa vì không muốn
để cho đối phương có lý do chỉ trích hay kết tội là “phản quốc”. Một
lãnh tụ có tầm cỡ như Hồ Chí Minh, sau khi ký hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba
1946 trong một tình thế phải nhượng bộ để tồn tại, cũng đã phải long
trọng thề với quốc dân là “Hồ Chí Minh này không bán nước!” để trấn an
lòng bất mãn trong nội bộ Việt Minh và những lời cáo buộc của các đảng
phái quốc gia. Khác với Hồ Chí Minh là người cộng sản nhưng sẵn sàng hợp
tác với người quốc gia như một phương tiện để đạt tới cứu cánh, Nguyễn
Hải Thần và Nguyễn Tường Tam rút ra khỏi MTQGLH sau hội nghị 9 tháng
Chín ở Hong Kong vì thấy có một số người thân Pháp từ miền Nam sang tham
dự. (Nguyễn Tường Tam là một trí thức không thuộc phái cổ truyền nhưng
có tinh thần quốc gia quá khích.) Thái độ không chấp nhận khác biệt và
sợ bị mang tiếng nhượng bộ làm bế tắc mọi cuộc thảo luận, làm cùn nhụt
tinh thần linh động và sáng tạo, yếu tố cần thiết để đạt được đồng
thuận. MTQGLH thay vì được tăng cường lại suy yếu dần đến chỗ tan rã.
Ngô Đình Diệm ủng hộ giải pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm
công giáo kháng chiến rời bỏ Việt Minh, rốt cuộc đã từ chối lời yêu cầu
của Bảo Đại thành lập chính phủ hồi tháng Năm 1949, cũng chỉ vì không
thỏa mãn với bản Hiệp ước Élysée giữa Auriol và Bảo Đại.
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Ngô
Đình Diệm đại diện cho nhóm yêu nước quá khích, không coi việc thỏa
thuận với Pháp vào những năm cuối thập kỷ 1940 như bước đầu cần thiết để
tiến đến độc lập và thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó, Hồ Chí Minh là
một chính trị gia thực tế và mưu lược, sẵn sàng tạm chấp thuận những
điều kiện kém thuận lợi để có đủ thời gian xây dựng lực lượng. Thái độ
bất hợp tác của những người chống Pháp cực đoan và tình trạng phức tạp
của những đoàn thể quốc gia làm cho Bảo Đại càng ngày càng trở nên cô
đơn trước trách nhiệm lịch sử nặng nề. Thêm vào đó là những hoạt động
phá hoại của Pháp và những đại điền chủ miền Nam vừa mua chuộc vừa chia
rẽ các lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo. Việt Minh, dưới sự điều
động của tướng Nguyễn Bình, cũng triệt để khai thác cơ hội này. Nhiều
nhân vật có khả năng và uy tín không muốn tham gia chính phủ và chọn
thái độ “chờ xem”, tạo thành một lớp người mà thuật ngữ đương thời gọi
là những “nhân sĩ trùm chăn.” Tình hình đó đã làm cho phe quốc gia không
được Hoa Kỳ tin tưởng và ủng hộ mặc dù Hoa Kỳ rất bất mãn với chính
sách thực dân của Pháp ở Đông Dương. Thái độ lạnh nhạt của Hoa Kỳ làm
cho Bảo Đại rất thất vọng vì, theo nhận định của Bộ trưởng Quốc phòng
Phan Huy Quát, “Bảo Đại không thể xác định được chính sách của Mỹ đối
với Việt Nam thật ra như thế nào. Mặc dù ông hiểu, và chấp nhận việc Mỹ
cần trông cậy vào Pháp trong công cuộc phòng thủ Tây Âu, Bảo Đại thắc
mắc không hiểu tại sao Mỹ không hết lòng ủng hộ cho Việt Nam đạt được
nguyện vọng gần như hoàn toàn độc lập, đặc biệt là về quân sự, vì một
nước Việt Nam mạnh sẽ rất có lợi chẳng những cho Pháp mà còn cho toàn
thể khối Tây phương.”
Vốn không phải là một người làm cách
mạng cho nên khi gặp hoàn cảnh khó khăn và phức tạp, Bảo Đại dễ chán nản
với đời sống chính trị và dễ bị lôi cuốn vào những lạc thú sa đọa của
một cựu hoàng thất thế. Kể từ khi được Bảy Viễn mua chuộc bằng tiền của
sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn ngoài số tiền lương bổng, trương mục
ngân hàng và bất động sản ở Pháp, Bảo Đại càng ngày càng tránh né trách
nhiệm và không còn uy tín của một vị nguyên thủ quốc gia.12
Tương lai chính trị của Bảo Đại coi như chấm dứt khi ông nhận hối lộ của
Bình Xuyên, đồng ý với Pháp ủng hộ tập đoàn mafia này và còn muốn đưa
Bảy Viễn ra làm Tổng trưởng.
Đại sứ Mỹ Collins, dù đồng ý với Cao ủy
Pháp Ely chống Ngô Đình Diệm, cũng là người không chịu chấp nhận Bảy
Viễn trong sinh hoạt chính trị miền Nam.
Một cơ hội thứ hai rất lợi cho giải pháp
Bảo Đại là Quốc Dân Đại Hội họp tại Sài-gòn từ 10.10 đến 17.10.1953 với
hơn hai trăm đại biểu của ba miền đất nước. Trần Trọng Kim, cựu Thủ
tướng không đảng phái, được bầu làm Chủ tịch. Đại Hội này đã làm cho
Pháp bị “sốc” bất ngờ vì ra quyết định dứt khoát tuyên bố “nước Việt Nam
độc lập không gia nhập Liên Hiệp Pháp” và sau khi thâu hồi đầy đủ chủ
quyền “sẽ ký với Pháp một hiệp ước liên minh trên căn bản bình đẳng…”13
Với tinh thần ái quốc và khí thế hăng say của các đại biểu toàn quốc
vào lúc đó, đáng lẽ Đại Hội đã có thể giương cao ngọn cờ chính nghĩa
trước dư luận trong nước và thế giới để áp lực Pháp phải nhượng bộ và
yêu cầu Mỹ giúp đỡ. Một Hội Đồng hay Ủy Ban Thường Vụ đáng lẽ phải được
thành lập ngay sau đó để thiết lập một chương trình hành động giúp cho
Bảo Đại có thêm uy thế điều đình, đòi Pháp thực hiện cụ thể những điều
cam kết để cho nhân dân trong nước đều thấy rõ. Đáng tiếc là sau Quốc
Dân Đại Hội chỉ thấy có những vận động từ phía Pháp nhằm sửa đổi quyết
định “quá khích” ngày 17 tháng Mười. Đại sứ Mỹ Heath lúc đó cũng không
muốn làm cho Pháp bị mất mặt trong khi các tổ chức chính trị quốc gia
chưa tập hợp được thành một lực lượng đáng kể. Cựu Thủ tướng Trần Trọng
Kim đã lớn tuổi và suy yếu, sau Đại Hội phải lên Đà Lạt dưỡng bệnh hơn
một tháng sau đó thì mất. Không có người lãnh đạo, không có tổ chức phối
hợp các hoạt động hậu Đại Hội, các lãnh tụ quốc gia mất dần khí thế và
mất luôn cơ hội tốt đẹp này.
Các chính quyền quốc gia sau 1954 cũng
không làm nổi bật được chính nghĩa tranh đấu cho tự do dân chủ và không
chứng tỏ được bằng những hành động cụ thể sự quan tâm đến an sinh hạnh
phúc của nhân dân. Thời Đệ nhất Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm đã có
công lấy lại được nền độc lập thật sự cho miền Nam Việt Nam, dẹp tan
được cuộc nổi loạn của Bình Xuyên, và đem lại tình trạng ổn định chính
trị và xã hội cho dân chúng. Ông đã tạo dựng được cơ sở cho một chế độ
dân chủ với triển vọng làm cho vùng lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17 trở
nên phồn thịnh và tự do. So với chế độ cộng sản miền Bắc, chế độ dân chủ
ở miền Nam có triển vọng trở thành tương tự như tình trạng giữa Tây Đức
và Đông Đức hay Nam Hàn và Bắc Hàn. Tuy nhiên, do quan niệm trị nước
lỗi thời đưa đến độc tài gia đình trị, Tổng thống Diệm đã làm mất sự ủng
hộ của nhân dân trong nước và chống lại các khuyến cáo của Hoa Kỳ một
cách thiếu khôn ngoan đến độ bị đảo chánh và hãm hại.
Ngô Đình Diệm (1901-1963) là một nhân
vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những nhược điểm lớn
trong vai trò của một nhà lãnh đạo chính trị. Ông là con thứ tư trong
một gia đình chín anh chị em mà bốn người đã bị giết vì lý do chính trị.
Thân phụ là Ngô Đình Khả làm Thượng thư bộ Lễ trong triều đình Thành
Thái, nhà vua Việt Nam đã bị Pháp lưu đày sang đảo Réunion năm 1916 cùng
với hoàng tử kế vị là vua Duy Tân vì cả hai đều mưu đồ chống Pháp. Ngô
Đình Khả có hai thành tích đáng kể: thứ nhất là sáng lập trường Quốc Học
là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên (thời Pháp gọi là École
Primaire Supérieure tức Cao đẳng Tiểu học) vừa dạy bằng tiếng Việt vừa
dạy bằng tiếng Pháp ở Huế; thứ hai là không chịu cùng với các đại thần
trong triều đình tuân lệnh Khâm sứ Ferdinand Lévecque ký tên chung trong
tờ biểu yêu cầu vua Thành Thái thoái vị năm 1907. Vì việc này, ông bị
giáng chức và phải về hưu khôngđược lãnh tiền hưu dưỡng. Cũng do việc
này, ông đã được dân gian truyền tụng trong câu: “Đày vua không Khả, đào
mả không Bài.”14
Ngô Đình Diệm học rất giỏi, làm luận văn
tiếng Pháp ở trường Quốc Học được chấm hạng nhì. Sau khi đậu bằng Thành
Chung Trung học đệ nhất cấp), ông trở về nhà học thêm La-tinh và chữ
Nho, hai năm sau 18 tuổi được mời vào dạy trường Quốc Tử Giám. Xăm 20
tuổi thi và được nhận vào trường Hậu Bổ tức là trường đào tạo quan chức.
Ba năm sau ông đậu thủ khoa trong số hai mươi người tốt nghiệp, đi tập
sự trong hai năm thì được cử làm tri huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Năm
1929, mới 28 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Phan Thiết. Ông
Diệm làm quan nổi tiếng thanh liêm và cương trực, được nhiều người kính
phục.
Năm 1932, khi Bảo Đại về nước chính thức
cầm quyền dưới chế độ bảo hộ của Pháp, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm
Thượng thư bộ Nội Vụ với sứ mạng thực hiện cải cách bộ máy hành chánh để
thiết lập nền quân chủ lập hiến. Chỉ ba tháng sau, ông xin từ chức vì
đề nghị của ông thành lập Viện Dân Biểu với quyền lập pháp không được
chính quyền bảo hộ chấp thuận. Hành động này cho thấy thái độ không nhân
nhượng về chính trị của ông Diệm khiến giới ngoại giao Mỹ thường gọi
ông là con người “all-or-noth- ing” (được tất cả hay không có gì, nói
theo kiểu Việt Nam là ‘được ăn cả ngã về không’), một cá tính mà ông đã
duy trì cho đến ngày bị hạ sát ba mươi năm sau. Sau khi từ chức Thượng
thư, ông lui về sống cuộc đời ẩn dật nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ các hoạt
động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để từ bên Nhật. Ông cũng liên lạc
cả với những nhà ái quốc Á châu khác như Subha Chandra Bose của Ấn độ và
Soekarno của In-đô-nê-si-a là những chính trị gia cũng đang trông cậy
vào Nhật trong công cuộc giải phóng đất nước của họ. Do những hoạt động
này, ông bị mật thám Pháp nghi ngờ và lùng bắt. Theo Nguyễn Phú Đức,
“Ông Diệm trốn thoát và ẩn náu trong nhà của một viên chức toà lãnh sự
Nhật ở Huế. Nhiều năm sau, khi đã trở thành Tổng thống miền Nam Việt
Nam, ông đã trả ơn cho người bạn Nhật, khi đó đã về hưu khỏi Bộ Ngoại
Giao Nhật, bằng cách bổ nhiệm ông ta làm một viên chức không chính thức
của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Tokyo.”15 Tháng Ba 1945, sau khi
Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương, Bảo Đại muốn tìm Ngô Đình Diệm để trao
chức Thủ tướng, nhưng có lẽ để tránh quá lộ liễu trong việc ủng hộ phe
Cường Để, Nhật đã đề nghị với Bảo Đại mời Trần Trọng Kim đứng ra lập
chính phủ. Nếu ông Diệm ra làm Thủ tướng vào lúc đó thì năm 1954 ông hẳn
khó lòng được Hoa Kỳ nhiệt tình hỗ trợ, và cơ hội chính trị có thể đã
vào tay ông Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ.
Ở đây có một nghi vấn cần được giải đáp
về lý do ông Diệm không được mời hay không nhận lời làm thủ tướng. Theo
Trần Trọng Kim, ông Diệm rất ngạc nhiên về việc người Nhật không cho ông
biết chuyện Bảo Đại đang thành lập chính phủ. Ông Kim cũng nhắc lại lời
Bảo Đại trả lời ông là đã không liên lạc được với ông Diệm, và khi ông
hởi cố vấn Nhật thì lúc đầu được trả lời là chưa biết ông Diệm ở đâu sau
lại nói ông Diệm đau chưa về được.16 Nhưng theo bản hồi ký
riêng của cố vấn Nhật Marc Masayuki Yokoyama thì Ngô Đình Diệm đã được
mời lập chính phủ nhưng từ chối vì lý do sức khỏe, nhưng ít lâu sau thì
Yokohama được biết thật ra ông Diệm từ chối vì hai “lý do bí mật”: thứ
nhất là ông đã thề trung thành với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và không muốn
phục vụ Bảo Đại mà ông cho là thân Pháp; thứ hai là ông muốn lấy lại Nam
bộ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng mà lúc này Nhật chưa
muốn trả lại cho Việt Nam.17 Tài liệu của Trần Trọng Kim xem
ra đáng tin cậy hơn vì Yokohama viết bản phúc trình cho nhà cầm quyền
Pháp dưới dạng hồi ký cá nhân không công bố, còn Trần Trọng Kim viết Một Cơn Gió Bụi
năm 1949 được xuất bản công khai khi Ngô Đình Diệm, Bảo Đại và những
chứng nhân khác như Hoàng Xuân Hãn và Tùng Hạ đều còn sống, và không có
người nào đính chính. Chắc hẳn Yokohama không muốn nhìn nhận lý do ông
đã không liên lạc với ông Diệm vì chính phủ Nhật khi đó không muốn bị
chỉ trích là ủng hộ phe thân Nhật.
Tháng Chín 1945, sau khi Việt Minh đã
nắm được chính quyền ở miền Bắc và miền Trung, Ngô Đình Diệm khi đó đang
ở Vĩnh Long với bào huynh là Giám mục Ngô Đình Thục. Ông bỏ ra Huế chưa
rõ vì mục đích gì nhưng đến Tuy Hoà thì bị Việt Minh bắt đem ra giam
giữ ở Tuyên Quang. Chính trong thời gian này ông được tin ông Ngô Đình
Khôi bị giết và đến tháng Hai 1946 thì có cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh-Ngô
Đình Diệm ở Hà Nội như đã được tường thuật trong chương trước. Bernard
Fall ghi nhận hai nét nổi bật trong con người Ngô Đình Diệm: lòng can
đảm không chịu thỏa hiệp dù biết rằng mình có thể bị giết, và tinh thần
gia đình đến độ cố chấp vì đã đặt tình nghĩa anh em lên trên quyền lợi
chung của quốc gia. Nhiều người có thể nhận xét Ngô Đình Diệm không phải
là một chính trị gia khôn ngoan biết thích ứng với tình thế và sử dụng
thời cơ nhưng không thể không thán phục lòng can đảm của ông. Vấn đề Ngô
Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh cũng không hẳn vì lòng cố
chấp đó chuyện ông Ngô Đình Khôi bị giết mà có thể vì ông hiểu rõ dụng
tâm chính trị của ông Hồ. Tuy nhiên, tinh thần vì gia đình của ông như
được chứng tỏ trong thời gian làm Tổng thống VNCH quả thật là một nhược
điểm lớn khiến cho ông trở thành một nhà độc tài gia đình trị.
Năm 1949, sau khi hiệp định Ếlysée được
ký kết, Ngô Đình Diệm được Bảo Đại yêu cầu đứng ra thành lập chính phủ
mới, nhưng ông từ chối vì không đồng ý với nền độc lập nửa vời mà Pháp
trao trả. Thay vì làm Thủ tướng, ông cùng với Giám mục Ngô Đình Thục và
bào đệ Ngô Đình Nhu thành lập đảng Xã Hội Thiên Chúa Giáo vừa chống Việt
Minh vừa đòi Pháp trả lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Khi thấy
hoạt động trong nước còn gặp nhiều khó khăn và đang bị Việt Minh lùng
bắt, ông phải bỏ ra nước ngoài để tìm cách vận động sự giúp đỡ của Hoa
Kỳ. Năm 1950, ông cùng Giám mục Ngô Đình Thục sang Nhật tìm cách tiếp
xúc với tướng Douglas MacArthur, nhưng không được MacArthur ủng hộ. Do
lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị tại Đại học Michigan,
ông Diệm sang Hoa Kỳ để vận động trực tiếp với chính quyền Eisenhower
nhưng cũng không thành công vì Hoa Kỳ vừa bận tham chiến ở Triều Tiên
vừa không muốn làm mất lòng nước Pháp. Trong khi đó, Giám mục Ngô Đình
Thục được Hồng Y Spellman tiếp kiến và nhận lời ủng hộ Ngô Đình Diệm.
Năm 1951, sau khi cùng Giám mục Thục sang Rôma, Pháp và Bỉ, ông Diệm trở
lại Mỹ và ngụ tại Chủng viện Maryknoll ở Ossiming, New York, sau rời
sang Lakewood, New Jersey. Ông được nhiều trường Đại học mời nói chuyện
về chiến tranh chông Pháp ở Việt Nam, nhấn mạnh rằng cuộc chiến tranh
chống Cộng sản ở Việt Nam sẽ không thể thắng lợi nếu Pháp không chịu
trao trả độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt Nam. Nhờ sự giới thiệu của
Hồng Y Spellman, ông Diệm có nhiều dịp gặp gỡ các nhân vật trong Chính
phủ và Quốc hội Mỹ. Dân biểu Walter H. Judd và các Thượng Nghị sĩ Mike
Mansfield và John F. Kennedy là những người nhiệt tình ủng hộ ông.
Tháng Năm 1953, Ngô Đình Diệm sang Bỉ,
ngụ tại nhà dòng Bénédictine ở Saint-André-les-Bruges. Tại đây ông gặp
Linh mục Raymond de Jaegher, tác giả cuốn The Enemy Within
(Kẻ Nội Thù), là người có nhiều hiểu biết về hoạt động cộng sản ở Á
châu. Linh mục Jaegher sau trở thành cố vấn của chính phủ Diệm. Đầu năm
1954 trước tình hình nguy ngập của Pháp ở Điện Biên Phủ, Bảo Đại lại yêu
cầu Ngô Đình Diệm về nước lập chính phủ mới, nhưng ông vẫn từ chối vì
Pháp chưa chịu bỏ vai trò chủ động. Cho đến khi hiệp ước Laniel-Bửu Lộc
được ký kết ngày 4 tháng Sáu 1954 công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập,18
ông Diệm mới thấy có điều kiện thuận lợi. Ngày 16 tháng Sáu, ông nhận
lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ với điều kiện được trao toàn
quyền về chính trị và quân sự. Ngày 7 tháng Bảy (song thất), Ngô Đình
Diệm chính thức cầm quyền với một nội các 18 người.19
Ngay từ những ngày đầu, chính phủ Ngô
Đình Diệm đã gặp phải nhiều trở ngại quá lớn khiến không một quan sát
viên nào dám tin rằng ông có thể vượt qua và tồn tại được. Chưa kịp ổn
định cơ cấu chính quyền, thủ tướng Diệm đã bị tướng Nguyễn Văn Hinh, thứ
trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng, công khai chống đối và
tính chuyện đảo chánh. Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn, cầm đầu lực lượng Bình
Xuyên, dọa tấn công bằng vũ lực nếu ông Diệm không cho tham gia chính
quyền. Do sự mua chuộc các giáo phái của Hoa Kỳ,20 chưa đầy
hai tháng sau ngày thành lập chính phủ. ông Diệm đã phải cải tổ chính
phủ với sự tham gia của một số đại diện của Cao Đài và Hoà Hảo.21
Tuy nhiên, ông cương quyết không chấp nhận Bình Xuyên mặc dù bị áp lực
của Bảo Đại. Tinh trạng bấp bênh của Ngô Đình Diệm trong thời gian đầu
tiên nắm chính quyền đã được hai sử gia người Pháp Jean Lacouture và
Philippe Devillers nhận xét rất đúng như sau:
Các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo và lực
lượng Bình Xuyên đã thiết lập được những giang sơn riêng: Cao Đài kiểm
soát vùng lầy Bắc, Hoà Hảo vùng Tây Nam, Bình Xuyên vùng ngoại thành
Saigon. Ngay trong chính phủ, Diệm cũng phải dành chỗ cho những nhân vật
của hai giáo phái. Trong hang ngũ quân đội cũng có những đơn vị của
Bình Xuyên. Sau hết, quân đội viễn chinh Pháp, từng bảo vệ đắc lực những
người tiền nhiệm của Diệm, đã công khai bày tỏ thái độ không ưa ông…
Hơn nữa, các viên chức người Pháp đang còn nắm giữ nhiều chức vụ then
chốt trong chính quyền đã không chịu tha thứ cho người kế vị hoàng thân
Bửu Lộc về những phương cách đối xử không thân thiện đôi với những điều
mà ông coi là “tàn tích của thực dân”. Sau hết, việc Việt Minh nắm chính
quyền ở miền Bắc đã đẩy vào miền Nam hàng trăm ngàn dân tị nạn, phần
đông là người Công giáo, để cho miền đất nước đã tám năm bị tàn phá vì
chiến tranh và kiệt quệ về kinh tế, nay phải chịu thêm gánh nặng. Một xứ
sở tan nát, ung thối, ngất ngư, đã bị kết án tử hình nhưng đang được
hoãn thi hành, đó là tình trạng Việt Nam khi Ngô Đình Diệm đứng ra lèo
lái.”22
Tình trạng bất ổn định vẫn tiếp tục vì
Pháp không ngừng vận động Hoa Kỳ thay thế Diệm. Bảo Đại cũng theo Pháp
chống Diệm, muốn đưa Nguyễn Văn Xuân ra làm Thủ tướng hoặc ít nhất cũng
là Phó Thủ tướng với Nguyễn văn Hinh trở lại chức Tổng Tham mưu trưởng
và Bảy Viễn làm Bộ trưởng Nội vụ. Các giáo phái cũng đi hàng hai. Trần
Văn Soái đi với Diệm nhưng vẫn liên lạc và giúp đỡ Ba Cụt. Chính phủ
Diệm chỉ có thể tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại
mặc dù chính Đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay Ngô Đình Diệm. Ngày
19.11, Hinh phải rời khỏi Việt Nam sau khi kế hoạch đảo chánh bị
Lansdale phá vỡ. Khi các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình
Xuyên dưới danh nghĩa Mặt trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia ra tối hậu
thư yêu cầu Diệm phải cải tổ chính phủ trước ngày 26.3.1955, Nguyễn
Thành Phương và Trình Minh Thế đều có ký tên. Collins phải triệu Phương
và Thế đến gặp để khiển trách và dọa cắt tiền trả lương quân đội Cao
Đài. Được sự ủng hộ của Cao ủy Pháp Paul Ely, Bình Xuyên gia tăng các
hoạt động đe dọa lật đổ chính phủ. Ngày 30 tháng Ba, Bình Xuyên bắt đầu
những hoạt động khiêu khích như tấn công Bộ Tổng Tham Mưu và pháo kích
Dinh Độc Lập. Diệm cho quân nhảy dù tấn công Tổng Nha cảnh Sát do Bình
Xuyên kiểm soát. Ely cố thuyết phục Collins áp lực Diệm phải nhượng bộ
nhưng Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận Bình Xuyên. Ngày 1 tháng Tư,
Collins đề nghị với Washington cho tiến hành kế hoạch thay thế Diệm.
Sau khi tham khảo Thượng Nghị sĩ Mansfield, ngoại trưởng Dulles chỉ thị
cho Collins ủng hộ Diệm trong việc loại trừ Bình Xuyên nhưng yêu cầu ông
mở rộng thành phần chính phủ, nếu không Mỹ sẽ cúp viện trợ. Collins và
Ely dàn xếp được cuộc hưu chiến giữa Bình Xuyên và quân đội chính phủ.
Trước tình trạng căng thẳng và bế tắc
giữa cuộc vận động chống Diệm của Pháp-Bảo Đại và lập trường không khoan
nhượng của ông Diệm đối với Bình Xuyên, ngày 20 tháng Tư Collins trở về
Washington để thuyết phục chính phủ thay thế Ngô Đình Diệm bằng Phan
Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Ngày 26, ông Diệm cách chức Tổng Giám đốc cảnh
sát Công an của Lại Văn Sang (Bình Xuyên) và thay thế bằng Đại tá
Nguyễn Ngọc Lễ của Quân đội Quốc gia. Sang không chịu bàn giao, tuyên bố
chỉ nhận lệnh của Bảo Đại. Bảo Đại cũng yêu cầu Mỹ có biện pháp trong
vòng 24 tiếng đồng hồ nếu không sẽ quyết định đơn phương. Sau khi gặp
Collins ngày 27.4, Dulles đồng ý gửi điện cho Sứ quán Mỹ ở Sài- J0n tiến
hành kế hoạch thay thế Diệm.23 Sáng hôm sau, Lansdale gửi
điện về Washington yêu cầu tiếp tục ủng hộ Diệm. Vào buổi trưa, Bình
Xuyên tấn công Thành Cộng Hoà và pháo kích bằng súng cối vào Dinh Độc
Lập. Cuộc chiến giữa lực lượng nổi loạn và quân đội chính phủ chính thức
bắt đầu. Bảo Đại cử Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư lệnh quân đội và ra lệnh
cho thủ tướng Diệm qua Pháp hội kiến. Diệm không chịu tuân hành.
Lansdale gửi khẩn điện về Mỹ xác quyết là không có thủ tướng thân Pháp
nào chống được cộng sản và Ngô Đình Diệm vẫn là người xứng đáng nhất.
Dulles chỉ thị cho Sứ quán ở Sài-gòn hủy bỏ công điện thay thế Diệm và
Tổng Thống Eisenhower triệu tập phiên họp của Hội Đồng An ninh Quốc gia.
Kết quả là Hoa Kỳ quyết định tiếp tục yểm trợ miền Nam Việt Nam và chỉ
trích Pháp không chịu hợp tác.
Một số tác giả cho rằng Hoa Kỳ vội vã
hủy bỏ ý định thay thế Ngô Đình Diệm khi thấy ông đánh thắng được Bình
Xuyên. Thật ra, Dulles chỉ ra lệnh cho Sứ quán Mỹ ngưng xúc tiến kế
hoạch thay thế Diệm để chờ xem kết quả việc ông đối phó với phe nổi
loạn. Chỉ đến khi Diệm đã dẹp yên được loạn quân thì Hoa Kỳ mới thực sự
ủng hộ và đề cao ông như một đại lãnh tụ. Biên bản phiên họp thứ 246 của
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ thuật lại lời của Ngoại trưởng Dulles như
sau:
…Những khó khăn hiện thời là do hai
nguyên do chính: Thứ nhất là những giới hạn của Thủ tướng Diệm với tư
cách lãnh đạo một chính phủ. Trong khi Diệm có những ưu điểm đã được
nhiều người biết khỏi cần phải nói tới, thực tế là ông xuất phát từ miền
Bắc và ông không tin cậy ở những người khác, có thể với lý do chính
đáng. Hơn nữa, ông không muốn trao quyền cho ai. Mặc dù những khuyết
điểm ấy, ông Diệm lẽ ra cũng đủ sức đối phó với tình hình nếu không vì
một giới hạn căn bản thứ nhì —đó là sự thiếu ủng hộ vững chắc của người
Pháp. Trong khi các nhà lãnh đạo chính phủ như (Thủ tướng) Mendès
France, (Tổng trưởng) Edgar Fauré và Tướng Ély đã miễn cưỡng hợp tác với
Diệm, thì những viên chức thuộc địa Pháp tại Việt Nam đã làm đủ mọi
cách để phá hoại ông. Hai giới hạn chính yếu này đã đem lại một tình
trạng khiến Tướng Collins phải kết luận là chúng ta cần phải tìm người
thay thế Diệm.
Thật ra, chúng ta từ lâu nay đã nói với
người Pháp là chúng ta sẵn sàng xem xét việc thay thế Diệm nếu họ có thể
kiếm được một người. Họ vẫn chưa làm được việc ấy….
Chiều hôm qua, chúng tôi ở Bộ Ngoại giao
đã gửi đi một loạt công điện phức tạp phác thảo những phương cách thay
Diệm và chính phủ của ông. Tuy nhiên, vì những biến chuyển và vụ bùng nổ
tối hôm qua, chúng tôi đã chỉ thị cho nhân viên Sứ quán ở Sài-gòn hoãn
thi hành kế họach thay Diệm. Những biến chuyển trong đêm qua có thể
đưa tới việc ông Diệm bị lật đổ hoặc ông sẽ ra khỏi cuộc hỗn loạn như
một đại anh hùng. Vì thế chúng ta đang chờ xem kết quả trước khi tính
đến việc quyết định ông Quát hay ông Đỗ sẽ là người thay thế.24 (cách viết nghiêng được thêm vào)
Ngày 29.4, thủ tướng Diệm triệu tập một
phiên họp với các nhân sĩ chính khách và đại diện 18 đoàn thể tại Dinh
Độc Lập tham khảo ý kiến về tình hình chính trị trong nước và mệnh lệnh
của Bảo Đại đòi ông sang Pháp. Ngày hôm sau, hơn hai trăm đại diện đoàn
thể họp tại toà Đô chính Sài-gòn do lời mời của Nguyễn Bảo Toàn (Việt
Nam Dân Xã Đảng), Hồ Hán Sơn (Việt Nam Phục Quốc Hội) và Nhị Lang (Mặt
Trận Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam). Hội nghị thành lập Hội Đồng Nhân
Dân Cách Mạng Quốc Gia, ra tuyên ngôn đòi truất phế Bảo Đại và yêu cầu
Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới để dẹp loạn Bình Xuyên, thu hồi
độc lập hoàn toàn, đòi Pháp rút hết quân về nước và tổ chức bầu cử Quốc
Hội.
Ngày 30.4, Quân đội Quốc gia tiến đánh
căn cứ chính của Bình Xuyên ở bên kia cầu chữ Y. Sau ba ngày chống cự,
Bình Xuyên phải bỏ Sàigòn-Chợ Lớn và rút về cố thủ ở Rừng Sát. Đám tàn
quân này hoàn toàn tan rã vào tháng Chín khi quân quốc gia do Đại tá
Dương Văn Minh chỉ huy mở chiến dịch Hoàng Diệu càn quét Rừng Sát. Bảy
Viễn phải chạy trốn sang Cam-bốt rồi sang Pháp. Sau chiến dịch này,
Dương Văn Minh được thăng chức Thiếu tướng. Đầu tháng Sáu, quân quốc gia
lại mở chiến địch Đinh Tiên Hoàng tấn công bản doanh của lực lượng Hoà
Hảo ở Cái vồn và Thốt Nốt, Long Xuyên. Trần Văn Soái (Năm Lửa) và Lê
Quang Vinh (Ba Cụt) phải bỏ chạy sang Cam-bốt.
Những cố gắng tuyệt vọng của Pháp chống
Diệm trong quyết định tiêu diệt Bình Xuyên và cưỡng lệnh của Bảo Đại
càng làm cho Hoa Kỳ ủng hộ Diệm mạnh hơn. Ngày 10 tháng Năm, ông Diệm
cải tổ chính phủ, cắt bớt một số Bộ và giảm thành phần nội các từ 22
người xuống 14, phần lớn là chuvên gia.25 Cuối tháng Năm, Hoa
Kỳ cử Frederick Reinhardt làm Đại sứ thay thế Collins. Đầu tháng Sáu,
tướng Ely cũng về Pháp, tướng Jacquot lên thay. Phong trào chống Bảo Đại
được phát động mạnh mẽ trong khi Ngô Đình Diệm bác bỏ lời yêu cầu của
Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh mở hội nghị hiệp thương để thảo luận về
tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 23 tháng Mười, một cuộc Trưng
cầu Dân ý được tổ chức để dân chúng miền Nam lựa chọn theo Bảo Đại hay
Ngô Đình Diệm. Khi đó Bảo Đại đã trở lại thân Pháp và đang ủng hộ Bình
Xuyên, do đó chắc chắn là ông phải thất bại vì đã mất hết tín nhiệm
trong dân chúng. Tuy nhiên, ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho
việc thắng cử của Ngô Đình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98.2
phần trăm phiếu trong khi Bảo Đại chỉ được 1.1 phần trăm. Bằng chứng
gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn
số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sàigòn-Chợ Lớn có 450,000 cử tri ghi
danh mà số phiếu bầu lên tới 605,025.
Ngày 26 tháng Mười, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của miền Nam, quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa!
Mặc dù nổi tiếng là người có lý tưởng,
liêm khiết và can đảm, Ngô Đình Diệm đã phạm nhiều sai lầm chính trị
trong hơn tám năm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam. Ông có một quan niệm
trị nước theo truyền thống Nho giáo trong cương vị của một tín đồ Ki-tô
giáo kiên quyết thi hành sứ mệnh mà ông tin tưởng được Thiên chúa trao
cho.
Ông Diệm có thể bị chỉ trích là phản lại
truyền thống Nho giáo vì ông đã truất phế Bảo Đại, tức là phản lại
nguyên tắc “trung quân” (trung thành với vua) của đạo Khổng. Thật ra,
tương quan giữa vua (quân) và bầy tôi (thần) theo truyền thống Nho giáo
là tương quan hai chiều trên căn bản “lễ” và “trung” như Khổng Tử đã
nói: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua lấy lễ mà khiến
bầy tôi, bầy tôi lấy trung mà thờ vua).26 Mạnh Tử còn diễn
giải tương quan vua tôi này một cách rất cụ thể khi nói với Tề Tuyên
Vương: “Vua xem bày tôi như tay chân thì bày tôi xem vua như bụng như
lòng. Vua xem bày tôi như chó như ngựa thì bày tôi xem vua như người lạ
trong nước. Vua xem bày tôi như đất như cỏ thì bày tôi xem vua như giặc
như thù.”27 Bởi thế, khi vua ra những mệnh lệnh trái ngược
với ý nguyện của dân, tức là trái với ý trời, ?bày tôi có quyền cưỡng
lại. Xưa kia, Thành Thang đánh vua Kiệt để dựng nhà Thương, Vũ Vương
đánh vua Trụ để dựng nhà Chu, được Khổng Tử ghi nhận là làm cách mạng,
thuận theo ý trời và hợp với lòng người (Thang Vũ cách mệnh, thuận hồ
thiên nhi ứng hồ nhân). Hành động đó được gọi là “điếu dân phạt tội”,
tức là cứu dân mà đánh kẻ có tội.
Như vậy, việc Ngô Đình Diệm cưỡng lệnh
và truất phế Bảo Đại trong tình thế chính trị ở miền Nam năm 1955 phải
được coi là chính đáng, hợp với lòng dân và đúng với triết lý chính trị
Khổng- Mạnh. Rõ ràng là sau hiệp định Genève, Bảo Đại không còn tin
tưởng gì vào tương lai chính trị của phe quốc gia, cũng không thấy có hi
vọng được Hoa Kỳ ủng hộ. Do đó, ông quay về liên kết với Pháp và trông
cậy vào những nguồn lợi bất chính do Bình Xuyên cung cấp để tiếp tục
cuộc sống vương giả trên đất Pháp. Khi đó, Ngô Đình Diệm một mặt phải lo
định cư gần một triệu người tị nạn từ miền Bắc, một mặt cố gắng thâu
hồi chủ quyền độc lập ở miền Nam để tạo dựng chính nghĩa quốc gia chống
lại miền Bắc cộng sản. Riêng về điểm sau này, ông vừa phải ngăn chặn
những âm mưu đảo chánh trong nội bộ do Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh
cầm đầu, vừa phải đối phó với những nhóm giáo phái làm chính trị và lực
lượng phiến loạn Bình Xuyên được Pháp khuyến khích và ủng hộ. Ngô Đình
Diệm chỉ chống lại Bảo Đại khi thấy Bảo Đại đã phạm vào những lỗi lầm
chính trị và đạo đức trái ngược với quyền lợi của quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, khi Ngô Đình Diệm đã làm chủ
được tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam thì ông lại bắt đầu thiết
lập một chế độ độc tài gia đình trị. Có thể nói rằng quan niệm trị nước
của ông Diệm căn bản là quan niệm “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân)
của đạo Khổng mà ông đã thực hiện từ thời ra làm quan gần ba mươi năm về
trước. Ông cương quyết đòi lại nền độc lập cho quốc gia và thành thật
mong muốn đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở
nên giàu mạnh, hơn hẳn chế độ cộng sản ở miền Bắc. Thêm vào đó, với tư
cách một tín đồ Công giáo nhiệt thành, ông tin tưởng đã được Thiên Chúa
trao cho sứ mệnh thiêng liêng khi ông trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng
Hoà và ông càng kiên quyết thực hiện sứ mệnh thiêng liêng ấy. Trên nền
tảng tinh thần đó, ông không chấp nhận những quan điểm khác biệt và
không tha thứ ai làm trái ý ông. Ngày 15.1.1956, ông giải tán Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông trong việc
lật đổ Bảo Đại nhưng cũng là những lãnh tụ chính trị độc lập như Nguyễn
Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và Nhị Lang.
Ngày 4 tháng Ba, 1956, cuộc bầu cử Quốc
Hội Lập Hiến được diễn ra gồm 123 dân biểu mà hầu hết là người của chính
phủ hay thân chính phủ. Ngày 17 tháng Tư, Tổng Thống Diệm gửi thông
điệp cho Quốc Hội đưa ý kiến về việc soạn thảo Hiến Pháp, về việc này,
Bernard Fall viết: “Ông (Diệm) dẫn lời của Emmanuel Mounier, tác giả của
chủ nghĩa Nhân Vị, để cảnh giác các nhà lập pháp về những nguy cơ của
nền dân chủ Tây phương, ‘đem tự do tương đối cho một thiểu số nhưng đồng
thời làm suy giảm hiệu năng của Quốc gia.’ Ông cũng nhấn mạnh rằng Việt
Nam cần phải bác bỏ cả hai chủ nghĩa cực đoan là Phát-xít và Cộng sản.”28
Sau vài lần duyệt xét và đề nghị sửa đổi bản dự thảo, Tổng thống Diệm
chính thức ban hành bản Hiến Pháp ngày 26 tháng Mười, 1956. Ngoài những
quyền hành thông thường của vị nguyên thủ quốc gia dưới chế độ Tổng
Thống, Hiến Pháp VNCH còn dành cho Tổng Thống những quyền đặc biệt trong
địa hạt an ninh và tình trạng khẩn cấp. Tổng Thống có nhiệm kỳ là 5 năm
và có thể ứng cử ba nhiệm kỳ liên tiếp, về mặt dân quyền, bản Hiến pháp
cũng bao gồm đầy đủ mọi quyền tự do căn bản của dân chúng như bất cứ
một nước dân chủ nào ở Tây phương, nhưng trong thực tế có nhiều hạn chế
và vi phạm.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, không thể
không nhắc đến hai đạo luật khắt khe do dân biểu Trần Lệ Xuân, tức bà
Ngô Đình Nhu, là tác giả. Thứ nhất là Luật Bảo Vệ Gia Đình, ban hành
ngày 29 tháng Năm, 1958, còn được gọi nôm na là “luật cấm ly dị” trừ khi
được Tổng Thống cứu xét và cho phép. Thứ nhì là Luật Bảo Vệ Luân Lý, ra
đời bốn năm sau, cũng thường được biết dưới tên nôm na là “luật cấm
nhảy đầm” ở bất cứ nơi nào, ngay cả trong những tiệc vui của gia đình.
Trên thực tế, đạo luật này còn cấm nhiều thứ khác như cấm ngừa và phá
thai, cấm nghề mãi dâm, đấu quyền Anh, chọi gà, mê tín dị đoan. Tháng
Sáu 1962, khi đạo luật vừa được ban hành, một số nhà báo Mỹ hỏi bà Nhu
tại sao lại có sự cấm đoán gắt gao như thế, nhất là lại áp dụng luôn cho
cả người ngoại quốc, bà Nhu trả lời rằng “người Á châu không quen thói
dâm đãng giữa đàn ông và đàn bà, con trai và con gái,” và rằng người Mỹ
“đến Việt Nam là để giúp chúng tôi chứ không phải để nhảy đầm.”29
Ngoài ra, cần phải nhắc đến sắc lệnh số 10/62 hạn chế tự do cá nhân do
Tổng Thống ban hành ngày 16.5, qui định mọi cuộc hội họp hay tụ họp dù
là xum họp gia đình cũng phải có giấy phép của Sở Cảnh sát địa phương.
Về mặt an ninh, từ tháng Giêng 1956 đã
có sắc lệnh số 6/56 của Tổng Thống cho phép các cơ quan an ninh bắt giữ
bất cứ người nào có hành động phương hại đến an ninh quốc gia, tháng Năm
1959 lại có đạo Luật số 10/59 thiết lập Toà Án Quân Sự Lưu Động để gia
tăng hiệu lực ngăn chặn những hoạt động khủng bố của cộng sản. Tháng Năm
1962, Tổng thống lại ra sắc lệnh số 11/62 thiết lập Toà Án Quân Sự Mặt
Trận tại ba Vùng Chiến thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người
bị kết tội không được phép kháng cáo. Các bản án tử hình đều được trình
lên Tổng Thống xem xét và quyết định. Tất cả những văn kiện pháp lý này
đều có lý do chung là ngăn ngừa và trừng trị những hành động phá hoại
của cộng sản, nhưng thực tế cũng nhắm cả vào những thành phần đối lập
không cộng sản. Đó là một sai lầm chính trị quan trọng của Ngô Đình Diệm
không những làm suy yếu hàng ngũ quốc gia mà còn khiến cho nhiều người
yêu nước ở miền Nam đồng ý hợp tác với cộng sản. Thật khác hẳn chủ
trương liên hiệp với những lãnh tụ quốc gia, dù chỉ là sách lược tạm
thời, của Hồ Chí Minh sau Cách mạng tháng Tám 1945 để xây dựng và củng
cỗ lực lượng kháng chiến chống Pháp. Sách lược đó cũng đã được sử dụng
thành công chống lại Ngô Đình Diệm mà kết quả là sự ra đời của Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Trong những năm đầu của chính quyền Ngô
Đình Diệm, chiến dịch tố cộng và diệt cộng đã truy lùng và trừng phạt
không những các cán bộ cộng sản nằm vùng mà còn cả những người đã đi
theo Việt Minh chống Pháp mặc dù họ không phải là đảng viên cộng sản.
Những người này đã không chọn di cư ra Bắc sau khi hiệp định Genève chia
đất nước làm đôi nhưng, ngoại trừ một số rất ít, đều không ủng hộ chính
phủ Diệm. Cuối năm 1958 có tin là 1,000 người đã bị giết ở trại tập
trung Phú Lợi khiến Hà Nội tổ chức biểu tình phản đối và đòi Ủy hội Quốc
tế Kiểm soát Đình chiến (UHQT) điều tra. Thân nhân của nhiều cán bộ ra
Bắc tập kết cũng bị bắt giữ, tra khảo và làm tiền bởi các viên chức địa
phương. Tác giả Bùi Tín nhắc lại những biện pháp hãi hùng đối với những
nạn nhân của chiến dịch tố cộng:
… các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, với
sắc lệnh 10/59, đưa máy chém khắp các vùng để trừng trị các lực lượng
cộng sản đang ẩn dấu trong dân. Hà Nội gọi đó là cuộc chiến tranh một
bên trong các tài liệu tổng kết.
Các chiến dịch tố cộng ở đồng bằng sông
Cửu Long, ở khu 5, bắt vợ con những người “cộng sản” (thật ra phần lớn
chưa hoặc không phải cộng sản, chỉ là những người kháng chiến chống thực
dân Pháp) từ bỏ những người chồng đi tập kết ra Bắc; những người kháng
chiến cũ, gia đình họ bị quản thúc, kiểm soát gắt gao, gây nên một không
khí rất căng thẳng.30
Đối với các đảng phái quốc gia có khả
năng trở thành đối thủ trong cuộc tranh giành quyền lực thì những cuộc
thanh trừng đã được chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện từ đầu năm 1955,
trước khi dẹp yên loạn quân Bình Xuyên và những nhóm tôn giáo đối lập. Ở
miền Trung, vào tháng Ba, Ngô Đình Cẩn đã dẹp xong các mật khu của Đại
Việt tại Ba Lòng (Quảng Trị) và Phú Yên. “Kế tiếp, bắt đầu tiêu diệt các
hệ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum
và nhiều tỉnh khác. Tại Quảng Nam, trên 20 người bị bắt giữ, kể cả Trịnh
Thể, Nguyễn Tiến Long, Trần Bích Kiện, Hồ Văn Anh, Phan Thiệp (Quận
trưởng Tam Kỳ) cùng nhiều giáo viên trường Khải Định Huế.”31
Khi thành lập chính phủ cũng như trong
những lần cải tổ nội các, Ngô Đình Diệm đều không muốn có sự tham gia
của Phan Huy Quát, một lãnh tụ Đại Việt cũng được Hoa Kỳ tin cậy. Trong
cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến tháng Ba 1956, ứng cử viên đối lập Phan
Quang Đán đắc cử nhưng không được công nhận vì “gian lận”, và bị thua
phiếu ứng cử viên chính phủ trong lần bầu lại. Năm 1959, ông Đán ra
tranh cử lần nữa và trúng cử với đa số phiếu nhưng vẫn bị loại vì “vi
phạm luật bầu cử”. Một ứng cử viên đối lập khác là Nguyễn Trân cùng đắc
cử với ông Đán ở Sài-gòn cũng bị loại với cùng một lý do. Ngày
15.3.1958, Nghiêm Xuân Thiện, cựu Tổng trấn Bắc phần, trong một lá thư
ngỏ “Gửi Dân biểu của tôi” đăng trên tuần báo Thời Luận do ông làm Chủ nhiệm, nhận xét rằng:
Dưới thời chính phủ phong kiến thực dân
Nguyễn Văn Tầm, “trong những cuộc bầu cử hội đồng tỉnh và hội đồng xã,
dân chúng bị dọa nạt và ép buộc phải đi bầu, nhưng còn khá hơn những
cuộc bầu cử của quí vị, vì không có ai dùng xe cam- nhông chở lính vào
Sài-gòn để “giúp việc bỏ phiếu”… Quí vị lấy làm hãnh diện đã tạo lập cho
Việt Nam một chính thể mà quí vị nghĩ là tương tự như nước Mỹ. Nếu có
tương tự thì cũng như một toà nhà chọc trời và một ngôi nhà mái tôn
giống nhau ở chỗ cùng là những nơi có người ở.
Ở Hoa Kỳ, Quốc Hội đích thực là một nghị
trường và các dân biểu là những nhà làm luật tức là những người tự do
và có công tâm không sợ hãi chính phủ, biết rõ nhiệm vụ của họ và dám
đem ra thực hiện. Ở đây, dân biểu là những viên chức chính trị làm luật
như một xướng ngôn viên trên đài phát thanh, lớn giọng đọc những bản văn
đã được soạn sẵn từ trước.”32
Ngay sau đó, báo Thời Luận bị đóng cửa và chủ nhiệm Nghiêm Xuân Thiện bị đưa ra tòa về tội phỉ báng chính quyền và bị xử mười tháng tù giam.
Ngày 26 tháng Tư, 1960, mười tám nhân
vật danh tiếng họp báo tại khách sạn Caravelle công bố lá thư chung gửi
Tổng thống Ngô Đình Diệm kêu gọi “khẩn cấp thay đổi chính sách, ban hành
các quyền tự do dân chủ để có thể cứu vãn tình thế và đưa đất nước ra
khỏi cơn nguy biến.” Lá thư nhấn mạnh đến những vụ bắt bớ, giam cầm và
xử án phi pháp, nạn lũng đoạn hàng ngũ công chức và quân đội của các tổ
chức chính trị của chính quyền đưa đến những vụ thăng thưởng hay trừng
phạt bất công, các tệ nạn độc quyền kinh tế và tham nhũng làm cho dân
chúng mất niềm tin và dễ bị cộng sản lôi cuốn. Lá thư chung này, được dư
luận đặt tên là “Bản Tuyên cáo Caravelle,”33 đã không được ông Diệm quan tâm đến.
Bộ Ngoại giao Mỹ, qua Đại sứ Elbridge
Durbrow, tìm mọi thuyết phục ông Diệm cải thiện các điều kiện chính trị
và bộ hành chánh nhưng không có kết quả. Ngay cả cố vấn cải cách điền
địa và phát triển nông thôn Wolf Ladejinsky rất có thiện cảm với Diệm
cũng trở nên lạnh nhạt và xa lánh ông. Chỉ còn một người vẫn còn nhiệt
tình ủng hộ ông Diệm là Edward G. Lansdale không được Bộ Ngoại giao cho
trở lại Việt Nam.
Ngày 11.11.1960, một số tiểu đoàn Nhảy
Dù do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu thực
hiện một cuộc đảo chánh, chiếm giữ một số cơ quan chính phủ và bao vây
Dinh Độc Lập. Nhóm sĩ quan này được sự ủng hộ của một số chính trị gia
chống Diệm như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu. Cuộc đảo
chính bất thành vì mục đích chính của những người làm đảo chính chỉ nhằm
ép buộc ông Diệm thay đổi chính sách và lập chính phủ mới. Đại sứ Mỹ
giữ thái độ trung lập và khuyến khích hai bên thương thuyết. Ông Diệm
hứa thay đổi chính trị nhưng kéo dài cuộc điều đình cho đến khi viện
binh của Trần Thiện Khiêm và Huỳnh Văn Cao từ Mỹ Tho và Biên Hoà về giải
cứu ngày 12.11. Nhóm cầm đầu đảo chính phải bỏ trốn qua Nam – Vang.
Sau vụ đảo chính hụt này, tình hình
chính trị và quân sự của VNCH càng ngày càng bất lợi. Ngô Đình Diệm nặng
tay hơn với : Từng thành phần đối lập và kiểm soát sự trung thành của
quân đội chặt chẽ hơn trước. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn không thể thuyết
phục ông thực hiện những cải cách chính trị và ngăn chặn nạn bè mái tham
nhũng. Đại sứ Durbrow báo cáo tình trạng bi quan và cho rằng cần phải
thay đổi lãnh đạo trong một tương lai gần.
Ngày 27.2.1962, hai phi công Nguvễn Văn
cử và Phạm Phú Quốc cất cánh từ Biên Hoà trong một phi vụ oanh tạc quân
cộng sản ở Gò Công thình lình đổi hướng bay về Sài-gòn, ném bốn trái bom
và bắn một số hoả tiễn vào dinh Độc Lập. Hai ông Diệm, Nhu đều thoát
nạn, chỉ có bà Nhu bị thương nhẹ. Sau vụ ám sát hụt này, Tổng thống Diệm
càng tin chắc mình luôn luôn được ơn trên che chở.
Ngô Đình Diệm mất dần những người bạn Mỹ
ủng hộ ông. Mặc dù không tìm cách xa lánh Diệm như Ladejinsky, Lansdale
rất quan tâm đến những sai lầm trầm trọng của người lãnh đạo VNCH và đã
không ngần ngại nói thẳng những điều lo ngại và những lời khuyến cáo
rất chân tình của mình. Lá thư của Lansdale gửi Ngô Đình Diệm ngày 30
tháng Giêng 1961 sau hai tuần trở lại Việt Nam quan sát tình hình cho
thấy rõ thái độ của người bạn có công lớn nhất và đáng tin cậy nhất của
Tổng thống Diệm. Sau khi cám ơn ông Diệm về cuộc tiếp đón nồng hậu và tỏ
nỗi vui mừng được gặp lại ông, Lansdale xác nhận tình cảm thân thiện
của Tổng thống Kennedy và các nhà lãnh đạo quốc phòng và ngoại giao đối
với ông Diệm sau khi nghe Lansdale tường thuật về kết quả chuyến đi. Sau
đó, Lansdale thẳng thắn nói đến những điều ông đã ghi nhận được trong
những cuộc tiếp xúc với các giới ở Việt Nam, theo đó “nguy cơ hiện thời
của Ngài phát xuất từ những hành động của chính Ngài. Họ nói rằng Ngài
muốn tự làm lấy quá nhiều việc, rằng Ngài không chịu trao trách nhiệm
thực sự cho người khác và cứ can thiệp vào việc làm của họ, rằng Ngài
cho rằng mình không bao giờ sai lầm, và rằng có quá nhiều tổ chức của
Ngài như Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa và Đảng Cần Lao được thành lập do ép
buộc —nghĩa là người ta gia nhập vì sợ— chứ không phải là những tổ chức
thật sự bắt nguồn từ trong lòng người Việt Nam. Tôi tin rằng sẽ có nhiều
tiếng nói chỉ trích riêng tư ở bên đây khi tin tức lan truyền về những
phản ứng thuận lợi đối với bản phúc trình của tôi.
Cách trả lời hay nhất cho những lời chỉ
trích đó là hành động của Ngài ở Việt Nam. Những người chỉ trích sẽ phải
im miệng trước những việc làm của Ngài. Một việc Ngài có thể làm là
thông báo sắp cải tổ chính phủ. Ngài cũng có thể làm cho Hội đồng An
ninh của Ngài trở nên sống động hơn. Xin Ngài nhớ đề nghị của tôi: triệu
tập các tư lệnh quân đội và tỉnh trưởng từ các Quân khu 1 và 5 về họp
với Hội đồng An ninh. Ngài có thể tuyên bố trước hội nghị này và cho
truyền thanh tới nhân dân trên toàn quốc. Xứ sở của Ngài cần được Ngài
nâng cao tinh thần. Đồng bào của Ngài cần được biết rằng Việt Nam đang
bị hiểm họa Cộng sản, rằng chính phủ hoan nghênh sự giúp đỡ của mỗi
người dân, và rằng Việt Nam phải được và sẽ được gìn giữ trong độc lập
và tự do.
Sau khi nói chuyện, Ngài trao việc điều
khiển phiên họp cho Phó Tổng thống Thơ hay Bộ trưởng Thuần. Đây phải là
một phiên họp kín. Tôi tin rằng mỗi tỉnh trưởng, mỗi chỉ huy quân sự, và
các đại biểu vùng sẽ báo cáo công khai và thẳng thắn những vấn đề khó
khăn ở địa phương họ. Việc này Ngài đã làm một lần trước đây, vào tháng
Hai 1955, và thật là một hành động rất khôn ngoan và lành mạnh. Ngài sẽ
được nghe nhiều điều, không phải chỉ những vấn đề xấu mà cả những ý kiến
tốt nữa.
Phiên họp sẽ rất lợi cho Ngài nếu có sự
tham gia của một số người Mỹ đang muốn giúp Ngài. Hãy mời những người mà
Ngài tin là thành thật. Họ cũng sẽ học được rất nhiều và sẽ trở nên
thực tế hơn trong nhiệm vụ của họ ở Việt Nam. Tôi nghĩ nên mời McGarr và
Colby.
Bây giờ điều làm tôi hết sức lo ngại là
phe chính trị đối lập với Ngài. Tôi đã bỏ ra nhiều ngày giờ để suy nghĩ
về chuyện này từ khi rời Việt Nam. Có nhiều lời đàm tiếu và cảm nghĩ xấu
trong nhiều giới ở Sài-gòn. Những điều đó xấu và tệ đến độ tôi lo ngại
có thể khiến những người thiếu suy xét sẽ toan tính một vụ đảo chính
khác. Ngài là một trong những lãnh tụ vĩ đại của Thế giới Tự do và một
người bạn mà tôi vô cùng quý mến. Vì vậy, xin Ngài hãy nhận lấy những
lời bộc lộ rất thân tình của tôi.
Đàn áp đối lập chính trị bằng cách bắt
giam người hay đóng cửa báo sẽ chỉ làm cho những lời chê trách biến
thành những xúc cảm thù hận và đưa đến sự thành lập các tổ chức bí mật
và những âm mưu chống lại Ngài… Nếu Ngài có thể tập hợp những người đối
lập soạn thảo một chương trình cứu quốc với những ý kiến cụ thể và có
thể làm chương trình này một cách tự do giữa họ với nhau ngoài chính
phủ, Ngài sẽ chuyển một phần lớn năng lực chính trị của họ thành một
việc làm xây dựng. Họ sẽ tranh luận với nhau, người này cố thuyết phục
người kia chấp nhận ý kiến của mình thay vì sử dụng năng lực chính trị
của họ vào việc đả kích Ngài….
Có lẽ hành động khôn ngoan nhất là kêu
gọi giới trẻ trong thành phần đối lập. Hay nhất là chính Ngài đích thân
nói chuyện với họ. Ngài có thể cho họ biết rằng Việt Nam đang lâm vào
tình thế bị đe dọa mất tự do, rằng mọi người Việt Nam phải làm việc để
cứu lấy tự do, rằng Ngài biết các chính trị gia đối lập không đồng ý với
tất cả các chương trình của Ngài, nhưng việc điều hành một chính phủ
đang bị Cộng sản tấn công kịch liệt không thể đơn giản như sự suy nghĩ
của những người chỉ trích. Ngài muốn họ không chỉ chê trách chính quyền.
Nếu họ có ý kiến hay, họ hãy viết xuống và thỏa thuận về một chương
trình mà họ tin là có thể cứu được đất nước. Không phải chương trình của
Cộng sản mà là chương trình của những người Việt Nam tự do. Nếu họ ngồi
xuống viết và thỏa thuận với nhau về một chương trình như vậy, Ngài có
thể bảo đảm với họ rằng Ngài sẽ không cản trở đường đi của họ —dù cho
điều đó có nghĩa là sự thành lập một đảng đối lập duy nhất và mạnh mẽ.
Ngài cũng có thể nói với họ như Ngài đã
nói với tôi năm 1955 và 1956—rằng điều mơ ước của Ngài là nướcViệtNam có
hai đảng chính trị mạnh. Ngài có thể nói rõ rằng Ngài mời gọi những
người trẻ tuổi trong các nhóm đối lập vì họ là những người có trách
nhiệm xây dựng tương lai. Họ sẽ sống trong tương lai. Có quá nhiều chính
trị gia lớn tuổi đang sống trong quá khứ hay chỉ đi tìm quyền lực một
cách vị kỷ….34
Lá thư này được trích dẫn gần hết để
chứng tỏ mối thân tình và lòng sốt sắng giúp đỡ của Lansdale đối với Ngô
Đình Diệm. Tuy nhiên, dù đã có công “cứu” ông Diệm hồi tháng Tư 1955
(bằng điện văn gửi ngoại trưởng Dulles, chống lại cuộc vận động thay
Diệm của Đại sứ Collins), lại đích thân giúp cho ông Diệm loại được
Nguyễn văn Hinh và các lực lượng vũ trang chống đối lúc đó (bằng việc
hối lộ các giáo phái) và tồn tại được nhiều năm sau, Lunsdale nay đã
không thể thuyết phục được ông Diệm nghe theo những lời khuyến cáo thực
tế và đầy thiện chí của mình.
Một người bạn thân khác của ông Diệm là
Wesley R. Fishel, giáo sư chính trị và là trưởng đoàn cố vấn của Đại Học
Michigan giúp cho VNCH về tổ chức và điều hành bộ máy chính quyền từ
1954. Fishel gặp ông Diệm ở Nhật năm 1950, giới thiệu ông với các nhân
vật ở Mỹ và hết sức bênh vực chính quyền Diệm cho đến khi ông và nhóm cố
vấn Michigan thất vọng với hai ông Nhu-Diệm, bắt đầu chỉ trích chế độ
và kết quả là chương trình Michigan bị hủy bỏ năm 1962.
Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, người đã
thuyết phục Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles ủng hộ Ngô Đình
Diệm trước áp lực của Pháp và các lực nổi loạn trong những năm
1954-1955, cũng trở nên thất vọng với Diệm mấy năm sau đó. Đại sứ
Durbrow kể lại rằng, trong dịp trở về Washington điều trần trước Thượng
Viện năm 1960, ông có gặp riêng Mansfield và được vị Thượng Nghị sĩ này
nói chuyện về “những chính sách thiếu dân chủ, tình trạng tham nhũng và
những nhược điểm khác của chính phủ Diệm.” Theo Durbrow, khi đó
Mansfield đã “hoàn toàn lạnh nhạt với Diệm.”35 Đáng chú ý
nhất là, sau chuyến đi Việt Nam tháng Mười Hai 1962, Mansfield đã viết
một bản phúc trình cho Tổng Thống Kennedy về những sai lầm của ông Diệm
và đề nghị Hoa Kỳ nên rút ra khỏi Việt Nam trước khi bị sa lầy trong
“một cuộc nội chiến tuyệt vọng” của miền Nam chống cộng sản miền Bắc.
Ông cũng đích thân gặp Kennedy để nói rõ quan điểm của mình. Sau cuộc
tiếp kiến này, Kennedy nói với phụ tá Kenny O’ Donnell, “Tôi tức giận
Mike vì ông ta đã bất đồng ý với chính sách của chúng ta, nhưng tôi cũng
tự giận mình vì tôi đã thấy chính mình đồng ý với Mike.” Trong lần gặp
gỡ thứ nhì với Mansfield, Kennedy cho hay ông đồng ý sẽ rút hết cố vấn
quân sự ra khỏi Việt Nam, nhưng không thể làm chuyện này cho tới năm
1965, sau khi đã tái đắc cử. Sau đó, Kennedy tâm sự với Charles
Bartlett, phái viên thân cận ở Bạch Cung của tờ Chattanooga Times:
“Chúng ta không cầu mong ở lại Việt Nam. Những người ở đó ghét chúng ta.
Có thể họ sẽ tống cổ chúng ta ra khỏi nơi đó bất cứ lúc nào. Nhưng tôi
không thể bỏ một miền đất như vậy cho cộng sản để rồi vẫn được dân chúng
bầu lại tôi.”36
Trước tình hình suy yếu của VNCH năm
1960, Đảng Cộng sản đã không bỏ lỡ cơ hội tiến hành chiến dịch Đồng Khởi
được bắt đầu từ 1959 ở các tỉnh miền Trung, tiếp theo Nghị quyết thứ 15
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Công cuộc sách động quần chúng đấu
tranh vũ trang và chính trị lan tràn xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, phá hoại các khu trù mật và thiết lập một hệ thống “chính quyền
cách mạng” hoạt động công khai hay bí mật tùy theo mức độ “giải phóng” ở
mỗi địa phương. Tình hình chính trị miền Nam sau cuộc đảo chánh hụt
11.11 của nhóm Nguyễn Chánh Thi-Vương Văn Đông cũng đủ chín để Hà Nội
giúp các đảng viên và thân hữu của họ ở miền Nam cho ra đời một tổ chức
chính trị có danh nghĩa chính thức trong cuộc tranh đấu chống Mỹ và lật
đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 20 tháng Mười Hai 1960, Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập và công bố Bản Tuyên
ngôn và Chương trình Mười Điểm (xem thêm chương Bảy).
Ngoài chính sách độc tài gia đình trị,
chính phủ Diệm còn phạm nhiều sai lầm trong việc hoạch dịnh và thi hành
các chương trình tranh thủ nhân dân chống cộng.
Trước hết là cải cách điền địa (ngoài
Bắc gọi là cải cách ruộng đất). Quyền sở hữu đất đai thời thực dân đã
tạo ra nhiều bất công xã hội do tình trạng bất bình đẳng giữa thiểu số
đại điền chủ và đa số nông dân nghèo khó. Điều này đặc biệt đúng ở miền
Nam với 2.5 phần trăm đại điền chủ sở hữu 45 phần trăm tổng số ruộng đất
trong khi 73 phần trăm tiểu điền chủ chỉ có được 15 phần trăm. Với 80
phần trăm dân chúng sống ở nông thôn, cải cách điền địa để san bằng
những bất công ấy là một việc làm cần thiết của chính quyền ở miền Nam
để lôi cuốn sự ủng hộ của đa số dân chúng. Điều đáng nói là ở miền Bắc
thực ra không có nhu cầu cải cách ruộng đất vì 98.2 phần trăm đất đai
thuộc quyền sở hữu của những người chỉ có tư 5 ha trở xuống.37 Do đó, như đã thấy ở chương Ba, việc ấn định thành phần địa chủ ở nông thôn miền Bắc đã rất lúng túng và gượng ép, đến độ có nhiều trường hợp phải “đôn” trung nông và phú nông
lên thành địa chủ để có đủ tỉ lệ người đem ra đấu tố, như kết quả sửa
sai cho thấy ở khu Tự trị Việt Bắc đã có đến 83 phần trăm hộ bị “quy
sai” (xem chương Ba.) Chính sách cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ là một sự áp dụng máy móc của mô hình đấu tranh giai cấp đã
được thực hiện ở Nga và Trung Quốc nhưng không thích hợp ở Việt Nam.
Qua chính sách cải cách ruộng đất kiểu
cộng sản, chính quyền miền Bắc đã gây dựng được một tầng lớp bần nông và
cố nông làm nền tảng, với hàng trăm ngàn người tình nguyện làm dân công
đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Mặc dù chính sách cải cách
ruộng đất đã giết oan quá nhiều người khiến cho Đảng và Nhà nước phải
nhận lỗi trước nhân dân và tìm cách sửa sai, các chương trình hợp tác
hóa nông nghiệp và tập thể hoá ruộng đất trong những năm về sau đã làm
cho ngay cả các giới bần nông và cố nông cũng cảm thấy bất mãn. Tuy
nhiên, sau hàng chục năm được nhà nước tuyên truyền, tổ chức và kiểm
soát chặt chẽ, dân chúng đã quen chịu đựng nỗi đau khổ hiện tại và hi
vọng ở hạnh phúc tương lai.
Chính sách cải cách điền địa ở miền Nam,
qua Dụ số 57 ngày 22 tháng Mười 1956, mang tính chất ôn hoà, vừa không
làm cho quyền lợi của địa chủ bị thiệt hại nhiều, vừa cải thiện cuộc
sống của nông dân nghèo bằng cách giảm địa tô và tạo cơ hội cho tá điền
trở thành địa chủ. Theo luật, đại điền chủ chỉ được giữ lại tối đa 100
ha ruộng, số còn lại sẽ bị truất hữu để bán lại cho các tá điền. Số
ruộng truất hữu sẽ được chính phủ bồi thường 10 phần trăm bằng tiền mặt
và 90 phần trăm bằng trái phiếu. Tá điền được giảm địa tô xuống 25 phần
trăm vụ mùa thu hoạch so với 50 phần trăm khi trước. Tá điền có quyền
mua ruộng truất hữu, tối đa mỗi gia đình là 5 ha, trả cho nhà nước trong
12 năm. Tiền mua ruộng bằng số tiền nhà nước bồi thường cho chủ điền.
Trên thực tế, việc thi hành không đơn
giản như vậy. Nhiều người trong chính phủ Ngô Đình Diệm kể cả những cấp
lãnh đạo ở địa phương đều thuộc thành phần trung hay đại điền chủ. Trong
thời gian chiến tranh, vì họ phải bỏ lên thành thị nên ruộng đất của họ
bị Việt Minh tịch thu và phân phát cho các tá điền. Theo Dụ số 57, họ
được khôi phục quyền sở hữu ruộng đất, được hưởng địa tô dù bị giảm một
nửa, và những người có trên 100 ha đều được tiền bồi thường trên số
ruộng bị truất hữu. Tá điền, mặc dù được ưu đãi hơn so với thời Pháp
thuộc, cảm thấy bị thua thiệt so với thời sống dưới sự kiểm soát của
Việt Minh họ được cấp ruộng mà không phải trả, hay trả rất thấp, địa tô.
Ngoài ra họ còn bị các viên chức địa phương sách nhiễu và làm tiền
trong các thủ tục vay tiền nhà nước và làm giấy tờ mua ruộng truất hữu.
Do đó, chính sách cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm đã không thành
công, tạo cơ hội cho cộng sản phản tuyên truyền, xúi dục nông dân bất
hợp tác. Chính sách cải cách điền địa càng thất bại hơn nữa khi MTGPMN
ra đời năm 1960 đã chủ trương phát không ruộng đất cho nông dân hoặc
giảm địa tô xuống mức độ tượng trưng.
Năm 1959, chính phủ Ngô Đình Diệm thiết
lập chương trình “khu trù mật,” được coi như một sáng kiến tách rời nông
dân ở những vùng hẻo lánh ra khỏi vòng ảnh hưởng và kiểm soát của cộng
sản. Mỗi khu trù mật được xây dựng như một thành phố nhỏ ở một địa điểm
gần các trục lộ giao thông, thuận tiện cho các sinh hoạt nông nghiệp,
tiểu thương và tiểu công nghệ, có máy phát điện, trường học, nhà thương,
chùa và nhà thờ. Mỗi gia đình được cấp 3,000 mét vuông và vật liệu xây
nhà, cộng thêm một mảnh vườn để trồng cây với chuồng heo chuồng gà có
khả năng sinh lợi tức. Mỗi khu trù mật là một thành lũy với những đội
dân vệ vũ trang để bảo vệ an ninh và ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản.
Mặc dù được quan niệm tốt đẹp như vậy, chương trình khu trù mật vẫn
không đạt được kết quả mong đợi. Chỉ hai năm sau chương trình này bị dẹp
bỏ khi mới thành lập được 20 khu trù mật trên tổng số 80 theo kế hoạch
dự trù.
Các quan sát viên ngoại quốc đều cho
rằng chương trình khu trù mật thất bại vì kéo dân ra khỏi nơi sinh sống
lâu đời của họ để tập trung họ vào một khu xa lạ khiến họ phải làm lại
cuộc sống từ đầu. Điều này chỉ đúng một phần vì làng mạc ở miền Nam
không khép kín và tổ chức chặt chẽ với những truyền thống lâu đời như ở
miền Bắc. Đã đành người dân nông thôn ở đâu cũng không muốn rời bỏ nơi
quen thuộc nhưng họ cũng sẵn sàng thích ứng nếu cuộc sống mới thực sự
đem lại cho họ sự yên ổn và hạnh phúc. Lý do chính vẫn là tệ nạn quan
liêu, tham nhũng của các viên chức cầm quyền địa phương khiến họ thường
bị sách nhiễu và đời sống vẫn bị khó khăn, thiếu thốn, Họ bị cắt xén các
vật liệu được chính phủ cung cấp hoặc phải trả tiền túi ra mua, Họ ít
khi ra khỏi khu trù mật vì lý do an ninh hay vì bị chính những người có
nhiệm vụ bảo vệ họ hạch hỏi, gây khó dễ để làm tiền khi biết họ ra ngoài
để buôn bán làm ăn. Nhiều tỉnh trưởng muốn lập công với Tổng thống đã
bắt dân làm việc quá sức để phá kỷ lục mau chóng lập khu trù mật hoặc
kịp trình diễn một bề ngoài sung túc của khu trù mật khi Tổng thống tới
kinh lý, tháng Ba năm 1962, khu trù mật được thay thế bằng chương trình
“Ấp Chiến lược.” Chương trình này, do Sir Robert Thompson quan niệm, đã
được thực hiện thành công trong chiến dịch tiễu trừ cộng sản ở Mã-Lai
trong thập niên 1950 nhưng trong những điều kiện khác với Việt Nam. Giữa
năm 1961, kinh tế gia Eugene Staley được Tổng thống Kennedy phái sang
Việt Nam nghiên cứu tình hình. Giáo sư Vũ Quốc Thúc được cử làm đối tác
phía VNCH để làm việc với giáo sư Staley. Trong bản phúc trình cho
Kennedy, ngoài những đề nghị cải thiện đời Sống kinh tế, xã hội và chính
trị ở miền Nam, Staley còn nhấn mạnh đến nhu cầu tăng cường lực lượng
dân vệ và nghĩa quân để bảo vệ an ninh cho dân chúng. Ông đề nghị xây
dựng một hệ thống ấp chiến lược như những tiền đồn chống cộng của nhân
dân Việt Nam. Tổng thống Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu rất tán thành ý
kiến này và coi đây là cơ hội tốt để hoàn thiện quan niệm về khu trù
mật. Ông Nhu đích thân điều động chương trình.
Khác với quan niệm của Thompson về ấp
chiến lược là lập hàng rào an ninh bên ngoài những thôn ấp hiện hữu, ông
Nhu chủ trương tiến hành xây dựng những địa điểm chiến lược mới và dân
chúng tập trung vào đó được cung cấp các phương tiện cần thiết để bảo vệ
an ninh và phát triển cuộc sống. Ngoài việc được phân phát vũ khí và
huấn luyện chiến đấu, dân trong ấp còn có phương tiện thông tin trực
tiếp với các lực lượng quân sự địa phương trong trường hợp khẩn cấp. Dân
chúng sẽ được chính phủ giúp đỡ nâng cao cuộc sống và do đó sẽ đoàn kết
làm hậu thuẫn cho chính phủ trong công cuộc chống cộng. Ấp chiến lược
được đưa lên thành quốc sách có tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, mọi
tính toán lý thuyết tốt đẹp này lại thất bại một lần nữa khi thực hiện.
Do chỉ tiêu phải hoàn tất 7,200 ấp chiến lược trong năm đầu tiên38
trên tổng số dự định là 14,000, nhiều ấp chiến lược đã được thành lập
một cách vội vàng, cẩu thả và dân chúng bị áp lực làm việc quá sức, chịu
sự kiểm soát gắt gao và phải đóng góp nhiều thì giờ vào công tác phòng
vệ. Việc xây dựng ấp chiến lược quá nhiều và quá nhanh cũng làm suy giảm
khả năng của quân đội trong việc bảo vệ dân chúng ở những vùng do chính
phủ kiểm soát. Lợi dụng những nhược điểm này, bộ đội cộng sản gia tăng
tấn công các ấp chiến lược yếu và cắt đứt các đường tiếp viện của quân
đội. Hệ thống ấp chiến lược tan rã dần.
Năm 1963 các biến chuyển bất lợi cho
chính quyền Ngô Đình Diệm liên tiếp xảy ra đưa đến cái chết thê thảm của
các ông Diệm, Nhu, Cẩn và sự sụp đổ của đệ Nhất Cộng Hoà. Ngày 2 tháng
Giêng, quân đội VNCH mở cuộc tân công vào Ấp Bắc, một địa điểm do cộng
sản kiểm soát thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, cách tây- nam Sài gòn
khoảng 40 dặm. Mặc dù đông gấp bốn lần quân địch và có sự yểm trợ của xe
thiết giáp và máy bay trực thăng, ba tiểu đoàn bộ binh của VNCH đã bị
quân cộng sản phục kích gây thiệt hại nặng nề. Họ chỉ rút lui khi quân
quốc gia được một tiểu đoàn dù đến tiếp cứu. Ngày 25.2, phúc trình
Mansfield khuyến cáo Hoa Kỳ nên rút khỏi Việt Nam được công bố khiến cho
quan hệ Việt- Mỹ trở nên căng thẳng. Tinh thần chống Mỹ của gia đình
Tổng thống Diệm lên đến cao độ. John Mecklin, cố vấn toà Đại sứ, báo cáo
về bộ Ngoại giao Mỹ rằng “sự cay đắng bị đè nén này có thể gây hậu quả
tai hại cho quan hệ của chúng ta với chính phủ Việt Nam hơn là một sự
phản đối công khai.39 Vào cuối tháng Ba, ông Nhu có một “buổi
thảo luận đặc biệt của Quân ủy Cần Lao” với Trung tướng Tôn Thất Đính,
Tổng tư lệnh Quân đoàn III và Thủ đô Sàigòn và Đại tá Lê Quang Tung, Chỉ
huy trưởng Lực lượng Đặc biệt, để ra chỉ thị về các biện pháp ngăn chặn
đảo chánh do Mỹ sắp đặt.40
Từ tháng Tư trở đi, một chuỗi biến cố
giữa chính quyền và Phật giáo dẫn đến cuộc đảo chính 1 tháng Mười Một.
Nguyên nhân đầu tiên là lệnh cấm treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên chùa
chiền trong ngày lễ Phật Đản. Thông thường cờ của tôn giáo nào cũng chỉ
treo ở những nơi thờ tự của tôn giáo ấy, nếu đôi khi có ngoại lệ thì
chẳng có gì đáng để cho chính quyền phải ngăn cấm. Tuy nhiên, riêng năm
1963 thì xảy ra chuyện đáng tiếc về vụ treo cờ Công giáo và cờ Phật giáo
ở thành phố Huế. Đầu tháng Tư, nhân dịp lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm
Tổng Giám mục Ngô Đình Thục được thụ phong giám mục,41 cờ Vatican được treo nhiều nơi ngoài
nhà thờ ở Huế và những vùng phụ cận. Đầu tháng Năm, để chuẩn bị tổ chức
lễ Phật Đản, các Phật tử treo cờ Phật giáo tại tư gia nhiều hơn cờ Công
giáo trong dịp chúc mừng Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Điều này dễ hiểu
vì đa số dân Việt Nam vốn theo đạo Phật từ lâu. Do sự can thiệp của Tổng
Giám mục Thục, ngày 6.5 Phủ Tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật
giáo ngoài khuôn viên các chùa. Ngày 8.5, Thượng Tọa Trí Quang thuyết
pháp tại chùa Từ Đàm, phản đối lệnh cấm và tố cáo chính quyền đàn áp
Phật giáo. Sau đó, khoảng ba ngàn Phật tử xuống đường biểu tình phàn đối
chính phủ. Phó Tỉnh trưởng Đặng Sỹ cho lệnh cảnh sát và quân đội giải
tán đám biểu tình khiến cho 8 người chết và 15 bị thương.42
Các cuộc biểu tình của tăng ni và Phật
tử lan ra một số tỉnh miền Trung và đặc biệt ở Sài-gòn trong khi những
cuộc điều đình giữa chính quyền và các nhà lãnh đạo Phật giáo chưa đạt
được kết quả. Ngày 11.6, Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu tại
Sài-gòn. Tấm hình của vị tu sĩ ngùn ngụt lửa do Malcom Browne, phái viên
AP, chụp được bỗng nhiên làm sôi nổi dư luận thế giới về cuộc tranh đấu
của Phật Giáo Việt Nam. Tổng thống Diệm lúc đầu muốn giải quyết vấn đề
Phật giáo một cách ổn thỏa, nhưng ông trở nên bất lực trước những lời
tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân) có tính cách nhục mạ đối với
các nhà lãnh đạo Phật giáo, đồng thời kịch liệt chỉ trích Hoa Kỳ can
thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Ngày 7.7, nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam, một lãnh tụ của VNQDĐ và Đại Việt Dân Chính uống thuốc độc tự tử
để phản đối chính quyền đưa ông ra Tòa Án Mặt Trận xét xử cùng với những
người liên quan đến vụ đảo chính hụt gần ba năm trước (11.11.1960.) Bác
sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị phủ Tổng Thống —cơ
quan mật vụ được CIA yểm trợ để kiểm soát các phần tử chống đối chính
phủ— là người đầu tiên trong chính quyền âm mưu đảo chính nhằm loại bỏ
hai vợ chồng ông Ngô Đình Nhu trước nguy cơ sụp đổ của VNCH. Cùng chủ
mưu trong vụ này là Đại tá Phạm Ngọc Thảo,43 Tổng Thanh tra
chương trình Ấp chiến lược. Âm mưu của Tuyến-Thảo được sự ủng hộ của một
số sĩ quan trẻ, một số nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Được tin
này, Lucien E. Conein, nhân viên CIA đang làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ, báo
tin cho người bạn thân là Trung tướng Trần văn Đôn khi đó cũng đang bàn
tính chuyện đảo chính với các tướng Lê Văn Kim, Dương Văn Minh và Trần
Thiện Khiêm. Tướng Khiêm gặp Đại tá Thảo và chặn được kế hoạch đảo chính
sớm này. Sau đó, Trần Kim Tuyến bị Ngô Đình Nhu nghi ngờ và đẩy đi làm
Tổng Lãnh sự bên Ai Cập.44
Đêm 21.8, Ngô Đình Nhu điều động Lực
Lượng Đặc Biệt tấn công chùa Xá Lợi, bắt giữ hàng trăm tăng ni, trong đó
có hai nhà lãnh đạo giáo hội Phật giáo là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết
và Thượng tọa Thích Tâm Châu. Đồng thời, tại Huế và nhiều nơi khác cũng
xảy ra những vụ tấn công chùa chiền và bắt bớ tăng ni, Phật tử. Sau vụ
này, Đại sứ Cabot Lodge được Tổng thống Kennedy chấp thuận quyết định
“không ngăn cản” cuộc đảo chánh nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi
đường lối lãnh đạo và loại bỏ vai trò của vợ chồng ông Nhu.
Khi biết là quan hệ với Washington có
thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm tỏ ra muốn thương thuyết với Hà
Nội. Ý định này có thể đã nảy sinh từ cuối tháng Năm khi Hồ Chí Minh
tuyên bố trong một buổi phỏng vấn với nhà báo Úc Wilfred Burchett rằng
chính phủ Ngô Đình Diệm và MTGPMN có thể thương thuyết ngưng bắn và
thành lập một chính phủ liên hiệp. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi được
Mieczyslaw Maneli, Trưởng đoàn Ba-Lan trong UHQT, thăm dò khả năng hiệp
thương với miền Nam, còn cho biết rõ rệt hơn: “Vấn đề chính là Mỹ phải
ra đi. Trên cơ sở chính trị này, chúng tôi có thể thương thuyết về mọi
chuyện. Tất cả mọi chuyện.”45 Một vài cuộc tiếp xúc bí mật
giữa ông Nhu và đại diện của Hà Nội được diễn ra như Ellen J. Hammer đã
thuật lại, và cả Đại sứ Pháp Roger Lalouette lẫn Trưởng đoàn Ba-Lan
Mieczyslaw Maneli cũng đều biết.46 Tuy nhiên, những cuộc tiếp
xúc này rõ rệt chỉ có tính cách thăm dò. Ngày 2.9, qua sự thu xếp của
Đại sứ Ý d’Orlandi và Chủ tịch UHKSQT Goburdhun, Ngô Đình Nhu tiếp
Maneli tại Dinh Gia Long để được biết tin tức chuyến đi Hà Nội của ông
ta hồi tháng Bảy. Theo Maneli, khi được hỏi về khả năng trao đổi kinh tế
và văn hoá giữa Nam và Bắc như một bước đầu để tiến đến thoả hiệp về
chính trị, Phạm Văn Đồng không những chỉ nhấn mạnh rằng trở ngại chính
không phải là Diệm mà là sự hiện diện của Mỹ, ông còn gợi ý về bước đầu
của hiệp thương là mở đường bưu điện và đổi gạo ở miền Nam lấy than đá ở
miền Bắc.
Ngày 29.8, giữa lúc quan hệ
Saigon-Washington đang cực kỳ căng thẳng và một cuộc đảo chánh có thể
xảy ra bất cứ lúc nào, Tổng thống de Gaulle lên tiếng kêu gọi hai miền
Nam, Bắc tham dự một hội nghị hòa bình, thống nhất và trung lập. Mặc dù
Tổng thống Diệm không đáp ứng tích cực lời kêu gọi này, và dù ông Nhu đã
thông báo cho Đại sứ Lodage về nội dung những cuộc gặp gỡ giữa ông với
Maneli và với đại diện miền Bắc để chứng tỏ ông không giấu giếm việc tìm
hiểu đối phương đồng thời xác nhận không đồng ý với đề nghị trung lập
của de Gaulle, ông Nhu cũng muốn gửi một tín hiệu cảnh cáo Hoa Kỳ rằng
hậu quả của việc ngưng ủng hộ Ngô Đình Diệm sẽ là một chính phủ trung
lập đòi Mỹ rút ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, tín hiệu đó lại càng khiến
cho Mỹ muốn mau chóng lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Maneli tiếp tục
đóng vai trung gian không chính thức giữa Ngô Đình Nhu và Phạm Văn Đồng,
nhưng chưa có điều gì cụ thể thì cả hai ông Nhu, Diệm đã bị hạ sát
trong cuộc đảo chính 1 tháng Mười Một.
Sai lầm chính của Tổng thống Ngô Đình
Diệm trong vụ Phật giáo là chỉ nghe lời những người trong gia đình và
che chở họ ngay cả khi ông biết những người đó làm sai, như trường hợp
Tổng Giám mục Thục và bà Nhu. Công bằng mà nói, ông Diệm là người Công
giáo đang ở vị thế cầm quyền tất không khỏi có những hành vi đối xử có
lợi cho Công giáo, nhưng điều đó không có nghĩa là các ông Diệm, Nhu và
Cẩn có chủ trương kỳ thị và đàn áp Phật giáo. Quyết định sai lầm của ông
Diệm khi chiều ý TGM Thục về vụ treo cờ lúc đầu là do tình cảm gia
đình, khi bị phản đối thì lại phản ứng vì tự ái, thay vì thỏa mãn những
thỉnh nguyện bình thường của Phật giáo, ông lại áp dụng luật lệ không
công bằng khiến phát sinh một phong trào tranh đấu mang tính chất chính
trị bị cộng sản lợi dụng. Đến lúc đó thì ông Nhu nhúng tay vào và chính
quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ là do những quyết định chính trị sai lầm của
ông Nhu. Vì tin tưởng mạnh mẽ ở khả năng và thiện chí của mình và vì
tình gắn bó chặt chẽ với gia đình, Tổng thống Diệm đã chống lại mọi
khuyến cáo hay áp lực tách ông ra khỏi những người thân, nhất là Ngô
Đình Nhu là người mà ông tin tưởng có thể giúp ông giải quyết được mọi
chuyện khó khăn. Giả thử cuộc đảo chánh thành công trong việc loại bỏ
hai vợ chồng ông Nhu và ông Cẩn bằng cách giam giữ, giết chết hoặc lưu
đày họ ra ngoại quốc, Tổng thống Diệm chắc chắn sẽ có những phản ứng
tiêu cực và không khi nào chịu hợp tác với (và bị hạn chế bởi) những
người đã phá hủy hệ thống quyền lực và triết lý cai trị của ông. Người
Mỹ đã không hiểu được điều này khi tìm mọi cách “tách Nhu ra khỏi Diệm”.
Nói như vậy không có nghĩa là biện minh
cho việc hạ sát Tổng thống Diệm và hai ông Nhu, Cẩn. Mặc dù sai lầm vì
chính sách độc tài và tinh thần gia đình trị, ông Diệm không phạm những
tội ác đối với dân tộc và đất nước để có thể bị giết chết một cách tàn
nhẫn sau khi đã gọi cho những người cầm đầu đảo chính đến bắt mình.
Không ai có thể phủ nhận ông là một người nhiệt thành yêu nước và ngay
cả Chủ tịch Hồ Chí Minh, kẻ thù chính trị của ông, cũng đã bày tổ thái
độ kính trọng lòng yêu nước và tinh thần can đảm của ông.47
Những người lãnh đạo nước Mỹ, dù có ghét đầu óc độc lập của ông Diệm đến
đâu, cũng chưa bao giờ có thái độ khinh thường ông như đối với các
tướng lãnh đã lật đổ và thay thế ông.48 Ngô Đình Nhu, éminence grise
của Tổng thống Diệm, thông minh nhưng nhiều thủ đoạn, là người chịu
trách nhiệm chính về những biện pháp sai lầm của chế độ. Tuy nhiên, ông
cũng phải được nhìn nhận là một trí thức yêu nước và có lý tưởng, dù
thiếu thực tế với học thuyết “cần lao nhân vị” của ông. Khi xảy ra
chuyện Phật giáo là lúc ông đang lo đối phó với các áp lực của Hoa Kỳ
tách rời ông ra khỏi ông Diệm. Ông rất bực mình không hiểu tại sao Tổng
thống phải quan tâm và can thiệp vào chuyện treo cờ Phật giáo.49
Tuy nhiên, ông cũng có một nhược điểm lớn là luôn luôn bênh vực bà vợ
ông ngay cả khi bà phát biểu những lời lẽ xúc phạm quá đáng đối với Phật
giáo.
Ngô Đình Cẩn có thể đã gây nhiều kẻ thù
không những chỉ về phía đảng viên cộng sản mà cả trong hàng ngũ các đảng
phái quốc gia, nhất là VNQDĐ và nhóm Đại Việt Cách Mạng mà ông đã triệt
hạ ở miền Trung. Nhưng riêng về vụ Phật giáo thì ông lại là một nạn
nhân của chính gia đình ông. Ngay từ đầu, ông Cẩn đã bất đồng ý kiến với
TGM Ngô Đình Thục về vụ cấm treo cờ Phật giáo. Ông vốn có quan hệ tốt
với chùa Từ Đàm và thường giúp đỡ cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Khi
có những người Công giáo đến gặp ông phàn nàn về việc ông tài trợ cho
Phật giáo, ông bực mình gắt, “Đã đến lúc họ cần được giúp đỡ. Dưới thời
Pháp người Công giáo đã được đủ mọi thứ. Nay đến lượt tín đồ đạo Phật.”50
Nhưng từ khi TGM Thục được Vatican bổ nhiệm về Huế năm 1961 thì vai trò
của ông Cẩn bắt đầu bị lấn át và mất dần thế lực. Đầu năm 1963, Ngô
Đình Nhu phái người thân tín ra nhắn với ông Cẩn là ông nên sang Nhật
nghỉ một thời gian nhưng ông không chịu. Khi Phủ Tổng thống ra thông tư
về vụ cấm treo cờ, ông Cẩn ra chỉ thị cho Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng
không thi hành và đã cử phái đoàn chính phủ tham dự lễ Phật Đản tại chùa
Từ Đàm.51
Việc hạ sát các ông Diệm, Nhu, Cẩn là
những quyết định chính trị mà cả Hoa Kỳ và những người làm đảo chánh đều
có trách nhiệm nhưng sau này lại đổ lẫn cho nhau. Nhóm tướng lãnh có
thể lo ngại rằng nếu các ông Nhu, Diệm không bị giết, sau này các ông ấy
sẽ có thể trở lại cầm quyền và trả thù. Nhưng ai cũng thấy rõ là vào
thời điểm của cuộc đảo chánh 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm đã hoàn toàn
bị thất thế cả về đối nội lẫn đối ngoại. Đại đa số các giới quân sự,
chính trị và dân chúng trong nước đều chống đối. Dư luận thế giới đều
bất mãn và Hoa Kỳ đã quyết định chấm dứt hợp tác với Ngô Đình Diệm. Khi
Tổng thống Diệm bị lâm nguy, không thấy có một hành động can thiệp nào
của các lực lượng “Thanh niên Cộng hòa” hay “Phụ nữ Liên đới” mà ông bà
Nhu vẫn tự hào là những lực lượng nòng cốt với hàng triệu thành viên.
Nhiều người từng ủng hộ Ngô Đình Diệm đã thấy sự sai lầm của ông và đã
trở nên thờ ơ hay chống đối. Như vậy, trong trường hợp hai ông Nhu, Diệm
không bị giết và chỉ bị lưu đày ra ngoại quốc, các ông cũng không còn
cơ hội nào để có thể trở lại lãnh đạo cuộc chiến đấu chống cộng sản. Cho
dù hai ông có tìm cách liên kết với cộng sản để tính chuyện trung lập
hóa miền Nam và chấm dứt vai trò của Mỹ ở Việt Nam, các ông cũng không
còn có những điều kiện để nói chuyện được với họ, nhất là khi tình hình
chính trị và quân sự đã trở nên thuận lợi cho họ.
Tổng thống John F. Kennedy đã thật tình
bị “sốc” khi hay tin Tổng thống Diệm bị hạ sát giữa lúc đang họp với các
cố vấn. Ông đứng phắt lên, mặt tái nhợt đi và chạy vọt ra khỏi phòng
họp. Tướng Taylor cho biết khi đó mặt Kennedy lộ “một vẻ xúc động và
choáng váng… mà tôi chưa từng thấy bao giờ.”52Theo McCone,
Giám đốc CI A hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh trong các phiên họp là không
thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu đày, nhưng thật khó mà
tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép làm đảo chánh thì có
thể sẽ phải có giết chóc. Không ít người trong chính quyền Kennedy ngạc
nhiên về cái chết của hai ông Diệm, Nhu. Khi nhà báo Marguerite Higgins
hỏi Phụ tá Ngoại trưởng Roser Hilsman “Anh cảm thấy thế nào về bàn tay
dính máu của anh?” ông ta trả lời : “Này Maggie, cách mạng bao giờ chả
tàn nhẫn thế nào cũng phải có nạn nhân.”53 Mặc dù lập trường
của chính quyền Kennedy trong giai đoạn chót vẫn là “không ngăn cản một
cuộc đảo chính” (not to thwart a coup), ngày 30 tháng Mười, Hilsman đã
điện sang Sài-gòn một thư nội bộ trong đó ông đã tiên liệu một biến cố Gotterdămmerung
(Hoàng hôn của các thần linh) và căn dặn về việc lật đổ các ông Nhu,
Diệm: “Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu đến cùng và
phá tan dinh (Độc lập) nếu cần để đạt được thắng lợi. Điều kiện cho gia
đình họ Ngô là đầu hàng vô điều kiện vì nếu không họ sẽ tìm cách gạt
được cả các lực lượng đảo chính lẫn Hoa Kỳ. Nếu gia đình bị bắt sống, vợ
chồng ông Nhu phải được tống xuất sang Pháp hay bất cứ nước nào muốn
nhận họ. Ông Diệm phải được đối xử tùy theo ý muốn của các tướng lãnh.”54
Sau cuộc đảo chánh, Ngoại trưởng Dean Rusk đánh điện sang cho Đại sứ
Cabot Lodge, “Tôi muốn bày tỏ lòng ngưỡng mộ của tôi đối với việc ông đã
điều động xuất sắc một loạt các biến cố rất khó khăn và phức tạp.”55
Người hài lòng nhất về cuộc đảo chánh
vẫn là Đại sứ Lodge. Ông là người chủ trương thay thế chính phủ Diệm từ
trước khi sang Việt Nam làm Đại sứ. Ngay trong ngày đầu ở nhiệm sở
(24.8), chưa kịp trình ủy nhiệm thư, Lodge đã điện về Bộ Ngoại giao ý
kiến của ông cho rằng việc thuyết phục ông Diệm loại bỏ ông Nhu là vô
ích và đề nghị tiếp xúc thẳng với các tướng lãnh. Ngày 29.8, ông xác
nhận với Bộ Ngoại giao: “Trò chơi đã bắt đầu. Chúng ta đã bị đẩy vào một
tiến trình không thể trở lui là lật đổ chính phủ Diệm.”56
Theo lời tướng Trần văn Đôn, khi ông và tướng Lê Văn Kim đến gặp Lodge
ngày 2.9, “ông ta đã vô cùng niềm nở và ca ngợi sự thành công của chúng
tôi”.57 Trong điện văn gửi về Bộ Ngoại giao, Lodge đề nghị
giải thích với dư luận về cái chết của hai ông Diệm, Nhu là “ngoài ý
muốn của họ (các tướng lãnh) và đây là chuyện chẳng may xảy ra trong một
cuộc đảo chính mà trật tự không thể được đảm bảo ở khắp mọi nơi.”58
Dù sao chăng nữa, Lodge cũng đã nhìn nhận vai trò và trách nhiệm của
Hoa Kỳ trong bản báo cáo hàng tuần gửi Tổng thống Kennedy ngày 6.11:
“Điều cũng chắc chắn là nền đất mà mầm đảo chính được gieo xuống và mọc
lên thành một cây to lớn là do chúng ta sửa soạn, và cú đảo chính đã
không thể nào xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta.”
Về trường hợp Ngô Đình cẩn, ngày 2.11 Bộ
Ngoại giao Mỹ đã có chỉ thị rõ ràng cho Lãnh sự ở Huế: “Cần phải cho
Ngô Đình Cẩn tị nạn nếu sinh mạng ông ta bị nguy hiểm do bất cứ phía
nào. Nếu cho ông ta tị nạn thì giải thích cho nhà cầm quyền ở Huế biết
rằng thêm chuyện bạo hành sẽ làm hại thanh danh của chế độ mới đối với
quốc tế. Cũng nhắc cho họ biết rằng Hoa Kỳ đã có hành động tương tự để
bảo vệ Thích Trí Quang và không thể làm kém hơn về trường hợp ông Cẩn.”59
Ngày 4.11, Bộ Ngoại giao lại gửi điện hỏa tốc cho Đại sứ Mỹ ở Sài-gòn
khẳng định rằng “cần phải tránh việc hãm hại Ngô Đình Cẩn. Bộ tin rằng
chúng ta phải hết sức cố gắng đưa ông ta và, nếu cần, bà mẹ của ông ra
khỏi nước thật sớm, bằng phương tiện của chính chúng ta nếu nhờ đó họ có
thể ra đi mau chóng. Trong khi đó, chúng ta phải tận dụng mọi khả năng
để bảo vệ họ.”60 Sau cuộc đảo chính, Ngô Đình Cẩn đến lánh
nạn tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế. Sáng ngày 5.11, ông dời sang Lãnh sự
quán Mỹ, nhưng tướng Đỗ Cao Trí cho lãnh sự Mỹ biết rằng ông được lệnh
của Sài-gòn yêu cầu lãnh sự Mỹ giao ông Cẩn cho ông, nếu không ông không
thể bảo đảm an toàn cho lãnh sự quán. Lãnh sự Mỹ xin ý kiến của
Washington và được trả lời là Cẩn có thể được giao cho tướng Trí nếu Đại
sứ quán Sàigòn đồng ý và xác nhận rằng các tướng đảo chánh sẽ không
giết ông Cẩn. Lãnh sự Mỹ điện thoại vào Sài-gòn và được Lodge cho phép
thỏa mãn lời yêu cầu của tướng Trí. Khi ông Cẩn tới Sàigòn bằng máy bay
Mỹ, Đại sứ Lodge ra lệnh giao ông cho nhà cầm quyền quân sự Việt Nam với
điều kiện là ông sẽ không bị xử tử. Như vậy, những chỉ thị trước đó của
bộ Ngoại giao về việc bảo vệ sự an toàn của ông Cẩn đã không được thi
hành. Đại sứ Lodge cũng không làm gì khi Ngô Đình Cẩn bị kết án tử hình
ngày 22 tháng Tư, 1964 và bị đem ra bắn ngày 10 tháng Năm 1964.61
Sau khi Đệ nhất Cộng hoà bị lật đổ, miền
Nam trải qua nhiều biến cố chính trị và quân sự quan trọng đưa đến cuộc
chiến thắng và thống nhất đất nước của đảng Cộng sản. Trong bốn năm đầu
(1963-1967) các tướng làm đảo chánh mất nhiều thì giờ vào việc tranh
giành và bảo vệ quyền lực hơn là hoạt động quân sự khiến cho miền Nam
lâm vào tình trạng bất ổn định chưa từng thấy dưới thời Ngô Đình Diệm.
Lúc đầu, một Hội đồng Quân nhân Cách mạng (HĐQNCM) do tướng Dương Văn
Minh cầm đầu được thành lập để giám sát chính phủ. Chức vụ Thủ tướng
được giao cho cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ nhưng mọi quyết định
quan trọng về chính sách và nhân sự đều thuộc thẩm quyền của HĐQNCM.
Hiến pháp Đệ nhất Cộng hoà bị bãi bỏ nhưng không có một văn kiện pháp lý
nào thay thế. Chưa đầy ba tháng sau, tướng Nguyễn Khánh làm một cuộc
“chỉnh lý”, bắt các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Tôn
Thất Đính đưa lên Đà-Lạt quản chế về tội âm mưu với Pháp trung lập hóa
Việt Nam. Tướng Khánh thay ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng và lập thêm
ba chức Phó Thủ tướng gồm một lãnh tụ chính trị (Bác sĩ Nguyễn Tôn
Hoàn, đảng Đại Việt), một chuyên gia kinh tế tài chánh (Tiến sĩ Nguyễn
Xuân Oánh), và một quân nhân (thiếu tướng Đỗ Mậu). Chỉ hai tháng sau,
cuộc hợp tác giữa tướng Khánh và đảng Đại Việt tan vỡ vì thực quyền vẫn
nằm trong tay tướng Khánh khi ông thay đổi gần hết các tỉnh trưởng bằng
những quân nhân thuộc phe ông dù không có kiến thức và kinh nghiệm hành
chánh. Tháng Tư 1964, Bộ trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký, lãnh tụ Đại Việt Cách
Mạng, từ chức để phản đối. Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn bị tướng Khánh
đẩy ra khỏi chính phủ, sau đó ông bỏ đi ngoại quốc.
Trong bản phúc trình gửi cho Tổng thống
Johnson hồi tháng Ba. Bộ trưởng Quốc phòng McNamara bày tỏ nỗi lo ngại
về tình trạng bất ổn định ở miền Nam do sự xáo trộn của bộ máy hành
chánh từ trung ương tới địa phương: “Cơ cấu kiểm soát chính trị từ
Sài-gòn xuống tới các thôn xã hầu như tan biến mất. Trong số bốn mươi
mốt tỉnh trưởng tại chức ngày 1 tháng Mười Một (1963), ba mươi lăm người
bị thay thế. Chỉ trong ba tháng, chín tỉnh đã thay ba tỉnh trưởng; một
tỉnh thay tới bốn… Hầu hết các chức vụ chỉ huy quân sự quan trọng đã
thay đổi hai lần.”62 Giới tranh đấu Phật giáo bất mãn với
tướng Khánh, thường phát động những cuộc biểu tình đòi hỏi loại bỏ các
thành phần chế độ cũ (đảng Cần Lao, Công giáo hay thân Công giáo) ra
khỏi chính quyền.
Tháng Tám, tướng Khánh đưa ra bản “Hiến
Chương Vũng Tàu” (do một nhóm luật gia soạn ở Vũng Tàu) để tạo lập cơ sở
pháp lý cho chính quyền. Lần này, ông bị sinh viên Sài-gòn ào ạt xuống
đường phản đối bản hiến chương bảo vệ tham vọng chính trị của quân đội.
Nguyễn Khánh nhượng bộ, tuyên bố bãi bỏ Hiến Chương Vũng Tàu và triệu
tập phiên họp của HĐQNCM để lựa chọn thành phần lãnh đạo mới. Khi đó,
ông đã tạo được một lực lượng mới trong số các sĩ quan trẻ được người Mỹ
mệnh danh là “Young Turks” có nghĩa tương tự như “Hảo hán Trẻ tuổi.”
Cuối tháng Tám, nhóm này tái bầu Nguyễn Khánh làm Thủ tướng và thay thế
HĐQNCM bằng một tam-đầu-chế gồm ba tướng Khánh-Minh-Khiêm. Hình thức
chính quyền mới này không làm hài lòng cả hai giới Phật giáo và Công
giáo. Nhiều cuộc biểu tình của hai bên tiếp tục xảy ra. Khi tướng Nguyễn
Chánh Thi, Tư lệnh vùng I, ủng hộ các cuộc biểu tình tranh đấu của Phật
giáo thì tướng Khánh tuyên bố thành lập một Thượng Hội đồng Quốc gia có
nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp mới và lựa chọn thành phần của một chính
phủ dân sự trong vòng hai tháng.
Ngày 13 tháng Chín lại có một cuộc đảo
chánh do hai tướng Lâm Văn Phát, cựu Bộ trưởng Nội vụ và Dương Văn Đức,
tư lệnh vùng IV ở đồng bằng Cửu Long. Cuộc đảo chính này bất thành vì
“hảo hán” Nguyễn Cao Kỳ kịp giải cứu tướng Khánh và dọa ném bom tiêu
diệt lực lượng của hai ông tướng bất mãn.
Thượng Hội đồng Quốc gia được thành lập
với Chủ tịch là Phan Khắc Sửu, nhà chính khách đối lập từng bị bắt giam
thời Ngô Đình Diệm, và Thủ tướng là Trần Văn Hương, một nhà giáo đạo đức
từng là cựu Đô trưởng Sài-gòn. Nhân dịp này, tướng Khánh gửi tướng Minh
đi ngoại quốc thăm viếng ngoại giao các nước bạn, đồng thời đẩy tướng
Khiêm đi làm Đại sứ ở Hoa Kỳ. Chính phủ Trần Văn Hương chỉ tồn tại được
ba tháng vì không chịu nhượng bộ trước những đòi hỏi của nhóm Phật giáo
tranh đấu. Sau khi THĐQG từ chối giải nhiệm một số tướng tá, ngày 20
tháng Mười Hai, tướng Khánh và nhóm “Young Turks” giải tán luôn THĐQG và
thay thế bằng “Hội đồng Quân lực” (HĐQL). Chuyện này đã làm cho Đại sứ
Taylor nổi giận và xúc phạm danh dự các tướng trẻ trong buổi gặp gỡ ngày
21.12 như đã nói đến ở chương 8 trên đây. Ngày 27 tháng Giêng 1965,
HĐQL giải tán chính phủ Trần Văn Hương nhưng giữ lại Phan Khắc Sửu và
đưa ông vào chức vụ Quốc trưởng.
Ngày 16 tháng Hai, HĐQL thành lập chính
phủ mới do Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ tướng. Chỉ vài ngày sau, hai
tướng Lâm Văn Phát và Dương Văn Đức lại tham gia vào một cuộc đảo chính
do Đại tá Phạm Ngọc Thảo chủ mưu, nhưng lần này vẫn bị tướng Nguyễn Cao
Kỳ dọa dùng không quân đập tan.63 Các tướng trẻ bây giờ cũng
đã chán tướng Khánh nên nhân dịp này áp lực ông phải ra đi với chức vụ
Đại sứ lưu động. Chính phủ dân sự Phan Huy Quát chỉ lâu được bốn tháng
vì giữa Thủ tướng Quát và Quốc trưởng Sửu có sự bất đồng ý kiến trầm
trọng về vấn đề nhân sự trong chính quyền. Mượn được cớ mâu thuẫn giữa
các chính trị gia, ngày 14 tháng Sáu, HĐQL giải tán chính phủ dân sự và
thiết lập một hệ thống chính quyền mới gồm ủy ban Lãnh đạo Quốc gia
(UBLĐQG) và ủy ban Hành pháp Trung ương (UBHPTƯ). Tướng Nguyễn Văn Thiệu
được cử làm Chủ tịch UBLĐQG còn tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch
UBHPTƯ, tức Thủ tướng chính phủ.
Như vậy chỉ trong vòng 20 tháng, miền Nam đã trải qua hơn mười biến cố chính trị trong đó có năm thể chế không có hiến pháp64
(từ HĐQNCM đến UBLĐQG), sáu chính phủ (tướng Khánh hai lần làm thủ
tướng), ba lần tướng lãnh loại trừ nhau (Khánh loại Đôn-Kim-Xuân-Đính,
Khánh loại Minh-Khiêm, các tướng tá trẻ loại Khánh) và hai cuộc đảo
chánh bất thành. Giữa những lần thay đổi ấy là những cuộc biểu tình của
tín đồ Phật giáo, Công giáo và sinh viên ở nhiều nơi trong nước, tạo nên
một tình thế hỗn loạn gần như vô chính phủ. Tình trạng bất ổn chính trị
vào thời điểm 1964- 1965 đã được Đại sứ Taylor mô tả một cách châm biếm
nhưng rất đúng: “Cuộc chiến diễn ra trên bốn mặt trận: chính phủ chống
các tướng, Phật giáo chống chính phủ, các tướng chống đại sứ, và các
tướng chống Việt Cộng, tôi hi vọng vậy.”65 Muốn đầy đủ hơn
nữa, còn phải thêm ba mặt trận : “Phật giáo chống Công giáo, các tướng
chống các tướng, và các chính trị gia chống lẫn nhau.” Lẽ dĩ nhiên, phe
hưởng lợi nhiều nhất trong tình trạng khủng hoảng này là Hà Nội và Mặt
trận Giải phóng Miền Nam.
Sự kiện quân đội trở lại nắm lấy chính quyền gây nên một phong trào chống đối còn mạnh mẽ hơn trước, nhất là từ phía Phật giáo.66
Lần này, sự chống đối còn có thêm một đối tượng là Hoa Kỳ sau khi Tổng
thống Johnson bay sang Honolulu để họp với hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và
Nguyễn Cao Kỳ (7-9 tháng Hai 1966.) Tình hình căng thẳng nhất là ở Huế
và Sài-gòn với hàng chục ngàn người biểu tình chống chính phủ quân nhân
và chống sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Đầu tháng Ba, tướng
Nguyễn Chánh Thi bị UBLĐQG cất chức tư lệnh vùng I và tướng Nguyễn Văn
Chuân được cử ra thay thế. Tướng Chuân không ổn định nổi tình hình rối
loạn gia tăng nên chỉ đến cuối tháng Năm, vùng I đã có thêm ba tư lệnh
mới lần lượt thay thế nhau là Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính và Hoàng Xuân
Lãm. Trong tháng Năm, Phật tử biểu tình chiếm đài phát thanh Nha Trang,
Huế và Đà Nẵng. Hai ni cô tự thiêu ở Huế và Sài-gòn trong cùng một
ngày. Phòng Thông tin Hoa Kỳ và Lãnh sự quán ở Huế lần lượt bị đốt phá.
Trước tình thế gay go ấy, tướng Kỳ được sự hỗ trợ của Đại sứ Lodge và
tướng Westmoreland, điều động quân đội và cảnh sát dã chiến từ miền Nam
ra Huế chặn đứng được các hoạt động chống chính quyền và chống Mỹ.
Thượng Tọa Thích Trí Quang bị đưa vào Sàigòn giam lỏng tại bệnh viện
Nguyễn Duy Tài, còn tướng Nguyễn Chánh Thi thì phải sang Mỹ “chữa bệnh
mũi.” Một số tướng tá khác bị bắt buộc hồi hưu hay giải ngũ.
Đầu tháng Sáu, UBLĐQG tuyên bố chuẩn bị
bầu cử Quốc hội Lập hiến và mở rộng thành phần ủy ban với sự gia nhập
của mười nhân vật dân sự đại diện các nhóm chính trị và tôn giáo.67
Cuộc bầu cử được diễn ra ngày 13 tháng Chín 1966 với 118 đại biểu. Bản
Hiến pháp của Đệ nhị Cộng hoà chính thức ra đời ngày 1 tháng Tư 1967, ấn
định một chế độ Tổng thống có Thủ tướng và một Quốc hội lưỡng viện.
Ngày 3 tháng Chín, cuộc bầu cử Tổng Thống được tổ chức với 11 liên danh
ứng cử và sự tham gia bầu cử của 83% dân chúng. Liên danh Nguyễn Văn
Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 34.8% số phiếu. So với tỉ lệ đắc cử thông
thường của những nhà lãnh đạo độc tài là trên chín mươi phần trăm, tỉ
lệ 34.8% này phản ảnh khá trung thực ý muốn của cử tri. Các quan sát
viên và báo chí quốc tế chỉ ghi nhận một số vi phạm nhỏ ở địa phương.
Đáng chú ý là liên danh đứng hàng thứ
nhì về số phiếu không phải là của những chính khách tên tuổi như Trần
Văn Hương hay Phan Khắc Sửu, mà là của ứng cử viên chủ hoà Trương Đình
Dzu với 17.2% số phiếu.68 Đây là một kết quả bất ngờ biểu lộ
tâm trạng của những cử tri dù không theo cộng sản nhưng đã chán ghét
chiến tranh và không còn tin tưởng ở các giới lãnh đạo quân sự và chính
trị ở miền Nam sau cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm. Sứ quan Mỹ và
CIA theo dõi rất sát tình hình tranh cử mà không tiên đoán được tầm ảnh
hưởng của khuynh hướng chủ hòa. Trong các báo cáo hàng tuần gửi cho Tổng
thống Johnson từ đầu tháng Năm, Đại sứ Bunker kiểm điểm khả năng và lập
trường của những ứng cử viên quan trọng nhưng không một lần nào ông
nhắc đến Trương Đình Dzu. Mãi đến khi thấy kết quả bầu cử, ông mới tìm
hiểu và nhận định khá nhiều về ứng cử viên này.69
Mặc dù thắng cử, liên danh Thiệu-Kỳ thực
ra chỉ là một sự hợp tác gượng ép của những người “đồng sàng dị mộng.”
Mỗi ông đều đã chuẩn bị cho mình vai trò nguyên thủ quốc gia từ khi
UBLĐQG tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và sau đó là bầu
người lãnh đạo nền Đệ nhị Cộng hòa. Cuộc tranh chấp giữa hai tướng
Thiệu, Kỳ gay go đến độ hàng ngũ quân đội có nguy cơ bị đổ vỡ. Đó là lý
do khiến Đại sứ Lodge chưa muốn tiến hành xây dựng một thể chế dân chủ ở
Việt Nam. Trước khả năng tái phát tình trạng bất ổn với những cuộc biểu
tình tranh đấu chống chính phủ và chống Mỹ ở Việt Nam, Lodge muốn quân
đội tiếp tục kiểm soát chính quyền như ông đã ủng hộ HĐQL đối phó hữu
hiệu với cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1965. Đầu năm 1967, ông khẳng
định với Washington rằng chính phủ quân nhân đại diện cho “những lực
lượng xây dựng nước nhiều kinh nghiệm nhất, liên kết chặt chẽ và đáng
tin cậy nhất của xứ sở.”70 Tuy nhiên, ông chẳng thể làm được
gì để tạo được sự đoàn kết của các tướng lãnh Việt Nam. Sau khi bản Hiến
pháp được công bố ngày 1 tháng Tư, cả hai tướng Thiệu và Kỳ đều công
khai bày tỏ ý muốn trở thành “ứng cử viên của quân đội” trong cuộc tranh
cử Tổng thống. Cuối tháng Tư, Lodge từ chức trở về Mỹ và trở thành cố
vấn của Tổng thống Johnson. Đại sứ Ellsworth Bunker được cử sang thay
thế. Trong suốt hai tháng trước thời hạn chót ghi danh ứng cử Tổng thống
(30 tháng Sáu) Bunker nhiều lần gặp riêng cá nhân các ông Thiệu, Kỳ
trong khi tướng Westmoreland cũng gặp tướng Cao Văn Viên, Bộ trưởng Quốc
phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng, để yêu cầu phải tránh tình trạng phân
hóa trong quân đội.
Các tướng lãnh lúc đó cũng rất lo ngại
về nguy cơ quân đội bị chia rẽ và đã phải họp nhau nhiều lần để tìm cách
giải quyết cuộc tranh chấp giữa hai phe Kỳ và Thiệu. Mặc dù tướng Viên
đã tuyên bố từ đầu tháng Năm rằng quân lực không phải là một đảng chính
trị nên không có ứng cử viên Tổng thống,71 các tướng lãnh vẫn
không muốn trao chính quyền cho phe dân sự. Trong phiên họp ba ngày
(28-30 tháng Sáu) — ngay trước hạn chót ghi danh ứng cử— HĐQL họp khẩn
cấp để áp lực hai tướng Thiệu, Kỳ phải hợp tác với nhau. Cuối cùng,
Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố nhường cho Nguyễn Văn Thiệu ứng cử Tổng thống và
chấp nhận đứng chung liên danh với ông Thiệu. Ông Kỳ cho biết quyết định
này là “một sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Suốt từ năm 1975, không có
một ngày nào mà tôi không hối tiếc.”72 (Đáng lẽ ông phải nói
suốt từ 1967 mới đúng.) Đại sứ Bunker nhận xét rằng HĐQL đạt được kết
quả này là nhờ ba yếu tố chính: quan trọng nhất là sự cam kết của Thiệu
và Kỳ với Johnson ở hội nghị Guam, kế đó là nhu cầu thiết yếu của tình
đoàn kết quân đội, thứ ba là việc tướng Dương Văn Minh đang lưu vong
Bangkok tuyên bố ra tranh cử đang trở thành một nỗi đe dọa chung. Ngoài
ra, một số tướng lãnh trong HĐQL có thể đã không bằng lòng về cuộc vận
động quá sớm của tướng Kỳ và cách sử dụng áp lực của những người ủng hộ
ông. Tuy nhiên, Bunker công nhận Kỳ “đóng vai trò chính trong quyết định
cuối cùng” vì “ông ta dẫn đầu rất xa các ứng cử viên khác vào lúc đó…
và chính Thiệu cũng nhìn nhận rằng ông không thể đắc cử được.” Bunker
nhận xét đây là một hi sinh lớn của Nguyễn Cao Kỳ vì tình đoàn kết của
quản đội và quyền lợi của đất nước.73
Tướng Kỳ tiết lộ rằng trước cuộc bầu cử,
HĐQL đã bắt buộc tướng Thiệu ký một bản thỏa thuận mật theo đó ông phải
chịu sự kiểm soát của một hội đồng tướng lãnh được lựa chọn từ HĐQL và
không bị ràng buộc bởi Hiến Pháp. Văn kiện mật này xác định rằng trong
bất kỳ cuộc bầu cử nào, hội đồng tướng lãnh sẽ lựa ứng cử viên quân đội
ra tranh cử Tổng thống. Sau khi đắc cử, ứng cử viên quân đội này vẫn còn
là thành viên của hội đồng và luôn luôn phải hành động theo sự hướng
dẫn của hội đồng”. Điều đó có nghĩa là sau khi trở thành Tổng thống, ông
Thiệu vẫn tiếp tục là đại diện của quân đội và, trong thời chiến, trách
nhiệm tối hậu điều hành việc nước vẫn do quân đội nắm giữ. Bản thỏa
thuận được ký trong phiên họp đầu tiên của hội đồng tướng lãnh, trong đó
có ông Thiệu. Tướng Kỳ cho biết ông được bầu làm chủ tịch hội đồng. Như
vậy, khi Thiệu được bầu làm Tổng thống, ông phải chia sẻ quyền hành với
hội đồng. Với tư cách chủ tịch, tôi nắm nhiều quyền hơn cả ông Thiệu.”74
Mặc dù có sự cam kết riêng tư đó giữa
ông Thiệu và các tướng lãnh (theo ông Kỳ thì “người Mỹ không bao giờ
biết có chuyện này”) chỉ nửa năm sau, với sự khuyến khích và giúp đỡ của
Đại sứ Bunker, ông Thiệu đã dân sự hóa được bộ máy chính quyền và thực
sự trở thành một Tổng thống do Hiến pháp, nhất là sau khi ông Trần Văn
Hương nhận lời làm Thủ tướng vào cuối tháng Năm thay thế ông Nguyễn Văn
Lộc là người của tướng Kỳ. Trong bản phúc trình hàng tuần cho Johnson,
Bunker viết: “Chiều hướng có sự tham gia nhiều hơn của giới dân sự vào
chính quyền là điều mà chúng ta đã khuyến khích và nuôi dưỡng từ nhiều
năm nay, bắt đầu bằng việc ủng hộ cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến. Dĩ
nhiên là Thiệu nên giữ vai trò của một Tổng thống hiến định hơn là chỉ
phục vụ với tư cách đại diện của một nhóm quân nhân đang tìm cách điều
hành chính phủ từ hậu trường.”75 Lời phát biểu này cho thấy
bản mật ước giữa các tướng lãnh với ông Thiệu đã không có gì là mật đối
với Mỹ, do đó hội đồng tướng lãnh trở nên vô hiệu và không thể ngăn cản
được tiến trình dân chủ hóa và dân sự hóa chính quyền.
Điều đáng nói là tướng Kỳ bị mất dần thế
lực và ảnh hưởng trong chính quyền. Ai cũng thấy rõ là sau khi tướng Kỳ
nhường việc ứng cử Tổng thống cho tướng Thiệu, phe ủng hộ ông đã vô
cùng bất mãn và chỉ chờ có cơ hội thuận tiện để phục hồi quyền lực cho
ông. Tướng Kỳ dù không khuyến khích họ theo đuổi mục đích này nhưng cũng
không tích cực ngăn chặn họ và vẫn bảo vệ các chức vụ của họ trong bộ
máy chính quyền. Điều này khiến Hoa Kỳ rất quan tâm cho nên trong suốt
thời gian từ trước khi có cuộc tranh cử Tổng thống cho đến sau khi chính
phủ Trần Văn Hương được thành lập, Đại sứ Bunker đã thường xuyên nhắc
nhở hai ông Kỳ và Thiệu (nhất là Kỳ) phải hợp tác với nhau để giữ vững
chế độ và chiến đấu chống cộng. Trong mỗi bản báo cáo hàng tuần gửi cho
Tổng thống Johnson, Đai sứ Bunker đều nhắc đến những nỗ lực hoà giải của
ông mà ông không mấy lạc quan. Hai tổ chức chính trị được thành lập chỉ
cách nhau mấy ngày trong tháng Ba: Mặt Trận Nhân Dân Cứu Quốc, thân Kỳ,
do nghị sĩ (cựu trung tướng) Trần Văn Đôn cầm đầu, và Lực Lượng Tự Do
Dân Chủ, thân Thiệu, do Tổng thư ký Phủ Tổng thống Nguyễn Văn Hướng
(đảng Đại Việt) điều động. Khi Thiệu mời Trần Văn Hương làm thủ tướng,
Kỳ có phản ứng tiêu cực rõ rệt. Bản tin AP ngày 17 tháng Năm tiên đoán
sẽ có cuộc tranh chấp Thiệu-Kỳ về vấn đề bổ nhiệm một nội các mới. Kỳ cho rằng “Hương quá già, bướng bỉnh và ngoan cố.”76
Kỳ cũng đã nói với cả Bunker và Phó Đại sứ Berger là “việc thay đổi từ
Lộc sang Hương không có nghĩa là chính phủ sẽ mạnh hơn và đoàn kết hơn.”77
Ngày 2 tháng Sáu, chỉ một tuần sau khi
chính phủ Hương được thành lập, một máy bay trực thăng Mỹ phóng lầm hoả
tiễn vào trụ sở của Bộ Chỉ huy hành quân ở Chợ-lớn ngày 2 tháng Sáu làm
cho nhiều người chết và hai bị thương, tất cả đều là những người thân
tín của tướng Kỳ.78 Mặc dù Đại sứ Bunker giải thích đây là
một tai nạn do sai lầm về kỹ thuật gây ra, ông không đánh tan được giả
thuyết rằng tình báo Mỹ biết được nhóm sĩ quan thân tướng Kỳ đang hội
họp để âm mưu đảo chánh nên đã sắp đặt vụ “oanh kích lầm” để tránh tình
trạng xáo trộn chính trị ở miền Nam. Cũng chỉ mấy ngày sau vụ này, Tổng
thống Thiệu bổ nhiệm Đại tá Trần Văn Hai vào chức vụ Tổng Giám đốc cảnh
sát Quốc gia thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, cánh tay mặt của Phó Tổng
thống Kỳ. Đại tá Đỗ Kiến Nhiễu cũng được bổ nhiệm làm Đô trưởng Sài-gòn
thay cho Đại tá Văn Văn Của, em rể Đại tá Loan và là người bị thương
trong vụ oanh kích lầm ở Chợ Lớn. về những thay đổi nhân sự này, Đại sứ
Bunker nhận xét:
Thiệu hành động trong lúc Loan, từ lâu
vốn là “bête noire” của các chính trị gia dân sự cũng như của nhiều
thành phần dân chúng, đang nằm trong bệnh viện, và trước khi ra tay đã
thăng chức cho Loan lên Thiếu tướng. Dù sao, sự thay thế này là một bước
dài trong việc thiết lập uy quyền hiến định của Thiệu… Việc thay thế Đô
trưởng Văn Văn Của và những sĩ quan đã thiệt mạng trong tai nạn bi thảm
do vụ pháo kích Bộ Chỉ huy Sài-gòn (mà tôi đã báo cáo tuần trước), tất
cả đều là bạn của Phó Tổng thống Kỳ, được coi như một sự suy giảm quan
trọng quyền lực của Kỳ. Có một số dấu hiệu cho thấy là nhiều nhóm chính
trị bây giờ tin rằng Thiệu rõ ràng đang lên và, vì thế, họ đang xán lại
gần ông ta.79
Cuối tháng Mười một, sau khi Richard
Nixon đã thắng Hubert Humphrey trong cuộc tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ,
Tổng thống Thiệu cử Phó Tổng thống Kỳ sang Paris để giám sát và hỗ trợ
phái đoàn VNCH tại cuộc hoà đàm Paris do Đại sứ Phạm Đăng Lâm làm trưởng
đoàn. Đây cũng là một cơ hội tốt để giải quyết vụ tranh chấp Thiệu-Kỳ
vì, nếu ông Kỳ còn ở lại trong nước, thì như Bunker đã nhận xét, “mặc
dù uy quyền tiếp tục bị giảm sút, Kỳ vẫn có thể chứng tỏ ảnh hưởng phân
hóa”.80 Từ nay mối quan tâm chung lớn nhất của cả Thiệu lẫn
Kỳ là phái đoàn VNCH phải giành được vị thế chính đáng tại hội nghị
Paris để bảo vệ sự vẹn toàn của một nửa nước Việt Nam không cộng sản.
Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống VNCH
vừa do may mắn vừa do sự khôn ngoan của ông trong việc cư xử với các
tướng lãnh, các giới chính trị và Đại sứ Hoa Kỳ. Trong cuộc đảo chính
Ngô Đình Diệm, ông Thiệu mới là Đại tá chỉ huy Sư đoàn 5, được các tướng
chủ mưu đảo chính móc nối và giao cho trách nhiệm bao vây Dinh Gia
Long, nhưng khi ông đem quân tới thì hai ông Diệm và Nhu đã rời Dinh
trong một chiếc xe nhỏ chạy vào Chợ Lớn. Ông vẫn đóng quân ở bên ngoài
cho đến khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo đem thêm quân đến chiếm Dinh. Sau này
có dư luận cho rằng con người thận trọng Nguyễn Văn Thiệu đã cố ý kéo
quân đến chậm và không tấn công Dinh vì chưa dứt khoát chống Tổng thống
Diệm.
Trong gần hai năm đầu, trong khi các
tướng đàn anh tranh chấp và loại trừ nhau thì ông Thiệu, khi đó đã được
thăng Thiếu tướng, lặng lẽ ở trong hậu trường và trở thành người có thâm
niên cao nhất trong đám “Young Turks”. Ông có chân trong HĐQNCM và khi
ông Trần Văn Hương được chọn làm Thủ tướng thì ông làm Phó Thủ tướng.
Khi Bác sĩ Phan Huy Quát thay ông Hương thì ông Thiệu vẫn giữ chức Phó
Thủ tướng và kiêm luôn Tổng trưởng Quốc phòng. Như vậy, khi đám “Young
Turks” đẩy được tướng Khánh đi Mỹ và HĐQL lấy lại chính quyền cho phe
quân sự, ông Thiệu có thể trở thành Thủ tướng dễ dàng, nếu ông muốn. Tuy
nhiên, trước những sự thay đổi chính phủ mau chóng trong mười mấy tháng
trước đó, tướng Thiệu đã nhận chức Chủ tịch UBLĐQG và để cho tướng Kỳ
giữ chức Chủ tịch UBHPTƯ, tức Thủ tướng Chính phủ. Lần này, con người
thận trọng Nguyễn Văn Thiệu đã sơ sót không tính đến chuyện Hoa Kỳ muốn
có sự ổn định chính trị ở miền Nam để lo việc chống cộng nên suýt nữa
thì sự nghiệp chính trị của ông bị chấm dứt, nếu hai năm sau tướng Kỳ
không chịu nhường cho ông ra ứng cử Tổng thống.
Ở đây cũng nên ghi nhận vài nét về tướng
Nguyễn Cao Kỳ. Khác với tướng Thiệu thâm trầm, tính toán thận trọng và
khéo thích ứng với hoàn cảnh, tướng Kỳ là con người hành động, quyết
định theo cảm tính và không suy nghĩ thận trọng khi phát biểu. Nhờ tham
gia vào cuộc đảo chánh 1.11.1963 (dù ông không thuộc thành phần chủ
động) và nhất là vai trò quan trọng của Không quân. Kỳ đã lên lớn rất
nhanh, từ trung tá (trước đảo chánh) đến thiếu tướng chỉ huy trưởng
không quân chỉ trong vòng vài tháng, và hơn một năm sau đã lên đến địa
vị thủ tướng chính phủ, một chức vụ mà trước đó ông chưa bao giờ mơ
tưởng đến. Tuy không có kiến thức và kinh nghiệm chính trị, Nguyễn Cao
Kỳ muốn thực hiện công bằng xã hội” (như lời ông nói với Đại sứ Cabot
Lodge), tuyên bố chính phủ của ông là “chính phủ của dân nghèo”, tung
chiến dịch bài trừ tham nhũng và có một số chương trình phát triển xã
hội như xây dựng nhà thương và trường học. Tư thế chính trị của tướng Kỳ
lên cao nhất sau phiên họp với Tổng thống Johnson ở Honolulu đầu
tháng Hai 1966, và quyền lực của ông cũng gia tăng sau khi dẹp yên vụ
chống đối của Phật giáo miền Trung vào tháng Sáu năm đó. Nhưng trong
cuộc cạnh tranh với tướng Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống năm 1967,
cũng chỉ vì quyết định theo cảm tính trong giây phút bốc đồng, tướng Kỳ
đã bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi duy nhất trong đời. Trong những năm làm
Phó Tổng thống, ông Kỳ vẫn toan tính việc ra ứng cử Tổng thống năm 1971,
nhưng ông bị mất dần ảnh hưởng, và Hoa Kỳ, qua vai trò của Đại sứ
Bunker, cũng muốn duy trì ông Thiệu, một người trầm tĩnh và ứng xử thích
hợp hơn với đường lối của Hoa Kỳ. Sau khi liên danh Thiệu-Hương đắc cử,
Hoa Kỳ không để ý gì tới Nguyễn Cao Kỳ.
Trong vai trò Tổng thống, mặc dù Nguyễn
Văn Thiệu không thể so sánh được với Ngô Đình Diệm về mặt uy thế và đạo
đức cá nhân, ông đã cầm quyền được gần tám năm, xấp xỉ với thời gian cầm
quyền của ông Diệm. Từ 1967 đến 1973, do cách cư xử khôn khéo và thận
trọng, ông Thiệu không phải đương đầu với những đảng phái đối lập (ngoại
trừ cuộc tranh chấp ngấm ngầm và dai dẳng với nhóm ông Kỳ). Trong thời
gian này, ông cũng không có những chính sách độc đoán đến độ dân chúng
bất mãn và nổi lên chống đối. Ông lập được một số thành tích đáng kể về
cải cách ở nông thôn nhưng cũng tìm cách củng cố quyền hành, gây nên nạn
bè phái và tham nhũng trầm trọng. Ông thích ứng được với vai trò chủ
động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ hoá” chiến tranh, cho đến khi bị
Nixon-Kissinger ép buộc chấp nhận hiệp định Paris 1973 mới kịch liệt
chống lại nhưng rốt cuộc vẫn phải nhượng bộ (xem chương Bảy). Sau hiệp
định Paris, vì Hoa Kỳ không những dứt khoát rút quân về nước mà còn cắt
giảm viện trợ cho Việt Nam, Tổng thống Thiệu phải đối phó với những khó
khăn càng ngày càng gia tăng và phạm nhiều lỗi lầm to lớn về chính trị
cũng như quân sự.
Sau khi liên danh Thiệu-Kỳ thắng cử năm
1967, nhờ được sự khuyến khích của Đại sứ Bunker, ông Thiệu đã khéo léo
dân sự hóa chính quyền, loại bỏ được thế lực của Phó Tổng thống Kỳ, và
xây dựng được quyền lực của mình một cách hợp hiến và hợp pháp. Bunker
nhận xét, “Thiệu đã rõ ràng chọn vai trò Tổng thống hiến định của toàn
dân hơn là đại diện của các tướng. Đối với ông, điều này gồm có những nỗ
lực liên kết với các lãnh tụ dân sự đồng thời sắp đặt lại cơ cấu quân
đội, về phần các tướng, đặc biệt là đối với
Kỳ, điều này có nghĩa là chấp nhận sự giảm bớt quyền lực chính trị.”81
Nói cách khác, điều đó có nghĩa là bản thỏa ước “mật” mà ông Thiệu phải
ký với hội đồng tướng lãnh về một chế độ quân phiệt trong bóng tối đã
được vô hiệu hóa. Rút kinh nghiệm thất bại của Ngô Đình Diệm, ông Thiệu
không xây dựng một chính quyền độc đảng, mà chủ trương hợp tác với một
liên minh các đảng phái chính trị, nhưng ông lại muốn liên minh này thân
chính quyền hơn là một lực lượng đối lập. Chính vì thế mà “Mặt Trận”
của Trần Văn Đôn cũng như “Lực Lượng” của Nguyễn Văn Hướng, dù chỉ là
những tổ chức không có thực lực, đã không thể liên kết được với nhau.
Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến của hai giáo sư đại học Nguyễn Ngọc Huy và
Nguyễn Văn Bông ra đời vào tháng Năm 1969 cố gắng kết hợp tầng lớp trí
thức thành một thế lực chính trị mới nhưng phong trào tiến triển chậm
chạp vì đa số trí thức và chuyên viên vẫn dè dặt về hoạt động đảng phái.
Đến cuối năm 1969, khi lãnh tụ Tổng Liên Đoàn Lao Công Trần Quốc Bửu
với 250,000 đoàn viên cùng với nghị sĩ Trịnh Quang Quỹ thành lập Đảng
Công Nông có khuynh hướng thân chính quyền thì ông Thiệu bắt đầu có một
lực lượng quần chúng ở sau lưng, nhưng thực tế mới chỉ có “công” mà chưa
có “nông”.
Khác với Ngô Đình Diệm là một nhà lãnh
đạo độc tài đã có sẵn một quá khứ đầy uy tín, một lòng yêu nước nhiệt
thành và niềm tin vững chắc vào quan niệm trị nước của ông (dù sai lầm),
Nguyễn Văn Thiệu chỉ nhờ thời cơ mà trở thành nhà lãnh đạo, và đã dùng
sự khôn khéo để xây dựng được quyền hành rồi trở thành độc tài. Ông
không chịu thực hiện những cải cách hành chánh mà chỉ dân-sự-hóa một
phần chính quyền ở trung ương, trong khi củng cố quyền lực bằng một hệ
thống chính quyền địa phương với các tỉnh trưởng là những quân nhân
thuộc phe phái của ông. Ngoài ra, ông vẫn ngấm ngầm có đầu óc quân phiệt
cho nên đã không chịu thay đổi chính sách động viên theo đó thanh niên
đi quân dịch không có thời hạn nhất định, khiến cho tương lai đất nước
thiếu ít nhất là một thế hệ trí thức. Hậu quả trước mắt là nhiều cơ quan
công cũng như tư bị tê liệt vì thiếu chuyên viên. Củng cố quyền lực
bằng một hệ thống quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện
pháp quân phiệt tất nhiên sẽ đưa đến tình trạng tham nhũng và bất công
xã hội trầm trọng, làm mất lòng tin của dân chúng và làm suy yếu khả
năng phát triển đất nước. Đây là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọng.
Đại sứ Bunker rất quan tâm đến việc
chính quyền Thiệu quá chú trọng đến biện pháp gia tăng quân số hơn là
các hoạt động dân sự cần thiết cho công cuộc bình định. Ông đưa ra thí
dụ bệnh viện Đà-lạt có một chuyên gia gây mê duy nhất bị bắt đi quân
dịch khiến cho các hoạt động giải phẫu của nhà thương bị hủy bỏ. Về sự
quan trọng của bộ máy dân sự, Bunker cho biết: “Tôi đã nhiều lần nhắc
nhở cả hai ông Thiệu và thủ tướng Lộc, và đã đưa cho ông Lộc một danh
sách 3,000 công việc thiết yếu trong chính phủ mà những người phụ trách
không nên bị đưa đi quân dịch trừ khi có người đủ điều kiện thay thể.”
Ông phàn nàn: “Chính phủ Việt Nam chưa có những chỉ thị rõ rệt hay một
cơ cấu có khả năng đảm bảo rằng chính phủ dân sự và những dịch vụ công
ích có thể tiếp tục hoạt động hữu hiệu.”82 Trên thực tế,
chính phủ áp dụng chính sách biệt phái một số chuyên viên đi quân dịch
về phục vụ trong các cơ sở hành chánh, nhưng phần lớn những quyết định
biệt phái ấy được thi hành trên căn bản phe đảng hay hối lộ, và trong
trường hợp nào cũng được coi như những biện pháp ân huệ nhằm bảo đảm sự
trung thành của các đương sự.
Sai lầm lớn nhất về chính trị của ông
Thiệu là không thực tâm cải tổ hệ thống chính quyền mà chỉ lo củng cố
quyền hành, và đàn áp đối lập khi không thuyết phục được họ theo mình.
Trước nguy cơ chung, nhất là từ sau khi ký hiệp định Paris, đáng lẽ ông
Thiệu phải sớm thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc để có được sự
hợp tác của những nhóm đối lập trong việc chuẩn bị đấu tranh chính trị
với cộng sản về tương lai chính trị của miền Nam theo tinh thần hiệp
định Paris. Ngoài ra, cần phải quyết liệt và mau chóng bài trừ tham
nhũng để đem lại công bằng xã hội, lấy được niềm tin của dân chúng.
Trong những điều kiện đó, một chính phủ đoàn kết rộng rãi của VNCH sẽ dễ
được Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ có uy tín và lợi thế hơn khi
thảo luận với MTGPMN về vấn đề thi hành hiệp định Paris. Thời điểm này
cũng thuận tiện để thăm dò và thảo luận thẳng thắn với MTGPMN về vấn đề
hoà giải và khả năng hợp tác giữa hai bên ở miền Nam, về thời gian
chuyển tiếp và những điều kiện thống nhất với miền Bắc. Việc thăm dò này
sẽ cho thấy mức độ độc lập và ảnh hưởng của những nhân vật không cộng
sản trong MTGPMN đối với giới lãnh đạo ở Hà Nội. Kết quả tích cực dù đạt
được hay không cũng sẽ chứng tỏ được hành động có trách nhiệm của VNCH
đối với dân tộc và đất nước. Lịch sử sẽ đánh giá trách nhiệm này của mỗi
phe liên hệ.
Nhưng thay vì hành động với tinh thần
trách nhiệm, ông Thiệu vẫn duy trì hệ thống chính quyền bất lực và tham
nhũng, bắt giam những người đối lập khiến cho phong trào chống đối càng
ngày càng lan rộng và quyết liệt. Từ giữa năm 1974, các tổ chức chống
chính phủ được liên tiếp thành lập. Đáng kể nhất là “Phong trào Nhân dân
chống Tham nhũng” của Linh Mục Trần Hữu Thanh ra cáo trạng kết tội
chính phủ, “ủy ban Phối hợp Hành động” của Nghiệp đoàn Ký giả đòi hủy bỏ
đạo luật 007 hạn chế báo chí đã khiến cho nhiều tờ báo phải đóng cửa và
hơn 900 ký giả bị thất nghiệp,83 “Lực lượng Luật sư Tranh
đấu” của Luật sư Đoàn ra tuyên cáo phản đối việc bắt giữ trái phép các
luật sư và thẩm phán, và đòi Tối cao Pháp viện phải can thiệp cho họ
được thả. Ngoài ra, các đảng phái, tôn giáo cũng thành lập một mặt trận
gọi là “Trận tuyến Nhân dân Cách mạng Tranh thủ Hòa bình”. Linh mục Phan
Khắc Từ thành lập “ủy ban Bảo vệ Quyền lợi Công nhân,” và cùng với Đại
đức Thích Hiển Pháp thành lập “Mặt trận Nhân Dân Cứu đói”. Phật giáo Ấn
Quang huy động các Phật tử đòi chấm dứt chiến tranh. Phật giáo Việt Nam
Quốc tự kêu gọi Tổng thống Thiệu từ chức. Các linh mục Chân Tín, Nguyễn
Ngọc Lan và Trương Bá Cần đều là những tiếng nói mạnh mẽ chống chính
quyền.
Khi ông Thiệu ban hành lệnh tổng động
viên mới, hạn chế tuổi hoãn dịch vì lý do học vấn và bãi bỏ việc hoãn
dịch vì lý do tôn giáo thì sinh viên, học sinh tổ chức bãi khóa. Hội
đồng Liên tôn gồm 11 giáo phái, và các giáo phái Phật giáo tranh đấu
cũng như ôn hoà, kể cả hệ phái phi chính trị nhất như Lục Hòa tăng, đều
cực lực phản kháng lệnh tổng động viên. Mãi đến đầu tháng Tư 1975,
Nguyễn Văn Thiệu mới yêu cầu tướng Trần Thiện Khiêm rời chức vụ Thủ
tướng để cho Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá cẩn thay thế và lập một “Chính
phủ đoàn kết quốc gia”.84 Lúc này đã quá trễ và không có một
chính phủ mới nào, dù có thật sự đoàn kết rộng rãi, có thể cứu vãn được
tình thế. Ngày 21.4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và bốn ngày sau
được phi cơ quân sự Mỹ đưa sang Đài Loan đoàn tụ với gia đình.
Về quân sự, sai lầm lớn nhất của ông
Thiệu là quyết định bỏ Cao nguyên ngày 14 tháng Ba 1975 gây nên một cuộc
tháo chạy hỗn loạn của quân và dân miền Trung và những cuộc truy kích
của bộ đội Bắc Việt khiến cho hàng trăm ngàn người bị chết và bị thương.
Các tỉnh thuộc Quân khu I và II theo nhau bị thất thủ mau chóng dễ
dàng. Chuyện này đã được nói đến ở chương Bảy nên không cần thuật lại ở
đây.
Về mặt tích cực, ông Thiệu đã thực hiện
được một cuộc cải cách hành chánh có tính dân chủ. Đó là việc tổ chức
lại các hội đồng kỳ mục trong các làng xã mà các đại diện đều thật sự do
dân lựa chọn qua bầu cử. Năm 1969, có 89.75 phần trăm làng thuộc vùng
quốc gia kiểm soát đã bầu xong các chủ tịch và hội đồng đại diện.85
Các hội đồng này đều được chính phủ giúp đỡ tổ chức và huấn luyện các
đội dân vệ và cảnh sát để bảo vệ an ninh của làng xã. Đến tháng Chín đã
đạt được chỉ tiêu 2 triệu đoàn viên Nhân Dân Tự Vệ cho năm 1969 và con
số gia tăng mau chóng tới mức trên 3 triệu vào cuối năm. Tuy nhiên, lên
đến cấp quận và tỉnh thì ông Thiệu vẫn giữ nguyên hệ thống cũ, tức là
các quận trưởng và tỉnh trưởng đều là quân nhân do chính quyền chỉ định.
Thay vì cải cách thì ông chỉ thay thế những người cũ bằng người mới
trung thành với ông. Những cán bộ cao cấp tốt nghiệp Học viện Quốc gia
Hành chánh chỉ được bổ nhiệm làm phó hay phụ tá không có quyền quyết
định.
Một cải cách khác quan trọng hơn và có
hiệu quả tích cực đối dân chúng nông thôn hơn thời Ngô Đình Diệm là cải
cách điền địa. Chính sách mới của ông Thiệu gồm ba điểm: (1) địa chủ
không được bắt tá điền trả địa tô thuộc những năm trước; (2) nông dân đã
được Việt Cộng cấp ruộng đất trước đây sẽ không phải đóng thuế trong
một thời gian; và (3) những nông dân này được quyền giữ ruộng đất do
Việt Cộng cấp và được cấp bằng khoán để chính thức trở thành tiểu điền
chủ. Đạo luật “Người Cày Có Ruộng” ngày 26 tháng Ba năm 1970 được coi là
chương trình “cách mạng” nhất của tướng Thiệu, theo đó mức sở hữu ruộng
đất của mỗi địa chủ được giới hạn tối đa là 15 ha, diện tích quá mức đó
sẽ bị truất hữu để phát không cho nông dân nghèo. Mặc dù có ruộng đất
bị truất hữu, các điền chủ vẫn không chống đối vì thực tế thì hầu hết
ruộng đất của họ coi như đã mất khi có “chiến tranh giải phóng”, và họ
lại được chính phủ bồi thường về số ruộng bị truất hữu. Sau ba năm thi
hành luật “Người Cày Có Ruộng”, chỉ tiêu cấp phát 1 triệu ha đã được
vượt qua với hơn 850,000 tá điền trở thành tiểu điền chủ. Tuy nhiên, vì
những quan hệ gia đình hay quen biết với các cán bộ cộng sản từ những
ngày kháng chiến chống Pháp, vì sợ bị khủng bố nếu ủng hộ chính quyền
quốc gia, hay chỉ đơn giản vì muốn được đủ no và một đời sống yên ổn,
người nông dân nghèo thường tránh né các hoạt động chống cộng mỗi khi có
thể được. Phải đợi cho đến sau 1975, họ mới bày tỏ phản ứng thực sự khi
nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thi hành chính sách tập thể
hoá ruộng đất ở miền Nam. Nông dân vô sản nhờ luật “Người Cày Có Ruộng”
của VNCH đã trở thành hữu sản và họ vô cùng bất mãn khi bị cưỡng bách
bán lúa gạo và các sản phẩm khác cho nhà nước với giá rẻ. Không thể
chống đốì bằng bạo động, họ chống đối thụ động bằng cách chỉ sản xuất
vừa đủ ăn cho gia đình để không có số thặng dư phải bán cho nhà nước.
Nền kinh tế chỉ huy ở nông thôn bị thất bại, sản xuất lương thực suy
giảm trầm trọng khiến đất nước lâm vào tình trạng nghèo đói triền miên
cho đến những năm cuối thập kỷ 1980 mới bắt đầu hồi phục nhờ chính sách
“đổi mới kinh tế”, cho phép nông dân được bán sản phẩm của mình theo giá
thị trường.
Những nét chính trên đây trong sự nghiệp
chính trị của Nguyễn văn Thiệu cho thấy ông là người không có sáng kiến
nhưng có khả năng tồn tại, biết đối phó một cách uyển chuyển với mọi
khó khăn nội bộ cho đến khi ký hiệp định Paris. Ông khéo thích ứng với
chính sách của Hoa Kỳ và tin tưởng ở sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho đến khi
bị Đại sứ Graham Martin thúc dục từ chức, và ông chỉ từ chức trước khi
miền Nam sụp đổ có chín ngày. Với tư cách một Tổng thống hợp hiến, ngoài
việc vô hiệu hóa một cách êm thắm bản thỏa ước mật mà ông đã phải ký
với Hội đồng tướng lãnh, ông Thiệu còn kiềm chế được hai cuộc khủng
hoảng có nguy cơ tạo loạn: sinh viên hoạt động phản chiến và thương phế
binh chiếm đất bất hợp pháp.
Tháng Tư 1970, sau khi một số lãnh tụ
sinh viên bị bắt vì tình nghi hoạt động cho cộng sản, sinh viên Sài-gòn
bắt đầu có những cuộc biểu tình và bãi khóa để phản đối khiến Đại học
Sài-gòn phải đóng cửa. Một số Đại học ở các tỉnh cũng có sinh viên biểu
tình chống chiến tranh và đòi thả những sinh viên bị bắt. Động lực chính
của phong trào sinh viên phản chiến là chính sách quân dịch vô thời
hạn, tình trạng tham nhũng bất công trong việc thi hành chính sách, và
việc bắt giữ bừa bãi những người chống đối. Tuy nhiên, động lực này dễ
được các cán bộ cộng sản lợi dụng để len lỏi vào hàng ngũ sinh viên
khuyến khích các hoạt động chống chính phủ. Ngày 17, ông Thiệu triệu tập
một phiên họp với các Viện trưởng Đại học Sài-gòn và Vạn Hạnh cùng một
số giáo sư có uy tín sinh viên. Khi được yêu cầu khoan hồng đối với
những sinh viên bị bắt, ông Thiệu cho hay là ông sẽ thả 22 sinh viên
trong số 43 người bị bắt, nhưng số còn lại sẽ phải đưa ra toà xét xử. Dù
sao, khi xét xử, ông sẽ khoan hồng cho những sinh viên bị tuyên án. Ông
yêu cầu các giáo sư đóng vai trò liên lạc giữa sinh viên và chính phủ,
và giải thích cho sinh viên về những vấn đề khó khăn, đất nước và sự
khai thác để lợi dụng của cộng sản.86 Chính sách “cây gậy và
củ cà-rốt” này được ông Thiệu áp dụng đối với sinh viên chỉ có hiệu lực
tạm thời và không chấm dứt được phong trào chống đối khi những nguyên
nhân gốc chưa được giải quyết thỏa đáng. Hoạt động chống đối của sinh
viên dễ bùng nổ lại mỗi khi có một cuộc khủng hoảng chính trị hay xã hội
khác, như cuộc tranh đấu đòi quyền lợi của các thương phế binh.
Thương phế binh là một thành phần đông
đảo gồm những người đã chiến đấu và hi sinh một phần thân thể cho công
cuộc chống cộng nhưng họ không được hưởng những quyền lợi xứng đáng và
phải chịu cảnh nghèo khổ của tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Tình trạng
bất mãn của họ bùng lên thành một phong trào chiếm hữu các đất trống và
cất lên những căn nhà tồi tàn ngay trong khu vực Sài-gòn-Gia-định.
Nhiều vụ xô xát xảy ra giữa thương phế binh và nhân viên công lực. Chính
phủ vội vã yêu cầu Quốc hội biểu quyết dự thảo luật tăng tiền cấp dưỡng
cho thương phế binh và cấp nhà ở cho những người thật sự có nhu cầu.
Giải pháp này cũng chỉ có hiệu lực trấn an tạm bợ, vì tình trạng thiếu
hụt chung của ngân sách và sự cắt giảm viện trợ Mỹ đã ảnh hưởng đến khả
năng chi tiêu của chính phủ về mọi mặt.
Đối với Hoa Kỳ, ngay sau khi chính thức
nhận lời tham dự hội nghị Paris đầu năm 1969, ôngThiệu đã thay đổi lập
trường từ chống cộng bằng quân sự sang thái độ sẵn sàng tìm một giải
pháp chính trị với MTGPMN. Trong báo cáo về Washington, Đại sứ Bunker
ghi nhận:
Khi tôi nói chuyện với Thiệu ngày 17
tháng Ba, ông ta đã đi xa hơn những lần trước, khi thảo luận về những
vấn đề mà ông phải đối diện để đạt tới một giải pháp chính trị. Ông ta
coi MTGPMN như một thực thể chính trị và thấy có những cách mà tổ chức
này có thể tham gia vào đời sống chính trị của xứ sở. Một việc có thể
làm là để cho họ tham gia vào những cuộc bầu cử như đã được qui định
trong Hiến pháp, chẳng hạn những cuộc bầu cử địa phương, cuộc bầu cử nửa
phần Thượng viện năm 1970, rồi đến cuộc bầu cử Hạ viện và Tổng thống
năm 1971. Thiệu không cho rằng sửa đổi Hiến pháp là chuyện khó khăn nếu
giải pháp chính trị đòi hỏi phải có tổng tuyển cử. Ông cảm thấy rằng
việc quốc tế giám sát bầu cử, sự hiện diện của MTGPMN trong hội đồng bầu
cử, hay sự tham gia của họ vào việc theo dõi các nơi bỏ phiếu đều có
thể thực hiện được.
Bunker nhận xét thêm rằng “Đây là một
chặng đường dài kể từ tình hình một năm trước, khi mà vấn đề chỉ có thể
được nói đến bằng một chiến thắng quân sự.”87 Đáng chú ý là
ông Thiệu đã nhất định không chịu ký thông cáo chung ngày 31.10.1968 với
Tổng thống Johnson —một sự kiện có ảnh hưởng tới sự thất cử của ông
Humphrey— nhưng ông lại thích ứng rất nhanh với chủ trương tiếp tục
thương thuyết của Tổng thống Nixon, vì ông nghĩ rằng chính quyền Nixon
sẽ tiếp tục ủng hộ ông. Dù rằng sau này ông cũng đã hết sức chống lại áp
lực của Nixon, ông vẫn phải chấp thuận bản dự thảo cuối cùng của hiệp
định Paris, theo đó Bắc Việt không cần phải rút quân về Bắc và Chính phủ
Cách mạng Lâm thời của MTGPMN được công nhận như một thực thể ngang
hàng với VNCH.
Nguyễn Văn Thiệu có thể bị chê là tham
quyền cố vị, chỉ rời bỏ chức vụ khi ông thấy rõ vai trò của mình đã chấm
dứt và tính mệnh có thể bị nguy hiểm nếu còn ở lại. Thật ra, ham muốn
quyền hành là chuyện thường tình của những người làm chính trị, vì một
khi đã nắm quyền ít người có thể từ bỏ được dễ dàng. Theo tin đồn, ông
Thiệu có lần đã nói “Làm chính trị thì phải lì.” Quả thật ông Thiệu đã
quá “lì” cho đến những ngày cuối cùng khi ông trả lời sự thúc dục của
Đại sứ Martin ngày 20 tháng Tư: “Tôi sẽ từ chức khi tôi thấy cần.” Nhưng
mọi sự phê phán về ông Thiệu chỉ nên nhắm vào những hành động sai trái
của ông khi tìm cách củng cố quyền lưc và những quyết định sai lầm của
ông về chính trị và quân sự trong cương vị người lãnh đạo của một nước.
Ông Thiệu đã vượt qua được nhiều thử thách lớn nhưng rốt cuộc chỉ có thể
tự cứu mình bằng cách ra khỏi nước khi Hoa Kỳ đã dứt khoát đoạn tuyệt
với VNCH và bộ đội miền Bắc đang lăm le tiến vào thủ đô Sài-gòn từ mọi
ngả.
Để kết luận về nền Đệ nhị Cộng Hoà, cần
phải nhắc đến một sai lầm căn bản mà trách nhiệm không phải chỉ đổ lên
vai hai ông Thiệu và Kỳ mà toàn thể Hội đồng tướng lãnh sau cuộc đảo
chính lật đổ Đệ nhất Cộng hòa đều phải gánh chịu. Đó là việc các tướng
lãnh cầm quyền đã bỏ phí bốn năm trời (1963-1967) vào việc tranh giành
quyền lực hơn là hoạt động chống cộng và dựng nước. Luật sư Nguyễn Hữu
Thọ, chủ tịch MTGPMN, đã gọi những vụ đảo chánh và chỉnh lý liên tiếp
giữa các tướng quốc gia là “những món quà của Trời cho” và nhận xét khá
đúng về thời kỳ này: “Kẻ thù của ta bị suy yếu về mọi mặt, quân sự,
chính trị và hành chánh. Quân đội của họ đã phải chịu những thất bại
nặng nề trên chiến trường và tình trạng đào ngũ của quân lính. Những lực
lượng đặc biệt nòng cốt của Diệm đã bị loại. Hệ thống chỉ huy quân sự
bị đảo ngược và mất hiệu lực vì những cuộc thanh trừng.”88
Tình hình chính trị và quân sự đen tối đến độ tướng Westmoreland phải
báo cáo với Washington vào cuối tháng Mười 1964 rằng “trừ khi thấy có
triển
vọng về sự xuất hiện thật sớm của một
chính phủ có hiệu lực, hành động tấn công của Hoa Kỳ dù lớn mạnh đến
đâu, ở trong hay ngoài Nam Việt Nam, cũng không thể một mình nó xoay
chuyển được tình trạng tan rã đang xảy ra.”89 Trước tình thế
nguy ngập ấy, chính quyền Johnson phải quyết định “Mỹ hóa” cuộc chiến và
ngày 8 tháng Ba 1965 bắt đầu đưa quân chiến đấu vào Việt Nam. số quân
tham chiến tiếp tục gia tăng lên đến cao nhất là 543,400 người vào ngày
30 tháng Tư 1969. Kết quả khi chiến tranh kết thúc là hơn 58,000 quân
nhân Mỹ bị chết và đất nước Việt Nam ở cả hai miền bị tàn phá với hơn
bốn triệu quân và dân bị thiệt mạng.
Ngay sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, quân
dân ở miền Nam nói chung đều có một niềm tin tưởng mới, hi vọng tình
hình sẽ được cải thiện về mọi mặt. Các tướng lãnh đáng lẽ đã phải thiết
lập một chính phủ lâm thời và những cơ cấu chuyển tiếp có nhiệm vụ cải
tổ bộ máy chính quyền và quân đội, soạn thảo Hiến pháp Đệ nhị Cộng hoà,
và thực hiện những cuộc bầu cử dân chủ để sớm có được một chính quyền
hợp hiến có chính nghĩa đối với nhân dân trong nước. Trong những điều
kiện ấy, quân đội VNCH sẽ được xây dựng thành một lực lượng chiến đấu
hữu hiệu với sự giúp đỡ đầy đủ về vũ khí và kỹ thuật của Hoa Kỳ. Chuyện
“Mỹ hoá” chiến tranh sẽ không có lý do để xảy ra và phong trào phản
chiến ở Mỹ cũng không thấy có động cơ phải xuất hiện, vấn đề “Việt Nam
hoá” chiến tranh lại càng không được đặt ra vì VNCH đã đảm nhận trách
nhiệm ngay từ đầu. Với sự hỗ trợ thích hợp của Hoa Kỳ và thế giới tự do,
VNCH sẽ ở vào một vị thế mạnh trong những cuộc thương thuyết về một
giải pháp chính trị và trong khi chờ đợi đất nước thống nhất mà thời
gian có thể kéo dài, như lời nhà ngoại giao miền Bắc Nguyễn Khắc Huỳnh
đã dự đoán, “từ mười năm đến hai mươi năm” (xem chương 9), miền Nam có
triển vọng trở thành một quốc gia giàu mạnh như Tây Đức hay Nam Hàn. Các
tướng lãnh cầm quyền vì quyền lợi riêng đã để lỡ mất thời gian xây dựng
quí báu đó.
Nền Đệ nhị Cộng hoà tuy ra đời muộn và
trong những điều kiện còn khó khăn đã bắt đầu khởi sắc sau khi Bắc Việt
thất bại trong chiến dịch TCK/TKN Tết Mậu Thân. Mặc dù bị tấn công bất
ngờ, quân đội VNCH với sự trợ lực của quân đội Hoa Kỳ đã mau chóng đẩy
lui được QGPMN ở khắp nơi chỉ trong vòng mấy ngày, trừ vùng lân cận
Sài-gòn và cố đô Huế. Cả hai sự kiện được các chiến lược gia miền Bắc
tiên liệu và mong đợi đều không xảy ra: Lính “ngụy” sẽ đào ngũ và dân
chúng sẽ nổi dậy ủng hộ quân “giải phóng”. Ngược lại, sau cuộc tấn công
này, dân chúng rất sợ hãi và ân hận cộng sản đã vi phạm thỏa thuận hưu
chiến trong ngày lễ truyền thống thiêng liêng của dân tộc, biết ơn quân
đội VNCH đã chiến đấu để bảo vệ họ, và ủng hộ công cuộc chống cộng của
chính quyền mạnh mẽ hơn. Tinh thần chiến đấu của binh sĩ cũng lên cao và
quân số VNCH tăng lên mau chóng về cả hai thành phần tình nguyện và
quân dịch. Chỉ mấy tuần sau cuộc tấn công đợt 1 có 10,084 quân tình
nguyện so với 3,924 vào tháng Hai năm trước; ngoài ra, có 10,600 thanh niên trình diện đi quân dịch so với 4,006 cũng vào tháng Hai năm trước.90
Cuộc tổng công kích này cũng khiến cho lưỡng viện Quốc hội và những
nhóm chính trị đối lập như Phong trào Phục hưng miền Nam, đều lên án sự
vi phạm của cộng sản và hợp tác với các nỗ lực của chính quyền giúp đỡ
nạn nhân ở các nơi. Một yếu tố khác cũng cần được nhắc đến là con số
binh sĩ và cán bộ Việt cộng trở về theo chương trình Chiêu hồi tăng lên
rất cao: trong sáu tháng đầu năm 1969 đã có 20,924 người hồi chánh,
nhiều hơn gấp đôi tổng số của năm 1968.91
Trong mấy năm kế tiếp, dù miền Bắc vẫn
tiếp tục đưa quân và vũ khí vào miền Nam và mở nhiều trận tấn công khác,
đặc biệt nhắm vào quân Mỹ để đẩy mạnh phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ,
quân đội miền Bắc đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Đặc biệt là trận
đại tấn công mùa Xuân 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sử dụng gần 200,000
quân sĩ với 1,200 xe tăng và xe bọc sắt tân công vào ba mũi nhọn: Quảng
trị (Quân khu I), Kontum và cao nguyên miền Trung (Quân khu II), và An
Lộc (Quân khu III). Cả ba mặt trận diễn ra rất ác liệt suốt ba tháng
trời, từ cuối tháng Ba tới cuối tháng Sáu, rốt cuộc Bắc Việt phải rút
quân sau khi đã hi sinh khoảng 100,000 binh sĩ và thiệt hại trên một nửa
số trọng pháo và chiến xa.92 Tháng Ba 1973, tướng Trần Văn
Trà được triệu ra Hà Nội để báo cáo về tình hình miền Nam. Trong một
cuốn sách xuất bản năm 1982 nhưng bị cấm lưu hành ngay sau đó, tướng Trà
có thuật lại nội dung những cuộc thảo luận trong phiên họp này. Các nhà
lãnh đạo Hà Nội đều đồng ý về những khó khăn nghiêm trọng đang phải đối
phó ở miền Nam. Quân số VNCH khi đó đã lên tới trên một triệu, được vũ
trang đầy đủ về mọi mặt, lại có sự yểm trợ của máy bay B-52, trong khi
quân giải phóng địa phương đã bị tiêu diệt gần hết từ trận Tết Mậu Thân
và bộ đội chủ lực còn chưa được phục hồi sau trận đại tấn công mùa Xuân
1972. Tướng Trà viết: “Bộ đội của chúng ta đã kiệt sức và các đơn vị bị
tan rã. Chúng ta không thể bù đắp được những mất mát. Chúng ta thiếu
nhân lực, thực phẩm và đạn dược nên việc đối phó với kẻ thù hết sức khó
khăn. Có những khi chúng ta phải rút lui để địch quân lấy lại sự kiểm
soát nhân dân.”93 Cảnh oái oăm là trong khi thất bại nặng về
quân sự như vậy, Bắc Việt vẫn chiếm được ưu thế trong những cuộc thương
thuyết và Hoa Kỳ vẫn ép buộc VNCH phải chấp nhận những điều kiện hoàn
toàn bất lợi trong bản hiệp định Paris.
Phong trào phản chiến, vụ từ chức của
Tổng thống Nixon và quyết định bỏ rơi Việt Nam của Quốc hội và chính
quyền Gerald Ford đã đem lại cho miền Bắc Việt Nam tất cả mọi điều kiện
thuận lợi để xoay chuyển tình thế và thực hiện được cuộc tổng tấn công
chiếm trọn miền Nam mau chóng dễ dàng. Đây là “những món quà của Trời
cho” quí báu nhất đối với đảng Cộng sản và nhà nước VNDCCH. Sai lầm to
lớn của Hoa Kỳ trong chính sách “Mỹ hóa” chiến tranh và thái độ vô trách
nhiệm của các tướng lãnh cầm quyền ở miền Nam là những nguyên nhân
chính đưa đến sự thất bại của Mỹ và sự sụp đổ của VNCH. Chính phủ Mỹ đã
làm nhiều việc để đền đáp công lao của trên 58,000 quân nhân Mỹ bị chết
và gần 160,000 người bị thương tật trong cuộc chiến ở Việt Nam. Chính
phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã long trọng tuyên dương công
trạng của tử sĩ nhưng chỉ giúp đỡ được một phần nhỏ những cựu chiến sĩ
và thương phế binh của họ. Trong khi đó, chính thể VNCH đã cáo chung,
những quân nhân đã bỏ mình trong cuộc chiến không được yên thân dưới nấm
mồ và những thương binh còn sống sót ở trong nước bị hắt hủi ở bên lề
xã hội. Cho đến những năm gần đây mới có một số chương trình của người
Việt Nam ở nước ngoài trở về giúp đỡ cho thương phế binh và nạn nhân
chiến tranh của cả hai bên, và có dự án sửa sang lại mộ phần của những
người đã hi sinh nhưng chưa được chấp thuận. Các cựu tướng lãnh VNCH,
các nhân vật chính trị và cộng đồng Việt Nam hải ngoại nên tích cực tiếp
tay cho những hoạt động có ý nghĩa này, vong linh của những vị tướng,
tá đã anh dũng tuẫn tiết trong những giờ phút cuối cùng của VNCH hẳn sẽ
cảm thấy hài lòng. Chính phủ Việt Nam ngày nay, nếu thật tình muốn hoà
giải với ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài mà đa số đã trở thành công
dân của quốc gia định cư, trước hết cần hoà giải với những nạn nhân của
cuộc chiến ở miền Nam, kể cả những người đã khuất. Hai câu thơ của Tô
Thùy Yên, dẫn trên đầu sách, rất thích hợp với thực chất của chiến tranh
Việt Nam và đáng được ghi nhớ trên đài tưởng niệm chung các chiến sĩ,
có thể sẽ được dựng lên một ngày nào đó trong tương lai:
Quen, lạ, bạn, thù chung giấc ngủ,
Chung lời thương tiếc khắc trên bia.94
Càng cần hoà giải hơn nữa khi đất nước
đang ở một khúc ngoặt lịch sử quan trọng trong những tương quan quốc tế
mới đòi hỏi sự đóng góp của mọi nguồn nhân lực và tài lực ở trong và
ngoài nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mọi người đều nhìn nhận
rằng trong cuộc chiến tranh quốc gia-cộng sản, các chiến sĩ ở cả hai bên
đều chiến đấu vì lòng yêu nước nhưng cũng bị biến thành công cụ của
những thế lực quốc tế. Vì vậy, mọi người cần phải rút ra được bài học
của quá khứ, thẳng thắn nhìn nhận các sai lầm và dẹp bỏ hận thù để cùng
nhau đưa nước Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu và trở thành một quốc
gia giàu mạnh, dân chủ và tiến bộ. Bởi vì sự thật đau lòng là cuộc chiến
tranh tàn phá nhất và giết nhiều người nhất trong lịch sử Việt Nam thực
tế là một cuộc chiến mà tất cả mọi phe đều thua, và nạn nhân chính vẫn là dân tộc và đất nước Việt Nam.
_____
Ghi chú:
1Hội đồng Tư vấn Nam kỳ do Cao ủy d’Argenlieu thành lập ngày
4.2.1946, gồm có Chủ tịch là ủy viên Cộng hòa Pháp Jean Cèdile và 12 đại
biểu (8 Việt, 4 Pháp). Danh sách như sau: Nguyễn văn Thinh (y sĩ), Trần
Tấn Phát (y sĩ), Trần Thiện Vàng (nghiệp chủ), Jacques Lê Văn Định
(điền chủ), Nguyễn Thành Lập (Tổng lý Việt Nam Ngân hàng), Nguyễn tấn
Cường (nghiệp chủ), Nguyễn Văn Tỵ (kỹ sư), Nguyễn Văn Thạch (dược sĩ),
Joseph Béziat (luật sư), William Bazé (lai Pháp, chủ đồn điền), Clogne
(dược sĩ), Gressier (lai Pháp, điền chủ.) Trần Tần Phát bị Việt Minh (?)
ám sát ngày 29.3.1946. Đại tá Nguyễn Văn Xuân được cử vào thay thế.
2 Thành phần Chính phủ Nam kỳ tự trị: Nguyễn Văn Thinh,
Thủ tướng; Nguyễn Văn Xuân, Phó thủ tướng; Trần Văn Tỷ, Tư pháp; Nguyễn
Thành Lập, Tài chánh; Lưu Văn Lang, Vận tải (không nhận); Ung Bảo Toàn,
Canh nông, Thương Mại và Kỹ nghệ; Nguyễn Thành Giang, Giáo dục; Khương
Hữu Long, Lao động và Xã hội; Nguyễn Văn Tầm, Thứ trưởng An ninh; Nguyễn
Tấn Cường, Thứ trưởng An ninh Sài-gòn/Chợ lớn; Đỗ Văn Trà,Thứ trưởng
Vận tải.
3 Xem chú thích số 31, chương Hai, về việc thành lập MTQGLH ở Nam Kinh.
4Bao Dai, 184.
5 Joseph Buttinger,
The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam (New York: Frederick A. Praeger, 1958), p. 457.
6 Trước khi ký Hiệp định Vịnh Hạ Long (5.6.1948) dưới sự
chứng kiến của Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ mới và đổi
tên là “Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam” thủ đô là Hà Nội. Ý niệm
li khai đến đây chính thức cáo chung.
7 FRUS, 1952-1954, XIII: 892.
8 Chính Đạo,
Việt Nam Niên Biểu: 1939-1975, tập B, 213.
9 Tướng De Lattre de Tassigny cho Đại sứ Heath biết là
Trần Văn Hữu đã biển thủ quĩ mật của các bộ Ngoại giao, Thông tin và Nội
vụ nhiều triệu đô- la, và có thể thuê kẻ ám sát ông nếu ông dọa tiết lộ
tham vọng của Hữu. (FRUS, 1951,VI: 539).
10 Chính Đạo, tập B, 266.
11 FRUS, 1952-1954. XIII:587.
12 Theo Đại sứ Heath, dưới thời Nguyễn Phan Long, mỗi
tháng Bảo Đại được 4 triệu đồng (khoảng 200,000 đôla.) Thời chính phủ
Hữu, lương tháng này tăng lên 7 triệu (khoảng 350,000 đô-la.) Ngoài ra,
Bảo Đại còn nhận của Bảy Viễn mỗi tháng khoảng 400,000 đôla. (FRUS,
1952-1954, XIII: 221-230
). về việc Bảo Đại chuyển tiền ra ngoại
quốc, Phan Huy Quát có một giải thích đáng chú ý, rằng đây là một vấn đề
chính sách hơn là do lòng ham lợi vị kỷ. “Việc Bảo Đại có tiền ngoài
tầm kiểm soát của Pháp ở Đông Dương sẽ cho ông một mức độ độc lập mà
những nhà vua trước không có, một điều khiến cho nhiều vua về cuối đời
bị phế bỏ phải sống nghèo túng.” (FRUS,
ibid., 587.)
13 Xem chương Hai trên đây.
14 “Bài” là tên của Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người đã
lên tiếng chống lại việc Khâm sứ Georges Mahé ra lệnh đào mộ vua Tự Đức
để kiếm vàng. Ngoài tình đồng liêu với Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài cũng
là nhạc phụ của Ngô Đình Khôi, anh lớn của Thượng thư Ngô Đình Diệm.
Năm 1945, Ngô Đình Khôi, làm quan đến chức Tổng Đốc Nam Ngãi, bị Việt
Minh bắt cùng với người con trai duy nhất là Ngô Đình Huân đem đi thủ
tiêu cùng một lúc với Thượng thư Phạm Quỳnh.
15 Nguyễn Phú Đức,
The Vietnam War, bản thảo chưa xuất bản, trang 273.
16 Trần Trọng Kim,
Một Cơn Gió Bụi, 44 và 50.
17 CAOM, HCI-101. Về vấn đề này và lai lịch của Marc Yokohama, xem chương 1, chú thích số 17.
18 Cuộc điều đình về hiệp ước “kiện toàn độc lập” này rất
cần thiết và gấp rút để cho Quốc Gia Việt Nam có đủ danh nghĩa tham gia
hội nghị Genève, bắt đầu từ 24.2.1954, nhưng cũng phải hơn ba tháng sau
mới được chính thức ký kết.
19 Nội các Ngô Đình Diệm đầu tiên gồm có: Thủ tướng kiêm
Nội vụ và Quốc phòng: Ngô Đình Diệm; Quốc Vụ Khanh: Trần Văn Chương;
Tổng trưởng Ngoại giao: Trần Văn Đỗ; TT Tài chánh và Kinh tế: Trần Văn
Của; TT Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên; TT Công chánh: Trần
Văn Bạch; TT Y tế và Xã hội: Phạm Hữu Chương; TT Canh nông: Phan Khắc
Sửu; TT Quốc gia Giáo dục: Nguyễn Dương Đôn; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng:
Trần Chánh Thành; BT Thông tin: Lê Quang Luật; BT đặc trách Công vụ Phủ
Thủ tướng: Phạm Duy Khiêm; BT Nội vụ: Nguyễn Ngọc Thơ; BT Quốc phòng: Lê
Ngọc Chấn; Thứ trưởng Quốc phòng: Hồ Thông Minh; BT Tư pháp: Bùi Văn
Thinh; BT Kinh tế: Nguyễn văn Thoại; BT Tài chánh: Trần Hữu Phương.
20 Theo Bernard Fall, tướng Trình Minh Thế (Cao Đài) được
trả 2 triệu đô-la, tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Đài) được 3.6 triệu,
tướng Trần Văn Soái tức Năm Lửa (Hoà Hảo) được 3 triệu (Fall,
The Two Vietnams, 245-246).
21 Nội các cải tổ gồm có: Thủ tướng kiêm Nội Vụ và Quốc
phòng: Ngô Đình Diệm, QVK, Ủy viên Quốc phòng: Trung tướng Trần Văn
Soái, QVK, uỷ viên Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Thành Phương, TT Ngoại
giao: Trần Văn Đỗ, TT Tư pháp: Bùi Văn Thinh, TT Thông tin và Chiến
tranh Tâm lý: Phạm Xuân Thái, TT Tài chánh: Trần Hữu Phương, TT Kinh tế:
Lương Trọng Tường, TT Canh Nông: Nguyễn Công Hầu, TT Công chánh: Nguyễn
Văn Bạch, TT Kế hoạch và Kiến thiết: Nguyễn Văn Thoại, TT Y tế: Huỳnh
Kim Hữu, TT Quốc gia Giáo dục: Nguyễn Dương Đôn, TT Xã hội: Nguyễn Mạnh
Bảo, TT Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên, TT Cải cách: Nguyễn
Đức Thuận, BT Quốc phòng: Hồ Thông Minh, BT đặc nhiệm Công vụ: Trần Ngọc
Liên, BT Phủ Thủ tướng: Phạm Duy Khiêm, BT đặc nhiệm Phủ Thủ tướng: Bùi
Kiện Tín, BT Nội Vụ: Huỳnh văn Nhiệm, Thứ trưởng: Nguyễn Văn Cát.
22 Jean Lacouture et Philippe Devillers,
La Fin d’une Guerre (Paris: Editions du Seuil, 1960), 298-299.
23 Theo Collins, ông Diệm “quá quan tâm với những vấn đề
nhỏ nhặt và không có được một sáng kiến xây dựng nào kể từ ngày nắm
chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều khó chịu về
thói quen của ông Diệm quyết định trên đầu họ, không để ý tới ý kiến của
họ mà chỉ trông cậy vào hai người em và một số ‘gọi dạ bảo vâng’.
Collins nhìn nhận Diệm người ngay thẳng, chống Cộng và chống thực dân
nhưng ông lại hoàn toàn không biết nhân nhượng và, với thái độ của một
nhà tu khắc khổ, ông Không thể nào đương đầu với những thực tại như Bình
Xuyên và Cao Đài…” (FRUS, 1955-1957,I: 292-293).
24 ibid, 307-312.
25 Thành phần chính phủ gồm có: Thủ tướng kiêm TT Quốc
phòng: Ngô Đình Diệm; TT Nội Vụ: Bùi Văn Thinh; TT Tư pháp: Nguyễn văn
Sĩ; TT Ngoại giao: Vũ Văn Mẫu; TT Tài chính & Kinh tế: Trần Hữu
Phương; TT Thông tin: Trần Chánh Thành; TT Giáo dục & Thanh niên:
Nguyễn Dương Đôn; TT Xã hội & Y tế: Vũ Quốc Thông; TT Lao Động:
Huỳnh Hữu Nghĩa; TT Canh Nông: Nguyễn Công Viên; TT Công chánh: Trần văn
Mẹo; TT Điền thổ & Cải cách điền địa: Nguyễn Văn Thời; Bộ trưởng
Phủ Thủ tướng: Nguyễn Hữu Châu; BT Quốc phòng: Trần Trung Dung.
26 Trần Trọng Kim,
Nho Giáo (Saigon: Bộ Giáo Dục, 1971), quyển Thượng, 129.
27 ibid.. 217.
28 Bernard Fall,
The Two Vietnams, 260-261.
29 ibid., 266.
30 Bùi Tín,
Mây Mù Thế Kỷ (Westminster, CA: Đa Nguyên, 1998), 198-199.
31 Tuyên cáo ngày 7.4.1955 của VNQDĐ. Tài liệu Văn Khố Vincennes, Pháp, trích dẫn bởi Chính Đạo,
Việt Nam Niên Biểu, tập I-C: 1955-1963, 24-25.
32 Bernard Fall,
The Two Vietnams, 270-271.
33 Mười tám nhân vật này là: Trần Văn Văn, tốt nghiệp Cao
đẳng Thương Mại Pháp, cựu Tổng Trưởng Kinh tế và Kế hoạch; Phan Khắc
Sửu, Kỹ sư Canh nông, cựu TT Canh nông, cựu TT Lao động; Trần Văn Hương,
giáo sư Trung học, cựu Đô trưởng Sài gòn-Chợ lớn; Nguyễn Lưu Viên, Bác
sĩ, cựu giáo sư Y khoa, cựu Đặc ủy về Tị Nạn; Huỳnh Kim Hữu, Bác sĩ, cựu
TT Y tế; Phan Huy Quát, Bác sĩ, cựu TT Giáo dục, cựu TT Quốc phòng;
Trần Văn Lý, cựu Tổng trấn Trung phần; Nguyễn Tiến Hỷ, Bác sĩ; Trần Văn
Đỗ, Bác sĩ, cựu Ngoại trưởng, Trưởng phái đoàn tại Hội nghị Genève 1954;
Lê Ngọc Chấn, Luật sư, cựu Bộ trưởng Quốc phòng; Lê Quang Luật, Luật
sư, cựu Đại biểu chính phủ tại Bắc phần, cựu TT Thông tin và Tuyên
truyền; Lương Trọng Tường, Kỹ sư Công chánh, cựu BT Kinh tế; Nguyễn tăng
Nguyên, Bác sĩ cựu Tổng trưởng Lao động và Thanh niên; Phạm Hữu Chương,
Bác sĩ, cựu TT Y tế và Xã hội; Trần Văn Tuyên, Luật sư, cựu BT Thông
tin và Tuvên truyền; Tạ Chương Phùng, cựu Tỉnh trưởng Bình Định; Trần Lê
Chất, khoa bảng Tam trường 1903; Hồ Văn Vui, Linh mục, cựu LM Giáo phận
Sài-gòn. đương kim LM Giáo xứ Tha La, Tây Ninh.
34 FRUS, 1961-1963,I: 21-23.
35 Mann,
A Grand Delusion, 218.
36 Langguth,
Our Vietnam, 208.
37 Những con số bách phân về diện tích ruộng đất và số điền chủ ở Bắc và Nam là do Bernard Fall sưu tầm (Fall,
The Two Viet-Nams, 308).
38 Ngày 1.10.1962, Tổng thống Diệm loan báo trước Quốc
Hội: “Việc xây dựng ấp chiến lược được ấn định là 600 ấp một tháng. Như
vậy đến cuối năm 1962 sẽ có 9,253,000 dân tức hai phần ba tổng số dân
chúng (ở miền Nam) sẽ sinh sống trong các ấp chiến lược.” (Đại sứ quán
VNCH ở Paris:
Bulletin du Vietnam, số 226, tháng Mười-Mười Một 1962, do B. Fall trích dẫn trong
The Two Vietnams, p. 376).
39 FRUS. 1961-1963,111:154.
40 Tôn Thất Đính,
20 năm Binh nghiệp (San Jose, CA: Tuần báo Chánh Đạo xuất bản, 1998), 270.
41 Ngô Đình Thục làm Giám mục ở Vĩnh Long từ 1938 đến 1961 thì được Vatican thăng chức Tổng Giám mục địa phận Huế.
42 Có nghi vấn về nguyên nhân vụ nổ làm chết người liên
quan đến cộng sản hay CIA, đến nay chưa được làm sáng tỏ. Xem Ellen J.
Hammer,
A Death in November (New York: E.p. Dutton, 1987), 114-116.
43 Xem chú thích số 62 dưới đây về Phạm Ngọc Thảo.
44 Trần Kim Tuyến không sang Ai Cập mà ở lại
Hong Kong để tiếp tục âm mưu đảo chánh. Sau khi hai ông Diệm và Nhu bị
giết, ông Tuyến trở về Việt Nam nhưng bị nhóm đảo chính bắt giữ một thời
gian. Nhờ sự giúp đỡ của Phạm Xuân Ấn, phái viên báo
Time, một
đại tá cộng sản nằm vùng từng hợp tác với ông, Trần Kim Tuyến chạy thoát
khỏi Việt Nam ngay trước khi Sài- gòn thất thủ. Ông sang định cư tại
London và mất tại đó năm 1995.
45 Hammer, 222.
46 ibid., 224.
47 Ramchundur Goburdhun, Chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm soát
Đình chiến, cho biết Hồ Chí Minh nhận xét rằng Ngô Đình Diệm với cá
tính độc lập rất khó hợp tác với Mỹ vì Mỹ muốn kiểm soát mọi chuyện.
Theo Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm là “một người yêu nước theo cách của ông
ta” và nhắn Goburdhun: “Khi nào gặp ông Diệm thì bắt tay ông ta dùm
tôi.” (Hammer, 222)
48 Một thí dụ về thái độ của chính phủ Mỹ coi thường Hội
đồng các tướng lãnh và các chính phủ sau Ngô Đình Diệm là việc Johnson
quyết định đưa quân Mỹ tham chiến vào Việt Nam tháng Ba năm 1965 mà
không hề hỏi ý kiến hay báo trước cho chính phủ Việt Nam.
49 Hammer, 110.
50 Ibid, 109.
51 Tôn Thất Đính, 304.
52 Maxwell Taylor,
Swords and Plowbares (New York: Norton, 1972), 301.
53 Hammer, 300.
54 ibid., 295.
55 Hammer, 300.
56 John Clark Pratt,
Vietnam Voices: Perspectives on the War Y ears, 1941- 1975 (Georgia: The University of Georgia Press, 1999), 134.
57 Trần Văn Đôn,
Our Endless War Inside Vietnam (San Rafael, California: Presidio Press, 1978), 109.
58 Embassy telegram, November 3, 1963.
59 U.S. Department of State telegram to Hue, Nov. 2, 1963.
60 “Flash” cable, U.S. Department of State to Saigon, Nov. 4, 1963.
61 Theo L.M. Cao Văn Luận, cựu Viện trưởng Đại Học Huế,
ông có yêu cầu Đại sứ Lodge can thiệp và được hứa rằng “tôi sẽ làm mọi
cách để ông cẩn khỏi bị phép án tử hình. Lời tôi hứa với cha hôm nay
cũng là lời tôi đã hứa với Đức Giáo Hoàng… Vậy bây giờ trước mặt cha,
tôi xin nhắc lại lời hứa đó, và nếu tôi không làm tròn lời hứa này, tôi
sẽ từ chức Đại sứ Mỹ tại Việt Nam lập tức.” (L.M. Cao Văn Luận,
Bên Giòng Lịch Sử Việt Nam 1940- 1975,
Sacramento, CA: Tantu Research, 1983), 309. Không hiểu tại sao Đại sứ
Lodge không giữ được lời hứa. Lý do ông từ chức vào cuối tháng Năm được
nói đến là ông về nước để vận động Đảng Cộng Hoà cử ông ra tranh cử Tổng
Thống tháng 11, 1964.
62 Dẫn bởi Frances Fitzgerald,
Fire in the Lake (Boston: Little, Brown and Company, 1972), 254.
63 Phạm Ngọc Thảo hoạt động bí mật cho cộng sản từ lâu.
vốn thuộc một gia đình công giáo theo Việt Minh kháng chiến, Thảo bỏ về
hàng ngũ quốc gia và trở thành người thân tín của Giám mục Ngô Đình
Thục. Thảo có công trong cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm. Khi tướng Khiêm
bị đẩy sang Mỹ làm Đại sứ, Thảo đi theo làm tùy viên báo chí được mấy
tháng. Sau khi mưu toan lật đổ Nguyễn Khánh bất thành, Thảo bỏ trốn
nhưng sau đó bị bắt và giết chết một cách bí mật.
64 Có một hiến pháp chết yểu là “Hiến chương Vũng Tàu.”
Khi tướng Kỳ làm Thủ tướng, có một bản Hiến Ước (19.6.1965) làm cơ sở
pháp lý của chế độ. Mãi đến tháng Ba 1967, UBLĐQG mới có bản Hiến Pháp
của nền Đệ nhị Cộng hoà. Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra vào tháng Chín
năm đó.
65 Đại sứ Maxwell Taylor trong một buổi nói chuyện với phóng viên báo chí Mỹ và ngoại quốc ở Sài-gòn. Dẫn bởi Richard Critchfïeld,
The Long Charade: Political Subversion in the Vietnam War (New York: Harcourt, Brace and World, 1968), 96.
66 Phật giáo chia làm hai: phe Ấn Quang do Thượng tọa
Thích Trí Quang lãnh đạo tranh đấu quyết liệt; phe Viện Hoá Đạo, do
Thượng tọa Thích Tâm Châu lãnh đạo, cũng chống chính phủ quân nhân nhưng
có khuynh hướng ôn hoà.
67 Mười đại diện dân sự trong UBLĐQG gồm hai Phật giáo Hoà
Hảo (Huỳnh Văn Nhiệm, Quản Hữu Kim), hai Công giáo (Nguyễn Văn Huyền,
Vũ Ngọc Trản), hai Cao Đài (Trần Văn Ân, Văn Thành Cao), và hai nhân sĩ
độc lập (cựu Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên và cựu Ngoại trưởng Trần văn
Đỗ).
68 Trương Đình Dzu, luật sư, đề nghị Hoa Kỳ
ngưng ném bom Bắc Việt vô điều kiện, mở cuộc hội đàm giữa Sài-gòn và Hà
Nội về việc ngưng đưa người và vũ khí vào miền Nam, thương thuyết với
MTGPMN về các nguyện vọng hợp lý của họ, và kêu gọi triệu tập lại Hội
nghị quốc tế ở Genève. Nhược điểm của Trương Đình Dzu là không được
nhiều người tin cậy vì có tiếng xấu về đạo đức nghề nghiệp. Sau bầu cử,
Dzu bị kết án 9 tháng tù về ::: ký chi phiếu không tiền bảo chứng và mở
một trương mục bất hợp pháp ngân hàng Bank of America tại San Francisco,
nhưng được thả trước thời hạn. Sau 1975, mặc dù thành tích chống chiến
tranh, ông vẫn bị đưa đi học tập cài tạo.
69 Douglas Pike, ed.,
The Bunker Papers (University of California at Berke at fc The Asia Foundation, 1990), I: 151-152, 154-157.
70 Schulzinger, 254.
71 Pike,
The Bunker Papers, I: 8.
72 Nguyen Cao Ky with Marvin J. Wolf,
Buddha’s Child: My Fight to Save V
ĩetnam. (New York: St. Martin’s Press, 2002), 247.
73 Pike,
The Bunker Papers, I: 69.
74 Nguyen Cao Ky , 249
75 Pike,
The Bunker Papers, II: 479.
76 ibid., 421.
77 ibid., 462.
78 Sáu người thiệt mạng là; Đại tá Nguyễn Văn Luận, Đại tá
Phó Quốc Chụ, Trung tá Đào Bá Phước, Trung tá Nguyễn Ngọc Trụ, Thiếu tá
Nguyễn Ngọc Sinh và Thiếu tá Nguyễn Bảo Thùy. Hai người bị thương là
Đại tá Văn Văn Của, Đô trưởng Saigon, và Trung tá Trần Văn Phân, Chỉ huy
trưởng cảnh sát Dã chiến. Có tin Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Quân
khu III kiêm Tổng trấn Saigon-Cholon, đến họp trễ nên thoát nạn.
79 Pike, ed.,
The Bunker Papers, II: 470.
80 Ibid„ 613.
81 ibid., 501.
82 ibid., 393-394.
83Ngày 10.10.1974, ủy ban này tổ chức “Ngày Ký giả đi ăn
mày” để phản ứng chính phủ và lấy tiền giúp đỡ gia đinh các ký giả thất
nghiệp. (Nguyễn Khấc Ngữ,
Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa (Montréal: Tủ ‘ich Nghiên cứu Sử-Địa, 1979), 282.
84 Thành phần gồm có: Thủ tướng: Nguyễn Bá cẩn. Ba Phó thủ
tướng: Phạm Văn Đỗng, đặc trách Tổng Thanh tra kiêm TT Quốc phòng;
Nguyễn Văn Hảo, đặc trách sản xuất kiêm TT Canh nông và Kỹ nghệ; Nguyễn
Xuân Phong, đặc trách hoà đàm. 15 Tổng trưởng: Ngoại giao: Vương Văn Bắc
(lưu nhiệm); Tư pháp: Ngô Khắc Tịnh; Nội Vụ: Bửu Viên; Văn hoá, Giáo
dục và Thanh niên: Nguyễn Duy Xuân; Tài chính: Lê Quang Trường (lưu
nhiệm); Thương mại và Kinh tế: Nguyễn Văn Diệp; Kế hoạch: Nguyễn Tiến
Hưng (lưu nhiệm); Công chnh và giao thông: Nguyễn Xuân Đức; Lao động: Vũ
Công; Thông tin Chiêu hồi: Phan Hoà Hiệp; Xã hội: Trần Văn Mại; Phát
triển Sắc tộc: Nay Luett (lưu nhiệm); Đặc trách Liên lạc Quốc hội: Phạm
Anh; Quốc phòng: Trần văn Đôn. Ngoài ra chính phủ có 5 Cố vấn là: Trần
Quốc Bửu, CT Tổng Liên đoàn Lao công; Lương Trọng Tường, Phật giáo Hòa
Hảo; LM Cao Văn Luận, Công Giáo; Th.T. Thích Quảng Long, Phật giáo; và
ông Nguyễn văn Thơ, độc lập. (Theo Nguyễn Khắc Ngữ,
Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hoà, op. cit, 290-291).
85 Pike, ed., III: 709
86 ibid., 767.
87 ibid., 665. Những điều Thiệu nói riêng với
Bunker không giống hẳn giải pháp hòa bình sáu điểm được ông đưa ra công
khai trước Quốc hội ngày 7 tháng Tư, theo đó Bắc Việt phải rút hết quân
về Bắc, tái lập vùng phi quân sự ở biên giới, không được sử dụng Lào và
Cam-bốt làm căn cứ, các lực lượng chống đối chính phủ ở miền Nam (tức
MTGPMN) phải tôn trọng Hiến pháp và luật lệ VNCH để có đầy đủ quyền bầu
cử và ứng cử dưới sự kiểm soát của quốc tế.
88 Wilfred G. Burchett,
Vietnam: Inside Story of the Guerilla War. New York: International Publishers, 1958, 3
rd edition, 216.
89 McNamara,
In Retrospect, 159
90 Pike. Ed.,
The Bunker Papers, II: 373.
91 ibid., Ill: 708.
92 Césari, 220.; Sorley, 339. Sau trận này, tướng Giáp bị thay thế bởi tướng Văn Tiến Dũng.
93 Kamow, 673; Sorley, 366.
94 Dẫn bởi Phan Lạc Phúc trong
Bè Bạn Gần Xa (California: Văn Nghệ Xuất Bản, 2000), 418.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog BS 2013
George Orwell - Trại súc vật
Phạm Nguyên Trường dịch
Đôi lời phi lộ: Để chuẩn bị kỉ niệm 110 năm ngày sinh của George Orwell
và kỉ niệm 9 năm ngày mỗ công bố bản dịch này trên talawas.org, xin post
lại ở đây để mọi người cùng đọc và chiêm nghiệm.
Lời giới thiệu
Trại Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì
được in ở Mĩ. Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng
số bản in cả ở Anh và Mĩ là 195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ
II do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế, tuy vậy cho đến khi Orwell
mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại Súc Vật được
in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to
lớn và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được
dịch ra tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như
Telugu (một dân tộc thuộc bắc Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn
50 năm, kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm đã được dịch ra 68 thứ
tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình chọn
100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến
hành, Trại Súc Vật được xếp thứ 31.
Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell chúng tôi xin giới
thiệu Trại Súc Vật, một trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông với
lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Ukraine do chính Orwell viết. Lời
tựa này được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản gốc đã bị thất lạc), theo
đề nghị của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này cho những
người Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do
quân đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng
Ukraine dành cho lần xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin
Classic trong lần xuất bản năm 2000 đã cho dịch lại và in kèm với lời
giới thiệu của Malcolm Bradbury.
Sau tác phẩm Trại Súc Vật, George Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng
1984. Tác phẩm này nằm ở vị trí 13 trong bảng tổng sắp của nhà sách
Randomhouse đã nói ở trên. Tin rằng một ngày gần đây tác phẩm bất hủ này
cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt.
Phạm nguyên Trường
Tôi được yêu cầu viết lời giới thiệu cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật
sang tiếng Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng tôi đang viết cho những độc
giả mà tôi không có một chút hiểu biết nào và họ cũng chưa từng có cơ
hội tìm hiểu tôi.
Trong lời giới thiệu chắc chắn độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác
tác phẩm Trại Súc Vật, nhưng trước tiên tôi muốn tự kể về mình và những
trải nghiệm đã dẫn tôi đến quan điểm chính trị hiện nay.
Tôi sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó, cha tôi là một viên chức trong bộ
máy hành chính Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu,
gồm các quân nhân, tu sĩ, viên chức chính phủ, giáo sư, luật sư, bác sĩ
v.v... Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một trường công lập thuộc loại
đắt nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là do được nhận
học bổng, chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường
như thế.
Ngay sau khi thôi học (lúc đó tôi chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và
tham gia lực lượng cảnh sát Hoàng gia tại đây. Tôi làm ở đó năm năm.
Việc này hoàn toàn không hợp với tôi, tôi trở nên căm ghét chủ nghĩa đế
quốc, mặc dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện chưa cao và quan hệ
giữa người Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về lại Anh
quốc vào năm 1927, tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không
có thành công đáng kể nào. Trong những năm 1928-1929, tôi sống ở Paris,
chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết, nhưng không có nhà xuất bản nào
chịu in (tôi đã xé bỏ hết). Những năm sau đó tôi phải tay làm hàm nhai,
đôi khi phải nhịn đói. Chỉ từ năm 1934 tới nay tôi mới sống được bằng
ngòi bút. Trong thời gian này, tôi đã sống nhiều tháng giữa những người
nghèo khổ và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại những khu vực tồi tệ nhất của
những khu phố nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn với họ vì không có tiền,
nhưng sau này tôi lại rất thích lối sống đó. Tôi đã dành nhiều tháng
trời để nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc nước Anh. Cho đến năm
1930, nói chung, tôi vẫn chưa phải là người theo phái xã hội. Thực ra,
tôi vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình. Tôi trở thành
người theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh
thường tầng lớp công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán
phục xã hội theo kế hoạch hoá về mặt về mặt lí luận.
Tôi lập gia đình năm 1936. Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong
những ngày đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn đi Tây Ban Nha để chiến đấu
cho chính phủ nước này. Chúng tôi sẵn sàng lên đường, sáu tháng sau đó,
khi tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã khởi sự từ trước. Tôi đã ở mặt
trận Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một phát đạn bắn
tỉa xuyên qua cổ.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, những người ngoại quốc hoàn toàn
không hiểu được cuộc đấu tranh giữa các đảng phái ủng hộ chính phủ Tây
Ban Nha. Do một loạt sự tình cờ, tôi không tham gia các Binh đoàn Quốc
tế như đa số những người ngoại quốc khác mà chiến đấu trong hàng ngũ của
lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo phái Troskist Tây
Ban Nha.
Vì vậy, giữa năm 1947 khi những người Cộng sản nắm được quyền kiểm soát
(hay một phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây Ban Nha và bắt đầu săn đuổi
những người Troskist thì cả hai vợ chồng tôi đều trở thành nạn nhân.
Chúng tôi may mắn đi khỏi được Tây Ban Nha, thậm chí không bị bắt lần
nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ, một số bị tù đày nhiều
năm, số khác thì mất tích.
Những cuộc săn người ở Tây Ban Nha xảy ra đồng thời với những cuộc thanh
trừng vĩ đại ở Liên Xô. Thực chất những vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và
ở Nga chỉ là một (gọi là âm mưu với bọn phát xít) và nếu nói về Tây Ban
Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin rằng đấy là những vụ kết án oan. Qua
đó, tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi rằng bộ máy tuyên
truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân chủ
đến mức nào.
Hai vợ chồng tôi đã chứng kiến những người vô tội bị quẳng vào nhà giam
chỉ vì họ bị nghi là không theo đường lối chính thống. Khi trở về Anh,
chúng tôi thấy rất nhiều người thạo tin và nhạy bén tin vào những bản án
kì quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do báo chí tường thuật từ những
vụ án ở Moscow.
Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã hội ở phương Tây.
Đến đây tôi xin dừng lại một chút để trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết.
Tôi chưa đến thăm Nga bao giờ và hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là
kiến thức do thu lượm được từ báo chí, sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức
tôi cũng sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Liên Xô: tôi sẽ
không kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì những phương pháp
dã man và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như thế,
dù có muốn, họ cũng không thể hành động khác được.
Nhưng mặt khác, đối với tôi, điều cực kì quan trọng là nhân dân Tây Âu
phải nhận rõ chế độ Xô viết như nó đang là. Từ năm 1930, tôi nhìn thấy
rất ít bằng chứng là Liên Xô đang tiến đến cái có thể thực sự gọi là Chủ
nghĩa xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng rằng xã hội ấy đang
chuyển hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền, cũng
như mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền
lực, đã làm tôi choáng váng. Hơn nữa, công nhân và trí thức ở những
nước như Anh quốc lại không hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên
Xô năm 1917. Một phần vì họ không chịu hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng
có một nước xã hội chủ nghĩa quả thực đang tồn tại ở đâu đó), một phần
vì họ quen với cuộc sống tự do và ôn hoà, họ không biết gì về chủ nghĩa
toàn trị.
Cần phải nhớ rằng nước Anh chưa phải là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn
là nước tư bản với những đặc quyền đặc lợi giai cấp (ngay cả bây giờ,
sau cuộc chiến tranh có xu hướng làm cho mọi người bình đẳng hơn) và sự
chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù sao, ở đây người dân đã có cuộc
sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm qua, luật pháp tương
đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được và
cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng
hộ quan điểm của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào.
Trong hoàn cảnh như vậy người ta không thể nào hiểu được những hiện
tượng như trại tập trung, cưỡng ép di cư hàng lọat, bỏ tù không cần xét
xử, kiểm duyệt báo chí v.v... Tất cả những điều đọc được trên báo chí về
những nước như Liên Xô được tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của
nước Anh và họ ngây thơ tin ngay những điều dối trá của bộ máy tuyên
truyền của chế độ toàn trị đó. Cho đến năm 1939, và cả sau này nữa, đa
số người Anh không hiểu được thực chất chế độ phát-xít ở Đức và nay họ
cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với Liên Xô.
Điều đó đặc biệt có hại đối với phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu
đối với chính sách đối ngoại của nước Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga
là nước xã hội chủ nghĩa và mọi hành vi của những người cầm quyền ở đó
đều nên được tha thứ, nếu không nói là phải theo, là sự phản bội đối với
lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong mười năm gần đây tôi đã đi đến
kết luận rằng phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng cần
thiết, nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi trở về từ Tây Ban Nha tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền
thoại Xô viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các thứ
tiếng khác. Nhưng chi tiết của câu chuyện vẫn chưa có, cho đến một hôm
(khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy một cậu bé, khoảng mười
tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp, cứ mỗi lần
con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé
lên ý nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con
người không thể nào còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột
loài vật cũng hệt như các tầng lớp hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy.
Tôi tiến hành phân tích học thuyết của Marx trên quan điểm của súc vật.
Đối với loài vật thì rõ ràng là luận điểm về đấu tranh giai cấp giữa
người với người chỉ là một sự lừa mị, vì mỗi khi cần bóc lột súc vật là
tất cả mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại chúng: cuộc đấu
tranh thực sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây việc
tạo ra tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có
thì giờ, cho nên mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này
và cuối cùng tôi đã đưa thêm một số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran
là sự kiện xảy ra trong thời gian tôi viết. Như vậy là đường hướng
chính của câu chuyện đã nằm trong đầu tôi suốt sáu năm, trước khi tôi
thực sự đưa nó lên mặt giấy.
Tôi không có ý bình luận tác phẩm, nếu tác phẩm không có sức thuyết phục
thì có nghĩa là tác phẩm ấy đã thất bại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai
điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều tình tiết được lấy từ lịch sử của cuộc Cách
mạng Nga, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng trưng và trật tự đã được
thay đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các nhà phê
bình bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc
giả sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà
giải hoàn toàn giữa loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý
của tôi, ngược lại, tôi cố ý kết thúc ở chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi
viết chuyện này ngay sau Hội nghị Teheran, mọi người lúc đó đều nghĩ
rằng Hội nghị này sẽ thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp nhất có thể có
giữa Liên Xô và phương Tây. Cá nhân tôi không tin rằng quan hệ tốt đẹp
đó có thể kéo dài được lâu, và như các sự kiện cho thấy, tôi đã không
lầm.
Tôi không biết phải nói gì thêm nữa. Nếu độc giả nào quan tâm đến cá
nhân tôi thì tôi xin nói thêm rằng tôi đã goá vợ, hiện tôi đang sống với
con trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên nghiệp, nhưng từ khi bắt đầu
cuộc chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên.
Tôi thường viết cho tờ Tribune, một tờ tuần báo đại diện cho phái tả của
đảng Lao động. Những cuốn sách sau đây của tôi có thể được độc giả quan
tâm: Những ngày ở Miến điện (câu chuyện về Miến điện), Tưởng nhớ
Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi trong cuộc nội chiến ở Tây
Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học đương đại Anh,
được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý văn
chương).
1947
Chương I
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên
đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi sang
phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân
đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng trong ngày rồi
leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng
sột soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con lợn
đực trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước
có một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe. Chúng thoả thuận
với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ thì sẽ tập trung trong nhà
kho lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh
(chúng gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó có tên là
Willingdon Điển Trai) và sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói
chuyện.
Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới
ánh sáng của chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù
thời gian gần đây có béo thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra,
nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt, phúc hậu. Những con khác
bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi. Đầu tiên là
ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi
trên đống rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu
trên rui mè, bọn bò và cừu nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai
lại của chúng. Hai con ngựa kéo xe tên là Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào,
từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước, chúng đều thận trọng quan sát để
không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con
ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở.
Chiến Sĩ, một con tuấn mã cao đến gần hai mét và khoẻ bằng hai con ngựa
khác. Vì có một vệt trắng dọc sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra
cu cậu cũng không thuộc loại thông minh, nhưng bù lại, nó được các con
khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau đó là đến con
dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già
nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở
miệng là y như rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng
Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi
lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật duy nhất không bao giờ cười.
Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy không
nói ra, nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng
yên lặng gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn.
Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng
vừa kêu chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một chỗ an
toàn. Bà Mập lấy chân trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con
mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Ngay trước khi
buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt nát, màu trắng,
chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục đường,
mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và
lắc lư bờm để mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm
trên đó. Cuối cùng là một con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố
tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập,
chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ… gừ… trong cổ họng, mặc Thủ
Lĩnh muốn nói gì thì nói.
Thế là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con
quạ Moses, nó ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh
thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và
bắt đầu:
"Thưa các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ
kì lạ. Nhưng tôi sẽ nói chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các
đồng chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa các đồng chí, tôi nghĩ rằng
tôi không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa, vì vậy tôi cho rằng
trước khi chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí những
kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có
một cuộc đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một
mình trong chuồng, tôi nghĩ rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không
thua bất kì con vật nào trên thế gian này. Đó là điều tôi muốn nói với
các đồng chí.
Bây giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng
ta hãy nhìn thẳng vào sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai, khốn
nạn và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được một khẩu phần vừa đủ để
khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm đến kiệt sức và
khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã man,
tàn bạo. Không có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm
vui ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được
tự do. Cuộc sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật
trần trụi là như thế đấy.
Nhưng đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ nước ta lại
nghèo đến độ không nuôi nổi những động vật sống ở đây ư? Không, ngàn vạn
lần không, thưa các đống chí. Đất Anh màu mỡ, thời tiết thuận hòa, thừa
sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn hiện nay rất
nhiều. Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một tá
ngựa, hai chục bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện
nghi và phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì
tại sao chúng ta lại cứ tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này?
Bởi vì hầu như toàn bộ những gì chúng ta làm ra đều bị con người chiếm
đoạt hết. Đấy là nguyên nhân tất cả các vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn
gọn bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ thù của chúng ta. Nếu
không còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn bị đói, không
còn phải làm công việc khổ sai nữa.
Người là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không làm ra sữa,
không đẻ ra trứng, người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng thỏ.
Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó bắt chúng ta làm việc, cướp
lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng ta ăn vừa đủ để
không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta bón ruộng,
thế mà chúng ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò
đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít
sữa? Thế số sữa mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù
của chúng ta đã uống đến giọt cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua
các bạn đã đẻ bao nhiêu trứng, trong đó có bao nhiêu quả nở thành gà
con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ bán lấy tiền hết rồi. Bà Mập,
bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng xế của
bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ không bao
giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng,
công cho bốn lần vượt cạn cũng như công việc đồng áng của bà chỉ có thế
mà thôi!
Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn tuổi trời đâu.
Riêng tôi thì chẳng có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp may. Năm
nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn trăm đứa con. Trời đất
sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng có con vật
nào thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang ngồi
trước mặt tôi đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã
cõi đời trên tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai
trong chúng ta tránh khỏi cái kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài
ngựa và loài chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi
cơ bắp của đồng chí vừa yếu đi thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ
ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn. Những con
chó già, rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào cổ và quăng
xuống hồ.
Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất cả mọi khổ
đau trong cuộc đời này của chúng ta chính là do con người mà ra hay sao?
Nếu chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi thành quả lao động của
chúng ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau một đêm
chúng ta sẽ trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm
việc, không kể ngày đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách
thống trị của loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp
của tôi. Tôi không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể
trong tuần tới, cũng có thể là một trăm năm nữa, nhưng tôi biết rõ, như
tôi đang nhìn thấy những cọng rơm bên dưới chân tôi đây rằng sớm muộn gì
rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy nghĩ đến điều đó
trong suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy chuyển
thông điệp của tôi đến các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục
cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.
Các đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có nghe theo lời
tuyên truyền rằng Con Người và các loài vật cùng có chung quyền lợi,
rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh vượng của loài kia.
Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai, nó chỉ quan
tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất trí,
phải có tinh thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người
đều là kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí."
Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói
thì có bốn con chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy con chó
đã trông thấy và may là lũ chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất
mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị im lặng.
"Thưa các đồng chí", nó nói, "có một vấn đề cần phải giải quyết. Những
con thú hoang như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của
chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi xin đặt vấn đề với hội nghị như sau:
Chuột có phải là đồng chí không?"
Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột là đồng
chí. Chỉ có bốn phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng sau
này mới phát hiện ra rằng mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ
Lĩnh tiếp tục:
"Tôi xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của
các đồng chí là phải luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả những
gì do nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân đều là kẻ thù. Tất cả những
loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí lại phải luôn luôn
nhớ rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu tranh
chống lại chúng. Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được
tập nhiễm các thói xấu của chúng. Không có con vật nào được sống trong
nhà, ngủ trên giường, mặc quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền
hoặc tham gia buôn bán. Tất cả phong tục của loài người đều là có hại.
Quan trọng nhất là không con nào được áp chế con nào. Khoẻ cũng như yếu,
thông minh tài trí cũng như bình thường, tất cả chúng ta đều là anh em.
Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ
của tôi tối hôm qua. Tôi không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái đất khi
con người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống dậy trong trí tôi một
việc như sau:
Cách đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô
bác lợn khác thường hát một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu
và ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã
quên từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi đã nhớ lại tất cả, hơn
thế nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng ngày xưa
các loài vật đã từng hát như thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ
gần đây thì hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các
đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc
điệu cho các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay hơn. Bài hát tên là:
Súc Sinh Anh quốc".
Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó
hát cũng không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu "Clementine" và
"La Cucuracha". Lời bài hát như sau:
"Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi
Đồng cỏ núi đồi
Mãi mãi xanh ngời
Khi lũ người
Không còn là ách trên vai
Chạc, chạc không còn
Cương, cương cũng không
Roi vọt, chửi mắng
Chỉ là quá khứ tối tăm
Ta giàu, ta có
Vườn cây, đồng lúa
Đậu, sắn, ngô, khoai
Là của chúng ta từ đây
Mặt trời sáng soi
Nước càng ngọt tươi
Gió mát muôn đời
Là ngày tự do tương lai
Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi"
Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con kịp bắt theo
ngay trước khi Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất cũng
nắm được nhạc điệu và thuộc mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ
chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay trong vài phút đầu. Sau vài
lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh quốc. Mỗi
loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu
cạp cạp. Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng
có thể hát mãi như thế suốt đêm nếu không bị ngăn trở.
Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông bước xuống
giường vì tin chắc là có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu súng
vẫn thường dựng ở góc phòng và bắn một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy
viên găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng kết thúc. Từng con quay
về chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm xuống đống
rơm và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ.
Chương II
Ba đêm sau, Thủ Lĩnh già bình thản ra đi. Xác nó được chôn ở cuối khu vườn.
Chuyện đó xảy ra vào đầu tháng ba. Lũ súc vật tăng cường hoạt động ngầm
liên tục trong ba tháng tiếp theo. Bài diễn văn của Thủ Lĩnh đã tạo ra
một quan niệm sống hoàn toàn mới nơi những con thông minh. Chúng không
biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà Thủ Lĩnh tiên đoán sẽ xảy ra, chúng
cũng không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng chúng biết rõ
một điều là có trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác giáo
dục và tổ chức dĩ nhiên là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi
là loài thông minh nhất. Hai con lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và
Napoleon đang được ông Jones vỗ béo để bán là hai con nổi tiếng nhất.
Napoleon là một con lợn đực, trông hung dữ, giống Berkshire duy nhất
trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời nhưng nổi tiếng kiên nhẫn. Tuyết Tròn
thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều sáng kiến hơn, nhưng đa số cho
rằng tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon. Số còn lại đều là lợn
thịt. Con nổi bật nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một con lợn nhỏ, khá
béo nhưng lanh lợi, hai má phính, đôi mắt đảo lia lịa, còn giọng nói
thì the thé. Nó là một diễn giả có hạng, khi cần chứng minh một vấn đề
khó khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy đuôi, trông rất thuyết phục.
Đồn rằng nó có thể biến đen thành trắng dễ như chơi.
Ba con này đã phát triển học thuyết của Thủ Lĩnh già thành một hệ thống
triết học hoàn chỉnh mà chúng gọi là Súc Sinh Kinh. Đêm nào cũng vậy, cứ
sau khi ông Jones đi ngủ là chúng bí mật tụ họp trong nhà kho để giảng
giải cho những con khác các luận điểm chủ yếu của Súc Sinh Kinh. Thoạt
đầu quả là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và rất ngu dốt.
Có con nói rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là ông
chủ, có con còn phát biểu một cách thiếu ý thức: "Ông Jones nuôi chúng
ta. Không có ông ấy thì ta chết đói rã họng ra ấy chứ". Một số con còn
đặt câu hỏi đại loại: "Quan tâm đến chuyện sau khi ta chết để làm gì?"
hoặc "Đằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng sẽ diễn ra, ta làm hay không làm
thì cũng thế thôi". Mấy con lợn phải khó khăn lắm mới thuyết phục được
chúng rằng những luận điệu như thế là hoàn toàn trái với tinh thần của
Súc Sinh Kinh. Nhưng những câu hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả ngựa cái
màu trắng tên là Mollie. Đầu tiên ả hỏi Tuyết Tròn:
"Thế sau khi khởi nghĩa thì có đường không?"
"Không", Tuyết Tròn ngắt lời, "Chúng ta không sản xuất đường. Thực ra
đồng chí sẽ không cần đường. Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm mà đồng
chí cần."
"Thế tôi có còn được đeo ruy băng nữa không?"
"Đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Cái ruy băng mà đồng chí yêu thích đó chính
là biểu tượng của tinh thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy rằng tự
do đáng quí hơn cái ruy băng hay sao?"
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ không tin tưởng lắm.
Bọn lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bác bỏ những luận điệu do
con quạ Moses đưa ra. Moses là con vật cưng của ông Jones, nó chuyên đi
rình rập nhưng lại nhớ rất nhiều chuyện cổ tích và cũng là một diễn giả
có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương quốc thần thoại tên là Núi Xôi,
nơi linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses nói rằng vùng
đó nằm không xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều là chủ
nhật hết, còn cỏ ba lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì
mọc ngay trên bờ dậu. Lũ súc vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không
làm, nhưng có vài con lại tin là có miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành
ra bọn lợn phải vất vả lắm mới thuyết phục được chúng rằng không thể nào
có một miền như thế được.
Tông đồ tin cậy nhất của chúng là hai con ngựa kéo xe, Chiến Sĩ và Bà
Mập. Hai con này vốn dĩ chậm hiểu, nhưng khi chúng đã coi lũ lợn là sư
phụ rồi thì nuốt lấy từng lời giáo huấn rồi giảng giải lại cho những con
khác bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này không bỏ bất cứ một
buổi họp nào và thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh Anh quốc mỗi
khi cuộc họp kết thúc.
Cuộc Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ dàng hơn chúng tưởng rất nhiều.
Trong những năm gần đây, ông Jones, vốn là một điền chủ giỏi và nghiêm
khắc, đã gặp nhiều sự cố. Sau khi bị mất nhiều tiền vào việc kiện tụng,
ông trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn bình thường. Ông thường ngồi cả
ngày trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa uống bia, thỉnh
thoảng lại cho con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân thành
ra một lũ lười nhác, trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột
nát, rào dậu nghiêng đổ, súc vật thường xuyên bị bỏ đói.
Đã sang tháng sáu, đây là mùa cắt cỏ. Trước ngày Hạ chí , hôm ấy là thứ
bảy, ông Jones đi Willingdon và uống đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử
Đỏ, trưa chủ nhật mới về. Bọn gia nhân thì vội vàng vắt sữa từ sáng sớm
rồi bỏ đi săn thỏ mà không thèm cho súc vật ăn tí nào. Vừa về đến nhà là
ông Jones leo ngay lên ghế sopha trong phòng khách rồi lấy tờ "News of
the World" phủ lên mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến tận chiều tối.
Cuối cùng chúng hết chịu nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho và thế
là tất cả mọi con vật cùng lao vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó
thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn người làm công lập tức vồ lấy roi và
lao vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên lưng lũ súc vật khốn nạn. Lũ
súc vật đói khát không thể chịu đựng thêm được nữa. Dù không hẹn trước,
chúng cùng xông lên và lao thẳng vào những kẻ áp bức. Ông Jones và gia
nhân bất ngờ bị đá, bị húc từ mọi hướng. Tình hình trở nên không thể
kiểm soát được. Họ chưa từng gặp chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi loạn
bất thình lình của lũ súc vật mà trước đây muốn đánh đập, muốn hành hạ
thế nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ cầm cự được vài phút rồi
phải bỏ chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ để chạy lên đường
làng, trong khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo.
Qua cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã nhìn thấy hết mọi chuyện, bà vội vàng
cho một vài thứ vào cái túi vải rồi luồn theo cửa sau trốn khỏi Điền
Trang. Moses cũng kịp lao ra khỏi tổ rồi vừa kêu vừa bay theo bà chủ. Lũ
súc vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và đóng cổng. Thế là
cuộc Khởi Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang là của
bọn súc vật ngay trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện.
Ban đầu chúng không tin là số phận đã mỉm cười với chúng. Việc làm đầu
tiên của chúng là tập trung lại và chạy vòng quanh khu nhà để tìm xem có
còn sót người nào bên trong không, sau đó chúng lao vào các toà nhà để
phá hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của ông Jones. Kho công cụ ở
phía cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm thiếc ngựa, vòng
đeo mũi bò, xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống giếng. Còn
dây cương, dây thòng lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ
thường treo ở cổ ngựa thì bị quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc
roi cũng cùng chung số phận. Mọi con vật cùng nhảy cỡn lên khi trông
thấy những cái roi bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất luôn vào lửa những cái
ruy băng vẫn thường buộc trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì hội chợ.
"Ruy băng", nó tuyên bố, "phải được coi là quần áo, cũng là biểu tượng của loài người. Mọi con vật đều phải khỏa thân."
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái mũ rơm mà nó thường mang trong mùa hè để ngăn ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào lửa.
Chẳng mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy tất cả những thứ có liên quan đến
ông Jones. Napoleon dẫn cả bọn vào kho và phát gấp đôi khẩu phần ăn hàng
ngày, mỗi con chó được hai bánh qui bơ. Sau đó chúng hát bài Súc Sinh
Anh quốc bảy lần liền, rồi cả bọn đi ngủ, chưa bao giờ chúng ngủ ngon
như hôm ấy.
Như thường lệ, chúng thức dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng chúng lập
tức nhớ ngay đến sự kiện vinh quang vừa xảy ra và thế là cả bọn cùng lao
ra đồng cỏ. Trên đồng cỏ có một cái gò nhỏ, từ đây có thể nhìn thấy hầu
khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và ngắm nhìn khung cảnh trong
ánh hồng của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước mắt kia giờ đây
đã thuộc về chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh,
chạy quanh mãi, thỉnh thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn
mình trên sương ướt, chúng gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung
lên những nắm đất đen và hít hà mùi vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi
kiểm tra một vòng khắp trang trại, chúng yên lặng ngắm nhìn khu ruộng
lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá, lùm cây. Chúng ngắm nhìn như chưa từng
nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay cả lúc này chúng cũng chưa tin
rằng tất cả những thứ đó đã là của chúng.
Sau đó cả bọn lại cùng nhau quay về và yên lặng tập trung trước ngôi nhà
chính. Ngôi nhà này cũng đã thuộc về chúng, nhưng chúng còn ngại, chưa
dám vào ngay. Nhưng Tuyết Tròn và Napoleon đã mau chóng lấy lại được
bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi từng con lục tục, thận trọng bước
vào, tránh không làm xáo trộn các đồ vật bên trong. Chúng nhón gót đi từ
phòng nọ sang phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa không
thể nào tin được đang bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào
gương soi, nào ghế nệm lông ngựa, nào thảm nhung , rồi ảnh nữ hòang
Vitoria treo trên lò sưởi trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc
tam cấp thì chúng bỗng phát hiện ra là thiếu mất Mollie. Chúng quay vào
và thấy Mollie còn đứng trong căn phòng ngủ đẹp nhất nhà. Hoá ra cô nàng
đã lấy một dải ruy băng màu xanh trên bàn trang điểm của bà Jones, vắt
lên vai và đang thẫn thờ soi gương. Những con khác túm ngay lấy nó và
lôi ra khỏi nhà. Mấy cái đùi lợn muối treo trong bếp được đem đi chôn,
thùng bia trong phòng rửa bát thì bị Chiến Sĩ đá thủng, những thứ khác
hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một nghị quyết về việc giữ toà nhà chính
làm viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại chỗ. Tất cả đều đồng
ý là không con nào có quyền sống trong toà nhà này.
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết Tròn và Napoleon mời tất cả tập trung.
"Thưa các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Bây giờ là bảy giờ rưỡi, chúng ta
còn cả một ngày nữa cơ. Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ, nhưng chúng
ta còn một việc phải làm trước đã."
Thế là hai con lợn nói rằng nhờ những cuốn sách vỡ lòng của con ông
Jones, tìm được trong đống rác, mà suốt ba tháng qua chúng đã học và nay
chúng đã biết đọc, biết viết. Napoleon sai đi lấy một lọ sơn đỏ, một lọ
sơn trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết Tròn (vì nó là con viết
đẹp nhất) kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xoá chữ Điền Trang và
viết chữ Trại Súc Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở
đi đấy sẽ là tên chính thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu
nhà, Tuyết Tròn và Napoleon lại ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát
vào đầu hồi nhà kho. Chúng giải thích rằng sau một thời kì khổ công
nghiên cứu, ba tháng gần đây chúng đã đúc kết các luận điểm của Súc Sinh
Kinh thành Bảy Điều Răn. Bảy Điều Răn sẽ được kẻ lên tường và sẽ là
luật vĩnh viễn bất di bất dịch của tất cả các thành viên Trại Súc Vật.
Tuyết Tròn leo lên thang một cách khó nhọc (vì lợn khó giữ thăng bằng
khi đứng trên thang) và bắt đầu viết, trong khi Chỉ Điểm cầm hộp sơn
đứng bên dưới mấy bậc. Các điều răn được viết bằng sơn trắng trên bức
tường quét hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội dung như
sau:
BẢY ĐIỀU RĂN
1. Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù.
2. Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn.
3. Không con vật nào được mặc quần áo.
4. Không con vật nào được ngủ trên giường.
5. Không con vật nào được uống rượu.
6. Loài vật không được giết hại lẫn nhau.
7. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Các chữ đều được viết rõ ràng và cả đoạn chỉ có hai lỗi chính tả mà
thôi, đấy là chữ "giường" bị viết thành "gưìơng" và một chữ S bị viết
ngược. Tuyết Tròn đọc to lên cho tất cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu
đồng ý, những con thông minh hơn lập tức học thuộc lòng các Điều Răn.
"Bây giờ, thưa các đồng chí'' Tuyết Tròn vừa ném cái chổi sơn xuống đất
vừa gào lên, "tất cả ra đồng cắt cỏ! Chúng ta phải thu hoạch nhanh hơn
lão Jones và lũ gia nhân của hắn.''
Đúng lúc đó thì ba con bò cái vốn cảm thấy khó chịu từ trước bỗng rống
lên. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua chúng chưa được vắt sữa, vú của
chúng căng mọng như muốn nổ ra đến nơi. Sau một chút đắn đo, lũ lợn sai
mang xô tới và đã thực hiện công việc khá thành thạo, chân chúng tỏ ra
phù hợp với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt được năm xô đầy sữa
béo, một số con tò mò đến xem.
"Làm gì với số sữa này nhỉ'', có con hỏi.
"Lão Jones thỉnh thoảng có trộn sữa vào thức ăn của chúng tôi đấy'', một chị gà mái lên tiếng.
"Các đồng chí, để ý đến sữa làm gì!'', Napoleon vừa gào lên vừa bước ra
đằng trước mấy xô sữa, "Để đấy rồi tính sau. Thu hoạch quan trọng hơn.
Đồng chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu. Tôi sẽ ra sau một lúc. Các đồng chí,
tiến lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.''
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt đầu cắt cỏ, nhưng chiều về thì chúng không thấy mấy xô sữa đâu nữa.
Chương III
Phải công nhận là chúng làm việc rất chăm, không quản mệt mỏi, chỉ cốt
thu hoạch cho xong! Công khó của chúng đã được đền bù, chúng thu được
nhiều hơn dự kiến.
Đôi khi chúng cũng gặp một số khó khăn vì tất cả công cụ đều được làm để
dành cho người chứ không phải cho súc vật, mà muốn sử dụng công cụ đó
thì phải đứng được trên hai chân sau. Nhưng phải nói bọn lợn là một
giống thông minh - khó đến đâu chúng cũng có cách. Còn lũ ngựa thì hiểu
rõ từng thửa ruộng, mà cắt và vun cỏ thành đống thì chúng làm thạo hơn
ông Jones và gia nhân nhiều. Bọn lợn không làm mà chỉ hướng dẫn và kiểm
tra các con khác. Với kiến thức như thế thì việc chúng nắm vai trò lãnh
đạo là đương nhiên. Chiến Sĩ và Bà Mập tự khoác lên mình máy cắt hoặc
máy bừa cỏ (dĩ nhiên là không cần hàm thiếc, cũng chẳng cần cương) và
kiên nhẫn đi khắp cách đồng, trong khi một con lợn nào đó bước theo sau,
thỉnh thoảng lại kêu "Đi thẳng, đồng chí!" hoặc "Quay lại, đồng chí!".
Tất cả các con vật, không kể lớn nhỏ, đều tham gia cắt và xếp cỏ. Ngay
đến bọn gà vịt cũng phơi mình dưới nắng suốt ngày để tham gia vận chuyển
từng lọn cỏ nhỏ bằng mỏ. Chúng đã hoàn tất công việc một cách nhanh
chóng, phải nói là nhanh hơn người, nếu ông Jones và gia nhân làm thì
phải hai ngày nữa mới xong. Hơn nữa, đấy lại là một vụ mùa năng suất
nhất từ trước đến nay. Không có chuyện rơi vãi vì bọn gà, vịt rất tinh
mắt, chúng nhặt đến từng cọng một. Và cũng không có con nào ăn vụng, dù
chỉ một miếng ngoạm.
Công việc của trang trại diễn ra thuận lợi trong suốt mùa hè năm đó. Bọn
súc vật cảm thấy vô cùng sung sướng, chúng chưa bao giờ nghĩ rằng
chuyện đó lại có thể xảy ra. Ăn là cả một niềm vui, vì bây giờ thức ăn
là của chúng, do chúng và vì chúng chứ không phải là thứ do một ông chủ
keo bẩn bố thí cho nữa. Sau khi chúng đã tống khứ được lũ người ăn bám
vô tích sự đi rồi thì khẩu phần mỗi con dĩ nhiên là nhiều hơn. Và mặc dù
chưa có kinh nghiệm, chúng vẫn có nhiều thời gian thư giãn hơn. Chúng
có gặp một số khó khăn, ví dụ khi thu hoạch ngũ cốc thì phải dùng sức để
thổi trấu đi vì trang trại không có máy đập, nhưng với trí thông minh
của lũ lợn và sức khoẻ của Chiến Sĩ thì việc gì mà chúng chẳng làm được.
Chiến Sĩ rất được kính trọng. Ngay khi còn ông Jones nó đã chăm chỉ
rồi, nhưng bây giờ nó làm việc bằng ba, có ngày tưởng chừng như toàn bộ
công việc của trại đều đổ dồn lên vai nó. Nó kéo rồi đẩy từ sáng đến tối
và bao giờ cũng có mặt ở những chỗ khó khăn nhất. Nó nhờ một con gà
trống đánh thức trước nửa tiếng và tự nguyện làm một số việc cần kíp
nhất trước khi ngày làm việc chính thức bắt đầu. Trước bất cứ khó khăn,
trở ngại nào nó đều nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa!", câu ấy đã trở thành
phương châm hành động của chính nó.
Những con khác cũng làm việc hết mình. Thí dụ lũ gà và vịt đã mót được
đến hai tạ ngũ cốc. Thói ăn cắp vặt; những tiếng ỉ eo về miếng ăn, miếng
uống; chuyện cãi vã, cắn xé; thói ghen tị - những thói xấu đó của quá
khứ đã biến mất hẳn. Không con nào trốn việc - đúng ra là gần như không
con nào. Mollie không thích dậy sớm và tìm cách chuồn trước, nại rằng có
hòn đá nhỏ dắt vào móng. Thái độ của con mèo cũng đáng ngờ. Cứ khi nào
cần là y như rằng nó đã bỏ đi đâu mất từ trước rồi. Chị chàng thường bỏ
đi đâu đó rất lâu và chỉ xuất hiện, như chưa có chuyện gì xảy ra, ngay
trước bữa ăn hay vào buổi chiều, khi công việc đã hoàn tất. Nhưng nó
luôn luôn tìm được cách giải thích và kêu gừ gừ một cách đáng yêu, thành
ra khó mà nghi ngờ được thiện chí của nó. Chỉ có con lừa già Benjamin
là vẫn như cũ. Nó vẫn làm công việc một cách chậm chạm cố hữu như thời
còn ông Jones, không bao giờ trốn việc, cũng chẳng bao giờ làm hơn. Nó
không nói gì về cuộc Khởi Nghĩa cũng như những đổi thay sau đó. Nếu được
hỏi có cảm thấy vui hơn thời còn ông Jones không, thì nó bảo: "Đời lừa
dài lắm. Các vị chưa thấy lừa chết bao giờ cơ mà" - bao giờ nó cũng nói
một câu bí hiểm như vậy.
Ngày chủ nhật nghỉ. Bữa sáng ăn muộn hơn một tiếng và sau đó bao giờ
cũng có một cuộc họp mặt long trọng. Trước hết là lễ kéo cờ. Tuyết Tròn
tìm được trong kho dụng cụ một tấm khăn trải bàn cũ màu xanh của bà
Jones rồi vẽ một cái móng và một cái sừng màu trắng lên trên. Và thế là
buổi sáng chủ nhật nào chiếc khăn trải bàn cũng tung bay trên cột cờ
trong vườn hoa. Tuyết Tròn giải thích rằng màu xanh tượng trưng cho đồng
ruộng Anh quốc, còn sừng và móng là biểu tượng của nước Cộng Hòa Súc
Vật tương lai, khi đã lật đổ được toàn bộ giống người rồi. Sau khi kéo
cờ, tất cả các con vật cùng đến tập trung trong nhà kho lớn, chúng gọi
đấy là Họp. Chúng lập kế họach cho tuần sau cũng như thảo luận và ra
nghị quyết về các kiến nghị khác nhau tại đây. Chỉ có bọn lợn đưa ra
kiến nghị mà thôi. Những con khác chỉ biết biểu quyết chứ không kiến
nghị gì bao giờ. Tuyết Tròn và Napoleon thảo luận hăng nhất. Nhưng hai
con này luôn luôn chống đối nhau: hễ con này đưa ra ý kiến gì là con kia
lập tức phản đối. Ngay cả khi vấn đề đã được quyết định rồi, như việc
dành một miếng đất nhỏ phía sau khu vườn làm chỗ dưỡng già, không ai có
thể phản đối chuyện đó, thì hai con này lại tranh luận gay gắt về việc
loài nào, đến bao nhiêu tuổi thì được nghỉ hưu. Các buổi Họp bao giờ
cũng kết thúc bằng bài đồng ca " Súc Sinh Anh quốc", còn buổi chiều thì
chúng được nghỉ tự do.
Bọn lợn dành cái kho dụng cũ làm tổng hành dinh. Buổi tối chúng học nghề
mộc, nghề rèn và những nghề khác, qua những cuốn sách nhặt được trong
toà nhà chính. Tuyết Tròn còn đưa những con khác vào các tổ chức mà nó
gọi là Ủy Hội Súc Sinh. Nó làm việc này một cách say sưa, không biết mệt
là gì. Nó đã thiết lập được Ủy Ban Trứng cho lũ gà mái, Ủy Ban Chăm Sóc
Đuôi cho lũ bò, Hiệp Hội cải huấn các đồng chí thú hoang (mục đích là
cải tạo bọn chuột và thỏ rừng); Phong Trào giữ lông thật trắng cho bọn
cừu, vân vân và vân vân, đấy là chưa kể các tổ xoá nạn mù chữ nữa. Nói
chung, các dự án của Tuyết Tròn đều không có kết quả. Việc cải tạo lũ
thú hoang thất bại gần như ngay từ đầu. Thái độ của chúng chẳng thay đổi
tí nào, mà cư xử tốt thì chúng lại càng láo thêm. Con mèo cũng có chân
trong Hiệp Hội cải huấn và đã họat động rất tích cực trong mấy ngày đầu.
Có lần, nó còn lên tận mái nhà nói chuyện với mấy con chim sẻ đậu ngoài
tầm với của nó. Nó bảo rằng bây giờ mọi loài đều là đồng chí và nếu con
sẻ nào muốn thì có thể đậu ngay lên chân trước nó, nhưng bọn sẻ không
dám lại gần.
Các lớp học đọc, học viết thu được kết quả khả quan. Trước khi mùa thu,
về đa số các con vật trong trại đều đã thoát nạn mù chữ ở những mức độ
nhất định.
Bọn lợn đọc thông viết thạo. Lũ chó cũng biết đọc, nhưng chúng chỉ đọc
mỗi Bảy Điều Răn mà thôi. Con dê tên là Muriel đọc thông hơn lũ chó nên
buổi tối nó thường đọc cho những con khác nghe các mẩu báo nhặt được
trên đống rác. Lừa Benjamin đọc nhanh không kém gì lũ lợn, nhưng nó
chẳng đọc cái gì bao giờ. Nó bảo chẳng thấy có gì đáng đọc. Bà Mập học
thuộc cả bảng chữ cái nhưng không biết ghép vần. Chiến Sĩ không vượt qua
được chữ D. Nó thường lấy những cái móng to kềnh của mình để viết lên
cát những chữ cái A, B, C, D rồi đứng ngắm, tai cụp lại phía sau, thỉnh
thoảng lại vẫy vẫy bờm, cố gắng nhớ xem sau đó là chữ gì, nhưng chẳng
bao giờ nhớ ra. Đôi khi nó cũng thuộc được các chữ cái E, F, G, H, nhưng
bao giờ cũng vậy, hễ thuộc mấy chữ đó thì lại quên các chữ A, B, C, D.
Cuối cùng nó đành thoả mãn với bốn chữ cái đó và ngày nào cũng viết một
hai lần để rèn trí nhớ. Mollie chỉ học năm chữ cái ghi đủ tên nó mà
thôi. Nó thường lấy cành cây nhỏ để xếp các chữ đó rồi trang trí thêm
bằng một vài bông hoa, sau đó đi vòng quanh để ngắm.
Những con khác không vượt qua chữ A. Những loài ngu hơn như cừu, gà và
vịt không thể thuộc được Bảy Điều Răn. Sau khi suy nghĩ, Tuyết Tròn
tuyên bố rằng có thể rút Bảy Điều Răn thành một cách ngôn như sau: "Bốn
chân tốt, hai chân xấu". Nó bảo đấy chính là nguyên lí cơ bản của Súc
Sinh Kinh. Chỉ cần nắm vững cách ngôn này thì không còn sợ gì ảnh hưởng
của con người nữa. Bọn gà vịt phản đối vì cho rằng chúng chỉ có hai
chân, nhưng Tuyết Tròn đã chứng minh không phải như vậy.
"Cánh chim, thưa các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "là cơ quan để vận động
chứ không phải để cầm nắm. Cánh cũng là chân thôi. Đặc trưng để phân
biệt với Giống Người là bàn tay, mọi việc xấu xa đều do đôi bàn tay của
chúng làm hết."
Bọn gà vịt không hiểu hết bài thuyết pháp tràng giang đại hải đó, nhưng
chúng đồng ý với cách giải thích của Tuyết Tròn và tất cả những con vật
ngu si hơn lại phải học thuộc lòng cách ngôn mới. BỐN CHÂN TỐT, HAI CHÂN
XẤU được viết to hơn, bên trên Bảy Điều Răn. Khi đã thuộc lòng rồi thì
lũ cừu tỏ ra rất khoái cách ngôn này, mỗi khi nằm nghỉ là chúng lại đồng
thanh tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu! Bốn chân tốt, hai chân xấu!" và
cứ thế hàng giờ liền không biết mệt.
Napoleon không quan tâm đến các ủy hội của Tuyết Tròn. Nó bảo rằng giáo
dục thế hệ trẻ quan trọng hơn công tác vận động những con đã trưởng
thành. Hai con chó cái Jessie và Bluebell đẻ được chín con chó con khoẻ
mạnh ngay sau vụ thu hoạch. Napoleon bắt lũ chó con ngay khi chúng vừa
cai sữa, nó bảo sẽ chịu trách nhiệm giáo dục bọn trẻ. Nó đem lũ chó con
giấu trên gác xép, bên trên kho dụng cụ, phải có thang mới trèo lên
được, và giữ chúng ở đó kín đến nỗi dần dần không con nào còn nhớ đến lũ
chó con ấy nữa.
Chuyện mất sữa không còn là bí mật. Bọn lợn đem trộn vào cám ăn hàng
ngày. Những quả táo đầu mùa đã chín, ngày nào cũng có quả rụng trên đám
cỏ trong vườn. Mọi con vật đều nghĩ là sẽ đem chia đều, nhưng một hôm có
lệnh nhặt táo rụng rồi đem vào nhà kho dụng cụ để dành riêng cho lũ
lợn. Có mấy con phàn nàn về chuyện này, nhưng không đi đến đâu. Về vấn
đề này thì lũ lợn, kể cả Tuyết Tròn và Napoleon, đều thống nhất quan
điểm. Chỉ Điểm được cử đi làm công tác tư tưởng.
"Thưa các đồng chí", Nó nói, "Tôi hy vọng là các đồng chí không nghĩ
rằng loài lợn chúng tôi làm như thế là do ích kỉ và đặc quyền đặc lợi
chứ? Nhiều đồng chí lợn cũng ngán sữa và táo lắm. Tôi cũng chẳng thích
gì hai thứ đó. Mục đích của chúng tôi khi ăn những thứ đó chỉ là nhằm
bảo vệ sức khoẻ mà thôi. Sữa và táo (Thưa các đồng chí, khoa học đã
chứng minh) có chứa nhiều chất cực kì cần thiết cho sức khoẻ loài lợn.
Loài lợn chúng tôi làm công việc trí óc. Chúng tôi nắm toàn bộ công tác
tổ chức và quản lí trang trại này. Vì sự phồn vinh của các đồng chí mà
chúng tôi phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi uống sữa và ăn táo vì
lợi ích của chính các đồng chí đấy. Các đồng chí có tưởng tượng được
chuyện gì sẽ xảy ra nếu loài lợn chúng tôi không cáng đáng nổi nhiệm vụ
không? Lão Jones sẽ quay về! Vâng, lão Jones sẽ quay về! Chắc chắn là
như thế, thưa các đồng chí", Nó van vỉ gào to, vừa gào vừa nhảy từ phải
sang trái, đuôi vẫy nhặng lên, "Chắc chắn là không ai trong chúng ta
muốn lão Jones quay về rồi, có phải thế không ạ?"
Chắc chắn là không một con vật nào muốn lão Jones quay về rồi. Đặt vấn
đề theo cách đó thì không con nào dám mở miệng ra nữa. Sức khoẻ loài lợn
là việc hệ trọng, chuyện đó không cần phải bàn. Thế là chúng đi đến
thống nhất mà không bàn cãi thêm là sữa và táo rụng (khi vào mùa thì
toàn bộ) chỉ để dành cho riêng loài lợn dùng mà thôi.
Chương IV
Đến cuối mùa hè thì tin tức về Trại Súc Vật đã bay ra khắp nửa nước.
Ngày nào Tuyết Tròn và Napoleon cũng cử từng đàn bồ câu thâm nhập vào
các trang trại khác để tuyên truyền về cuộc Khởi Nghĩa và dạy hát bài
"Súc Sinh Anh quốc".
Trong khi đó ông Jones hầu như ngày nào cũng ngồi trong nhà hàng Sư tử
Đỏ ở Willingdon để than van với bất cứ người chịu chuyện nào về việc bị
lũ súc vật vô tích sự cướp đoạt mất tài sản. Các chủ trại khác tỏ ra
thông cảm, nhưng chẳng chịu giúp đỡ gì cả. Không những thế, trong thâm
tâm bọn đó lại còn tìm cách lợi dụng tai hoạ của lão nữa. May là chủ hai
điền trang tiếp giáp với Trại Súc Vật luôn luôn bất hoà với nhau. Một
trại có tên là Trại Cáo, một trại lớn nhưng bị bỏ bê, canh tác theo lối
cũ, nhiều chỗ cây mọc um tùm, các bãi chăn thả bị dẫm nát, hàng rào thì
xiêu vẹo. Chủ trang trại này, ông Pilkington là một người vô lo, dùng
phần lớn thì giờ vào việc săn bắn và câu cá. Trang trại thứ hai tên là
Trại Keo, nhỏ hơn, nhưng được chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Chủ trang trại này
là ông Frederick, một người thô bạo, sắc sảo, thường xuyên dính líu vào
các vụ kiện cáo và nổi tiếng là một tay lừa gạt có hạng. Hai vị này ghét
nhau đến nỗi không thể tìm được tiếng nói chung, ngay cả trong việc bảo
vệ quyền lợi của chính mình.
Nhưng cuộc Khởi Nghĩa ở Trại Súc Vật đã làm cả hai hoảng sợ và họ tìm
mọi cách ngă, cản, không cho tin tức ở đó lọt vào trang trại của mình.
Đầu tiên họ giả vờ chế giễu chuyện bọn súc vật tự điều hành trang trại.
"Chỉ ba bảy hai mốt ngày, là toi", họ bảo. Họ tung tin là lũ súc vật
trong Điền Trang (họ khăng khăng gọi là Điền Trang chứ không chịu chấp
nhận tên Trại Súc Vật) suốt ngày tranh giành nhau và chẳng mấy nữa rồi
sẽ chết đói thôi. Một thời gian sau, thấy lũ súc vật không chết đói,
Frederick và Pilkington liền đổi giọng và bắt đầu nói về những cảnh
tượng vô luân không thể tưởng tượng được đang diễn ra trong Trại Súc
Vật. Họ bảo rằng lũ súc vật ăn thịt lẫn nhau, chúng tra tấn nhau bằng
móng sắt nung đỏ, còn những con cái thì thành vợ chung. "Chống lại qui
luật của Tự Nhiên thì kết quả như vậy đấy", Frederick và Pilkington
nói.
Nhưng chuyện đó cũng chẳng có mấy người tin. Lời đồn về một trang trại
kì lạ, nơi con người bị đuổi đi và các con vật tự điều hành lấy công
việc tiếp tục được truyền tụng một cách tù mù và xuyên tạc, suốt năm đó
làn sóng bạo động lan tràn khắp cả vùng nông thôn. Những con bò đực vốn
dễ bảo bỗng trở nên hung dữ, cừu thì phá đổ hàng rào và dẫm nát đồng cỏ,
bò cái hất đổ xô sữa, ngựa đua thì không chịu nhảy qua hàng rào mà hất
tung kị sĩ lên cao. Nhạc điệu và lời của bài "Súc Sinh Anh quốc" phổ
biến đến tận hang cùng ngõ hẻm. Nó được truyền bá với một tốc độ nhanh
chưa từng thấy. Bài hát làm cho con người phát điên lên được, nhưng họ
lại giả đò như đấy chỉ là một trò lố bịch. Ngay cả súc vật cũng không
thể nào lại hát một thứ rác rưởi đê tiện như thế được, họ bảo. Con vật
nào bị bắt quả tang đang hát bài đó lập tức bị đánh đòn tại trận. Thế mà
vẫn không cấm tuyệt được. Sáo hót bài đó trên hàng rào, bồ câu gù trên
cây, bài hát đi vào tiếng dế nỉ non, vào cả tiếng chuông nhà thờ nữa.
Con người run lên mỗi lần nghe thấy nó, họ như nghe thấy điềm báo trước
tai họa của chính mình.
Đầu tháng mười, khi đã thu hoạch và đưa hết ngũ cốc vào kho, một số đã
được đập thì có một đàn bồ câu bất ngờ xé không khí lao tới đậu xuống
sân trang trại, dáng vẻ vô cùng xúc động. Ông Jones cùng với gia nhân và
khoảng nửa tá thanh niên của Trại Cáo và Trại Keo đã vượt qua cổng lớn
và đang tiến vào trang trại này. Ông Jones lăm lăm khẩu súng đã lên đạn,
còn những người khác đều được trang bị bằng gậy gộc. Không còn nghi ngờ
gì nữa, họ muốn tái chiếm trang trại.
Nhưng lũ súc vật không bị bất ngờ, ngược lại, chúng đã chuẩn bị cho sự
kiện này từ lâu. Tuyết Tròn, trước đây đã từng nghiên cứu kĩ lưỡng cuốn
sách viết về các chiến dịch của Julius Ceasar , mà nó tìm thấy trong
ngôi nhà chính, được phân công tổ chức phòng vệ. Nó lập tức đưa ra các
mệnh lệnh và lũ súc vật mau chóng chiếm lĩnh các vị trí được phân công.
Tuyết Tròn ra lệnh tấn công ngay khi nhóm người kia vừa tiến gần đến dãy
nhà trong trang trại. Ba mươi lăm con bồ câu xuất kích, chúng bay qua
bay lại và ỉa vào đầu đám người phía dưới, trong khi họ mải tránh và
phủi thì lũ ngỗng, phục kích sẵn sau hàng rào xông ra và cắn vào chân.
Nhưng đấy mới chỉ là đòn chiến thuật, có tác dụng làm rối loạn hàng ngũ
đối phương, bởi vì người ta dễ dàng dùng gậy để xua lũ ngỗng đi. Mũi tấn
công thứ hai được đưa ra mặt trận. Muriel, Benjamin và toàn thể bầy cừu
do chính Tuyết Tròn dẫn đầu xông lên vây chặt đám người, rồi lao vào
húc lấy húc để trong khi Benjamin quay lưng về phía họ và đá vung vít.
Nhưng lần này lũ súc vật cũng không thắng, gậy và giày đinh mà con người
sử dụng là những vũ khí quá mạnh đối với chúng. Thấy tình thế bất lợi,
Tuyết Tròn hí lên một tiếng và đấy chính là tín hiệu tạm lui binh, lũ
súc vật vội tháo chạy vào trong sân.
Tiếng hò reo chiến thắng vang lên. Những người tấn công thấy quân thù đã
bỏ chạy như dự kiến nên chẳng cần chỉnh đốn hàng ngũ, vội vàng xông lên
truy kích. Đúng như Tuyết Tròn đã dự liệu. Khi người đã vào hết trong
sân thì ba con ngựa, ba con bò và tất cả lũ lợn còn lại trước đó đã nằm
mai phục sẵn trong chuồng bò liền lao ra cắt đứt đường rút lui. Tuyết
Tròn hạ lệnh tổng công kích. Chính nó lao thẳng vào ông Jones. Ông Jones
trông thấy nó lao tới liền bóp cò. Phát đạn ghém đã làm Tuyết Tròn bị
thương dọc sống lưng, máu chảy lênh láng và làm chết một con cừu. Không
lưỡng lự một giây, Tuyết Tròn cứ thế đâm thẳng tấm thân tạ rưỡi của nó
vào chân ông Jones. Ông ngã sóng soài lên đống phân, súng văng ra xa.
Nhưng khủng khiếp nhất là Chiến Sĩ, nó đứng trên hai chân sau và giáng
xuống đầu người bằng những chiếc móng sắt. Cú nện đầu tiên của nó khiến
anh chàng dọn chuồng ngựa của Trại Cáo ngã vật ra đất, bất tỉnh nhân sự.
Có mấy người vứt gậy và bỏ chạy. Không bỏ lỡ thời cơ, lũ súc vật liền
đuổi theo vòng quanh sân. Chúng húc bổng họ lên, rồi cắn, đá, đạp. Không
có con nào trong trại là không tham gia báo thù theo cách của mình.
Ngay con mèo cũng nhảy từ mái chuồng bò xuống vai anh chăn bò rồi vừa
cắn vào cổ vừa gào như lên cơn động cỡn. Vừa thấy có thể rút lui được là
mọi người vội chạy khỏi sân để ra đường lớn. Thế là thâm nhập chưa được
năm phút, họ đã phải tháo chạy, phía sau là lũ ngỗng vừa cắn vào đùi
vừa rú rít đuổi theo.
Có một người không chạy thoát. Trong sân, Chiến Sĩ đang cố lật anh dọn
chuồng ngựa vẫn nằm úp mặt xuống bùn lên. Anh chàng không hề động đậy.
"Hắn chết rồi!", Chiến Sĩ buồn bã thốt lên, "Tôi đâu có định làm như
vậy. Tôi quên mất là mình đeo móng sắt. Bây giờ ai mà tin là tôi không
chủ ý chứ?"
"Thôi đừng có ủy mị, đồng chí!", Tuyết Tròn nói, máu trên lưng nó vẫn rỉ
ra từng lúc, "Chiến tranh là chiến tranh. Người tốt là người đã chết."
"Tôi không có ý giết, ngay cả giết người", Chiến Sĩ cứ nhắc đi nhắc lại như thế, mắt đẫm lệ.
"Thế Mollie đâu nhỉ?", Có con nào đó hỏi.
Đúng là không thấy Mollie đâu. Ban đầu chúng rất lo, chúng sợ rằng
Mollie có thể đã bị thương hoặc bị bọn người kia bắt theo cũng nên. Cuối
cùng chúng cũng tìm được cô nàng, hóa ra là nó trốn trong chuồng ngựa,
đầu rúc trong đống rơm. Nó đã bỏ trốn ngay khi vừa nghe thấy tiếng súng
nổ. Trong khi các con vật đi tìm Mollie thì anh chàng dọn chuồng ngựa
hồi tỉnh và trốn mất.
Lũ súc vật đã tụ tập lại đầy đủ, chúng vô cùng phấn khích, tranh nhau
nói. Lễ mừng chiến thắng được tổ chức ngay lập tức. Cờ được kéo lên và
chúng hát bài "Súc Sinh Anh quốc" mấy lần liền, sau đó chúng làm lễ mai
táng con cừu tử trận và trồng trên mộ của nó một bụi táo gai. Tuyết Tròn
đọc một bài diễn văn ngay bên cạnh mộ chiến sĩ trận vong, nhấn mạnh
rằng mọi con vật đều phải sẵn sàng hi sinh cho Trại Súc Vật, khi cần.
Lũ súc vật nhất trí lập ra phần thưởng cho những chiến công vừa qua, đấy
là danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng nhất, danh hiệu này được trao ngay
cho Tuyết Tròn và Chiến Sĩ. Phần thưởng là một chiếc huy chương đồng
(chính là tấm đồng trang trí yên ngựa tìm được trong kho dụng cụ) được
đeo vào ngày lễ và chủ nhật. Danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng hai được
trao cho con cừu đã hy sinh.
Chúng tranh cãi rất lâu về chuyện đặt tên cho chiến thắng. Cuối cùng
chúng quyết định gọi là Chiến dịch Chuồng bò vì cuộc phục kích diễn ra
trong chuồng bò. Chúng tìm được khẩu súng của ông Jones trong đám bùn,
đạn thì trong trại vẫn có sẵn. Khẩu súng được mang ra đặt dưới chân cột
cờ, giả như súng đại bác ở các nơi khác, chúng sẽ bắn súng mừng hai lần
trong một năm, một lần vào dịp hạ chí để mừng ngày Khởi Nghĩa, lần khác
vào ngày hai mươi tháng mười để mừng Chiến Thắng.
Chương V
Càng đến gần mùa đông thì Mollie càng trở nên khó chịu. Sáng nào cô nàng
cũng đi làm muộn, viện cớ là ngủ quên; ngoài ra, nó còn phàn nàn là bị
những căn bệnh lạ, mặc dù vẫn ăn như thuồng luồng vậy. Nó thường tìm mọi
cách để trốn việc và chạy ra hồ nước, thẫn thờ đứng ngắm bóng mình.
Nhưng cứ như tin đồn thì nó còn mắc những khuyết điểm nghiêm trọng hơn
nhiều. Một hôm, nó đang đi dạo trong sân, vô tư vẫy cái đuôi dài, miệng
nhai một nắm cỏ thì Bà Mập kéo sang một bên và bảo:
"Mollie, chị có vài điều cần nói với em. Sáng nay chị trông thấy em đứng
bên hàng rào giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo. Bên kia hàng rào là người
của nhà Pilkington. Dù đứng rất xa nhưng chị chắc chắn là lúc đó hắn ta
đang nói chuyện với em, chị nhìn thấy rõ như thế, còn em thì đã cho nó
vỗ vỗ vào hai bên má. Mollie, chuyện đó là thế nào?"
"Anh ta không vỗ! Em không đứng ở đó! Làm gì có chuyện đó!" - Mollie gào lên , hai chân nhảy dựng và nện ầm ầm xuống mặt đất.
"Mollie, hãy nhìn thẳng vào mắt chị đây! Em có dám thề với chị là gã đó chưa từng vỗ vào má em không?"
"Không có chuyện đó!", Mollie nhắc lại, nhưng nó không dám nhìn Bà Mập và lập tức phóng ra đồng.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Bà Mập. Không nói cho con nào biết, nó
từ từ tiến lại phía chuồng của Mollie và lấy móng lật đống rơm trong
chuồng lên. Bên dưới đống rơm có một cục đường và mấy sợi ruy băng đủ
màu sắc.
Ba ngày sau Mollie biến mất. Sau mấy tuần vẫn chưa có tin tức gì, nhưng
rồi lũ bồ câu báo cáo lại là đã nhìn thấy Mollie ở bên ngòai Willingdon.
Nó kéo một cái xe nhỏ, sơn hai màu đen-đỏ lộng lẫy, đứng nghỉ gần một
quán bia. Một gã đàn ông béo tốt, mặt đỏ gay, mặc quần ca rô, ống chẽn,
đi ghệt; có vẻ như là chủ quán; đang vừa vỗ về vừa đút cho nó miếng
đường. Bờm nó mới được cắt chải cẩn thận, đám bờm trên trán có thắt một
dải ruy băng màu đỏ tươi. Theo những con bồ câu nói lại thì trông nó có
vẻ thoả mãn. Từ đó không con nào nhắc đến nó nữa.
Bước sang tháng giêng, thời tiết trở nên vô cùng khắc nghiệt. Đất rắn
như đá, không thể làm được việc gì nữa. Các cuộc Họp được chuyển vào nhà
kho lớn, lũ lợn chuyên tâm vào việc lập kế hoạch cho vụ tới. Chúng nhất
trí rằng vì lũ lợn thông minh nhất nên sẽ chịu trách nhiệm về đường lối
chung của trại, nhưng quyết định của chúng phải được thông qua với đa
số tuyệt đối. Mọi việc sẽ vô cùng hoàn hảo nếu như Tuyết Tròn và
Napoleon không thường xuyên chống đối nhau. Hai con này bất đồng nhau về
mọi vấn đề, mỗi khi có dịp. Nếu con này bảo phải gieo nhiều lúa mạch
hơn thì con kia nhất định sẽ nói phải gieo nhiều yến mạch hơn; nếu một
con nói cánh đồng nào đó hợp với bắp cải thì con kia nhất định sẽ bảo
vùng đó chỉ có thể trồng củ cải. Con nào cũng có một số ủng hộ viên cho
nên các cuộc tranh luận thường diễn ra rất quyết liệt. Do biết ăn nói
nên Tuyết Tròn thường giành được đa số trong các cuộc Họp, còn ở bên
ngoài thì đa số lại ủng hộ Napoleon. Trung thành nhất với Napoleon là
bầy cừu. Thời gian gần đây lũ cừu thường tụng "Bốn chân tốt, hai chân
xấu" khi có lí do cũng như chẳng cần lí do gì và các cuộc Họp cũng
thường bị gián đoạn là vì thế. Đặc biệt là cứ đến những đoạn quan trọng
nhất trong các bài phát biểu của Tuyết Tròn là y như rằng lũ cừu lại gào
lên "Bốn chân tốt, hai chân xấu". Tuyết Tròn đã nghiên cứu kĩ tạp chí
"Trồng trọt và chăn nuôi" tìm được trong ngôi nhà chính, trong đầu nó có
cả một mớ kế hoạch cải cách và hiện đại hóa công tác sản xuất. Nó kể về
hệ thống thoát nước cho đồng ruộng, lò ủ chua, phân phốt phát, cho cả
trại nghe, nó còn soạn ra một sơ đồ đi vệ sinh, sao cho từng con "đi"
mỗi lần ở một nơi khác nhau cho đỡ tốn công vận chuyển sau này. Napoleon
thì ngược lại, không soạn gì cả, nhưng lại rỉ tai những con khác rằng
Tuyết Tròn chỉ nói nhảm và có vẻ như đang đợi thời cơ để ra tay. Nhưng
cuộc tranh chấp dữ dội nhất giữa hai con là về việc xây dựng cối xay
gió.
Trên cánh đồng cỏ, không xa những dãy nhà của trại là mấy, có một cái gò
nhỏ, cũng là chỗ cao nhất trong trại. Sau khi đã khảo sát, Tuyết Tròn
tuyên bố rằng đây là khu vực tốt nhất để xây dựng một chiếc cối xay gió,
chúng sẽ lắp lên đó một máy phát điện để cung cấp điện cho toàn trại.
Các chuồng rồi sẽ có đèn điện, mùa đông thì sẽ có lò sưởi, chưa nói đến
việc sẽ dùng điện để chạy máy cưa, máy thái cỏ, máy thái củ cải đỏ, máy
vắt sữa nữa. Lũ súc vật chưa từng được nghe chuyện như thế bao giờ (trại
này vốn thuộc loại lạc hậu, chỉ có các máy móc đơn giản nhất), chúng vô
cùng kinh ngạc lắng nghe Tuyết Tròn thao thao bất tuyệt về những chiếc
máy kì diệu sẽ thay chúng làm việc trong khi chúng có thể ung dung gặm
cỏ ngoài đồng hoặc ngồi đọc sách và tranh luận để nâng cao dần trí óc.
Chỉ vài tuần sau, Tuyết Tròn đã hoàn tất các tài liệu kĩ thuật về dự án
cối xay gió. Các bản vẽ chi tiết phần cơ khí được soạn thảo dựa trên ba
cuốn sách của ông Jones: "Một ngàn đồ vật hữu dụng trong gia đình", "Tự
làm thợ xây" và "Người bắt đầu làm thợ điện cần biết". Tuyết Tròn dùng
cái nhà kho, trước đây vốn là khu ấp trứng, làm văn phòng vì ở đó có một
cái nền phẳng bằng gỗ rất thích hợp cho việc vẽ kĩ thuật. Tuyết Tròn
ngồi trong đó hàng giờ liền. Nó lấy một hòn đá đè lên trang sách cần
thiết, một chân kẹp viên phấn; nó nhảy qua nhảy lại, vừa nhảy vừa vẽ,
đôi khi khoái quá lại rít lên khe khẽ. Dần dần, các bản vẽ bao gồm rất
nhiều trục và bánh răng xoắn xuýt lấy nhau xếp kín gần nửa gian nhà kho,
các con khác tuy chẳng hiểu gì nhưng vô cùng thán phục. Ngày nào lũ súc
vật cũng đến xem các bản vẽ của Tuyết Tròn ít nhất một lần. Ngay cả lũ
gà, vịt cũng tới, nhưng đứng xa xa dòm vào để không đạp phải các hình vẽ
bằng phấn. Chỉ có Napoleon là không hề bận tâm. Nó phản đối ngay từ
đầu. Mặc dù vậy, một hôm nó đã đến kiểm tra dự án mà không báo cho con
nào biết trước. Nó đi xung quanh khu kho, rồi vào xem xét kĩ lưỡng các
bản vẽ, hít chỗ này chỗ kia, rồi nhấc chân lên tè vào đấy một bãi, sau
đó nó bình thản đi ra mà không thèm nói một lời nào.
Vì việc xây dựng cối xay gió mà trại chia làm hai phái đối địch nhau.
Tuyết Tròn không giấu giếm rằng việc xây cối xay gió sẽ đòi hỏi một sự
hy sinh to lớn. Phải khai thác, vận chuyển đá đến công trường, rồi xây,
sau đó mới lắp cánh quạt, động cơ và dây điện (làm sao kiếm được những
thứ đó thì Tuyết Tròn không nói). Nhưng nó vẫn khẳng định rằng có thể
hoàn tất công trình trong vòng một năm. Còn sau đó, nó tuyên bố, công
việc sẽ bớt đi rất nhiều và chúng sẽ chỉ phải làm ba buổi một tuần mà
thôi. Ngược lại, Napoleon cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là
sản xuất lương thực, nếu chúng phí thì giờ vào việc xây dựng cối xay gió
thì chúng sẽ bị chết đói. Lũ súc vật chia thành hai phe; một phe đưa ra
khẩu hiệu: "Ủng hộ Tuyết Tròn và ba ngày làm việc một tuần"; phe kia
đưa ra khẩu hiệu: "Ủng hộ Napoleon và no bụng". Chỉ có Benjamin là không
tham gia phe phái nào. Nó không tin là rồi đây thức ăn sẽ dư thừa, cũng
chẳng tin là cối xay gió sẽ giúp giảm công việc chân tay. Có cối xay
hay không cối xay thì cũng thế thôi, chúng đã sống thế nào thì rồi cũng
sẽ sống như vậy, nghĩa là còn khổ.
Ngoài cối xay gió thì chúng còn tranh cãi về việc phòng vệ nữa. Tất cả
đều hiểu rằng tuy con người bị thua trong Chiến dịch Chuồng bò nhưng
nhất định họ sẽ đánh một trận nữa, trận này sẽ dữ dội hơn, để giành lại
trang trại cho ông Jones. Người ta nhất định sẽ làm như thế vì tin đồn
về trận đại bại của con người đã lan khắp vùng thôn quê và lũ súc vật
trong các trang trại khác đã trở nên ra bướng bỉnh hơn bao giờ hết. Cũng
như mọi khi, Tuyết Tròn và Napoleon không tìm được tiếng nói chung.
Theo Napoleon thì việc cần làm trước hết là tìm mua và tập sử dụng vũ
khí nóng. Theo Tuyết Tròn thì việc cấp bách hiện nay là cử những đàn bồ
câu đến các trang trại khác để kêu gọi khởi nghĩa ở đó. Một con cho rằng
nếu chúng không tự phòng vệ được thì chúng nhất định sẽ bị người ta
chinh phục, con kia thì nói rằng nếu khởi nghĩa nổ ra khắp nơi thì không
cần phòng vệ nữa. Lũ súc vật nghe Napoleon rồi nghe Tuyết Tròn, nhưng
không quyết định được là con nào đúng, thực ra cứ con nào đang nói là
con ấy đúng, chúng chẳng có chính kiến gì hết.
Cuối cùng Tuyết Tròn đã hoàn tất toàn bộ bản vẽ đồ án của mình. Trong
cuộc Họp vào hôm chủ nhật, vấn đề xây dựng cối xay gió được đưa ra biểu
quyết. Tất cả lũ súc vật tập hợp đầy đủ trong nhà kho lớn, Tuyết Tròn
phát biểu trước và mặc dù thỉnh thoảng lại bị bầy cừu chẹn họng, nó đã
trình bày một cách đầy thuyết phục những lợi ích của cối xay gió. Sau đó
đến lượt Napoleon. Nó tuyên bố một cách nhẹ nhàng rằng cối xay gió là
chuyện nhảm nhí và khuyên mọi con chớ có ủng hộ dự án này; nó chỉ nói
chừng ba mươi giây rồi bình thản ngồi xuống, có vẻ như nó cũng chẳng
thèm quan tâm đến hiệu quả vừa tạo ra nơi thính giả. Tuyết Tròn đứng lên
trên hai chân sau và lập tức ứng khẩu một bài diễn văn hùng hồn nhằm
thuyết phục những con khác biểu quyết xây dựng cối xay gió, nó nói to
đến nỗi át được cả bầy cừu. Trước đó trang trại vốn chia làm hai phe đều
nhau, nhưng lần này Tuyết Tròn đã thuyết phục được đa số ủng hộ. Nó nói
về tương lai của Trại Súc Vật, một tương lai vô cùng tươi sáng, khi lao
động chân tay không còn đè nặng lên lưng chúng nữa. Trí tưởng tượng của
nó còn đi xa hơn những máy thái rơm, máy thái củ cải. Điện, nó nói, có
thể chạy máy gặt đập, máy cày, máy bừa, máy cán; ngoài ra còn cung cấp
điện chiếu sáng, nước nóng, nước lạnh và lò sưởi cho tất cả các chuồng
nữa. Có thể thấy kết quả biểu quyết ngay trước khi Tuyết Tròn kết thúc
bài diễn văn. Nhưng đúng lúc đó thì Napoleon đứng lên, nó liếc xéo về
phía Tuyết Tròn rồi rít lên lanh lảnh như tiếng còi, chưa con nào nghe
thấy tiếng rít như thế bao giờ.
Có tiếng chó sủa dữ dội ở bên ngoài, rồi một bày chín con chó cực to, cổ
đeo vòng đồng lao vào nhà kho. Chúng xông thẳng vào Tuyết Tròn, may mà
cu cậu tránh được cú táp của lũ chó. Tuyết Tròn vội chạy ra ngoài, còn
bầy chó thì rượt theo sau. Lũ súc vật còn lại vô cùng ngạc nhiên và
hoảng sợ, cùng kéo nhau ra cửa để xem cuộc rượt đuổi. Tuyết Tròn chạy
băng qua đồng cỏ để ra đường cái lớn. Nó chạy thục mạng, còn bày chó
cũng luôn bám sát ngay sau. Bất thình lình cu cậu bị trượt chân, cứ
tưởng bầy chó sẽ nhai nó đến nơi. Nhưng cu cậu lại gượng dậy được, lần
này nó còn chạy nhanh hơn và bầy chó vẫn bám sát. Tưởng chừng như một
con chó đã đớp được đuôi Tuyết Tròn rồi, may mà lúc ấy cu cậu kịp vẫy
sang hướng khác. Nó lại tăng tốc và lần này bỏ xa lũ chó được một đoạn,
rồi nó chui qua được một lỗ thủng bên hàng rào. Không con nào còn nhìn
thấy Tuyết Tròn nữa.
Vô cùng hoảng sợ, lũ súc vật im lặng quay lại nhà kho. Lũ chó săn cũng
trở về ngay sau đó. Lúc đầu con nào cũng tự hỏi: mấy con chó ấy ở đâu ra
thế nhỉ? Nhưng sau đó thì điều ấy cũng chẳng phải là bí mật nữa: mấy
con này đã bị Napoleon bắt từ lúc còn bé rồi mang đi nuôi riêng. Dù chưa
phát triển hoàn toàn, nhưng trông chúng đã to và dữ không khác gì chó
sói. Chúng đứng ngay cạnh Napoleon. Chúng cũng vẫy đuôi mừng Napoleon
như những con khác thường mừng ông Jones vậy.
Napoleon, được lũ chó hộ tống, bước lên cái bục mà trước đây Thủ Lĩnh
từng đứng nói chuyện. Nó tuyên bố rằng từ nay các cuộc Họp vào ngày chủ
nhật hàng tuần sẽ bị hủy bỏ. Nó nói rằng những cuộc Họp đó là vô bổ, chỉ
mất thì giờ. Từ nay các vấn đề liên quan đến công việc của trang trại
sẽ do một ủy ban toàn lợn và chủ tịch là Napoleon giải quyết. Đấy sẽ là
các cuộc Họp kín, nghị quyết sẽ được thông báo cho toàn trại sau. Các
con vật sẽ vẫn tiếp tục tập họp vào sáng chủ nhật để chào cờ, hát "Súc
Sinh Anh quốc" và nhận công việc sẽ làm trong tuần sau nhưng không còn
các cuộc thảo luận nữa.
Mặc dù bị sốc vì vụ trục xuất Tuyết Tròn, quyết định hủy bỏ các cuộc
thảo luận làm cả bọn thất vọng hoàn toàn. Một số con chắc chắn sẽ phản
đối nếu chúng tìm được lí lẽ khả dĩ. Ngay Võ Sĩ cũng cảm thấy bất an. Nó
dựng tai lên, rung rung bờm mấy lần, ý nghĩ cứ nhảy lung tung và dù rất
cố gắng nó vẫn chẳng biết phải nói thế nào. Nhưng mấy con lợn thì dẻo
miệng hơn. Bốn con lợn thịt ở hàng đầu gào lên phản đối, rồi cả bốn con
cùng nhảy dựng lên đồng thanh nói. Nhưng những con chó đứng quanh
Napoleon đã sủa vang và mấy con lợn đó đành phải ngậm miệng, im lặng về
chỗ. Sau đó là lũ cừu với bài tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu" kéo dài
khoảng mười lăm phút, chấm hết mọi cuộc bàn thảo. Chỉ Điểm được cử đi
giải thích cho những con khác.
"Thưa các đồng chí", Chỉ Điểm nói, "Tôi hy vọng rằng tất cả các đồng chí
đều đánh giá cao sự hy sinh của đồng chí Napoleon khi đồng chí ấy đứng
ra cáng đáng công việc lãnh đạo trại. Các đồng chí đừng nghĩ rằng lãnh
đạo là việc dễ! Ngược lại, đấy là trách nhiệm cực kì nặng nề và khó
khăn. Không có ai trong chúng ta tin tưởng một cách sâu sắc bằng đồng
chí Napoleon rằng tất cả các con vật sinh ra đều bình đẳng. Đồng chí ấy
sẽ rất sung sướng nếu các bạn có thể tự quyết định lấy số phận của mình.
Nhưng ai có thể đảm bảo rằng đôi khi các đồng chí sẽ không có quyết
định sai, khi đó trại của chúng ta sẽ ra sao? Ví dụ các đồng chí có thể
đi theo tên Tuyết Tròn với cái cối xay gió hão huyền của nó, đi theo một
tên mà hành tung không khác gì một tên tội phạm thì sao?"
"Anh ta đã chiến đấu một cách dũng cảm trong Chiến dịch Chuồng bò", có con lên tiếng.
"Dũng cảm không chưa đủ", Chỉ Điểm nói, "Lòng trung thành và sự phục
tùng còn quan trọng hơn. Nói về Chiến dịch Chuồng bò, tôi tin rằng sẽ
đến lúc chúng ta thấy vai trò của Tuyết Tròn đã bị thổi phồng một cách
quá đáng. Kỉ luật, thưa các đồng chí, kỉ luật sắt! Đấy là khẩu hiệu của
chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Chỉ một bước đi sai lầm là kẻ thù sẽ
tấn công ngay. Chắc chắn là các đồng chí không muốn lão Jones quay lại
chứ?"
Lí lẽ của nó quả là khó bác bỏ được. Chắc chắn là không có con nào muốn
lão Jones quay về rồi, nếu những cuộc tranh cãi vào các ngày chủ nhật
tạo cớ cho lão Jones trở về thì chúng sẽ không tranh cãi nữa. Chiến Sĩ
đã suy nghĩ kĩ, nó thay mặt tất cả phát biểu:
"Đồng chí Napoleon nói gì cũng đúng. Đồng chí Napoleon không bao giờ sai."
Từ đó ngoài "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa", Chiến Sĩ còn có thêm một khẩu hiệu mới: "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng".
Thời tiết đã ấm dần lên, bắt đầu một mùa cày mới. Khu kho, nơi Tuyết
Tròn vẽ thiết kế cối xay gió đã bị đóng cửa và có lẽ các bản vẽ cũng bị
xoá rồi. Cứ mười giờ sáng chủ nhật là lũ súc vật lại tụ tập trong nhà
kho lớn để nhận nhiệm vụ sản xuất cho cả tuần sau. Sọ của Thủ Lĩnh, nay
chỉ còn xương được đào lên và đặt trên một gốc cây, cạnh khẩu súng, dưới
chân cột cờ. Sau khi dự lễ kéo cờ, lũ súc vật phải trịnh trọng bước đều
ngang qua nơi đặt sọ Thủ Lĩnh rồi mới đi vào nhà kho. Nay chúng cũng
không còn ngồi lẫn lộn với nhau như mọi khi nữa. Napoleon, Chỉ Điểm và
Kế Tục, một con heo có biệt tài trong việc soạn bài hát và làm thơ ngồi
trên cái bục gỗ, chín con chó làm thành nửa vòng tròn bao quanh, những
con lợn khác ngồi ở phía sau. Những con vật còn lại ngồi trên nền nhà.
Napoleon đọc bản phân công công việc cho tuần sau, rồi chúng hát một lần
bài "Súc Sinh Anh quốc" và giải tán.
Ngày chủ nhật thứ ba, kể từ khi trục xuất Tuyết Tròn, lũ súc vật bỗng
nghe Napoleon tuyên bố rằng nhất định phải xây dựng cối xay gió. Nó
không giải thích vì sao lại thay đổi quyết định, nhưng bảo rằng nhiệm vụ
này đòi hỏi mọi con phải cố gắng, hi sinh rất nhiều, không lọai trừ khả
năng là phải cắt bớt khẩu phần ăn hàng ngày nữa. Dự án đã được lập đến
từng chi tiết. Một ủy ban toàn lợn đã nghiên cứu dự án này suốt ba tuần
qua. Việc xây dựng cối xay gió và các công trình phụ trợ khác có thể kéo
dài trong hai năm.
Buổi chiều, Chỉ Điểm đến giải thích cho từng con rằng thực ra Napoleon
không chống đối việc xây dựng cối xay gió. Ngược lại, ngay từ đầu nó đã
ủng hộ dự án và những bản vẽ mà chúng thấy trong khu ấp trứng chính là
do Tuyết Tròn đánh cắp của Napoleon. Cối xay gió là sáng kiến riêng của
Napoleon. Thế thì tại sao - một số con hỏi - trước đây Napoleon lại kiên
quyết chống? Chỉ Điểm tỏ ra rất ranh mãnh. Đấy - nó giải thích - đấy là
sự khôn khéo của đồng chí Napoleon. Đồng chí ấy chỉ giả vờ chống để có
thể tống khứ Tuyết Tròn, kẻ thù nguy hiểm có thể dẫn chúng vào con đường
lầm lạc bất cứ lúc nào. Bây giờ, khi Tuyết Tròn không còn thì chúng có
thể tiến hành mà không sợ nó gây rối nữa. Đấy gọi là chiến thuật, Chỉ
Điểm nói. Nó nhắc đi nhắc lại: "Chiến thuật, các đồng chí, đấy chính là
chiến thuật" rồi vừa mỉm cười vừa nhảy xung quanh, đuôi ngoáy tít. Lũ
súc vật chẳng hiểu gì, nhưng Chỉ Điểm nói rất hùng hồn đồng thời ba con
chó đi cùng với nó bỗng sủa ầm lên, nên chúng đành chấp nhận mà không
hỏi gì thêm nữa.
Chương VI
Suốt năm đó lũ súc vật phải làm lụng quần quật không khác gì nô lệ.
Nhưng làm việc đối với chúng là một niềm vui, chúng không tiếc sức,
chúng sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì chúng biết rằng chúng đang làm
việc cho mình và cho con cháu mình chứ không phải cho một lũ người lười
biếng, trộm cắp nữa.
Suốt mùa xuân và mùa hè chúng đã làm việc sáu mươi tư tiếng một tuần,
nhưng sang tháng tám thì Napoleon tuyên bố là sẽ làm cả chiều chủ nhật.
Công việc này là hoàn toàn tự nguyện, nhưng con nào vắng mặt sẽ bị cắt
một nửa khẩu phần. Mặc dù vậy, chúng vẫn không hoàn thành được kế hoạch
đã đề ra. Năm nay thu hoạch kém hơn năm ngoái, chúng cũng không kịp
trồng củ cải trên hai khu ruộng vì cày bừa quá chậm. Có thể thấy trước
rằng mùa đông tới sẽ có nhiều khó khăn.
Việc xây dựng cối xay gió cũng gặp không ít rắc rối. Ngay trong trang
trại đã có một mỏ đá vôi tốt, cát cũng không thiếu, còn xi măng thì sẵn
trong kho; mọi vật tư xây dựng đều có đủ. Nhưng có một vấn đề mà lũ súc
vật không thể giải quyết ngay được, đấy là làm thế nào đập được đá thành
những viên có kích thước như ý. Có vẻ như chỉ có một cách là dùng cuốc
chim và xà beng; nhưng không con nào biết sử dụng những thứ ấy vì chúng
không thể đứng trên hai chân sau được. Phải mất mấy tuần lễ mày mò chúng
mới biết cách lợi dụng lực hút của trái đất. Những tảng đá lớn, không
thể dùng được nằm dưới đáy mỏ đá vôi. Lũ súc vật lấy dây quấn xung quanh
những hòn đá, sau đó cả bọn, nào bò, nào ngựa, nào cừu, bất cứ con nào
có thể bám vào dây đều có mặt, khi khẩn cấp cả bọn lợn cũng nắm lấy dây
và kéo từ từ theo bờ dốc, rồi chúng thả rơi hòn đá xuống đáy cho vỡ
thành những mảnh nhỏ. Việc vận chuyển những viên đá vỡ không phải là
khó. Ngựa vận chuyển bằng xe con, cừu thì mang từng viên một, ngay cả
Muriel và Benjamin cũng tự thắng vào chiếc xe hai chỗ và tham gia chuyên
chở. Đến cuối mùa hè thì chúng đã kiếm được đủ đá, công việc xây dựng
bắt đầu, lũ lợn đóng vai giám sát và đốc công.
Nhưng việc xây dựng tiến hành rất chậm, tốn rất nhiều công sức. Chúng
thường mất cả ngày mới kéo được một hòn đá lên đến đỉnh, nhưng khi thả
xuống thì nó lại không vỡ. Không có Chiến Sĩ thì chẳng có việc gì nên
hồn, một mình nó làm bằng tất cả những con khác cộng lại. Nếu hòn đá
nặng quá, cả lũ bị nó lôi xuống thì bao giờ Chiến Sĩ cũng gắng hết sức
để kéo lên. Ai cũng phải thán phục khi nhìn thấy nó, chân bám chặt vào
đất, hơi thở gấp gáp, hai bên sườn đẫm mồ hôi, gắng sức kéo những hòn đá
lên từng bước một. Bà Mập thỉnh thoảng lại nhắc nó đừng có lao lực quá,
nhưng nó không nghe. Có vẻ như đối với nó thì hai câu khẩu hiệu: "Tôi
sẽ cố gắng hơn nữa" và "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng" chính là
đáp án cho mọi vấn đề. Nó lại nhờ con gà trống gọi dậy trước bốn mươi
lăm phút chứ không phải nửa tiếng như trước đây. Những lúc rảnh rỗi,
phải nói là bây giờ chúng không có nhiều thời giờ rỗi nữa, nó đi một
mình ra mỏ đá, xếp những hòn vỡ lại và kéo lên chỗ xây cối xay gió mà
không cần con nào giúp.
Dù có phải làm việc vất vả nhưng đời sống lũ súc vật trong mùa hè cũng
không đến nỗi nào. Chúng không được ăn nhiều hơn thời còn ông Jones,
nhưng cũng không ít hơn. Bù lại, chúng chỉ phải làm để tự nuôi mình,
chúng không phải nuôi lũ người gồm những năm tên tham ăn nữa, chỉ riêng
điều này đã đủ động viên chúng vượt qua mọi khó khăn chồng chất. Thêm
nữa, cách làm của lũ súc vật nhiều khi lại hiệu quả và nhanh. Ví dụ việc
làm cỏ được chúng thực hiện nhanh, gọn hơn người nhiều. Bây giờ không
còn con nào ăn cắp nên cũng không cần chữa hàng rào và cổng giữa khu
đồng cỏ và khu canh tác nữa. Nhưng từ mùa hè đó bắt đầu có sự thiếu hụt,
nay thứ này, mai thứ khác. Chúng cần dầu đốt, đinh, dây thừng, bánh cho
chó, sắt để làm móng ngựa, Trại Súc Vật không sản xuất được những thứ
này. Sau đó là đến hạt giống, phân hóa học, các lọai công cụ như cuốc,
xẻng, rồi còn thiết bị cho cối xay gió nữa. Không con nào biết cách mua
những thứ đó.
Một sáng chủ nhật, khi lũ súc vật tập trung nhận nhiệm vụ cho tuần tới,
Napoleon bỗng tuyên bố rằng nó đã quyết định tiến hành một chính sách
mới. Từ nay trở đi Trại Súc Vật sẽ buôn bán với các trại lân cận: dĩ
nhiên là không phải vì lợi nhuận mà chỉ để mua một số vật dụng thật sự
cần thiết thôi. Nhiệm vụ xây dựng cối xay gió là tối cần thiết đối với
chúng ta, nó nói như thế. Vì vậy mà nó đã thương thảo về việc bán cỏ và
một phần lúa mì vụ vừa rồi, sau này, nếu cần tiền nữa thì có thể phải
bán trứng, nhu cầu về trứng ở Willingdon là rất cao. Các bạn gà,
Napoleon nói, phải lấy làm tự hào vì đã có những đóng góp đặc biệt trong
việc xây dựng cối xay gió.
Một lần nữa lũ súc vật lại cảm thấy lo lắng. Không quan hệ với con
người, không tham gia buôn bán, không sử dụng tiền - chả lẽ đấy không
phải là những quyết định được thông qua trong cuộc Họp đầu tiên mừng
chiến thắng sau khi đuổi được lão Jones ư? Tất cả mọi con vật đều nhớ là
chúng đã từng thông qua những quyết định ấy, hay ít nhất chúng nghĩ
rằng chúng nhớ là như thế. Bốn con lợn, những con đã đứng lên phản đối
khi Napoleon tuyên bố hủy bỏ những cuộc Họp cuối tuần lại định lên
tiếng, nhưng chúng phải vội vã ngậm miệng vì bầy chó đã sủa ầm ĩ lên
rồi. Cũng như mọi khi, lũ cừu lại tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu!" và
mọi sự đâu vẫn hoàn đấy. Cuối cùng, Napoleon giơ chân lên đề nghị trật
tự và tuyên bố là nó đã giải quyết ổn thỏa mọi chuyện rồi. Không con nào
phải tiếp xúc với loài người, việc đó thật chẳng hay ho gì. Nó sẽ chịu
hoàn toàn trách nhiệm về công việc nặng nề đó. Một luật sư hiện sống ở
Willingdon tên là Whymper đã đồng ý làm trung gian giữa Trại Súc Vật và
các trang trại lân cận, ông ta sẽ đến nhận nhiệm vụ vào các buổi sáng
thứ hai hàng tuần. Giống như mọi khi, Napoleon kết thúc bài diễn văn
bằng cách hô khẩu hiệu "Trại Súc Vật muôn năm" và sau khi hát bài "Súc
Sinh Anh quốc", lũ súc vật giải tán.
Sau đó Chỉ Điểm lại đi một vòng quanh trại để làm công tác tư tưởng. Nó
cam đoan rằng quyết định không buôn bán và không sử dụng tiền chưa hề
được đưa ra biểu quyết chứ đừng nói là thông qua. Đấy chỉ là chuyện bịa
đặt, mà nếu theo dõi từ khởi kì thủy thì có thể do Tuyết Tròn bịa ra
cũng nên. Nhưng một số con vẫn còn chưa tin, thế là Chỉ Điểm hỏi: "Đồng
chí có chắc là không tưởng tượng ra như thế chứ? Đồng chí có tài liệu
nào khẳng định chuyện đó không? Quyết định đó được ghi ở đâu ?". Chắc
chắn là những quyết định đó không được ghi chép ở đâu cả, cho nên cuối
cùng lũ súc vật tin là chúng đã lầm.
Thứ hai nào ông Whymper cũng đến trang trại. Ông là một luật sư, dáng
người nhỏ nhắn, để tóc mai dài, mới bắt đầu đi vào làm ăn, nhưng khá
ranh mãnh, nhận ngay ra rằng nhất định Trại Súc Vật sẽ cần một người môi
giới và tiền hoa hồng dĩ nhiên là phải "đậm". Lũ súc vật sợ Whymper và
tìm cách tránh càng xa càng tốt. Dù sao thì việc Napoleon đứng trên bốn
chân ra lệnh cho Whymper đứng trên hai chân cũng tạo ra trong lòng chúng
niềm tự hào chính đáng và phần nào xoa dịu được phản ứng đối với chính
sách mới. Quan hệ của chúng với giống người đã không hoàn toàn như trước
đây nữa. Lòng thù hận của giống người đối với Trại Súc Vật không những
không giảm mà còn tăng vì nó ngày càng thịnh vượng hơn. Ai cũng tin là
trước sau gì thì cái trại này cũng phá sản, còn cối xay gió thì thất bại
là cái chắc. Họ thường tụ tập trong các quán bia rồi vẽ sơ đồ để chứng
minh rằng cối xay gió nhất định sẽ sập, mà nếu không sập thì cũng sẽ
chẳng hoạt động được. Nhưng dù không thích, họ vẫn phải nể lũ súc vật vì
chúng quản lí trang trại khá hiệu quả. Chứng cớ là họ đã bắt đầu gọi
trại này là Trại Súc Vật và đã thôi giả đò là nó vẫn mang tên là Điền
Trang. Họ cũng không còn ủng hộ ông Jones nữa, ông này đã mất hết hy
vọng chiếm lại được trang trại và đã đi làm ăn ở nơi khác rồi. Tuy hiện
nay mọi quan hệ giữa Trại Súc Vật với thế giới bên ngoài đều thông qua
Whymper, nhưng người ta đồn rằng Napoleon sắp sửa kí kết hợp đồng thương
mại hoặc là với Trại Cáo của Pilkington hoặc là với Trại Keo của
Frederick, nhưng thiên hạ cũng nói rằng sẽ không có chuyện kí với cả hai
trại cùng một lúc.
Cũng khoảng thời gian đó lũ lợn đột ngột chuyển vào sống trong toà nhà
chính. Lần này lũ súc vật cũng cho rằng ngay từ những ngày đầu tiên
chúng đã thông qua quyết định là không con nào được dọn vào sống trong
ngôi nhà chính. Chỉ Điểm lại thuyết phục được chúng rằng chúng đã lầm.
Loài lợn là bộ óc của cả trại, nó nói, cho nên cần phải dành cho các
đồng chí ấy những chỗ yên tĩnh để làm việc. Lãnh tụ (thời gian gần đây
nó bắt đầu gọi Napoleon là lãnh tụ) phải sống ở một nơi xứng đáng chứ
không thể cứ sống mãi trong chuồng heo được. Tuy vậy, một số con tỏ ra
lo lắng khi nghe nói rằng lũ lợn không những ăn trong bếp và nghỉ trong
phòng khách mà còn ngủ cả trên giường nữa. Chiến Sĩ vẫn nói "Đồng chí
Napoleon lúc nào cũng đúng", nhưng Bà Mập thì cho rằng chắc chắn là có
qui định cấm ngủ trên giường nên đã đi ra đầu hồi nhà kho để xem Bảy
Điều Răn. Nhưng nó chỉ nhận được mặt chữ chứ không thể ghép vần được, nó
đành đi tìm Muriel.
"Muriel", Bà Mập bảo, "đọc cho tôi nghe Điều Răn Thứ Tư. Có phải là không bao giờ được ngủ trên giường không?"
Muriel phải đánh vần mãi mới xong.
"Điều Răn này viết: Không con vật nào được ngủ trên giường có trải dra", Muriel nói.
Thật là kì, Bà Mập nhớ là Điều Răn Thứ Tư đâu có nói khăn trải giường,
nhưng nếu đã ghi rõ trên tường như thế thì chắc là thế thôi. Đúng lúc đó
thì Chỉ Điểm cùng với hai hay ba con chó vô tình đi ngang qua.
"Thưa các đồng chí", nó nói, "tôi nghĩ rằng các đồng chí biết là loài
lợn chúng tôi đã ngủ trên giường rồi? Tại sao lại không nhỉ? Chả lẽ các
đồng chí lại cho rằng có qui định cấm ngủ trên giường à? Giường là gì,
chỉ là chỗ để nằm ngủ mà thôi. Nói đúng ra thì một ổ rơm trong chuồng
cũng là giường. Qui định là cấm ngủ trên khăn trải, vì đấy là sản phẩm
của con người. Chúng tôi đã bỏ hết khăn trải giường đi rồi, bây giờ
chúng tôi chỉ dùng chăn thôi. Giường phải nói là rất tiện! Nhưng cũng
không phải là quá xa xỉ, tôi có thể nói với các đồng chí rằng đấy chính
là thứ cần cho những người làm việc trí óc như chúng tôi. Chả lẽ các
đồng chí lại không muốn cho chúng tôi được nghỉ ngơi hay sao? Chả lẽ các
đồng chí lại muốn chúng tôi kiệt sức hay sao? Chắc chắn là không có ai
trong các đồng chí muốn lão Jones quay lại chứ?"
Bọn súc vật khẳng định với nó rằng chúng không nghĩ như vậy và từ đó
cũng không con nào còn nhắc đến việc lũ lợn ngủ trên giường nữa. Mấy
ngày sau có thông báo rằng từ nay trở đi loài lợn sẽ dậy muộn hơn những
loài khác một tiếng, lần này thì không có con nào phàn nàn gì cả.
Mùa thu tới, lũ súc vật tuy mệt nhưng vui. Năm qua là một năm vất vả,
phải bán một phần cỏ và ngũ cốc nên dự trữ cho mùa đông không được dư
giả lắm, nhưng cối xay gió đã đền bù mọi công khó của chúng. Cối xay gió
đã xây dựng được gần một nửa rồi. Sau vụ thu hoạch thời tiết rất thuận
lợi, lũ súc vật làm việc miệt mài chưa từng thấy, chúng sẵn sàng đi lại,
khuân vác suốt ngày miễn là bức tường cứ ngày một cao thêm, dù chỉ một
ít. Ban đêm Chiến Sĩ còn tranh thủ làm thêm một, hai tiếng dưới ánh
trăng. Lúc rảnh rỗi lũ súc vật thường đi dạo xung quanh cái công trình
xây dựng đó; chúng ngắm nhìn những bức tường đứng thẳng và chắc chắn,
rồi tự hỏi chả lẽ chúng đã xây được cái công trình tráng lệ như thế này
ư. Chỉ có Benjamin là vẫn như cũ, nó chẳng nói gì, ngoại trừ câu cửa
miệng là lừa sống dai lắm.
Tháng mười một bắt đầu có gió tây nam. Việc xây dựng bị ngưng trệ vì
trời ẩm quá, không thể trộn vữa được. Một đêm gió mạnh đến nỗi mái nhà
tốc ngói, tường cũng như muốn lung lay sắp đổ. Lũ gà thức giấc và kêu
quang quác vì cả bọn cùng mơ thấy như có tiếng súng nổ ở đâu đó. Buổi
sáng, khi lũ súc vật đi ra khỏi chuồng thì thấy cột cờ đã đổ từ bao giờ,
còn cây du ở cuối vườn thì đã bị trốc gốc không khác gì người ta nhổ
cây củ cải. Nhưng đấy chưa phải đã hết, trước mặt chúng còn một cảnh
tượng khủng khiếp hơn nhiều. Cối xay gió đã bị đổ sập hoàn toàn. Tất cả
cùng đồng thanh thét lên vì thất vọng.
Chúng lao về phía công trường. Napoleon vốn vẫn cho rằng chạy là việc hạ
đẳng cũng ba chân bốn cẳng chạy ngay đầu đoàn. Thế là xong, tất cả đã
thành công toi, những viên đá mà chúng phải khó nhọc mới đập vỡ và vận
chuyển tới được nay nằm ngổn ngang khắp nơi. Không nói nên lời, chúng
đứng lặng, đau khổ ngắm nhìn đống đá đổ. Napoleon im lặng đi đi lại lại,
thỉnh thoảng gí mũi xuống đất để ngửi. Đuôi nó duỗi thẳng, đập qua đập
lại rất mạnh, chứng tỏ nó đang suy nghĩ rất lung. Nó bỗng dừng lại, có
nghĩa là nó đã tìm được giải pháp.
"Thưa các đồng chí", nó bình tĩnh nói, "các đồng chí có biết ai phải
chịu trách nhiệm về việc này không? Kẻ nào đã phá hoại, kẻ nào đã phá
sập cối xay gió của chúng ta đêm qua? Tuyết Tròn!", nó bỗng gào lên,
"chính Tuyết Tròn chứ không ai. Tên phản bội đầy thù hận đó đã nhẫn tâm
tìm cách phá chúng ta và trả thù về việc nó bị trục xuất một cách nhục
nhã, nó đã lợi dụng đêm tối để mò vào và phá hủy toàn bộ thành quả lao
động suốt một năm trời nay của chúng ta. Hôm nay, tại đây, tôi tuyên bố
kết án tử hình Tuyết Tròn. Ai giết được nó sẽ được phong Súc Vật Anh
Hùng hạng hai và được thưởng một nửa thùng táo. Ai bắt sống được nó sẽ
được thưởng một thùng táo."
Con nào cũng vô cùng căm tức khi biết tin Tuyết Tròn đã phạm tội ác tày
trời như thế. Hờn căm bộc phát thành tiếng thét, con nào cũng nghĩ cách
bắt sống Tuyết Tròn nếu nó còn lảng vảng đâu đây. Chúng còn phát hiện ra
dấu chân lợn ở trên đám cỏ ngay gần khu đồi. Dấu chân kéo dài khoảng
chục mét, có vẻ như hướng về chỗ có lỗ thủng trên hàng rào. Napoleon hít
lấy hít để những dấu chân ấy và sau đó tuyên bố rằng đấy là chân Tuyết
Tròn. Napoleon nói rằng có thể Tuyết Tròn đi từ hướng Trại Cáo tới.
"Chậm nghĩa là chết", Napoleon tuyên bố sau khi xem dấu chân xong, "phải
tiếp tục công việc, thưa các đồng chí! Chúng ta sẽ bắt đầu khôi phục
cối xay gió ngay từ sáng hôm nay, chúng ta sẽ làm trong suốt mùa đông
này, mặc cho gió mưa, giá rét. Chúng ta sẽ dạy cho tên phản bội khốn nạn
đó một bài học là nó không thể ngăn cản được chúng ta. Xin các đồng chí
nhớ cho: kế hoạch của chúng ta vẫn không thay đổi. Chúng ta nhất định
sẽ hoàn thành việc xây dựng cối xay gió đúng thời hạn. Các đồng chí,
tiến lên! Cối xay gió muôn năm! Trại Súc vật muôn năm!".
Chương VII
Mùa đông năm đó rất khắc nghiệt. Bão rồi đến mưa, sau đó là tuyết và
băng giá, sang tháng hai mà băng chưa tan. Thế mà lũ súc vật vẫn miệt
mài xây dựng lại cối xay gió, chúng biết rằng người ta đang theo dõi
chúng và bọn người độc ác ấy sẽ có cớ để vui mừng nếu chúng không hoàn
thành công trình đúng hạn.
Để trêu tức chúng, người ta còn làm ra vẻ không tin là Tuyết Tròn đã phá
cối xay gió, họ bảo rằng nó sập là do tường mỏng quá. Nhưng lũ súc vật
thì tin chắc là không phải thế. Dù sao chúng cũng quyết định sẽ xây
tường dày một mét chứ không phải bốn mươi phân như trước đây nữa, và như
vậy thì cần phải khai thác nhiều đá hơn trước. Mỏ đá chìm dưới tuyết
trong một thời gian dài nên không thể bắt đầu được. Sau đó thì trời tuy
có lạnh nhưng khô ráo, nhưng công việc quả là khủng khiếp, lũ súc vật
không còn hăng hái như xưa nữa. Chúng không những bị lạnh mà còn thường
xuyên bị đói. Chỉ có Chiến Sĩ và Bà Mập là vẫn nhiệt tình. Chỉ Điểm động
viên phong trào bằng những buổi nói chuyện, nó chứng minh một cách hùng
hồn rằng lao động là hạnh phúc và vinh quang. Nhưng những buổi nói
chuyện của Chỉ Điểm cũng không có tác dụng, chính sức khoẻ và câu "Tôi
sẽ cố gắng hơn nữa" của Chiến Sĩ là nguồn động viên rất lớn đối với
những con khác.
Lương thực bắt đầu cạn vào tháng giêng. Khẩu phần bằng ngũ cốc bị cắt
bớt, thay vào đó là khoai tây. Khi đó lại phát hiện ra là đa số khoai
tây đánh đống đã bị nhũn vì không được che đậy cẩn thận, số ăn được còn
lại chẳng đáng là bao. Nhiều hôm chúng chỉ được ăn mỗi cỏ và củ cải. Nạn
đói bắt đầu đe doạ.
Tin này dứt khoát phải giữ kín, không được để cho người xung quanh biết.
Phấn chấn vì vụ sập cối xay gió người ta càng tung nhiều tin thất thiệt
về Trại Súc Vật hơn. Người ta đồn nào là lũ súc vật sắp sửa chết vì đói
và bệnh đến nơi, nào là chúng đánh nhau suốt ngày, nào là chúng đang ăn
thịt lẫn nhau, rồi giết cả những con non nữa. Napoleon hiểu rằng sẽ có
nhiều phiền toái nếu người ngoài biết trại đang gặp khó khăn về lương
thực nên nó quyết định dùng Whymper làm công cụ phản tuyên truyền. Trước
đây lũ súc vật thường đứng xa xa mỗi khi Whymper ghé vào trại, nhưng
bây giờ một số con được chọn, chủ yếu là cừu, được phép đến gần và làm
như vô tình, nói rằng dạo này khẩu phần có tăng. Ngoài ra, Napoleon còn
ra lệnh đổ cát cho gần đầy bồ bịch trong kho rồi lấy ngũ cốc và bột phủ
lên trên. Mỗi khi có dịp là chúng lại dẫn Whymper đi ngang qua nhà kho
để ông ta có thể nhìn thấy lương thực chứa trong đó. Whymper đã bị xỏ
mũi và thường nói với mọi người là Trại Súc Vật vẫn đủ lương thực.
Mặc dù vậy, đến cuối tháng giêng thì thấy rõ là phải tìm cách mua thêm
ngũ cốc. Dạo này Napoleon ít khi đi ra ngoài, nó ngồi lì trong ngôi nhà
chính, các cửa ra vào đều có những con chó dữ canh phòng nghiêm ngặt.
Nếu nó đi ra ngoài thì bao giờ cũng có sáu con chó hộ tống xung quanh,
bọn này lập tức nhe nanh gầm gừ, đe dọa khi thấy những con khác đến gần.
Nó cũng không còn tham gia các buổi Họp ngày chủ nhật nữa mà giao cho
một con lợn khác, thường là Chỉ Điểm, đọc bảng phân công công việc.
Một lần, vào chủ nhật, Chỉ Điểm tuyên bố là lũ gà mái, bọn này vừa bắt
đầu đẻ, phải giao nộp trứng. Thông qua Whymper, Napoleon đã kí hợp đồng
cung cấp bốn trăm quả trứng mỗi tuần. Tiền bán trứng đủ mua lương thực
cho đến mùa hè và khi đó mọi sự sẽ dễ dàng hơn.
Lũ gà mái gào toáng lên. Trước đây chúng cũng đã được nhắc nhở là cần
phải hy sinh, nhưng không ngờ mọi sự lại tồi tệ đến như vậy. Chúng đã
chuẩn bị tổ cho vụ ấp xuân, chúng tuyên bố là bây giờ mà lấy trứng thì
khác gì sát sinh. Kể từ ngày trục xuất ông Jones, đây là lần đầu tiên có
một cuộc tụ tập giống như bạo loạn. Ba con gà mái tơ giống Minorca cầm
đầu cuộc nổi dậy chống lại kế họach của Napoleon. Biện pháp của chúng là
bay lên xà nhà và đẻ xuống cho trứng vỡ. Napoleon hành động nhanh chóng
và quyết liệt. Nó hạ lệnh không cho bọn gà mái ăn nữa và còn tuyên bố
là con nào cho bọn gà dù chỉ một hạt thóc sẽ bị tử hình ngay lập tức. Lũ
chó được phân công theo dõi. Bọn gà mái cầm cự được năm ngày, cuối cùng
đã phải đầu hàng và trở về đẻ vào tổ như cũ. Chín con gà mái chết.
Chúng bị coi là chết vì bệnh cầu trùng và được chôn trong vườn. Whymper
không hề biết chuyện này và đều đặn tuần nào cũng có một chiếc xe đến
lấy trứng.
Không thấy Tuyết Tròn đâu. Có tin đồn là nó trốn trong Trại Cáo hay Trại
Keo gì đó. Quan hệ giữa Napoleon với các trại xung quanh đã được cải
thiện phần nào. Lúc đó chúng bỗng phát hiện được một đống gỗ trong sân
trại, số gỗ này bị đốn cách đây khoảng chục năm. Số gỗ tìm được thật
đúng lúc, Whymper khuyên Napoleon đem bán, cả Pilkington và Frederick
đều muốn mua. Napoleon lưỡng lự, không biết nên bán cho ai. Cứ hễ nó
định bán cho Frederick thì có tin nói là Tuyết Tròn đang trốn trong Trại
Cáo, mà khi nó ngả sang Pilkington thì lại có tin Tuyết Tròn đang trong
Trại Keo.
Đầu tháng giêng, toàn trại bỗng sôi động vì một tin bất ngờ như sét đánh
giữa trời quang. Hoá ra là Tuyết Tròn vẫn thường bí mật thâm nhập trại
vào ban đêm! Lũ súc vật lo lắng đến mất ngủ. Đồn rằng đêm nào Tuyết Tròn
cũng mò vào phá hoại. Nó ăn trộm lương thực, hất đổ các xô sữa, đạp vỡ
trứng, dẫm nát các đám mạ và nhai vỏ cây trong vườn. Khó khăn thất bại
nào cũng bị qui là tại Tuyết Tròn. Nếu cửa sổ bị vỡ hay ống thoát nước
bị tắc là y như rằng có con nói là tại Tuyết Tròn phá, ngay khi chìa
khóa nhà kho bị mất thì cả trại cũng cho rằng Tuyết Tròn đã ném xuống
giếng. Điều lạ là sau khi đã tìm thấy chìa khóa bên dưới túi bột thì cả
trại vẫn tin là tại Tuyết Tròn. Lũ bò khẳng định rằng ban đêm Tuyết Tròn
chui vào chuồng và vắt trộm sữa khi chúng ngủ. Đồn rằng lũ chuột, bọn
này từng gây nhiều rắc rối vào mùa đông vừa rồi, cũng liên kết với Tuyết
tròn.
Napoleon hạ lệnh phải điều tra thật kĩ những hoạt động của Tuyết Tròn.
Napoleon, được mấy con chó hộ tống, khảo sát một vòng tất cả các toà nhà
trong trại, trong khi những con khác đi theo xa xa phía sau. Nó bảo nó
có thể đánh hơi được Tuyết Tròn nên cứ đi vài bước lại dừng lại và ngửi
đất để tìm dấu vết. Góc nào nó cũng ngửi, ngửi cả nhà kho, chuồng bò,
chuồng gà, vườn rau và chỗ nào cũng có dấu vết Tuyết Tròn cả. Nó dí mũi
xuống đất vài lần rồi hít vào thật sâu, sau đó tuyên bố bằng một giọng
nghe đã rợn người: "Tuyết Tròn! Hắn đã mò đến đây! Ta đã nhận ra mùi của
nó!", cứ nghe mỗi từ "Tuyết Tròn" là lũ chó lại nhe nanh và sủa phụ
họa.
Tất cả run lên vì sợ. Có cảm tưởng như tên Tuyết Tròn bí ẩn và đầy quyền
năng đang ẩn náu đâu đây, rất gần và sẵn sàng trút tai họa xuống đầu
chúng. Tối hôm đó, Chỉ Điểm gọi tất cả lại và với bộ mặt nghiêm trọng nó
bảo rằng có một số tin khẩn cấp cần thông báo.
"Thưa các đồng chí!", nó gào lên, "chúng tôi đã phát hiện ra một tội ác
không thể tha thứ được. Tuyết Tròn đã bán mình cho Frederick của Trại
Keo, lão này vẫn đang dự định tấn công để cướp trại của chúng ta! Một
khi chiến tranh xảy ra thì Tuyết Tròn sẽ làm nhiệm vụ dẫn đường. Nhưng
nó còn táng tận lương tâm hơn thế nhiều. Trước đây chúng ta từng nghĩ
rằng Tuyết Tròn gây rối là do tính tự phụ và ham hố quyền lực. Nhưng
thưa các đồng chí, chúng ta đã lầm. Các đồng chí có biết lí do thật sự
nằm ở đâu không? Ngay từ đầu nó đã liên kết với lão Jones! Nó là gián
điệp nằm vùng của lão Jones. Chứng cớ đã được thể hiện trong những tài
liệu mà nó để lại và chúng ta mới tìm thấy gần đây. Thưa các đồng chí,
tôi cho rằng điều đó lí giải nhiều việc. Chả lẽ chúng ta chưa nhận ra là
nó đã cố gắng, may mà không thành, làm cho chúng ta thua và tan rã
trong Chiến dịch Chuồng bò hay sao?"
Tất cả đều ngớ ra. Tội ác này thật quá khủng khiếp, vượt xa việc phá
hoại cối xay gió. Phải một lúc sau chúng mới nhận thức được hết tính
chất nghiêm trọng của sự việc. Tất cả chúng vẫn nhớ, hay chúng tưởng là
vẫn nhớ hình ảnh của Tuyết Tròn khi nó xông lên dẫn đầu cuộc tấn công
trong Chiến dịch Chuồng bò, khi nó đoàn kết và cổ vũ chúng, khi nó không
buông bỏ dù đã bị lão Jones bắn bị thương. Thật khó tưởng tượng làm sao
chuyện đó lại xảy ra nếu như nó là gián điệp của lão Jones. Ngay cả
Chiến Sĩ, vốn kiệm lời, cũng cảm thấy bối rối. Chiến Sĩ nằm xuống, co
hai chân trước vào bụng, nhắm mắt lại, cố gắng tập trung tư tưởng và
cuối cùng nói:
"Tôi không tin, trong Chiến dịch Chuồng bò Tuyết Tròn đã chiến đấu dũng
cảm. Chính mắt tôi nhìn thấy như thế. Chẳng phải chúng ta đã phong nó
làm Súc vật Anh hùng hạng nhất ngay sau chiến dịch là gì?"
"Thưa các đồng chí, đấy chính là sai lầm của chúng ta. Bây giờ chúng ta
biết rằng, những việc này đều ghi rõ trong các tài liệu mật mà chúng ta
mới tìm thấy, nó định dụ chúng ta vào bẫy cho bọn kia tiêu diệt."
"Nhưng nó cũng bị thương", Chiến Sĩ nói, tất cả chúng ta đều nhìn thấy máu chảy khi nó đang chạy."
"Đấy là do đã sắp đặt từ trước!", Chỉ Điểm gào lên, "phát súng của lão
Jones chỉ sượt qua người nó thôi. Ước gì các đồng chí biết đọc để tôi có
thể chỉ cho các đồng chí thấy tên Tuyết Tròn đã viết rõ bằng giấy trắng
mực đen như thế nào. Chúng đã thoả thuận là vào lúc nguy kịch nhất thì
Tuyết Tròn sẽ hạ lệnh rút lui, nhường trận địa cho địch quân. Và nó đã
suýt thành công, tôi có thể nói rằng nó chắc chắn sẽ thành công nếu như
không có nhà Lãnh đạo Anh hùng, Đồng chí Napoleon kính mến của chúng ta.
Các bạn còn nhớ lúc lão Jones và gia nhân tiến vào sân chứ? Tuyết Tròn
quay lưng bỏ chạy và nhiều con đã chạy theo hắn. Chả lẽ các bạn không
nhớ rằng đúng lúc đó, khi mà hỗn loạn bắt đầu lan ra và có vẻ như vỡ mặt
trận đến nơi, thì đồng chi Napoleon xông lên và hô "Giết!" rồi lao
thẳng vào chân lão Jones ư? Thưa các đồng chí, chắc chắn các đồng chí
nhớ tình tiết đó!", Chỉ Điểm vừa nói vừa nhảy từ bên này sang bên kia.
Bây giờ, khi Chỉ Điểm mô tả sống động như thế thì lũ súc vật dường như
đã nhớ ra. Dù sao thì chúng cũng nhớ rõ là Tuyết Tròn đã quay đầu chạy
đúng vào lúc nguy ngập. Nhưng Chiến Sĩ thấy vẫn chưa ổn.
"Tôi không tin là Tuyết Tròn đã phản bội ngay từ đầu", nó nói, "sau này
lại là chuyện khác. Tôi tin rằng trong Chiến dịch Chuồng bò Tuyết Tròn
vẫn là một đồng chí tốt."
"Lãnh tụ của chúng ta, đồng chí Napoleon", Chỉ Điểm nói một cách chậm
rãi và kiên quyết, "đã tuyên bố dứt khoát, tôi xin nhắc lại, thưa các
đồng chí, tuyên bố dứt khoát rằng ngay từ đầu Tuyềt Tròn đã là gián điệp
của lão Jones, từ trước khi chúng ta nghĩ đến Khởi nghĩa cơ."
"Thế thì khác!", Chiến Sỹ bảo. "Đồng chí Napoleon đã nói thì nhất định đúng."
"Đấy là một thái độ thực sự cầu thị, thưa các đồng chí!", Chỉ Điểm reo
lên, nhưng mọi con đều thấy đôi mắt ti hí, đảo điên, hằn học của nó
chiếu thẳng vào Chiến Sĩ. Nó đã định đi, nhưng còn nói thêm đầy đe dọa,
"Tôi xin báo trước là các bạn phải cảnh giác. Có đầy đủ cơ sở để nghĩ
rằng trong trại này vẫn còn tay sai của Tuyết Tròn đấy!"
Bốn ngày sau, buổi chiều, Napoleon hạ lệnh tất cả phải có mặt ngoài sân.
Khi tất cả đã đến đủ thì Napoleon xuất hiện, ngực đeo hai huy chương
(nó mới tự phong cho mình danh hiệu Súc vật anh hùng bậc I và Súc vật
anh hùng bậc II) với chín con chó to lớn, vừa chạy quanh vừa sủa to đến
nỗi lũ súc vật sợ đến nổi gai ốc. Chúng ngồi yên lặng, thu mình lại, như
chờ đợi một trận cuồng phong dữ dội.
Napoleon nghiêm khắc nhìn đám đông, rồi rít lên lảnh lảnh như tiếng còi.
Ngay lập tức lũ chó lao vào cắn tai bốn con lợn thịt, mấy con đó ngất
đi vì đau và sợ, rồi kéo đến chân Napoleon. Máu chảy ra từ tai mấy con
lợn, và lũ chó phát điên lên khi ngửi thấy mùi máu tươi. Chúng ngạc
nhiên hơn nữa khi thấy ba con chó lao vào Chiến Sĩ. Chiến Sĩ liền giơ
chân lên tóm lấy một con và đè xuống đất. Con đó vội kêu ầm lên xin tha
mạng, hai con kia cụp đuôi lại, bỏ chạy. Chiến Sĩ nhìn Napoleon có ý hỏi
nên xéo chết hay nên thả con chó bị giữ. Napoleon thay đổi nét mặt và
hạ lệnh cho Chiến Sĩ thả, thế là Chiến Sỹ nhấc chân lên, con chó thảm
hại, mình mảy thâm tím, vừa lết đi vừa rên ư ử.
Trật tự nhanh chóng được vãn hồi. Bốn con lợn nằm chờ số phận, người run
bắn, tội lỗi hiện rõ trên từng nét mặt. Napoleon hạ lệnh cho chúng phải
thú nhận tội lỗi. Đấy chính là bốn con lợn đứng lên phản đối khi
Napoleon quyết định hủy bỏ những cuộc Họp vào ngày chủ nhật. Ngay lập
tức chúng thú nhận đã từng bí mật tiếp xúc với Tuyết Tròn từ khi nó bị
trục xuất khỏi trại, đã giúp nó phá cối xay gió và thỏa thuận cùng với
nó bán đứng Trại Súc Vật cho Frederick. Chúng còn khai thêm rằng Tuyết
Tròn đã nói với chúng rằng nó là gián điệp của lão Jones từ nhiều năm
trước. Khi chúng vừa nói xong thì lũ chó lao lên cắn đứt cổ họng cả bốn
con, sau đó Napoleon, bằng một giọng đe doạ, nghe đã nổi gai gà, hỏi có
con nào thấy cần phải thú tội không.
Ba con gà cầm đầu cuộc nổi loạn về trứng bước lên phía trước và tuyên bố
rằng chúng mơ thấy Tuyết Tròn kích động chúng bất tuân mệnh lệnh của
Napoleon. Chúng cũng bị hành quyết. Sau đó có một con ngỗng bước ra và
thú nhận đã lấy sáu bông lúa trong vụ mùa vừa qua để đến đêm ăn. Rồi một
con cừu cái thú nhận đã bị Tuyết Tròn xúi giục đái vào bể nước ăn, rồi
hai con cừu nữa thú nhận đã hành hạ đến chết một con cừu đực già, con
này đặc biệt trung thành với Napoleon, chúng đuổi nó chạy quanh đống lửa
khi nó bị ho. Tất cả những con này đều bị tử hình ngay tại chỗ. Cứ thế,
hành quyết đi liền ngay sau lời thú tội. Chẳng mấy chốc dưới chân
Napoleon đã là một đống xác, còn không khí thì nồng nặc mùi máu tươi,
một cảnh tượng chưa từng có từ ngày ông Jones bị trục xuất.
Những con vật còn lại sau vụ hành quyết, tất nhiên không kể lũ chó và lũ
lợn, tụ tập thành một đám và lặng lẽ bò ra khỏi sân. Trông chúng thật
nhỏ nhoi và khốn nạn. Chúng không hiểu giữa sự phản bội của những con
liên kết với Tuyết Tròn và sự trừng phạt dã man mà chúng vừa chứng kiến,
cái nào gây sốc mạnh hơn. Ngày xưa chúng đã từng chứng kiến những cảnh
thảm sát không kém phần man rợ, nhưng lần này sự việc rõ ràng khủng
khiếp hơn vì đây là chúng giết lẫn nhau. Từ ngày lão Jones ra đi đến giờ
chưa có con nào bị giết cả. Ngay cả chuột cũng chưa bị giết. Chúng đi
lên khu đồi rồi cùng nằm sát vào nhau cho ấm bên cạnh cái cối xay gió
đang xây dở: Bà Mập nằm cạnh Mona, Benjamin, rồi đến bầy bò, cừu, gà,
ngỗng, vắng mỗi con mèo, nó đã lỉnh ngay trước khi Napoleon triệu tập.
Chúng nằm yên lặng. Chỉ có Chiến Sĩ là vẫn đứng. Nó cứ đi đi lại lại,
đuôi đập liên hồi vào hai bên sườn, thỉnh thoảng lại hí khe khẽ đầy lo
âu. Cuối cùng nó nói:
"Tôi chẳng hiểu gì cả. Không thể nào tin được là chuyện đó có thể xảy ra
trong trại của chúng ta. Có thể là chính chúng ta cũng có lỗi. Chỉ có
một lối thoát, đấy là làm việc nhiều hơn. Từ nay tôi sẽ dậy trước một
tiếng đồng hồ."
Rồi nó buồn bã bước về khu mỏ đá. Cu cậu nhặt đầy hai xe và kéo đến công trường xây dựng trước khi đi ngủ.
Lũ súc vật túm tụm cạnh Bà Mập nhưng vẫn không có con nào lên tiếng. Từ
trên đỉnh đồi chúng có thể nhìn thấy toàn cảnh khu vực. Chúng trông thấy
gần như toàn bộ Trại Súc Vật - bãi chăn thả kéo dài đến tận con đường
chính, đồng trồng cỏ, rừng cây, bể nước, cánh đồng trồng trọt với những
cây lúa mì đang lên xanh tốt và mái ngói của những ngôi nhà trong trang
trại với những vệt khói ngoằn ngoèo. Đấy là một buổi chiều mùa xuân,
trời quang mây tạnh. Ánh chiều tà đổ vàng trên thảm cỏ và trên những bờ
dậu phía xa xa. Chúng ngạc nhiên nhớ lại rằng trang trại này là của
chúng, mỗi thước đất ở đây đều là tài sản của chúng, mỗi thước đất đều
đáng quí xiết bao. Bà Mập nhìn ra xa, mắt đẫm lệ. Nếu có thể nói hết
được những điều nó nghĩ thì chắc chắn nó sẽ nói rằng đấy không phải là
điều chúng định làm khi chúng quyết định lật đổ ách thống trị của giống
người. Trong cái đêm Thủ Lĩnh già kêu gọi chúng khởi nghĩa, chúng không
thể nào tưởng tượng lại có cảnh khủng bố và giết hại hàng loạt như ngày
hôm nay. Nếu lúc đó nó có nghĩ về tương lai thì đấy phải là một xã hội
của những con vật không còn bị đói, không còn bị đòn roi, tất cà đều
bình đẳng, tất cả đều làm việc theo năng lực, con khoẻ bảo vệ con yếu,
như nó từng bảo vệ lũ vịt con mồ côi trong cái đêm Thủ Lĩnh già nói
chuyện đó. Thế mà, nó không thể hiểu vì sao, giờ đây không con nào còn
dám nói lên ý nghĩ thật của mình nữa, lũ chó săn hung dữ lùng sục khắp
nơi và tất cả phải chứng kiến cảnh giết hại các đồng chí sau khi những
con này thú nhận đã phạm những tội ác tày trời. Nhưng trong đầu nó không
hề có một ý nghĩ bất tuân hay tạo phản nào. Dù sao chúng vẫn sướng hơn
thời còn lão Jones và điều chính yếu là phải ngăn chặn con người quay
trở lại. Dù thế nào thì nó cũng vẫn trung thành với sự nghiệp, tiếp tục
lao động quên mình, hoàn thành mọi nhiệm vụ, tiếp tục đi theo con đường
mà Napoleon đã chọn. Nhưng chả lẽ đấy chính là điều chúng hằng ao ước,
là cái chúng đã khổ công mới tạo dựng được? Không, chúng xây cối xay gió
với một mục đích hoàn toàn khác, cuộc chiến đấu sống còn với lão Jones
cũng là để tạo dựng một xã hội khác hẳn cái mà chúng nhận được ngày hôm
nay. Đấy là những ý nghĩ lướt qua đầu Bà Mập, nhưng nó không thể nói
thành lời.
Không thể tìm được lời để nói, Bà Mập đành hát bài " Súc Sinh Anh quốc",
đấy cũng là một cách thể hiện những tình cảm đang cuộn dâng trong lòng.
Các con khác lập tức hát theo. Chúng hát ba lần, tiếng hát du dương,
chậm và buồn; chưa bao giờ chúng hát như thế.
Khi chúng vừa hát xong lần thứ ba thì Chỉ Điểm, có hai con chó hộ tống,
tiến lại. Cứ trông dáng chúng là biết ngay có tin quan trọng cần phải
thông báo gấp. Nó tuyên bố rằng bài "Súc Sinh Anh quốc" đã bị hủy bỏ
theo một nghị định đặc biệt của Đồng chí Napoleon. Từ nay trở đi cấm
không con nào được hát bài đó nữa.
Các con vật đều ngớ ra.
"Tại sao?", Muriel hỏi.
"Thưa các đồng chí, bài hát này đã lỗi thời rồi", Chỉ Điểm lạnh lùng
nói, "Bài "Súc Sinh Anh quốc" là bài hát kêu gọi khởi nghĩa. Cuộc khởi
nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn. Vụ hành quyết chiều nay chính là trận cuối
cùng đấy. Kẻ thù, cả bên trong lẫn bên ngoài đều đã bị đánh bại. Bài
"Súc Sinh Anh quốc" nói lên ước mơ của chúng ta về một xã hội tốt đẹp
hơn trong tương lai. Xã hội đó đã xây dựng xong. Bài hát này rõ ràng là
không còn cần thiết nữa."
Dù đã rất hoảng sợ, nhưng chắc chắn sẽ có con đứng lên phản đối nếu như
lúc đó lũ cừu không tụng ngay như thường lệ: "Bốn chân tốt, hai chân
xấu", chúng tụng liền mấy phút thành ra không con nào còn có ý kiến gì
được nữa.
Không con nào còn hát "Súc Sinh Anh quốc" nữa. Thay vào đó, Kế Tục, một
thi sĩ mới nổi, đã viết một bài hát khác, bắt đầu như sau:
Súc Vật Trại này, Súc Vật Trại này
Kẻ thù đến sẽ tan thây.
Từ đó trở đi bao giờ chúng cũng hát bài này sau lễ kéo cờ vào các sáng
chủ nhật hàng tuần. Nhưng lũ súc vật cho rằng cả nhạc điệu lẫn lời bài
mới đều không hay bằng bài "Súc Sinh Anh quốc" trước đây.
Chương VIII
Vài ngày sau, khi nỗi sợ hãi do vụ thảm sát tạo ra đã lắng xuống thì có
mấy con đã nhớ được, hay tưởng là nhớ được rằng Điều Răn Thứ Sáu nói:
"Loài vật không được giết hại lẫn nhau". Dù không dám nói ra khi đứng
gần lũ chó và lợn, nhưng cả bọn đều cho là những vụ giết chóc vừa qua
không phù hợp với Điều Răn Thứ Sáu. Bà Mập yêu cầu Benjamin đọc cho nghe
Điều Răn Thứ Sáu, nhưng cũng như mọi khi, Benjamin bảo rằng nó không
dây vào những chuyện như vậy. Bà Mập đành đi tìm Muriel để nhờ đọc. Điều
ấy được viết như sau: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau nếu không
có lí do". Hoá ra là chúng đã quên mấy từ cuối. Nhưng như vậy là Điều
Răn này vẫn được tôn trọng, những tên phản bội liên kết với Tuyết Tròn
đáng bị giết quá đi chứ.
Năm nay chúng còn làm việc vất vả hơn năm trước rất nhiều. Ngoài những
công việc thường nhật của trang trại, chúng còn phải xây dựng lại cối
xay gió với những bức tường dày gấp đôi, mà lại phải hoàn thành đúng kế
họach. Có những lúc chúng thấy phải làm nhiều hơn mà lại được ăn không
khác gì thời còn ông Jones. Sáng chủ nhật nào Chỉ Điểm cũng cầm một mảnh
giấy dài và đọc cho chúng nghe các số liệu chứng minh rằng sản lượng
các loại lương thực, thực phẩm đều tăng, khi thì hai trăm, khi thì ba
trăm, khi thì năm trăm phần trăm. Chúng chẳng thấy có lí do gì để nghi
ngờ, nhất là vì chúng đã quên, chẳng còn nhớ gì quá khứ trước ngày Khởi
Nghĩa nữa. Tuy thế, đôi khi chúng thấy thà số liệu ít đi mà thức ăn
nhiều thêm thì vẫn hơn.
Mọi mệnh lệnh bây giờ đều được Chỉ Điểm hay một con lợn khác đưa xuống.
Napoleon chỉ xuất hiện nửa tháng một lần. Mỗi lần nó xuất hiện thì ngoài
bầy chó hộ tống còn có một con gà trống màu đen đi trước, giống như
lính thổi kèn trong đội kị binh, con gà này bao giờ cũng gáy "Ò ó o…"
thật to trước khi Napoleon hắng giọng bắt đầu bài diễn văn. Có tin nói
rằng ngay trong ngôi nhà chính Napoleon cũng có một phòng riêng, tách
biệt hẳn với những con lợn khác. Nó ăn riêng, khi ăn bao giờ cũng có hai
con chó đứng hầu, bát đĩa đều bằng sứ, trước đây, hồi còn ông Jones
những thứ này vốn để trong tủ phòng khách và chỉ đem ra dùng trong những
ngày lễ trọng. Có thêm một quyết định mới là từ nay sẽ bắn súng chào
mừng ba lần, một lần vào ngày sinh của Napoleon và hai lần khác vào
những ngày lễ lớn của trại.
Bây giờ chúng không xưng hô với Napoleon đơn giản như trước nữa. Tên nó
luôn đi kèm với những từ như "Lãnh tụ của chúng ta, Đồng chí Napoleon",
lũ lợn còn cố gắng phát minh ra các tên mới như: Cha của các loài vật,
Nỗi khiếp sợ của giống người, Người bảo vệ của loài cừu, Bạn của loài
vịt v.v... Mỗi khi nói về trí tuệ, lòng nhân từ, tình yêu thương sâu như
trời biển của Napoleon dành cho súc vật, đặc biệt là những con còn phải
sống trong vòng nô lệ tối tăm của các trang trại khác là nước mắt Chỉ
Điểm lại chảy ướt đẫm hai gò má. Mọi thành tích đều được qui về cho
Napoleon. Có thể nghe thấy hai con gà mái tâm sự: "Dưới sự dẫn dắt của
Đồng chí Napoleon, Lãnh tụ của chúng ta, tôi đã đẻ được năm quả trứng
trong sáu ngày vừa rồi"; hay hai con bò vừa uống nước vừa nói: "Nhờ sự
lãnh đạo sáng suốt của đồng chí Napoleon mà nước dạo này mới ngọt làm
sao!". Tâm trạng chung của trại được thể hiện trong bài thơ mang tên:
"Đồng chí Napoleon" do Kế Tục sáng tác:
Đồng chí Napoleon!
Người là cha của những đứa trẻ mồ côi,
Là suối nguồn hạnh phúc muôn đời,
Là vầng thái dương chiếu sáng bầu trời.
Ánh mắt người ấm mãi lòng tôi.
Đồng chí Napoleon!
Người cho tôi bữa ăn lúc đói lòng.
Người cho tôi nệm rơm ấm mùa đông.
Người ngồi canh,
Cho bầy con giấc ngủ yên lành.
Con ơi!
Hạnh phúc muôn đời,
Là nhờ Đồng chí Napoleon.
Tên cha tên mẹ tên chồng,
Con có thể quên.
Nhưng tên người,
Vầng thái dương chiếu sáng đời đời
Con phải nhớ mãi không thôi:
Napoleon, Napoleon, người ơi!
Napoleon chấp nhận bài thơ và bảo viết lên bức tường nhà kho lớn, bên
cạnh Bảy Điều Răn. Bên trên bài thơ là hình Napoleon nhìn nghiêng do Chỉ
Điểm vẽ bằng sơn trắng.
Trong khi đó, Napoleon, qua trung gian là Whymper, đang tiến hành những
cuộc đàm phán rắc rối với Frederick và Pilkington. Vẫn chưa bán được
đống gỗ. Frederick muốn mua lắm, nhưng lại trả giá quá thấp. Đồng thời
lại có tin đồn rằng Frederick và lũ gia nhân đang âm mưu tấn công Trại
Súc Vật để phá cối xay gió vì lão ghét cay ghét đắng ngôi nhà này. Nghe
nói Tuyết Tròn vẫn đang trốn trong Trại Keo. Đến giữa mùa hè thì lũ súc
vật lại được một phen hoảng loạn khi nghe đồn có ba con gà tự thú đã bị
Tuyết Tròn xúi giục mưu sát Napoleon. Chúng bị hành quyết ngay lập tức
và các biện pháp an ninh nghiêm ngặt hơn cho Napoleon đã được thực hiện.
Từ nay trở đi, ban đêm sẽ có bốn con chó, mỗi con canh một góc giường,
đồng thời để tránh bị đầu độc, một con chó tên là Pinkeye được phân công
nếm tất cả thức ăn trước khi Napoleon dùng.
Cũng khoảng thời gian đó có tin Napoleon đã quyết định bán gỗ cho
Pilkington; hơn thế, nó còn dự định sẽ thiết lập việc trao đổi sản phẩm
thường xuyên giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo nữa. Quan hệ giữa Napoleon và
Pilkington, dù chỉ mới qua trung gian là Whymper, đã trở nên khá thân
tình. Pilkington, cũng như mọi người nói chung, chẳng bao giờ được lũ
súc vật tin, nhưng dù sao thì chúng cũng thích hơn Frederick là người
chúng vừa ghét vừa sợ. Càng đến cuối mùa hè, khi mà cối xay gió đã sắp
xong, thì tin đồn về cuộc tấn công phản trắc càng tăng. Có người nói
rằng Frederick dự định dùng đội quân gồm hai mươi người đầy đủ súng ống
để tấn công và đã mua chuộc chính quyền cũng như cảnh sát để được tự do
hành sự. Ngoài ra, tin tức về những việc làm thất đức của hắn đối với
các con vật trong Trại Keo cũng được tiết lộ. Hắn đánh đến chết một con
ngựa già, hắn bỏ đói bầy bò, hắn ném một con chó vào bếp lò, chiều nào
hắn cũng kích động cho bọn gà trống đá nhau, mà không đá nhau suông, hắn
còn buộc dao cạo râu vào cựa gà để tìm cảm giác mạnh nữa. Khi nghe nói
các đồng chí của mình bị đối xử một cách man rợ như vậy thì máu con nào
cũng sôi lên vì giận, đôi khi chúng thét lên đòi kéo nhau đi tấn công
Trại Keo, đuổi cổ giống người đi, giành lại tự do cho lũ súc vật ở đó.
Nhưng Chỉ Điểm khuyên chúng tránh hành động một cách nóng vội và hãy tin
tưởng vào đường lối chiến lược của Đồng chí Napoleon.
Lòng căm thù đối với Frederick tăng lên từng ngày. Một hôm, vào ngày chủ
nhật, Napoleon xuất hiện trong nhà kho để giải thích cho lũ súc vật là
nó chưa bao giờ nghĩ sẽ bán gỗ cho Frederick, nó bảo những loại như vậy
không xứng đáng để nó giao tiếp. Những con bồ câu vẫn được phái đi kêu
gọi súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa bị cấm không được
lai vãng đến gần Trại Cáo, khẩu hiệu: "Đả đảo loài người!" được thay
bằng: "Đả đảo Frederick!". Đến cuối mùa hè thì một tội ác nữa của Tuyết
Tròn được phát hiện. Lần này là cánh đồng lúa mì mọc đầy cỏ dại - sau
khi điều tra mới phát hiện ra rằng ban đêm Tuyết Tròn đã lẻn vào trại
rồi trộn hạt cỏ vào thóc giống. Một con ngỗng đực đồng phạm trong vụ này
đã thú nhận tội lỗi với Chỉ Điểm và sau đó nuốt ngay một quả cà độc
dược tự sát. Lũ súc vật còn được thông báo rằng, không phải như nhiều
con vẫn tin, Tuyết Tròn chưa bao giờ được phong danh hiệu Súc vật Anh
hùng bậc I. Chuyện ấy là do chính Tuyết Tròn bịa ra ngay sau chiến dịch
Chuồng bò. Nó không những không được khen thưởng mà con bị phê phán nặng
nề vì đã tỏ ra hèn nhát khi lâm trận. Cũng như mọi khi, tin này làm một
số con bối rối, nhưng Chỉ Điểm đã nhanh chóng thuyết phục được chúng
rằng thực ra là do chúng mau quên mà thôi.
Cối xay gió được xây dựng xong vào mùa thu, đúng vào lúc thu hoạch vụ
mùa, chúng đã phải làm việc đến kiệt sức. Dù còn phải lắp thiết bị nữa,
Whymper đang đàm phán để mua, nhưng cái chính là đã xây xong nhà xưởng
rồi. Biết bao nhiêu khó khăn, chưa có kĩ thuật và kinh nghiệm, lại còn
bị Tuyết Tròn phá hoại, thế mà chúng vẫn hoàn thành công tác xây dựng
đúng ngày giờ đã định! Dù rất mệt mỏi, lũ súc vật vẫn cố đi nhiều vòng
quanh cối xay gió, lòng đầy tự hào, lúc này trông nó còn đẹp hơn lần xây
đầu tiên. Đấy là chưa nói tường lần này dày gấp đôi lần trước. Bây giờ
muốn phá mà không có thuốc nổ không xong! Và khi chúng nghĩ đến khối
lượng công việc đã làm, những khó khăn đã vượt qua, những đổi thay sẽ
tới khi cách quạt cối xay gió bắt đầu quay, khi máy phát điện bắt đầu
chạy; khi chúng nghĩ đến những chuyện đó thì bao nhiêu mệt mỏi đều tan
biến, chúng cùng nhau chạy vòng quanh cối xay gió, vừa chạy vừa reo hò
ầm ĩ. Chính Napoleon, được mấy con chó và con gà trống hộ tống, cũng tới
xem, nó chúc mừng cả lũ nhân dịp hoàn thành công trình và tuyên bố sẽ
đặt tên công trình là Nhà máy Napoleon.
Hai ngày sau, lũ súc vật được mời tới dự một phiên họp đặc biệt trong
nhà kho. Chúng không thể nào tin được khi nghe Napoleon nói đã bán gỗ
cho Frederick. Ngày mai xe của Frederick sẽ tới chở. Hoá ra thời gian
qua Napoleon giả vờ thân thiện với Pilkington nhưng lại bí mật đàm phán
với Frederick.
Mọi quan hệ với Trại Cáo đều bị cắt, một công hàm chứa đầy các từ ngữ có
tính xúc phạm được gửi cho Pilkington. Đám bồ câu được lệnh tránh Trại
Keo và thay khẩu hiệu "Đả đảo Frederick" thành "Đả đảo Pilkington". Đồng
thời Napoleon cũng cam đoan với lũ súc vật rằng lời đồn về vụ tấn công
Trại Súc Vật là hoàn toàn vô căn cứ, cũng như việc Frederick đối xử tàn
tệ với gia súc đã bị thổi phồng quá đáng. Chắc là Tuyết Tròn và tay sai
đã tung ra các tin này. Hoá ra là Tuyết Tròn không những không trốn
trong Trại Keo mà còn chưa bao giờ đến đấy nữa, thực ra là nó đang sống,
theo người ta nói, thì khá sung túc trong Trại Cáo: nó đã bán mình cho
Pilkington từ lâu.
Lũ lợn được dịp đưa Napoleon lên chín tầng mây. Giả vờ thân thiện với
Pilkington, nó đã buộc Frederick phải trả thêm hai mươi bảng. Chỉ Điểm
còn nói rằng Napoleon là một con heo siêu quần vì nó không bao giờ tin
ai, không tin bất cứ con nào, không tin cả Frederick. Frederick muốn
thanh toán bằng sec, nghĩa là bằng một tờ giấy có ghi rõ số tiền có thể
nhận khi cần. Nhưng Napoleon tỏ ra khôn hơn hắn ta nhiều. Nó đòi thanh
toán bằng tiền mặt, loại năm bảng, mà phải trả đủ tiền thì mới được mang
gỗ đi. Frederick đã thanh toán hết, số tiền này đủ mua toàn bộ thiết bị
cho cối xay gió.
Gỗ được chuyển đi khá nhanh. Khi số gỗ trong sân đã được đưa đi hết thì
lũ súc vật lại được mời tham gia một cuộc họp đặc biệt để cùng kiểm tra
số tiền do Frederick giao. Napoleon, ngực đeo hai tấm huy chương, miệng
cười rất tươi, nằm ngả người trên nệm rơm, bên cạnh là cái đĩa sứ chất
đầy những tập tiền mới cứng. Lũ súc vật lần lượt đi ngang qua, tha hồ
ngắm nghía. Chiến Sĩ còn đưa mũi hít, những tờ giấy mới khẽ rung lên và
phát ra tiếng kêu loạt xoạt.
Ba ngày sau thì xảy ra một vụ náo loạn. Hôm đó, Whymper, mặt trắng bệch
như người sắp chết, phóng xe đạp như điên vào sân trại, vừa tới nơi đã
quẳng xe xuống đất rồi vội vàng lao vào toà nhà chính. Gần như ngay lập
tức người ta nghe thấy tiếng thét kinh hoàng phát ra từ phòng Napoleon.
Tin tức truyền khắp trại nhanh như lửa chớp. Tiền do Frederick thanh
toán là giả hết! Hắn đã ăn không số gỗ rồi!
Napoleon lập tức hạ lệnh tập trung và tuyên bố kết án tử hình Frederick.
Thằng ấy đáng bị thiêu sống - nó bảo như vậy. Đồng thời nó cũng nói
phải chuẩn bị tinh thần để đối phó với những tình huống xấu nhất.
Frederick và gia nhân của hắn có thể tấn công bất cứ lúc nào. Phải cử
lính canh trên mọi ngả đường dẫn vào trại. Ngoài ra, nó còn cử bốn con
bồ câu mang theo thông điệp hữu hảo sang Trại Cáo để mong bình thường
hóa quan hệ.
Ngay sáng hôm sau Frederick đã tổ chức tấn công. Lũ súc vật đang chuẩn
bị ăn sáng thì con canh gác chạy vào báo rằng Frederick cùng gia nhân đã
vượt qua cổng chính của trại. Không lưỡng lự, lũ súc vật lập tức xông
lên, nhưng lần này chúng phải chiến đấu vất vả hơn chiến dịch Chuồng bò
nhiều. Cả thảy có mười lăm người với khoảng nửa tá súng, ngay từ xa hơn
một trăm mét họ đã nổ súng rồi. Tiếng súng vang lên đinh tai nhức óc,
đạn ghém vãi như trấu, lũ súc vật không ngờ cuộc chiến lại dữ dội đến
như thế nên mặc dù Napoleon và Chiến Sĩ ra sức động viện, chúng vẫn lùi
dần. Một số con đã bị thương. Chúng chạy vào nấp trong các toà nhà rồi
ghé mắt nhìn qua các lỗ thủng trên tường. Toàn bộ bãi chăn thả lớn, kể
cả cối xay gió đã lọt vào tay địch quân. Ngay cả Napoleon cũng tỏ ra bối
rối. Nó yên lặng đi đi lại lại, cái đuôi xoắn cứ đập hết bên này sang
bên kia. Thỉnh thoảng nó lại nhìn về hướng Trại Cáo. Nếu Pilkington mang
quân tiếp viện tới thì may ra mới có thể đánh đuổi được địch quân.
Nhưng đúng lúc đó thì bốn con bồ câu được phái đi trước đó một ngày đã
quay về. Một con ngậm miếng giấy trên ghi hai chữ "Đáng kiếp".
Trong khi đó, Frederick và gia nhân đã tiến gần đến cối xay gió. Lũ súc
vật chăm chú theo dõi, tiếng thì thầm lo lắng bắt đầu nổi lên. Có hai
người mang búa và xà beng tới. Chắc là họ định phá cối xay gió.
"Không xong đâu!", Napoleon gào lên, "Tường cối xay gió dày lắm, chúng
không làm gì được đâu. Phải mất cả tuần là ít. Cứ bình tĩnh, các đồng
chí!"
Nhưng Benjamin vẫn không rời mắt khỏi mọi động tĩnh. Hai người đang dùng
búa và xà beng đào một cái hố ngay dưới chân tường cối xay gió.
Benjamin gật gù cái mõm dài ngoằng, có vẻ như nó còn cảm thấy thú vị
nữa.
"Tôi vẫn nghĩ như thế", nó bảo, "các vị có biết chúng đang làm gì không? Chúng sẽ cho thuốc nổ vào hố đấy."
Lũ súc vật sợ hãi chờ đợi. Không con nào dám liều mạng xông ra. Rồi
chúng thấy bọn người chạy tản ra tứ phía. Một tiếng nổ đinh tai nhức óc
vang lên. Lũ bồ câu bay vọt lên, còn các con khác, trừ Napoleon thì vội
nằm bẹp xuống, mặt dúi xuống đất. Khi ngẩng đầu lên thì chúng thấy một
đám khói đen còn trùm lên khu vực cối xay gió. Khói tan dần. Cối xay gió
đã bị đánh sập hoàn toàn!
Cảnh tượng làm lũ súc vật lập tức tỉnh ngộ. Hành động tàn bạo, bất lương
đó làm cho chúng vô cùng tức giận. Không cần mệnh lệnh, chúng đồng loạt
lao lên, xông thẳng vào địch quân, miệng gầm lên những tiếng thét căm
hận đòi trả thù. Đạn ghém vãi như mưa trên lưng cũng không làm chúng nao
núng. Chúng sẵn sàng hi sinh tất cả. Frederick và gia nhân bắn liên hồi
kì trận và khi lũ súc vật đến gần thì dùng gậy đánh, chân đá. Một con
bò, ba con cừu, hai con ngỗng bị giết, hầu như con nào cũng bị thương.
Napoleon, đứng đằng sau chỉ huy cũng bị đạn bắn vào đuôi. Nhưng một số
gia nhân của Frederick cũng bị sứt đầu mẻ trán. Ba người bị Chiến Sĩ đạp
vỡ đầu, một người bị bò húc thủng bụng, một người nữa bị chó cắn rách
quần. Khi chín con chó thuộc đội cận vệ của Napoleon được lệnh bọc sườn
và vừa sủa vừa lao vào tấn công thì lũ người hoảng loạn. Họ hiểu rằng
sắp bị bao vây. Frederick hạ lệnh rút lui, thế là địch quân hốt hoảng bỏ
chạy. Lũ súc vật đuổi theo đến tận sát biên giới và tiếp tục húc vào
mông người khi họ chui qua lỗ hàng rào ngăn cách hai trại.
Chúng đã thắng, nhưng chúng cũng đã kiệt sức vì mệt và bị thương. Chúng
từ từ quay trở về trang trại. Cảnh hi sinh của đồng đội làm chúng cảm
động đến trào nước mắt. Chúng đứng lặng bên cạnh đống xà bần của cối xay
gió. Cối xay gió không còn, bao nhiêu công sức đã bị xoá sạch! Ngay cả
móng cũng bị phá hỏng gần hết. Lần trước, khi xây lại, chúng còn có thể
sử dụng những viên đá cũ. Bây giờ thì đá cũng không còn. Vụ nổ đã làm đá
bắn vung vãi khắp nơi, xa đến cả trăm mét.
Khi chúng về gần đến trang trại thì Chỉ Điểm, không con nào nhìn thấy nó
khi lâm trận, bỗng ở đâu tiến lại, đuôi vẫy nhặng lên có vẻ rất hài
lòng. Lũ súc vật nghe thấy tiếng súng.
"Sao lại bắn súng thế nhỉ?", Chiến Sĩ hỏi
"Để chào mừng chiến thắng", Chỉ Điểm gào lên.
"Chiến thắng nào?", Chiến Sĩ lại nói. Các đầu gối của nó đều bị rách,
móng sắt thì bị tuột, bàn chân cũng bị thương, hai chân sau còn dính
hàng chục mảnh đạn.
"Sao lại chiến thắng nào, thưa các đồng chí? Không phải là chúng ta vừa
giải phóng đất đai, đất đai thiêng liêng của Trại Súc Vật của chúng ta
đấy ư?"
"Nhưng chúng đã đánh sập cối xay gió, hai năm xây dựng chứ có ít đâu!"
"Thế thì đã sao? Chúng ta sẽ xây cái khác. Nếu muốn chúng ta có thể xây
sáu cái một lúc. Có thể đồng chí chưa đánh giá hết chiến công vĩ đại vừa
rồi của chúng ta. Kẻ thù đã chiếm được chính mảnh đất mà chúng ta đang
đứng đây. Bây giờ, nhờ sự lãnh đạo của đồng chí Napoleon, chúng ta đã
giành lại được từng tấc đất của chúng ta."
"Chúng ta giành lại chính đất của mình", Chiến Sĩ nói.
"Đấy chính là chiến thắng chứ còn gì nữa", Chỉ Điểm bảo.
Cuối cùng chúng cũng lê được về đến sân trại. Những mảnh đạn còn nằm
trong chân Chiến Sĩ nhức nhối không thể chịu nổi. Nó đã mường tượng được
những nỗi cực nhọc, vất vả của quá trình xây dựng lại từ đầu cối xay
gió và trong thâm tâm đã sẵn sàng lao vào công việc. Nhưng đây cũng là
lần đầu tiên nó ý thức được rằng nó đã mười một tuổi rồi, sức vóc không
còn được như mọi năm nữa.
Nhưng khi nhìn thấy lá cờ xanh đang tung bay, nghe thấy loạt súng chào
mừng, hôm đó bắn những bảy loạt và nhất là sau khi nghe Napoleon cám ơn
vì đã dũng cảm chiến đấu thì chúng thực sự cảm thấy vừa giành được một
chiến thắng vĩ đại. Những con hi sinh được chôn cất chu đáo. Đoàn đưa
tang do chính Napoleon dẫn đầu, phía sau là một chiếc xe song mã được
dùng làm xe tang do Chiến Sĩ và Bà Mập kéo. Chúng nghỉ việc hai ngày
liền để mừng chiến thắng. Chúng tổ chức hát, đọc diễn văn chào mừng và
bắn súng; mỗi con gia súc được phát một quả táo, mỗi con gia cầm được
sáu mươi gram thóc, mỗi con chó được ba cái bánh xốp. Sau đó có thông
báo rằng trận đánh này được gọi là chiến dịch Cối xay gió, Napoleon
quyết định thiết lập một danh hiệu mới gọi là "Huân chương cờ xanh" và
gắn cho chính mình. Trong niềm vui chung dạt dào đó, không con nào còn
nghĩ đến vụ tiền giả vừa rồi nữa.
Sau đó mấy ngày thì lũ lợn phát hiện được một thùng whisky trong tầng
hầm của ngôi nhà chính. Chiều hôm đó những con khác bỗng nghe thấy tiếng
hát vọng ra từ ngôi nhà chính và điều làm chúng ngạc nhiên hơn nữa là
có cả những đoạn của bài "Súc Sinh Anh Quốc". Rồi vào khoảng chín giờ
rưỡi, lúc đó trời vẫn còn sáng, chúng thấy Napoleon chui ra khỏi cửa
sau, đầu đội chiếc mũ phớt cũ của ông Jones, nó chạy nước kiệu quanh sân
một vòng rồi đi vào. Sáng hôm sau một không khí im lặng bao trùm cả toà
nhà chính. Không thấy một con lợn nào hay bất cứ động tĩnh gì xung
quanh toà nhà. Mãi đến khoảng chín giờ Chỉ Điểm mới xuất hiện, mắt cu
cậu trông đờ dẫn, đuôi buông thõng, chân bước uể oải, rõ là đang mệt
nặng. Nó gọi tất cả lại và nói có một tin quan trọng cần phải thông báo.
Đồng chí Napoleon đang hấp hối!
Tiếng gào khóc dậy lên. Chúng vội mang rơm đến trải xuống trước cửa ngôi
nhà chính, không con nào dám bước mạnh. Nước mắt lưng tròng, chúng thì
thầm hỏi nhau sẽ làm gì nếu như chẳng may lãnh tụ có mệnh hệ nào. Có tin
đồn Tuyết Tròn đã đầu độc Napoleon. Mười một giờ Chỉ Điểm lại xuất
hiện. Chỉ Điểm bảo rằng trước khi từ gĩa cõi đời, đồng chi Napoleon đã
kí một nghị định, từ nay con nào uống rượu thì sẽ bị kết án tử hình.
Đến chiều có tin Napoleon đã đỡ và sáng hôm sau thì Chỉ Điểm thông báo
rằng lãnh tụ đang bình phục. Chiều hôm đó Napoleon đã ngồi dậy làm việc
và sáng hôm sau thì có tin là nó đã hạ lệnh cho Whymper mua ở Willingdon
mấy cuốn sách dạy cất rượu bia. Một tuần sau Napoleon ra lệnh cày đám
đất trước đây định dành làm bãi cỏ cho những con về hưu. Lũ súc vật được
nghe giải thích rằng miếng đất ấy cằn cỗi quá, phải trồng cấy một thời
gian để lấy màu, nhưng sau này mới rõ là Napoleon định trồng lúa mạch ở
đó.
Cũng khoảng thời gian này đã xảy ra một sự kiện mà hầu như không con nào
hiểu. Hôm ấy, đã gần nửa đêm, bỗng có tiếng động lớn vang lên ở ngoài
sân, tất cả đều lao ra khỏi chuồng. Trăng hôm đó rất tỏ, cả bọn nhìn
thấy gần đầu hồi nhà kho lớn, nơi có chép "Bảy Điều Răn", một cái thang
gãy làm đôi. Gần đấy là Chỉ Điểm, lúc đó đã bất tỉnh nhân sự, cái đèn
bão cùng một hộp sơn màu trắng lăn lóc bên cạnh. Mấy con chó lập tức
đứng thành vòng tròn xung quanh Chỉ Điểm và dìu nó về nhà chính khi nó
vừa gượng dậy được. Có vẻ như ngoài Benjamin ra thì không con nào hiểu
đã xảy ra chuyện gì, nhưng nó chỉ lắc đầu, không nói câu nào.
Mấy ngày sau, Muriel, trong khi đọc lại Bảy Điều Răn đã phát hiện ra
chúng còn nhớ sai một điều nữa. Chúng tưởng rằng Điều răn thứ năm là
"Không con vật nào được uống rượu", nhưng chúng đã quên mất ba từ. Thực
ra Điều Răn đó như sau: "Không con vật nào được uống rượu đến say xỉn"
Chương IX
Cái móng bị thương của Chiến Sĩ chữa mãi vẫn không khỏi. Trong khi đó lũ
súc vật tiến hành khôi phục cối xay gió ngay sau lễ mừng chiến thắng.
Chiến Sĩ không nghỉ ngày nào, nó rất tự hào là đã không để cho những con
khác thấy nó đang bị đau. Chỉ đến tối nó mới bảo với Bà Mập là bị vết
thương hành hạ. Bà Mập phải nhai lá cây và đắp vào vết thương cho Chiến
Sĩ. Nó cùng với Benjamin thuyết phục Chiến Sĩ hãy tự bảo trọng.
"Phổi loài ngựa không được khoẻ đâu", Nó nói.
Nhưng Chiến Sĩ không nghe. Nó bảo chỉ có một ước nguyện duy nhất là được
trông thấy cối xay gió hoàn thành trước khi nghỉ hưu mà thôi.
Ngay từ khi mới thiết lập luật lệ của Trại Súc Vật, đã có qui định tuổi
nghỉ hưu của ngựa và lợn là mười hai, của bò là mười bốn, của chó là
chín, của cừu là bảy, còn của gà là năm. Chúng cũng đã thống nhất là sẽ
không để cho những con về hưu phải thiếu thốn bất cứ thứ gì. Thực ra thì
cho đến nay cũng chưa có con nào nghỉ hưu cả, nhưng thời gian gần đây
vấn đề này rất hay được đem ra bàn thảo. Bây giờ, khi miếng đất cạnh khu
vườn được đem đi trồng lúa mạch rồi thì lại có tin là một góc bãi cỏ
dài sẽ được rào riêng ra cho những con già cả. Cũng có tin nói rằng ngựa
hưu sẽ được lĩnh hai cân ngũ cốc mỗi ngày, đấy là mùa hè, còn mùa đông
thì được bảy cân cỏ khô, ngày lễ thì còn được phát thêm một củ cà rốt
hay một quả táo nữa. Sang năm Chiến Sĩ sẽ tròn mười hai tuổi.
Hiện nay đời sống của chúng phải nói là khá chật vật. Mùa đông năm nay
lạnh không khác gì năm trước mà thực phẩm thì khan hiếm hơn. Khẩu phần,
trừ của chó và lợn, đều bị cắt bớt. Tuyệt đối bình quân, Chỉ Điểm giải
thích, là trái với nguyên tắc của Súc Sinh Kinh. Nó dễ dàng chứng minh
cho những con khác thấy rằng thực ra là chúng có đủ lương thực, khan
hiếm thực phẩm chỉ là giả tạo. Dĩ nhiên là lúc này cần phải có một sự
điều chỉnh nhất định (Chỉ Điểm nói là "điều chỉnh" chứ không phải "cắt
bớt") nhưng nếu so với thời còn lão Jones thì sự cải thiện là rõ ràng.
Bằng một giọng đọc nhanh và the thé chói tai, nó đưa ra những con số rất
cụ thể, chứng minh rằng chúng thu được nhiều yến mạch, nhiều cỏ khô,
nhiều củ cải hơn thời còn lão Jones, công việc lại nhẹ nhàng hơn, nước
uống có chất lượng cao hơn, chúng sống lâu hơn, tỉ lệ trẻ sơ sinh sống
sót cao hơn, chúng có nhiều rơm làm nệm hơn, ít chấy rận hơn. Mọi con
đều tin như thế. Thực ra mà nói thì chúng cũng đã quên gần hết những
chuyện thời ông Jones rồi. Chúng chỉ biết rằng cuộc sống hiện nay rất
khó khăn, vất vả, chúng thường bị đói, bị rét và hễ mở mắt ra là chúng
phải làm. Trước đây chắc là còn khó khăn nữa. Chúng vui lòng tin như
thế. Ngoài ra, quan trọng hơn nữa là trước đây chúng là nô lệ, bây giờ
chúng được tự do, Chỉ Điểm luôn nhấn mạnh như vậy.
Nhân khẩu ngày một tăng. Mùa thu vừa rồi có bốn chị lợn nằm ổ cùng một
lúc, chúng sinh được những ba mươi mốt con cả thảy. Tất cả đều là lợn
khoang, cả trại chỉ có một mình Napoleon là lợn giống nên có thể đoán
ngay được chúng là con ai. Toàn trại được thông báo rằng hiện đang tiến
hành mua gạch và gỗ, khi nào mua được thì sẽ xây lớp học. Còn hiện thời
thì lũ lợn con sẽ được giao cho Napoleon dạy dỗ trong khu nhà bếp. Lũ
lợn con được đưa ra vườn chơi nhưng bị cấm tiếp xúc với bọn thú con khác
loài. Một điều luật mới cũng được đưa ra trong khoảng thời gian này, ấy
là khi gặp nhau thì tất cả phải đứng sang bên, nhường đường cho lợn đi
trước; đồng thời, giống lợn, không phân biệt chức vụ được đeo băng xanh ở
đuôi vào các ngày chủ nhật.
Năm nay là một năm khá thành công, nhưng tiền thì vẫn thiếu. Còn phải
mua gạch, vôi và cát để xây trường học; lại còn phải tiết kiệm để mua
máy móc cho cối xay gió nữa. Rồi phải mua dầu thắp, nến và đường cho
riêng Napoleon (nó cấm những con lợn khác ăn đường vì sợ chúng sẽ bị
tăng trọng) và bao nhiêu thứ khác như dụng cụ, đinh, dây thừng, than,
dây thép, tấm lợp và bánh bích qui cho chó nữa. Phải bán một phần cỏ khô
và khoai tây, hợp đồng bán trứng gà đã tăng lên đến sáu trăm quả mỗi
tuần, thành thử số gà gần như không tăng, nếu không nói là giảm vì số
trứng chúng để lại ấp quá ít. Tháng mười hai đã giảm khẩu phần một lần,
tháng hai lại bị giảm một lần nữa và để tiết kiệm, từ nay ban đêm không
được thắp đèn trong chuồng nữa. Nhưng lũ lợn có vẻ như vẫn sống khoẻ,
chí ít con nào cũng lên cân. Một lần, vào buổi chiều tháng hai, trong
khu sân trại bỗng có một mùi thơm nồng, lũ súc vật chưa từng ngửi thấy
mùi này bao giờ. Hoá ra mùi ấy xuất phát từ cái nhà nằm ở sau bếp, thời
còn lão Jones vẫn dùng để nấu bia, nhưng lâu nay bỏ không. Có con nào đó
nói rằng đấy là mùi lúa mạch nấu. Lũ súc vật hít hà mãi cái mùi thơm
nồng, cay cay đó và cố đoán xem tối nay chúng có được ăn "hèm" không.
Nhưng tối hôm đó không có "hèm", đến chủ nhật chúng lại được thông báo
rằng từ nay lúa mạch sẽ để dành riêng cho lũ lợn. Miếng đất cạnh khu
vườn đã được gieo lúa mạch rồi. Sau đó lại có tin nói rằng từ nay mỗi
con lợn sẽ được nửa lít bia một ngày, riêng Napoleon thì được uống hai
lít, mà phải uống bằng cốc pha lê.
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng cuộc đời vẫn đáng sống hơn xưa rất nhiều.
Chưa bao giờ chúng được hát, được nghe nói chuyện, được đi mít tinh,
biểu tình nhiều như bây giờ. Napoleon ra lệnh mỗi tuần phải có một cuộc
Diễu Hành mà nó gọi là Tự Phát, mục đích là để ngợi ca cuộc đấu tranh và
những thành quả của Trại Súc Vật. Đúng giờ qui định tất cả sẽ rời bỏ
ngay công việc, xếp thành đội ngũ, lần lượt là lũ lợn rồi đến ngựa, bò,
cừu và cuối cùng là gà, vịt và đi đều bước xung quanh trang trại. Con gà
trống màu đen của Napoleon luôn luôn đi đầu, còn hai bên đoàn diễu hành
là lũ chó. Chiến Sĩ và Bà Mập mang lá cờ màu xanh giữa có hình sừng và
móng và khẩu hiệu "Đồng chí Napoleon muôn năm". Các buổi mít tinh bao
giờ cũng kết thúc với màn trình bày bài thơ ngợi ca Napoleon và báo cáo
của Chỉ Điểm về những thành tích trong việc tăng gia sản xuất thời gian
vừa qua; những dịp lễ lạt thường có bắn các loạt súng chào mừng nữa. Lũ
cừu đặc biệt khoái đi diễu hành, nếu có con nào phàn nàn (nhất là khi
vắng bọn chó và lợn) là diễu hành chỉ tổ rét và mất thời gian thì chúng
lập tức tụng bài cầu nguyện muôn thuở: "Bốn chân tốt, hai chân xấu", mà
chúng tụng to đến nỗi át được tất cả những lời phàn nàn, hậm hực. Nhưng
nói chung là đa số thích những buổi lễ lạt kiểu ấy. Chúng thấy được an
ủi phần nào vì những buổi tụ tập như vậy nhắc nhở chúng rằng chúng thực
sự là chủ nhân của trang trại và mọi việc chúng làm đều là vì chúng mà
thôi. Những bài hát, những cuộc diễu hành, số liệu của Chỉ Điểm, tiếng
súng chào mừng, tiếng gáy của con gà trống và ngọn cờ tung bay trước gió
đã giúp quên đi, dù chỉ trong phút chốc cái đói cồn cào đang hành hạ
chúng.
Tháng tư, Trại Súc Vật tự tuyên bố là Nước Cộng Hòa, cần phải bầu Tổng
Thống. Chỉ có một ứng cử viên duy nhất. Napoleon trúng cử một trăm phần
trăm. Ngay hôm đó lại có tin đã tìm thấy những tài liệu mới chứng tỏ
Tuyết Tròn đã cộng tác với lão Jones ngay từ đầu. Hoá ra là Tuyết Tròn
không chỉ sử dụng chiến thuật khôn khéo nhằm làm thất bại Chiến Dịch
Chuồng Bò, như chúng đã thấy trước đây, mà còn đứng hẳn về phía lão
Jones nữa. Chính Tuyết Tròn đã dẫn đầu đoàn người xâm nhập, miệng hô
lớn: "Loài người muôn năm!". Còn những vết thương trên lưng nó, vẫn có
mấy con còn sống trông thấy những vết thương ấy và nhớ rõ rằng đấy chính
là vết răng của Napoleon.
Sau nhiều năm vắng bóng, giữa mùa hè vừa rồi con Moses bỗng lại xuất
hiện. Nó hầu như không thay đổi, vẫn chẳng chịu làm gì và suốt ngày kể
chuyện hão huyền về Núi Xôi. Nó thường đậu trên cành cây, vẫy vẫy đôi
cánh đen và nói hàng giờ liền, miễn là có con nào đó chịu nghe.
"Ở trên kia, thưa các đồng chí", Nó vừa nói vừa lấy mỏ chỉ lên trời,
"phía trên những đám mây màu đen kia là Núi Xôi, là nơi các loài vật
khốn khổ chúng ta sẽ được yên nghỉ đời đời."
Nó còn nói rằng nó đã từng bay tới đó một lần rồi, đã từng trông thấy
những cánh đồng cỏ ba lá xanh tốt quanh năm, trông thấy những khu vườn
mọc đầy bánh nhân hạt lanh cũng như đường cục. Thế mà có nhiều con tin.
Chúng nghĩ rằng chúng đang bị đói, khổ, vất vả; thế thì việc có một thế
giới an lành hơn ở đâu đó cũng là lẽ công bằng mà thôi. Nhưng điều chúng
không thể hiểu được chính là thái độ của bọn lợn đối với Moses. Lũ lợn
miệt thị rằng Núi Xôi chỉ là chuyện bịa, nhưng Moses không những không
bị đuổi đi mà còn được cấp một vại bia mỗi ngày.
Cuối cùng thì móng của Chiến Sĩ cũng khỏi, nó lao vào công việc hăng hơn
lúc nào hết. Những con khác cũng phải làm không khác gì tù khổ sai.
Ngoài công việc thường kì của trại và khôi phục cối xay gió thì còn việc
xây trường cho lũ lợn con nữa. Trường học được khởi công vào tháng ba.
Đôi khi tưởng chừng như không thể nào chịu nổi thời gian và cường độ lao
động ấy với một cái dạ dày lép kẹp, nhưng Chiến Sĩ không hề ngã lòng.
Không có một dấu hiệu gì, kể cả trong lời nói cũng như việc làm chứng tỏ
sức lực của nó không còn được như xưa nữa. Tuy thế, tướng mạo của nó có
thay đổi chút ít, da nó không còn được nhuận như trước, hông nó trông
cũng nhỏ đi. Mọi con đều nói: "Có cỏ non là Chiến Sĩ sẽ bình phục ngay
ấy mà", nhưng mùa xuân đã về, cỏ non đã lên xanh mà Chiến Sĩ chẳng hề
mập thêm chút nào. Những khi trông nó gồng mình kéo đá lên khỏi bờ dốc,
có cảm tưởng như sức nó đã kiệt, phải là một ý chí sắt đá lắm mới đứng
vững được như thế. Nhìn vào đôi môi, người tinh có thể thấy rằng nó đang
định nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa", nhưng không thể thốt lên lời. Bà
Mập và Benjamin lại nhắc nó giữ gìn sức khoẻ, nhưng nó vẫn bỏ ngoài tai.
Ngày sinh nhật lần thứ mười hai đang đến gần. Nó chỉ quan tâm đến một
việc duy nhất sau đây: làm sao gom được thật nhiều đá trước khi nghỉ
hưu, còn sau đó muốn ra sao thì ra.
Một hôm, lúc ấy đã khá khuya, bỗng có tin Chiến Sĩ gặp nạn. Hoá ra là nó
đi kéo xe đá một mình. Không phải là tin đồn nữa, sự thật là thế, mấy
phút sau có hai con bồ câu bay về.
"Chiến Sĩ bị ngã! Nó ngã nằm nghiêng, không dậy được nữa rồi!", hai con bồ câu thông báo.
Gần một nửa số súc vật trong trang trại lao về phía gò đất. Chiến Sỹ nằm
đó, giữa hai càng xe, cổ vươn ra, nhưng yếu quá, không thể nhấc đầu lên
được. Lưng nó đẫm mồ hôi, hai mắt trông dại hẳn đi. Một dòng máu nhỏ
đang rỉ ra khỏi miệng. Bà Mập quì xuống bên cạnh.
"Chiến Sĩ!", nó hỏi, "Anh sao vậy?"
"Không thở được nữa rồi", Chiến Sỹ thều thào nói, "Nhưng không sao. Tôi
nghĩ các bạn sẽ dựng lại được cối xay gió. Có nhiều đá lắm rồi. Dù sao
cũng chỉ một tháng nữa là tôi sẽ nghỉ hưu thôi. Nói thật, tôi mong được
nghỉ hưu lắm. Benjamin cũng già rồi, nếu nó cũng được nghỉ hưu cùng lúc
với tôi để cho có bạn thì tốt biết bao."
"Đi báo cho Chỉ Điểm ngay", Bà Mập nói.
Tất cả lập tức chạy về khu nhà chính để tìm Chỉ Điểm. Chỉ có Bà Mập và
Benjamin ở lại. Benjamin yên lặng nằm xuống bên cạnh Chiến Sĩ và dùng
đuôi đuổi ruồi cho nó. Khoảng mười lăm phút sau thì Chỉ Điểm tới, mặt lộ
đầy vẻ thương cảm và sốt sắng. Nó nói rằng đồng chí Napoleon rất buồn
khi biết tin tai nạn đã xảy ra với một trong những người lao động trung
thành nhất của trang trại và đang sắp xếp để đưa Chiến Sĩ đến chữa tại
bệnh viện ở Willingdon. Nhưng lũ súc vật lại cảm thấy có cái gì đó không
yên tâm vì từ trước tới nay ngoài Mollie và Tuyết Tròn ra thì chưa có
con nào đi khỏi trang trại, vả lại chúng cũng không thích giao một đồng
chí bệnh hoạn vào tay con người. Nhưng Chỉ Điểm dễ dàng thuyết phục được
chúng rằng các bác sĩ thú y ở Willingdon sẽ chữa cho Chiến Sĩ tốt hơn
là cứ để nó nằm ở trại. Khoảng nửa tiếng sau thì Chiến Sĩ đứng dậy được,
nó lết dần về chuồng. Bà Mập và Benjamin lấy rơm trải cho nó một cái ổ
khá dày.
Chiến Sĩ nằm trong chuồng hai ngày liền. Lũ lợn tìm được một chai thuốc
màu hồng khá to ở trong tủ thuốc đặt tại phòng tắm và đem ra cho nó. Bà
Mập bắt nó uống hai lần một ngày, ngay sau bữa ăn. Buổi tối Bà Mập vào
chuồng của Chiến Sĩ để tâm sự, trong khi Benjamin thì đuổi ruồi cho nó.
Chiến Sĩ nói rằng nó chẳng có gì phải phàn nàn. Nếu lần này hồi phục
được thì nó có thể sống thêm khoảng ba năm nữa, nó mong được sống những
ngày thanh thản còn lại trong góc cái bãi cỏ rộng dành cho những con về
hưu. Nó sẽ dành trọn thời gian rảnh rỗi để học tập, nâng cao trình độ.
Nó bảo nó sẽ dành toàn bộ quãng đời còn lại để học cho thuộc hai mươi
hai chữ cái.
Benjamin và Bà Mập chỉ có thể chăm sóc Chiến Sĩ sau giờ tan tầm, thế mà
cái xe đến bắt nó lại xuất hiện vào lúc gần trưa. Mấy con lợn đang chỉ
huy cả bọn gieo hạt cải ở ngoài đồng thì bỗng thấy Benjamin phi nước đại
từ trang trại tới, miệng gào đến lạc cả giọng. Đây là lần đầu tiên
chúng thấy Benjamin xúc động như vậy, cũng là lần đầu tiên chúng thấy nó
phi nước đại.
"Mau lên! Mau lên!", Nó gào lên, "Lại đây mau lên! Họ mang Chiến Sỹ đi rồi!"
Cả bọn lập tức bỏ việc và cùng chạy về phía khu nhà chính, không đợi lũ
lợn có cho phép hay không. Quả nhiên, trong sân có một cái xe song mã
đóng kín cửa, bên sườn xe có ghi hàng chữ khá to, anh chàng đánh xe đội
một cái mũ phớt trông rất láu cá. Chiến Sĩ không còn trong chuồng nữa.
Lũ súc vật tập trung quanh chiếc xe.
"Đi khoẻ nhá, Chiến Sĩ!", Chúng đồng thanh hô, "Tạm biệt!"
"Ngu, ngu thế", Benjamin vừa gào thét, vừa chạy xung quanh, chân nện xuống đất ầm ầm, "Ngu, không nhìn thấy chữ gì à?"
Cả bọn như tỉnh ngộ, yên lặng nhìn nhau. Con lừa Muriel bắt đầu đánh vần, nhưng Benjamin đã đẩy nó ra và đọc:
"Lò mổ Alfred Simmond, Willingdon. Mua bán thịt, xương, da ngựa. Cung
cấp cũi chó. Đã hiểu chưa? Chúng mang Chiến Sỹ đi làm thịt đấy!"
Một tiếng thét kinh hoàng cùng phát ra từ mọi lồng ngực. Đúng lúc đó,
anh chàng đánh xe ra roi và hai con ngựa kéo bắt đầu chạy nước kiệu. Cái
xe từ từ đi ra khỏi sân. Cả lũ cùng chạy theo sau, vừa chạy vừa khóc
như mưa như gió. Bà Mập lao lên. Cái xe cũng tăng tốc. Bà Mập cố phóng
lên, nhưng sức nó không còn, làm sao theo nổi hai con kia.
"Chiến Sĩ!", Nó gào lên, "Chiến Sĩ! Chiến Sĩ! Chiến Sĩ!"
Không biết Chiến Sĩ có nghe thấy tiếng gọi từ bên ngoài hay không, nhưng
cái mõm với một vệt màu trắng chạy dọc sống mũi của nó có lấp ló phía
trong cái cửa sổ nhỏ ở đằng sau xe.
"Chiến Sĩ!", Bà Mập gào đến lạc giọng, "Chạy đi! Chạy đi! Chạy mau lên! Chúng giết mày đấy!"
Tất cả đồng thanh thét lên:
"Chạy đi, Chiến Sĩ , Chạy đi!"
Nhưng hai con ngựa đã tăng tốc, cái xe ngày một đi xa hơn. Không biết là
Chiến Sĩ có nghe rõ Bà Mập nói gì hay không, nhưng không còn trông thấy
mõm nó bên trong cửa sổ nữa, đồng thời người ta nghe thấy tiếng chân nó
nện vào thành xe đều và vang không khác gì tiếng trống ngũ liên. Đấy là
Chiến Sĩ đạp vào thành xe để tìm lối thoát. Trước đây thì chỉ vài cái
đạp như thế cũng đủ làm cho chiếc xe này biến thành củi rồi. Nhưng lạy
chúa tôi! Sức nó nay còn đâu và tiếng đạp cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi im
hẳn. Không biết làm thế nào, lũ súc vật đành quay ra cầu cứu hai con
ngựa kéo, xin chúng đừng chạy nữa.
"Các đồng chí! Các đồng chí!", Chúng lại đồng thanh gào lên, "Các đồng
chí có biết đang mang người anh em của mình đi đâu không?"
Nhưng hai con vật ngu lâu, đầu óc tăm tối đó không hiểu, chúng chỉ khẽ
vểnh tai lên và càng chạy nhanh thêm. Không còn thấy Chiến Sĩ thấp
thoáng bên trong cái cửa sổ nhỏ nữa. Có con nghĩ đến việc chạy ra để
đóng cánh cổng lớn lại, nhưng quá trễ mất rồi, chiếc xe đã ra đến đường
lớn và đi xa dần. Từ đấy không ai còn trông thấy Chiến Sĩ nữa.
Ba ngày sau có thông báo rằng Chiến Sĩ đã mất tại bệnh viện ở
Willingdon, mặc dù đã được chăm sóc rất tận tình. Chính Chỉ Điểm thông
báo như thế. Nó còn nói rằng nó đã ở cạnh Chiến Sĩ trong giờ phút lâm
chung.
"Thật vô cùng cảm động", Chỉ Điểm vừa nói vừa lau nước mắt, "Tôi ngồi
bên Chiến Sĩ khi đồng chí ấy trút hơi thở cuối cùng. Trước khi chết đồng
chí ấy đã yếu lắm, không nói được nữa, nhưng đồng chí ấy vẫn cố thì
thầm nói rằng đồng chí ấy chỉ tiếc không được tham dự lễ khánh thành cối
xay gió. "Tiến lên, các đồng chí - đồng chí ấy nói - Vì sự nghiệp của
cuộc Khởi Nghĩa, hãy tiến lên! Trại Súc Vật muôn năm! Đồng chí Napoleon
muôn năm! Đồng chí Napoleon bao giờ cũng đúng!" - Đấy chính là những lời
nói cuối cùng của đồng chí ấy."
Lúc đó thái độ của Chỉ Điểm đột nhiên thay đổi. Nó ngồi im một lúc, sau đó nhìn quanh khắp lượt rồi mới tiếp tục câu chuyện.
Nó bảo rằng từ khi đưa Chiến Sỹ đi thì ở trại đã lan truyền những tin
đồn thất thiệt. Một số con nhìn thấy chữ "Lò mổ" trên thành xe đã vội
kết luận rằng Chiến Sĩ bị đưa đi làm thịt. Chỉ Điểm nói rằng nó không
thể tin là các con vật trong trại lại ngu ngốc đến thế. Không thể tin,
Chỉ Điểm vừa nói vừa vẫy đuôi và nhảy loạn xạ lên, là các con vật trong
trại lại có thể nghĩ về lãnh tụ kính yêu, nghĩ về đồng chí Napoleon theo
chiều hướng đó! Mọi việc đơn giản hơn rất nhiều. Số là ông bác sĩ thú y
đã mua lại cái xe của lò mổ, nhưng ông ta chưa kịp xoá tên chủ cũ đi.
Lí do chỉ có vậy thôi.
Nghe nói thế, cả bọn đều cảm thấy yên lòng. Còn khi Chỉ Điểm tả rõ cảnh
chăm sóc, cũng như những thuốc men đắt tiền mà Napoleon hạ lệnh mua để
chạy chữa cho Chiến Sĩ trong những ngày cuối cùng vừa qua thì những nghi
ngờ lâu nay được giải toả hẳn và nỗi buồn mất bạn vơi đi bội phần: dù
sao thì Chiến Sĩ cũng được mồ yên mả đẹp rồi.
Chính Napoleon tham dự cuộc họp vào sáng chủ nhật và đọc một bài diễn
văn tưởng niệm Chiến Sĩ. Chúng ta không có điều kiện, nó nói, đưa thi
hài của người đồng chí quá cố về trang trại, nhưng nó đã ra lệnh làm một
vòng hoa thật lớn, hoa lấy ngay trong vườn trại và đưa đến Willingdon
để đặt lên mộ Chiến Sĩ. Lũ lợn sẽ tổ chức bốn chín ngày thật to cho
Chiến Sĩ, nó hứa như vậy. Napoleon kết thúc bài diễn văn bằng cách nhắc
lại hai khẩu hiệu của Chiến Sĩ: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" và "Đồng chí
Napoleon lúc nào cũng đúng". Napoleon còn bảo rằng tất cả các con vật
trong trang trại nên học tập Chiến Sĩ, lấy khẩu hiệu của Chiến Sĩ làm
khẩu hiệu hành động của chính mình.
Đúng hôm tổ chức bốn chín ngày cho Chiến Sỹ thì có một cái xe chở một
thùng gỗ lớn đến toà nhà chính. Tối hôm đó từ trong toà nhà vọng ra
tiếng hát, tiếng tranh luận ồn ào và vào lúc mười một giờ thì người ta
nghe thấy tiếng cốc thủy tinh vỡ loảng xoảng, rồi tất cả chìm vào màn
đêm yên lặng. Toà nhà chính đóng cửa kín mít cho đến tận trưa hôm sau,
trong khi đó lại có tin đồn rằng lũ lợn đã kiếm được tiền và mua hẳn một
thùng whisky.
*
Chương X
Nhiều năm đã trôi qua. Xuân đi, đông lại, cuộc đời loài vật như bóng câu
qua cửa sổ. Chỉ còn Benjamin, Bà Mập, con quạ Moses và một vài con lợn
là còn nhớ được "ngày xưa", khi chưa Khởi Nghĩa.
Muriel đã chết. Bluebell, Jessie và Pincher cũng không còn. Ông Jones
cũng chết rồi, chết trong trại tế bần dành cho người nghiện. Không ai
nhắc đến Tuyết Tròn nữa. Chỉ có vài con vật còn nhớ Chiến Sĩ. Bà Mập đã
thành một con ngựa già béo phị, chân chậm, mắt mờ. Nó đã quá tuổi hưu
hai năm, nhưng thực ra, đã có con nào được hưu trí đâu. Không còn ai
nhắc đến chuyện ngăn một mảnh đất cho những con già cả nữa. Napoleon đã
thành một con lợn đực to sụ, phải nặng tạ rưỡi là ít. Chỉ Điểm cũng béo
lắm, mắt híp lại, gần như không trông thấy gì. Chỉ có Benjamin là vẫn
như xưa, tuy râu có trắng ra và sau khi Chiến Sĩ mất thì càng tỏ ra lầm
lì, ít nói hơn.
Trại Súc Vật có thêm nhiều thành viên mới, tất nhiên là không nhiều như
chúng nghĩ lúc đầu. Một số con được sinh ra ngay tại đây, đối với chúng,
cuộc Khởi Nghĩa chỉ là một truyền thống mù mờ, được truyền khẩu cho
nhau. Một số được mua từ nơi khác về, những con này chưa từng nghe ai
nói chuyện đó trước khi đến đây. Ngoài Bà Mập, trại còn có thêm ba con
ngựa nữa. Đấy là những con to, khỏe, chăm làm, tốt bụng nhưng ngu lắm.
Không con nào thuộc quá chữ B. Chúng tin tưởng tuyệt đối vào Súc Sinh
Kinh và những câu chuyện về cuộc Khởi Nghĩa, đặc biệt là những chuyện do
Bà Mập, mà chúng coi như mẹ, kể lại; nhưng có vẻ như chúng cũng chẳng
hiểu mô tê gì.
Trang trại được tổ chức tốt và ngày một phồn vinh hơn; chúng còn mở rộng
thêm bằng cách mua của Pilkington hai khu đất nữa. Cối xay gió đã hoàn
thành, chúng mua được cả máy đập lúa, máy nâng hạ và còn xây được thêm
nhiều toà nhà. Whymper cũng mua được cho mình một cỗ xe nhỏ. Chúng không
lắp máy phát điện lên cối xay gió mà dùng nó để xay xát, nhờ thế chúng
kiếm được khối tiền. Chúng lại đang xây một cối xay gió nữa, sẽ lắp máy
phát điện ở đấy, chúng bảo thế. Nhưng những thứ xa xỉ như đèn điện, nước
nóng, tuần làm việc ba ngày mà chúng từng mơ mộng thời còn Tuyết Tròn
thì không được nhắc đến nữa. Napoleon từng tuyên bố rằng những tư tưởng
đại loại như vậy là trái hoàn toàn với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Hạnh
phúc chân chính, nó bảo, là lao động hăng say và sống đạm bạc, tiết
kiệm.
Trang trại giàu có thêm, nhưng ngoại trừ lũ lợn và chó ra, đời sống của
các con khác thì vẫn như xưa. Cũng có thể một phần là do có nhiều lợn và
chó quá. Bọn này cũng làm việc, dĩ nhiên là theo cách của mình. Chỉ
Điểm giải thích không mệt mỏi rằng tổ chức và kiểm tra công tác của trại
là những việc phải làm thường xuyên, liên tục. Mà những giống khác đâu
có đảm đương được, việc này cần nhiều trí thông minh lắm. Thí dụ, Chỉ
Điểm bảo rằng lũ lợn mất rất nhiều công sức vào việc soạn những cái gọi
là "tài liệu", "dữ liệu", "báo cáo", "biên bản", "ghi nhớ". Đấy là những
tờ giấy to, viết đầy chữ và sau khi viết xong thì đem vào lò đốt. Nhờ
thế mà trang trại mới được phồn vinh như ngày nay đấy, Chỉ Điểm thường
nói như vậy. Dù sao mặc lòng, những thứ ấy chẳng thể làm lũ chó, lợn ấy
no được, mà chúng phàm ăn lắm.
Cuộc sống của những con khác thì vẫn như xưa. Ngày chúng thường bị đói,
đêm chúng ngủ trên ổ rơm, nước thì uống ngay ở dưới ao, làm việc ngoài
đồng trống, mùa đông thì mất ngủ vì rét, mùa hè thì khổ vì ruồi. Thỉnh
thoảng những con có tuổi cố nhớ lại xem nay đời sống của chúng có khá
hơn ngay sau Khởi Nghĩa, khi chúng vừa đuổi lão Jones đi, hay không.
Nhưng chúng không nhớ nổi. Không có gì cho chúng so sánh: trong đầu
chúng chỉ có mỗi những số liệu của Chỉ Điểm, những con số luôn luôn
chứng tỏ rằng mọi thứ đều được cải thiện, đều tốt thêm một bước mỗi
ngày. Thôi thì đành vậy vả lại chúng cũng chẳng có nhiều thời gian để mà
suy nghĩ lung tung. Chỉ có Benjamin già nua là khẳng định rằng nó nhớ
hết, nhớ đến từng chi tiết mọi việc đã qua và biết rõ rằng chúng chưa
bao giờ khổ hơn cũng chẳng bao giờ được sướng hơn, vẫn là đói, là bán
mặt cho đất bán lưng cho trời, là bị loè bịp; qui luật cuộc đời vốn là
như thế, nó thường bảo như vậy.
Dù sao chúng vẫn cứ hi vọng. Hơn thế nữa, chúng còn luôn tự hào được là
công dân của Trại Súc Vật. Trong nước này, mà là nước Anh hẳn hoi đấy
nhé, đây là trang trại duy nhất của súc vật và do súc vật quản lí! Tất
cả mọi con vật, từ những con nhỏ nhất cho đến những con mới được mua từ
cách xa cả chục cây số về, đều tự hào như thế. Nhất là khi chúng nghe
thấy tiếng súng nổ, khi trông thấy lá cờ xanh tung bay là tim chúng lại
đập rộn rã, khi ấy, dù đang nói chuyện gì chúng cũng quay lại đề tài về
những năm tháng hào hùng, về việc lật đổ lão Jones, về việc thiết lập
Bảy Điều Răn và về những trận chiến đấu oanh liệt chống lũ người xâm
lược. Chúng cũng không quên nhắc nhở nhau những kì vọng thuở ban đầu.
Chúng tin rằng lời tiên tri của Thủ Lĩnh già về ngày thành lập Nước Cộng
Hòa Súc Vật trên toàn lãnh thổ Anh quốc, ngày con người bị tống khứ
khỏi sứ sở này nhất định sẽ tới. Ước mơ của chúng sẽ thành hiện thực,
nhất định ngày đó sẽ tới, dù còn lâu, dù rằng tất cả những con đang sống
hiện nay sẽ không được chứng kiến, nhưng ngày đó nhất định sẽ tới.
Chúng cũng không quên bài "Súc Sinh Anh quốc", con nào cũng biết hát bài
này, nhưng chúng chỉ dám hát thầm với nhau mà thôi. Dù cuộc sống còn
nhiều khó khăn, dù không phải tất cả ước mơ của chúng đều được thực
hiện, nhưng trong thâm tâm chúng biết rằng chúng là những con vật đặc
biệt. Dù chúng chưa được no, nhưng chúng không phải làm để nuôi bọn
người tàn độc; dù chúng còn phải lao động vất vả, nhưng đấy là chúng làm
cho chính mình. Không con nào đi hai chân, không còn quan hệ chủ tớ.
Tất cả đều bình đẳng.
Một hôm, đấy là đầu mùa hạ, Chỉ Điểm bỗng ra lệnh cho lũ cừu đi theo nó
ra cánh đồng bỏ hoang bên ngoài trại, nơi có cả một rừng bạch dương non.
Lũ cừu ở đó cả ngày, tha hồ nhai lá, dĩ nhiên là dưới sự chỉ đạo của
Chỉ Điểm. Tối hôm đó Chỉ Điểm quay lại trang trại một mình, hôm đó thời
tiết tốt nên nó bảo lũ cừu ngủ ngay ngoài đồng cho mát. Chúng ở lại đó
suốt một tuần liền. Ngày nào Chỉ Điểm cũng ra với lũ cừu. Theo như nó
nói thì nó đang dạy lũ cừu một bài hát mới, mà yên tĩnh thì học mới mau
"vào".
Một chiều, hôm ấy lũ cừu đã học xong và trở về rồi, trong khi cả bọn
đang quay về sau một ngày lao động thì chúng bỗng nghe thấy tiếng ngựa
kêu thất thanh từ phía trại vọng lại. Quá hỏang sợ, tất cả lập tức đứng
như trời trồng. Đấy là tiếng kêu của Bà Mập. Nó lại kêu lên lần nữa, tất
cả lập tức phóng thật nhanh vào sân trại để xem có chuyện gì. Và chúng
nhìn thấy chính cái điều đã làm Bà Mập hoảng loạn.
Đấy là một con lợn đang bước đi bằng hai chân sau.
Vâng, chính là Chỉ Điểm đang đi. Có vẻ vụng về, dĩ nhiên rồi, một phần
vì chưa quen, một phần vì quá nặng, nhưng nó vẫn giữ được thăng bằng và
đi từ bên này sang tận bên kia sân. Một lúc sau thì từ cửa chính ngôi
nhà cả đàn lợn bước ra, tất cả, không trừ con nào, đều đi bằng hai chân
sau. Một số con bước đi một cách tự tin, một số con còn lảo đảo, giá có
cái ba toong thì vững hơn, nhưng tất cả đều đi một vòng quanh sân mà
không con nào bị ngã. Cuối cùng là tiếng chó sủa dữ dội, tiếng gà gáy
vang rền và Napoleon bước ra, lưng thẳng tắp, dáng oai vệ, nó nhìn khắp
lượt, xung quanh tíu tít bày cừu.
Chân trước nó cầm một cái roi to.
Xung quanh lặng ngắt như tờ. Ngạc nhiên pha lẫn hoảng sợ, lũ súc vật tụ
vào một góc để nhìn đàn lợn nối nhau đi quanh sân. Thế giới đảo điên hết
rồi sao? Phút hoảng loạn ban đầu rồi cũng qua và dù có sợ bầy chó, dù
bao năm đã quen không dám phàn nàn, không dám phản đối, lần này chắc
chắn chúng sẽ lên tiếng phản đối. Nhưng đúng lúc đó, như có hiệu lệnh,
bọn cừu đồng thanh gào lên:
"Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn!"
Chúng tụng như thế năm phút liền, không ngưng nghỉ. Khi lũ cừu im thì
đàn lợn đã vào hết trong nhà rồi, có phản đối cũng chẳng ai nghe.
Benjamin cảm thấy như có con nào đang lấy mũi cọ vào vai mình. Nó quay
đầu lại. Hoá ra là Bà Mập. Đôi mắt đã mờ của nó trông càng buồn hơn lúc
nào hết. Nó khẽ ngoạm vào bờm của Benjamin và kéo ra phía đầu hồi của
nhà kho lớn. Chúng đứng đó, yên lặng ngắm những dòng chữ màu trắng trên
bức tường sơn hắc ín.
"Tôi chẳng còn trông thấy gì cả - Cuối cùng Bà Mập lên tiếng - Ngay khi
còn trẻ tôi cũng có đọc được chữ nào đâu. Nhưng tôi thấy hình như bức
tường trông khác lắm. Bảy Điều Răn vẫn thế chứ, anh Benjamin?"
Đây là lần đầu tiên Benjamin từ bỏ thói quen cố hữu của nó và khẽ đọc
cho Bà Mập nghe. Trên bức tường chỉ còn ghi một Điều Răn duy nhất như
sau:
MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.
Sau đó thì ngay cả việc những con lợn đốc công mang theo roi ra đồng
cũng không làm chúng ngạc nhiên nữa. Chúng cũng không ngạc nhiên khi
thấy bọn lợn mua đài, rồi thảo luận kí hợp đồng đặt máy điện thoại cũng
như đặt mua những tờ báo như John Bull , Tits-Bit và Daily Mirror .
Chúng cũng không ngạc nhiên khi trông thấy Napoleon mồm ngậm tẩu thuốc
đi dạo trong vườn, cũng như khi thấy lũ lợn lấy quần áo của ông Jones ra
diện nữa. Napoleon chọn cho mình chiếc áo khoác đen, quần ống túm, ủng
da; trong khi con lợn cái mà nó thích nhất được bộ lụa tơ tằm mà bà
Jones thường mặc khi đi nhà thờ, vào những ngày chủ nhật.
Một tuần sau, buổi chiều, có rất nhiều xe cộ đi vào trại. Đấy là đại
biểu các trang trại lân cận được mời đến thăm quan Trại Súc Vật. Quan
khách rất ngạc nhiên khi được xem các cánh đồng, các công cụ sản xuất
của trại, đặc biệt là cối xay gió. Lúc đó lũ súc vật đang nhổ cỏ trên
cánh đồng trồng củ cải. Chúng làm việc chăm chỉ, ít khi ngẩng đầu lên.
Chúng cũng không biết trong hai loại đó, quan khách và lợn, bọn nào đáng
sợ hơn.
Tối hôm đó có tiếng hát và tiếng cười rất to vẳng lại từ phía ngôi nhà
chính. Lũ súc vật bỗng cảm thấy tò mò, muốn biết trong nhà đó đang nói
chuyện gì vì đây là lần đầu tiên con người và con vật gặp nhau như những
đối tác bình đẳng. Rồi không con nào bảo con nào, chúng cùng nằm xuống
và im lặng bò đến gần toà nhà chính.
Chúng hơi lưỡng lự khi bò đến cổng, nhưng Bà Mập đã tiến lên hàng đầu.
Khi đến gần toà nhà thì chúng nhón gót đứng lên, những con đủ chiều cao
có thể nhìn được qua cửa sổ. Bên trong, có sáu điền chủ và sáu con lợn
xuất chúng nhất đang ngồi xung quanh một cái bàn dài. Napoleon ngồi ngay
đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi
ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng
cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả
các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò
nhìn qua cửa sổ.
Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây
ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. Nhưng ông xin được nói vài lời trước
đã.
"Thật là vô cùng phấn khởi - ông nói - đối với ông, cũng như đối với tất
cả những người đang có mặt ở đây hôm nay, vì giai đoạn nghi kị và hiểu
lầm đã chấm dứt". Đã có thời kì, dĩ nhiên là ông cũng như những người có
mặt ở đây hôm nay không hề muốn như thế, nhưng rõ ràng là đã có những
thời kì mà những người xung quanh nhìn các chủ nhân đáng kính của Trại
Súc Vật với một thái độ, không thể nói là thù địch, nhưng với một sự
thiếu thiện cảm. Đáng tiếc là đã xảy ra một vài va chạm, đã lưu truyền
một vài quan niệm sai lầm. Có ý kiến cho rằng một trang trại của lợn và
do lợn quản lí là một điều bất bình thường và không nghi ngờ gì rằng
trại này sẽ tạo ra những ảnh hưởng không hay cho những trang trại xung
quanh. Nhiều điền chủ, phải nói là khá nhiều, không hề điều nghiên, đã
vội kết luận rằng ở đây sẽ có nhiều hành vi quá trớn và thiếu kỉ cương.
Họ lo lắng về ảnh hưởng của trang trại này không chỉ đối với súc vật mà
còn đối với cả những người làm thuê cho họ nữa. Nhưng tất cả những mối
ngờ vực đó đã chấm dứt. Hôm nay, ông và các đồng nghiệp đã được mời thăm
quan trang trại, họ đã xem xét rất kĩ, họ đã tìm thấy gì? Không chỉ
công nghệ hiện đại nhất mà cả kỉ cương, trật tự của trại đều xứng đáng
cho các trang trại khắp nơi học tập. Ông tin không nói sai khi bảo rằng
những loài súc vật hạ đẳng ở đây làm việc nhiều hơn nhưng lại nhận được
khẩu phần ít hơn so với các trại khác trong khu vực. Tóm lại, ông và các
đồng nghiệp đã trông thấy ở đây nhiều điều đáng phải áp dụng ngay.
Ông nói xin chúc tình hữu nghị giữa Trại Súc Vật và các trại khác đã,
đang và sẽ tồn tại mãi mãi. Quyền lợi của loài lợn và của loài người
không hề và không được mâu thuẫn nhau. Cả hai đều có chung mục đích và
có chung những khó khăn. Vấn đề sức lao động thì ở đâu chả giống nhau,
có phải thế không? Đến đây thì rõ ràng là Pilkington định nói một câu
khôi hài đã chuẩn bị sẵn từ lâu, nhưng buồn cười quá, không thể thốt
thành lời. Sau một lúc cố gắng đè nén tình cảm, Pilkington nói một câu
như sau:
"Nếu các bạn phải xử lí những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi, chúng tôi cũng phải xử lí các giai cấp hạ đẳng."
Đáp lại câu nói ý vị đó là tiếng cười tưởng muốn vỡ nhà, Pilkington lại
chúc mừng lũ lợn về việc ăn ít, làm nhiều và kỉ cương, nề nếp của
trại.
Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li.
"Thưa các ngài!", Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, "Thưa các
ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh
vượng."
Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi
đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống,
thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu
vài câu.
Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon
bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây
từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên
truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng
phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý
định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu
khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay
cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn
bình thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh
đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm
dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại.
Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả và những thay đổi
gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các
con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng
"Đồng chí". Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa, không
biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ
trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị
bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp
trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn
là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa
bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi.
Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc
tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn, ngài
Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên
không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ
tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải
gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.
"Thưa các ngài!", Napoleon kết luận, "Tôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc
mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã.
Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!"
Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng
bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao mặt những
con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn
con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có
bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh
thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở,
những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra.
Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có
tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp
tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét,
tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân
cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích
cùng một lúc.
Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được
ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt mấy con lợn bên trong nữa.
Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc
sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn
nữa.
Tháng 11 năm 1943 - tháng 2 năm 1944.
- Hết -
Dịch lần đầu ngày 28 tháng 12 năm 2003, góp phần kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell.
Nguồn: http://www.online-literature.com/orwell/animalfarm/