Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Dân chủ và Dân trí: Cái nào đi trước?

Võ Ngọc Lục - Dân chủ và Dân trí: Cái nào đi trước?

Thành Aten, Hy lạp được xem là nơi sinh ra của tư tưởng Dân chủ từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.
(VNTB) - Trong thời gian qua nhiều nhà lãnh đạo của Việt Nam đã trả lời với thế giới về đề tài dân chủ, nhân quyền nhiều cách khác nhau, nhưng đại loại là: “Việt Nam chưa phù hợp với dân chủ vì dân trí thấp”.

Còn giới trí thức lên tiếng cho dân chủ thì lại cho rằng: “Việt Nam dân trí thấp vì chưa có dân chủ”.
Vậy thì ra chỉ có hai từ DÂN CHỦ nhưng đối với Việt Nam ta thì cực kỳ khó, khó đến nỗi sánh như “cái thuyết”: không biết Con gà hay quả trứng có trước vậy?

Ta nhìn sơ lược lại lịch sử nhân loại thử có thể tìm ra câu trả lời không?

Người Mỹ
 
Từ nửa trước thế kỷ thứ 18 hầu hết các dân tộc trên thế giới rơi vào tình trạng thuộc địa và nửa thuộc địa của thực dân và dân trí còn đơn sơ nên khái niệm dân chủ ít được nhắc tới, chỉ có những cuộc đấu tranh trực tiếp và tự phát nhằm đòi lại quyền độc lập của các dân tộc.

Từ tháng 7 năm 1776 nước Mỹ được thành lập trên cơ sở một số Ban thuộc địa của thực dân Anh, và nước Mỹ ra đời sau đó với một nền tư pháp, lập pháp và hành pháp tương đối hoàn chỉnh thể hiện rõ một nền dân chủ thực sự do vị lãnh tụ Washington lãnh đạo, và từ đó khai sinh ra nền dân chủ cho nhân loại .

Vậy thì chúng ta lấy ví dụ nước Mỹ để so sánh với Việt Nam chúng ta thế nào?

Chúng ta thử xét về dân trí của dân tộc họ từ thời kỳ lập quốc trở về trước có cao hơn dân tộc Việt Nam ta ngày nay không? Theo tôi nghĩ là không? Vì dân tộc họ cũng trải qua các thời kỳ bị làm thuộc địa, và thời kỳ đó cách đây gần 2,5 thế kỷ rồi và xét về nguồn gốc dân tộc và lợi thế khác đều không thể hơn dân tộc Việt Nam ta ngày nay được.

Vậy thì vị lãnh tụ Washington và quốc hội Mỹ lúc bấy giờ dám đưa ra một hiến pháp độc lập và dân chủ, vậy có phải họ quá mạo hiểm và liều lĩnh không? Trong khi dân trí vừa mới thoát ra khỏi một dân tộc bị trị nữa. Họ không sợ bị xáo trộn hay nổi loạn bởi sự tự do quá trớn của pháp luật như chúng ta thường nghĩ sao?

Theo tôi nghĩ là không. Vì những con người vĩ đại đó không thể tính toán sai lầm hay không lường hết hậu quả vậy. Nhưng họ thừa hiểu rằng một đất nước mới vừa ra đời nếu không có nền dân chủ thực sự vậy để giúp đất nước đó phát triển nhanh chóng về mọi mặt, mà điều đó bắt đầu từ dân trí, thì rất có thể dân tộc họ sẽ rơi vào tay thực dân một lần nữa và tội cho dân tộc họ lắm. Tôi tin là vậy.
Và thử quay lại dân việt Nam chúng ta, xem thử nếu dân trí ta thấp thì có phù hợp với nền dân chủ họ không?

Người Việt

Ngày hôm nay một bộ phận lớn đủ mọi thành phần của dân tộc Việt Nam chúng ta sinh sống hầu hết các quốc gia, và nhiều nhất là Mỹ và các nước Phương Tây. Trong khi họ là các nước dân chủ thực sự, nếu dân trí ta thấp vậy thì dân Việt Nam chúng ta có đạt kỷ lục về tội phạm Việt kiều ở nơi đó không? Chắc là không. Vì tôi chưa nghe và vào Google tìm mãi điều đó cũng không thấy. Và ngược lại, chính vì môi trường dân chủ đó có thể giúp cho họ phát huy được tối đa khả năng trí tuệ vốn có của họ, và bằng chứng là nhiều giáo sư và nhiều nhà lãnh đạo gốc Việt được thế giới tôn vinh và trọng dụng.

Vậy thì theo tôi, dân chủ đi trước, dân trí theo sau, hay dân chủ là khai trí, chứ không phải chờ có dân trí mới dám mở rộng dân chủ. Và một khi có dân trí sẽ có tất cả, có dân trí mới có dân khí, phát huy sức mạnh nội lực để bảo vệ vững chắc tổ quốc. Nếu không có dân trí sẽ hiểm họa khôn lường cho đất nước. Vì khi có dân trí thì dân tộc có đủ nhận thức phân biệt đúng sai, không dễ gì bị ai lôi kéo, kich động, hay mua chuộc gì cả. Khi đó một bộ phận lớn ngành an ninh sẽ có nhiều cơ hội và thời gian làm việc lớn cho đất nước. Và tránh những tổn thất kinh hoàng về mọi mặt như vụ biểu tình đập phá các nhà máy khắp nơi như vừa rồi. Dù bất cứ nguyên nhân và động cơ nào thì nguyên nhân chính vẫn là dân trí thấp.

      Võ Ngọc Lục ( Việt Nam Thời Báo )

Tọa đàm “Thoát Trung về văn hóa” hay Tọa đàm chửi Đảng

Chiều 15/8/2014 tại số nhà 53 phố Nguyễn Du, Hà Nội, “Diễn đàn Văn Việt” tổ chức buổi Tọa Đàm “Thoát Trung về văn hóa” do giáo sư Chu Hảo và nhà thơ Hoàng Hưng chủ trì. Buổi Tọa đàm này được diễn ra sau chủ đề “Thoát Trung là phải thoát cộng”, điều đáng được nói ở Tọa đàm lần này không do “Văn đoàn độc lập” tổ chức, mặc dù vậy nhưng ai cũng biết đến “Văn Viêt” là cơ quan ngôn luận của “Văn đoàn độc lập”. Và cái Tọa đàm này đã lộ rõ nguyên hình là một ổ kích động chống chính quyền, một số nhà văn, nghệ sĩ sau ảo tưởng ban đầu về nhó này đã chủ động rời khỏi “Văn Đoàn độc lập”, như ông nhà thơ, Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn.

1. CÙNG NHAU CHỬI ĐẢNG

 Thành phần tham dự buổi Tọa đàm lần này gồm mọi gương mặt từ già tới trẻ và tất nhiên là không thể thiếu những gương mặt có thành tích chống cộng dày đặc như ông Nguyễn Quang A, Xuân Diện,… đã phần nào nói lên mục đích công kích chính quyền của buổi tọa đàm này. Đến giờ phút này tôi vẫn chưa hiểu được thực chất buổi Tọa đàm đang nói về vấn đề “văn hóa” hay “chính trị” . Mặc dù “văn hóa” và “chính trị” nó có quan hệ qua lại chặt chẽ nhưng dù sao nó cũng thuộc hai phạm trù độc lập, thế nhưng phải đến 2/3 buổi tọa đàm nói về chính trị mà chủ yếu là “chính trị phản động”. Ông Chu Hảo thì “nhập nhằng đánh lận con đen” trong cụm từ “thoát Trung về văn hóa tức thoát khỏi âm mưu nô dịch từ Trung Quốc”, những chẳng có gì liên quan tới văn hóa hết.Còn ông Hoàng Hưng đưa ra những trích dẫn được thảo luận trên blog “Văn Việt” thể hiện một tư tưởng chống Cộng rõ ràng, ông nói “độc quyền, yếu tố độc tài” là rào cản khiến Việt Nam không thể thoát Trung và ở đây ông ta ngụ ý rằng cần phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Còn ông Nguyễn Khắc Mai cho rằng “muốn thoát Trung thì phải có nền chính trị tử tế, lành mạnh”, ông Phạm Khiêm Ích đưa ra nhận định “Muốn thoát Trung phải thoát khỏi liên minh ý thức hệ”. ..

 Tôi tự hỏi tự bao giờ ông đặt ra cái khái niệm “liên minh ý thức hệ” giữa Việt Nam và Trung Quốc, chắc các ông nghĩ rằng Việt Nam đang áp dụng tư tưởng Mao Trạch Đông và tôi đã nghe thấy âm thanh “to nhỏ” cho rằng VN đang đi theo tư tưởng của Mao, nếu các ông nghĩ thế liệu các ông có xứng đáng với vai trò “nhân sĩ tri thức” với học hàm kia, hay học hàm cũng chỉ là thứ mua được. Nếu VN quả thật đi theo tư tưởng của Mao đáng lý ra chắc chẳng có thời gian quan hệ “Việt - Trung” xung đột trong những năm 1972-1990 khi mà Việt Nam chọn hệ tư tưởng Mác-Lênin làm kim chỉ nam. Và các ông cũng lưu ý rằng tư tưởng của Trung Quốc là tư tưởng bành trướng giả Cộng sản, cho nên các ông đừng nhìn vào cái mác “Cộng sản” của TQ, bởi TQ là cái ổ làm giả mà. Vậy VN có mang tư tưởng “bành trướng” giống TQ không chắc các ông sẽ trả lời được.

Tính cùng “lên đồng chửi Đảng” ở đây thể hiện qua việc người dẫn chương trình và người phát biểu dường như đã được khoanh vùng, không dành cho bất kỳ vị khách “ngoài lề”, hay “hóng hớt” nào khác. Thậm chí có một học giả có ý kiến về “cách thức Thóat Trung” không cùng “tố Cộng” lập tức bị người điều hành chụp mũ. Đó là dịch giả Đinh Ba Anh khi đặt ra câu hỏi “Thoát Trung bằng cách nào”, anh đưa ra ví dụ Nhật Bản thoát Trung thời Duy Tân Minh Trị, Hàn Quốc thoát Trung trong chiến tranh Nam - Bắc triều, Đài Loan thoát Trung trong nội chiến Quốc - Cộng để khẳng định muốn thoát Trung là phải đảm bảo về an ninh quốc phòng và phải phát triển ngang bằng, vượt trội. Đinh Ba Anh đã chỉ rõ những điều kiện để có thể thoát Trung, vậy nếu thay đổi tư tưởng chính trị liệu chúng ta có thoát Trung được không và tất nhiên nhận định của Đinh Ba Anh đã bị Chu Hảo ngang nhiên chụp mũ Đinh Ba Anh là “không muốn thoát Trung” mặc dù trong từng câu nói của ông Đinh Ba Anh không có chỗ nào thể hiện mình không muốn thoát Trung. Cuối buổi Tọa đàm ông Chu Hảo đã nói trắng ra là Việt Nam cần phải thoát khỏi “tư tưởng Mác – Lênin” nhưng nhập nhằng trong việc cần học hỏi tư tưởng Tự do, Dân chủ của Mac và Lenin. Thực chất đây là buổi tọa đàm “độc quyền chửi Đảng”!

2. VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN PHẢN VĂN HÓA ?

Tôi may mắn được chứng kiến hành động lột tả bản chất của một trong số những người khởi xướng hội thảo này – một sự xấc xược, vô văn hóa được phát ra từ mồm của một ông Tiến sĩ - Nguyễn Quang A (hẳn ông Quang A không biết rằng có một “Dư Luận Viên”  đang đứng cạnh). Ông ta cùng một ông khác đến muộn nên hết ghế, Quang A liền chỉ vào trong hội trường và nói với ông kia rằng “lên cái bệ gần quạt mà ngồi”, tức là bệ đặt tượng chân dung Bác Hồ khiến tôi nóng mặt và phải khá là kiềm chế vì mình đang trong ổ của chúng.

Bạn trẻ Nguyễn Trường Sơn đưa ra nhận định muốn thoát Trung thì phải thay đổi Giáo dục, tư tưởng nhưng câu trước câu sau đã thể hiện sự bố láo của mình, anh ta nói “không thể thoát Trung nếu giáo dục Việt Nam suốt ngày cứ nhét vào đầu tư tưởng của mấy ông đã chết từ đời nào và những tư tưởng không thể hiểu nổi” (tức đang nói học thuyết Mác – Lênin). Vậy hẳn những nhà tư tưởng của chủ nghĩa tư bản từ mấy thế kỷ trước hẳn chưa chết ?

Ông Hoàng Hưng trích bài viết “Thoát Trung rút cuộc là thoát gì” của ông Nguyễn Ngọc Lanh kết luận xanh rờn “Truyền thống đền ơn đáp nghĩa là nguyên nhân cản trở tất cả sự phát triển của Việt Nam” với ý ám chỉ Việt Nam “nặng tình” với những giúp đỡ trong chiến tranh của Trung Quốc (???).

Một buổi tọa đàm về văn hóa không phải là tọa đàm về chính trị, như GS Chu Hảo nói khi mở đầu, nhưng khán giả thật không may khi chẳng được hưởng chút văn hóa nào. Văn đoàn độc lập đang ngày càng thể hiện rõ xu hướng của mình. Họ không thật sự muốn "thoát Trung", họ chỉ mượn những chủ đề này, giống như năm 2011 đã mượn cớ biểu tình chống Trung Quốc, để tuyên truyền chống chính quyền. Tất cả những việc họ làm không qua mắt được công chúng, và chắc chắn rằng sẽ trở nên vô ích, hoặc nặng hơn là phản cảm, trong con mắt của người dân. (Blog: Cuongdata)
Nguyễn Quang Bách   
( Blog Loa Phường )

Keith Weller Taylor - Đã Tới Lúc Nước Mỹ Xét Lại Cách Dạy về Chiến Tranh Việt Nam

Keith-Taylor11
Giáo sư Keith Weller Taylor
Cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam và Giáo sư về văn hoá và lịch sử Việt Nam
Sau khi tốt nghiệp Cử nhân về Sử học tại Đại học George Washington năm 1968, Keith Weller Taylor bị động viên và được gửi qua tham chiến tại Việt Nam. Bị thương và trở về học tiếp, ông tốt nghiệp Tiến sĩ về Lịch sử Việt Nam tại Đại học Michigan năm 1976, rồi giảng dạy nhiều năm tại Tokyo và Singapore trước khi về làm giáo sư về Văn hoá và Lịch sử Việt Nam tại Đại học Cornell. Là người am hiểu tiếng Việt lẫn Hán và Nôm, ông đã trở về Việt Nam nghiên cứu trong các năm 1992-1994. Ngoài bộ môn lịch sử, ông viết rất nhiều về văn học Hán-Nôm và Phương pháp sử của Việt Nam.

    Giới Việt học biết tới Giáo sư Taylor qua nhiều cuốn sách nổi tiếng về lịch sử Việt Nam: The Birth of Vietnam : Sino-Vietnamese relations to the Tenth Century and the Origins of Vietnamese Nationhood (Luận án Tiến sĩ – University of Michigan, Ann Arbor, 1976) được tái bản có hiệu đính (Berkeley: University of California Press, 1983), dịch sang Việt ngữ và đăng nhiều kỳ trên  Da Màu;  Essays into Vietnamese Pasts (đồng chủ biên với John K. Whitmore (Ithaca, N.Y.: Southeast Asia Program, Cornell University, 1995); A Southern Remembrance of Cao Bien (1999); In Search of Vietnamese Classical Moments (1999); Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region (1998), Nguyen Hoang and the Beginning of Vietnam’s Southward expansion (1993).

*


Vào tháng Giêng 1972, độ sáu tháng sau khi từ Việt Nam trở về và được giải ngũ khỏi Lục quân, tôi bắt đầu học Cao học tại Đại học Michigan, chuyên khoa Lịch sử Việt Nam. Bấy giờ tầm rộng lớn của chiến trường Việt Nam khiến tôi khó tập trung vào giáo trình nên tôi chọn những thời điểm cổ xưa để thoát khỏi nỗi phân vân trong kinh nghiệm tác chiến của mình tại Việt Nam.

Sau này, khi tôi dạy môn lịch sử Việt Nam, tôi không tài nào tránh khỏi phải thuyết giảng đôi ba lần về cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam, và tôi luôn luôn e ngại việc đó, vì sự việc phải nói trước đám đông về trận chiến làm tôi thấy lợm giọng. Phải đến hai mươi lăm năm sau, tôi mới hiểu được rằng cái lợm giọng đó xuất phát từ sự lạc điệu giữa cái khung diễn giải tôi đã tiếp nhận về trận chiến với những gì tôi cảm nhận được trong tâm. Bài viết này sẽ nói đến việc tôi khởi đầu giảng dạy về cuộc chiến Việt Nam như thế nào và những ý nghĩ của tôi về cuộc chiến đã thay đổi ra sao để trở thành tư duy của chính tôi.

Tôi sẽ bàn về ba định đề nổi bật nhất về chiến tranh Việt Nam của phong trào phản chiến tại Mỹ vào cuối thập niên 60, và sau đó, đã được các giáo sư của hầu hết các trường Đại Học đồng ý dùng làm nền tảng khi giảng giải về cuộc chiến. Các định đề đó là:

- Không có một chính phủ chống cộng hợp pháp tại Sàigòn.

- Người Mỹ không có lý do chính đáng và hợp pháp để xen vào nội bộ của Việt Nam.

- Người Mỹ không bao giờ có thể thắng trận, dưới bất cứ điều kiện nào.

*

Tôi phải mất nhiều năm mới thoát khỏi ba định đề trên để thấy rằng chúng chỉ là mảnh vụn ý thức hệ của phong trào phản chiến hơn là những quan điểm được xây dựng trên luận lý và chứng cớ. Tôi đạt thành quả trên nhờ đã hòa hợp được với kinh nghiệm của chính mình.

Tôi vừa tốt nghiệp Cử nhân [B.A.] năm 1968, và trong có hai tuần sau khi mãn khóa lại nhận được thư triệu đến trung tâm tuyển mộ gần nhất để khám sức khỏe. Sau vụ Tết Mậu Thân mùa Xuân năm đó, cấp số động viên được đặc biệt nâng cao và đa số chúng tôi đang hy vọng được hoãn dịch thay vì bị động viên đã phải nhìn vào thực tế là chính bản thân mình sắp đối diện với cuộc chiến. Tôi nhớ là lúc đó chúng tôi có năm lựa chọn để khỏi nhập ngũ. Một trong các lựa chọn đó là “không đủ sức khỏe” và chúng tôi có nhiều cách để thực hiện điều đó. Tôi loại bỏ giải pháp ấy ngay vì nó không phù hợp với ý niệm về danh dự của tôi. Một giải pháp khác là làm đơn xin miễn dịch vì là một người “chống đối vì lương tâm”, và biện hộ bằng cách chứng minh tín ngưỡng mình không cho phép nhập ngũ. Tôi cũng loại giải pháp này ra, vì tín ngưỡng của tôi không thuộc loại ấy.

Một lựa chọn khác nữa là đi tù, và tôi không thấy nên làm như vậy, vì không nghĩ rằng mức độ luân lý của chiến tranh lại tệ đến độ phải chống chính quyền. Vì khi đó, tôi nghĩ rằng chiến tranh tự nó không phải là tội ác; nếu có thì là cách tiến hành quá kém, và tội ác là hậu quả của sự kém cỏi này. Khi lên bảy, tôi đã chứng kiến ông anh rể trở về từ chiến tranh Cao Ly trong chiếc áo quan, tôi đã học được một bài học về bổn phận của người công dân đối với tổ quốc, và bổn phận đó không hề bị sứt mẻ vì sự bất tài của các cấp lãnh đạo. Khi tự nhìn lại, tôi biết rõ là mình vẫn sẽ trung thành với quy luật của mình về danh dự cá nhân đi cùng điều tôi nghĩ là lý tưởng của xứ sở về thể chế chính trị vượt lên trên những lầm lẫn của giới lãnh đạo chính trị và quân đội. Tôi càng nhận thức điều này rõ ràng hơn khi được một sĩ quan bộ binh phỏng vấn để hoàn tất thủ tục sưu tra. Ông ta hỏi tôi nghĩ gì về chiến tranh và tôi nhớ rằng tôi đã đáp lại là phòng thủ Việt Nam trở thành vô nghĩa khi lại nhường cho địch vùng biên giới với các quốc gia Ai Lao và Cao Miên. Tôi không phản đối gì việc ngăn ngừa cộng sản bành trướng, nhưng chẳng thấy chiến lược nào đang áp dụng lại có triển vọng thành công… Tuy nhiên, tôi cũng có nói với vị sĩ quan là lòng yêu nước của tôi mạnh hơn nỗi bất mãn về lãnh đạo yếu kém. Tôi không hiểu vì sao lại vào tù nếu không đồng ý với cách tiến hành chiến tranh, nhất là khi tôi không chống mục đích tổng quát của trận chiến.

Cách lựa chọn thứ tư là qua Gia Nã Đại sinh sống, điều mà lúc đó đang được chính phủ Gia Nã Đại nhiệt liệt khuyến khích. Đó là cách người bạn thân nhất của tôi lựa chọn vào năm 1967, và vì người bạn thân này, tôi cũng đã suy nghĩ rất nhiều, đến độ tôi đã từng đến toà Đại sứ Gia Nã Đại rồi nói chuyện với một nhân viên sứ quán, với sự khuyến khích cật lực của vị này. Nhưng, vì những lý do đã trình bày bên trên, tôi không nghĩ đây là một sự chọn lựa đúng. Dù cho có thể tìm ra được một lô ưu điểm ích kỷ để tự thuyết phục, tôi cũng biết chắc rằng việc này sẽ mang đến cho bố mẹ tôi sự hổ thẹn và phiền muộn vô biên, do đó, tôi không thể làm được.

Lựa chọn cuối cùng là phục vụ đất nước tôi và chấp nhận nhiệm vụ công dân của mình như đã được dạy dỗ, đó là con đường tôi đã chọn. Nhưng có thể do lòng tự kiêu vì đã có được một số vốn học vấn, và do lòng tự hào và một ảo tưởng tự lập xuất phát từ lòng tự cao đó, tôi rất muốn được tự kiểm soát đời sống của mình càng nhiều càng hay, và không mấy thích thú khi cảm thấy mình bất lực, vì phải bị trưng tập để rồi bị bổ nhiệm đến một nơi nào đó, để làm một công việc nào đó. Vì thế nên khi được một nhân viên tuyển mộ cho biết là thay vì bị trưng tập tôi có thể tình nguyện nhập ngũ, trong trường hợp đó tôi có thể tự chọn chuyên môn của mình trong quân đội. Tôi quyết định chộp lấy cái khả năng rất mong manh còn lại để phần nào làm chủ cuộc đời mình trong tình huống ấy và tình nguyện vào ngành quân báo.

Tôi đã trải qua hai năm trong các trung tâm huấn luyện: huấn luyện căn bản tác chiến, huấn luyện quân báo, và học tiếng Việt Nam. Cho đến khi được chỉ định đi học tiếng Việt Nam, tôi vẫn nuôi hy vọng là có thể tránh được chiến tranh. Tôi từng có các bạn và nhiều người quen được bổ đi Đại Hàn, đi Alaska, đi Đức và Panama. Nhưng khi được dạy tiếng thì tôi chỉ còn mỗi hy vọng cuối là chiến tranh sẽ chấm dứt trước khi mình mãn khóa. Điều đó không xảy ra, và năm 1970 tôi bị điều động sang tham chiến với cấp bậc Trung sĩ.

Tại Việt Nam, tôi gặp một đội quân đang bị băng hoại tinh thần. Sau khi dư luận xoay ra chống chiến tranh vào năm 1968, phong trào phản chiến đã xâm nhập vào các đơn vị tại Việt Nam. Tất cả các vấn đề được coi là tiêu biểu như ma túy, xung đột sắc tộc, bạo sát hay bất tuân thượng lệnh bây giờ đã rành rành và làm tinh thần binh lính sa sút, và chúng xảy ra – ít ra tôi hiểu vậy – là do lãnh đạo kém và xứ sở không còn ủng hộ chiến tranh nữa, vậy mà chúng tôi vẫn phải chiến đấu. Các cấp lãnh đạo quân sự, cả tướng lãnh lẫn dân sự, đều nhận thức được việc phải “tái phối trí” đạo quân Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt, để tránh tâm lý bất mãn ấy khỏi lan qua các đơn vị khác trên thế giới. Trong khi đó, chúng tôi vẫn bị đòi phải lấy rủi ro trở thành “người cuối cùng tử trận ở Việt Nam”.

Dù đã thi hành nhiệm vụ với lòng thành thực và chuyên nghiệp, tôi cũng bị lây căn bệnh bất mãn. Tôi có cảm tưởng rằng mình đã thua trận và chúng tôi chỉ là toán quân cản hậu đang bị hy sinh. Tôi không thích điều đó. Tôi bắt đầu nghi ngờ cấp chỉ huy và thấy vụ thất trận mà chúng tôi đang tham gia ít nhất cũng sẽ cho họ cơ hội thăng tiến, còn với chúng tôi thì đây chỉ là chuyện sống hay chết.

Tôi được tản thương về Mỹ năm 1971, và khi rời khỏi quân đội, cảm thấy lạc lõng và mất định hướng. Tại đại học Michigan, tôi thường bị sinh viên và giáo sư vây bủa, họ bám lấy ba định đề nêu ở trên như chân lý hiển nhiên. Tôi giận vì đã hy sinh tuổi trẻ của mình cho sự bất tài của mấy ông già, và nếu có nghĩ lại về trận chiến, tôi đơn giản đồng ý với những giáo điều phản chiến lúc đó đang là thời thượng tại Ann Arbor [địa danh của một phân khoa Đại học Michigan].

Trong nhiều năm, kinh nghiệm về cuộc chiến đã ngự trị trong đầu óc tôi như một khối thực phẩm khó tiêu. Tôi không biết phải xử trí thế nào với chúng. Tôi bắt đầu sự nghiệp viết và giảng về sử Việt Nam, tức là về những gì xảy ra trước thế kỷ XX, và tôi tưởng rằng qua một hướng nào đó, tôi có thể cải biến kinh nghiệm không vui về chiến tranh của mình thành những điều tốt đẹp hơn bằng cách dạy cho người khác biết rằng nơi chốn đó là một quốc gia, chứ không chỉ là một trận chiến.

Vào đầu thập niên 90, trong khi sinh sống tại Việt Nam, tôi đã gặp được nhiều người Việt, và khi đối diện với một người Mỹ đã từng là chiến binh trên xứ họ lại nói được ngôn ngữ của họ, họ đã tỏ vẻ giận dữ và e ngại mà tôi cảm nhận ra dễ dàng. Đối với những người ngoài Bắc, thì vì họ bị oanh tạc nhiều năm liền. Còn đối với người trong Nam thì vì họ bị phản bội. Đàng nào thì di sản của Mỹ để lại ở Việt Nam cũng là một kỷ niệm chua sót, cho cả họ lẫn tôi. Nhưng điều tôi học được trong mấy năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam là đất nước đó bị một hình thái chính quyền độc đoán, tham ô và suy đồi, và tôi bắt đầu hiểu được những gì mà nhiều người Việt tỵ nạn đã nói với tôi: nếu người Mỹ giữ lời hứa, thì người miền Nam hiện nay có thể đã hưởng sự thịnh vượng và dân chủ đã phát triển ngày nay tại Đài Loan, Nam Hàn và Thái Lan. Tôi biết rõ là mình không ở trong số người Mỹ đầy mặc cảm, khi dân chúng tại nước khác tìm đến sự hướng dẫn của Hoa Kỳ thì chỉ thấy một lũ thực dân mới và đế quốc; tôi chấp nhận tiền đề là Hoa Kỳ đang có một vai trò chính đáng – thậm chí không thể chối từ – trên thế giới hiện nay.

Chấp nhận định đề rằng các chính phủ của miền Nam từ năm 1954 đến 1975 đều bất xứng hoặc không bền thì cũng giống như chấp nhận là từ 1945, chính phủ duy nhất chính đáng và có thể tồn tại là cái chính phủ được Hồ Chí Minh lập ra, thực ra đó chỉ là một giáo điều được cộng sản tuyên truyền trong môn sử của họ. Đáng chú ý là làm thế nào mà giáo điều đầy hồ hởi ấy của người cộng sản Việt Nam đã và đang được các chuyên viên mô phạm Mỹ dễ dàng nuốt chửng.

Ngay Krushchev cũng không hành động đúng với lối khoe khoang huê dạng đó của cộng sản. Người ta thường quên là năm 1957, Liên bang Xô viết từng đề nghị hai chính phủ đương đại của Việt Nam cùng được gia nhập Liên Hiệp Quốc, không kể là Trung Quốc cũng thích sự hiện hữu của hai nước Việt Nam. Thật đã rõ là ngoài hai phe Việt Nam, các thành phần tham gia hội nghị Genève 1954 đều thiên về cách giảm thiểu nguy cơ đụng độ toàn cầu. Việc xác định lý thuyết về một nước Việt Nam thống nhất trong thông cáo chung của hội nghị – bản thông cáo mà không quốc gia tham dự nào chịu ký – đã đẩy vấn đề pháp lý của cái chính phủ của nước Việt Nam thống nhất kia qua những bất trắc và mơ hồ của một cuộc tuyển cử sẽ tiến hành hai năm sau. Đó chỉ một lối ngoại giao để phủ lên nhiệt tình quốc gia cái thực tế của chiến tranh lạnh.

Về chính phủ Ngô Đình Diệm, quan điểm phổ thông được lưu truyền rằng ông ta bất tài và là tay sai của Mỹ. Quan điểm đó ngày càng khó đứng vững. Trước nhất, Ngô Đình Diệm đã hai lần triệt hạ các cuộc nổi loạn tại nông thôn, vào năm 1956 và lần nữa vào năm 1958. Chính là để đối phó với sự thắng thế ấy mà lãnh đạo đảng cộng sản tại Hà Nội quyết định phát động một cuộc chiến mới vào năm 1959; không phải vì họ thấy Ngô Đình Diệm yếu thế, ngược lại, vì họ nghĩ rằng nếu chờ đợi lâu hơn thì bỏ lỡ dịp ngăn ngừa sự ổn định của một chính phủ không cộng sản trong Nam.

Hoa Kỳ ủng hộ việc đảo chánh ông Diệm chính vì ông không là tay sai và đã chống lại ảnh hưởng của Mỹ trong chính phủ của ông. Ông ta bị làm vật tế thần cho nỗi ẩn ức của Mỹ, và đã bị chính phủ Mỹ phản bội; số phận của ông báo hiệu số phận của tất cả những người Việt không muốn chế độ cộng sản.

Mãi tới gần đây người ta mới bắt đầu nghiêm túc thẩm định lại trường hợp Ngô Đình Diệm và nhận ra là ông biết hơn hẳn mấy ông cố vấn Mỹ đầy thiện chí mà lầm lạc là phải làm gì cho sự tồn vong của quốc gia còn quá non trẻ của ông.

Sau khi ông Diệm bị thảm sát, phải mất gần bốn năm mới có một chính phủ ổn định, nhưng tất nhiên là một chính phủ lệ thuộc vào Hoa Kỳ hơn chính phủ của ông. Tuy nhiên, nền “Đệ nhị Cộng Hòa” cũng đứng vững qua những gian lao của cuộc chiến và với khả năng chiến đấu lâu dài khi – do các xáo trộn trong chính trường Mỹ- chính sách đối ngoại của Mỹ vào đầu thập niên 70 đã phản bội tương lai của một nước Việt Nam không cộng sản và đẩy quốc gia đó vào tay kẻ thù.

Hiển nhiên là chính phủ Sàigòn cũng có chính danh và khả năng tồn tại (với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ) không kém gì các chính phủ của Nam Hàn hay Đài Loan – hoặc Hà Nội (với sự giúp đỡ của các quan thầy). Nhưng chính quyền này không may là có một người đỡ đầu yếu bóng vía. Để xóa bỏ câu chuyện nhục nhã đó trong ký ức, nhiều người Mỹ đã tìm nguồn an ủi trong những mơ mộng lãng mạn về Hồ Chí Minh và những khuôn sáo lịch sử một chiều về dân tộc Việt Nam đã kiêu hùng đánh bại kẻ thù, nhờ đó mà Hồ nổi danh.

*

Tôi lại thích khuôn sáo về tầm quan trọng của việc bảo vệ và nuôi dưỡng các nền dân chủ non trẻ trong một thế giới đầy dẫy độc tài. Nền tự do mà chúng ta đang hưởng trên đất nước này không thể có nếu thiếu sự cố gắng của con người, và cũng chẳng có gì bảo đảm là nó sẽ trường tồn. Các yếu tố tuyệt vời của hệ thống chính trị mà chúng ta cứ tưởng là tất nhiên phải có thực ra là kết quả hy sinh của thế hệ này qua thế hệ khác mà người thừa hưởng thường không biết ơn. Và vì thế, tôi không thể chấp nhận định đề là người Mỹ không có lý do chính đáng để can thiệp vào nội bộ Việt Nam.

Tôi nghĩ rằng sức mạnh toàn cầu trong tay của Hoa Kỳ phải được coi như một trách nhiệm, không là điều làm chúng ta phải biện bạch. Nếu nước Mỹ không dùng sức mạnh đó để đem lại điều lành cho con người trên thế giới thì chẳng những ta mất hết sức mạnh, mà còn mất cả những điều tốt đẹp đã tích lũy từ trước đến nay; lúc đó các quyền tự do nảy sinh nhờ sức mạnh kia sẽ bị đe dọa.

Tôi không là một người Mỹ ghét Mỹ, loại người thoái thác trách nhiệm, thà khoác mặc cảm tội lỗi khi lầm lẫn còn hơn là dám ra tay chống lại sự suy nhược của một thế giới đầy khổ đau và hỗn loạn.

Ngày nay tôi không hề nghi ngờ là nước Mỹ đã có chính nghĩa khi dùng sức mạnh của mình hầu cứu vãn triển vọng có được một nền dân chủ cho ít nhất là một số dân Việt. Không may là các giới lãnh đạo Hoa Kỳ trong thập niên 60 đã có một số quyết định sai lầm về chính trị và quân sự khiến dân Mỹ quay lại chống đối những cam kết Mỹ đã hứa với chính phủ và dân chúng Việt Nam.

Theo quan điểm của tôi, thảm kịch Việt Nam không phải do Mỹ đã can thiệp khi không nên, mà do sự can thiệp đó được thi hành quá luộm thuộm và tệ hại, và những người Việt từng tin tưởng nơi chúng ta cuối cùng đã bị phản bội.

Định đề thứ ba nói rằng những nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam nhất định sẽ thất bại vì sự thiếu ý chí và thiếu thống nhất trong mục tiêu về phía Mỹ cũng như về phía người dân miền Nam, nếu so với Bắc Việt và các đồng minh của họ là Trung Quốc và Liên bang Xô viết. Đúng ra thì các chính phủ chống lại việc thành lập một chính quyền không cộng sản trên miền Nam Việt Nam đều có thể huy động quần chúng của họ mà khỏi quan tâm đến sự phản kháng, trong khi một mục tiêu căn bản và trường kỳ của Hoa Kỳ là phát huy quyền phản đối, một loại quyền hạn tất nhiên phương hại đến sự thống nhất ý chí và mục tiêu trong chính sách quốc gia. Thêm vào đó, Bắc Việt có lợi thế là các tổ chức thân cộng tại miền Nam sẵn sàng tuân thủ mệnh lệnh của đảng cộng sản; miền Nam không có lợi thế tương đương trên đất Bắc. Sau rốt, dưới tầm mắt của người Mỹ, thì Việt Nam là một quốc gia tương đối xa lạ và cách trở, họ không có khái niệm liên hệ nào ngoài cái “lô gích” của chiến tranh lạnh trên toàn cầu. Tất cả các yếu tố trên cũng đủ thử thách những ai muốn cố thành lập một chính phủ không cộng sản tại Sàigòn. Tuy nhiên, những yếu tố ấy chưa đủ để ta kết luận là chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam tất sẽ thất bại. Chính sách này được dân chúng Mỹ ủng hộ cho đến năm 1968, và các tài nguyên về kinh tế cũng như quân sự của Mỹ, dù dưới nhãn quan nào, cũng cung ứng được đầy đủ khả năng bảo vệ chính quyền miền Nam Việt Nam. Cho dù công nhận là cơ chế lãnh đạo của tập đoàn cộng sản cho phép họ có sự thống nhất đường lối và ý chí hơn Hoa Kỳ và đồng minh tại miền Nam Việt Nam, chúng ta cũng khó có thể tưởng tượng nổi là điều đó khả dĩ đánh bại được khả năng chiến đấu của quân lực Hoa Kỳ, nếu được phối trí một cách thông minh. Người ta chỉ cần xét đến trường hợp của Pháp khi chinh phục Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX là thấy được cái sai trái của hai chữ “nhất định” trong định đề. Yếu tố dẫn liên minh Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đến thất bại không phải là sự thiếu kém ý chí và quyết tâm, mà là cả một loạt quyết định sai lầm của các chính quyền Kennedy và Johnson, khiến chiến tranh kéo quá dài, vượt giới hạn kiên nhẫn của nhân dân Hoa Kỳ.

Trong suốt các năm từ 1961 đến 1967, Hoa Kỳ đã đánh mất lợi thế xuất phát từ khả năng quân sự vượt bực qua các suy nghĩ chiến lược kém cỏi và sự thiếu đởm lược chính trị. Đương nhiên, chúng ta có thể giải thích khá dễ dàng rằng những lỗi lầm như đã diễn tiến tự nhiên theo áp lực của tình hình qua sự hiểu biết của các ông Kennedy và Johnson cùng các cố vấn trưởng của hai ông. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn đều thấy quan điểm bất đồng được nêu lên, và các quyết định đã được lấy lại không xuất phát từ áp lực của tình hình mà do nhận định sai lầm và thiếu quan tâm chú ý. Những sai lầm tai hại và nổi bật nhất có thể được liệt kê như sau: quyết định của ông Kennedy vào năm 1961, để bàn cãi về cái gọi là trung lập hóa Ai Lao, đã nhường cho địch vùng trú ẩn tại biên giới và các trục giao thông nội biên, nên phải gánh chịu thiệt thòi về chiến lược trong suốt trận chiến; quyết định của ông Kennedy khi gia tăng quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam trong khi ngăn báo chí loan tin về việc quân nhân Mỹ lâm chiến mà không có ý niệm chiến lược nào rõ ràng ngoài nhiệm vụ “cố vấn”, điều đó gây ra một tiền lệ nguy hại cho việc tham chiến không có chủ đích rõ rệt và không minh bạch với dân chúng; quyết định của Kennedy trong việc dùng võ lực đảo chánh ông Ngô Đình Diệm, vì vậy đã loại trừ một người lãnh đạo Việt Nam chống cộng khá nhất, rồi gây hỗn loạn chính trị trong nhiều năm khiến Hoa Kỳ phải quyết định chọn lựa hoặc thất bại hoặc phải can thiệp sâu rộng vào nội bộ Việt Nam; quyết định của Johnson khi phối trí không lực và bộ binh trong chiến lược tiêu hao, cho phép tướng Westmoreland giải trừ các phương pháp chống nổi dậy được Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ưa thích (phương pháp này rất giống đường lối người Pháp đã dùng trong các thập niên 1880 và 1890, với kết quả rất khả quan); quyết định của Johnson nhằm thuyết phục địch quân phải đầu hàng thay vì phải làm những gì cần thiết để chiến thắng; quyết định của Johnson tránh việc động viên nhân lực và kinh tế Hoa Kỳ vào cuộc chiến, khước từ trưng tập lực lượng trừ bị, đặt mọi hy vọng vào số quân nhân tình nguyện, và lấy cuộc khủng hoảng kinh tế trong đầu năm 1968 làm lý do để chỉ sử dụng một phần của tài nguyên Hoa Kỳ vào trận chiến; quyết định của Johnson cho phép đường lối chiến tranh bị bó vào một dự đoán sai là Trung Quốc sẽ tham chiến, vì vậy đã loại bỏ nhiều lựa chọn có thể rất quan trọng; sự buông thả của Johnson để cuộc chiến kéo dài từ năm này qua năm khác mà không thẩm định được một cách đúng đắn mục tiêu và thành quả, khiến ý chí chính trị phải tiêu tan tại Hoa Kỳ. Tất cả các sai lầm ấy đều hiện rõ vào đầu năm 1968, với dân chúng ngày càng không muốn ủng hộ cuộc chiến theo lề lối đang tiến hành khi ấy.

Sau đó, dù bị ràng buộc bởi quyết định triệt thoái khỏi trận chiến, chính quyền Nixon cũng đã giúp cho việc ổn định một chính quyền miền Nam Việt Nam và xây dựng một binh đội miền Nam có khả năng đánh bại cuộc xâm lăng toàn diện của quân cộng sản vào năm 1972, với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Nhưng những thành quả ấy bị đe dọa vì Hòa đàm Ba Lê năm 1973 để rồi cuối cùng bị tan tành vì biến cố Watergate, biến cố đã làm ông Nixon bị hạ.

Miền Nam Việt Nam bị bỏ rơi để chiến đấu đơn độc với kẻ thù mà không được sự giúp đỡ của bất cứ một đồng minh nào. Tôi tin là chúng ta có thể nói rằng ngay sau năm 1968, ta vẫn còn có khả năng bảo vệ một chính thể không cộng sản tại Sàigòn, nhưng điều đó đã bị liên kết chặt chẽ vào sự lãnh đạo của ông Nixon, và một khi ông không còn thì chính trường Hoa Kỳ hết can đảm tiếp tục tôn trọng những cam kết trước đấy để đưa đến chiến thắng.

Tôi tin rằng Kennedy đã có những quyết định sai lầm về Việt Nam vì ông ta không thật sự chú tâm vào vấn đề; về phần Johnson thì vì Việt Nam không là ưu tiên của ông ta. Kennedy thường phó thác việc quyết định về Việt Nam cho phụ tá, những người thường bất đồng về mục tiêu hoặc đơn giản là thiếu khả năng. Johnson thì dồn sức vào các chương trình lập pháp nội bộ và đã có những quyết định về Việt Nam theo phong cách ông đã trau chuốt kỹ càng khi đương đầu với quốc hội: mơn trớn và san bằng dị biệt. Cả hai đều không hề giành thời giờ thẩm định chính sách của họ ở Việt Nam với sự cẩn trọng tương xứng với những hao tổn về xương máu và tiền bạc.

Khi lãnh đạo thiếu sáng suốt và quyết tâm thì sai lầm tất nhiên chồng chất. Những quyết định ấy không có gì là cần thiết hoặc bất khả kháng trừ phi ta muốn tranh luận rằng sự mù mờ tâm trí là một thành tố thiết yếu của các chính quyền Kennedy và Johnson. Một số người vẫn muốn lập luận rằng sự mù mờ ấy chỉ giản dị là dấu hiệu cho thấy Việt Nam không quan trọng đến độ được giới lãnh đạo Hoa Kỳ dành hết tâm trí, và nội việc đó cũng đủ cho thấy lẽ tất bại của cuộc chiến. Câu trả lời cho lập luận này là Việt Nam đã đủ quan trọng khiến chính quyền gửi hàng chục ngàn thanh niên Mỹ vào cõi chết trên các chiến trường xa xôi với sự ủng hộ nhiệt thành của dân chúng và Quốc hội; và nếu việc ầy được thi hành kém cỏi, thì hiển nhiên đó là một phê phán về phẩm chất của lãnh đạo chứ không về chính sách.

*

Tôi bắt đầu dạy một lớp về chiến tranh Việt Mỹ tại Đại học vào những năm cuối của thập niên 90 vì tinh thần trách nhiệm công dân đã theo đuổi tôi dai dẳng (lớp người trẻ phải biết về trận chiến đó), và một ý nghĩ ích kỷ là tôi phải làm việc đó để tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Ép bản thân mình giảng dạy về cuộc chiến là một thử nghiệm giải thoát, vì tôi đã góp tiếng nói cùng bao nhiêu sách vở chồng chất về cuộc chiến. Nhiều cuốn đã theo lối kê khai rất đúng quy phạm những định đề tôi đề cập bên trên, khiến tôi thấy không đáng hài lòng. Nhiều đề mục quan trọng lại bị bỏ lơ, đặc biệt là bao ước vọng, kế hoạch và hành động của những người Việt đã cố phấn đấu cho hy vọng dân chủ trên đất nước họ.

Tại một phiên họp cũng vào khoảng thời gian đó, tôi có gặp một người Việt Nam loại này, một người từng phục vụ dưới nhiều chính quyền tại miền Nam từ cuối thập niên 50 cho đến đầu thập niên 70, và vì vậy bị giam cầm nhiều năm trước khi được định cư ở Mỹ. Tôi có nhiều câu để hỏi ông ta, nhưng ông ta chỉ nhìn tôi với nét ngờ vực, và xin phép được hỏi trước một câu. Câu hỏi của ông ta là: “Ông có nghĩ là ta có chính nghĩa trong trận chiến đó không?” Tôi bàng hoàng vì câu hỏi bất ngờ đó, nhưng câu trả lời xuất phát tự đáy lòng khiến chính tôi cũng phải ngạc nhiên: “Có! Tôi nghĩ là có!” Sau câu trả lời, thái độ và cách cư xử của ông ta với tôi đã hoàn toàn thay đổi, trở thành tin cậy và cởi mở. Ông ta giải nghĩa cho tôi là kinh nghiệm bản thân cho thấy các người trong giới khoa bảng Hoa Kỳ không tôn trọng ông, vì họ nghĩ rằng ông đã chọn nhầm chiến tuyến trong trận chiến. Như vậy tội của ông ta chỉ là nuôi hy vọng đem dân chủ vào xứ sở của mình, và tin tưởng vào Hoa Kỳ.

Trong suốt hơn hai thập niên, tôi cố không nghĩ về mình như một cựu quân nhân đã chiến đấu tại Việt Nam. Tôi muốn hướng về tương lai và tránh không để bị đóng khung vào chuyện buồn này. Tôi không thích tượng đài chiến sĩ ở [thủ đô] Washington với tên các tử sĩ được ghi khắc trên một bức tường. Đó là đài kỷ niệm những người đã chết, nhưng tôi thì còn sống, nên bức tường kia không dính dáng gì đến mình. Thế rồi một chiều nọ, trong một buổi lễ cách xa Washington, tôi co ro trong một lều vải để tránh gió buốt khi một số người trẻ cùng nhau đọc dưới ánh nến tên tuổi những người đã khuất. Đứng giữa đám đông dưới mái lều, nhìn ánh nến lung linh trên các khuôn mặt và vải lều, lắng nghe đọc tên hết người này đến người khác trong một dòng âm thanh thật đều, tôi không ứa lệ trên mắt nhưng thấy xúc động vì điều gì đó: tôi có cảm tưởng là được giải thoát và ý thức được rằng mình đã hiện diện đúng nơi, đã vinh danh đúng chỗ.

Quả là một sự thay đổi tầm nhìn và một kinh nghiệm đáng mừng của xúc cảm khi tôi rũ bỏ được mặc cảm tội lỗi giả hiệu mà mình đã ôm suốt một phần tư thế kỷ. Làm được việc đó, tôi lại có thể học lại những giá trị từng được dạy dỗ khi còn trẻ, có thể đánh giá được sự hy sinh của những người Việt nay đã trở thành đồng bào của tôi, và có thể dạy về trận chiến với niềm xác tin mới. Một vài người trong các đồng nghiệp sư phạm của tôi đang thấy là thời thượng [đúng mốt] khi dán cho Hoa Kỳ nhãn hiệu cường quốc phát xít và đế quốc. Tôi không còn rủi ro gì để e ngại những lời khẳng định thiếu cơ sở ấy. Tôi xin mời quí vị cứ nhìn khắp thế giới để tìm một chọn lựa khả dĩ chấp nhận được hầu thay thế sinh hoạt dân chủ – dù là bất toàn – đang được nước Mỹ đề cao. Tôi thì chịu, không tìm thấy. Sự việc Hoa Kỳ thi triển sức mạnh trên khắp toàn cầu không là dấu hiệu của một điều sai trái, trừ phi người ta quyết định liên kết với các thế lực độc đoán trên hoàn cầu đang được ngụy trang dưới bộ mặt của nạn nhân.

Tôi đi đến kết luận là đã đến lúc phải lên tiếng. Lớp trẻ của quốc gia này xứng đáng được hưởng sự giáo dục chân thực hơn là bị nhồi nhét vào đầu óc họ chủ nghĩa nghi ngờ và thù ghét cái xứ sở hiện vẫn còn là niềm hy vọng khá nhất của nhân loại.
Keith Weller Taylor
( Tạp Chí Da Màu )

Để trả thù bà TRƯNG TRẮC – người Tàu đúc tượng Mã Viện đạp lên lưng người Giao Chỉ

trungtrac-mavien

Mông-cấy là tỉnh lị tỉnh Hải Ninh, có dinh quan Sứ và dinh quan Đạo. Trước mặt Mông-cấy có sông Na-lương là con sông chia nước Tàu và nước Việt Nam ta. Ngang mặt Mông-cấy là làng Đông-hưng thuộc tỉnh Quảng-Đông. Đông-hưng vui vẻ, phố xá nhiều, buôn bán coi mòi phát đạt, cảnh vật khả quan. Nhơn dịp tàu đậu, ông Turion dắt quan Giám đốc và bỉ nhơn lên viếng quan Sứ và đi luôn qua Đông-hưng chơi. Trước hết ông đưa chúng tôi đến xin phép quan Doanh trưởng, là quan Tàu cai trị Đông-hưng, đặng đi quan sát cảnh vật. Xin phép xong, ông Quan ba dắt chúng tôi lại xem đền thờ của Mã Viện.
Đền thờ này cất trên một hòn núi con đối diện với hòn Hổ-sơn bên ta. Vào trong đền thấy tại căn Chánh điện, trên bàn thờ có cái tượng ngồi lớn bằng đứa trẻ lối 12, 13 tuổi, chơn mặt đạp trên lưng tượng đứa nhỏ chừng bằng đứa con nít mới đẻ được vài tháng. Tượng đứa nhỏ này, nằm sấp ngóc đầu lên và le lưỡi ra. Tượng lớn tay cầm cây đoản giơ lên, một tay nắm tóc cái tượng nhỏ. Trước bàn thờ có treo một tấm hoành thêu bốn chữ: “Oai trấn Nam bang”. Tưởng không cần cắt nghĩa, người mình ai xem cái tượng nhỏ cũng biết ngay là để ám chỉ vào nước Nam ta.
Chúng tôi còn đang đứng xem hình Mã Viện, ông Turion đi ngay lại ông Từ, dùng tiếng Quảng-đông nói chuyện với ông nầy rất lâu. Một lát sau bỉ nhơn hỏi ông Quan-ba nói chi với ông Từ, thì ông thuật lại cho bỉ nhơn nghe như vầy: Cách 18 tháng trước đó, trong lúc ông còn làm Quan hai trên chiếc tuần dương hạm, nhơn một lúc tàu về tập dượt tại vịnh Hải-long, ông có đến miễu này quan sát, thấy tượng Mã Viện và tấm hoành có cái ý nghĩa miệt thị nước Nam như thế nên ông có yêu cầu ông Từ dẹp tấm hoành đi, ông Từ đã hứa dẹp, nhưng đến ngày nay cũng không dẹp. Ông hỏi tại sao vậy, thì ông Từ nói: “Đền Mã Viện ngày nay đã thuộc về Chánh phủ Trung-huê làm chủ; nếu ông Turion muốn dẹp bỏ tấm hoành thì phải đến xin phép quan Doanh-trưởng mới được”.
Nghe vậy, ông Turion, ông Rotily và bỉ nhơn liền trở lại dinh quan Doanh-trưởng. Đến nơi ông Turion nói với quan Doanh-trưởng như vầy: “Thưa ngài, tôi nghe nói cái tượng Mã Viện và tấm hoành để thờ tại đền Mã Viện đó, là của Mã Viện tạo ra khi nước Tàu và nước Nam có việc bất hòa với nhau; ngày nay ông Mã Viện đã du tiên mà quí quốc và nước An Nam đã trở lại thân thiện với nhau lâu rồi. Nếu Quan lớn còn để tấm hoành và cái tượng như vậy hoài thì khó coi quá; tôi tưởng Quan lớn nên vị cái tình lân bang với nước An Nam, là nước của Đại Pháp bảo hộ, xuống lịnh dạy dẹp bỏ cái tượng và tấm hoành kia đi, thì chúng tôi cảm ơn Quan lớn biết dường nào”.
Ông Doanh trưởng suy nghĩ một chập, rồi trả lời với ông Turion như vầy: “Miếu Mã Viện thuộc về ngôi cổ miếu, để tôi hỏi lại ý kiến của vài ông kỳ lão tại đây, rồi sẽ cho quí chức hay, dầu thế nào chúng tôi cũng ráng làm vừa ý quí chức”.
Ông Turion để lời cám ơn trước quan Doanh trưởng, kế đó chúng tôi xin kiếu xuống tàu. Qua tháng sau chúng tôi trở lại đền Mã Viện, thấy tượng vẫn còn y như cũ, nhưng tấm hoành đa thay mới, lại có đổi chữ bang ra chữ biên, thành ra: Oai trấn Nam biên.
Thấy ông Turion đọc 4 chữ: “Oai trấn Nam biên”, rồi cười và khen khéo sửa nên bỉ nhơn liền hỏi: “Thưa ông Quan ba, cái tượng của Mã Viện đạp trên lưng chúng tôi còn đứng y nguyên tại giữa miễu đó, cớ sao ngài cười và dường như được thỏa nguyện?”
Ông Turion: “Cái tượng Mã Viện và thằng bé kia, bất quá là hai cái tượng bằng gỗ sơn đỏ đen vậy thôi, chớ có quan hệ gì tới nước An Nam. Chúng ta có trách người Tàu được là tại tấm hoành có chữ Nam bang kia. Ngày nay họ đã sửa chữ bang ra chữ biên rồi thì chúng ta chẳng còn chỗ nào mà trách họ được nữa; bởi vì Nam bang là nước Nam còn Nam biên là biên giới phía nam nước Tàu của họ kia mà”.
Còn về sự tôi cười là tại lẽ ngày: “Nguyên khi Mã Viện dạy khắc 6 chữ “ĐỒNG TRỤ CHIẾT GIAO CHỈ DIỆT, vào cây súng đồng cậm tại biên giới thì va sợ người Giao chỉ (An Nam) không hiểu, nên va có cắt nghĩa cho người An Nam biết rằng; 6 chữ đó là va nói với người Giao chỉ, nếu ai nhổ mất trụ đồng thì va sẽ trở qua giết hết người Giao chỉ. Vậy mà đến khi người An Nam nhổ trụ đồng của va đem bán cho thợ đúc chuông. (Đây là do theo lời của quan Thái thú đương lúc ấy, bẩm tấu về cho Mã Viện hay như vậy) va không trở qua giết hết người Giao chỉ mà va lại trả thù bằng cách tạo ra cái tượng của va đạp trên lưng người Giao chỉ; nhưng ngày nay lại thành ra va đạp trên lưng đồng bào của va. Tôi cười là tại vậy đó”.
Đọc chuyện này, những người Nam có trí phán đoán, chắc ai ai cũng muốn hỏi: Mã Viện là tay thượng tướng của nước Đại Trung Quốc, 400 triệu dân, dầu có đánh thắng nước Nam ta mấy trăm trận cũng chẳng phải là giỏi giắn gì, cớ sao Mã Viện lại làm ra cái tượng quái gở như thế, để khoe khoang?
Ông Turion nhờ có xem Chính sử của Tàu nên mới biết rõ nguyên nhân của cái tượng là như vầy:
Hồi đời Đông Hán, bên Tàu, nhơn một buổi bàn luận quốc sự, vua Quan Vũ nhớ lại chuyện bà Trưng Trắc dấy loạn giết Tô Định nên liền sai Mã Viện qua Bắc Kỳ dẹp loạn. Dẹp xong, Mã Viện về tới biên giới, muốn dựng một cây trụ đồng để kỷ niệm cuộc thắng trận của va và cũng để hăm dọa người An Nam luôn thể, nhưng vì đang đi giữa đường làm sao đúc trụ đồng được; bởi vậy Mã Viện mới bảo lấy một cây súng đồng, dài lối 1 trước rưỡi, là thứ súng va có đem theo để dẹp loạn, giũa bằng mặt một khoản gần trên đầu súng và chạm vào 6 chữ: Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt; đoạn va bảo thợ lấy một viên đá lớn, đục một cái lỗ rồi cậm cây súng đồng vào. Nhưng vì súng vắn quá, không thể để ngay tại mặt đất được, nên Mã Viện phải bắt quân lính, vác đá chất thành một đống lớn, cao hơn 3 thước, đoạn va dạy đem cây súng để lên trên đầu đống đá đó. Kế vài tháng sau bị bọn dư đảng của Hai Bà Trưng nhổ súng liệng mất.
Đến chừng Mã Viện hay chuyện như vậy, va tức giận quá, quyết lòng trả thù, nên mới bảo thợ tạo ra cái tượng ghê gớm và tấm hoành thị oai như thế kia, để thay cho cây trụ đồng, đặng điếm nhục nước Việt Nam ta đó.
Có lẽ sau khi cây súng đồng bị nhổ liệng mất, rồi có người đến biên giới không thấy trụ đồng, chỉ thấy đống đá cao lớn kia thì họ tưởng cây trụ đồng đã bị đống đá chôn mất. Từ đó về sau họ đồn ra mãi, thế là cái tin cây trụ đồng bị chôn mất, được cả thảy người Việt Nam đều công nhận; bởi vậy lâu nay hễ nói đến chuyện trụ đồng của Mã Viện, thì người mình đều quả quyết rằng: nó đã bị đá của đồng bào chúng ta đến biên giới lượm liệng vào nên đã lấp mất rồi.
Ông Turion nói: “Chỗ cắm trụ đồng là nơi núi non vắng vẻ, có ai đi đến đó làm gì mà lượm đá liệng vào cho đến nỗi lấp mất trụ đồng được; đã vậy mà lúc bấy giờ người An Nam đương oán thù Mã Viện dữ lắm, thì có ai dại gì lại lượm đá liệng vào đặng bảo tồn cho cây trụ đồng của va, có cái ý nghĩa điếm nhục nước mình?”
Tại miễu Mã Viện còn một chuyện lạ này; xin thuật luôn ra đây để các bạn đọc chơi giải buồn.
Nguyên khi xem xét phía trước miễu rồi, bỉ nhơn nhìn ra phía sau vách, đâu lưng với tượng Mã Viện tướng quân, thấy có cái bàn thờ một bức họa hình người đàn bà rất xinh xắn. Ban đầu bỉ nhơn tưởng là hình bà Quan âm, đến chừng lại gần nhìn kỹ, té ra không phải. Cậy ông Turion hỏi, ông Từ trả lời rằng: “Bức hình đó là hình nàng Đắt Kỷ, ấy là một bức họa gia bửu, đã lưu truyền nhiều đời trong thân tộc của một bà mạng phụ hồi Thanh triều, hiện giờ bà cũng ở tại Đông-hưng này. Không rõ tại sao mấy lúc nay, tấm hình Đắt Kỷ đó dường như hóa ra linh ứng. Hễ ai muốn thấy nàng thì nhang đèn cầu xin, ắt sẽ chiêm bao thấy nàng về nói chuyện với mình rất vui vẻ, còn ai vô lễ nói xúc phạm khinh khi thì nàng về la rầy dữ lắm. Bởi có việc lạ như vậy, bà mạng phụ mới đem bức hình Đắt Kỷ cúng vào chùa, nên tôi mới để thờ tại đó”.
Nghe vậy bỉ nhơn rất mừng, vì muốn gặp cho được Đắt Kỷ, dầu nàng có rầy la bao nhiêu cũng không sao, nên bỉ nhơn mua nhang đèn đốt lên và lấy giấy viết vào một câu: “Vong thương tội chết đã đành, còn khoe nghiêng nước nghiêng thành với ai?”. Đoạn bỉ nhơn đem dán lên lư hương thờ Đắt Kỷ, nhưng sợ nàng không hiểu tiếng An Nam, bỉ nhơn bèn cậy ông Turion cắt nghĩa ra tiếng Quảng-đông. Kế đó chúng tôi nhờ một đứa bạn làm đèn giội cho ông Từ dắt tới nhà bà mạng phụ, hỏi thăm về sự linh ứng của bức họa hình Đắt Kỷ, thì bà cũng nói y như lời ông Từ đã thuật cho chúng tôi nghe.
Nhơn thấy bà mạng phụ và mấy người phụ nữ ở nhà bà đều bó cẳng nhỏ xíu. Bỉ nhơn hỏi họ bó cẳng chi vậy, ông Turion trả lời: “Đặng cho họ đừng chạy được”.
Từ giã bà mạng phụ, chúng tôi thả dong chơi một lát rồi xuống tàu. Tối đi ngủ, bỉ nhơn vẫn tin chắc sẽ gặp Đắt Kỷ về rầy lung; nhưng ngủ tới sáng bét, chuông dưới tàu đã kêu dùng điểm tâm, mà bỉ nhơn chẳng thấy ma nào về rầy la chi.
TRẦN HỮU TƯ
(nguồn; Tạp chí Phổ thông số 30 ngày 30.6.1960)

HOÀNH TRÁNG THẾ, TẶNG HẲN CHO THÙNG BIA NHỈ ^:)^

This is Google's cache of http://baohatinh.vn/m/nong-nghiep/doi-moi-tu-duy-nang-cao-hieu-qua-chuong-trinh-xay-dung-nong-thon-moi/85088. It is a snapshot of the page as it appeared on 16 Aug 2014 11:58:20 GMT. The current page could have changed in the meantime. Learn more
Tip: To quickly find your search term on this page, press Ctrl+F or ⌘-F (Mac) and use the find bar.

 

Đổi mới tư duy, nâng cao hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới

Sáng 16/8, Chủ tịch UBND tỉnh - Trưởng Ban chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh Võ Kim Cự đã đi kiểm tra tiến độ thực hiện xây dựng NTM tại xã Thạch Long (Thạch Hà) và làm việc với lãnh đạo, cán bộ cốt cán huyện Thạch Hà.
Đổi mới tư duy, nâng cao hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới
Chủ tịch UBND tỉnh Võ Kim Cự nói chuyện và tặng quà cho ngư dân Nguyễn Văn Yên ở xã Thạch Long (Thạch Hà)
Theo kế hoạch, năm 2015, xã Thạch Long sẽ hoàn thành các tiêu chí xây dựng NTM. Đến thời điểm hiện nay, địa phương đã hoàn thành 12/19 tiêu chí (quy hoạch, thủy lợi, điện, trường học, bưu điện, thu nhập, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên, hình thức tổ chức sản xuất, văn hóa, y tế, giáo dục, an ninh trật tự). Trong hơn 3 năm thực hiện NTM, xã Thạch Long xây dựng được 23 mô hình phát triển sản xuất có doanh thu từ 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng/năm.
Thực hiện các chính sách hỗ trợ của tỉnh, thời gian qua các hộ dân trên địa bàn vay hơn 5 tỷ đồng để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Tổng nguồn vốn trực tiếp thực hiện chương trình xây dựng NTM trong 4 năm qua ước đạt gần 7 tỷ đồng…
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện chương trình xây dựng NTM ở Thạch Long thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Việc triển khai thực hiện đề án phát triển sản xuất gắn với hàng hóa chủ lực, liên kết vùng, chuỗi giá trị còn lúng túng; chưa xác định rõ tiềm năng, lợi thế, khó khăn và thách thức ngay tại địa phương; công tác huy động nguồn lực còn gặp nhiều khó khăn; một số cán bộ, người dân chưa vào cuộc nhiệt tình, chưa giành sự quan tâm đúng mức cho chương trình xây dựng NTM…
Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch UBND tỉnh Võ Kim Cự cho rằng kết quả thực hiện xây dựng NTM ở Thạch Long còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Vì vậy, cấp các ủy đảng, chính quyền xã và huyện Thạch Hà cần nhìn nhận, đánh giá nghiêm túc nguyên nhân dẫn đến những yếu kém, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Chủ tịch UBND tỉnh Võ Kim Cự yêu cầu địa phương tiếp tục huy động cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc quyết liệt, đổi mới tư duy, hình thức tiếp cận nhằm phát huy tối đa hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM. Thực hiện có hiệu quả tái cấu trúc kinh tế gắn với việc thực hiện 5 đề án, nhiệm vụ phát triển của tỉnh trên cơ sở phát huy tiềm năng và lợi thế của địa phương; huy động nguồn lực xã hội hóa đầu tư xây dựng NTM, giành sự quan tâm xứng đáng cho phát triển sản xuất; kiên trì xây dựng các mô hình phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đồng thời với đó, địa phương cần chú trọng liên kết hóa sản xuất, xã hội hóa trong đầu tư phát triển, doanh nghiệp hóa, đồng nhất một loại giống, một công nghệ, một sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo lợi thế cạnh tranh; đảm bảo vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn xã hội; quan tâm đầu tư thỏa đáng cho giáo dục, y tế, văn hóa…
Sau gần 4 năm thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM, các địa phương trên địa bàn huyện Thạch Hà đã hoàn thành thêm 113 tiêu chí (từ 112 năm 2011 lên 225 tiêu chí năm 2014).
Ngoài xã Thạch Tân cơ bản hoàn thành 16 tiêu chí, các xã: Thạch Long, Phù Việt, Thạch Đài, Tượng Sơn, Thạch Khê, Thạch Văn đã đạt từ 10-14 tiêu chí và 21 xã khác đạt từ 5-9 tiêu chí, riêng xã Thạch Bàn đạt dưới 5 tiêu chí.
Ngô Tuấn

Trại tạm giam: Có nên “trong tay” công an?

Trại tạm giam: Có nên “trong tay” công an?

“Ðể tránh bức cung, nhục hình, trại tạm giam không nên trong tay công an” - ông Vũ Ðức Khiển, nguyên chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật Quốc Hội - vừa nêu một kiến nghị không chính thức trên mặt báo.


 Một trong số lần hiếm hoi giới quan chức (chính xác là cựu quan chức) chịu lên tiếng về tình cảnh bức cung, nhục hình đang xảy ra tràn ngập và bất nhẫn ở đất nước “không biết đến cuối cuối thế kỷ 21 có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện hay chưa” của người đứng đầu đảng.

Ngập ngụa bức cung, nhục hình và “tự tử”

Vừa có thêm những bằng chứng không thể nào chối cãi về hình ảnh “công an là bạn của dân” thắm thiết đến thế nào. “Công an dùng kiếm tra khảo dân” hay “tôi bị nhét nước đá vào vùng kín” là những hình ảnh hết sức sống động và giãy giụa, tương phản hoàn toàn với “chính sách nhân đạo” và lời răn dạy về văn hóa của Nhà nước Việt Nam cùng Bộ Công an về công tác điều tra xét hỏi.

Chỉ tính từ năm 2012 đến nay đã có ít nhất 20 trường hợp “tự nguyện tự tử trong đồn công an” hoặc “bỗng dưng” lăn ra chết sau khi được công an “mời.”

Cái chết của một người đàn ông có tên là Ngô Thanh Kiều trong đồn công an ở Phú Yên vào năm 2012 do bị đánh vào chỗ hiểm là một điển hình trong rất nhiều điển hình mà cộng đồng quốc tế công phẫn lên án cảnh sát Việt Nam sử dụng nhục hình.

Nạn nhục hình càng đáng được ghi khắc vào những năm gần đây. Cùng với hiện tượng nổi lên ngày càng nhiều tiêu cực của ngành công an Việt Nam, những cái chết được mô tả là “tự mình giết mình” cũng nối tiếp nhau sinh thành. Hàng loạt vụ việc được công an địa phương báo cáo là “tự treo cổ” đã xảy ra: Nguyễn Công Nhựt ở trụ sở công an thuộc Bình Dương, anh H. cũng ở trụ sở công an thuộc Bình Dương, Bùi Thị Hương ở trụ sở công an thuộc Bình Phước, Ðỗ Văn Bình ở trụ sở công an thuộc Ðà Nẵng, Ðặng Trung Trịnh ở trụ sở công an thuộc Hải Dương.

Vụ án Nguyễn Thanh Chấn mới được khám phá vào năm 2014 là một trong những trường hợp được xem là rất “điển hình tiên tiến” cho nạn bức cung nhục hình ngập ngụa ở Việt Nam. 10 năm tù giam là cái giá mà một công dân lương thiện phải cho một nền tư pháp độc tài muốn làm gì thì làm.

Mặc dù Bộ Tư pháp đã có quy chế về tạm giữ, tạm giam để thực thi bộ luật tố tụng hình sự, nhưng thực tế kiểm tra chéo và giám sát của ngành tư pháp và kiểm sát đối với các trại tạm giữ, tạm giam của ngành công an là hết sức chiếu lệ. Không hề có quyền lợi thực chất, các viên chức dân sự chỉ đều đặn vi hành định kỳ nơi bốn bức tường ghẻ lở giam giữ phạm nhân mà chẳng làm gì được cho họ.

Với tư cách độc thế về quyền năng của ngành công an, không ít trường hợp dân thường và cả doanh nhân bị khởi tố, bị lôi vào thế tạm giữ, tạm giam rồi bị đánh bầm giập để bắt phải “nôn ra.” Ở Việt Nam, công tác điều tra xét hỏi được dư luận xem là mảnh đất màu mỡ cho giới điều tra viên “ăn uống.”

Chỉ đến gần đây, sau khi Nhà nước Việt Nam chỉ thị cho Bộ Công an phải gấp rút triển khai Công Ước Chống Tra Tấn theo cam kết với Hội Ðồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, tình trạng dùng nhục hình đối với người dân mới giảm bớt đôi chút, còn báo chí mới lóe ra vài ba cơ hội để đăng tin bài về những câu chuyện đánh chết người không khác mấy thời Trung cổ.

Tuy nhiên, sự thể tréo ngoe vẫn xảy đến khi mới đây Bộ Công an tung ra một dự thảo cho phép công an phường, xã có quyền “điều tra ban đầu.” Ngay lập tức, dư luận xã hội bùng lên phản ứng gay gắt, cho rằng với mặt bằng văn hóa ứng xử còn dưới mức trung bình, cùng mặt bằng nghiệp vụ chưa thuần thục đến mức không biết cả thao tác đánh người, liệu công an phường xã có đảm bảo là sẽ “điều tra ban đầu” đến nơi đến chốn theo yêu cầu, hay mỗi trụ sở công an địa phương sẽ biến thành một phòng cảnh sát điều tra để tha hồ hành hạ “đối tượng,” tức càng làm cho tình hình dùng nhục hình trở nên tồi tệ?

Ðể tránh công an “ra tay”

Ðiều an ủi lẻ loi cho tới thời điểm này là dù chưa phải một quan chức thuộc giới chính phủ, nhưng ý kiến của một đại biểu Quốc hội như ông Vũ Ðức Khiển về việc “nên” chuyển trại tạm giam từ ngành công an sang ngành tư pháp vẫn là một bước phản biện nho nhỏ, thay vì trước đây ý kiến này chỉ tồn tại mơ hồ nơi vài ba luật gia mà sau đó chìm khuất trong màn sương quan liêu ẩm độc.

Cả Thiếu Tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược (Bộ Công An) cũng cho rằng ý kiến trên là hợp lý, đúng theo thông lệ của quốc tế. Ông Cương còn khẳng định ngành công an “cũng không tha thiết gì việc giữ quản lý các trại tạm giam, nhà tù” (?).

Nhưng nếu trại tạm giam không nằm trong “tay” ngành công an mà rất dễ bị các điều tra viên và quản giáo dữ dằn “ra tay” đối với người đang còn trong quá trình điều tra, loại hình trại này nên thuộc cơ quan nào?

Hiện nay, trên thế giới có hai phương thức quản lý nhà tù:

- Nhà tù do Bộ Phụ Trách Cơ Quan Công An, cảnh sát quản lý. Hình thức này có một số nước như: Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc.

- Nhà tù do Bộ Tư Pháp Quản Lý. Gồm một số nước như: Hoa Kỳ, Anh.

Sẽ không có vấn đề gì lớn nếu nhà tù được quản lý ít gây tai tiếng như ở Nhật Bản. Tuy nhiên với trường hợp Trung Quốc và Việt Nam thì lại khác hoàn toàn. Tình trạng lạm dụng và lợi dụng quyền lực ở các quốc gia này được coi là vô tội vạ, dẫn đến quá nhiều cái chết xảy ra ngay cả khi “đối tượng” còn chưa thật sự bước chân vào trại tạm giam.

Mới đây một cảnh sát giao thông đã “vô tình” dùng dùi cui gây ra cái chết của một người đi đường. Ðiều quái lạ là những câu chuyện dã man như vậy lại xảy ra ngày càng nhiều, bất chấp công tác tập huấn của ngành công an vẫn đều đặn diễn ra hàng năm.

Một khi ngành công an đã không thể hoặc không muốn quản lý các trại tạm giữ, tạm giam theo đúng quy chuẩn mà không để cấp dưới biến thành một thứ sân chơi bạo lực và tiền bạc, không thể khác hơn là loại hình trại này phải được chuyển sang ngành tư pháp - một cơ quan dù còn không ít quan liêu nhưng chưa đến nỗi mang danh nghĩa “lực lượng vũ trang” và “mặc sắc phục.”
Phạm Chí Dũng
(Người Việt)

Điều gì sẽ xảy ra khi Mỹ đồng đồng hành cùng chế độ Cộng Sản và phong trào đấu tranh dân chủ tại Việt Nam?

Lê Nguyên Hồng  – RFA

Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Tướng Martin Dempsey và Tổng tham mưu trưởng quân độ nhân dân Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ duyệt hàng quân danh dự tại Bộ Quốc phòng Hà Nội vào ngày 14 tháng 8 năm 2014.
Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Tướng Martin Dempsey và Tổng tham mưu trưởng quân độ nhân dân Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ duyệt hàng quân danh dự tại Bộ Quốc phòng Hà Nội vào ngày 14 tháng 8 năm 2014.AFP
Điều gì sẽ xảy ra khi Mỹ đồng đồng hành cùng chế độ Cộng Sản và phong trào đấu tranh dân chủ tại Việt Nam?
Vài ngày qua, sự kiện đại tướng quân đội Hoa Kỳ là Martin Dempsey sang thăm Việt Nam đã đánh dấu một mốc quan trọng trong chương trình Mỹ tiến tới hợp tác toàn diện với Việt Nam, nhất là về quân sự, đặc biệt trong lĩnh vực hải quân.

“Việt Nam” ở đây chính là nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, là Nguyễn Tấn Dũng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh – những kẻ tai to mặt lớn, nắm quyền sinh sát của chế độ hiện nay – những kẻ đã đại diện Việt Nam tiếp đón và hội đàm cùng đại tướng Martin.
Một điều không thể chối bỏ từ phía Mỹ đó là: Mỹ không thể làm ngơ trước việc quyền lợi của mình và của các đồng minh ở Châu Á có nguy cơ bị xâm hại từ thế lực Trung Cộng, và vị trí địa lý của Việt Nam là đặc biệt quan trọng trong chiến lược phòng thủ của Mỹ tại Châu Á.
Người ta có thể đặt ra câu hỏi, “Mỹ có yêu chế độ Cộng Sản hay không?” và đương nhiên một câu hỏi khác đặt ra là, “Mỹ có muốn có dân chủ (ở Việt Nam) hay không?” Câu trả lời (của rất nhiều người Việt) sẽ là: Mỹ không yêu Cộng Sản cũng chẳng mến dân chủ ở Việt Nam. Họ chỉ làm những gì có lợi cho bản thân họ và đồng minh mà thôi.
Hiện nay chế độ Cộng Sản Việt Nam đã buộc phải bắt tay với Mỹ để chống Trung Cộng. Nhưng mặt khác họ cũng rất lo ngại Mỹ hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam.
Qua tin rò rỉ từ Wikileaks và từ những người như điệp viên đào tẩu Snowden trong những năm qua, người ta biết rằng, nhiều thập kỷ qua, bằng những tổ chức trung gian, Mỹ vẫn ngầm hỗ trợ đối kháng chống độc tài tại rất nhiều quốc gia từ Đông Âu, Phi Châu, Trung Đông cho đến Việt Nam…
Khoảng 5 năm trở lại đây phong trào dân chủ Việt Nam đã có những chuyển biến tương đối rõ nét. Có được điều đó là do nhu cầu đấu tranh nội tại ngày một gia tăng, nhưng cũng không thể không nhắc đến yếu tố quan trọng nhất đó là sức mạnh chính trị và tiền bạc từ người Mỹ.
Về mặt chính trị, bằng con đường vận động hành lang ngoại giao, Hoa Kỳ đã gây áp lực buộc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải cải thiện dân chủ, trả tự do cho một số nhà đối kháng đang bị cầm tù như Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh v…v…
Trong những hành động đó, cả phía Mỹ và chế độ Cộng Sản Việt Nam đã cùng thắng, nếu như không muốn nói đầy đủ là “ba bên cùng thắng”, vì đó cũng là một trong những thắng lợi của phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam.
Hơn lúc nào hết, hiện cả hai phe Cộng Sản và chống Cộng đều đang cần dựa vào người Mỹ.
Đối với nhà cầm quyền Cộng Sản, cả thế giới đều nhìn thấy là họ đang cố gắng dựa vào Mỹ để tồn tại. Nhưng còn phe chống Cộng Sản, họ dựa vào người Mỹ như thế nào?
Là một người đấu tranh chống Cộng Sản hoạt động độc lập trong nước từ năm 2003; sau này chạy sang Thái Lan gần 5 năm, nay lại đang sống ở Úc, qua tiếp xúc với rất nhiều thành phần đấu tranh tại hải ngoại, tôi biết rõ: Phong trào đối kháng trong nước tồn tại được đều nhờ người Mỹ. Cơ sở nào để nói như vậy?
Thứ nhất, bằng con đường phi chính phủ, Mỹ (tôi đã dùng từ “Mỹ” từ đầu bài viết, chứ không nói “chính phủ Mỹ”) đã ngầm tài trợ cho một số tổ chức chống Cộng có thực lực ở nước ngoài, cụ thể là các tổ chức được đánh giá “làm được việc” hoặc ít nhất là “có cố gắng làm việc”. Những tổ chức đó đã triển khai được một thế trận đấu tranh tại Việt Nam.
Một điều không thể bác bỏ khác, đó là: Bằng hình thức này hay hình thức khác, tất cả các hội đoàn đối kháng trong nước đều “sống” được là do tiền tài trợ thông qua các tổ chức yểm trợ đấu tranh hải ngoại. Tiền của các tổ chức hải ngoại vừa kể lại đến từ hai nguồn: Từ người Mỹ như đã nói, và từ sự đóng góp của các công dân Mỹ (Úc, Canada, Châu Âu…) gốc Việt.
Cũng phải giải thích rằng chuyện đối kháng “sống” được trong chế độ Cộng Sản Việt Nam là điều khó khăn vì các thành viên đều bị o bế kiềm tỏa, phá hoại về kinh tế, do chính sách đàn áp của nhà cầm quyền. Chỗ dựa chính của họ chính là nguồn tài chính từ hải ngoại.
Một câu hỏi đặt ra là: Mỹ có bình đẳng trong quan hệ với cả hai phe, nhà cầm quyền và phe đấu tranh đối kháng tại Việt Nam hay không? Chắc chắn là có! Nhưng cái cần quan tâm nhất đối với người Mỹ đó vẫn là quyền lợi của họ và đồng minh. Chính vì điều này Mỹ phải đặt quan hệ với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lên hàng đầu vì hiện nay chỉ họ mới có thể đáp ứng được các yêu cầu chiến lược cấp bách của Mỹ.
Nhưng có lẽ người Mỹ sẽ chỉ ủng hộ phong trào đấu tranh dân chủ tại Việt Nam ở mức độ nào đó vì nhiều lẽ. Bài học đau đớn Việt Nam Cộng Hòa năm xưa người Mỹ không thể quên: Họ đã tốn hàng núi Dollas chỉ để tạo được một thể chế gia đình trị lạc hậu trong Đệ nhất VNCH; do Mỹ hậu thuẫn, sống nhờ tài chính Mỹ nhưng lại không chịu làm theo ý đồ chiến lược của Mỹ. Sau này Đệ nhị VNCH cũng lại trượt theo “vết xe đổ Ngô Đình Diệm” và trong khủng hoảng chính trị bởi nguy cơ đảo chính thường trực…
Vậy lấy gì để người Mỹ tin rằng, nếu giả sử như chế độ thối nát Độc tài Cộng Sản Việt Nam hiện nay bị lật đổ thì chế độ tiếp sau nó có hoàn toàn thân Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc hay không. Điều này người Mỹ biết rõ vì bản thân những nhà lãnh đạo của các tổ chức có thực lực ở hải ngoại phần lớn đều là các cựu quân cán chính của VNCH khi xưa, nhiều người vốn tận đáy lòng vẫn ghét Mỹ vì họ luôn cho rằng “Mỹ bỏ rơi đồng minh” năm xưa.
Một câu hỏi khác nảy sinh là, tại sao người Mỹ vẫn hậu thuẫn đấu tranh? Rất dễ hiểu, đó chính là chính sách dân chủ hóa toàn cầu của họ, và họ muốn có lý do để gây áp lực với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, để tránh bị coi là chống lại xu thế dân chủ, một điều trớ trêu thay là nhà cầm quyền Cộng Sản lại dùng chiêu bài trả tự do nhỏ giọt cho một vài tù nhân chính trị để đổi lấy sự ấm lên trong quan hệ ngoại giao với Mỹ!
Bằng các động thái ngoại giao song phương dần tiến tới quan hệ đối tác toàn diện Việt – Mỹ, bằng việc cử một viên đại tướng sang thăm Việt Nam, có vẻ như Mỹ đã đạt được mục đích then chốt của mình tại khu vực Biển Đông. Nếu tiến xa hơn trong quan hệ và dần loại bỏ tầm kiềm tỏa của Đảng Cộng Sản Việt Nam, chính phủ Việt Nam có thể tồn tại lâu hơn nếu thực lòng trở thành đồng minh của Mỹ.
Đối với giới đấu tranh dân chủ, tất nhiên họ phải cố gắng hết mình, sẵn sàng đối đầu với công an, nhà tù để đấu tranh đến cùng. Nhưng hơn bao giờ hết, họ phải thực sự quên đi câu chuyện “đồng minh” ngày trước với Mỹ. Và có lẽ điều quan trọng nhất là họ cần làm cho người Mỹ thấy được, họ (đặc biệt là những nhà đấu tranh hải ngoại) thực sự có tâm và có tầm.
“Tâm và tầm” ở đây cụ thể là gì? Có tâm là làm việc hết mình, không tư lợi, đừng tham nhũng, đừng lừa dối, đừng tiểu xảo với những nhà tài trợ. Có tầm là tập hợp được những con người có năng lực thực sự gia nhập các tổ chức đảng phái đấu tranh của mình, vì chỉ có sức mạnh của tập thể gồm nhiều người có thực tài mới có thể làm nên việc lớn. Tai mắt của Mỹ khắp nơi, chẳng có tật xấu nào của người Việt hải ngoại che được mắt họ.
Như vậy có thể thấy: Chuyện Mỹ đồng đồng hành với cả hai phe Cộng Sản và chống Cộng là điều có lý. Phía nhà cầm quyền chỉ cần cải thiện dân chủ nhỏ giọt để làm hài lòng người Mỹ là đủ. Về phía những người đấu tranh, ngoại trừ họ có khả năng phát động một cuộc lật đổ thần thánh (điều này chưa thể xảy ra trong tương lai gần) thì cũng hãy nên tạm bằng lòng với vị thế hiện nay của mình.
“Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” hay “có thực mới vực được đạo”, người Mỹ có quyền vì họ có sức mạnh vật chất. Nhưng vốn tôn thờ Chủ nghĩa Thực dụng, họ sẽ nhìn thấy ngay đâu là điều họ nên làm. Khi nhà nước Việt Nam Cộng Sản đồng hành với Mỹ thì đó cũng chính là lúc lợi thế giữa hai phe Cộng Sản và đối kháng thêm sự mất cân bằng.
Trong đấu tranh, nếu biết tận dụng mọi nguồn lực, cụ thể (đối với người Việt đối kháng) đây là nguồn lực Mỹ, thì không gì khôn ngoan hơn. Nhưng họ phải làm sao để người Mỹ có cơ sở tin tưởng mình. Rất dễ và cũng thật khó!
Tuy nhiên, với những con người thông minh và giàu ý chí, có nghị lực, chỉ có cái chưa thể chứ không có cái không thể! Cơ hội vẫn còn đang ở phía trước cho những người đấu tranh chống Cộng Sản. Chẳng có gì hạnh phúc hơn là tự mình làm nên mọi chuyện mà chẳng cần dựa vào ai. Nhưng điều này quả là không hề đơn giản!
Lê Nguyên Hồng – Sydney, Australia
Đọc bài viết trên trang blog Lê Nguyên Hồng:
http://lenguyenhong.blogspot.com.au/2014/08/le-nguyen-hong-ieu-gi-se-xay-ra-khi-my.html#more

Phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam hiện nay

Kính Hòa, phóng viên RFA

000_Hkg2678165.jpg
Công nhân đô thị chăm sóc công viên Lê Nin ở Hà Nội.AFP photo
Một trong những khía cạnh mà những người tham dự hội thảo nhan đề “Thoát Trung” ở Hà Nội vừa qua đề cập tới là chủ nghĩa cộng sản, cũng như những biến thái của nó là chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao. Mặc dù trong hội thảo này, tranh luận về văn hóa được đưa lên hàng đầu nhưng không tránh khỏi những bàn luận về chính trị xoay quanh ba thứ chủ nghĩa vừa nêu.

Điều trớ trêu là ngay giữa lòng Hà Nội, dưới câu khẩu hiểu ca tụng chủ nghĩa cộng sản và các nhà lý luận của nó như Marx, Engels, Lenin, người ta công khai thách thức tính đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản.
Sự thách thức chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam có lịch sử dài lâu chứ không phải mới đây, từ những ngày đầu tiên chủ nghĩa này bám rễ vào Việt Nam. Sự thách thức đó vẫn tồn tại trong lúc chủ nghĩa này lên đến đỉnh điểm hùng mạnh nhất. Và khi hệ thống cộng sản đổ vỡ khắp nơi, cộng với bùng nổ của công nghệ thông tin thì sự thách thức đó ngày càng lớn.
Một trong những người thách thức chủ nghĩa cộng sản ngay trước khi đảng cộng sản chấp nhận nền kinh tế thị trường là tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người học hành và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản. Trước cuộc hội thảo ở Hà Nội trong tháng tám này, cũng có một cuộc hội thảo khác tương tự, ông Hà Sĩ Phu nói với chúng tôi sau cuộc hội thảo ấy rằng vấn đề chung của cả hai dân tộc Việt và Hoa là chủ nghĩa cộng sản.
Năm 2013 chủ nghĩa cộng sản chứng kiến một thách thức lớn là 72 nhân sĩ trí thức gửi kiến nghị đòi bỏ điều bốn trong Hiến pháp quốc gia về sự độc tôn của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.
Tháng bảy 2014 đến lượt 61 đảng viên hiện vẫn còn sinh hoạt đảng kiến nghị kêu gọi từ bỏ chế độ toàn trị.
Cũng trong tháng bảy 2014, luật sư Nguyễn Đăng Trừng tại Sài Gòn bị khai trừ ra khỏi đảng. Lý do được nhiều người nói đến chính là việc luật sư Trừng không đồng ý sự can thiệp quá nhiều của đảng bộ TP HCM vào công việc của đòan luật sư Thành phố HCM.
Con đường đến Việt Nam của CNCS
Chủ nghĩa cộng sản đến Việt Nam với lý do làm phương tiện cho việc đòi độc lập. Lý do lớn này làm cho ngay chính những đảng viên cộng sản không coi trọng phương diện ý thức hệ của nó bằng những vấn đề thực tế. Ông Trần Đức Nguyên, từng là thư ký của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nới với chúng tôi sau khi ký tên vào bản kiến nghị 61:
Cái việc mà đưa ra yêu cầu sửa đổi chế độ toàn trị thì đã nói từ thời kiến nghị 72 rồi. Sau đó có những ý kiến đã nói rõ là đất nước phải chuyển từ chế độ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Và như thế là không đụng đến những vấn đề về chữ nghĩa. Cái đó là cái thực trạng thì cần phải thay đổi.
Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.
– Nhà văn Thùy Linh
Trên con đường đến Việt Nam nói riêng và đến châu Á nói chung chủ nghĩa cộng sản đã gặp phải một thực trạng mà nhiều người cho là thuận lợi để phát triển, đó chính là khía cạnh chuyên chế của ý tưởng xã hội Khổng Giáo.  Nhà văn Thùy Linh, từ Hà Nội nói với Mặc Lâm của đài RFA, sau hội thảo “Thoát Trung” trong tháng tám:
Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.”
Phản hồi của ĐCS và ảnh hưởng của sự thách thức
Sau khi kiến nghị 72 ra đời hồi năm 2013, đảng cộng sản im lặng một thời gian rồi lên tiếng chỉ trích những người đưa kiến nghị 72 là chống lại sự cai trị của đảng. Hiến pháp Việt nam sửa đổi 2013 vẫn duy trì đảng cộng sản và ý thức hệ của nó ở vị trí độc tôn.
Sau khi ký kiến nghị 61, Giáo sư Tương lai nói rằng ông chờ đợi sự phản hồi của đảng. Từ đó đến thời điểm chúng tôi hoàn thành bài viết này thời gian đã hơn một tháng, người ta chưa thấy truyền thông của đảng cộng sản lên tiếng. Còn ông Hà Sĩ Phu thì nói rằng đảng cộng sản cũng sẽ bỏ ngoài tai kiến nghị 61:
Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào. Bởi vì cái lập trường của đảng thì quá rõ rồi, vì đối với đảng cộng sản chân lý là vô nghĩa, lòng tốt là vô nghĩa, đặt trên bàn của họ chỉ là lợi ích.”
Tuy nhiên cũng có người, như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng người theo dõi sát chính trị Việt nam cho rằng mặc dù có thể không được lắng nghe, nhưng những kiến nghị như thế là rất tốt. Nhà văn Phạm Đình Trọng thì hy vọng tác động của kiến nghị 61 đến các đảng viên của chính đảng cộng sản:
Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào.
– TS. Hà Sĩ Phu
Cái kiến nghị này là văn bản chính thức của một số đảng viên, họ đã dứt khoát lên tiếng đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa cộng sản. Đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx tức là cái lõi lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Đây là một tiếng nói rất rõ ràng. Còn lại là những người kiếm lợi từ chủ nghĩa cộng sản, những người bất tài, kém cỏi, và nhờ có chủ nghĩa cộng sản họ mới có vị trí như thế, thì họ sẽ cố duy trì, nhưng đây là một đợt tấn công mạnh mẽ vào cái thành trì bảo thủ ấy.”
Những lời phát biểu này thể hiện rằng sự thách thức chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam theo năm tháng đã chuyển từ sự thách thức trên phương diện ý thức hệ sang sự thách thức về quyền lực và quyền lợi không còn mang màu ý thức hệ nữa. Chỉ trích ý thức hệ vẫn có thể diễn ra một cách công khai khi mà nó chưa xuống đường để đụng chạm tới quyền lợi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều này được thấy rõ trong một tương quan so sánh sau đây: chỉ sau hội thảo “Thoát Trung” vài ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với lực lượng công an đã nhắc đến thế lực thù địch và sự chuyển hóa chính trị nguy hiểm cho chế độ. Tuy nhiên trước đó, trong hội trường diễn ra hội thảo “Thoát Trung” nhiều người nêu lên sự không đúng đắn của chủ nghĩa Marx ngay dưới chân dung ông.

Báo lá cải ngày nay và lịch sử bị che giấu của hôm qua

Kính Hòa, phóng viên RFA

034_2631774.jpg
Người Việt đọc báo sáng tại vỉa hè Sài Gòn. AFP photo
Câu chuyện truyền thông tuần qua

Câu chuyện truyền thông được giới blogger chú ý trong tuần qua là bài viết trên báo Trí thức trẻ nói rằng phụ nữ miền Tây Nam Bộ là không có học thức. Trước đó một bài viết khác thì nói rằng đàn ông khôn ngoan không nên lấy vợ miền Bắc. Cái đáng nói là một số tờ báo lớn cũng đăng các bài viết này, rồi sau đó một vài tờ im lặng rút đi. Các bài viết này làm giới blogger và FBker lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ. Trong bài viết mang tựa đề Phụ nữ Việt Nam có tệ lắm không? Blogger, Nhạc sĩ Tuấn Khanh cho rằng đây là sự thối nát của ngành truyền thông nước nhà:
Cội rễ của sự thối nát truyền thông vẫn đâu đó, lùi bước chỉ là một cách đối phó. Rồi đây chúng ta sẽ lại bắt gặp những đề tài như vậy nay mai. Xin đừng tức giận mà hãy đếm, vì đó là những tiếng chuông cuối cùng, báo hiệu sự cáo chung của nền báo chí lá cải xã hội chủ nghĩa, vốn được dung dưỡng bấy lâu nay.
Đề tài truyền thông cũng được nhà văn Phạm Thị Hoài đề cập đến trong bài viết Sự thật về sự thật rẻ tiền. Theo đó báo chí chính thống Việt Nam đã trích dẫn một cách lầm lẫn các tờ báo hài hước của phương Tây, để nói về các sự kiện quan trọng như vụ máy bay của hàng không Mã Lai rơi ở Ukraine. Bên cạnh đó, theo nhà văn Phạm Thị Hoài, truyền thông lề trái cũng đã vội vàng trích dẫn các báo chí thân ông Putin bên Nga để chỉ trích chính phủ Việt Nam.
Cội rễ của sự thối nát truyền thông vẫn đâu đó, lùi bước chỉ là một cách đối phó. Rồi đây chúng ta sẽ lại bắt gặp những đề tài như vậy nay mai.
– Nhạc sĩ Tuấn Khanh
Và cũng trong bài viết này, Phạm Thị Hoài mô tả một buổi lễ kỷ niệm sự hợp tác quân sự giữa Việt Nam và quân đội Liên Xô cách đây mấy mươi năm. Bà viết:
Ngắm những cụ ông cụ bà cựu công dân Liên Xô, ngực nặng huân huy chương ngồi nghe kể chuyện ngày xưa đánh giặc ở một xứ sở lạ hoắc, thưởng thức văn nghệ cây nhà lá vườn từ một sinh viên Việt Nam để kiểu tóc kết hợp giữa Kim Chính Ân và Kim Chính Nhật, ngoan ngoãn xếp hàng ăn buffet lèo tèo vài món cơm rang nem rán, rồi đứng nghiêm chụp hình lưu niệm để sang năm lại như thế, tôi chỉ thấy một cảnh thác ngộ thời đại, nửa gợi thương cảm, nửa gây cười. Không có gì chứng tỏ phía Việt Nam muốn giấu diếm hay thậm chí chối bỏ công lao của các bạn Xô-viết.
Câu chuyện bàn cờ mới
Câu chuyện hợp tác quân sự trong quá khứ gợi nhớ đến một chủ đề mà giới bloggers hầu như liên tục đề cập đến trong hơn một năm qua, đó là chuyện vị trí của Việt Nam trong bàn cờ mới ở châu Á Thái Bình Dương. Trên bàn cờ mới này quan hệ Việt Mỹ đã trở nên vô cùng quan trọng đối với nhiều người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng vô cùng tế nhị đối với những người Việt Nam khác. Sự tế nhị lên đến mức có nhiều chuyên gia đánh giá các cuộc thăm không chính thức của ông Phạm Quang Nghị tại Mỹ, và ông McCain tại Việt Nam là có tầm quan trọng lớn lao. Và ngay lúc chúng tôi hoàn thành bài điểm blog này, thì ông Tổng tham mưu quân đội Mỹ Martin Demsey đến Hà Nội. Trước đó, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng từ Đại học George Mason nói:
Ông Nghị là người của Bộ chính trị nữa, có khả năng lớn nói chuyện. Ông nói cái gì mình không biết nhưng có điều chắc chắn là hai bên đã đạt được một thỏa thuận tiên khởi nào đó thì ông McCain mới sang Việt Nam bởi ông mới ở Việt Nam về ông lại sang ngay.
Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt.
– Trần Đĩnh
Những thỏa thuận Mỹ Việt là điều mà nhiều người trong thế hệ trẻ Việt Nam hy vọng. Blogger trẻ tuổi Silver Reyleigh viết:
Chúng ta cùng chờ đón rằng Hoàng Sa sẽ trở về lại với khổ chủ sau 40 năm vuột mất và trò đánh đu chính trị, đu dây sẽ chấm dứt.
Thậm chí nhiều blogger trẻ tuổi đã châm biếm hai từ Việt Hoa trong những câu khẩu hiệu hữu nghị với Trung Quốc thành Việt… Hoa Kỳ.
Nhưng các blogger trẻ tuổi ấy không hề quên rằng chuyện liên minh giữa hai quốc gia cựu thù, có những cách hành xử rất khác nhau về dân chủ là một chướng ngại không dễ vượt qua. Blogger Silver viết:
Tuy nhiên, báo chí trong nước khi đưa tin về bài phát biểu của ông McCain không hề đả động gì đến lời nhắn gửi của ông McCain về “dân chủ và nhân quyền” cho đỡ quê vì là “con tin”, thà để cho người ta đồn đại trên mạng còn hơn.
Cùng lúc ấy, blogger Người Buôn Gió phản bác những lời kết tội của nhà cầm quyền đối với blogger Anh Ba Sàm rằng Anh Ba Sàm phản lại truyền thống cách mạng của gia đình anh. Người Buôn Gió viết rằng những gì Anh Ba Sàm làm hôm nay chính là những giá trị dân chủ của xã hội trước khi những người cộng sản lên cầm quyền.
Blogger Phạm Đình Ấm viết trên blog Bà Đầm Xòe về sự cầm quyền ấy của đảng cộng sản:
Với một đảng độc tài tồn tại gần trăm năm qua không có ai tranh giành, kiểm soát, lãnh đạo không được ai bầu ra…việc nó ngạo mạn, liên tục tích lũy sai lầm, tham nhũng, tội ác thậm chí bán nước (nếu có)…cũng là hợp quy luật và những người có lương tri phải mổ xẻ, phê phán cái sai của nó, làm cho nó thay đổi để dân được làm chủ, đất nước được hùng cường toàn vẹn giang sơn.
Trở ngại dân chủ, nhân quyền ấy không gì khác hơn là một di sản của một quá khứ chiến tranh cách mạng cộng sản của nước Việt Nam.
Chuyện quá khứ
622f035b-fbfe-4f70-b030-1bab4b9e7c7e-250.jpg
Bìa sách tư liệu mang tựa đề Đèn Cù của nhà văn, nhà báo Trần Đĩnh. RFA file
Tuần qua cũng chứng kiến một tác phẩm nhìn lại quá khứ cách mạng của Việt Nam được ra đời. Đó là tác phẩm Đèn Cù của Trần Đĩnh, một nhà văn một thời gần gũi các nhân vật hàng đầu của đảng cộng sản Việt Nam. Trong tác phẩm đầy ắp tư liệu này, Trần Đĩnh viết rằng ông rất buồn vì chứng kiến bản tính sợ quyền lực của người Việt Nam đã làm dẫn đến tình trạng của một xã hội mất dân chủ.
Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực.
Sự nhìn nhận sự thực quá khứ, cũng như nhận chân thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với quá khứ cũng là tâm trạng của nhà văn, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, ông viết trong bài Chiến tranh, nhớ và quên rằng:
Mấy chục năm qua là giai đoạn bi hài kịch của nước Việt. Những mục tiêu cơ bản được dự tính ban đầu về tương lai dân tộc, được nêu thành những khẩu hiệu kêu xoang xoảng…đều bị đảo lộn theo cách vừa thê thảm, vừa nực cười…
– Blogger Nguyễn Trần Sâm
Người Việt mình thường đối diện với các sự kiện xảy ra trong quá khứ một cách hời hợt. Chỉ có nhớ vặt không có suy nghĩ.
Họ luôn luôn nhắc tới chiến tranh và muốn xã hội nhắc tới chiến tranh chỉ cốt để biện hộ cho sự hư hỏng của mình.
Quả thật là việc nhận ra tình thế mới của đất nước, cũng như định rõ di sản chính trị của những biến động xã hội chính trị trong hơn nửa thế kỷ qua là điều không hề dễ dàng đối với nhiều người Việt Nam. Nhiều người hãy còn ca ngợi tình hữu nghị Hoa Việt ngày hôm trước khi giàn khoan Trung quốc kéo vào thềm lục địa Việt Nam, nhiều người khác thì nghĩ rằng nước Nga của Putin hôm nay chính là những đồng minh Xô Viết cũ, như nhà văn Phạm Thị Hoài đã mô tả.
Cũng nhìn lại quá khứ, blogger Nguyễn Trần Sâm Thấy rằng mấy mươi năm cách mạng vừa qua lại là một sự mỉa mai, vì những mục tiêu ban đầu của cuộc cách mạng đều được làm ngược lại trong mấy mươi năm sau đó:
Mặt khác, không chỉ nông dân, mà ở đất nước này, với luật đất đai quy định đất là “sở hữu toàn dân” bất cứ ai cũng không thể trở thành chủ nhân thực sự của một tấc đất nào. Vì vậy, giấc mơ “người cày có ruộng” hoàn toàn và tuyệt đối là ảo mộng, không có nền tảng pháp lý nào để thành hiện thực. Hơn thế, bất cứ ai, vào bất kỳ giây phút nào, cũng có thể bị tống cổ khỏi ngôi nhà và mảnh đất mình đang ở ra đường, nếu không phải là các nhà hoạch định các dự án xây dựng hoặc có quan hệ mật thiết với những người này theo kiểu nào đó.
Mấy chục năm qua là giai đoạn bi hài kịch của nước Việt. Những mục tiêu cơ bản được dự tính ban đầu về tương lai dân tộc, được nêu thành những khẩu hiệu kêu xoang xoảng, thành những thứ “lý luận”, “nghị quyết”, “văn kiện”,… đều bị đảo lộn theo cách vừa thê thảm, vừa nực cười, và theo cách nào đó là khá “ngoạn mục”.
Một chuyện cũ nữa cũng được blogger Lê Thọ Bình nêu ra trong bài viết trên blog Huỳnh Ngọc Chênh, đó là chuyện người đồng thời với nhà văn Trần Đĩnh là ông Nguyễn Hữu Đang, tinh thần của nhóm Nhân Văn Giai phẩm. Lê Thọ Bình ví ông như một cánh chim đại bàng của trí tuệ:
Nhưng rồi cái tư tưởng phóng khoáng, tự do của một chú đại bàng “hoang dã” muốn đưa đồng loại của mình tới khoảng trời bay nhảy tự do đã khiến ông rơi từ “trời cao” xuống vực thẳm, để lại cho nhân gian những câu chuyện thật đau lòng bằng một vụ án văn chương mà người ta gọi là “Nhân văn giai phẩm”.
Để kết thúc bài điểm blog tuần này chúng tôi xin mượn hai câu thơ của nữ thi sĩ đa tài bạc mệnh Xuân Quỳnh.
Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ
Nhưng không phải là điều em ao ước

Bùi Tín - Thời gian không đợi

Bộ Chính trị đảng CS Việt Nam đang bị chiếu tướng từ nhiều phía. Từ tổ chức Liên Hiệp Quốc, từ Hội đồng Nhân quyền LHQ mà Việt Nam là một thành viên, từ chính quyền Hoa Kỳ, từ Quốc hội Hoa Kỳ đang xem xét việc có chấp nhận để Việt Nam vào khối kinh tế Xuyên Thái Bình Dương TPP và có hủy quyết định không bán vũ khí sát thương choViệt Nam hay không? Từ trong nội bộ đảng CS, khi một loạt 61 đảng viên trí thức có uy tín lên tiếng đòi đảng từ bỏ nền cai trị độc đoán chuyên quyền, từ bỏ học thuyết Mác - Lênin lỗi thời, thẳng tay diệt trừ tham nhũng, từ bỏ độc quyền kinh tế quốc doanh tệ hại, công khai hóa cuộc họp Thành Đô. Từ nhân dân, đòi hỏi chống bành trướng mạnh mẽ, chấm dứt bỏ tù công dân yêu nước chống bành trướng, trả tự do cho các chiến sỹ dân chủ một cách sòng phẳng, chấm dứt chơi trò «thả rồi lại bất, bắt rồi lại thả» làm vốn mặc cả theo kiểu đèn cù. Những lời hứa với cử tri về «Luật biểu tình», «Luật lập hội, trong đó có lập công đoàn tự do», về chống tham nhũng quyết liệt không thể trì hoãn.
Bộ Chính trị 16 người ở Hà Nội đang nằm trong tình thế dầu sôi lửa bỏng, thật sự là khốn khổ bối rối. Nước đến chân rồi. Trước hết vì họ tham quá. Họ vừa muốn giữ ghế quyền lực lại muốn mỵ dân, vừa muốn tiếp tục hưởng đặc lợi, lại vừa muốn tỏ ra biết điều, khôn ngoan, vừa muốn tỏ ra thân thiết giữ cam kết keo sơn với ông đồng chí khổng lồ lại muốn tỏ ra xiêu lòng với những lời hứa ngon lành ngay thật từ phương Tây. Giang 2 tay rộng ra 2 phía để bắt cá, có khi không được con nào. Cái trò đi trên dây luôn mạo hiểm. Chỉ mất thăng bằng tý chút là lăn kềnh, đổ vỡ, có khi nguy khốn.
Bộ Chính trị đang bị dồn vào thế phải lật hết tẩy ra. Nghĩa là phải dứt khoát lựa chọn. Muốn gắn bó thật sự với phía này thì phải buông bỏ phía bên kia. Không thể nói và làm trái ngược, đánh đố nhau, đánh lừa nhau mãi được. Ôm đồm, quá tham, sẽ rơi hết sạch.
Vừa qua 2 thượng nghị sỹ Mỹ vào loại có thế lực nhất đã sang tận Hà Nội để nói rõ rằng phía Hoa Kỳ nhận thấy tình hình đã chín để có thể nhận Việt Nam gia nhập khối TPP và bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, từ đó nâng mối quan hệ Mỹ-Việt lên một tầm cao mới. Cánh bảo thủ trong lãnh đạo đừng tưởng bở, cho là họ cần ta hơn ta cần họ. Quà mang sang không cho không. Hãy hiểu cho rõ điều này. Tuyên bố của TNS John McCain (ngày 8/8) nói rõ: «Làm được bao nhiêu trong lĩnh vực này (tức nhận VN vào TPP và bán vũ khí sát thương ) cũng như các mục tiêu thương mại và an ninh, còn tùy thuộc nhiều vào hành động của VN về cải thiện nhân quyền». Ông còn nhắc lại lời hứa của thủ tướng VN hồi đầu năm: «Dân chủ là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của nhân loại» và «đảng phải giương cao ngọn cờ dân chủ»; Ông nói thêm: «Chúng tôi hy vọng Việt Nam sẽ chuyển những lời đáng trân trọng như thế thành những hành động mạnh mẽ, như thả các tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự, và cuối cùng là làm cho rõ ràng trong luật pháp và chính sách là quyền lực Nhà nước phải được giới hạn và các quyền làm người phổ cập như tự do phát biểu, lập hội, tín ngưỡng, xuất bản, truy cập thông tin phải được bảo vệ cho tất cả mọi công dân”.
Rõ ràng ông McCain đã nói thẳng ra những điều kiện trên đây, để có đi mới có lại. Ngay sau đó (10/8) khi gặp Ngoại trưởng Phạm Bình Minh ở Miến Điện, Ngoại trưởng John Kerry lại nhấn mạnh: «Thành tích nhân quyền của Việt Nam là vấn đề tranh cãi còn tồn đọng giữa 2 nước để tạo điều kiện cho mối quan hệ được nở rộ». Quả bóng đang ở phía Việt Nam. Việt Nam phải chứng minh bằng hành động.
Có một nhận định hơi vội là phía Hoa Kỳ có vẻ nghiêng về phía cánh bảo thủ giáo điều trong Bộ Chính trị, trong cơ quan lãnh đạo của đảng CS. Hoa Kỳ đang chờ, chưa nhóm nào trả lời thật rõ.
Thông điệp của phía Hoa Kỳ là gửi cho phía Việt Nam, cho toàn bộ 16 người trong Bộ Chính trị, cho cả 200 người trong Ban Chấp hành Trung ương đảng, cho cả 500 đại biểu Quốc hội, cũng là gửi cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Bộ Chính trị, cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa 2 kỳ đại hội Đảng, luôn quyết định theo đa số. Hiện có vẻ chưa nhóm nào đạt đa số, chưa dứt tình với đồng chí bành trướng vì «nặng nợ». Nhưng chỉ còn dăm tuần lễ nữa thôi, không thể ấm ớ mãi, vì việc quyết định về gia nhập TPP sẽ sớm ngả ngũ, Quốc hội Mỹ sẽ bàn chuyện Việt Nam vào kỳ cuối năm, sau đó sẽ dồn nổ lực cho việc bầu cử. Thời gian thật cấp bách, không chờ ai.
Để xem ngày lễ Quốc khánh 2/9/2014 tới, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang sẽ ký lệnh trả tự do dưới dạng ân xá giảm án cho bao nhiêu tù chính trị, tù lương tâm? Danh sách phía các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam đưa ra là 25 người cấp bách nhất, danh sách phía Hoa Kỳ, Liên Âu Bắc Âu, Úc…đưa ra cũng ngang như vậy. Không thể chỉ vài ba, hay dăm sáu người, kiểu nhỏ giọt. Bộ Chính trị có dám mạnh tay thả luôn 200 người, như Miến Điện từng làm khá là sòng phẳng năm 2013 không?
Xin nhớ chưa bao giờ ở Thượng viện cũng như ở Hạ viện Mỹ các ông bà nghị lại đòi phía Việt Nam phải tỏ ra thực tâm tôn trọng quyền làm người của người dân nước mình đến vậy. Thêm nữa, dư luận trong và ngoài nước sẽ xem xét kỹ trong kỳ họp Quốc hội cuối năm nay, luật về biểu tình, về lập hội, đặc biệt là lập công đoàn tự do ở các xí nghiệp có còn bị đẩy lùi nữa hay không? Những điều luật mơ hồ, hết sức phi lý về an ninh, rất bất công gây oan ức, lạm dụng có được hủy bỏ, sửa chữa hay không ?
Và một chỉ dấu nữa không kém phần hệ trọng là công luận trong và ngoài nước sẽ quan sát kỹ xem việc chống tham nhũng có «quyết liệt» như đã hứa hay vẫn giơ cao đánh khẽ, đánh kẻ thù nội xâm như phủi bụi, trong khi ở bên Tàu họ đánh từ «siêu hổ đến ruồi nhặng», bắt giam 2 cựu ủy viên thường vụ Bộ Chính trị - Chu Vĩnh Khang và Tăng Khánh Hồng - cùng 400 cán bộ và nhân viên phe cánh, điều tra tài sản của hàng vạn quan chức cấp cao, trừng trị hàng loạt cán bộ ngành công an, một ngành bị tố cáo là lạm quyền, tham nhũng, tàn bạo với dân có hệ thống, từ cao nhất đến cơ sở.
Vậy thì trong thời gian sắp đến bất cứ ai hay nhóm nào trong Bộ Chính trị, trong Ban Chấp hành Trung ương đảng, dù là tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng hay chủ tịch quốc hội, nếu có những việc làm theo hướng thực thi dân chủ, nhân quyền, thực hiện nền pháp trị nghiêm minh, ngay thật làm đúng theo lời hứa, lời cam kết với Liên Hiệp Quốc, với Hội đồng Nhân quyền, với cử tri nước mình, với nhân dân thì sẽ được ca ngợi, đề cao và tin cậy.
Sau khi phía Trung Quốc đã tỏ ra tham lam ngạo mạn ngang nhiên đưa giàn khoan lớn vào vùng biển nước ta, tàn sát ngư dân ta, hành động phi pháp, bất nhân, lãnh đạo nước ta phải biểu thị lòng yêu nước thương dân chống bành trướng, từ đó cảnh giác với thái độ lấn lướt gặm nhắm của họ, không thể để họ cắm chốt sâu trên các địa bàn trọng yếu, hạn chế việc họ đấu thầu, đầu tư, kinh doanh, buôn bán, lập nghiệp, mua chuộc các quan chức tham nhũng địa phương trên đất nước ta, tất cả phải thành chính sách đồng bộ từ trên xuống dưới của chính phủ bao gồm các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, đầu tư, thương mại, lao động. Cùng với chính sách nội trị chống bành trướng như thế, chính sách ngoại giao cũng phải mang xu thế chống bành trướng rõ rệt, quan trọng nhất là kết nhiều bạn mới cùng chung ý chí chống bành trướng như Philippines, Nhật Bản, Malaysia, Ấn Độ, Miến Điện, và đặc biệt là để ngỏ khả năng liên minh chiến lược với Hoa Kỳ, cường quốc mũi nhọn đương đầu với sự trỗi dậy hung hãn nguy hiểm của Trung Quốc.
Tất cả sự mong đợi ở thời điểm thử thách này là xem đa số Bộ Chính trị có dám nắm chắc tay lái, bẻ ngoặt chuyển sang hướng mới, phóng mạnh vào đại lộ dân chủ nhân quyền, cải cách toàn diện và đồng bộ cả hệ thống cai trị đối nội và đối ngoại, chấm dứt thời kỳ đổi mới nửa vời, đổi mới kinh tế chập chờn, đóng băng về chính trị, tự trói về ngoại giao, chống tham nhũng hời hợt, tiêu phí biết bao của cải và thời gian của xã hội. Xem nhóm nào thật sự vượt lên trong nước rút này.
Chỉ còn vài tháng ngắn ngủi cuối năm, bao nhiêu việc cần làm để được công luận thế giới cùng dư luận trong nước đánh giá là «được», là «tốt», là «đạt yêu cầu», chưa nói là «rất tốt”, là «vượt yêu cầu”, «là nêu gương về tôn trọng nhân quyền cho người láng giềng phương Bắc» như TNS McCain đã khuyến cáo. Hay lại bị dư luận quốc tế cũng như dư luận trong nước chê là «nhỏ giọt», «miễn cưỡng», «chưa thật dứt tình với ông đồng chí xấu bụng nham hiểm», «chỉ là thủ đoạn chiến thuật để mua thêm thời gian», «về cơ bản vẫn thế»…Để phải xóa bài làm lại, chờ thêm một thời gian nữa.
Xét cho cùng là lãnh đạo đảng CS lần này chọn ai, chọn quê hương mình, Tổ quốc mình, nhân dân mình, đồng bào mình, hay là đặc quyền đặc lợi cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, quyền lợi phe nhóm gắn chặt với « ông láng giềng tốt, ông bạn vàng tốt, ông đồng chí tốt, ông đối tác tốt» để cam chịu làm tay sai ô nhục.
Sức mạnh quyết định không phải ở «nhóm bảo thủ» hay «nhóm cấp tiến» trong Bộ Chính trị, vì họ rất giống nhau ở lòng tham quyền lực và tham đặc lợi phe nhóm, rất giống nhau dính quá chặt với thế lực bành trướng, cả 2 nhóm chỉ đua nhau nói dân chủ, nói pháp trị, nói nhân quyền nhưng không làm.
Sức mạnh vô tận lâu bền của xu thể dân chủ và nhân quyền đích thật nằm trong đại khối nhân dân, trong đại khối đảng viên CS và đoàn viên CS ở cơ sở - không thuộc phe nhóm ăn chia nào - do hơn 20 tổ chức xã hội dân sự như Văn đoàn Độc lập VN, Hội nhà báo độc lập VN, Hiệp hội dân oan VN, Hội Phụ nữ nhân quyền, Phong trào Lao dộng Việt … cùng hàng loạt blogger, Facebook lề trái làm vai trò tiên phong mở đường.
Đó mới thật là thế lực của hiện tại VN và tương lai VN, bạn bè chí cốt với xu thế dân chủ và nhân quyền quốc tế đang nắm chắc tương lai của thế giới này.
Bùi Tín
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)

Quan hệ đối tác toàn diện Mỹ-Việt đang ở đâu?

Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới.
Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới.Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới.

Sau 38 năm kết thúc cuộc chiến và 18 năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tầm nhìn của hai kẻ cựu thù Việt, Mỹ đôi khi không nhìn chung về một hướng. Mãi đến năm 2011, trong chiều hướng của chủ thuyết “Thế kỷ Châu Á Thái Bình Dương Của Mỹ” của Ngoại trưởng Hillary Clinton, Tổng thống Obama lần đầu tiên nhìn nhận Việt Nam là một đối tác đáng tin cậy của Mỹ tại Đông Nam Á trong chiến lược Mỹ trở lại Châu Á Thái Bình Dương, nhất là Đông Nam Á.
Sau những biến đổi tồi tệ về tình hình khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông do Trung Quốc tạo nên, đe dọa tác hại đến lợi ích quốc gia của Mỹ tại khu vực này, Tổng thống Obama chủ động mời Chủ tịch Nước Việt Nam Trương Tấn Sang qua Washington để thảo luận vào ngày 25/7/2013 về tình hình khu vực Biển Đông với hy vọng nâng cao quan hệ Việt-Mỹ lên tầm đối tác toàn diện.
Theo thông cáo chung sau cuộc gặp lịch sử này, ”Tổng thống Obama và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang quyết định xác lập đối tác toàn diện trong quan hệ Mỹ-Việt.” Mối quan hệ này được thiết lập trên một số cơ chế hợp tác trong nhiều lãnh vực khác nhau, trong đó có quan hệ chính trị-ngoại giao, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, du lịch và thể thao, kinh tế và mậu dịch, an ninh và quốc phòng, nhân quyền…
Phần nhiều những mối quan hệ này - kể cả quan hệ ngoại giao-chính trị - dễ dung hòa, vì cả hai bên Mỹ-Việt đều sẵn sàng quên đi những hệ lụy chiến tranh giữa 2 nước trong quá khứ để cùng nhau hướng đến lợi ích chung. Nhưng vì những khác biệt về điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa và kinh tế giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay, những mối quan hệ về nhân quyền, an ninh-quốc phòng, và kinh tế-thương mại, nhất là vòng đàm phán về vấn đề Việt Nam gia nhập TPP, vẫn còn nhiều trở ngại và thử thách.
Từ cuộc họp thượng đỉnh Washington hôm 25/7/2013 cho đến nay, hai bên thường xuyên trao đổi về những biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện cũng như tăng cường phối hợp các tiến trình đàm phán TPP. Các viên chức cao cấp của hai bên tiếp tục điện đàm, thường xuyên đi lại giữa Hà Nội và Washington để thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện.
Ngày 14-3-2014, theo đề nghị của phía Hoa Kỳ, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã điện đàm với Chánh Văn phòng Tòa Bạch Ốc, đại diện Tổng thống Obama, ông Denis McDonough, nhằm thúc đẩy việc kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện Việt-Mỹ. Nội dung của cuộc điện đàm này cũng không có gì mới lạ, không đạt được tính đột phá. Có chăng đó là câu nói có vẻ hứa hẹn một cái gì đó từ phía Hoa Kỳ: “Hiệp hội TPP sẽ dành sự linh hoạt thỏa đáng đối với các thành viên đang phát triển, như Việt Nam…” Nhưng Chánh Văn phòng Tòa Bạch Ốc Denis McDonough không nêu rõ ý nghĩa cụ thể của cụm từ “linh hoạt thỏa đáng” là như thế nào? Gồm có những gì? Vòng đàm phán TPP vẫn còn nhiều gai góc, không thỏa mãn được Tòa Bạch Ốc đang thật sự mong muốn vòng đàm phán này sớm chấm dứt trước cuối năm 2014.
Ngày 14/7/2014, ông Evan Medeiros, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Obama, đến Hà Nội với mục đích thúc đẩy Việt Nam về các vấn đề liên quan đến đàm phán TPP và Biển Đông. Điều đáng chú ý là sứ mệnh của ông Medeiros rất bao quát và rộng lớn: kết hợp hai vấn đề to lớn là việc Việt Nam gia nhập TPP và an ninh Biển Đông.
Trước đây Mỹ chỉ đòi Việt Nam muốn được gia nhập TPP phải có tiến bộ về nhân quyền. Bây giờ thì lại kèm theo an ninh BIển Đông. Nghĩa là muốn gia nhập TPP, ngoài điều kiện phải có tiến bộ về nhân quyền, Việt Nam phải phối hợp quân sự với Mỹ để chống trả ý đồ xâm lăng của Trung Quốc tại Biển Đông. Mặc dầu không nói ra, ai cũng hiểu đó là liên minh quân sự với Mỹ. Vì vậy khi đến VN, mục đích chủ yếu của ông Medeiros là gặp Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Tướng Vịnh lúc nào cũng “yểm” sẵn “Chính sách Quốc phòng 3 không”, nhất là điều thứ 3: “Việt Nam không liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào để chống lại một quốc gia khác”. Do đó ông Medeiros đã không đạt được sự hợp tác của Tướng Vịnh như Tòa Bạch Ốc mong muốn.
Tiếp theo đó là chuyến công du Hoa Kỳ của ông Phạm Quang Nghị ngày 21/7/2014, chuyến đi đánh dấu một lần nữa tầm quan trọng trong việc thúc đẩy kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Phạm Quang Nghị là Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị, được xem như là người sẽ kế vị Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong tương lai. Mục đích chủ yếu của chuyến công du của ông Nghị là thay đổi quan điểm của dân chúng và Quốc hội Mỹ xưa nay thường cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam thiên về Trung Quốc và chống lại Mỹ.
Đây là biểu hiện cho thấy quan hệ Việt-Mỹ đang đi vào một giai đoạn mới và tích cực. Tại Mỹ ông Nghị đã tiếp xúc với các Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman, Phó cố vấn An ninh Quốc gia Tony Blinken, Chủ tịch tạm quyền Thượng viện Patrick Leahy và Thượng Nghị sĩ John McCain. Trong các cuộc tiếp xúc này, ông Phạm Quang Nghị đã thông báo về tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam và khẳng định Đảng và Nhà Nước Việt Nam coi trọng và không ngừng thúc đẩy quan hệ hợp tác với Mỹ trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Hai bên cũng đề cập đến tình hình dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Hiệu quả của chuyến công du Mỹ của ông Nghị là phần nào làm cho nhân dân và chính phủ Mỹ thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang dần dần rời bỏ Bắc Kinh và hướng về Washington. Nhưng dường như sự xoay chiều này của Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ để thỏa mãn Quốc hội Mỹ.
Ngày 29/7/2014, Dân biểu Cộng hòa Frank Wolf gửi một bức thư với chữ ký của 32 Dân biểu khác cho Tổng thống Obama mạnh mẽ khuyến cáo Quốc hội Mỹ không cho Việt Nam gia nhập TPP nếu Hà Nội không thay đổi đáng kể về mặt nhân quyền, cải tổ luật pháp phù hợp với luật bảo vệ lao động, và Chính phủ Hà Nội phải theo đuổi thể chế dân chủ pháp quyền.
Cũng nên chú ý, trong tháng 7 vừa rồi Quốc hội Mỹ đã thông qua hai dự luật quan trọng có lẽ cũng nhằm thúc đẩy mối quan hệ Đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Đó là Dự luật cho phép Mỹ hợp tác và giúp đỡ Việt Nam xây nhà máy hạt nhân dân sự tại Việt Nam và Dự luật giải tỏa các lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN
Đầu tháng Tám này, cố vấn cấp cao của Tổng thống Obama, Thượng Nghị sĩ Bob Corker, đã đi thăm Hà Nội và tiếp xúc với các yếu nhân Việt Nam cũng không ngoài mục đích thúc đẩy kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện và thúc đẩy tiến trình đàm phán TPP. Trao đổi với ông Bob Corker hôm 5-8, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã “kêu gọi Quốc Hội Mỹ thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế, đầu tư thương mại song phương, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập TPP và ủng hộ một giải pháp ôn hòa cho vấn đề Biển Đông…” Đúng là ông Sang chỉ lập lại những gì ông đã phát biểu trong cuộc gặp với Tổng thống Obama tại Tòa Bach Ốc hồi năm ngoái (ngày 25/7/2013).
Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới - nghĩa là thời khoản dành ưu tiên cho Việt Nam gia nhập TPP còn rất ngắn. Phải chăng ông Corker đang chuyển thông điệp của Tòa Bạch Ốc đòi Việt Nam phải gấp rút cải thiện nhân quyền nếu không muốn bỏ mất hoàn toàn cơ hội gia nhập TPP?
Tuy nhiên, một ánh sáng vừa le lói ở cuối đường hầm TPP: Trong chuyến công du Việt Nam mới đây, Thượng Nghị sĩ John McCain đã tuyên bố hôm 8/8/2014 tại Hà Nội rằng “đã đến lúc Washington nên nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, vì Hà Nội đã có tiến bộ về nhân quyền như việc thả một số nhà bất đồng chính kiến và cởi mở hơn trong vấn đề tôn giáo”. Về phần mình Thượng Nghị sĩ Sheldon Whitehouse cho rằng việc nới lỏng sẽ xảy ra từng giai đoạn, nhưng nó có thể tiến nhanh hơn.
Ông McCain cũng hứa hẹn “Mỹ sẽ có tư duy và hành động mới trong quan hệ với Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng kết thúc vòng đàm phán TPP và làm việc với Việt Nam nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn để được Mỹ công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường”. Thượng Nghị sĩ McCain nói thêm: ”Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự và tăng các chuyến viếng thăm của tàu chiến đến mức mà Việt Nam cho phép, không phải bằng cách thiết lập căn cứ, điều mà chúng tôi không có ý định, mà bằng các thỏa thuận giữa hai nước…Chúng tôi cũng sẵn sàng hỗ trợ an ninh để giúp Việt Nam cải thiện khả năng nhận thức về lãnh hải và xây dựng năng lực bảo vệ chủ quyền…”(1)
Dĩ nhiên thật là lạc quan cho những ai được nghe những gì Thượng Nghị sĩ John McCain vừa nêu lên tại Hà Nội hôm 8-8-2014 về những ưu tiên mà chính phủ Mỹ dành cho VN trong tiến trình gia nhập TPP và trong việc kiện toàn và phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng đó mới chỉ là phát biểu của Thượng Nghị sĩ John McCain chưa được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và cũng chưa đem ra đàm phán với phía Việt Nam. Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay đã xoay chiều, hướng về Washington, điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẵn sàng quay nòng súng 180 độ để đánh trả Trung Quốc nhằm bảo vệ Biển Đông.
Cho nên vấn đề liên minh quân sự với Mỹ vẫn còn là một mục tiêu khó đạt tới đối với Việt Nam, nhất là khi họ đã quyết tâm bảo vệ “Chính sách Quốc phòng 3 không” của họ. Với chính sách này, Việt Nam đã thành công giải quyết trong hòa bình những xung đột trên Biển Đông. Cụ thể là việc Trung Quốc rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển đặc quyền kinh tế của VN sớm hơn 1 tháng trước thời hạn do Trung Quốc ấn định.
Do vậy thật khó lượng định quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay đang ở đâu.
Đào Như
18.08.2014
--------------------------------
Ghi chú:
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)

Ngăn chặn gì?

Hôm nay tôi đã hơi buồn khi đọc tiêu đề: Thủ tướng: Phải ngăn chặn việc hình thành các tổ chức phản động mà đã chạy trên nhiều tờ báo của Việt Nam. 
 
Tôi đọc thấy quá chán.

Trong những tháng từ đầu năm đã có những lúc Ngài Thủ tướng đã làm cho tôi cũng như nhiều người khác khá ấn tượng. Thậm chí nghĩ là Ông cũng có thể là người cải cách to lớn.

Rất tiếc, vào hôm nay chúng ta lại có lý do để lo lắng về những ý định của Ông. Tôi không loại trừ khả năng tôi đang nhầm. Nếu thế, thì xin lỗi Ông.

Song, trong một lúc lịch sử Việt Nam rất cần đoàn kết và cũng rất cần sự ửng hộ của quốc tế tôi nghĩ tuyên bố một cách có tính hăm dọa rất có thể không có ích lắm.

Vậy, xin đề nghị (một cách tình bạn) nên ngăn chặn việc ngăn chặn hình thành các tổ chức muốn Việt Nam có một tương lai hứa hẹn. OK, chẳng cần một người nước ngoài để khẳng định Việt Nam ‘phải làm gì.’ Song, khi Ngài TT tuyên bố ‘phải ngăn chặn phản động’ tôi rất lo về ý nghĩa của những gì ông đã nói về dân chủ.

Thay vì tuyên bố như thế, hãy có đủ dũng cảm và tầm nhìn để cho phép những người ôn hòa, yêu nước góp phần vào sự phát triển của đất nước theo lương tâm của họ. Được không? 
Jonathan London
(Blog Xin Lỗi ông)

ASEAN cứng giọng với Trung Quốc về Biển Đông: Thời cơ cho Việt Nam

Các ngoại trưởng Asean trước hội nghị với ngoại trưởng Trung Quốc tại Naypyitaw ngày 9/8/2014.
Các ngoại trưởng Asean trước hội nghị với ngoại trưởng Trung Quốc tại Naypyitaw ngày 9/8/2014.  -REUTERS/Soe Zeya Tun

Trọng Nghĩa  -RFI

Phải chăng các hành động khiêu khích ngày càng dữ tợn của Trung Quốc tại Biển Đông, đặc biệt là đối với Việt Nam với vụ giàn khoan HD-981, đã bắt đầu khiến cho khối ASEAN bớt dè dặt trong đối sách nhắm vào Bắc Kinh ?
Câu hỏi này đã được giới quan sát nêu lên sau khi Hội nghị Ngoại trưởng Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, họp lại tại Miến Điện ngày 08/08/2014, đã nhất trí thông qua một bản Thông cáo chung, trong đó vấn đề Biển Đông đã được nêu bật với nhiều chi tiết hơn bình thường cũng như với những từ ngữ khá cứng rắn.

Về lập trường chung của khối ASEAN trên vấn đề Biển Đông, đánh giá của giới quan sát dĩ nhiên không đồng nhất với nhau. Có ý kiến cho rằng phản ứng của khối nước Đông Nam Á trước các hành vi quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông tiếp tục yếu ớt. Lý do là nội bộ ASEAN vẫn chia rẽ, với nhiều nước vì lợi ích riêng tư nên tránh động chạm Bắc Kinh, trong lúc các quốc gia bị Trung Quốc trực tiếp chèn ép lại muốn ASEAN cứng rắn hơn, đặc biệt sau hành động thô bạo của Bắc Kinh với vụ giàn khoan HD-981.
ASEAN vẫn bị tê liệt hay đã tiến bước trên hồ sơ Biển Đông ?
Điển hình cho các đánh giá về thái độ e ngại Trung Quốc của ASEAN là bài phân tích của nhà báo kỳ cựu Bertil Lintner đăng trên chuyên san trên mạng YaleGlobal của trường Đại học Mỹ Yale ngày 12/08/2014, theo đó : « Sự tê liệt của ASEAN giúp cho Trung Quốc rảnh tay tại Biển Đông ». Giới phân tích đều ghi nhận là tại các hội nghị của ASEAN, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị của Mỹ yêu cầu « đóng băng » các hành vi khiêu khích tại Biển Đông, nhận chìm kế hoạch hành động ba điểm của Philippines, và khẳng định trở lại chủ quyền Trung Quốc trên hầu như toàn bộ Biển Đông.
Ngược lại với dòng ý kiến kể trên, cũng có nhiều đánh giá cho rằng lần này ASEAN đã có tiến bộ trên vấn đề Biển Đông. Bài phân tích của nhà báo Clint Richards trên báo mạng The Diplomat ngày 11/08/2014 chẳng hạn đã chạy tựa « Dù Bộ Quy tắc Ứng xử còn xa vời, nhưng ASEAN đã có bước tiến ». Một số tờ báo thì nhắc lại nguyên văn đánh giá của một số quan chức Mỹ cao cấp ngày 10/08/2014, theo đó Trung Quốc đã bị đẩy lùi nhân Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN.
Dẫu sao thì phải công nhận rằng tranh chấp Biển Đông quả là đã gây sóng gió ở các Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần này (08-10/08/2014) tại Miến Điện, với sự đối đầu Mỹ Trung. Bằng chứng thấy rõ là ngay cả sau khi các cuộc họp đã kết thúc, hôm 11/08/2014, Trung Quốc vẫn lên tiếng gay gắt tố cáo Mỹ là kẻ gây rối, buộc Washington tố ngược lại rằng chính Bắc Kinh mới là bên gây bất ổn bằng các hành động hung hăng nhắm vào các láng giềng.
Sóng gió cũng nổi lên ngay tại Hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN. Dấu hiệu nổi cộm nhất là bản Thông cáo chung chỉ được công bố hôm 10/08/2014, tức là hai ngày sau khi hội nghị Ngoại trưởng kết thúc. Trong khoảng thời gian đó, 10 nước được cho là vẫn tiếp tục “đàm phán” – tức là vẫn còn bất đồng – về các nội dung cần đưa vào bản Thông cáo.
Theo tiết lộ của hãng tin Nhật Kyodo trong bản tin ngày 10/08, chính theo đề nghị của Việt Nam mà bản Thông cáo chung của ASEAN đã nâng cấp độ của mối quan ngại chung của ASEAN về diễn biến gần đây tại Biển Đông, khi đưa từ “serious” – tức là “nghiêm trọng” hay “sâu sắc” vào văn kiện chung. Việc bản dự thảo bỏ qua từ này – cho dù đã có trong bản Tuyên bố riêng về Biển Đông ngày 10/05/2014 – cho thấy là trong các thành viên ASEAN, một số nước vẫn e ngại không muốn đụng chạm Trung Quốc.
Brunei, Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Thái Lan đều ‘sợ’ Trung Quốc ?
Một số nhà ngoại giao thạo tin cũng tiết lộ cho Kyodo biết là nước nào trong ASEAN có thái độ e ngại Trung Quốc. Lập trường đó đã được phản ánh qua cuộc tranh cãi về khả năng nhắc đến tranh chấp Nhật-Trung trên Biển Hoa Đông trong bản Thông cáo chung của ASEAN.
Dự thảo ban đầu của văn kiện này có đoạn nói về mối quan ngại của ASEAN đối với “những căng thẳng hiện nay ở Biển Hoa Đông”, bắt nguồn từ tranh chấp lãnh thổ gay gắt giữa Nhật Bản và Trung Quốc về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, và kêu gọi các quốc gia liên quan “kiềm chế hành động đơn phương làm gia tăng căng thẳng và thay đổi hiện trạng”.
Thế nhưng toàn bộ đoạn văn này đã bị xóa bỏ trong bản Thông cáo chung. Theo các nguồn tin trên, có năm nước là Brunei, Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Thái Lan đã yêu cầu xóa bỏ điều khoản này trong phiên bản cuối cùng của bản thông cáo, rõ ràng là vì đã cân nhắc hơn thiệt trong các mối quan hệ của họ với Trung Quốc.
Đối lập với nhóm quốc gia nói trên là Philippines, Singapore và Việt Nam, đã thúc giục ASEAN giữ lại đoạn văn, trong khi hai thành viên còn lại là Indonesia và Malaysia không có quan điểm về vấn đề này.
Dẫu sao thì cũng phải công nhận rằng, trên vấn đề Biển Đông, các Ngoại trưởng ASEAN đã có được sự đồng thuận tương đối, thể hiện rõ rệt trong bản Thông cáo chung. Nhận xét chung của nhà báo Clint Richards trên báo mạng The Diplomat ngày 11/08/2014 theo đó ASEAN đã có « bước tiến » cũng là ý kiến của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, thuộc Đại học Maine (Hoa Kỳ), một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông.
Trả lời phỏng vấn của RFI, Giáo sư Long cho rằng qua bản Thông cáo chung lần này các nước ASEAN đã nói rõ : « Nếu tiếp tục gây hấn trên Biển Đông, Trung Quốc không chỉ gây hấn với Việt Nam mà với toàn khu vực và thế giới », và nhân Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Miến Điện vừa qua, đề nghị ‘đóng băng’ các hành vi khiêu khích « không phải chỉ là của Mỹ, mà là của hầu hết các nước trong khu vực ».
Trong bối cảnh đó, Giáo sư Ngô Vĩnh Long thấy rằng Việt Nam nên thúc đẩy hơn nữa sự cộng tác với các nước ASEAN, Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ (như Nhật, Hàn Quốc và Úc) trong việc thực hiện triệt để bản Thông cáo chung vừa qua.
Dưới đây là bài phỏng vấn mà Giáo sư Long đã dành cho RFI:

Giáo sư Ngô Vĩnh Long- Hoa Kỳ
18/08/2014

Căn cứ vào bản Thông cáo chung, có thể nói là ASEAN đã “cứng rắn” hơn một chút trên vấn đề Biển Đông hay không ?
ASEAN có cứng rắn hơn trên vấn đề Biển Đông vì Thông cáo chung (công bố) ngày 10 tháng 8 này lần đầu tiên có 7 điều khoản tương đối chi tiết về Biển Đông. Điều khoản đầu về Biển Đông – điều 149 – của Thông cáo chung, khẳng định:
“Chúng tôi tiếp tục quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây làm gia tăng căng thẳng ở biển Đông và khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh biển cũng như tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông”.
Các nước ASEAN không những “quan ngại sâu sắc” mà, trong Điều khoản 151, còn chỉ trích những “hành động gây phức tạp tình hình và làm phương hại đến hòa bình, ổn định và an ninh ở biển Đông.”
Do đó, Điều khoản nầy yêu cầu “giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, bao gồm đối thoại thân thiện, tham vấn và thương lượng, phù hợp với các nguyên tắc được công nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS)”
Tuy không đề cập đến Trung Quốc, hai điều khoản vừa trích cho ta biết rõ là tất cả các nước ASEAN cho rằng những hành động của Trung Quốc đã làm phương hại đến hoà bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông cũng như không phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Có yếu tố gì mới hơn trong phần nói về Biển Đông so với các Thông cáo chung trước đây hay không ? Đặc biệt là so với bản thông cáo chung riêng rẽ về Biển Đông được công bố ít lâu sau sự cố HD-981 ?
Các bản thông cáo chung trước đây chỉ nói chung chung, và bản Thông cáo chung ngày 10 tháng 5, sau sự cố Hải Dương 981, chỉ nói đến “quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây” nhưng không có đề cập đến “những hành động làm phương hại đến hoà bình” như trong Điều khoản 151 của Thông cáo chung lần này.
Việc này cho biết là nếu Trung Quốc tiếp tục gây hấn trên Biển Đông thì Trung Quốc không chỉ gây hấn với Việt Nam mà với toàn khu vực và thế giới. Đây là điều mà tôi nghĩ là bản Thông cáo này nói rõ.
Thêm vào đó là Điều khoản 152 nêu đích danh Trung Quốc trong quan hệ với các nước thành viên ASEAN và nhấn mạnh rằng:
“Chúng tôi nhất trí tăng cường tham vấn với Trung Quốc về các biện pháp và cơ chế nhằm bảo đảm và tăng cường hơn nữa việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC một cách tổng thể, nhất là Điều 4 và Điều 5, cũng như đàm phán thực chất để sớm đạt được bộ Quy tắc ứng xử biển Đông (COC).”
Cụm từ “đàm phán thực chất” được lập lại trong Điều khoản 154 khi nói về hai hội nghị về DOC sẽ được tổ chức vào tháng 10.2014 tại Bangkok (Thái Lan).
Điều này cũng cho biết là Trung Quốc từ trước đến nay không chịu đàm phán thực chất, mà lại cố tình tránh né. Nay khối ASEAN và các nước tham dự Hội nghị vừa qua muốn Trung Quốc phải đàm phán đàng hoàng, không tránh né, và đàm phán thực chất, nếu không thì ASEAN phải thay đổi thái độ với Trung Quốc trong tương lai.
Theo Kyodo, chính Việt Nam đã gây sức ép buộc đưa từ ngữ “serious” vào bản Thông cáo chung của ASEAN. Phải chăng đó là một dấu hiệu cho thấy là Việt Nam kiên quyết hơn trong đối sách chống Trung Quốc về Biển Đông ?
Cụm từ “quan ngại sâu sắc” (seriously concerned) đã được nêu ra trong Thông cáo chung của các bộ trưởng ASEAN ngày 10 tháng 5 rồi. Nhưng vấn đề Việt Nam có cương quyết hơn trong đối sách với Trung Quốc về Biển Đông hay không thì còn phải tùy những hành động thiết thực của Việt Nam trong thời gian tới là gì ?
Ví dụ như Việt Nam có ủng hộ Philippines trong vấn đề kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò hay cùng kiện với Philippines không ? Nếu không thì Việt Nam có tự khởi kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò và về việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa để sau đó dùng các vị trí này đe doạ an ninh của Việt Nam nói riêng và của khu vực và thế giới nói chung hay không ?
Tôi nghĩ rằng một cụm từ ở một hội nghị không phản ánh được dấu hiệu là Việt Nam có kiên quyết hơn hay là không.
Mỹ hay Trung Quốc thắng tại Hội nghị ASEAN lần này trên vấn đề Biển Đông ? Mỹ thì tự nhận là mình thắng, còn một số quan sát viên thì cho rằng Trung Quốc đã đẩy lùi được đề nghị của Mỹ muốn đóng băng các hành động khiêu khích.
Vấn đề không phải là ai thắng ai thua tại bàn hội nghị mà là ai có những hành động gì để đem lại an ninh và hoà bình cho khu vực và thế giới.
Việc “đóng băng” các hành động khiêu khích thực chất chỉ là việc lập lại điều 5 của DOC, trong đó có nói: “Các nước thành viên của DOC phải tự kiềm chế những hành động gây phức tạp hay leo thang tranh chấp và làm phương hại đến hoà bình và ổn định, trong đó có việc tự kiềm chế những hoạt động nhằm tạo cư trú trên những đảo, những cồn cát, và những mõm đá, v.v., hiện nay không có người ở.”
Do đó, đề nghị “đóng băng” trong hội nghị vừa qua không phải chỉ là của Mỹ, mà là của hầu hết các nước trong khu vực.
Ví dụ như Ngoại trưởng Philippines có đưa ra sáng kiến “Kế hoạch hành động 3 điểm (TAP, Three Actions Proposal) nhằm kiểm soát và giảm căng thẳng ở Biển Đông, nhưng Ngoại trưởng Vương Nghị của Trung Quốc lập tức bác bỏ. Việc bác bỏ này chứng tỏ Trung Quốc thực sự không muốn theo lập trường của mình (đã ghi) trên bản Tuyên bố DOC.
Dù sao đi nữa thì Điều khoản 155 của Thông cáo chung cũng ghi nhận sáng kiến này của Philippines vì nó phù hợp với Điều 4 và Điều 5 của DOC cũng như luật pháp quốc tế.
Do đó, không hẳn Trung Quốc đã thắng tại bàn hội nghị. Thêm vào đó thái độ bất chấp và ngoan cố của Trung Quốc có thể càng ngày càng làm cho các nước ASEAN thấy cần phải dựa vào thế lực của Mỹ để bảo vệ an ninh chung.
Việc các quan chức Mỹ nào đó tự cho là Mỹ thắng thì tôi thấy có thể chính bản thân họ vốn là những luật sư hơn là những nhà ngoại giao… Bởi vì vấn đề của ngoại giao không phải là thắng thua ở bàn hội nghị, không phải chỉ nói suông, mà cần được củng cố bằng những hành động thiết thực, nhất là bằng sức mạnh quân sự.
Thành ra, trong khi Việt Nam còn yếu trong lãnh vực này, thì Mỹ chẳng hạn đã tăng cường quan hệ quân sự với Việt Nam. Vừa qua, Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ mới vừa đi thăm Việt Nam, và theo dự kiến, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng sẽ đi thăm Việt Nam vào cuối năm nay.
Vấn đề ở đây là Mỹ sẽ củng cố quan hệ với Việt Nam và các nước trong khu vực. Theo tôi, đây là một vấn đề rất cần thiết, cho nên mới vừa ra khỏi bàn hội nghị mà nói là thắng hay là thua, thì đó đúng là kiểu nói của luật sư, hơn là của các nhà làm ngoại giao.
Sắp tới đây Việt Nam có thể làm gì ?
Bản Thông cáo chung của ASEAN vẫn còn chung chung, mặc dù đã dưa ra nhiều điều khoản chi tiết hơn các bản Thông cáo trước đây. Theo tôi thì sắp tới đây, Việt Nam nên thúc đẩy hơn nữa sự cộng tác với các nước ASEAN, đặc biệt là với Mỹ và các đồng minh của Mỹ (như Nhật, Hàn Quốc và Úc) trong việc triển khai và thực hiện triệt để bản Thông cáo chung vừa qua. Công việc triển khai và thực hiện bản thông cáo này rất quan trọng.
Theo tôi, việc “khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh biển cũng như tự do hàng hải và hàng không ở biển Đông” trong Điều khoản 149 của Thông cáo chung, cũng như trong tuyên bố của tướng Martin Dempsey tại Việt Nam, cho thấy đó là chiều hướng chung của khu vực và của Mỹ. Cho nên việc chỉ chú trọng đến tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là không đúng hướng.
Nội dung Điều khoản 149 cũng là chính sách của Mỹ từ trước đến nay, do đó, Mỹ có thể giúp điều phối các hoạt động của các nước trong khu vực trong việc trấn an và đối phó với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tiếp tục thách thức và không chịu dàn xếp ổn thoả qua thương lượng thì Việt Nam nên khởi kiện Trung Quốc và vận động các nước đề cập trên, cũng như cộng đồng thế giới, ủng hộ Việt Nam trong việc làm thiết thực này.
Nói ngắn gọn, bản Thông cáo chung là một bước đầu tích cực, nhưng bước đầu này cần phải được triển khai và thực hiện triệt để, và vai trò của Việt Nam trong việc này rất quan trọng. Nếu Việt Nam không lên tiếng mạnh, thì khó cho các nước khác trong khu vực, cũng như khó cho Mỹ, một nước rất xa, để vận động quần chúng của họ, để có thể ủng hộ Việt Nam và các nước khác trong khu vực.

Trung Quốc đang làm giới đầu tư ngoại quốc hãi sợ ?

Một góc khu trung tâm tài chính tại Thượng Hải (Ảnh chụp ngày 11/8/2014).
Một góc khu trung tâm tài chính tại Thượng Hải (Ảnh chụp ngày 11/8/2014).  -REUTERS/Carlos Barria

Trọng Nghĩa  -RFI

Phải chăng Trung Quốc bắt đầu phải chịu tác hại từ chính sách « bài ngoại » trong địa hạt kinh tế được thấy trong thời gian gần đây, sau khi một loạt các tập đoàn ngoại quốc bị chính quyền Bắc Kinh điều tra ? Câu hỏi này đã nổi cộm lên vào hôm nay, 18/08/2014, khi số liệu thống kê chính thức xác nhận là đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc tuột giảm đáng kể trong tháng 7.
Bộ Thương mại Trung Quốc phải cải chính ngay rằng sự sụt giảm đó không phải là hệ quả của các vụ điều tra nhắm vào các công ty nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc.
Theo số liệu được chính Bộ Thương mại Trung Quốc công bố, trong tháng Bảy vừa qua, đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc đã tuột giảm đáng kể trong tháng 7, xuống mức thấp nhất từ hai năm nay. Tính trên một năm, thì mức đầu tư trực tiếp, ngoại trừ khu vực tài chánh, đã giảm 16,95%, đạt 7,81 tỷ đô la. Đây là lượng đầu tư trực tiếp thấp nhất kể từ tháng 7/2012 đến nay.

Lượng đầu tư trực tiếp trong tháng 07/2014 cũng tuột giảm mạnh so với tháng 6/2014, vốn đạt được 14,42 tỷ đô la. Tính ra trong 7 tháng đầu 2014, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đạt tổng cộng là 71, 14 tỷ đô la, và cũng bị giảm 0, 35% so với cùng kỳ năm 2013.
Tính ra, trong 7 tháng đầu năm 2014 này, đầu tư Nhật giảm đến 45,4%, trong bối cảnh căng thẳng Bắc Kinh Tokyo trên hồ sơ tranh chấp chủ quyền biển đảo. Đầu tư của Mỹ cũng giảm 17,4%, và đầu tư Châu Âu cũng giảm 17,5%.
Giải thích về sự giảm sụt này, phát ngôn viên bộ Thương Mại Trung Quốc cho đấy là « những chuyển biến bình thường, vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực cân bằng lại tăng trưởng của mình », đặc biệt là đánh vào các lãnh vực bị đánh giá là hoạt động kém hiệu quả.
« Không liên quan gì đến các cuộc điều tra chống độc quyền »
Như để chặn trước những chỉ trích, phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc đã xác định ngay rằng việc đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc sụt giảm « không phải là xu hướng chung », và cũng không liên hệ gì đến các cuộc điều tra chống độc quyền nhắm vào một số công ty có vốn nước ngoài ». Đối với phát ngôn viên này, mọi người « không nên có những diễn giải không cơ sở ».
Dẫu sao thì chính quyền Trung Quốc không thể cấm cản giới quan sát gắn liền việc đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc sút giảm mạnh với các cuộc điều tra ngày càng nhiều nhắm vào các doanh nghiệp ngoại quốc đang hoạt động tại Trung Quốc.
Theo AFP, sau khi mở những cuộc điều tra vào năm ngoái nhắm vào các tập đoàn ngoại quốc trong lãnh vực dược phẩm và lương thực-thực phẩm, chính quyền Trung Quốc trong hai tháng gần đây chuyển mũi dùi qua các tập đoàn điện tử và chế tạo xe hơi. Các tập đoàn xe hơi như Audi, BMW của Đức, hay Chrysler của Mỹ đã bị tố là đã có những ‘hành vi độc quyền’.
Mới hôm nay thôi, đến lượt thương hiệu nổi tiếng Mercedes-Benz của nhà sản xuất Đức Daimler bị chính quyền tỉnh Giang Tô buộc tội lũng đoạn và nâng đáng kể giá bán các loại phụ tùng thay thế, cũng như giá bảo trì và sửa chữa. Tân Hoa Xã đã nêu lên một ví dụ điển hình : Giá bán riêng của tất cả các bộ phận tạo thành một chiếc Mercedes-Benz Class C, cao hơn gấp 12 lần so với giá một chiếc xe mới đã lắp ráp hoàn chỉnh!
Theo giới quan sát, có thể có một nguyên nhân khác làm cho các nhà đầu tư vào Trung Quốc nhụt chí : Đó là hoạt động kinh tế chậm hẳn lại của nền kinh tế thứ nhì của hành tinh. Tuy nhiên, Bộ Thương mại Trung Quốc vẫn lạc quan, dự báo rằng mức đầu tư trực tiếp năm 2014 này sẽ vẫn giữ tỷ lệ tăng như năm 2013, vì « các công ty nước ngoài sẽ không sợ các cuộc điều tra đang tiến hành ».
 

Ông Chấn yêu cầu bồi thường: Điều gì sẽ đến?

Hơn 120 ngày từ lúc nộp đơn, thậm chí là vài trăm ngày từ khi ông Chấn được minh oan, cuộc gặp mặt chừng 2 giờ này mới được tổ chức.

Án oan cũng dăm bảy đường

Án oan không phải là ngoại lệ đối với bất kì nền tư pháp nào. Ngay cả nước Mỹ, quốc gia được coi có nền pháp luật khá hệ thống, chặt chẽ, chịu giám sát của nhiều cơ quan, phân cấp rõ ràng, chi tiết cũng vẫn không tránh khỏi. Bằng chứng là đã có hàng ngàn trường hợp bị tòa tuyên án sai và không ít trong số họ chỉ được minh oan sau hàng thập kỉ ở quốc gia này.

Dẫu vậy, có hơn một nẻo đường dẫn đến tình trạng kết án oan sai và vì thế, bản chất của mỗi kì án cũng muôn hình vạn dạng.

Có trường hợp là so sai sót kĩ thuật trong quá trình điều tra, tố tụng, tức là nằm ngoài chủ ý của con người, do năng lực, do nhận thức hay thậm chí là do cả khoa học công nghệ. Nhân vô thập toàn, cảnh sát, kĩ thuật viên, cán bộ tòa án cũng đều là con người cả. Sự sai sót trong trường hợp này có khía cạnh để có thể cảm thông.

Nhưng cũng có không ít trường hợp oan sai bị cố tình tạo ra bởi một hay vài cá nhân nhằm gán tội cho ai đó. Sự cố tình này thường nhằm mục đích cụ thể, tinh thần có (thành tích, thăng quan tiến chức, cứu tội cho người khác...), vật chất có (rõ như ban ngày: tiền, vàng, nhà, xe, gái đẹp...). Dù với mục đích nào, những kẻ này cũng đáng bị lên án, nghiêm trị và chẳng có lí do nào để trông đợi sự đồng cảm, xót thương từ công luận.

Dù ít gặp, nhưng cũng đã có trường hợp án oan lại xuất phát từ lỗ hổng pháp luật. Đó có thể là tính mập mờ, không rõ ràng khiến người ta có thể hiểu theo nhiều cách dẫn đến những hành xử khác nhau. Dạng này phổ biến nhất trong lĩnh vực kinh tế.
Nguyễn Thanh Chấn, án oan, bồi thường, minh oan, tòa án, phúc thẩm,
Ông Nguyễn Thanh Chấn (thứ 2 từ trái qua) cùng người nhà và luật sư vừa làm việc xong với toà án. Ảnh: Nguyễn Quyết/ NLĐ
Pháp luật vị nhân sinh

Một nền pháp lý tiên tiến cần luôn hướng tới phục vụ, bảo vệ quyền và nghĩa vụ cho mọi công dân. Sự công bằng, tính dân chủ, minh bạch, tinh thần thượng tôn pháp luật cần được đảm bảo cho hết thảy thành viên, bất kể những khác biệt về văn hóa, tôn giáo, giới tính, chính trị hay điều kiện kinh tế, v.v...

Các quy định của pháp luật, vì thế, xét về bản chất không phải là trói buộc, đàn áp mà là để bảo vệ con người, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ những điều tốt đẹp chung của một cộng đồng, hướng các thành viên đến những giá trị Chân - Thiện - Mĩ. Vì lẽ đó, các chế tài xử phạt chỉ nên được coi như là liệu pháp cuối cùng, sau khi tất cả các biện pháp thuyết phục, giáo dục, nhắc nhở, cảnh báo, v.v... không đem lại hiệu quả.

Pháp luật cũng đồng thời là công cụ để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ cái tốt khỏi cái xấu, bảo vệ người yếu khỏi sự xâm phạm của kẻ mạnh, phân định ranh giới giữa đúng và sai. Chính vì thế, một xã hội tiên tiến luôn cần đồng nghĩa với nền pháp lí vị nhân sinh, luôn cần hướng đến những nhóm yếu thế, thiểu số, thiệt thòi.

Ông Chấn và chuyện lí với tình

Những ngày gần đây, báo chí nói nhiều về việc ông Nguyễn Thanh Chấn yêu cầu bồi thường tài chính cho 10 năm ngồi tù oan. Về mặt pháp lí, việc đưa ra yêu cầu là quyền của ông được pháp luật bảo hộ. Về mặt đạo lí, hành động này thuận lòng công chúng bởi nó thể hiện nhân tính của con người, biết hướng thiện, phục thiện, đấu tranh cho cái thiện. Bởi lẽ, một xã hội sẽ có vấn đề khi không có người dám lên tiếng ca ngợi cái tốt, đòi hỏi lẽ phải được thực thi.

Vậy nhưng, sau gần 4 tháng gửi đơn đề nghị bồi thường, sáng 15/8, TAND phúc thẩm Hà Nội mới có buổi làm việc với ông Nguyễn Thanh Chấn. Khi đọc tin này trên nhiều tờ báo, tôi lặng người. Là bởi phải hơn 120 ngày từ lúc nộp đơn, thậm chí là vài trăm ngày tính từ khi ông được chính thức minh oan, cuộc gặp mặt chừng 2 giờ này mới được tổ chức.

120 ngày hay vài trăm ngày chả là gì so với gần 4.000 ngày ông vò võ ôm nỗi hàm oan trong tù. Nhưng tôi vẫn ước giá như các cơ quan công quyền chủ động hơn, linh hoạt hơn trong việc giúp đỡ, tổ chức thực hiện việc đền bù cho ông và gia đình. Tiền không lấy lại được tất cả, nhưng ít nhất cũng thể hiện tâm thế sửa sai của cơ quan công quyền, xoa dịu phần nào nỗi mất mát vô bờ bến của cả một gia đình.

Tôi ước giá như không cần đợi đến lúc ông làm đơn yêu cầu bồi thường, các cơ quan thực thi pháp luật đã chủ động nghiên cứu, xây dựng phương án, tiên liệu các tình huống, dự trù nguồn lực để sẵn sàng triển khai một cách nhanh nhất có thể. Để rồi không phải cần đến 120 ngày mới có thể tổ chức được buổi gặp mặt. Để rồi trong cuộc gặp ấy chỉ để giải thích cho ông Chấn quy định về bồi thường oan sai, thủ tục và những khoản yêu cầu được pháp luật cho phép. Để rồi khép lại với bao yêu cầu bổ sung chứng cứ, mà nhiều trong đó như vợ ông thừa nhận chẳng dễ gì tìm lại được (vé xe, vé tàu, chứng từ thanh toán...).

Tôi ước giá như có sự linh hoạt nào đó hỗ trợ ngay lập tức về tài chính cho ông và gia đình, để ông ổn định sức khỏe, cùng gia đình phục hồi sản xuất. Báo chí đã nói về khoản nợ mà gia đình ông phải gánh kể từ ngày ông vướng vào lao lí một cách oan nghiệt. Nếu đây là sự thực, tôi tự hỏi mình khoản vay này có phải trả lãi không? Tôi tự hỏi mình liệu có hợp lí vẹn tình không nếu chúng ta tạm ứng một số tiền nhất định từ quỹ nào đó, thay vì cứng nhắc chờ đợi các thủ tục pháp lí?

Tôi xin không lạm bàn về các quy định chi tiết của pháp luật, bởi đó là việc của người trong nghề. Chỉ có điều tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu trong vài tháng tới, gia đình ông Chấn không thể thu thập chứng cứ, bảo vệ được tính hợp pháp cho các yêu cầu của mình? Điều này có khả năng lắm. Rồi đây cơ quan công quyền, luật sư của ông có thể sẽ lại cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ. Rồi sẽ lại cần có thêm nhiều cuộc họp?

Nỗi hàm oan của ông đã được rửa, lời xin lỗi từ cơ quan công quyền đã được đưa ra. Nhưng mong sao rồi đây, những hành động cụ thể sẽ được tiến hành theo cách nhanh nhất, trọn vẹn nhất, bởi thiếu chúng, những lời xin lỗi kia dường như chưa chạm đến trái tim của cả lý lẫn tình.
Nguyễn Công Thảo
( Tuần Việt Nam )

Nguyễn Hưng Quốc - Đế quốc Trung Quốc

Để chống lại âm mưu bành trướng trên Biển Đông của Trung Quốc, chỉ cần chút tỉnh táo, hầu như ai cũng nhận thấy Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất: liên minh với nhiều nước khác, trong đó có Mỹ, hơn nữa, Mỹ phải là trung tâm của khối liên minh ấy. Nhưng, cũng chỉ cần chút tỉnh táo, chúng ta không thể không phân vân: Liệu, một, Mỹ có nhiệt tình giúp Việt Nam hay không; hai, nếu nhiệt tình, liệu Mỹ có thể thắng được Trung Quốc hay không?
Việc Mỹ có nhiệt tình giúp Việt Nam hay không tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, điều cần xác định ngay là: Mỹ không bắt buộc phải giúp Việt Nam trong trận chiến chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Thành thực mà nói, việc Trung Quốc công bố con đường chín khúc (hoặc con đường lưỡi bò) bao trùm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa và một phần khá lớn lãnh hải Việt Nam chỉ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam và một số quốc gia như Malaysia, Philippines và Brunei chứ không ảnh hưởng gì đến Mỹ. Nhớ, ngày 23 tháng 11 năm 2013, Trung Quốc tuyên bố lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên bầu trời biển Hoa Đông, bao trùm khu vực quần đảo Điếu Ngư/Senkaku mà họ và Nhật Bản đang tranh chấp. Nội dung của tuyên bố này là tất cả các máy bay bay ngang qua khu vực ấy đều phải thông báo và chấp hành mệnh lệnh của Trung Quốc. Ngay sau lời tuyên bố của Trung Quốc, Mỹ cho hai chiếc phản lực cơ chiến đấu bay vào khu vực được gọi là vùng nhận dạng phòng không ấy. Trung Quốc im thin thít. Rồi cả Nhật lẫn Hàn Quốc đều cho máy bay chiến đấu đến vùng đó để tập trận. Mấy tháng sau, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lìm. Dường như họ thấy họ đi quá xa. Một cảnh huống tương tự cũng có thể xảy ra ở Biển Đông: Trung Quốc tuyên bố gì thì tùy họ, nhưng tàu bè của các nước lớn, trong đó, có Mỹ, cứ thản nhiên qua lại.
Dù sao, đó cũng là biện pháp cuối cùng. Cách tốt nhất vẫn là ngăn chận ngay từ đầu để Trung Quốc không hợp pháp hóa con đường lưỡi bò ngang ngược ấy. Trong trường hợp này, họ cần đến sự đóng góp của Việt Nam. Dĩ nhiên, với một điều kiện: Việt Nam phải thực sự muốn và có quyết tâm bảo vệ biển và đảo của mình.
Vấn đề thứ hai phức tạp hơn: Liệu Mỹ có thể thắng được Trung Quốc trên Biển Đông?
Để trả lời câu hỏi ấy, không nên quên sức mạnh của Trung Quốc: Về phương diện kinh tế, Trung Quốc có tổng sản phẩm trong nước (GDP) lớn thứ nhì trên thế giới; và theo dự kiến của nhiều nhà kinh tế học, trong vòng một hai thập niên tới, Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ về phương diện này. Về quân sự, Trung Quốc là nước chi tiêu cho quốc phòng lớn hàng thứ hai, chỉ sau Mỹ. Về dân số, cứ một trong bảy người trên mặt đất là người…Tàu.
Hugh White, một chuyên gia về Trung Quốc tại Úc, cho chưa bao giờ Mỹ đối đầu với một địch thủ đáng gờm như Trung Quốc. Trong lịch sử, tính từ thập niên 1880 đến thời gian gần đây, Mỹ có bốn đối thủ chính: Chủ nghĩa dân tộc ở Đức trong Đệ nhất thế chiến, chủ nghĩa phát xít Đức trong Đệ nhị thế chiến, chủ nghĩa Cộng sản trong thời Chiến tranh lạnh, và các nhóm Hồi giáo cực đoan trong trận chiến chống khủng bố hiện nay. Trong bốn đối thủ ấy, chỉ có Liên Xô là ít nhiều có thể uy hiếp Mỹ, nhưng chỉ có thể uy hiếp về quân sự; còn về kinh tế và nhiều phương diện khác, Liên Xô đều thua xa Mỹ. Trường hợp của Trung Quốc thì khác: Kinh tế của Trung Quốc lớn hơn hẳn kinh tế của Đức và Nhật thời Chiến tranh thế giới lần thứ hai; việc quản lý kinh tế của họ cũng giỏi hơn hẳn Liên Xô thời chưa sụp đổ.
Điểm yếu lớn nhất của Trung Quốc là họ không có đồng minh. Thời Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức dù sao cũng có đồng minh (Nhật và Ý); thời Chiến tranh lạnh, Liên Xô càng có nhiều đồng minh, còn Trung Quốc hiện nay thì hầu như không có ai cả, hoặc nếu có, chỉ có một nước duy nhất: Bắc Hàn. Về phương diện này, Mỹ có ưu thế hơn hẳn. Trước, trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, Mỹ có bốn đồng minh thân cận nhất: Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Philippines và Úc. Gần đây, trước âm mưu bành trướng của Trung Quốc, khả năng Ấn Độ ngả sang Mỹ là điều rất khả thi (dù giới bình luận còn phân vân vì, một, Ấn Độ có truyền thống trung lập; và hai, họ bị phân hóa rất trầm trọng về cả phương diện sắc tộc lẫn văn hóa và chính trị).
Trung Quốc có thể khắc phục tình trạng cô đơn của họ bằng hai cách: Một, nâng cấp quyền lực mềm bằng các chính sách ngoại giao văn hóa có hiệu quả (một trong các cách ấy là mở rộng các Viện Khổng Tử ở khắp nơi); và hai, vô hiệu hóa các quốc gia có khả năng chống lại họ. Khả năng thứ nhất, về quyền lực mềm, có lẽ còn lâu lắm, may ra, Trung Quốc mới có thể thành công. Một trong những điều kiện để phát huy quyền lực mềm là dân chủ, nhưng đó lại là điều Trung Quốc không có. Khả năng thứ hai gần hiện thực hơn: mua chuộc và dùng kinh tế để gây sức ép lên các quốc gia khác, đặc biệt trong khu vực châu Á để họ đừng công khai chống lại Trung Quốc. Chính sách này rõ ràng là có hiệu quả ít nhất đối với khối ASEAN: hầu như không nước nào dám công khai chống lại, thậm chí, phê phán Trung Quốc (trừ Philippines).
Tương quan lực lượng giữa Mỹ và Trung Quốc, do đó, tuy vẫn nghiêng về phía Mỹ, nhưng Mỹ lại không có sức mạnh áp đảo để có thể tự tin chấp nhận bất cứ một sự đối đầu nào. Một số nhà bình luận chính trị cũng cho một sự đối đầu như thế vừa nguy hiểm vừa khó thắng. Một giải pháp được đề nghị: Mỹ chấp nhận vai trò của Trung Quốc với tư cách một siêu cường và đồng ý san sẻ quyền lực của Trung Quốc, ít nhất, trong khu vực Á châu, đặc biệt ở Đông Á. Một sự thỏa thuận như vậy, nếu được thực hiện, có khi kẻ bị hy sinh đầu tiên là Việt Nam. Chắc chắn Mỹ không thể bỏ Nhật, Nam Triều Tiên và Úc - là những nước đồng minh lâu đời của Mỹ: Mỹ vẫn cần những nước ấy để kiềm chế Trung Quốc.
Nêu lên khả năng trên không phải để chúng ta tuyệt vọng. Nhưng đó là một cách nhắc nhở: Việt Nam không nên ỷ y là Mỹ cần mình. Không, để có được một liên minh cần thiết với Mỹ và các nước khác, Việt Nam cần phải cố gắng hết sức. Trong chính trị thế giới thời hiện đại, nếu chúng ta không có nhiệt tình, không ai tự dưng xông vào cứu mình cả.

Nguyễn Hưng Quốc
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA) 

Đại học Việt Nam: Mơ đẳng cấp quốc tế nhưng hành động ‘khác người’?

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/192874/mo-dang-cap-quoc-te-nhung-hanh-dong–khac-nguoi–.html
Nguyễn Văn Tuấn
- Chính sách chung của Chính phủ thì khá rõ ràng, nhưng khi xuống đến đại học thì mỗi nơi lại hiểu và làm mỗi khác, có lẽ tuỳ thuộc vào cá nhân lãnh đạo.
Rơi rớt tư duy bao cấp
Có các trường đại học đẳng cấp quốc tế, nằm trong bảng xếp hạng Top 500, 200 khu vực và thế giới là mong muốn, mục tiêu của Chính phủ, cũng như là đích phấn đấu của nhiều lãnh đạo các đại học VN. Thế nhưng, trong thực tế đây đó vẫn còn những tư duy lỗi thời về nghiên cứu khoa học (NCKH), và có thể nói là làm cản trở sự hội nhập của đại học VN.

NCKH là hoạt động không thể thiếu của một đại học nếu muốn vươn đến đẳng cấp thế giới. Một thành quả quan trọng của NCKH là công bố quốc tế, có thể là tại các hội nghị khoa học uy tín hoặc trên các tập san khoa học có bình duyệt. Do đó, trường đại học tại các nước tiên tiến thường có chính sách khuyến khích nghiên cứu sinh, giảng viên, nhà khoa học nâng cao sự hiện diện trong các hội nghị và trên các tập san qua các bài giảng và bài báo khoa học.
Thế nhưng ở VN, vẫn còn những đại học mà lãnh đạo chưa khuyến khích hoạt động này. Chẳng hạn, đối với nhà khoa học, việc tham dự và trình bày kết quả trong các hội nghị quốc tế hàng năm là rất quan trọng. Vậy mà có đại học lại ra qui định giảng viên không được đi dự hội nghị nước ngoài quá 2 lần/ năm, không có ngoại lệ!
Thoạt nghe, qui định này cũng có lí, nhằm ngăn ngừa những người lợi dụng hội nghị để… đi chơi. Nhưng đi dự hội nghị khoa học cũng có vài tư cách khác nhau: người tham dự, không có trình bày báo cáo; người đi dự có báo cáo; và quan trọng hơn cả là người được mời đến giảng.
Người được mời giảng được xem là một người có đóng góp quan trọng, nên ban tổ chức thường lo tiền vé máy bay cũng như ăn ở. Sự có mặt của họ trong các hội nghị, trên bục giảng là vinh dự cho trường đại học họ đại diện, là một cách quảng bá tuyệt vời cho tên tuổi trường. Tuy nhiên, với qui định hạn chế số lần đi dự hội nghị nước ngoài, vinh dự này cũng có thể “tan thành mây khói”.
Nguyễn Văn Tuấn, Đại học, đẳng cấp quốc tế, nghiên cứu, khoa học, xếp hạng, Việt Nam
Trong bảng xếp hạng các trường đại học tại châu Á năm 2014 của tổ chức tư vấn giáo dục Quacquarelli Symonds (QS), Đại học Quốc gia Singapore (NUS) xếp thứ nhất. Ảnh: NUS

Ở các đại học phương Tây, có những giáo sư uy tín đi nước ngoài giảng thường xuyên như… “đi chợ”. Trường không cần chi trả cho họ đồng nào mà còn được lợi về danh tiếng. Cứ mỗi cuối năm, trường đại học thường hay “khoe” trong báo cáo về số giảng viên và nhà khoa học của trường được mời đi báo cáo ở nước ngoài.
Còn nếu nói cần ngăn ngừa các trường hợp “đi chơi” thì cũng có nhiều cách khác. Chẳng hạn, ở Viện Garvan của tôi, người ta không hạn chế số lần đi dự hội nghị, miễn là phải có báo cáo được chấp nhận cho trình bày, và phải báo cáo thời gian dự hội nghị, thời gian giải trí để họ trả lương thích hợp.
Nói về mời giảng, tôi liên tưởng đến câu chuyện vị lãnh đạo của một đại học VN phàn nàn tại sao ban tổ chức hội nghị lại gửi giấy mời trực tiếp cho giáo sư của trường. Theo ông, họ phải gửi cho hiệu trưởng, và ban giám hiệu sẽ phân công người đi dự hay đi giảng bài! Có lẽ đây là một tư duy độc đoán còn sót lại thời bao cấp, cái gì cũng phải qua lãnh đạo và nó cho thấy ông ấy không am hiểu “luật chơi” của khoa học quốc tế.
Chuyện nhỏ mà không nhỏ
Một vấn đề khác là công bố nghiên cứu trên các tập san quốc tế có khi phải trả tiền ấn phí, thường khoảng 400 – 1000 USD. Nhiều trường đại học ở VN ý thức được tầm quan trọng của hoạt động này, nên rất khuyến khích giảng viên, nhà khoa học và sẵn sàng trả tiền ấn phí.
Tuy nhiên, vẫn có những đại học lớn, thậm chí tầm quốc gia chẳng những chưa xem trọng công bố quốc tế, mà nếu giảng viên có công bố thì cũng không trả tiền ấn phí. Lãnh đạo các đại học này suy nghĩ rằng, việc công bố là đem lại lợi ích cho cá nhân của giảng viên, chẳng liên quan gì đến trường!
Theo tôi, đó là một tư duy thiển cận. Công bố quốc tế là một cách đóng góp để nâng cao sự hiện diện của khoa học VN trên trường quốc tế. Ở nước ngoài, khi giảng viên có bài trên các tập san uy tín, người ta tổ chức ăn mừng và thưởng cá nhân tác giả đến hàng nghìn USD. Ngay như tại TQ, các đại học cũng có ngân sách khuyến khích công bố quốc tế bằng cách thưởng tiền tuỳ theo hệ số ảnh hưởng của tạp chí.
Một điểm nữa, ở các đại học phương Tây, người ta khuyến khích (có nhiều nơi qui định) nghiên cứu sinh công bố bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước khi bảo vệ luận án; hoặc nếu không kịp thì cũng công bố trong các hội nghị chuyên ngành có uy tín. Nhưng ở VN, có đại học lại ra qui định nghiên cứu sinh không được công bố bài báo khoa học trước khi bảo vệ luận án! Đây là một qui định “ngược”, ngay cả đối với phần lớn các đại học VN.
Còn nhiều qui định và những “câu chuyện nho nhỏ” như thế trong thực tế. Bề ngoài, chúng có vẻ rất nhỏ nhặt, nhưng thực tế đó là sản phẩm của những tư duy lỗi thời, bao cấp, độc quyền và làm cản trở sự hội nhập của đại học VN trên trường quốc tế.
Quan điểm và chính sách chung của Chính phủ thì khá rõ ràng, nhưng khi xuống đến đại học thì mỗi nơi lại hiểu và làm mỗi khác, có lẽ tuỳ thuộc vào cá nhân lãnh đạo. Nếu lãnh đạo là nhà khoa học từng làm nghiên cứu, từng biết cái gian nan của công bố quốc tế cũng như ý nghĩa của nó, thì hẳn rất thấm chủ trương của Chính phủ và tạo điều kiện cho giảng viên công bố quốc tế. Nhưng nếu lãnh đạo đại học chưa quen với qui trình đó thì cách hiểu về “đẳng cấp quốc tế” có thể chưa thấu đáo và dẫn đến những qui định khó hiểu.
Có lẽ đã đến lúc phải “thống nhất tư tưởng” về NCKH và tầm quan trọng của nó trong việc nâng cao uy danh của đại học và danh dự VN. Trong bảng xếp hạng đại học của nhóm QS, nghiên cứu khoa học chiếm 60% điểm xếp hạng. Sự thật đơn giản này cho thấy nếu đại học VN muốn có tên trong bảng xếp hạng “Top 500” hay “Top 200” thì phải nâng cao NCKH và chất lượng công bố quốc tế. Ngay cả những đại học chưa có mộng có tên trong QS (hay bất cứ bảng xếp hạng nào) vẫn phải xem công bố quốc tế là quan trọng, vì nghĩa vụ đóng góp vào khoa học VN.
NCKH bắt đầu từ con người, cụ thể là giảng viên và nhà khoa học. Do đó cần phải khuyến khích (bằng tiền thưởng hay các hình thức sự nghiệp khác) và ghi nhận xứng đáng các nhà khoa học có công trình công bố quốc tế.
Nguyễn Văn Tuấn

Về bài báo bị phạt trên Trí Thức Trẻ

miền Tây Nam Bộ gồm hơn 10 tỉnh với hàng chục triệu dân
Cuối tuần qua, câu chuyện về trang Trí Thức Trẻ bị đình bản vì bài “Gái miền tây và 3 chữ N” vẫn tiếp tục được tranh luận trên nhiều trang mạng tiếng Việt.
Theo gợi ý của một số bạn bè trên Facebook, tôi viết bài này để chia sẻ cách nhìn từ Anh Quốc, về chuyện tự do báo chí và cũng về cách ‘xử lý’ của nhà chức trách khi có chuyện tương tự.

Đầu tiên là về chính ngôn từ trong bài viết khiến Trí Thức Trẻ bị đình bản và phạt tiền.

Theo tôi, đấy chưa đủ tiêu chuẩn là một bài báo, cùng lắm là dạng ý kiến riêng, may lắm thì được đăng ở một trang blog cá nhân hoặc chia sẻ với bạn bè.

Có lẽ cũng vì ở Việt Nam còn thiếu một định nghĩa, một tiêu chuẩn thế nào là ‘bài báo’, nên Trí Thức Trẻ đã đăng nó và gặp ‘vận hạn’ như các bạn đã biết.

Nếu là bài báo dạng tin tức (news story), người viết phải nêu ra một thông tin gì đó mới mẻ, về một sự kiện, nhân vật nhất định.

Nếu là bài phân tích (analysis), bình luận (commentary) thì cũng phải có căn cứ khoa học hoặc qua phỏng vấn, trích dẫn chuyên gia, nhà quan sát.

Cứ cho là về mặt thể loại, bài "Gái miền Tây" tạm có đủ tiêu chuẩn là ý kiến (opinion piece) thì nó cũng hoàn toàn thiên lệch vì dựa trên ‘câu chuyện’ về một hai cô gái không tên nào đó.

Về mặt đối tượng thì gộp cả triệu cô gái ở trên 10 tỉnh miền Tây Nam Bộ của Việt Nam vào một hai ví dụ để khen chê linh tinh không phải là ‘làm báo’ mà là kỳ thị vùng miền.

Văn phong và cách viết
Nhưng điều đáng lo ngại là ở Việt Nam cho đến mấy ngày hôm qua, số người phê phán bài viết về cách khinh thường trí tuệ các cô gái miền Tây thì nhiều (chữ N thứ ba), mà ít người thấy cả hai chữ N kia cũng đầy vấn đề.

Vì xét theo quan điểm văn minh, hiện đại, chuyện một thanh niên nam dùng các từ như ‘ngon’ để gọi phụ nữ là sai trái.

Đấy là ngôn ngữ của vỉa hè, mang tính phân biệt nam nữ và ‘sexist’, tức là coi phụ nữ là đối tượng của bình phẩm mang màu sắc tình dục rõ rệt.

Ở một công ty phương Tây chẳng hạn, nếu gọi đồng nghiệp nữ theo kiểu đó chắc nam giới sẽ bị kiện vì tội ‘sexual harassment’ bằng lời lẽ.

Hơn nữa, gọi trẻ em 'ngoan' thì tạm được nhưng gọi phụ nữ là ‘ngoan’ cũng có hàm ý người nói kẻ cả, bề trên, đặc đầu óc phong kiến, không coi nữ bình đẳng với nam.

Vì thế, nhiều bạn, kể cả các bạn nữ, đã hoàn toàn sai lầm khi cho rằng bài viết ‘khen’ các cô gái miền Tây Nam Bộ là ‘ngoan và ngon’.

Theo tôi, cả ba chữ N đều có tính miệt thị và còn vô ý thức ở hai chữ đầu và thiếu văn hóa ở chữ thứ ba.

Cả câu chuyện khiến người ta lo ngại về thái độ chung về nữ giới của rất nhiều thành viên trong xã hội.

Tư duy 'macho' đó này là quá lỗi thời và các bạn cần biết rất nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang có nữ tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng (như bà Ursula von der Leyen của Đức), và không có nghề nghiệp, vị trí gì là thuộc độc quyền của phái nam.

Tự do và kiểm duyệt

Nhưng việc đình bản và phạt báo vừa qua có liên quan gì đến tự do báo chí hay không?

Theo tôi, về mặt kỹ thuật, việc phạt báo hay cấm đăng bài, xóa bài, căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay là bình thường.

Nhưng nhìn rộng ra thì cả cơ chế quản lý báo chí đó lại có vấn đề.

Cấm bài, cắt bài, phạt báo trên lý thuyết thuộc về phạm vi kiểm duyệt.

Các bạn đừng nên nghĩ kiểm duyệt là xấu.

Nước nào cũng kiểm duyệt ít nhiều văn hóa, truyền thông.

Vấn đề chỉ là kiểm cái gì và duyệt cái gì, cơ chế ra sao mà thôi.

Ở rạp chiếu phim bên Anh, sau quảng cáo, trước khi vào phim người ta luôn chiếu giấy chứng nhận - certificate của Hội đồng Điện ảnh Anh Quốc (BBFC) với dấu mang chữ PG trong khung hình tam giác màu vàng.

Chữ ký của quan chức xét duyệt phim đó cũng hiện luôn trên màn hình.
Anh Quốc chủ trương tự do thông tin nhưng cũng ngăn ngừa vi phạm

Người ta kiểm duyệt phim ảnh căn cứ vào mức độ tình dục, bạo lực trong phim và xem phim phù hợp với lứa tuổi nào.

Kể cả phim của Mỹ đã được xét duyệt bên đó, muốn chiếu tại Anh cũng phải qua cửa của  Bấm BBFC.

Với báo chí, nhất là báo mạng, Anh Quốc chủ trương tự do thông tin và thúc đẩy sáng tạo công nghệ mạng (online innovation) nhưng chính phủ vẫn ngăn các dạng phát hành vi phạm bốn dạng nội dung.
Đó là nội dung vi phạm bản quyền (copyright infringement); tình dục người lớn (adult content – nhằm bảo vệ trẻ em); khủng bố (terrorism – ngăn các nhóm khủng bố dùng mạng Internet để tuyên truyền); và kích động hận thù (hate crime).

Khi các trang web hay bài viết, nội dung này xuất hiện, chính quyền có thể yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ (ISP) khoá trang lại hoặc khóa bài viết, nội dung âm thanh, hình ảnh, video đó.

Nhưng trong các lĩnh vực khác, nhà nước không tự can thiệp mà để cho xã hội cùng hệ thống tư pháp độc lập giải quyết.

Ví dụ là một cá nhân, bạn hoàn toàn có thể khiếu nại lên báo chí hoặc yêu cầu toà án ra án lệnh ngăn báo chí đưa tin, đăng ảnh mà bạn cảm thấy đang hoặc sẽ vi phạm đời tư, quyền riêng tư hoặc thấy bị xúc phạm.

Rất nhiều siêu sao của giới ca nhạc, giải trí, thể thao đã chọn cách này để ngăn báo chí.

Ngoài ra, không gian tự do để châm chọc, trêu đùa, thậm chí cười nhạo luôn rộng mở.

Các sách in tiếu lâm bán đầy ngoài hiệu sách, về đủ mọi loại người, loại nghề.

Bạn còn có thể mua cả bộ sách Bấm 'Xenophobes' Guides' trêu chọc, nêu tính xấu một cách đầy định kiến nhưng dí dỏm về các quốc gia và dân tộc châu Âu, châu Mỹ, cả Trung Quốc, Nhật Bản (chưa thấy Việt Nam).

Trở lại bài viết tai tiếng trên Trí Thức Trẻ.

Vì ở Việt Nam không có báo chí tư nhân, tự nhiên đây lại là chuyện ‘quốc gia đại sự’.

Vì mọi tờ báo, ấn bản thông tin, đài phát thanh, truyền trình ở Việt Nam ở dưới có một cơ quan chủ quản nào đó thuộc chính quyền, nên quả bóng trách nhiệm cho mọi nội dung luôn rơi trở lại sân chính quyền.

Trong khi nó chỉ nên là chuyện của những người cảm thấy bị xúc phạm gửi thư khiếu nại hoặc kiện tờ báo hay cá nhân tác giả mà cho đến nay vẫn ẩn danh.

Hai bên có thể gặp nhau tại toà án nếu như toà ở Việt Nam được giao vai trò xét xử báo chí.

Đằng này tất cả vẫn lại quay về điểm khởi đầu là bộ ngành có báo làm sai thì bộ ngành tự xử lý...chính mình hoặc cùng lắm là bộ này xử lý bộ kia nhưng vẫn cùng nằm trong chính phủ.

Cũng vì thế, tranh luận về ‘tự do báo chí’ trong vụ việc này xem ra chưa phù hợp chừng nào cơ chế tam quyền phân lập và chế độ kiểm duyệt minh bạch với thông tin, báo chí được định hình ở Việt Nam.
Nguyễn Giang
 (  BBC )