Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Ngày 24/4/2014 - Hãy nhìn lại chính mình

  • Obama coi nhẹ quan hệ với VN? (BBC) - Việc Tổng thống Mỹ công du châu Á, nhưng vẫn chưa sang thăm Việt Nam cho thấy ông chưa coi trọng quan hệ với Hà Nội?
  • Công du châu Á : Những bài toán nan giải của Obama (RFI) - Làm thế nào trấn an các đồng minh châuÁ mà không làm mích lòng Trung Quốc ? Làm thế nào tăng cường quan hệ thiết yếu với Tokyo, nhưng cũng phải tính đến mối hiềm khích lịch sử của Trung Quốc và Hàn Quốc đối với Nhật Bản. Đó là những bài toán nan giải đang chờ đón Tổng thống Barack Obama trong chuyến công du châuÁ lần này, bắt đầu tại Tokyo vào tối nay, 23/04/2014.
  • Úc mua 58 chiến đấu cơ F-35 của Hoa Kỳ (RFA) - Cũng liên quan đến quân sự, Thủ Tướng Úc ông Tonny Abbott vừa loan báo quyết định mua thêm 58 chiếc F-35 do Hoa Kỳ sản xuất, để tăng cường khả năng bảo vệ an ninh quốc phòng cho không lực Úc.
  • Obama bắt đầu công du châu Á (RFI) - Vào tối nay, 23/04/2014, Tổng thống Mỹ Barack Obama đến Tokyo, mở đầu chuyến công du châuÁ, lần lượt viếng thăm các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines. Tổng thống Hoa Kỳ công du châuÁ giữa lúc căng thẳng khu vực gia tăng do tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.
  • Hội Anh Em Dân Chủ vừa tròn một năm (RFA) - Hội Anh Em Dân chủ là một trong nhiều nhóm xã hội dân sự được hình thành tại Việt Nam trong thời gian qua, và đến nay Hội Anh Em Dân Chủ vừa tròn một năm ra đời.
  • Những im lặng đáng khinh (RFA) - Báo chí Việt Nam không biết từ bao giờ đã có cụm từ “sự im lặng đáng sợ” khi mô tả các cấp chính quyền cao nhất không trả lời đơn thư hay phản ảnh của báo chí, nhân dân trước các tiêu cực. Lâu dần sự im lặng ấy đã có kết quả trông thấy: tham nhũng nhiều hơn, chống đối công khai hơn và toàn bộ các “mặt trận” đều tan vỡ.
  • Phiên xét xử phúc thẩm ông Dương Chí Dũng và đồng phạm (RFA) - Trong phiên phúc thẩm xử Dương Chí Dũng, nguyên chủ tịch hội đồng quản trị Vinalines và đồng phạm vào ngày hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị tòa giữ nguyên bản án sơ thẩm là tử hình với Dương Chí Dũng.
  • Kích Thích Kinh Tế (RFA) - Kinh tế Việt Nam đang có một số dấu hiệu đình đọng có thể giảm đà tăng trưởng và gây ra tình trạng suy trầm. Trước sự thể đó, một số kinh tế gia trong nước nói đến việc Chính phủ nên có một gói hỗ trợ kinh tế qua biện pháp kích cầu trong khi nhiều người lại nêu ra những yếu tố khiến người ta nên thận trọng về kích cầu
  • Đôi điều về bệnh sởi tại Hà Nội (RFA) - Trong những ngày vừa qua, các gia đình có trẻ nhỏ tại Hà Nội tỏ ra vô cùng lo lắng vì đang phải sống trong một môi trường của “cơn bão” mang tên bệnh sởi vì có đến trên 100.000 trẻ em chưa được tiêm đủ hai mũi vắc xin phòng sởi.
  • Mỹ điều 600 quân đến Ba Lan và các nước vùng Baltic (RFI) - Hôm qua, 22/4/2014, Washington thông báo điều 600 quân đến làm nhiệm vụ tại Ba Lan và các nước vùng Baltic, một động thái chứng tỏ Hoa Kỳ muốn trấn an các đồng minh ở đôngÂu trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Ukraina có chiều hướng trở nên hỗn loạn và mối quan ngại khả năng Nga can thiệp quân sự vào Ukraina ngày càng lớn.
  • Robot nấu ăn trong nhà hàng (BBC) - Học tiếng Anh qua video: Một quán ăn ở Cáp Nhĩ Tân nổi tiếng vì dùng người máy phục vụ thực khách.
  • Theo chuyên gia Mỹ, Bình Nhưỡng chưa thử hạt nhân (RFI) - Vào lúc cả Seoul lẫn Washington đều lên tiếng quan ngại về khả năng Bắc Triều Tiên cho thử« bom nguyên tử» đúng vào dịp Tổng thống Mỹ khởi sự vòng công du châuÁ, bắt đầu từ hôm nay, 23/04/2014, một trung tâm phân tích Mỹ đã có nhận định ngược lại.
  • Thủ tướng Thái phải giải trình trong 1 vụ kiện mới (RFI) - Theo hãng tin AFP, hôm nay 23/4 /2014, Toà Bảo hiến Thái Lan đã ấn định thời hạn cho bà Yingluck Shinawatra phải giải trình một trong những vụ kiện có thể liên quan trực tiếp đến sinh mệnh chính trị của Thủ tướng Thái Lan.
  • ASEAN họp với Trung Quốc về Biển Đông (RFA) - ASEAN và Trung Quốc cam kết thúc đẩy hợp tác và đẩy nhanh quá trình tham vấn về Bộ quy tắc về ứng xử của các bên ở biển Đông (gọi tắt là COC).
  • Châu Á - Thái Bình Dương ký kết thỏa thuận ngăn ngừa sự cố trên biển (RFI) - Hơn một chục nước khu vực châuÁ– Thái Bình Dương, trong đó có Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines– vừa ký kết một thỏa thuận hải quân nhằm tránh không cho việc thông tin nhầm lẫn giữa các tàu trên biển leo thang thành xung đột. Bộ Quy tắc về những cuộc Gặp gỡ Bất ngờ trên Biển đã được các bên nhất trí thông qua vào hôm qua 22/04/2014 tại Diễn đàn Hải quân Tây Thái Bình Dương ở thành phố Thanh Đảo (Trung Quốc).
  • Ân xá Quốc tế : Lao động nước ngoài bị bóc lột ở Qatar (RFI) - Trong báo cáo công bố hôm nay 23/04/2014,Ân xá Quốc tế tố cáo tình trạng người nước ngoài làm nghề giúp việc nhà ở Qatar bị lạm dụng, hành hung.Ân xá Quốc tế đánh giá : chính quyền Qatar đã không bảo vệ được người giúp việc nhà tha hương để họ không bị bóc lột dưới mọi hình thức, từ lao động khổ sai cho đến hành hung, lạm dụng tình dục.
  • Họp về Thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (BaoMoi) - QĐND - Cuộc họp các Quan chức Cao cấp (SOM) ASEAN - Trung Quốc lần thứ 20 về Quan hệ Đối tác ASEAN - Trung Quốc; lần thứ 7 về Thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Tham vấn chính thức về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đã diễn ra từ 21 đến 22-4, tại Pát-tay-a, Thái Lan. Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng SOM ASEAN - Việt Nam Phạm Quang Vinh dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự các cuộc họp trên.
  • Cần sớm có Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (BaoMoi) - LTS - Trong hai ngày 21 và 22-4, tại Thái-lan, đã diễn ra Cuộc họp quan chức cấp cao (SOM) ASEAN - Trung Quốc lần thứ 20 về Quan hệ đối tác ASEAN - Trung Quốc và lần thứ 7 về Thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tham vấn chính thức về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng SOM ASEAN - Việt Nam PHẠM QUANG VINH dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự các cuộc họp nêu trên, đã có cuộc trả lời phỏng vấn phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Thái-lan về nội dung các cuộc họp và những đóng góp của Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu nội dung cuộc phỏng vấn.
  • 60% mạch nước ngầm của Trung Quốc bị ô nhiễm (RFI) - Theo AFP, trích Tân Hoa Xã, 60% mạch nước ngầm của Trung Quốc bịô nhiễm nghiêm trọng không thể uống trực tiếp được. Đây là đánh giá của Bộ đất đai và Tài nguyên, trong bản báo cáo hàng năm. Giới bảo vệ môi truờng cho đây là hậu quả của mấy thập niên phát triển kinh tế của Trung Quốc bất kể tác hại môi sinh.
  • Trung Quốc phản đối quan điểm của Mỹ về quần đảo Senkaku (BaoMoi) - Kyodo đưa tin, ngày 23/4, Trung Quốc đã cực lực phản đối quan điểm của Tổng thống Mỹ Barack Obama cho rằng quần đảo Senkaku ở biển Hoa Đông - do Nhật Bản kiểm soát nhưng Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền và gọi là Điếu Ngư - nằm trong khuôn khổ của hiệp ước an ninh song phương giữa Washington với Tokyo.
  • Kiev mở lại chiến dịch (RFI) - Hôm nay, 23/4/2014, Phó Thủ tướng thứ nhất Ukraina thông báo chính phủ Kiev đã quyết định mở lại chiến dịch chống khủng bố để chống lại các phần tử ly khai thân Nga vẫn đang chiếm giữ và kiểm soát nhiều thành phố ở miền đông đất nước.
  • Nga bất ngờ tiến hành tập trận ở vùng Biển Caspi (RFI) - Bộ Quốc phòng Nga thông báo vào hôm nay, 23/04/2014, là Hải quân nước này đã tiến hành một cuộc tập trận đột xuất với hạm đội ở Biển Caspi. Trong bản thông báo được hãng tin Nga Interfax công bố, cuộc thao diễn hải quân này sẽ kéo dài 7 ngày với sự tham gia của khoảng một chục chiếc tàu và 400 binh lính.
  • Roma ráo riết chuẩn bị lễ phong thánh hai Giáo Hoàng (RFI) - Chỉ còn vài ngày nữa là Tòa thánh Vatican sẽ làm lễ phong thánh cùng lúc cho hai Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị và Gioan 23 ngày Chủ nhật 27/04. Thủ đô đang ráo riết chuẩn bị như thế nào cho lễ phong thánh hai vị Giáo Hoàng này, sau đây là tường trình của thông tín viên Huê Đăng từ Roma.
  • Dân Miến Điện tiễn đưa lần cuối nhà dân chủ Win Tin (RFI) - Theo AFP, hôm nay 23/4/2014, hàng trăm người đã tập hợp trong thành phố Rangoon để viếng lần cuốiông Win Tin, người anh hùng của cuộc đấu tranh vì dân chủ tại Miến Điện, vừa qua đời ở tuổi 84 hôm 21/04 vừa qua. Lễ tang diễn ra trọng thể tại một nhà thờ ở Rangoon có sự tham gia của đông đảo các nhà hoạt động chính trị xã hội ở Miến Điện.
  • Thời sự qua hình ảnh (RFA) - Thân nhân một nạn nhân trong vụ chìm phà ngồi trên bờ biển tại cảng Jindo. Số người chết được xác nhận từ thảm họa chìm phà của Hàn Quốc tăng lên hơn 120 vào ngày 22 tháng 4, 2014
  • Tăng cường quan hệ đối tác ASEAN - Trung Quốc (BaoMoi) - Cuộc họp quan chức cấp cao (SOM) ASEAN - Trung Quốc lần thứ 20 về Quan hệ đối tác ASEAN - Trung Quốc và lần thứ 7 về Thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tham vấn chính thức về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) vừa diễn ra từ ngày 21 đến 22-4, tại Pát-tay-a, Thái-lan.
  • Nhiều hoạt động trong mùa du lịch biển Đà Nẵng 2014 (BaoMoi) - (TNO) Từ ngày 30.4 đến 5.5, Ban Quản lý bán đảo Sơn Trà và các bãi biển du lịch Đà Nẵng tổ chức chương trình khai trương mùa du lịch biển 2014, với chủ đề Biển Đà Nẵng - điểm hẹn cũ, diện mạo mới.
  • ASEAN và Trung Quốc tham vấn về vấn đề Biển Đông (BaoMoi) - Cuộc họp các Quan chức Cao cấp (SOM) ASEAN-Trung Quốc lần thứ 20 về Quan hệ Đối tác ASEAN-Trung Quốc và lần thứ 7 về Thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tham vấn chính thức về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đã diễn ra từ 21-22/4, tại Pattaya, Thái Lan.
  • Tổng thống Mỹ củng cố khối đồng minh then chốt tại châu Á (BaoMoi) - Từ hôm nay (23/4), Tổng thống Mỹ Barack Obama bắt đầu chuyến thăm 4 nước châu Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Malaysia nhằm thắt chặt quan hệ với các đồng minh chủ chốt tại khu vực này. Mở đường cho chuyến công du, người đứng đầu Nhà Trắng đã đề cập trực tiếp quần đảo Senkaku nằm trong khuôn khổ Hiệp ước An ninh và Hợp tác song phương Nhật-Mỹ và phản đối mọi động thái đơn phương phá hoại tính nguyên trạng của chủ quyền biển.
  • Mỹ: Senkaku nằm trong khuôn khổ Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật (BaoMoi) - Hãng Reuters đưa tin Tổng thống Mỹ Barack Obama đã đảm bảo với Nhật Bản rằng những hòn đảo nhỏ trên Biển Hoa Đông, tâm điểm của cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nằm trong khuôn khổ một hiệp ước an ninh song phương, theo đó yêu cầu Washington phải bảo vệ Tokyo.
  • Nhất trí quy tắc ứng xử trên biển (BaoMoi) - TT - Hôm qua, Mỹ và 20 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã thông qua một thỏa thuận nhằm ngăn ngừa các vụ tai nạn và thông tin sai lệch trên biển.

T.Vấn - Hãy nhìn lại chính mình

Bài viết này, nguyên thủy có tên: “Nhân ngày 30 tháng 4 lần thứ 35“, được viết và phổ biến dịp tháng 4 năm 2010. Đầu năm 2012, hội Sinh Viên Việt Nam của trường đại học thành phố Wichita có nhã ý nhờ tôi góp bài cho tờ báo mùa xuân của họ. Tôi quyết định xem lại và gởi bài viết này đến những người trẻ như một cách gián tiếp bầy tỏ cách nhìn của tôi về một sự kiện lịch sử quan trọng. Và để nhấn mạnh, tôi đã đổi tên bài thành: “Hãy nhìn lại chính mình“. Bây giờ là tháng 4 năm 2014. Những vấn đề đặt ra trong bài viết này – theo tôi – vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự của chúng.
T.Vấn

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đánh dấu cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam chấm dứt.

Cuộc chiến ấy có kẻ thắng không? nhà báo Mỹ Stanley Karnow, người lăn lộn với cuộc chiến ấy từ đầu đến cuối, trong chương mở đầu tác phẩm quan trọng nhất của ông về chiến tranh Việt Nam: “Vietnam: A History“, đã cho rằng “Ít ra, theo ngôn ngữ nhân văn, cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến tranh không có kẻ chiến thắng, hay đó chỉ là cuộc xung đột giữa những nạn nhân. Nguồn gốc của nó rất phức tạp, những bài học còn là đầu đề tranh cãi, và những hậu quả của nó vẫn còn phải được đánh gía bởi các thế hệ tương lai.” (1)

39 năm sau ngày cuộc chiến chấm dứt, 32 năm sau ngày ông Karnow viết những dòng nhận định khiến cả thế giới lưu tâm ấy, hẳn sẽ có càng ngày càng ít người không đồng ý với vị sử gia người Mỹ đã từng đọat giải thưởng uy tín nhất về Báo Chí, Pulitzer, cho những công trình khảo cứu về chiến tranh thế giới của mình.

Cuộc chiến ấy có kẻ bại không? Câu trả lời hẳn sẽ có ít người tranh cãi hơn nữa: Có!

Ai là kẻ chiến bại? Hẳn nhiên, trước hết phải kể đến những người buông vũ khí quy hàng bên kia (dù là tuân theo lệnh thượng cấp hay tự nguyện vì không còn sự lựa chọn nào khác), những người bị bắt, bị giam cầm trong các nhà tù ngụy danh dưới cái tên: Trại Cải Tạo (bao gồm những người bị còng tay, dẫn lên xe đưa thẳng vào trại tù và những người tình nguyện khăn gói lên đường, giã biệt gia đình đi trình diện kẻ đang nắm sinh mệnh mình trong tay, với hy vọng đi sớm về sớm, rồi yên tâm sống đời dân dã trong một đất nước từ nay thôi không còn bom đạn, không còn chết chóc). Phải kể cả đến những người may mắn vượt thóat tay kẻ thù, rời khỏi đất nước bằng đủ mọi phương tiện tìm được vào những ngày cuối của cuộc chiến. Kẻ chiến bại còn là những nạn nhân trực tiếp của những cuộc vượt biển hãi hùng, những cư dân bị cưỡng bức của những khu kinh tế mới rừng sâu nước độc, những đối tượng kém may mắn của những đợt cải tạo tư sản, đánh tư bản cũng hãi hùng không kém cảnh đấu tố của cuộc cải cách ruộng đất 54 ngòai miền Bắc. Sau cùng phải kể đến hơn 75 triệu dân Việt Nam sống giữa thế kỷ 21 mà vẫn chưa biết đến mùi vị của Tự Do là gì. Chưa kể đến một tầng lớp nông dân ở thôn quê và một lớp dân chúng thành thị vẫn hàng ngày phải lao đao vất vả với miếng cơm manh áo, thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu nhất của con người. Nói cách khác, cả một dân tộc chiến bại (2).

Một cuộc chiến không có kẻ thắng, mà chỉ có những nạn nhân thì người ta không thể viện dẫn đến bất cứ một mục đích nào để biện minh cho cuộc chiến ấy.Chưa kể đến chiêu bài cộng sản,thế giới đại đồng, không còn cảnh người bóc lột người nay đã bị phá sản.Cho dẫu thứ ý thức hệ chết (hàng trăm triệu )người ấy chưa bị phá sản, thì việc hy sinh gần 3 thế hệ đất nước cho một tư tưởng bệnh họan phải được xem là nỗi bất hạnh của dân tộc.
Gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày chiến thắng ư?

Thật vô nghĩa. Vì cuộc chiến không có kẻ chiến thắng. Mọi sự phô diễn ầm ĩ của bên gọi là thắng trận trong ngày kỷ niệm cuộc chiến đẫm máu chấm dứt chỉ là những hành động nhằm che đậy mặc cảm của kẻ vừa chợt nhận ra mình cũng là nạn nhân của một cuộc lừa dối vĩ đại, thứ phản ứng tâm lý vụng về của những kẻ bằng mọi giá bám lấy quyền lực, bất kể sự no đói sướng khổ của quần chúng nhân dân. Phủ nhận sự chiến thắng ấy, là phủ nhận chính mình, phủ nhận chính quyền lực của mình. Chẳng may, ngày nào còn lớp người băng họai ấy ở vị trí quyền lực quốc gia, ngày ấy vẫn còn những ngày 30 tháng 4 hàng năm được vinh danh là ngày chiến thắng.
Gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày quốc hận ư?

Ý nghĩa của “quốc hận“ sẽ chính đáng biết bao nếu được nhân danh bởi tất cả những nạn nhân trong cuộc chiến, những nạn nhân sau cuộc chiến, cả bên này lẫn bên kia, của cả người trong nước lẫn ngòai nước, của tất cả những ai tin tưởng rằng, ngày nào còn sự ngự trị của chính quyền cộng sản, ngày ấy đất nước còn điêu đứng gian nan.

Trước đây trong cuộc chiến, sự vụng về trong cách điều hành chiến tranh và lãnh đạo đất nước đã khiến cho miền Nam tuy có chính nghĩa mà như không có chính nghĩa. Sự vụng về ấy là một cái tội, vì nó đã dẫn đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Giờ đây, trong những dịp “tưởng niệm”, “quốc hận“ của một số tổ chức người Việt hải ngọai vô tình đã lọai ra ngòai những nạn nhân rất chính đáng của cuộc chiến, những người cũng có đủ lý do để xem ngày 30 tháng 4 là ngày “quốc hận”. Nhiều danh xưng, nhiều cách thức tưởng niệm đã khiến người ta tưởng chừng như chỉ có những người trực tiếp thua trận trên chiến trường, những người chôn gần hết quãng đời tuổi trẻ trong những trại cải tạo, mới “được quyền“ mang mối “quốc hận“ nhân ngày 30 tháng 4 lịch sử. Đó là chưa kể những ngộ nhận từ “nạn nhân ở trong nước“, xem những cách thức tưởng niệm ấy như là một sự khao khát quay về với quyền lực đã bị mất, với địa vị ăn trên ngồi trốc cũ, với những hư danh tạo nên bằng máu và nước mắt của thuộc quyền, của nhân dân.
Mặc cảm thua trận đã có dịp trỗi dậy qua những sự cường điệu phát xuất từ tâm thức cá nhân khiến chính nghĩa chung bị lu mờ. Có những cá nhân xem nỗi đau của mình là một đại dương mênh mông chứ không phải gịot nước mắt thổn thức che dấu trong đêm. Để rồi hễ thấy ai không chịu chết chìm trong đại dương nước mắt của mình thì vội lên tiếng chê bai, chỉ trích, thậm chí chụp mũ. Trong cuộc chiến, sau cuộc chiến, hầu như mỗi gia đình Việt Nam đều có một nỗi đau của riêng mình, dù là người ấy ở trong nước hay ngòai nước, ở miền Nam hay miền Bắc khi còn dòng Bến Hải chia cắt năm xưa. Chỉ biết đến nỗi đau của mình, không đếm xỉa gì đến nỗi đau của người khác, ở một nghĩa nào đó cũng là một hành động khó gây được được sự cảm thông (3).

Không phải ngẫu nhiên mà, nhiều người ở trong nước, tuy không ưa gì chế độ cầm quyền hiện nay, nhưng cũng không tỏ vẻ có cảm tình với một vài tổ chức chống Cộng hải ngọai. Họ cho rằng, cái tâm thức “quốc hận“ ở những tổ chức này là tâm thức giận dữ của “đứa trẻ bị giật mất chiếc bánh“, nay có dịp tha hồ ”tự do muốn làm gì thì làm“ nên tụ họp nhau tìm cách “giật lại chiếc bánh đã bị mất“.

Sẽ là một cái tội khó tha thứ nếu người Việt hải ngọai, những người mệnh danh là “chiến sĩ cho Tự Do“, vô tình hay cố ý, một lần nữa làm lu mờ đi chính nghĩa. Chính nghĩa có sáng tỏ hay không, không phải nhờ những lời nói hay, những khẩu hiệu to, những biểu ngữ lớn mà phải do hành động, thứ hành động xuất phát từ niềm thao thức đến sự an nguy, đến dân chủ tự do cho đất nước, sự no đủ của người dân, sự tươi sáng của các thế hệ Việt Nam trong tương lai. Những hành động ấy, nếu thực sự làm vinh danh cho chính nghĩa, không thể đến từ những tấm lòng hận thù cá nhân, những mưu đồ vị kỷ, những bon chen ganh ghét lẫn nhau, những thái độ bảo thủ chỉ cho mình là đúng, duy nhất đúng, những ai đi khác con đường mình đi là kẻ phản bội, là tên thỏa hiệp, là việt gian bán nước v.v...(4)

Chẳng may, từ 39 năm nay, đó là những hiện tượng mà kẻ ưu thời mẫn thế không thể không nhận ra. Ở ngòai đất nước, người Việt Nam có đủ mọi thứ tự do mà một con người có thể hưởng. Trong thực tế, có cả một con đường dài đi từ sự sở hữu tự do cho đến ý thức sử dụng tự do. Nhiều người, dù sống ngòai đất nước hơn nửa đời người, vẫn còn đứng ở đầu con đường, với tâm thức sở hữu tự do, tức là muốn làm gì thì làm, bất chấp hậu quả việc mình làm, lời mình nói, những dòng chữ mình viết xuống. Vì thế, thay vì củng cố thêm chính nghĩa tự do đối đầu với cộng sản độc tài, họ đã làm thương tổn chính nghĩa, thương tổn hàng ngũ những người chiến đấu cho chính nghĩa, có nghĩa là họ làm thương tổn chính lý tưởng của hàng ngũ mình.

Sở hữu tự do phải đi kèm với ý thức sử dụng sự tự do mà mình sở hữu. Nếu không, sẽ như người vừa làm chủ cây súng, vì loay hoay không biết cách sử dụng, nên đã tự bắn vào chân mình.

Bài học nào rút ra từ ngày lịch sử 30 tháng 4, cũng sẽ là đề tài cho nhiều thế hệ mai sau bàn bạc, như lời nhận định của Sử Gia Stanley Karnow 32 năm trước. Trong đó, chắc chắn phải có bài học về cách thức xây dựng chính nghĩa, giữ gìn chính nghĩa trong những cuộc đối đầu. Câu nói “ chính nghĩa sẽ tất thắng “ chưa hẳn là chân lý nếu bên có chính nghĩa không đủ khả năng khai triển và phát huy chính nghĩa. Không ai có thể phủ nhận sự thống trị của những người cộng sản trên đất nước chúng ta, nếu chỉ kể mốc 30 tháng 4 năm 1975, đã kéo dài hơn 39 năm nay. Và không ai tiên đóan được khi nào thì sự thống trị ấy chấm dứt, nhường chỗ cho một chế độ tự do dân chủ thực sự vì dân, do dân mà cả 80 triệu người Việt trong nước và hơn 3 triệu người Việt sinh sống tại hải ngọai ước mong.

Sự mơ hồ ấy, phải chăng cũng có sự “ đóng góp “ – vô tình hay cố ý – của cái cách mà một nhóm người Việt hải ngọai dùng để chống Cộng?

T.Vấn
WWW.T-Van.Net
___________________________________

(1) ”Vietnam: A History“. Stanley Karnow. Penguin Books. Revised Edition 1991. P. 11

(2) Có lẽ, cũng không quá cường điệu khi bao gồm trong số những người thuộc về phe chiến bại cả những bộ đội miền Bắc, những người hăm hở xuôi Nam với khát vọng giải phóng đồng bào ruột thịt miền Nam đang bị “ gọng kềm Mỹ Ngụy “ làm cho đói khổ. Và khi đặt bước chân vào những đô thị, thành phố miền Nam mới vỡ lẽ mình bị lừa gạt, như nhà văn Dương Thu Hương đã từng can đảm thú nhận. Cái câu đầu môi cửa miệng “ Miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ “ trong những ngày đầu sau chiến tranh, đối với người Việt Nam có lòng tự trọng, là một sự xúc phạm nặng nề dành cho kẻ bại trận.

(3) Tôi được nghe kể lại và xem được bức hình một cặp nam nữ người Việt ở miền Nam Cali, trong một cuộc biểu tình vinh danh cờ vàng, đã đứng dẫm lên lá cờ đỏ Cộng sản. Vinh danh lá cờ vàng, là vinh danh chính nghĩa tự do của người Việt hải ngọai, đó là việc nên làm. Nhưng dẫm lên lá cờ đỏ, mà hàng triệu thanh niên miền Bắc, đã một thời vì lá cờ ấy mà sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, đã từng say sưa – dù bị lừa phỉnh – dâng hiến tuổi trẻ của mình cho lá cờ ấy, có lẽ là một việc, theo tôi, nên suy nghĩ cẩn thận, trước khi làm. Không thể không nghĩ đến hàng triệu bà mẹ ở miền Bắc mất con, hàng triệu người vợ miền Bắc mất chồng, hàng triệu người con miền Bắc mất cha. Dù sao, với họ, lá cờ ấy là biểu tượng cho xương máu mà con, chồng, cha của họ đã đổ ra. Với người Việt hải ngọai, lá cờ ấy chỉ là biểu tượng của một chế độ tàn ác, hút máu người dân, nhưng với người trong nước, tôi không tin họ có cùng cách nhìn như chúng ta. Với cách nghĩ truyền thống của người Việt Nam, dân là vạn đại, sẽ còn đó cùng với sự tồn vong của đất nước. Nhưng, chính quyền nào cũng đến rồi sẽ đi. Rồi đây, chẳng chóng thì chầy, kẻ cầm quyền Cộng sản sẽ phải đến lúc chia tay với quyền lực. Ai biết được, khi ấy, lá cờ đỏ sao vàng có thể vẫn tồn tại với người dân, trong ý nghĩa nó đã thấm máu hy sinh của người dân, chứ không phải là biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản tàn bạo một thời. Trong suy nghĩ ấy, liệu những người đứng dẫm lên lá cờ đỏ sao vàng dạo nọ, có tạo được sự cảm thông nơi những người Việt có cùng lý tưởng tranh đấu cho tự do ở trong nước?

(4) Trong nhiều năm, cứ đến tháng 4, tôi như người mang trong lòng vết thương còn mưng mủ, dở vết thương còn sưng tấy ấy ra, ve vuốt nỗi đau của mình. Sự ve vuốt ấy biểu lộ cụ thể bằng cách đọc đi đọc lại quyển hồi ký: Ngày N, giờ G của nhà văn Hòang Khởi Phong viết về cuộc “ di tản chiến thuật “ trên con đường số 7 của quân và dân Vùng 2 vào tháng 3 năm 1975. Đọc, để tự nhắc nhở mình, đã có một thời, địa ngục có thật trên trần gian này ở vào những ngày sắp tàn cuộc chiến tranh. Tôi đọc với tâm thức của kẻ cứ không cưỡng được hành động lấy tay đè mạnh vào vết thương cũ để tìm cảm giác dễ chịu sau cơn đau nhói, để rồi sau sự dễ chịu giả tạo là nỗi đau còn nhức nhối hơn nữa. Ở đọan cuối, trước khi kết thúc tập hồi ký não lòng, trong lá thư gởi đến những em học sinh Vườn Hồng ( tức ngôi trường tiểu học do chính tác giả dựng nên ở trại giam Phú Quốc thời ông còn là quan coi tù ở đó ), ông viết: ” Đã mười ba năm nay, mỗi lúc tôi thấy “ thế hệ chúng tôi” đang dựng lại những ngày cũ. Những năm ngơ ngác ban đầu trên xứ người qua đi, những con người ngụy tín cũ dần dần hồi phục. Nên vì vậy mà mười ba năm nay, cho dù “thế hệ chúng tôi” thành lập cả ngàn đoàn thể, tổ chức, chúng tôi lăn xả vào chống Cộng, nhưng bọn Cộng sản vẫn mạnh khỏe ở bên kia bờ biển. Chúng tôi còn bận giành quyền lãnh đạo lẫn nhau, chúng tôi còn bận đổ tội lẫn cho nhau, chúng tôi còn bận chống lẫn nhau, trước khi có dịp chống Cộng. Hãy nhìn kỹ những vết xe chúng tôi để lại, hãy nhìn kỹ những con đường chúng tôi đi, dấu vết xấu xí nham nhớ chúng tôi để lại khắp miền Nam và giờ đây chúng tôi mang sang xứ người những ví dụ tuyệt hảo của lòng háo danh, ích kỷ, hời hợt, tự mãn, đố kỵ, giả trá.”.

Nhà văn Hòang Khởi Phong viết những dòng đau xót này vào năm 1988, là năm ông hòan tất tập Hồi ký để đời. Hơn 20 năm sau, những điều ông viết, những vấn đề ông đặt ra cho người Việt hải ngọai, hầu như còn nguyên vẹn, nếu không muốn nói là càng trầm trọng thêm. Và đó cũng là lý do có phần chú thích này. 
  T.Vấn
(Dân luận)

Xử phúc thẩm đồng chí Dương Chí Dũng và đồng bọn - Nhìn sơ thấy gì?


1. Đồng chí Dương Chí Dũng, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, chủ tịch Vinalines đỗ thừa vụ mua ụ nổi 83M sang cho tập thể Hội đồng quản trị Vinalines và đồng chí Tổng giám đốc Vinalines là Mai Văn Phúc. Đồng chí họ Dương thề sống thề chết, thề có trời có đất rằng không có nhận lại quả 10 tỷ đồng từ đứa nào cả, chỉ nhận phong bì tết và rượu biếu của cấp dưới.

Đồng chí Chí Dũng dù thề thốt không tham ô tài sản nhưng hối hận vì "không hiểu sao" lại bỏ trốn. Và một lần nữa, khẳng định được “mật báo” từ Thượng tướng công an Phạm Quý Ngọ vào chiều ngày 17/5/2012. Dù một mực đấm ngực kêu oan nhưng (cũng không hiểu sao) gia đình đồng chí Dũng lại tự phê, tự kiểm, tự bán hết tài sản, nộp cho đảng và nhà nước 4,7 tỷ đồng nhằm bồi thường, trả nợ cho tội gì thì... không biết.

2. Đồng chí Mai Văn Phúc đỗ thừa mình là Tổng giám đốc Vinalines nhưng không có chuyên môn, không nắm rõ quy định đầu tư xây dựng và không hiểu văn bản chỉ đạo của Thủ tướng là cái giống gì, nhiều lúc ký văn bản nhưng không đọc. Đồng chí ta mới vào bàn ăn có 2 tháng nên "không biết chuyện gì", ăn uống ra sao... cho đến khi bị bắt mới "biết".

Sau khi đỗ thừa mình "không biết" cái củ gì cả thì:

Đồng chí TGĐ Mai Văn Phúc đỗ thừa cho đồng chí Phó giám đốc Vinalines là Trần Hữu Chiều mới là người nắm hết mọi khâu.

Đồng chí TGĐ Mai Văn Phúc đổ thừa đồng chí tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines là Trần Hải Sơn nói láo và khẳng định mình không thò tay nhận lấy 10 tỷ đồng từ đồng chí Sơn. Đồng chí Phúc chỉ rón rén đưa tay nhận từ đồng chí ấy một phong bì chỉ có 2 triệu đồng và chai rượu Chivas 18 tuổi đời.

Dù chỉ có phong bì 2 triệu và chai rượu già nhưng gia đình đồng chí TGĐ Mai Văn Phúc cũng đã biết điều nộp trước cho đảng và nhà nước 3,5 tỷ đồng - và cũng không biết nộp cho tội gì.

3. Đồng chí Trần Hải Sơn đỗ thừa chính đồng chí Cục trưởng / Chủ tịch Dương Chí Dũng và đồng chí TGĐ Vinalines Mai Văn Phúc đã chỉ đạo đứng ra... tiếp thu 1,666 đô la tiền lại quả và cho vào trương mục nhà băng công ty Phú Hà của cô em gái.

Đồng chí Sơn lại quả cho đồng chí chỉ đạo Dũng, Phúc mỗi ngài 10 tỷ đồng, đồng thời tự nguyện đút vào túi đồng chí Phó giám đốc Vinalines, cũng là trưởng đoàn khảo sát mua ụ nổi là Trần Hữu Chiều 340 triệu đồng.

Về phần mình, trong vụ được nhận ụ nổi xấu - cũ - già 42 năm để sửa cho đẹp - mới - trẻ, đồng chí Trần Hải Sơn đã bỏ túi được hơn 3 tỷ đồng. Tổng cộng cho việc ký nháy, đồng chí Sơn được lại quả cho mình 7,8 tỷ đồng.

4. Đồng chí Trần Hữu Chiều đổ thừa rằng thời điểm các đồng bọn "quyết" và tiến hạnh dự án ăn chia thì đồng chí chỉ mới là Chánh văn phòng Vinalines, không được tham gia vào việc lập, hoạch định dự án. Nên không biết cái củ gì cả.

Cho nên, đồng chí Chiều chỉ chịu "hiểu" rằng 340 triệu đồng do đồng chí Sơn thương mến đưa cho là khoản tiền bồi dưỡng, không có ăn nhậu gì đến cái ụ nổi ụ chìm.

*
Tóm lại, theo lời của mỗi đồng chí kêu oan (không tính việc đỗ thừa được mùa mất mùa gì gì đó từ các đồng bọn thân mến khác) thì:

Đồng chí cao cấp nhất là Dương Chí Dũng được lại quả phong bì tết và chai rượu.

Đồng chí cao cấp hai là Mai Văn Phúc được lại quả phong bì 2 triệu đồng và chai rượu.

Đồng chí cao cấp ba là Trần Hữu Chiều được lại quả 340 triệu đồng.

Đồng chí cao cấp tư là Trần Hải Sơn được lại quả 7,8 tỷ đồng.

Các đồng chí con sâu của đảng ta có một hệ thống ăn chia thật "bình đẳng"... trước tòa. Càng cao chức càng được lại quả ít!

Nhưng tính lại: Nếu nhìn vào tổng số tiền lại quả là 1,666 triệu đô tức 28 tỷ đồng và trừ đi tiền bỏ túi của các đồng chí cao cấp ba, cấp tư, xuống cấp năm, cấp sáu... thì biết ngay số tiền thực sự trong mấy cái phong bì, không tính chai rượu, dành cho đồng chí cục trưởng/ chủ tịch Dương Chí Dũng và TGĐ Mai Văn Phúc sẽ là bao nhiêu.

Nhưng xin đừng kết luận rằng đồng chí Dũng và Phúc ôm trọn gói. Trên hai đồng chí ấy còn có các đồng chí cao cấp 0, cấp trừ, cấp trừ 2... Làm sao ăn được một mình!? Nếu thế thì làm sao có chuyện đồng chí Thượng tướng thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ rộng lòng từ bi mật báo cho ngài Dũng chủ tịch Vinalines "lánh mặt" sang Miên để ngày nay đồng chí Dũng hối hận vì "không hiểu sao" và đồng chí Ngọ đã không còn được thở.

Nhắc lại bản án sơ thẩm dành cho các đồng chí, đồng bọn:

Dương Chí Dũng: Tử hình về tội “Tham ô tài sản”, 18 năm tù về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tổng cộng mức hình phạt: “Tử hình”.

Mai Văn Phúc: Tử hình về tội “Tham ô tài sản”; 18 năm tù về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tổng cộng mức hình phạt: “Tử hình”.

Trần Hải Sơn: 22 năm tù.

Trần Hữu Chiều: 19 năm tù.

Lê Văn Dương, đăng kiểm viên Chi cục đăng kiểm số 6, Cục Đăng kiểm Việt Nam: 7 năm tù.

Lê Ngọc Triện, đội trưởng nghiệp vụ Chi cục Hải quan Vân Phong: 8 năm tù.

Lê Văn Lừng, cán bộ Chi cục hải quan Vân Phong: 8 năm tù.

Mai Văn Khang, phó tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên vận tải viễn dương Vinashin thuộc Vinalines: 7 năm tù.

Huỳnh Hữu Đức, phó cục trưởng Chi cục Hải quan Vân Phong kiêm phó chánh văn phòng Cục hải quan Khánh Hòa: 8 năm tù.

Bùi Thị Bích Loan, kế toán trưởng Vinalines: 4 năm tù.

Đảng bác Hồ đạo đức, cần kiệm, liêm chính mất đi 10 con sâu chiến, từ đồng chí bị đảng úm ba la biến thành đồng bọn.

Dân ta mất hơn 335 tỷ đồng trong tổng số 525 tỷ đồng mà "quả đấm thép" Vinalines đấm vào ụ nổi nhưng đã chìm từ lâu nhập cảng về từ bên Nga.

Thiệt hại này các đồng chí của đảng ta vẫn nhất định nói rằng đó là thiệt hại của nhà nước.

Chỉ có đồng chí Hùng hói, chủ tịch quốc hội - nhưng không đứng đầu quốc hội - là nói bị đúng: "dân" quyết sai là dân chịu. Ụ nổi thành ụ chìm là do dân bây quyết chứ ai vào đây!? Đừng có đỗ thừa!
Vũ Đông Hà 
  (DLB)

Đề nghị giữ án tử hình ở vụ Vinalines

Các bị cáo Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc bị tòa sơ thẩm tuyên án tử hình vì tội 'Tham ô' liên quan đến ụ nổi 83M
Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) Tối cao đề nghị tòa phúc thẩm giữ nguyên bản án tử hình đã tuyên với cựu Cục trưởng Hàng hải Dương Chí Dũng và đồng phạm Mai Văn Phúc.
Trong ngày thứ hai của phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND Tối cao nói không có cơ sở cho các bị cáo, gồm ông Dũng, Mai Văn Phúc cùng những người khác xin giảm án.
Tòa sơ thẩm đã tuyên án tử hình với hai ông, Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải, nguyên Chủ tịch HĐQT tổng công ty Hàng hải Việt Nam, và Mai Văn Phúc, nguyên Tổng giám đốc Vinalines, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Vận tải
Cũng trong ngày thứ hai của phiên tòa phúc thẩm vụ Vinalines, đại diện Bộ Tài chính cho biết cơ quan giám định liên ngành đã thống nhất nhận định ụ nổi 83M không phải tàu biển, báo trong nước đưa tin.
Ông Trần Thái Sơn cũng khẳng định Chi cục hải quan Vân Phong đã làm đúng quy trình trong việc xử lý hồ sơ nhập khẩu ụ nổi 83M.
Hồi năm ngoái, kết luận của cơ quan điều tra nói mặc dù biết ụ nổi 83M là tàu biển, Chi cục hải quan Vân Phong vẫn làm thủ tục thông quan, cho phép nhập khẩu.
Vì được sản xuất từ năm 1965, ụ nổi 83M nếu bị xem là tàu biển mà vẫn được phép nhập đồng nghĩa với việc Chi cục hải quan Vân Phong đã vi phạm quy định về điều kiện nhập khẩu tàu biển trong nghị định 49/2006/NĐ-CP của chính phủ.
Ông Sơn cũng cho biết "hải quan chỉ làm thủ tục hải quan, không liên quan đến việc đăng ký sau này", theo báo Pháp Luật, và "việc nhập khẩu sản phẩm về không đăng ký, đăng kiểm thuộc trách nhiêm của Vinalines".
"Thời điểm 2008 hoàn toàn không có danh mục của các cơ quan chuyên ngành quy định mặt hàng ụ nổi là cấm nhập khẩu hoặc phải nhập khẩu có điều kiện," ông nói.
"Vì vậy, việc hải quan Vân Phong cho nhập khẩu như hàng hóa thông thường là không sai," ông Sơn khẳng định.
Chất lượng ụ nổi

Dương Chí Dũng nộp tiền cho tội nào?
Chất lượng của ụ nổi 83M cũng là vấn đề được đưa ra chất vấn tại phiên tòa ngày 23/4.
Báo Dân Trí dẫn lời đại diện Cục đăng kiểm có mặt tại tòa cho biết "những ụ nổi đã 60-70 tuổi vẫn hoạt động bình thường và đủ điều kiện hoạt động thì cơ quan quản lý vẫn phân cấp."
Tuy nhiên lời giải thích này đã bị chủ tọa bác bỏ vì cho rằng việc đăng kiểm viên Lê Văn Dương (lãnh án 7 năm tù ở tòa sơ thẩm) khi đi giám định phát hiện ra 3 máy phát điện của ụ nổi không hoạt động mà vẫn kết luận các thiết bị vận hành bình thường là không đúng trách nhiệm.
Tại phiên tòa sơ thẩm hồi tháng 12 năm ngoái, cả hai bị cáo Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc đều bị tuyên án tử hình vì tội 'Tham ô tài sản' liên quan đến số tiền lại quả 1,66 triệu đôla thu được từ việc mua ụ nổi 83M.
Trong phần chất vấn sáng 22/4, hai bị cáo này đều cho rằng mình không phạm tội 'Tham ô tài sản' và bác bỏ việc nhận tiền lại quả từ bị cáo Trần Hải Sơn, theo báo trong nước.
Khắc phục tội danh nào?

Ông Dương Chí Dũng và các đồng phạm tại tòa phúc thẩm
Trước phiên phúc thẩm, gia đình ông Dương Chí Dũng đã nộp cho Cục Thi hành án dân sự TP. Hà Nội 4,7 tỷ đồng tiền khắc phục hậu quả cho vụ án Vinalines, báo Pháp luật Việt Nam ngày 19/4 đưa tin.
Gia đình bị cáo Mai Văn Phúc cũng đã nộp được 3,5 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong phiên tòa sáng 22/4, ông Dũng không nói rõ khoản tiền này là để khắc phục hậu quả cho tội danh nào, theo các báo trong nước.
Luật sư Hoàng Văn Hướng, Trưởng văn phòng Luật sư Hoàng Hưng, cho biết nếu Dương Chí Dũng vẫn không nhận tội 'Tham ô' thì khoản tiền này không thể xem là để khắc phục hậu quả cho tội danh đó được.
"Không có tội thì không thể nộp phạt," ông nói với BBC trong cuộc phỏng vấn ngày 22/4.
"Tại phiên tòa sơ thẩm thì Dương Chí Dũng đã nhận một phần trách nhiệm trong tội 'Cố ý làm trái'. Như vậy khoản tiền 4,7 tỷ đồng có thể xem như là một tình tiết giảm nhẹ cho tội danh này."
Theo BBC

NSUT Kim Chi - Thư từ nước Mỹ gởi bạn bè


Chúng tôi được lời mời tới Mỹ dự hội thảo về vấn đề tự do báo chí VN của hai vị dân biểu Hoa Kì là bà Loretta Sanchez và Joe Lojgren. Ban tổ chức gửi vé bay, đưa đón chúng tôi ở các sân bay và lo mọi chuyện ăn ở đi lại trong nước Mỹ.

Vậy là các dư luận viên bắt đầu tấn công chúng tôi rằng : “ Bọn họ là những kẻ vì những đồng Dola mà bán rẻ Tổ Quốc…” Thấy những lời thóa mạ vô căn cứ đó của

những người “trung thành” chỉ khiến tôi tức cười. Họ nguyền rủa , kết tội chúng tôi vì lòng họ yêu nước và đang ra sức bảo vệ đất nước thật ư? Họ nói rằng lịch sử VN sẽ phán xét chúng tôi những kẻ đi bêu xấu tổ quốc. Tôi thì nghĩ khác họ. Những kẻ nào bòn rút đất đai tiền của của dân để đem ra nước ngoài giấu vào các ngân hàng thì mới là kẻ có tội với dân. Những kẻ nào cậy đứng trên đỉnh cao quyền lực đã dùng bộ máy chuyên chính bịt mắt, bịt miệng và đàn áp thẳng tay những người lương thiện dám đấu tranh thì mới là kẻ có tội. Những kẻ chạy theo bám đít bọn tham nhũng và bưng bít sự thật để được chủ thưởng thì mới có tội với dân với nước.

Đây xin mọi người hãy xem bản tổng kết của nhà bào nào đó mà Oanh Bùi đã gửi cho tôi thì mọi người sẽ biết rõ thêm tình trạng VN.

Thấy chúng tôi dám nói, dám viết sự thật hiện trạng của VN trên các trang mạng nên các dân biểu quốc hội Mỹ đã mời chúng tôi tới Hoa Kì. Đoàn hiện chỉ có 5 người, năm người đã bị chặn lại ở các sân bay. Còn nếu nhà nước cử người đi đại diện cho VN thì bọn tôi chẳng bao giờ tới lượt. Những người đang biểu diễn lập trường chắc chắn sẽ được cử đi để “bảo vệ danh dự của đảng cộng sản VN và nhà nước”. Lúc đó các nhà lý luận sẽ viết sẵn cho họ những bài tham luận đầy tự hào rằng: “Việt Nam tuy còn khó khăn, nhưng đang phát triển và dân chủ gấp vạn lần các nước tư bản”… Việt Nam “dân chủ” mới có những người như Đoàn Văn Vươn, Đặng Ngọc Viết phải đem cả mạng sống của mình ra giành lại đất đai… Việt Nam tự do nên các blogger và những người dám xuống đường đấu tranh chống Trung Quốc bành trướng đã bị đàn áp và lần lượt vào tù.

Họ làm trò gắp lửa bỏ tay người chẳng mấy ai tin. Chúng tôi dẫu biết sẽ rất nhiều hệ lụy trong ngày trở về, chúng tôi sẵn sàng đón nhận tất cả. Tù đày ư, tra tấn đánh đập ư? Chúng tôi sẵn sàng dấn thân cho một Việt Nam ngày mai được TỰ DO, DÂN CHỦ, GIÀU MẠNH, VĂN MINH, KHÔNG THÙ HẬN.
Nguyễn Thị Kim Chi  (FB Chi Kim Nguyễn)

Buộc EVN, Petrolimex phải công khai lương lãnh đạo

(TNO) Bộ Công thương vừa ra chỉ thị yêu cầu Petrolimex và EVN sớm công khai giá thành điện, xăng dầu cũng như lương, thưởng của lãnh đạo và nhân viên trong ngành.Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tại chỉ thị số 11 ngày 22.4, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng yêu cầu Cục Điều tiết điện lực, Tập đoàn Điện lực VN (EVN) thực hiện công bố giá điện theo cơ chế giá thị trường, công khai minh bạch các yếu tố cấu thành giá bán điện và phương án điều chỉnh giá bán điện.

 EVN phải công khai giá
EVN sẽ phải công khai lương, thưởng của cán bộ, công nhân tập đoàn - Ảnh: Ngọc Thắng

Cụ thể, các đơn vị này phải công khai biến động các thông số đầu vào các yếu tố cấu thành giá điện bình quân cơ sở, các khoản chi phí sản xuất, kinh doanh điện chưa tính vào giá bán điện hiện hành được phép thu hồi, mức giá bán điện bình quân cơ sở, khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân (nếu có), cơ cấu biểu giá bán lẻ điện hiện hành, biểu giá bán lẻ điện và nguyên tắc xây dựng biểu giá bán lẻ điện, tính toán tác động của việc điều chỉnh giá bán điện đến các thành phần sử dụng điện. Đặc biệt, EVN sẽ phải công khai báo cáo kiểm toán, kết quả sản xuất kinh doanh…

Vụ Thị trường trong nước, Tập đoàn Xăng dầu VN (Petrolimex) và các đơn vị liên quan sớm công khai giá xăng dầu, các yếu tố hình thành giá, việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu.

Ngoài việc phải công bố thông tin về thông tin thị trường xăng dầu, các doanh nghiệp xăng dầu phải công khai, minh bạch giá cơ sở, kết cấu hình thành giá cơ sở, mức trích lập, số dư và quản lý sử dụng Quỹ bình ổn, công khai báo cáo kinh doanh, báo cáo kiểm toán…

Petrolimex và EVN cũng phải công khai tình hình tài chính, hiệu quả sử dụng và bảo toàn vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các khoản thu nhập bình quân của người lao động, tiền lương, thù lao tiền thưởng của lãnh đạo doanh nghiệp…

Cục Điều tiết điện lực định kỳ hàng tháng phải công bố thông tin về giá điện theo cơ chế thị trường; hàng quý hoặc trước khi điều chỉnh giá phải công khai các yếu tố cấu thành giá hoặc phương án điều chỉnh giá. Vụ Thị trường trong nước phải công bố hàng ngày giá xăng dầu thế giới. Vụ Tài chính 6 tháng một lần công bố kết quả sản xuất kinh doanh của EVN, Petrolimex và báo cáo giám sát tài chính, hàng năm thực hiện công bố báo cáo quyết toán tài chính đã được kiểm toán của 2 doanh nghiệp này.

Vụ Tổ chức cán bộ công bố các khoản thu nhập, tiền thưởng, thù lao bình quân hàng tháng của cán bộ viên chức của Petrolimex và EVN trên website Bộ Công thương.

Tuy nhiên, chỉ thị này không nói rõ thời điểm các doanh nghiệp và Cục, Vụ thuộc Bộ phải thực hiện việc công khai, minh bạch thông tin này.
Mai Hà
(Thanh niên)

Ai sẽ làm Tổng Bí thư năm 2016?

Ai sẽ làm Tổng Bí thư năm 2016?

Dạo này đang có nhiều lời đồn đại, rằng có khả năng đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, sẽ làm Tổng Bí thư vào năm 2016.

Ta thử phân tích khả năng này xem sao.

Hiện nay Bộ Chính trị của ‘đảng ta’ có 16 người, người nhiều tuổi nhất là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sinh năm 1944, quê Đông Anh, Hà Nội.

Năm 2016, đồng chí Phú Trọng sẽ 72 tuổi, chắc chắn sẽ phải nghỉ.

Người nhiều tuổi thứ hai trong Bộ Chính trị là đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (1), quê Nam Đàn, Nghệ An, nghe nói là cháu họ bác Hồ (Nguyễn Sinh Coong), sinh năm 1946. Đồng chí Sinh Hùng chắc chắn cũng sẽ nghỉ vào năm 2016, cho dù nghe nói là cháu họ bác Hồ, vì khi đó, đồng chí vừa tròn 70 tuổi, cũng thuộc loại “xưa nay hiếm”- lời cụ Hồ.

Nhiều tuổi thứ ba trong Bộ Chính trị có 2 người, là đồng chí Ngô Văn Dụ, sinh năm 1947, quê  Vĩnh Phúc, hiện đang là Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương. Và đồng chí Tô Huy Rứa, sinh năm 1947, quê Thanh Hóa, đồng hương với đồng chí cựu Tổng Bí thư “mênh mông tiền dân” Lê Khả Phiêu.

Nhiều tuổi thứ 4 trong Bộ Chính trị, có 5 người, cùng sinh năm 1949, là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thường trực ban Bí thư  – cựu Bộ trưởng Bộ Công an, Đại tướng Lê Hồng Anh, Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh, và Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị, đồng hương Thanh Hóa với đồng chí Huy Rứa, và đồng chí Lê Khả Phiêu.

Như vậy, những vị cao lão trong Bộ Chính trị nói trên tất cả là 9 vị, còn lại 7 người thuộc loại trẻ trong Bộ Chính trị, trong đó có 2 phụ nữ.

7 vị trẻ đó là: Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang - Đại tướng, sinh năm 1956; Lê Thanh Hải - Bí thư Sài Gòn, sinh năm 1950; Đinh Thế Huynh - Trưởng ban Tuyên giáo, sinh năm 1953; Nguyễn Xuân Phúc - Phó Thủ tướng, sinh năm 1954; Nguyễn Thiện Nhân - Chủ tịch Mặt trận, sinh năm 1953; Tòng Thị Phóng - Phó Chủ tịch Quốc hội, sinh năm 1954; Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó Chủ tịch Quốc hội, sinh năm 1954.

“Đảng ta” có những cách bố trí cán bộ rất kỳ quặc, không giống ai. Ví dụ, Phó Chủ tịch Quốc hội thì vào Bộ Chính trị được, nhưng Phó Chủ tịch nước thì chưa ai vào Bộ Chính trị được. Mà bây giờ có tới 2 Phó Chủ tịch Quốc hội cùng vào Bộ Chính trị, còn Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan thì không được vào.

“Đảng ta” coi thường cái chức vụ Phó Chủ tịch nước quá.

Theo lẽ thông thường của “đảng ta”, thì tới Đại hội đảng, khoảng một nửa Ủy viên Bộ Chính trị sẽ nghỉ, để đưa người mới và trẻ vào.

Lẽ thông thường thứ hai của “đảng ta”, Tổng Bí thư phải là người đã là Ủy viên Bộ Chính trị ít nhất một khóa rồi, không có ai vừa vào Bộ Chính trị mà làm ngay Tổng Bí thư được.

Thế tức là Tổng Bí thư phải là một trong 16 vị Ủy viên Bộ Chính trị hiện nay.

Câu hỏi đặt ra là: Tổng Bí thư có thể là một trong 9 vị Ủy viên già, hay là một trong 7 vị Ủy viên trẻ?

Bí thư Sài Gòn thì chưa bao giờ được làm Tổng Bí thư, trừ Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Bí thư Sài Gòn thời 1976, 1977. Nhưng, đồng chí Linh thực ra là người làng Tương Bần, Yên Nhân, Hưng Yên, sát nách Hà Nội.

Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận, và Trưởng ban Tuyên Huấn cũng chưa bao giờ được làm Tổng Bí thư.

Đại tướng Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang có thể làm Tổng Bí thư được không? Nước ta chưa có tiền lệ như nước Nga, là Bộ trưởng Bộ Công an - trùm an ninh làm Tổng Bí thư (2).

Nhưng gần đây, có khá nhiều vị công an được chuyển ngành, sang làm dân sự, làm Bí thư Tỉnh ủy, như Trung tướng Công an Phạm Minh Chính đang làm Bí thư Quảng Ninh. Ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao Nguyễn Hòa Bình, cũng nguyên là Thiếu tướng Công an, về quê Quảng Ngãi, làm Bí thư Quảng Ngãi, rồi quay lại nắm ngành Kiểm sát. Hay ông Trương Hòa Bình, nguyên Phó Giám đốc Công an Sài Gòn, nay làm Chánh án Tòa án Tối cao.

Chính Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng cũng nguyên là Thứ trưởng Bộ Công an, năm 1996, rồi chuyển sang làm Chính quyền. Và Thường trực Ban Bí thư hiện nay, Lê Hồng Anh, cũng nguyên là Bộ trưởng Bộ Công an, Đại tướng.

Có thể nói, chưa có bao giờ ngành công an lại nở rộ, phát đạt, ăn nên làm ra như hiện nay, ở nước ta. Nó tạo ra hình ảnh một nhà nước cảnh sát đầy đủ nhất trong lịch sử hơn 4000 năm của Việt Nam ta.

Với xu hướng cảnh sát hóa bộ máy “đảng và nhà nước ta” hiện nay, thì có khả năng đồng chí Đại tướng Trần Đại Quang cũng có thể nằm trong tầm ngắm của chức Tổng Bí thư vào Đại hội Đảng năm 2016 sắp tới.

Như vậy trong 7 vị Ủy viên Bộ Chính trị trẻ, thì chỉ có duy nhất Đại tướng Trần Đại Quang có khả năng nhiều nhất có thể trở thành Tổng Bí thư sắp tới (3).

Trong 9 vị Ủy viên già, thì 3 người chắc chắn sẽ nghỉ, là Tổng Bí thư Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Sinh Hùng, và Trưởng ban Kiểm tra Văn Dụ.

Trong 16 vị Ủy viên Bộ Chính trị, sẽ có khoảng một nửa nghỉ, tức là khoảng 8 người, hoặc ít nhất, cũng phải có khoảng 6 người phải nghỉ.

3 người nói trên nghỉ rồi, thì ít nhất 3 người nữa, sẽ là ai phải thôi Ủy viên Bộ Chính trị?

Người thứ 4 sẽ phải ra khỏi Bộ Chính trị sẽ là đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, vì Chủ tịch Mặt trận thì chưa bao giờ vào Bộ Chính trị cả.

2 người nữa phải ra khỏi Bộ Chính trị sẽ là ai?

Có thể trong số 7 vị trẻ kia không? Hay là trong số 5 vị sinh năm 1949?

Có thể nói, bài toán nhân sự sắp tới cho Bộ Chính trị của “đảng ta” là rất đau đầu.

Về đồng chí Tô Huy Rứa, thì như thế nào?

Lúc đầu, có tin đồn là đồng chí Tổng Bí thư Phú Trọng muốn giới thiệu đồng chí Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị vào chức Tổng Bí thư sắp tới. Đồng chí Quang Nghị sinh năm 1949, trẻ hơn đồng chí Huy Rứa 2 tuổi.

Bí thư Hà Nội lên làm Tổng Bí thư thì không có gì là lạ cả, vì đồng chí Phú Trọng cũng nguyên là Bí thư Hà Nội, lên làm Tổng Bí thư.

Nhưng Trưởng Ban Tổ chức Trung ương lên làm Tổng Bí thư thì cũng chưa hề có trong tiền lệ của “đảng ta”.

Nhưng thật ra, khi đồng chí Hồ Đức Việt làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, người tiền nhiệm của đồng chí Huy Rứa, năm 2011, Đại hội Đảng 11, đã có nhiều lời đồn đại có khả năng đồng chí Đức Việt sẽ làm Tổng Bí thư, thay đồng chí Nông Đức Mạnh. Thế nhưng rồi nghe nói có sự mâu thuẫn giữa đồng chí Tổng Bí thư Mạnh, và đồng chí Đức Việt, (nghe nói đồng chí Đức Việt không muốn để đồng chí Nông Quốc Tuấn, con trai đồng chí Mạnh, về làm Bí thư Bắc Giang, vì lộ liễu việc “cha truyền-con nối”quá), nên đồng chí Đức Mạnh tức giận, cho đồng chí Việt nghỉ luôn cả chức Tổng Bí thư lẫn Bộ Chính trị.

Bị nghỉ tuốt tuồn tuột như thế, nên đồng chí Đức Việt có  lẽ uất ức quá, sinh bệnh, chết rất nhanh sau khi bị nghỉ hưu hơn một năm (đồng chí Đức Việt sinh năm 1947, đã về với Mác-Lênin năm 2013, khi mới 64 tuổi). Còn đồng chí Nông Đức Mạnh, sinh năm 1940, thì ngược lại, sau khi nghỉ hưu thì vợ già chết nhưng - ơn bác, ơn đảng - lại vui khỏe hẳn ra: cưới cô vợ mới sồn sồn-khỏe-xinh-đại biểu Quốc hội-Giám đốc công ty-rất giàu có, Đỗ Thị Huyền Tâm.

Thế cho nên, nghe nói đồng chí Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa cũng có khả năng trong dự kiến làm Tổng Bí thư sắp tới, thì có lẽ cũng không lạ lắm.

Vì sao đang có dự kiến đồng chí Phạm Quang Nghị sẽ làm Tổng Bí thư, mà nay lại có dự kiến khác, là đồng chí Tô Huy Rứa?
tohuyrua01
Đồng chí Tô Huy Rứa: Tổng Bí thư năm 2016?

Nếu như lời đồn đoán này là có thật, thì có thể hiểu cách tính toán của đồng chí Tổng Bí thư Phú Trọng là như sau:

Đồng chí Phú Trọng và Tấn Sang đã 2 lần định lật đổ đồng chí Thủ tướng Tấn Dũng, mà không lật đổ được (dùng Hội nghị Trung ương 6, tháng10 năm 2012; và dùng Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm, tháng 6 năm 2013). Bây giờ, nếu đồng chí Tổng Bí thư Phú Trọng giới thiệu người thay mình sẽ là đồng chí Phạm Quang Nghị, thì có khả năng đồng chí Tấn Dũng cũng tham gia làm ứng cử viên chức Tổng Bí thư, vì đồng chí Tấn Dũng bằng tuổi đồng chí Quang Nghị.

Chẳng có lý do gì mà đồng chí Quang Nghị sinh năm 1949, làm ứng cử viên chức Tổng Bí thư được, mà đồng chí Tấn Dũng cũng sinh năm 1949 lại không ứng cử viên chức Tổng Bí thư được.

Có lẽ trước nguy cơ đó, nên đồng chí Phú Trọng tính đến phương án đồng chí Huy Rứa, để ngăn chặn khả năng đồng chí Tấn Dũng.

Nguyên nhân thứ hai nữa, là nếu đồng chí Quang Nghị làm ứng cử viên cho chức Tổng Bí thư, thì có tới 5 vị sinh năm 1949, và đều có khả năng ứng cử chức Tổng Bí thư được.

Thế thì phức tạp quá.

Và trong số 5 vị sinh năm 1949, có lẽ sẽ có vị phải nghỉ. Vậy ai nghỉ? Ai không nghỉ?

Phức tạp quá.

Tổng Bí thư chắc chắn phải nằm trong 1 trong 9 vị già kia, không thể nằm trong 7 vị trẻ, trừ khả năng đồng chí Đại tướng Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang.

Có thể nói, từ ngày thành lập đảng Cộng sản Việt Nam năm1930 đến nay, chưa có bao giờ “đảng ta” bị đứng trước khả năng lựa chọn cán bộ bị dàn trải, phân tán như hiện nay.

Điều đó cũng dễ hiểu, vì “đảng ta” đang đứng ở buổi xế chiều.

Xã hội Việt Nam ta đã tiến hóa theo tuần tự “thịnh-suy, suy-thịnh”.

Giai đoạn “thịnh” của “đảng ta” đã bắt đầu hết, đang bắt đầu đến giai đoạn “suy”, để từ đó có sự thay đổi lớn, một “triều đại mới, chính thể mới” sẽ bắt đầu.

Nếu ai không nắm bắt được sự tiến hóa đó của lịch sử, sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát, vứt vào sọt rác của lịch sử.

Cho dù đồng chí Phú Trọng có đau đầu, nghiền ngẫm bài toán nhân sự sắp tới của đảng Cộng sản Việt Nam, để mong đảng của đồng chí ấy vẫn đứng vững với lập trường Mác-Lênin, thì đồng chí ấy cũng không thể làm đảo ngược được bánh xe của lịch sử.

Nếu như đồng chí Phú Trọng đã 2 lần thất bại trong việc đánh đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, thì chắc gì tới Đại hội Đảng 12 sắp tới, Đại hội Đảng, hoặc Hội nghị Trung ương sẽ chấp nhận sự giới thiệu của đồng chí Phú Trọng.

Chúng ta còn nhớ rằng ngày 21 tháng 12 năm 1989, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Rumania Ceausescu còn đứng trên Quảng trường Cách Mạng “Revolution Square”, để nói về các thành quả của Chủ nghĩa xã hội, và lên án các “phần tử cực đoan”, “diễn biến hòa bình”, lên án “những kẻ nổi loạn ở Timisoara là những con cá sấu phát-xít muốn phá Chủ nghĩa xã hội”.

Ngày 21 tháng 12 năm 1989 đó, ông Tổng Bí thư Ceausescu còn nắm quyền lực tuyệt đối, ra lệnh cho cảnh sát, quân đội đàn áp thẳng tay những người nổi loạn, giết chết hơn 1000 người trong khắp cả nước Rumania.

Thế nhưng ngày hôm sau, 22 tháng 12 năm 1989, hai vợ chồng ông ấy đã phải lên máy bay chạy trốn, và bị bắt, và ngày 25 tháng 12 năm 1989, cả hai vợ chồng ông Tổng Bí thư Ceausescu bị nhân dân Rumania thi hành án tử hình (4).

Và câu chuyện mới nhất đây, là ở nước cựu Xã hội Chủ nghĩa Ukraine. Ngày 16 tháng 1 năm 2014, Quốc hội Ukraine thông qua đạo luật “Anti-Protest Law”- Luật Chống Phản đối”- để ông Tổng thống độc tài Yanukovych có vũ khí pháp luật đàn áp người biểu tình. Kết quả của các vụ đàn áp của ông Tổng thống Yanukovych là có 98 người biểu tình bị cảnh sát, quân đội Ukraine giết chết. Dường như quyền lực của ông Yanukovych là tuyệt đối.

Nhưng ngày 22 tháng 2 năm 2014, chưa đầy một tháng sau khi ban hành đạo luật chống nhân dân đó, ông Yanukovych bị Quốc hội phế truất chức vụ Tổng thống, và đang chạy trốn dưới sự bảo vệ của ông Tổng thống Nga Putin, bỏ lại dinh thự rộng mênh mông bát ngát, xa hoa lộng lẫy hơn thời vua chúa ngày xưa (5).

Cho dù ông Tổng thống Putin có đưa quân đội vào Crimea, thì cũng chỉ thêm một bằng chứng về một người khi đang trên đỉnh cao quyền lực, thường không nhìn thấy bánh xe lịch sử quay như thế nào. Cả ông Putin, lẫn ông Yanukovych rồi sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát. Cả hai ông đó, chắc chắn sẽ phải ra Tòa án, để trả lời cho các hành vi phạm tội, chống lại loài người của 2 ông.

Bởi vậy, mọi tính toán về nhân sự của đồng chí Nguyễn Phú Trọng cho Đại hội đảng 12 sắp tới chắc chắn rồi sẽ thất bại.

Một nước Việt Nam mới, hùng mạnh, dân chủ và tự do, xứng đáng với truyền thống văn hiến hơn 4000 năm rồi sẽ xuất hiện, sẽ đạp đổ tất cả những kẻ đạo đức giả, lừa dối.

Bởi vì bây giờ không phải là năm 1930, khi dân Việt Nam ta ngây thơ nghe theo lời lừa phỉnh của đảng “hãy theo sự lãnh đạo của đảng, đảng sẽ mang lại tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân Việt Nam ta”.

Bởi vì bây giờ không phải là năm 1945, khi dân ta hoàn toàn tin tưởng nghe theo lời kêu gọi trong Bản Tuyên Ngôn độc lập mà cụ Hồ đọc ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945: “Hỡi quốc dân đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng…”.

Bởi vì bây giờ không phải là năm 1975, sau khi chiến tranh kết thúc, dân ta lại một lần nữa bị lừa phỉnh, nghe theo tiếng gọi hào hùng của đảng, rằng “Hãy đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, để xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ được dẫn đến xã hội “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. (6)

Bởi vì sự thật bây giờ cho thấy những điều đảng nói chỉ toàn là bánh vẽ thôi.

Bởi vì sự thật bây giờ, cho dân ta thấy chỉ có những kẻ có chức quyền mới được hưởng cái gọi là “thành quả của Cách mạng”. Còn dân đen vẫn hoàn là dân đen. Mọi tiếng nói yêu cầu tự do, dân chủ đều bị đàn áp thẳng tay.

Khi sự đàn áp tàn bạo dâng cao, thì có nghĩa là “ngày tàn bạo chúa” đang đến gần.

Không. Dân ta không còn bị lừa nữa rồi.

Trọng cũng rứa, mà Rứa cũng rứa thôi (7).

Mọi sự độc tài, đàn áp chỉ là những cái chớp mắt của lịch sử, sẽ không thể kéo dài mãi được.

Chỉ có dân chủ-tự do là vĩnh hằng.

Vấn đề chỉ là thời gian thôi.

Nhà triết học Hy Lạp Sextus Empiricus (160-210 AD) đã nói rất đúng:

“Cối xay của Tạo hóa nghiền rất chậm chạp, nhưng nghiền rất tinh vi / Slowly grinds the mill of the Gods, but it grinds fine”.

Hùng  Vương
Nguồn: nghivenuocviet.com
--------------------------------------
Chú thích:
(1) Đường đường là CTQH, nhưng bác Hùng hói - cháu họ bác Minh râu, lại chân chất phát ngôn thế này: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”!
(2) Yuri Vladimirovich Andropov (1914-1984), trùm KGB, TBT Liên Xô: 12/11/1982-09/02/1984.
(3) Nói tới Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, bạn đọc trong hay ngoài nước đừng quên gu-gồ lời khai trước toà của đồng chí tội phạm Dương Chí Dũng trong vụ án “Ụ nổi hay đống sắt vụn” Vinalines đang được / bị tiếp tục ‘diễn’ tại đây.
 (4) Video xử bắn vợ chồng đồng chí TBT Ceausescu.
(5) Video “Cái chòi trông cá” của cựu Tổng thống Ukraine, Viktor Yanukovych.
(6) Từ 1945 đến 2014 này là đúng 69 năm “đảng ta” tự  phong làm trùm hướng đạokéo nhân dân anh hùng VNDCCH và 39 năm toàn nhân dân trên chữ S “thống nhất, độc lập” tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên thiên đường xhcn, ấy thếmà hôm 23-10-2013 TBT Nguyễn Phú Trọng lại chỉnh chu phán cái đùng: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng Chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ (21) này không biết đã có Chủ  nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”
(7) Bàn về việc thay đổi lãnh đạo trong “đảng ta”, mời đọc thêm bài: Bà Tiến hay ông Lùi cũng rứa thôi! (Huy Cường, nhà báo độc lập)
 

Dép tổ ong Bầu Kiên và áo Black Flag Dương Tự Trọng

Nhìn lại một số vụ án được dư luận quan tâm gần đây, dù vụ nào cũng thuộc dạng “trọng án”, nhưng sẽ thấy tại mỗi phiên tòa, các bị cáo ăn mặc theo một phong cách khác nhau, và cũng được đối xử không giống nhau.
Tòa phúc thẩm TAND Tối cao bắt đầu xét xử phúc thẩm ông Dương Chí Dũng và các đồng phạm vào hôm qua 22-4. Cựu Chủ tịch Vinalines đã bị tòa sơ thẩm kết án tử hình. Cùng chịu mức hình phạt với ông là Tổng giám đốc Mai Văn Phúc. Tại tòa, trong khi một mình ông Dũng (dù cũng bị tạm giam) mặc sơ mi trắng, quần âu đen, đi giày thì toàn bộ các bị cáo khác mặc đồng phục màu xanh da trời, do trại giam cung cấp.
Trước đó tại phiên tòa sơ thẩm hồi tháng 12-2013, cũng một mình bị cáo Dương Chí Dũng mặc áo sơ mi trắng, quần âu đen, áo khoác xanh.
Tháng 1-2014, tại phiên tòa xét xử ông Dương Tự Trọng (em trai ông Dương Chí Dũng), cách ăn mặc của bị cáo chính đã gây xôn xao dư luận. Ông Trọng chọn và được phép mặc một chiếc áo phông bó dài tay sẫm màu, với dòng chữ lớn Black Flag (Cờ đen) ở ngay trước ngực.
bầu-kiên, huyền-như, Dương-Chí-Dũng, Dương-Tự-trọng, ra-tòa, sắc-mặt, trốn-thuế, tham-ô
Trang phục các bị cáo ra tòa không thống nhất.
Cũng trong tháng 1-2014, TAND TPHCM xét xử Huỳnh Thị Huyền Như, tội danh lừa đảo, chiếm đoạt gần 4.000 tỉ đồng. Trong các ngày bị xét xử, bà Huyền Như mặc trang phục áo sơ mi trắng, hồng, đi giày đen, như công chức bình thường.
Mới đây nhất, tháng 4-2014, TAND TP Hà Nội xét xử ông Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên). Ông Kiên ra tòa với trang phục áo sơ mi kẻ, quần kaki, đi dép tổ ong màu trắng. Trong khi đó, nhiều bị cáo bị tạm giam và đưa ra xét xử cùng với ông Kiên (trừ những người tại ngoại) mặc đồng phục trại giam màu xanh da trời, đi dép tổ ong trắng. Ông Kiên bị xích chân trong khi dẫn giải.
Mọi việc sẽ không gây chú ý, nếu như bầu Kiên không lên tiếng phản đối tại tòa. Ông cho biết giám thị trại giam yêu cầu ông mặc đồng phục do trại cấp (bộ màu xanh da trời). Tuy nhiên theo ông Kiên, ông không có nghĩa vụ phải mặc bộ này mà được quyền mặc trang phục theo ý mình. Ông Kiên cũng cho rằng việc ông bị cùm chân trong quá trình dẫn giải là biện pháp ngăn chặn không phù hợp.
10 năm trước đây, các bị cáo khi ra trước vành móng ngựa, dù bị tạm giam hay không, đều xuất hiện với “trang phục tù” là bộ đồng phục trại giam sọc trắng đen. Với bộ này, xã hội mặc nhiên nhìn bị cáo với con mắt của một tù nhân, dù có thể ngay tại tòa bị cáo được tuyên vô tội. Theo luật, trước khi bị tòa tuyên án và bản án của tòa có hiệu lực, không ai được coi là có tội. Vì vậy, bộ đồng phục sọc trắng đen mà các bị cáo mặc trước tòa nhìn rất phản cảm.
Luật sư Phạm Ngọc Minh, Công ty Luật TNHH YouMe cho biết, trong quá trình cải cách tư pháp, năm 2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết số 743, có hiệu lực từ 29-1-2005, quy định: “Tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bị cáo là người được tại ngoại và bị cáo là người đang bị tạm giam được sử dụng thường phục, nhưng phải bảo đảm sự trang nghiêm…”. TAND tối cao sau đó cũng ra công văn chỉ đạo về vấn đề này.
Tuy nhiên, qua theo dõi các phiên tòa vừa qua, có thể thấy, quy định của UBTVQH và hướng dẫn của TAND Tối cao được thực hiện chưa thống nhất.
Bầu Kiên cho biết, giám thị trại giam đề nghị ông mặc “đồng phục xanh”. Tại sao giám thị lại phải đề nghị các bị can mặc đồng phục của trại? Dù bộ này đã được “cải tiến”, nhưng khi tất các các bị cáo đều mặc trang phục lùng thùng giống nhau kiểu như vậy, đi đôi dép tổ ong, xuất hiện trước tòa, thì về bản chất bộ sọc với bộ xanh chẳng khác gì nhau.
Có bị cáo đồng ý mặc, hoặc không. Cũng có bị cáo do không biết hoặc không muốn từ chối nên đành mặc. Việc mặc đồng phục có thể là để tạo sự trang nghiêm, nhưng nhìn các bị cáo xuất hiện với bộ đồ màu xanh, đi dép tổ ong trắng thì sự trang nghiêm này không còn. Chưa kể đến việc có bị cáo mặc, có bị cáo không, dễ gây thắc mắc.
Tại sao không để các bị cáo tự chọn trang phục cho mình theo đúng tinh thần chỉ đạo của UBTV Quốc hội. Các giám thị hoàn toàn có quyền đánh giá thế nào là đảm bảo sự trang nghiêm và có thể yêu cầu bị cáo đổi trang phục nếu không phù hợp. Trong trường hợp bị cáo Dương Tự Trọng, nguyên Đại tá, nguyên Phó Giám đốc công an TP.Hải Phòng, thay vì đề nghị ông đổi trang phục, thì cả ban giám thị lẫn Hội đồng xét xử lại không có ý kiến gì.
Về việc áp biện pháp ngăn chặn là xích chân khi dẫn giải, theo quy định, được dùng đối với các bị cáo được cho là phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, côn đồ hung hãn, tái phạm nguy hiểm (quyết định 810/2006/QĐ-BCA-C11 của Bộ Công An). Nếu chiếu theo đó thì việc xích chân bầu Kiên là không sai quy định của pháp luật nếu trong kế hoạch, phương án bảo vệ phiên tòa đã được phê duyệt có nêu rõ phương án sử dụng biện pháp này.
Tuy nhiên, nếu áp dụng các quy định này thì tại sao ông Dương Chí Dũng, bà Huyền Như và một số bị cáo khác không bị xích chân?. Việc áp dụng các quy định một cách máy móc, thiếu thống nhất tại các phiên tòa lớn mà cả xã hội quan tâm không những làm tăng tính uy nghiêm của pháp luật, mà ngược lại tạo ra những thắc mắc không cần thiết.
(TBKTSG Online)

Tàu Trung Quốc chặn tàu cá Việt Nam và Philippines tại Trường Sa

 http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=186796&zoneid=1

MANILA (NV) .- Tàu Hải giám của Trung Quốc ngăn chặn hoạt động của các tàu đánh cá của người Việt Nam và Philippines ở khu vực bãi đá ngầm Second Thomas Shoal thuộc quần đảo Trường Sa.
Người dân biểu tình ở thủ đô Manila hôm Thứ Ba 22/4/2014 với các biểu ngữ chống Trung Quốc bá quyền bành trướng. (Hình: AP)

Điều này được một sĩ quan thủy quân lục chiến Philippines kể lại với hãng thông tấn quốc tế AP hôm Thứ Ba về vụ việc mà ông cho hay trước đây, chỉ xảy ra chuyện tàu hải giám Trung Quốc chặn các tàu tiếp tế lương thực và đổi quân trú đóng trên một chiếc chiến hạm sử dụng làm căn cứ xác định chủ quyền lãnh thổ.

Trung úy Thủy quân Lục chiến Mike Pelotera của Philippines cho hay ông và các quân nhân đã nhìn thấy các ngư dân bị tàu hải giám Trung Quốc dùng sức mạnh ép phải đi khỏi khu vực Second Thomas Shoal ít nhất 8 lần từ Tháng 12-2013 đến Tháng Ba năm nay. Việt Nam gọi khu vực này là Bãi Cỏ Mây.
Ông Pelotera cho biết ông đã quay một đoạn video khi tàu Trung Quốc đuổi theo một tàu đánh cá của người Việt Nam một cách rất nguy hiểm vì chạy gần với những rạn san hô. Không thấy báo chí ở Việt Nam loan tải gì về những tin như thế này dù có thể ngư dân đã báo cáo với các cơ quan thẩm quyền.
Tàu Hải giám và tàu quân sự Trung Quốc thường xuyên chặn bắt, cướp phá các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam khi họ hoạt động ở gần khu vực quần đảo Hoàng Sa. Nhiều tàu đã bị đâm vỡ hay bị bắn cháy, ngư cụ và trang bị hải hành bị lính Trung quốc cướp cùng với ngư sản đánh được. Thiệt hại cho ngư dân Việt Nam rất lớn vì hành động ngang ngược của lính Trung Quốc.
Qua lời kể của Trung úy Pelotera, đây là lần hiếm hoi người ta được biết tin về những vụ tàu Hải giám Trung Quốc đuổi tàu cá Việt Nam ở khu vực đang có tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam và Phi Luật Tân. Khu vực Second Thomas Shoal là một rạn san hô lớn, dài khoảng 18km và ở phía tây đảo Palawan của Philippines 105 hải lý (hay 194km).
Từ nhiều năm qua, Philippines đã đánh đắm một chiến hạm cũ tại đó rồi cho một đơn vị quân đội trú đóng hầu xác định và bảo vệ chủ quyền. Càng ngày, Bắc Kinh gia tăng áp lực với nước này nhất là từ khi Philippines nộp đơn kiệm Trung Quốc ở Ủy Hội Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS) rồi sau đó kiện ra tòa án quốc tế, phủ nhận cái vạch “Lưỡi Bò” ngang ngược.
Tàu Hải giám Trung Quốc nhiều lần dùng súng nước xua đuổi tàu đánh cá của Philippines ở khu vực tranh chấp khác hồi Tháng Giêng. Hồi giữa Tháng Ba vừa qua, tàu Hải giám của Trung Quốc chặn tàu tiếp tế thực phẩm cho đơn vị đóng tại Second Thomas Shoal.
Hôm Thứ Ba 22/4/2014, khoảng 80 người Philippines đã biểu tình trước trụ sở lãnh sự quán Trung Quốc tại Manila với các biểu ngữ đòi hỏi Bắc Kinh rút khỏi lãnh thổ Philippines. Họ đã biểu tình chống Bắc Kinh rất nhiều lần như thế mà không bị cảnh sát đàn áp hay bắt giữ.
Hoàn toàn khác với Philippines, người dân Việt Nam yêu nước nhiều lần biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn chống Trung Quốc bá quyền bành trướng đều bị công an giải tán. Nhiều người bị hành hung thô bạo, thậm chí bị nhốt trong các trại “phục hồi nhân phẩm”. Một người biểu tình chống Trung Quốc nổi tiếng, nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày, đã bị nhà cầm quyền CSVN kết án 12 năm tù hồi năm 2012. (TN)

Quyền của người Việt ở Campuchia còn bị lạm dụng rất nhiều


Nhà thuyền của ngư dân gốc Việt sống ngay bên cạnh Phnom Penh (Ảnh: Abby Seiff)

Sau một đời ở Campuchia, tờ carnet de residence tả tơi có ghi tên tiếng Việt là giấy tờ duy nhất mà Nguyễn Thị Kim 41 tuổi có. Mặc dù chị, bố mẹ chị, và các con chị sinh ở Campuchia, không có người nào có giấy tờ hợp pháp trong nước này.

“Chúng tôi không có thẻ căn cước vì không ai cấp cho chúng tôi”, chị vừa nói vừa nhún vai. “Có thể chưa đến phiên chúng tôi?”

Trong lúc chị Kim nói, cháu bé gái con chị bò quanh cái thềm có bóng mát, nơi chị và 5 người con cùng một số dâu rể trong nhà thường ngồi tránh nắng. Trước mặt họ là bờ sông Mêkông đầy bụi bặm dẫn đến một vài chục ngôi nhà thuyền đang có nguy cơ bị sập.

“Khi nước dâng lên, chúng tôi gặp nhiều vấn đề về sức khỏe. Tôi thật sự thích sống trên đất liền hơn, nhưng không thể vì không có tiền”, chị Kim nói.

Người Việt là dân tộc thiểu số lớn nhất ở Campuchia nhưng do luật nhập cư được thực thi kém khiến cho các gia đình như gia đình chị Kim sống trong tình trạng lấp lửng qua nhiều đời và thậm chí không được hưởng các quyền cơ bản nhất.

Không có thẻ căn cước hay giấy khai sinh, không người nào trong gia đình được đi học, khiến cho cộng đồng này bị cô lập và hết sức nghèo khổ qua nhiều thế hệ. Không có giấy tờ, họ không có quyền sở hữu đất, nên không được bồi thường khi bị thu hồi đất. Và do không rành tiếng Khmer (cả gia đình được phỏng vấn bằng tiếng Việt thông qua một thông dịch viên), họ không có cách nào để khiếu nại về những khoản tiền đút lót mà họ thường xuyên bị bắt nộp.

“Chúng tôi từng sống ở bên đó”, Nguyễn Thị Thi, em dâu chị Kim, vừa nói vừa chỉ tay về phía một bán đảo nằm ở giữa Phnom Penh và tỉnh Kandal, tại đây có thể nhìn thấy một khách sạn lớn đang xây dở dang.

“Họ muốn xây khách sạn, vì thế họ dùng vũ lực đuổi chúng tôi đi và bắt chúng tôi sống ở đây. Hiện nay họ thường đến đòi tiền hối lộ”.

Hiện nay, cộng đồng này sống chen chúc trong một khu nhà thuyền, nằm cách bến phà Phnom Penh vài mét. Nước ở đó bẩn thỉu, được dùng để tắm rửa, làm ước uống và rửa cá. Trẻ em bị mắc bệnh tiêu chảy và các bệnh về da; đôi khi còn mắc các bệnh nặng hơn.

“Có, có trẻ con bị chết đuối”, chị Kim vừa kể vừa liếc nhìn một người bạn gần đó. “Con gái của chị ấy bị chết. Chị ấy ra chợ bán đồ và đứa con bốn tuổi của chị ấy rơi xuống nước và chết đuối”.

Khi xảy ra lũ, đẩy các nhà thuyền có lỗ thủng lên cao trên bờ sông Mêkông, làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề về sức khỏe và khiến cho nghề đánh bắt cá trở thành một nghề nguy hiểm, nhưng không có tổ chức nào trợ giúp các gia đình này.

“Nước lũ có thể rất lớn. Và khi xảy ra lũ, chúng tôi không được trợ giúp khẩn cấp hay được cấp gạo, vì thế rất khó khăn”, chị Kim nói.

Khó có được số liệu chính xác về số người Việt ở Campuchia, chính xác là vì có rất nhiều người chưa bao giờ có giấy tờ chứng minh, nhưng theo CIA World Factbook người Việt chiếm 5% trong số 15,5 triệu dân Campuchia hay khoảng 775.000 người.

Không rõ có bao nhiêu trong số này là người nhập cư bất hợp pháp, nhập cư hợp pháp hay công dân. Cũng không rõ có bao nhiêu người không biết nói tiếng Khmer và bao nhiêu người không nói được tiếng Việt. Nhưng trong nhiều thập niên qua, thiếu số liệu chính xác như thế đã khiến cho họ bị lạm dụng quyền, bị phân biệt đối xử và bị trách oan.

“Hành pháp ở campuchia kém. Nếu chính quyền làm đúng luật quốc tịch và nhập cư, sẽ phân tích được lai lịch của họ và biết được ai đã sống ở đây lâu rồi và ai vừa mới đến, và bắt họ làm đơn xin nhập tịch hay cư trú”, Ang Chanrith, giám đốc điều hành Tổ chức Quyền Dân tộc thiểu số, phát biểu.

Do không có giấy tờ hợp lệ, ngay cả các gia đình sống ở Campuchia qua nhiều thế hệ cũng có ít quyền lợi hơn những người Khmer láng giềng. Không có giấy công nhận quyền công dân, “họ không có quyền đi học, quyền bỏ phiếu, quyền tham gia hoạt động xã hội”, Chanrith nói. “Họ không thể tìm được việc làm, họ không thể thuê nhà, họ không thể đưa con đến trường được, vì các cơ quan nhà nước cần xem thẻ căn cước trước khi cho họ vào, và các công ty tư nhân cũng vậy”.

Đối với các gia đình như gia đình chị Kim và chị Thi, họ quá nghèo và không có trình độ học vấn để làm việc trong khu vực nhà nước, những vấn đề này còn có thể bàn cãi được. Nhưng đối với những người có cơ hội hòa nhập hơn một chút, vấn đề này rất dễ thấy.

Lý Yong Thanh, 65 tuổi, thấy rõ những rào cản như thế. Mặc dù nói mình ít bị phân biệt đối xử một cách công khai vì sắc tộc, ông từng chứng kiến cảnh nhiều người không thể vào các cơ quan.

“Con chúng tôi có đứa làm công nhân xây dựng, có đứa làm ở các trang trại”, ông nói bằng tiếng Khmer. “Nếu có thẻ căn cước, con chúng tôi sẽ có việc làm tốt hơn nhưng anh cần có nhiều tiền mới làm được mà chúng tôi thì nghèo”.

Mặc dù cả bảy người con của ông đều được đi học, nhờ quan chức trong làng làm việc tương đối lỏng lẻo, chỉ có một người làm việc văn phòng. Người con gái đó chỉ được nhận vào làm việc sau khi chú của cô trả tiền làm thẻ căn cước.

Làm thẻ căn cước thường phải trả khoảng 100 Mỹ kim; gia đình này bị đòi tới 400 Mỹ kim một thẻ.

“Họ nói một thẻ mất khoảng 400-500 Mỹ kim do chúng tôi phải làm thẻ không chính thức. Tôi không biết tại sao chúng tôi lại không thể làm thẻ theo cách chính thức. Tôi chỉ nghe nói là vì chúng tôi là người Việt, vì thế họ không chịu làm thẻ cho chúng tôi”, vợ ông Yong Thanh là bà Nguyễn Ty Hiew nói. “Tôi sinh ra gần sông Tonle Sap. Ngay cả bố mẹ và ông bà tôi cũng sinh ra tại đó … về làm thẻ căn cước, tôi không biết sao lại khó khăn thế”.

Được học hành và hòa nhập vào xã hội Campuchia nhiều hơn nhiều người trong làng, gia đình này có được những gì pháp luật dành cho họ sớm hơn. Nhưng không có thẻ căn cước, nhiều thứ lại khó khăn hơn một chút.

Khi Yong Thanh sang Việt Nam chữa bệnh, ông phải mang theo thư của bác sĩ để được phép vào nước.

“Trở lại Campuchia thì tốt, nhưng khi tôi muốn qua biên giới mà không có thẻ căn cước quả là rất khó”, ông nói.

Cho con đi học trong làng có đa số người Việt này thì ổn, “nhưng nếu chúng tôi đến thành phố, chúng tôi sẽ gặp vấn đề”.

“Chúng tôi không có quyền sở hữu đất và ngay cả khi chúng tôi muốn cập nhật sổ gia đình, họ không chịu làm”, Ty Hiew ám chỉ thẻ cư trú liệt kê tất cả các thành viên trong gia đình.

Ngoài ra, thiếu giấy tờ có thể làm cho các gia đình như gia đình bà bị buộc tội nhập cư bất hợp pháp. Hầu hết người Việt ở Campuchia rất là nghèo, họ sống trong các cộng đồng ở nhà nổi thiếu hệ thống vệ sinh cơ bản và sống nhờ số tiền ít ỏi từ việc đánh bắt cá. Thực tế như thế nhưng nhiều người vẫn còn quan niệm rằng người Việt Nam đến cướp mất việc làm và dần dần chiếm đất của người Campuchia.

Khi chị Thi đi ra chợ bán cá do chồng đánh bắt được, chị thường xuyên nghe những lời nói như thế.

“Chuyện đó xảy ra nhiều, đặc biệt là khi tôi đi chợ. Họ hét lớn yuon”, chị Thi kể, ám chỉ từ Khmer dùng để lăng mạ người Việt, “nhưng tôi không muốn cãi với họ vì thế tôi đành phải làm ngơ”.

“Tất nhiên là có phân biệt chủng tộc, nhưng không phải tất cả người Khmer, chỉ cá nhân thôi”, theo người vợ dân tộc Việt của một nhà xuất khẩu yêu cầu giấu tên. “Đôi khi chúng tôi cãi nhau, họ không tôn trọng chúng tôi, họ nói chúng tôi ăn bám người Khmer. Thế nhưng hiện nay có ít vấn đề hơn trước”.

Trong hai thập niên qua, đảng đối lập dùng chuyện này làm chủ đề chính để vận động chính trị, liên hệ vai trò lịch sử của Hà Nội trong chính quyền Campuchia và ngày càng nhiều chủ đất người Việt sang Campuchia với nỗi lo sợ người nhập cư bất hợp pháp chiếm Campuchia.

Trong bầu khí căng thẳng sau bầu cử, nước này đã chứng kiến một số vụ tấn công vào các doanh nghiệp và còn xảy ra một vụ giết người được nhiều người cho là có liên quan đến quan điểm chống người Việt đang phổ biến.

Chanrith thuộc Tổ chức Quyền Dân tộc thiểu số gọi các vụ liên quan đến bầu cử như thế là chuyện bình thường ở đây và nói đảng cầm quyền cũng có phần trách nhiệm vì đã không thể đảm bảo cho người Việt thiểu số hưởng các quyền công dân mà họ đáng được hưởng.

“Dường như chính phủ không có chính sách rõ ràng cho phép nhóm này trở thành công dân ở Campuchia. Chúng tôi muốn Bộ Nội vụ thi hành luật … để giảm sự phân biệt đối xử và vận động chính trị”.

Trong báo cáo phát hành đầu tháng này trình bày chi tiết về tình hình của người Việt tại tỉnh Kampong Chhnang, tổ chức này thúc giục chính quyền cấp ngay giấy khai sinh và thẻ căn cước và kêu gọi chấm dứt việc vận động phân biệt chủng tộc.

“Chính trị gia Campuchia nên từ bỏ nỗ lực lôi kéo cử tri bằng cách vận động chống người Việt. Người dân Campuchia cần được cung cấp các thông tin chính xác về người Việt đang sinh sống tại Campuchia qua nhiều thế hệ nay để nhóm thiểu số này có thể trở thành một phần không thể thiếu trong xã hội linh hoạt Campuchia”.

Nhưng ngay cả khi những lời khuyên như thế được nghe theo, thì cũng phải mất nhiều thế hệ mới xóa bỏ được thái độ thù hận phổ biến lâu nay đối với người Việt.

Thái độ thù hằn người Việt kéo dài hàng thế kỷ nay đã lên đến đỉnh điểm, và biến thành các cuộc tàn sát đẫm máu. Trong cả hai chế độ Lon Not và Pol Pot, hàng chục ngàn người bị giết có hệ thống, trong khi hàng trăm ngàn người bỏ trốn hay bị buộc rời khỏi biên giới Campuchia.

Nhờ sự giúp đỡ của một tổ chức phi chính phủ, Ty Hiew và gia đình bà chạy trốn qua Việt Nam dưới thời Khmer Đỏ.

“Lúc đó rất là khó khăn vì chúng tôi không có việc làm; tổ chức phi chính phủ này chỉ cấp cho chúng tôi một bao gạo và chúng ta đã phải tự lo”, bà kể. “Nhưng nếu chúng tôi không chạy sang Việt Nam, Pol Pot đã giết chúng tôi rồi. Dì tôi, lấy chồng người Khmer, đã bị giết. Họ trói tay bà ra sau lưng và đem cả gia đình ra giết”.

Khi đôi vợ chồng này nói chuyện, cô cháu gái 7 tuổi ngồi làm bài tập tiếng Khmer và tiếng Anh, trước khi tỉ mỉ tô màu bức tranh cô vừa vẽ.

Do bố cô bé là người Khmer, nên chắc cô bé ít gặp các vấn đề mà ông bà và cô chú của mình gặp hàng ngày hơn.

Nhưng Yong Thanh, lúc đó đủ lớn để nhớ lại những cuộc sát hại của Lon Nol và Pol Pot, và cách tuyên truyền cực đoan, các vụ tấn công và giết người vào những năm 1990, xem những nỗ lực hiện nay của mình là thích đáng.

“Bây giờ đã tốt hơn trước”.
Abby Seiff và Cheng Sokhorng từ Kandal