Mừng cho Hong Kong, buồn cho Việt Nam
Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 11 tháng 5 năm 2014 |
Câu chuyện biểu tình kêu gọi dân chủ, ly khai nhà cầm quyền độc tài
Trung Cộng và đòi các nhà lãnh đạo đương quyền đặc khu kinh tế Hồng Kông
phải từ chức có lẽ chưa đến hồi kết thúc, mọi chuyện vẫn còn ở phía
trước. Duy, chỉ có một điều, nếu so sánh về mặt dân số cũng như căn tính
chịu đựng, có lẽ ít ai dám tin rằng người Hồng Kông tốt hơn người Việt
Nam. Thế nhưng mọi chuyện đã khác, hoàn toàn khác!
Việt Nam cũng từng chống Trung Cộng, không phải chỉ chống họ thao túng chính trị mà còn chống sự bành trướng của họ. Thế nhưng có bao giờ Việt Nam có được một tập thể người biểu tình lên đến hàng triệu người? Thật là buồn khi phải nói rằng chưa, chưa bao giờ có số người đông như vậy, mặc dù Việt Nam sống trong độc tài, chuyên chế và nhân dân đã chịu đựng cái ách này nặng gấp ngàn lần nhân dân Hồng Kông nhưng chưa bao giờ người Việt dám đứng lên mạnh mẽ, đồng loạt như người Hồng Kông.
Hơn nữa, biểu tình chống ngoại bang xâm lăng, dù sao, xét về bản chất, lẽ ra sẽ được nhà cầm quyền ủng hộ, được cảnh sát ủng hộ, bảo bọc. Thế nhưng những người biểu tình Việt Nam đã bị bắt bớ, đánh đập dã man bởi chính những công an mang danh nghĩa công an nhân dân.
Và, trên hết, có bao giờ Việt Nam có những tập thể đồng nhất như Hồng Kông hiện tại? Xin thưa là đã có, đó là những lần đội tuyển bóng đá Việt Nam vào vòng chung kết, những trận chung kết bóng đá giữa tuyển Việt Nam và tuyển nước ngoài, hàng ngàn đám đông khắp đất nước đã kéo nhau ra đường hò hét dậy trời, đập vỡ nón bảo hiểm trên đường và có thể tổ chức đua xe để ăn mừng hoặc chia buồn với đội tuyển Việt Nam, nói chung là vui cũng ra đường mà buồn cũng ra đường. Lúc này công an, dân phòng, cảnh sát giao thông sẽ kéo nhau ra dọn đường, tiếp dẫn cho các đám đông này. Cái hay của Việt Nam là chỗ đó. Vì sao lại có “cái hay” quái dị như vậy?
Cũng nên xét lại về lịch sử đôi chút. Nói về lịch sử Việt Nam, người ta nhắc đến ngay một nền văn minh lúa nước với hàng loạt các chứng cứ hùng hồn. Nói về lịch sử Hồng Kông, không hề có nền văn minh lúa nước “rực rỡ” nào ở đây, người Hồng Kông, ngay từ đầu đã thiên về thương mại, buôn bán và công nghiệp điện ảnh thương mại. Đây là những ngành nghề đã giúp họ tồn tại, phát triển và trở thành một trung tâm thương mại sầm uất, phồn thịnh giữa Á Châu. Và, có thể nói rằng người Việt Nam nặng về tâm thức nông nghiệp, người Hồng Kông nặng về tư duy thương mại và đương nhiên tâm thức của họ luôn thay đổi, luôn tự làm mới để đuổi kịp nhịp điệu phát triển của thế giới.
Chỉ hai yếu tố khác biệt này đã dẫn đến hai tiến trình lịch sử cũng như hai tính cách dân tộc hoàn toàn khác nhau, xin mở ngoặc là tính cách khác biệt này được hiểu theo nghĩa đại bộ phận dân chúng chứ không khuôn giới hoặc xâm phạm đến phạm vi hay địa hạt của những tập thể đấu tranh dân chủ bởi những nhà dân chủ thuộc về nhóm tiến bộ và ít nhiều cũng đã bứt thoát khỏi tâm thức nông nghiệp.
Cũng xin nhắc thêm là Cải cách ruộng đất miền Bắc năm 1946 – 1957 có rất nhiều đám đông đã nổi dậy mặc dù họ bị lừa, vì sao họ nổi dậy? Vì Cộng sản lúc đó đã đánh trúng ngay vào vết thương tổ truyền có tên “tâm thức nông nghiệp”, cụ thể là sự thao thức về mảnh ruộng, cái cày của họ. Chính vì vậy mà cuộc cải cách đầy máu và man rợ này lại được hưởng ứng một cách vô tội vạ! Ngược lại, những nhân tố cũng như công cuộc đấu tranh dân chủ, nhân quyền và chủ quyền cho Việt Nam hiện tại, cho dù có kêu gọi thấu trời xanh vẫn không có được đại bộ phận dân chúng hưởng ứng và lên đường. Vì sao?
Vì tâm thức cũng như tư duy những người bạn Hồng Kông hoàn toàn không giống với tư duy và tâm thức của người Việt Nam. Đặc biệt, ngay cả trong quản lý hành chính nhà nước, tư duy của Hồng Kông cũng hoàn toàn mới mẽ, hiện đại so với bộ máy nhà nước cồng kềnh, luộm thộm và nặng về hình thức nhưng kém về chất lượng, lối hành xử đầy chất nông nghiệp cũng như dự án, quyết sách không những thiếu sáng tạo, tiến bộ mà còn thiếu cả tư duy của thời đại như nhà nước Cộng sản Việt Nam. Hay nói cách khác, tư duy của nhà nước Cộng sản Việt Nam là một thứ tư duy thụ động cùng với thói quen vay mượn, xin xỏ. Bất kì dự án cấp quốc gia nào của Việt Nam hiện tại dù nói cách gì cũng dính dấp đến chuyện vay vốn nước ngoài, xin tài trợ nước ngoài, xin trong, xin ngoài, xin trên, xin dưới… Nói chung xin và xin. Nhà nước xin, nhân dân nghèo khổ quá rồi cũng xin… Mọi thứ quan hệ xin – cho và bợ đỡ vốn dĩ là thứ cây cỏ rất hợp với mảnh đất tâm thức (vốn tăm tối và sình lầy) nông nghiệp thâm căn cố đế thời Cộng sản.
Thử nghĩ, với một hệ thống tâm thức như vậy, liệu Việt Nam có làm được một cuộc cách mạng như Hồng Kông? Trong khi một thanh niên trẻ tuổi như Joshua Wong của Hồng Kông cũng có thể trở thành lãnh đạo một cuộc biểu tình lớn để chống độc tài, chống những gì phản tiến bộ loài người. Không phải vì người Hồng Kông thiếu lãnh đạo lớn tuổi cho những cuộc biểu tình như vậy nhưng vì họ đã đạt được sự tiến bộ chung, họ biết lắng nghe lý lẽ và tôn trọng lý lẽ, tôn trọng sự tiến bộ.
Và họ cũng thừa biết rằng lý lẽ và sự tiến bộ không bao giờ phụ thuộc vào kinh nghiệm tuổi tác mà nó phải đến từ những tư duy tiến bộ đích thực. Hay nói cách khác, họ đã không bảo thủ, sẵn sàng lắng nghe tuổi trẻ. Đó chính là điều mà từ nhà nước cho đến đại bộ phận người dân Việt Nam khó bề có được (ngoại trừ một số nhỏ tiến bộ), vì đâu? Vì đó là hệ quả của thứ tư duy lạc hậu, thủ cựu và cố chấp vốn dĩ có gốc gác từ tư duy nông nghiệp manh mún, không thoát khỏi lũy tre làng!
Thử nghĩ, với một hệ thống cầm quyền khép kín, bảo thủ, lạc hậu, thậm chí man trá như Việt Nam hiện tại, cộng với đại bộ phận dân chúng vốn dĩ mang tâm thức nông nghiệp nặng nề lại phải ngủ quá lâu trong mùi xú khí của chế độ chính trị cầm quyền, hầu như đã đánh mất khả năng đề kháng… Thì liệu có thể hy vọng Viêt Nam sẽ có những cuộc xuống đường rầm rộ kêu gọi dân chủ giống như Hồng Kông đang có?
Có lẽ còn rất lâu Việt Nam mới có được điều này. Nhưng điều đó không có nghĩa là đã hết cơ hội và càng không có nghĩa là nhân dân khó thay đổi. Bởi lẽ, chính sự man trá của nhà cầm quyền đến một lúc nào đó (như hiện tại chẳng hạn!) đã mở mắt cho nhân dân thấy để họ biết mình cần làm gì. Vấn đề nhân dân sẽ “làm gì” chỉ còn là thời gian đủ để thấm nhuần những gì mà thế giới tiến bộ đang hằng ngày chảy vào Việt Nam.
Viết Từ Sài Gòn
01/10/2014
Việt Nam cũng từng chống Trung Cộng, không phải chỉ chống họ thao túng chính trị mà còn chống sự bành trướng của họ. Thế nhưng có bao giờ Việt Nam có được một tập thể người biểu tình lên đến hàng triệu người? Thật là buồn khi phải nói rằng chưa, chưa bao giờ có số người đông như vậy, mặc dù Việt Nam sống trong độc tài, chuyên chế và nhân dân đã chịu đựng cái ách này nặng gấp ngàn lần nhân dân Hồng Kông nhưng chưa bao giờ người Việt dám đứng lên mạnh mẽ, đồng loạt như người Hồng Kông.
Hơn nữa, biểu tình chống ngoại bang xâm lăng, dù sao, xét về bản chất, lẽ ra sẽ được nhà cầm quyền ủng hộ, được cảnh sát ủng hộ, bảo bọc. Thế nhưng những người biểu tình Việt Nam đã bị bắt bớ, đánh đập dã man bởi chính những công an mang danh nghĩa công an nhân dân.
Và, trên hết, có bao giờ Việt Nam có những tập thể đồng nhất như Hồng Kông hiện tại? Xin thưa là đã có, đó là những lần đội tuyển bóng đá Việt Nam vào vòng chung kết, những trận chung kết bóng đá giữa tuyển Việt Nam và tuyển nước ngoài, hàng ngàn đám đông khắp đất nước đã kéo nhau ra đường hò hét dậy trời, đập vỡ nón bảo hiểm trên đường và có thể tổ chức đua xe để ăn mừng hoặc chia buồn với đội tuyển Việt Nam, nói chung là vui cũng ra đường mà buồn cũng ra đường. Lúc này công an, dân phòng, cảnh sát giao thông sẽ kéo nhau ra dọn đường, tiếp dẫn cho các đám đông này. Cái hay của Việt Nam là chỗ đó. Vì sao lại có “cái hay” quái dị như vậy?
Cũng nên xét lại về lịch sử đôi chút. Nói về lịch sử Việt Nam, người ta nhắc đến ngay một nền văn minh lúa nước với hàng loạt các chứng cứ hùng hồn. Nói về lịch sử Hồng Kông, không hề có nền văn minh lúa nước “rực rỡ” nào ở đây, người Hồng Kông, ngay từ đầu đã thiên về thương mại, buôn bán và công nghiệp điện ảnh thương mại. Đây là những ngành nghề đã giúp họ tồn tại, phát triển và trở thành một trung tâm thương mại sầm uất, phồn thịnh giữa Á Châu. Và, có thể nói rằng người Việt Nam nặng về tâm thức nông nghiệp, người Hồng Kông nặng về tư duy thương mại và đương nhiên tâm thức của họ luôn thay đổi, luôn tự làm mới để đuổi kịp nhịp điệu phát triển của thế giới.
Chỉ hai yếu tố khác biệt này đã dẫn đến hai tiến trình lịch sử cũng như hai tính cách dân tộc hoàn toàn khác nhau, xin mở ngoặc là tính cách khác biệt này được hiểu theo nghĩa đại bộ phận dân chúng chứ không khuôn giới hoặc xâm phạm đến phạm vi hay địa hạt của những tập thể đấu tranh dân chủ bởi những nhà dân chủ thuộc về nhóm tiến bộ và ít nhiều cũng đã bứt thoát khỏi tâm thức nông nghiệp.
Cũng xin nhắc thêm là Cải cách ruộng đất miền Bắc năm 1946 – 1957 có rất nhiều đám đông đã nổi dậy mặc dù họ bị lừa, vì sao họ nổi dậy? Vì Cộng sản lúc đó đã đánh trúng ngay vào vết thương tổ truyền có tên “tâm thức nông nghiệp”, cụ thể là sự thao thức về mảnh ruộng, cái cày của họ. Chính vì vậy mà cuộc cải cách đầy máu và man rợ này lại được hưởng ứng một cách vô tội vạ! Ngược lại, những nhân tố cũng như công cuộc đấu tranh dân chủ, nhân quyền và chủ quyền cho Việt Nam hiện tại, cho dù có kêu gọi thấu trời xanh vẫn không có được đại bộ phận dân chúng hưởng ứng và lên đường. Vì sao?
Vì tâm thức cũng như tư duy những người bạn Hồng Kông hoàn toàn không giống với tư duy và tâm thức của người Việt Nam. Đặc biệt, ngay cả trong quản lý hành chính nhà nước, tư duy của Hồng Kông cũng hoàn toàn mới mẽ, hiện đại so với bộ máy nhà nước cồng kềnh, luộm thộm và nặng về hình thức nhưng kém về chất lượng, lối hành xử đầy chất nông nghiệp cũng như dự án, quyết sách không những thiếu sáng tạo, tiến bộ mà còn thiếu cả tư duy của thời đại như nhà nước Cộng sản Việt Nam. Hay nói cách khác, tư duy của nhà nước Cộng sản Việt Nam là một thứ tư duy thụ động cùng với thói quen vay mượn, xin xỏ. Bất kì dự án cấp quốc gia nào của Việt Nam hiện tại dù nói cách gì cũng dính dấp đến chuyện vay vốn nước ngoài, xin tài trợ nước ngoài, xin trong, xin ngoài, xin trên, xin dưới… Nói chung xin và xin. Nhà nước xin, nhân dân nghèo khổ quá rồi cũng xin… Mọi thứ quan hệ xin – cho và bợ đỡ vốn dĩ là thứ cây cỏ rất hợp với mảnh đất tâm thức (vốn tăm tối và sình lầy) nông nghiệp thâm căn cố đế thời Cộng sản.
Thử nghĩ, với một hệ thống tâm thức như vậy, liệu Việt Nam có làm được một cuộc cách mạng như Hồng Kông? Trong khi một thanh niên trẻ tuổi như Joshua Wong của Hồng Kông cũng có thể trở thành lãnh đạo một cuộc biểu tình lớn để chống độc tài, chống những gì phản tiến bộ loài người. Không phải vì người Hồng Kông thiếu lãnh đạo lớn tuổi cho những cuộc biểu tình như vậy nhưng vì họ đã đạt được sự tiến bộ chung, họ biết lắng nghe lý lẽ và tôn trọng lý lẽ, tôn trọng sự tiến bộ.
Và họ cũng thừa biết rằng lý lẽ và sự tiến bộ không bao giờ phụ thuộc vào kinh nghiệm tuổi tác mà nó phải đến từ những tư duy tiến bộ đích thực. Hay nói cách khác, họ đã không bảo thủ, sẵn sàng lắng nghe tuổi trẻ. Đó chính là điều mà từ nhà nước cho đến đại bộ phận người dân Việt Nam khó bề có được (ngoại trừ một số nhỏ tiến bộ), vì đâu? Vì đó là hệ quả của thứ tư duy lạc hậu, thủ cựu và cố chấp vốn dĩ có gốc gác từ tư duy nông nghiệp manh mún, không thoát khỏi lũy tre làng!
Thử nghĩ, với một hệ thống cầm quyền khép kín, bảo thủ, lạc hậu, thậm chí man trá như Việt Nam hiện tại, cộng với đại bộ phận dân chúng vốn dĩ mang tâm thức nông nghiệp nặng nề lại phải ngủ quá lâu trong mùi xú khí của chế độ chính trị cầm quyền, hầu như đã đánh mất khả năng đề kháng… Thì liệu có thể hy vọng Viêt Nam sẽ có những cuộc xuống đường rầm rộ kêu gọi dân chủ giống như Hồng Kông đang có?
Có lẽ còn rất lâu Việt Nam mới có được điều này. Nhưng điều đó không có nghĩa là đã hết cơ hội và càng không có nghĩa là nhân dân khó thay đổi. Bởi lẽ, chính sự man trá của nhà cầm quyền đến một lúc nào đó (như hiện tại chẳng hạn!) đã mở mắt cho nhân dân thấy để họ biết mình cần làm gì. Vấn đề nhân dân sẽ “làm gì” chỉ còn là thời gian đủ để thấm nhuần những gì mà thế giới tiến bộ đang hằng ngày chảy vào Việt Nam.
Viết Từ Sài Gòn
01/10/2014
(RFA)
Phong trào đấu tranh cho dân chủ tại Hồng Kông : Các kịch bản
Reuters |
Một bên, liên minh các nhóm đấu tranh cho dân chủ tiến hành biểu tình, làm tê liệt hoạt động tại Hồng Kông. Yêu sách của liên minh là Hồng Kông phải được quyền bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu thật sự, tức là cử tri được quyền tự do lựa chọn ứng viên. Đồng thời, những người biểu tình cũng đòi lãnh đạo đặc khu hành chính Hồng Kông, ông Lương Chấn Anh (Leung Chun-Ying) phải từ chức, bị cáo buộc là con rối của Bắc Kinh.
Đối mặt với phong trào này là chính quyền Hồng Kông, tuy được Bắc Kinh ủng hộ, nhưng từ chối hành động. Đối với lãnh đạo hành pháp Hồng Kông, việc có được bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu với những ràng buộc của Bắc Kinh, vẫn còn hơn là không có gì. Vậy tình hình sắp tới ra sao ? AFP đưa ra một số kịch bản.
Phong trào đấu tranh cho dân chủ lan rộng trên quy mô lớn
Từ bốn ngày qua, hàng chục ngàn người đã xuống đường biểu tình, chiếm lĩnh các trục giao thông chính, làm tê liệt nhiều khu vực tại Hồng Kông. Hôm nay và ngày mai, (01 và 02/10) là ngày nghỉ lễ ở Hồng Kông. Do vậy, ban tổ chức hy vọng có đông đảo người xuống đường, nhất là nếu cảnh sát tiếp tục có thái độ chừng mực, kể từ rạng sáng thứ Hai, 29/09 đến nay, không thẳng tay trấn áp các cuộc biểu tình. Xin nhắc lại là vào tối Chủ nhật, 28/09, cảnh sát chống bạo động Hồng Kông đã dùng lựu đạn cay và bột tiêu để giải tán người biểu tình, nhưng sau đó, chính quyền đã ra lệnh rút cảnh sát.
Chính quyền Hồng Kông hiện đang chịu sức ép nặng nề : Các hoạt động trên lãnh thổ Hồng Kông, vốn được coi là một trong những trung tâm của tư bản tài chính, đã bị xáo trộn nghiêm trọng. Tình hình này, nếu kéo dài, sẽ buộc chính quyền Hồng Kông, hoặc phải nhượng bộ, chấp nhận một số yêu sách của phong trào biểu tình, hoặc trấn áp. Theo giới phân tích, việc ông Lương Chấn Anh từ chức có thể làm dịu tình hình, nhưng khả năng này ít xẩy ra.
Phong trào hụt hơi
Tuy có hàng chục ngàn người biểu tình liên tiếp trong những ngày qua, nhưng mối quan tâm hàng đầu của ban tổ chức là duy trì được nhịp độ huy động người dân xuống đường, bởi vì nếu có ít người tham gia, chính quyền có thể điều động cảnh sát giải tán cuộc biểu tình.
Những địa điểm có ít người tham gia so với khu trung tâm như Causeway Bay, khu thương mại và Mongkok, nơi có mật độ dân cư rất cao ở Ma Cao, đối diện với đảo Hồng Kông, được đánh giá là những nơi dễ bị trấn áp.
Những người biểu tình cũng phải chú ý tới công luận của lãnh thổ có hơn 7 triệu dân này, nơi được coi là rất thuận tiện cho kinh doanh và các hoạt động dịch vụ tài chính.
Tuy có xẩy ra vài hiện tượng tranh cãi giữa người biểu tình và người sử dụng giao thông công cộng, những người bán hàng, nhưng cho đến nay, chưa thấy xuất hiện sự bất bình, phản đối của người dân đối với phong trào đấu tranh. Tình hình này có thể thay đổi nếu những xáo trộn trong sinh hoạt, giao thông kéo dài trong những ngày tới, hoặc những tuần tới.
Chính quyền trấn áp
Chính quyền Hồng Kông có thể lại huy động cảnh sát chống bạo động để giải tán cuộc biểu tình. Cảnh sát không loại bỏ khả năng sử dụng lựu đạn cay, thậm chí bắn đạn cao su để trấn áp những người biểu tình.
Thế nhưng, giống như Chủ Nhật, 28/09, mọi đối đầu, xung đột giữa cảnh sát và người biểu tình sẽ càng làm cho người dân xuống đường đông đảo hơn, trong lúc giới phân tích cho rằng, dường như cuộc đấu tranh đã hoàn toàn vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các lãnh đạo phong trào. Theo nhận định của công ty tư vấn Steve Vickers Associates, cho dù các lãnh đạo này bị bắt, phong trào có thể vẫn tiếp tục.
Bắc Kinh can thiệp trực tiếp
Quân đội Trung Quốc có một doanh trại ở Hồng Kông. Chính quyền Bắc Kinh có thể quyết định rằng tình hình trên lãnh thổ này đã kéo dài quá mức và huy động quân đội giải quyết vấn đề. Trong những ngày qua, có tin đồn là quân đội Trung Quốc sẽ can thiệp, nhưng cho đến nay, chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ giả thuyết này sẽ xẩy ra.
Ông Lương Chấn Anh và chính quyền Bắc Kinh nói rằng Hồng Kông có đủ khả năng tự giải quyết cuộc khủng hoảng. Theo một nhà phân tích phương Tây, kịch bản quân đội Trung Quốc can thiệp trực tiếp, tuy là ít xẩy ra nhất, sẽ bị toàn thế giới lên án. Có nhiều khả năng là cảnh sát Trung Quốc trá hình, mặc quân phục như cảnh sát Hồng Kông, được điều động tới hỗ trợ cảnh sát Hồng Kông. Với cách này, chính quyền Hồng Kông và Bắc Kinh sẽ tuyên bố là họ tự giải quyết tình hình nội bộ trên lãnh thổ này.
Đức Tâm
(RFI)
Mai Tú Ân - Bài học từ Hong Kong...
Có
thể nói với đa số người VN chúng ta, thì những tin tức từ HK đưa về như
một làn gió mát rượi thổi đến, đem một làn sinh khí đến tất cả chúng
ta...Và dù cho cuộc đối đầu bên ấy có ra sao đi nữa thì chúng ta đã được
lợi vô cùng...Chúng ta có được bài học căn bản về quyền con người, kèm
theo một bài thực hành sống động về cái quyền thiêng liêng ấy mà ta say
mê theo dõi trong những ngày HK dậy
sóng...
Chúng ta thấy được sức mạnh của giới trẻ trong việc khuynh loát
tất cả... Thậm chí có cả một thần tượng trong giới ấy. Chàng sinh viên
Joshua Wong trẻ tuổi đeo kiếng cận, mặt non choẹt nhưng lại có khí phách
của một người anh hùng....
Kết cục của "cuộc chiến" thì cũng có thể đoán trước. Thông thường thì ở các thể chế dân chủ, khi biểu tình lớn, kéo dài có khả năng đưa đến bạo động của người dân thì chính quyền thường nhượng bộ không nhiều thì ít... Vì những người cầm quyền dân cử hiểu một điều rằng, họ phải nhìn lại mình...Và thường họ nhận ra sai lầm, chấp nhận nhượng bộ cho người dân, hầu giữ yên bình để còn làm ăn sinh sống. Thậm chí họ chịu thiệt thòi, chỉ để đáp ứng lòng dân. Thực sự đó mới là một chính quyền của dân, do dân, vì dân...
Chứ họ không cố sống cố chết bám lấy những điều nào đó mà đi ngược với lòng dân, hay dùng vũ lực để trấn áp lòng dân...
Khả năng Trung Cộng dùng quân đội đang đồn trú ở HK hay ở đại lục vào trấn áp thì khó có khả năng xảy ra. Vì ngoài việc mang tai tiếng vốn đã quá tai tiếng rồi, thì họ không ngu dại để diễn ra một Thiên An Môn mới. Và cũng đi ngược lại với hiến pháp HK, với thỏa thuận Anh-Trung 1984 khi trao trả HK. Đó là Trung Cộng chỉ được hai quyền là có quốc phòng và ngoại giao. Tức là bảo vệ HK, cũng như đại diện ngoại giao cho HK. Ngoài ra nội trị thì do HK quyết định. Nhưng giờ đây trong vòng cương tỏa của Bắc Kinh thì mọi điều đều có thể xảy ra bởi tính chất độc đoán, vô định của chính quyền CS ấy.
Nhưng bài học của HK với chúng ta không phải là sự thắng thua của họ. Chính việc họ bất chấp sợ hãi, có mặt trên đường phố mới là điều chúng ta cần học hỏi. HK giống như một tấm gương thời cuộc để chúng ta soi vào đó và nhìn nhận lại chính mình. Bài học tiếp theo mà chúng ta học được ở bạn là tinh thần của giới trẻ, giới trẻ phải là người đi đầu trong tất cả mặt trận. Thứ hai là sự ngẩng cao đầu không khuất phục bao lực, bạo quyền...của người dân. Thứ ba là phải có sự đoàn kết vô điều kiện của tất cả người dân, và phải có sự dẫn dắt của các tổ chức đối lập nhưng hợp pháp, như các tổ chức xã hội dân sự, tôn giáo, các hội đoàn, các nhân vật đấu tranh dân chủ tên tuổi..v..v... Thứ tư là thời buổi internet ngày nay, bất cứ điều gì diễn ra ở đâu đi nữa thì thế giới cũng đều biết và luôn đứng về phía người dân. Bài học thứ năm là giới cầm quyền BK rất sợ mạng internet, sợ FB vì nó rất lợi ích cho tụ họp số đông, biến hóa khôn lường... Mọi sự kiện diễn ra dù ở đâu thì cũng chỉ vài giây là lan ra khắp thế giới. Bài học thứ 6 là cầu Trời cho chúng ta vài chàng Joshua Wong, nhiều hơn càng tốt...Và bài học cuối cùng là cái thời mà nhà cầm quyền CS muốn làm gì thì làm đã qua rồi. Vĩnh viễn qua rồi...
1/10/2014
Mai Tú Ân
(FB Mai Tu An)
Nhân Dân Nhật Báo: Người biểu tình Hồng Kông đừng ảo tưởng!
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng các cựu lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc trong Lễ kỷ niệm 65 năm thành lập nước CHND Trung Hoa tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh, tối 30/9. Ảnh: Chinanews. |
Chủ tịch Tập Cận Bình đã có bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm Quốc khánh
Trung Quốc diễn ra tối ngày 30/9, trong đó có những nội dung thể hiện
quan điểm về vấn đề Hồng Kông.
Chinanews đưa tin, tối ngày 30/9, Quốc vụ viện Trung Quốc tổ chức
Tiệc mừng Quốc khánh tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh, nhằm kỷ niệm
65 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1/10/1949 -
1/10/2014).
Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch quốc gia, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Tập Cận Bình đã có bài phát biểu chỉ ra, không
ngừng thúc đẩy sự nghiệp "1 quốc gia 2 chế độ" chính là nguyện vọng của
toàn thể đồng bào Trung Quốc, bao gồm Hồng Kông và Macau, phù hợp với
lợi ích căn bản của quốc gia cũng như lợi ích dài lâu của Hồng Kông,
Macau.
Phát biểu trên được giới truyền thông xem như thái độ chính thức của ông Tập Cận Bình đối với vấn đề Hồng Kông.
Chủ tịch Tập Cận Bình nhấn mạnh, 1 quốc gia 2 chế độ là hình thức phù hợp nhất để thực hiện thống nhất quốc gia. Ảnh: Chinanews.
Cũng trong ngày 30, ông Tập Cận Bình đã
hội kiến Đoàn đại biểu của Đoàn thể Đài Loan hòa bình thống nhất. Theo
đó, ông Tập chỉ ra, "hòa bình thống nhất, 1 quốc gia 2 chế độ" chính là phương thức phù hợp nhất để thực hiện thống nhất quốc gia.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Tập Cận Bình còn hội kiến Đoàn đại biểu công thương Hồng Kông. Ông Tập nói, 1 quốc gia 2 chế độ là quốc sách cơ bản, đồng thời nhấn mạnh muốn thực hiện tốt nhiệm vụ tại Hồng Kông thì mấu chốt cần phải quán triệt phương châm 1 quốc gia 2 chế độ.
Theo Tân Hoa Xã, 2014 là kỷ niệm 120 năm Chiến tranh Giáp Ngọ. Vào năm 1894, chính phủ Thanh triều sau khi chiến bại đã phải ký "Điều ước Mã Quan",
cắt Đài Loan cho Nhật. Trước đó, vào các năm 1842 và 1887, chính phủ
Thanh cũng lần lượt phải "dâng" Hồng Kông, Macau cho Anh và Bồ Đào Nha.
Hãng
thông tấn quốc gia Trung Quốc khẳng định, trải qua 17 năm kể từ khi
Hồng Kông về với Trung Quốc, Bắc Kinh đã gìn giữ Hồng Kông là một tấm gương kinh tế phồn vinh nhất, mạnh mẽ nhất, tự do nhất trên thế giới.
Trong
khi đó, Nhân Dân Nhật Báo - tờ báo cơ quan của Đảng cộng sản Trung Quốc
- cũng đã đưa ra phản ứng chính thức đối với cuộc vận động "Chiếm Trung
Hoàn" đang diễn ra tại Hồng Kông.
Bài viết "Quý trọng thời cơ phát triển, bảo vệ Hồng Kông ổn định phồn vinh" đăng trên Nhân Dân Nhật Báo số ra ngày 30 viết, cái gọi là cuộc tụ tập phi pháp "Chiếm Trung Hoàn" của một nhóm thiểu số đã
gây nhiễu loạn nghiêm trọng trật tự xã hội, ảnh hưởng kinh tế dân sinh
tại Hồng Kông. "Chiếm Trung Hoàn" đã tổn hại Hồng kông, là cái họa của dân chúng, nếu cứ để tự do lan truyền thì hậu quả không thể tưởng tượng.
Nhân Dân Nhật Báo cáo buộc
cuộc vận động "Chiếm Trung Hoàn" là cuộc tụ tập phi pháp của một nhóm
thiểu số, đồng thời "răn đe" người biểu tình Hồng Kông đừng ảo tưởng
rằng nhừng hành động của mình sẽ không đưa đến hậu quả nào.
Nhân Dân Nhật Báo cho rằng, "Chiếm Trung Hoàn" đã phá hoại căn cơ của Hồng Kông. Theo đó, pháp trị là giá trị cốt lõi của Hồng Kông, tuy nhiên luật pháp Hồng Kông đã bị thiểu số
người tham gia vận động "Chiếm Trung Hoàn" khinh nhờn. Đồng thời tờ báo
Đảng Trung Quốc cũng chỉ rõ, "Chiếm Trung Hoàn" không phải là giao tiếp hòa bình, mà là hành động đối kháng, và nhóm thiểu số cố ý thách thức pháp luật sẽ phải nhận lấy hậu quả.
Ngoài ra, Nhân Dân Nhật Báo cũng buộc
tội cuộc vận động "Chiếm Trung Hoàn" gây tổn hại đến nền kinh tế phồn
vinh của Hồng Kông cũng như cản trở quá trình phát triển thuận lợi của nền dân chủ tại Đặc khu hành chính này.
Nhân Dân Nhật Báo chỉ trích, cuộc vận
động "Chiếm Trung Hoàn" trong những ngày vừa qua khiến các cơ quan tài
chính buộc phải đóng cửa ngừng hoạt động, nhiều đơn vị phải hủy bỏ các
kế hoạch ban đầu. Thậm chí, do tình trạng không đảm bảo an toàn giao
thông và dân sinh nên nhiều nhà trẻ, trường học đã phải tạm nghỉ. Thêm
vào đó, Hội diễn pháo hoa Hồng Kông mừng Quốc khánh cũng bị buộc phải hủy bỏ.
Đồng thời, Nhân Dân cũng khẳng định hành
động của những người sách động "Chiếm Trung Hoàn" sẽ chỉ gây trở ngại
đến tiến trình thực hiện bầu cử phổ thông đầu phiếu tại Hồng Kông vào
năm 2017.
Nhân Dân Nhật Báo kêu gọi quần chúng biểu tình tại Hồng Kông trở lại quỹ đạo pháp luật, sử dụng những hình thức hòa bình, lý trí, hợp pháp để biểu đạt nguyện vọng.
Nhân Dân "răn đe", những đối tượng ảo tưởng rằng có các quốc gia bên ngoài ra tay can thiệp, hay lợi dụng sự chú ý của truyền thông quốc tế để tự tung tự tác thì đừng mơ thoát khỏi pháp luật trừng trị.
Đại Lộ
(Soha)
Trương Nhân Tuấn - Hồng Kông có trở thành Thiên An Môn?
Tôi không tin rằng các cuộc biểu tình ở Hồng Kông sẽ đưa đến một Thiên
An Môn thứ hai. Nếu những người tham gia biểu tình Hồng Kông không nản
lòng, những yêu sách của họ sẽ được thỏa mãn trong nay mai.
Lý do đơn giản là mục đích (và tầm ảnh hưởng) của hai cuộc biểu tình rất khác nhau.
Lý do đơn giản là mục đích (và tầm ảnh hưởng) của hai cuộc biểu tình rất khác nhau.
Cuộc biểu tình ở Thiên An Môn 25 năm trước, nếu không dập tắt, có thể
gây ảnh hưởng lớn lao, làm đảo lộn xã hội Trung Quốc, nhà nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa do Mao Trạch Đông dựng lên có thể bị sụp đổ (ít nhất
là như Liên Xô trong vấn đề lãnh thổ). Quyết định của Đặng Tiểu Bình
không chỉ cứu chế độ mà còn cứu Trung Quốc thoát khỏi một cơn khủng
hoảng về chính trị, xã hội không lường được hậu quả. Quyết định tàn khốc
đưa đến kết quả tàn khốc. Dầu rất đau đớn nhưng không thể không lấy
quyết định.
Cuộc biểu tình hiện nay ở Hồng Kông, mục đích là yêu cầu nhà cầm quyền Bắc Kinh giữ lời hứa « một quốc gia hai chế độ » mà lãnh đạo Trung Quốc đã long trọng ký kết năm 1997, thể hiện trên bộ Luật cơ bản hiện thời Hồng Kông. (Hồng Kông là một lãnh thổ được quốc tế hóa, có nền chính trị dân chủ).
Biểu tình ở đây để càng lâu càng bất lợi, vì nó có thể lây lan sang các địa phương khác trong lục địa. Còn đàn áp (theo lối Thiên An Môn) thì không có lý do, kể cả lúc người biểu tình bạo động.
Nhượng bộ, Tập Cận Bình chưa chắc « mất uy tín » nếu ông này khôn khéo ngoại giao, hy sinh một Lương Chấn Anh để lấy lòng những « lãnh đạo » Hồng Kông tương lai là lớp trẻ sinh viên học sinh.
Không nhượng bộ, tức là quyết định đàn áp có mức độ, có thể xảy ra máu chảy thịt rơi, điều chắc chắn là phong trào biểu tình sẽ không tan rã mà sẽ lớn mạnh hơn, đời sống kinh tế, xã hội Hồng Kông có thể xáo trộn. Điều đưa đến là ước vọng của những người dân ở đây cũng sẽ khác đi : một Hồng Kông ly khai (thay vì một Hồng Kông có thể chế chính trị dân chủ, khác với lục địa). Tập Cận Bình sẽ mất uy tín trong nội bộ cũng như tạo một hình ảnh nhơ nhuốc của Trung Quốc trước quốc tế. Trong khi việc áp đặt chính trị quốc gia (tức độc tài) lên Hồng Kông thì không đưa lại lợi lộc nào cho Trung Quốc, ngoài việc các tài phiệt ở đây sẽ « di tản » sang một vùng đất an lành khác.
Tôi nghĩ là những người tham gia biểu tình, nhất là khối sinh viên học sinh và phụ huynh, biết chắc là lãnh đạo Bắc Kinh không thể ra quyết định đàn áp như 25 năm trước tại Thiên An Môn. Ngày xưa là quyền lợi và sự ổn định của quốc gia Trung Quốc. Hôm nay là uy tín của cá nhân Tập Cận Bình.
Thực ra uy tín của họ Tập chỉ có thể giữ được với hành động giữ lời hứa về một quốc gia hai chế độ.
*
Phát ngôn nhân bộ ngoại giao Trung Quốc vừa mới tuyên bố cảnh cáo rằng
vấn đề Hồng Kông thuộc nội bộ của Trung Quốc. Trong khi Hoa Kỳ và Anh
chính thức lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh phải tôn trọng ý nguyện của dân
Hồng Kông.
Hoa Kỳ và Anh có « xía » vào chuyện nội bộ của Trung quốc hay không ?
Câu trả lời là không !
Tuyên bố của Bắc Kinh có điểm cần xét lại. Mặc dầu Hồng Kông thuộc chủ quyền (không tranh cãi) của Trung Quốc, nhưng Hồng Kông là một lãnh thổ tự trị, có « tư cách pháp nhân » một vùng lãnh thổ được « quốc tế hóa », là « đối tượng » của công pháp quốc tế.
Theo các điều 151, 152, 153 của Luật cơ bản 1-7-1997 :
Hồng Kông có tư cách pháp nhân (như là quốc gia), là thành viên của các tổ chức quốc tế trực thuộc LHQ, là hội viên của WTO, hội viên của Hiệp hội Quan thuế quốc tế đồng thời là hội viên của Hiệp hội APEC (Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á Thái bình dương)…
Hồng Kông có tư cách pháp nhân (như là quốc gia) để ký kết các hiệp ước với các quốc gia khác.
Hồng Kông có hệ thống pháp luật riêng, quyền tư pháp thực sự độc lập (điều19), có cờ riêng (điều 10), có pháp quyền về quan thuế và kiểm soát biên giới (điều 154), có đồng tiền riêng (đô la HK).
Điều 39 bảo đảm các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Cam kết của Trung Quốc về « một quốc gia hai hệ thống chính trị » cho Đài Loan, được áp dụng tại Hồng Kông và Ma Cao, thực tế cho thấy Bắc Kinh đã không tôn trọng những cam kết (quốc tế). Lãnh đạo Bắc Kinh lên âm mưu bãi bỏ quyền tự trị của Hồng Kông, bằng cách áp đặt nhân sự lãnh đạo. Điều này đã bị sự phản đối mãnh liệt của dân chúng, thể hiện qua các cuộc biểu tình, phong trào bất tuân dân sự…
Từ đầu thập niên 80, Trung Quốc đã cho thành lập thành phố Thẩm Quyến, kế cạnh Hồng Kông, như là một « đặc khu kinh tế ». Ban đầu khu vực này chỉ là một làng chài lưới, nghèo khổ như các làng chài khác thuộc lục địa. Mục đích thành lập Thẩm Quyến không chỉ để cạnh tranh với Hồng Kông, mà còn là một tính toán chính trị nhằm áp đặt luật quốc gia lên vùng lãnh thổ mới sáp nhập. Nhờ sự năng động của Hồng Kông, Thẩm Quyến phát triển mạnh mẽ, trở thành một đặc khu kinh tế giàu nhất lục địa (tăng trưởng trung bình 25% mỗi năm). Thẩm Quyến trở thành Hồng Kông thứ hai.
Sự lên tiếng của Hoa Kỳ và Anh là đúng lúc nhưng chưa chắc ngăn cản được Bắc Kinh.
Dự tính của lãnh đạo Bắc Kinh, người ta có thể thấy là sẽ ra tay đàn áp mạnh mẽ dân chúng biểu tình. Nếu Hồng Kông « tê liệt » toàn diện thì việc này cũng không gây ảnh hưởng lớn lao (về kinh tế) cho Trung Quốc. Thẩm Quyến (chia cách Hồng Kông bằng một cây cầu) có đầy đủ phương tiện hạ tầng cơ sở thay thể mọi sinh hoạt của Hồng Kông. Điều mà Bắc Kinh không dự toán được là sự dấn thân quyết liệt của sinh viên, học sinh được sự ủng hộ của hầu hết phụ huynh. Mặc dầu đã dự trù một lực lượng đối kháng (nhóm « Đa số thầm lặng »), nhưng nhóm này cũng khó dập tắt được khí thế của sinh viên, học sinh…
Chắc chắn việc dằn co này sẽ kéo dài. Bắc Kinh cũng có thể đạt được mục tiêu : trung tâm chứng khoán sẽ dời về Thẩm Quyến.
Có lợi cho Hồng Kông nếu dư luận quốc tế đồng loạt lên tiếng đồng thời dân chúng các tỉnh trong lục địa hưởng ứng phong trào đòi dân chủ mà điều này còn tùy thuộc vào sự quyết tâm của thành phần trí thức và lớp công nhân.
Chắc chắn là Hoa Kỳ và Anh cũng thấy « dã tâm » của lãnh đạo Bắc Kinh : phá bỏ tư cách pháp nhân « quốc tế » của Hồng Kông, bằng cách dùng Thẩm Quyến thay thế Hông Kông.
Sẽ đối phó bằng cách nào ? Một Trung Quốc dân chủ chắc chắn là một điều tốt không chỉ cho Châu Á mà còn cho cả nhân loại. Tất cả các tranh chấp trong các nước dân chủ hầu hết đều được giải quyết bằng « luật lệ » chứ không bằng sức mạnh (như các nước độc tài).
Ai cũng muốn vậy nhưng không dễ thực hiện. Giai cấp trung lưu Trung Quốc phần lớn đều thân chính quyền, vì sự giàu có của họ đều dựa vào, hay đến từ, quyền lực chứ không do tài năng và trí tuệ. Dầu vậy, khối lao động (công nhân, nông dân) của TQ rất lớn, chiếm trên 70% nhân lực của TQ. Lãnh đạo được khối nhân sự này thì việc gì cũng thành công.
Trương Nhân Tuấn
(FB Nhân Tuấn Trương)
Những ngày qua, sự có mặt của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Mỹ chuẩn bị cho cuộc gặp quan trọng với Ngoại trưởng John Kerry đã gây sự chú ý của nhiều người quan tâm đến quan hệ Việt Mỹ. Đây là chuyến đi được trông đợi từ lâu, kể từ sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu ngoài khơi Việt Nam hồi tháng 5 vừa qua. Những người mong muốn một quan hệ nồng ấm giữa hai nước cựu thù cũng có thể hy vọng đây là một dấu hiệu cho thấy những bước biến chuyển quan trọng trong quan hệ hai nước để đối đầu với những thách thức từ Trung Quốc.
Trong bài viết được đăng trên trang Yale Global hôm 25 tháng 9 vừa qua, nhà cựu ngoại giao Hoa Kỳ, David Brown, viết đại ý rằng trong cuộc gặp tới, ông Phạm Bình Minh và ông Kerry sẽ phải tìm ra một tiến trình trung gian bảo vệ sự tự chủ của Mỹ về chính sách trong khi vẫn duy trì sự cân bằng trong khu vực.
Ngay trước cuộc gặp dự kiến diễn ra vào đầu tháng 10 tới, trong một bài phát biểu tại Hiệp hội châu Á (Asia Society) ở New York hôm 24 tháng 9, ông Phạm Bình Minh cũng đã kêu gọi Mỹ phải tiếp tục đóng vai trò quan trọng và không nên bỏ qua trách nhiệm của mình ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển quan hệ ngoại giao đa dạng, đa phương:
“Những bên có liên quan ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, bao gồm Hoa Kỳ nên duy trì cam kết và trách nhiệm của họ đối với tương lai của châu Á Thái Bình Dương… các cường quốc lớn nên gánh tránh nhiệm lớn hơn để đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á Thái Bình Dương…”
Kể từ sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu ngoài khơi Việt Nam và sử dụng các đội tàu hung hậu xua đuổi các tàu chấp pháp Việt Nam hoạt động trong khu vực, khước từ các đề nghị đối thoại của lãnh đạo Việt Nam, người ta cũng thấy có những dấu hiệu mới tích cực hơn trong quan hệ Việt Mỹ.
Trả lời biên tập viên Gia Minh của đài Á châu Tự do hôm 29 tháng 9, tiến sĩ Lê Thu Hường, thuộc viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore nhận xét:
“Gần đây chúng ta có thể quan sát các chuyến đi của những quan chức Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng như ngược lại. Trong bối cảnh hiện tại, tôi nghĩ đó là tự nhiên tại vì khi Việt Nam có cảm giác có thể cần thiết quan hệ với Hoa Kỳ tốt hơn do một số vấn đề xảy ra với Trung Quốc, nhất là tại biển Đông thì tôi nghĩ đó là điều tự nhiên thôi. Những người quan sát cũng nghĩ rằng đây là một hy vọng Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ đi đến gần nhau hơn.”
Ngay từ tháng 5, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã điện đàm với Ngoại trưởng John Kerry và được mời sang Hoa Kỳ để có những thảo luận với phía Hoa Kỳ. Tuy nhiên chuyến đi được nhiều người trông đợi đã bị hoãn lại. Thay vào đó, Việt Nam cử ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, sang Mỹ từ ngày 23 đến 28 tháng 7.
Ngay sau chuyến thăm của ông Phạm Quang Nghị sang Mỹ, ngày 8 tháng 8, hai Thượng Nghị sĩ Mỹ John McCain và Sheldon Whitehouse đã đến thăm Việt Nam. Điểm đáng chú ý trong chuyến thăm này là phát biểu của Thượng nghị sĩ John McCain ủng hộ việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Trong khi thái độ hung hăng của Trung Quốc ngoài biển Đông đang làm Hoa Kỳ và Việt Nam cho thấy có những dấu hiệu xích lại gần nhau hơn, người ta cũng nhận thấy những khác biệt nhất định còn tồn tại giữa hai nước trên con đường hướng tới việc phát triển quan hệ sâu rộng hơn nữa.
Một trong những trở ngại lớn nhất chính là vấn đề quyền con người ở Việt Nam. Thượng nghị sĩ John McCain dù tuyên bố ủng hộ việc nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam cũng tỏ ra thận trọng khi nói đến vấn đề này. Phát biểu với báo giới tại Hà Nội hôm 8 tháng 8, Thượng nghị sĩ John McCain nói rằng mức độ nới lỏng lệnh cấm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam cải thiện hơn nữa vấn đề nhân quyền.
Các tổ chức nhân quyền quốc tế hiện vẫn chỉ trích vấn đề nhân quyền của Việt Nam. Human Rights Watch cho biết số người bất đồng chính kiến tại Việt Nam bị kết án vẫn tiếp tục gia tăng kể từ năm 2010 trở lại đây. Chỉ riêng trong năm ngoái đã có ít nhất 63 người bị bỏ tù vì những phát biểu ôn hòa.
Vấn đề thứ hai chính là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ hai nước đã có những dấu hiệu nồng ấm trở lại kể từ sau khi Trung Quốc rút giàn khoan vào giữa tháng 7 vừa qua. Cuối tháng 8, ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, đặc phái viên Tổng Bí thư đảng Cộng sản, đã sang Trung Quốc. Kết thúc chuyến thăm, hai bên đã được thỏa thuận 3 điểm, theo đó hai bên cam kết duy trì quan hệ tốt đẹp giữa hai đảng và nhà nước, duy trì ổn định ở biển Đông.
Ngay trong phần trả lời câu hỏi ở Hiệp hội châu Á hôm 24 tháng 9, ông Phạm Bình Minh cũng khẳng định quan hệ Việt Trung là tốt đẹp.
“Chúng tôi có quan hệ rất tốt đẹp về chính trị. Về mặt kinh tế, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, tổng kim ngạch thương mai hai nước vào khoảng 50 tỷ đô la chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và thế giới. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi có quan hệ ở mọi kênh giữa hai đảng, nhà nước và người dân.”
Chuyên gia về Trung Quốc, bà Bonnie Glaser, thuộc Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế ở Washington DC cho rằng, mối quan hệ với Trung quốc có thể chính là rào cản trong việc Việt Nam có thể mua được vũ khí sát thương từ Mỹ vì những người trong Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam không muốn làm mất lòng Trung Quốc.
Mặt khác, với chính sách 3 không, không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống lại nước khác, việc Việt Nam ngả về phía Mỹ hoàn toàn để chống lại Trung Quốc là điều khó có thể xảy ra vào lúc này. Và đây cũng là điều mà ông Phạm Bình Minh đã nói tại Hiệp hội châu Á khi ông nói rằng các nước nhỏ không muốn phải lựa chọn giữa các cường quốc, ý ông muốn nói đến Mỹ và Trung Quốc.
Dương Hoài Linh - Bắc Kinh và Hồng Kông: Ai sẽ chiến thắng?
Người biểu tình phong tỏa các khu trung tâm Hong Kong |
Ai đó nói rằng cuộc biểu tình đang diễn ra ở Hồng Kông là một cơn bão mà
sức ảnh hưởng của nó có thể lan tỏa tới Trung Quốc đại lục và Việt nam
là một sự lạc quan hơi sớm. Nếu nó là bão thì chính quyền Bắc Kinh sẽ
bằng mọi giá chặn nó lại và cơ hội thành công của nó có lẽ chỉ bằng 0.
Biến cố Thiên An Môn 25 năm trước vẫn là một bài học còn nóng hổi.
Nhưng nếu gọi chính xác thì đây là một trận lũ lịch sử lớn nhất Hồng Kông. Bão đến nhanh và tan đi nhanh, lũ thì vẫn còn ở lại. Bão có sức tàn phá khủng khiếp nhưng lũ thì chỉ gây đình trệ, ách tắc cục bộ. Đa phần cuộc đấu tranh bất bạo động đơn thuần chỉ là cuộc "thi gan" giữa người dân và chính quyền. Kẻ chiến thắng là kẻ kiên trì hơn.
Xem ra thì lãnh đạo cuộc biểu tình ở Hồng Kông đã hiểu rất rõ điều này. Ngoài việc tặng hoa cho cảnh sát họ cũng đã biến cuộc xuống đường thành một cuộc biểu tình lịch sự nhất thế giới. Tất cả đều diễn ra một cách trật tự, ngăn nắp. Sinh viên mang bài tập về nhà ra làm ngay trên đường phố. Các tấm bảng xin lỗi vì chắn đường hiện diện khắp nơi. Rác thải được người biểu tình dọn dẹp cần mẫn sau mỗi ngày. Nguyên tắc bất bạo động thể hiện rất rõ ràng qua một mẩu chuyện nhỏ của phóng viên Bưu điện Hoa Nam buổi sáng: "Một người đàn ông ném trứng vào đoàn biểu tình ở Causeway Bay, miệng hét: "Về đi học đi, đừng chắn đường nữa!". Các sinh viên biểu tình phản ứng bằng cách dọn dẹp những gì ông ta ném ra."
Có thể nói cuộc biểu tình ở Hồng Kông có rất nhiều cơ hội thắng lợi vì những lý do sau đây:
- Hồng Kông llà một xã hội châu Âu thu nhỏ trong lòng châu Á. Sự chú ý giúp đỡ và ủng hộ của các nước phương Tây đặc biệt là Anh, Mỹ có ảnh hưởng to lớn đến mức độ thành công của cuộc biểu tình.
- Hồng Kông là một trong ba trung tâm tài chính lớn nhất thế giới. Sự đình trệ hoạt động ở đây sẽ gây thiệt hại lớn về mặt kinh tế và dưới áp lực lớn của các tổ chức tài chính thế giới chính quyền Bắc Kinh sẽ phải tính đến phương án nhượng bộ.
- Hồng Kông đang được hưởng quy chế tự trị "một quốc gia hai chế độ", mục đích của cuộc biểu tình không phải là lật đổ thể chế mà chỉ là đòi hỏi quyền bầu cử phổ thông đầu phiếu, phá bỏ nguyên tắc bầu cử tập trung. Do đó chính quyền có lý do không phải lo ngại sự noi gương của các vùng lãnh thổ khác trên toàn cõi Trung Quốc.
- Xã hội Hồng Kông là một xã hội pháp trị, nơi mà công ánh sáng công lý được thực thi nghiêm chỉnh nhất trong các cộng đồng người Hoa. Người dân Hồng Kông cũng là người ý thức rõ trách nhiệm công dân nhất. Họ không dễ dàng từ bỏ cái mà họ đã được hưởng trong suốt hơn 150 năm qua. Khẩu hiệu"Họ không thể giết hết tất cả chúng ta" đã nói rất rõ quyết tâm của người Hông Kông trong cuộc biểu tình này.
- Chính quyền Bắc Kinh có thể sử dụng xe tăng, vũ khí quân đội để đàn áp nhưng sẽ không bao giờ dám bắn vào đoàn biểu tình. Người dân Hồng Kông biết luật pháp cho nên họ sẽ không sợ bị bắt và bị trả thù. Hơn nữa đội ngũ luật sư của Hồng Kông cũng sẽ đứng về phia họ để buộc tòa án phải trả tự do tức khắc cho bất cứ người biểu tình bị bắt nào,
Như vậy sẽ không có một Thiên An Môn nào tái diễn trên đất Hồng Kông và Tập Cận Bình dù có cương quyết bao nhiêu cũng không thể cương quyết hơn dân Hồng Kông. Tuy nhiên với tính chất đặc thù của mình, "cách mạng ô dù" của Hồng Kông chỉ khiến phong trào dân chủ ở Trung Quốc và các nước khác như Việt nam học tập về phương pháp tổ chức chứ không thể đảm bảo về mặt thành công, vì Hồng Kông đang ở một đẳng cấp rất cao so với phần còn lại. Và cũng có thể đây là lý do chính khiến Đảng CSTQ buông súng đầu hàng.
Nhưng nếu gọi chính xác thì đây là một trận lũ lịch sử lớn nhất Hồng Kông. Bão đến nhanh và tan đi nhanh, lũ thì vẫn còn ở lại. Bão có sức tàn phá khủng khiếp nhưng lũ thì chỉ gây đình trệ, ách tắc cục bộ. Đa phần cuộc đấu tranh bất bạo động đơn thuần chỉ là cuộc "thi gan" giữa người dân và chính quyền. Kẻ chiến thắng là kẻ kiên trì hơn.
Xem ra thì lãnh đạo cuộc biểu tình ở Hồng Kông đã hiểu rất rõ điều này. Ngoài việc tặng hoa cho cảnh sát họ cũng đã biến cuộc xuống đường thành một cuộc biểu tình lịch sự nhất thế giới. Tất cả đều diễn ra một cách trật tự, ngăn nắp. Sinh viên mang bài tập về nhà ra làm ngay trên đường phố. Các tấm bảng xin lỗi vì chắn đường hiện diện khắp nơi. Rác thải được người biểu tình dọn dẹp cần mẫn sau mỗi ngày. Nguyên tắc bất bạo động thể hiện rất rõ ràng qua một mẩu chuyện nhỏ của phóng viên Bưu điện Hoa Nam buổi sáng: "Một người đàn ông ném trứng vào đoàn biểu tình ở Causeway Bay, miệng hét: "Về đi học đi, đừng chắn đường nữa!". Các sinh viên biểu tình phản ứng bằng cách dọn dẹp những gì ông ta ném ra."
Có thể nói cuộc biểu tình ở Hồng Kông có rất nhiều cơ hội thắng lợi vì những lý do sau đây:
- Hồng Kông llà một xã hội châu Âu thu nhỏ trong lòng châu Á. Sự chú ý giúp đỡ và ủng hộ của các nước phương Tây đặc biệt là Anh, Mỹ có ảnh hưởng to lớn đến mức độ thành công của cuộc biểu tình.
- Hồng Kông là một trong ba trung tâm tài chính lớn nhất thế giới. Sự đình trệ hoạt động ở đây sẽ gây thiệt hại lớn về mặt kinh tế và dưới áp lực lớn của các tổ chức tài chính thế giới chính quyền Bắc Kinh sẽ phải tính đến phương án nhượng bộ.
- Hồng Kông đang được hưởng quy chế tự trị "một quốc gia hai chế độ", mục đích của cuộc biểu tình không phải là lật đổ thể chế mà chỉ là đòi hỏi quyền bầu cử phổ thông đầu phiếu, phá bỏ nguyên tắc bầu cử tập trung. Do đó chính quyền có lý do không phải lo ngại sự noi gương của các vùng lãnh thổ khác trên toàn cõi Trung Quốc.
- Xã hội Hồng Kông là một xã hội pháp trị, nơi mà công ánh sáng công lý được thực thi nghiêm chỉnh nhất trong các cộng đồng người Hoa. Người dân Hồng Kông cũng là người ý thức rõ trách nhiệm công dân nhất. Họ không dễ dàng từ bỏ cái mà họ đã được hưởng trong suốt hơn 150 năm qua. Khẩu hiệu"Họ không thể giết hết tất cả chúng ta" đã nói rất rõ quyết tâm của người Hông Kông trong cuộc biểu tình này.
- Chính quyền Bắc Kinh có thể sử dụng xe tăng, vũ khí quân đội để đàn áp nhưng sẽ không bao giờ dám bắn vào đoàn biểu tình. Người dân Hồng Kông biết luật pháp cho nên họ sẽ không sợ bị bắt và bị trả thù. Hơn nữa đội ngũ luật sư của Hồng Kông cũng sẽ đứng về phia họ để buộc tòa án phải trả tự do tức khắc cho bất cứ người biểu tình bị bắt nào,
Như vậy sẽ không có một Thiên An Môn nào tái diễn trên đất Hồng Kông và Tập Cận Bình dù có cương quyết bao nhiêu cũng không thể cương quyết hơn dân Hồng Kông. Tuy nhiên với tính chất đặc thù của mình, "cách mạng ô dù" của Hồng Kông chỉ khiến phong trào dân chủ ở Trung Quốc và các nước khác như Việt nam học tập về phương pháp tổ chức chứ không thể đảm bảo về mặt thành công, vì Hồng Kông đang ở một đẳng cấp rất cao so với phần còn lại. Và cũng có thể đây là lý do chính khiến Đảng CSTQ buông súng đầu hàng.
Dương Hoài Linh
(Dân Luận)
Quan hệ Việt Mỹ tiến xa sau vụ giàn khoan dầu TQ
Kể từ sau khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ HD 981 trong
vùng nước Việt Nam đòi chủ quyền ở biển Đông hồi tháng 5 vừa qua, mối
quan hệ Việt Trung đã trở nên căng thẳng hơn nhưng mối quan hệ giữa Việt
Nam và Mỹ lại cho thấy những dấu hiệu khả quan hơn. Quan hệ hai nước
còn có thể tiến xa đến đâu?
Những dấu hiệu mới
Những ngày qua, sự có mặt của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Mỹ chuẩn bị cho cuộc gặp quan trọng với Ngoại trưởng John Kerry đã gây sự chú ý của nhiều người quan tâm đến quan hệ Việt Mỹ. Đây là chuyến đi được trông đợi từ lâu, kể từ sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu ngoài khơi Việt Nam hồi tháng 5 vừa qua. Những người mong muốn một quan hệ nồng ấm giữa hai nước cựu thù cũng có thể hy vọng đây là một dấu hiệu cho thấy những bước biến chuyển quan trọng trong quan hệ hai nước để đối đầu với những thách thức từ Trung Quốc.
Trong bài viết được đăng trên trang Yale Global hôm 25 tháng 9 vừa qua, nhà cựu ngoại giao Hoa Kỳ, David Brown, viết đại ý rằng trong cuộc gặp tới, ông Phạm Bình Minh và ông Kerry sẽ phải tìm ra một tiến trình trung gian bảo vệ sự tự chủ của Mỹ về chính sách trong khi vẫn duy trì sự cân bằng trong khu vực.
Ngay trước cuộc gặp dự kiến diễn ra vào đầu tháng 10 tới, trong một bài phát biểu tại Hiệp hội châu Á (Asia Society) ở New York hôm 24 tháng 9, ông Phạm Bình Minh cũng đã kêu gọi Mỹ phải tiếp tục đóng vai trò quan trọng và không nên bỏ qua trách nhiệm của mình ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển quan hệ ngoại giao đa dạng, đa phương:
“Những bên có liên quan ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, bao gồm Hoa Kỳ nên duy trì cam kết và trách nhiệm của họ đối với tương lai của châu Á Thái Bình Dương… các cường quốc lớn nên gánh tránh nhiệm lớn hơn để đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á Thái Bình Dương…”
Kể từ sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu ngoài khơi Việt Nam và sử dụng các đội tàu hung hậu xua đuổi các tàu chấp pháp Việt Nam hoạt động trong khu vực, khước từ các đề nghị đối thoại của lãnh đạo Việt Nam, người ta cũng thấy có những dấu hiệu mới tích cực hơn trong quan hệ Việt Mỹ.
Trả lời biên tập viên Gia Minh của đài Á châu Tự do hôm 29 tháng 9, tiến sĩ Lê Thu Hường, thuộc viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore nhận xét:
“Gần đây chúng ta có thể quan sát các chuyến đi của những quan chức Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng như ngược lại. Trong bối cảnh hiện tại, tôi nghĩ đó là tự nhiên tại vì khi Việt Nam có cảm giác có thể cần thiết quan hệ với Hoa Kỳ tốt hơn do một số vấn đề xảy ra với Trung Quốc, nhất là tại biển Đông thì tôi nghĩ đó là điều tự nhiên thôi. Những người quan sát cũng nghĩ rằng đây là một hy vọng Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ đi đến gần nhau hơn.”
Ngay từ tháng 5, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã điện đàm với Ngoại trưởng John Kerry và được mời sang Hoa Kỳ để có những thảo luận với phía Hoa Kỳ. Tuy nhiên chuyến đi được nhiều người trông đợi đã bị hoãn lại. Thay vào đó, Việt Nam cử ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, sang Mỹ từ ngày 23 đến 28 tháng 7.
Ngay sau chuyến thăm của ông Phạm Quang Nghị sang Mỹ, ngày 8 tháng 8, hai Thượng Nghị sĩ Mỹ John McCain và Sheldon Whitehouse đã đến thăm Việt Nam. Điểm đáng chú ý trong chuyến thăm này là phát biểu của Thượng nghị sĩ John McCain ủng hộ việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Tiếp theo sau chuyến thăm của hai Thượng nghị sĩ là chuyến thăm của
tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ.
Nhận định về ý nghĩa của chuyến thăm này, Giáo sư Carl Thayer, thuộc học
viện Quốc phòng Úc nói:
“Chuyến thăm của tướng Dempsey đánh dấu một bước tiến rõ rệt trong quan hệ hai nước vì chưa từng có một Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ nào đã từng đến Việt Nam kể từ sau thống nhất. Theo tôi biết thì lần cuối là vào năm 1971. Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, hai nước vẫn chưa đạt đến mức độ đó. Năm ngoái tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, tướng Đỗ Bá Tỵ đến thăm Washington và đi cùng ông là những viên chức cấp cao. Cho nên chuyến thăm này từ phía Mỹ là chuyến đáp trả. Cho nên ý nghĩa của chuyến thăm này chính là hai bên đã đạt được mức cao hơn trong quân đội chỉ thấp hơn mức Bộ trưởng quốc phòng.”
Mới đây hôm 23 tháng 9, hãng tin Reuters trích lời một số quan chức Mỹ cho biết Hoa Kỳ sắp tới sẽ bán cho Việt Nam những chiếc máy bay tuần tiễu P-3 đã bỏ vũ khí để giúp gia tăng khả năng thám sát trên không ngoài biển của Việt Nam. Theo các quan chức giấu tên này thì đàm phán giữa hai bên về việc nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam đang tiếp diễn và có nhiều khả năng sẽ có kết quả vào cuối năm nay.
Những trở ngại
“Chuyến thăm của tướng Dempsey đánh dấu một bước tiến rõ rệt trong quan hệ hai nước vì chưa từng có một Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ nào đã từng đến Việt Nam kể từ sau thống nhất. Theo tôi biết thì lần cuối là vào năm 1971. Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, hai nước vẫn chưa đạt đến mức độ đó. Năm ngoái tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, tướng Đỗ Bá Tỵ đến thăm Washington và đi cùng ông là những viên chức cấp cao. Cho nên chuyến thăm này từ phía Mỹ là chuyến đáp trả. Cho nên ý nghĩa của chuyến thăm này chính là hai bên đã đạt được mức cao hơn trong quân đội chỉ thấp hơn mức Bộ trưởng quốc phòng.”
Mới đây hôm 23 tháng 9, hãng tin Reuters trích lời một số quan chức Mỹ cho biết Hoa Kỳ sắp tới sẽ bán cho Việt Nam những chiếc máy bay tuần tiễu P-3 đã bỏ vũ khí để giúp gia tăng khả năng thám sát trên không ngoài biển của Việt Nam. Theo các quan chức giấu tên này thì đàm phán giữa hai bên về việc nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam đang tiếp diễn và có nhiều khả năng sẽ có kết quả vào cuối năm nay.
Trong khi thái độ hung hăng của Trung Quốc ngoài biển Đông đang làm Hoa Kỳ và Việt Nam cho thấy có những dấu hiệu xích lại gần nhau hơn, người ta cũng nhận thấy những khác biệt nhất định còn tồn tại giữa hai nước trên con đường hướng tới việc phát triển quan hệ sâu rộng hơn nữa.
Một trong những trở ngại lớn nhất chính là vấn đề quyền con người ở Việt Nam. Thượng nghị sĩ John McCain dù tuyên bố ủng hộ việc nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam cũng tỏ ra thận trọng khi nói đến vấn đề này. Phát biểu với báo giới tại Hà Nội hôm 8 tháng 8, Thượng nghị sĩ John McCain nói rằng mức độ nới lỏng lệnh cấm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam cải thiện hơn nữa vấn đề nhân quyền.
Các tổ chức nhân quyền quốc tế hiện vẫn chỉ trích vấn đề nhân quyền của Việt Nam. Human Rights Watch cho biết số người bất đồng chính kiến tại Việt Nam bị kết án vẫn tiếp tục gia tăng kể từ năm 2010 trở lại đây. Chỉ riêng trong năm ngoái đã có ít nhất 63 người bị bỏ tù vì những phát biểu ôn hòa.
Vấn đề thứ hai chính là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ hai nước đã có những dấu hiệu nồng ấm trở lại kể từ sau khi Trung Quốc rút giàn khoan vào giữa tháng 7 vừa qua. Cuối tháng 8, ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, đặc phái viên Tổng Bí thư đảng Cộng sản, đã sang Trung Quốc. Kết thúc chuyến thăm, hai bên đã được thỏa thuận 3 điểm, theo đó hai bên cam kết duy trì quan hệ tốt đẹp giữa hai đảng và nhà nước, duy trì ổn định ở biển Đông.
Ngay trong phần trả lời câu hỏi ở Hiệp hội châu Á hôm 24 tháng 9, ông Phạm Bình Minh cũng khẳng định quan hệ Việt Trung là tốt đẹp.
“Chúng tôi có quan hệ rất tốt đẹp về chính trị. Về mặt kinh tế, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, tổng kim ngạch thương mai hai nước vào khoảng 50 tỷ đô la chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và thế giới. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi có quan hệ ở mọi kênh giữa hai đảng, nhà nước và người dân.”
Chuyên gia về Trung Quốc, bà Bonnie Glaser, thuộc Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế ở Washington DC cho rằng, mối quan hệ với Trung quốc có thể chính là rào cản trong việc Việt Nam có thể mua được vũ khí sát thương từ Mỹ vì những người trong Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam không muốn làm mất lòng Trung Quốc.
Mặt khác, với chính sách 3 không, không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống lại nước khác, việc Việt Nam ngả về phía Mỹ hoàn toàn để chống lại Trung Quốc là điều khó có thể xảy ra vào lúc này. Và đây cũng là điều mà ông Phạm Bình Minh đã nói tại Hiệp hội châu Á khi ông nói rằng các nước nhỏ không muốn phải lựa chọn giữa các cường quốc, ý ông muốn nói đến Mỹ và Trung Quốc.
Việt Hà, phóng viên RFA
2014-10-01