Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Tin thứ Sáu, 04-01-2013

9NÓNG! – Tin từ 1 CTV cho biết, mấy hôm nay, blogger J.B. Nguyễn Hữu Vinh, người vừa được nhận Giải thưởng Nhân quyền  Hellman Hammett cùng 4 blogger khác, đã bị cơ quan ANĐT CAHN triệu tập nhiều lần. Ảnh chụp lúc 8h35′ sáng nay, J.B. Nguyễn Hữu Vinh có mặt tại số 6 Quang Trung HN =>
CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- TS Vũ Cao Phan:  Việt – Trung: ‘Những điều không thể không nói’  (TVN). “Năm 1958, sau khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về lãnh hải 12 hải lý, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng hộ tuyên bố ấy, chỉ đơn giản như vậy. Sự ủng hộ đó là thiện chí nếu tính tới cuộc xung đột giữa nước Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ.”  - Bài Sống với Trung Quốc của Tạ Duy Anh, đăng sáng qua, đã bổ sung đầy đủ phần bình luận.
- Quần đảo Hoàng Sa – những hiểu biết đầu thế kỷ XX: Một tư liệu quý hiếm về Hoàng Sa (TT). - Bộ sưu tập “bản đồ chủ quyền” của Trần Thắng (PNTP).
Phát hiện 220 quyển sổ tay vi phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam (SGGP).
1<- HY SINH (Thiềm Thừ/ Mai Thanh Hải).  - Ngày hội Mùa xuân biển đảo 2012 (PLTP). - Đông đảo tuổi trẻ Thủ đô hướng về biên cương Tổ quốc. – Trao quà Tết cho cán bộ, chiến sỹ trên đảo Đá Lát (TTXVN).  - Đảo chìm Đá Lát đón nhận quà Tết từ đất liền (QĐND). - Chia sẻ hương Xuân với chiến sĩ hải đảo (NLĐ).  – Ngư dân vững chãi bám biển (ĐĐK).  - Một chủ ghe bị bắn chết bởi hải quân Campuchia ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền VN (TN). Liệu Bộ Ngoại giao sẽ lên tiếng?
ASEAN 2013 : Brunei đặt Biển Đông lên hàng đầu chương trình nghị sự (RFI). - Chủ tịch ASEAN: Chủ quyền Biển Đông là ưu tiên hàng đầu (ĐV).  - Biển Đông vẫn là trọng tâm của ASEAN năm 2013 (TN).
Trung Quốc đưa tàu chiến mạnh nhất ra Biển Đông (TTXVN). - Philippines: Tàu chiến Trung Quốc đã đe dọa thường dân ở Trường Sa từ lâu (Sống Mới).   - Đối đầu Trung Quốc – Philippines sẽ quyết liệt hơn (VnMedia).
- 2013 : Thế trận từ biển Hoa Đông đến Biển Đông (RFI). “…tại Biển Đông, Việt Nam không có sức mạnh quân sự đương đầu với Trung Quốc… về chính sách, Việt nam xác quyết chủ quyền nhưng không có biện pháp bảo vệ chủ quyền…”
- Trung Quốc đưa tàu chiến mới và mạnh nhất ra Biển Đông (VOA).  – Tướng Trung Quốc, Ngô Quý Phú: ‘Mỹ lập vành đai phong tỏa TQ trên biển’ (BBC). – Đã đến lúc Bắc Kinh khoe khả năng chạy đua vũ khí (RFI). - Người Trung Quốc vẫn chưa nhận là cường quốc (Petrotimes).
- Đài Loan phản đối Luật Biển Việt Nam (BBC). – Đài Loan phản đối Luật Biển của Việt Nam (VOA).
Nhật Bản lên kế hoạch bảo vệ Senkaku/Điếu Ngư (TN). - Nhật Bản xây dựng phương án đáp trả khi bị Trung Quốc đánh chiếm đảo (GDVN). - Mỹ: Khó bảo vệ Thái Bình Dương nếu mất Senkaku(TVN).
- Hoa Kỳ bán thêm vũ khí nhờ chuyển hướng sang châu Á (RFI).
- Nhật ký mở lại (mở lần thứ 22): NĂM 2013, TOÀN DÂN VIỆT NAM HÃY GHI XƯƠNG KHẮC CỐT BẢN VĂN LĂNG NHỤC NÀY (Nhát Sĩ Tô Hải). “Đường lưỡi bò này chỉ còn thiếu một câu ‘Chỉ cho phép dân Việt Nam được tắm biển mà thôi!’ Ngoài ra từ 1/1/2013 mọi sự khai thác tài nguyên, đánh cá, thăm dò dầu khí… sẽ bị… đánh đòn đấy!” – ĐẢNG CỘNG SẢN HÃY CHỨNG TỎ THỰC TÂM BẢO VỆ VN TRƯỚC CUỘC XÂM LĂNG CỦA TRUNG CỘNG (LTNV/ Trí Nhân Media).
- Thùy Dương: Mạt vận (BoxitVN). “Phải chăng bọn ‘cõng rắn cắn gà nhà’ đã chui sâu, leo cao trong Đảng để đưa ra chiêu bài ‘Ưu tiên tối thượng là phải giữ được môi trường hòa bình’ thậm chí biển đảo có mất, dân tộc có bị nhục?”. .
- Nhật ký mở lại (mở lần thứ 21): GIÁ MÀ CÁC VỊ ẤY CẤT LÊN CHO VÀI TIẾNG (Nhát Sĩ Tô Hải). “Nếu những thằng nói láo, nói phét, nói bậy, nói bừa như tên Thanh là do hắn được quan thầy hắn khoác cho một vài cái tước, học vị … ‘y như thiệt’ nào đó, thì những thằng ngu khi nói phét là do…liều, hoặc cứ tưởng mọi người cũng ngu như chúng”. – VIỆT CỘNG SỢ TỰ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH NÊN RƯỚC BẦY VOI VÀO GIẦY MẢ TỔ (Trí Nhân Media).
- DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN KÊU GỌI THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI (TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 8) (BoxitVN). - Bản dịch tiếng Anh “Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp tại Việt Nam”.
- Thực thi quyền của chính mình! (ĐĐK). – Đảng không phải là cọp (Đào Tuấn). “Đảng không phải là cọp để phải gọi húy thành ‘ông ba mươi’. Đảng cũng không phải là vua chúa phong kiến để dân đen phải kỵ húy không dám nói đến. Hiểu đúng tinh thần những gì mà Trưởng Ban biên tập Dự thảo Hiến pháp sửa đổi thì có nghĩa là người dân có quyền đóng góp vào toàn bộ nội dung bản hiến pháp sửa đổi, không có vùng cấm, cũng chẳng phải lo phạm, kỵ gì cả… Bởi thật khó để chấp nhận một mệnh đề kiểu ‘Lòng dân, tuy nhiên, ý Đảng’.
- Phạm Trần: Hiến pháp càng sửa càng nát – Càng độc tài (DLB). “Nhưng ở Việt Nam làm gì có dân chủ mà đảng sợ dân sẽ ‘lợi dụng’ để chống văn kiện quan trọng này? Như vậy, nếu có những ý kiến trái chiều, không hợp với ý muốn của đảng thì bị ghép ngay vào tội ‘chống phá đảng và nhà nước’ hay sao?”  - Góp ý sửa đổi hiến pháp 1992: Lấy ý kiến Việt kiều, trí thức (DV). - Không được bỏ sót ý kiến nào (TP).
- Bà con cần xem bài này trước khi muốn góp ý: Khai Phong – Dự thảo Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992 (Những thay đổi đáng chú ý) (Dân Luận).  – Phỏng vấn ông Phan Trung Lý: Điều 4 nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng? (BBC). “… một số bổ sung trong điều 4 như là ‘Đảng liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình’ và ‘các tổ chức Đảng và Đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật’.” Triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (LĐ). - Về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: Mặt trận Tổ quốc tổ chức lấy ý kiến đại diện các tầng lớp nhân dân (SGGP). - Tiếp nhận mọi góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp (TT).
2
- Kiểm soát quyền lực bằng cơ quan độc lập (VNN). “… nhiều ĐB đề nghị có một cơ quan bảo vệ Hiến pháp, tên có thể là Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến, nhưng quan trọng là độc lập để ‘phán quyết những vi phạm Hiến pháp xảy ra trong tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp’.” ĐB Nguyễn Văn Luật: Quyền lực phải được kiểm soát bằng quyền lực =>
- “Thế lực thù địch” kêu gọi: Các ông Vua trong Bộ Chính Trị ơi, mở mắt ra họa may còn có cơ hội sống còn ! (DĐCN).
- Bao giờ chúng ta mới thoát khỏi làm ‘con tin’? (VLB).
- Tin khẩn cấp: Ls Lê Quốc Quân tuyệt thực trong nhà tù Hà Nội sang ngày thứ 6 (NVCL). – Video: Lê Quốc Quân hát “Dậy mà đi” tối 16/12/2012 (blog Thành).  – Vở kịch tồi nhân danh công lý (Nhã Nam) (Thông Luận). “… chắc chắn không thể bịt miệng, trói tay giới blogger mỗi ngày mỗi đông đảo đã, đang và sẽ phản ánh sự thật xã hội, cũng như ngăn chận được hành động của những người viết vì tự do, dân chủ và nhân quyền“.
- Video: Blogger Hoàng Vi: Trấn áp sẽ không dập tắt được các tiếng nói tranh đấu (RFA).
- NỘP ĐƠN TỐ CÁO VÀ KHIẾU NẠI TẠI THANH TRA BỘ CÔNG AN (Bùi Hằng).
- Mỹ cam kết thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam (RFA).  – TNS Ngô Thanh Hải tại Paris: Tuổi trẻ phải tiếp nối (RFA).
- MỘT CHẾ ĐỘ NGÀY CÀNG LĂNG NHỤC CON NGƯỜI (BNS TDNL/ Trí Nhân Media). – Phó Trợ Lý Ngoại Trưởng Mỹ nói về vấn đề nhân quyền Việt Nam (VOA). Chúng tôi tìm cách thuyết phục các nước khác là khi Hoa Kỳ nêu lên vấn đề nhân quyền thì không phải là vì người Mỹ muốn gây khó khăn, hay có ý muốn làm cho nước khác suy yếu, mà ngược lại, là vì muốn làm cho nước ấy mạnh hơn… nhân quyền không chỉ là một vấn đề đạo đức, mà nhân quyền còn phục vụ quyền lợi chiến lược. Nhân quyền là một chiến lược để thành công”  .
- Nghị định mới về tôn giáo của Việt Nam gây quan ngại (VOA). Nghị định này nhằm để kiểm soát các tổ chức tôn giáo và sinh hoạt của họ thay vì là bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Hành động kiểm soát sinh hoạt tôn giáo này xâm phạm nghiêm trọng quyền căn bản của con người”.Việt Nam : Tổ chức Đoàn kết Kitô Giáo lo ngại tự do tôn giáo bị xâm phạm (RFI).  – Bài viết trên tờ www.assistnews.net và của Tổ chức Đoàn kết Kitô Giáo thế giới (J.B. Nguyễn Hữu Vinh).
- 2013: Một năm đàn áp và càn quét đối lập dân chủ Việt Nam (DLB).
- Gỡ bài ‘Mùa xuân Ả rập và Myanmar’ (BBC).  Nhưng muộn rồi, bà con có thể xem tại đây: ‘Mùa xuân Ả rập’ và Mùa xuân Myanmar (bao giờ lan tới Việt Nam, Trung Hoa?) (VNN/ Xem lại cuối trang). – An Thanh Lương – Thư ngỏ gửi Daw Aung San Suu Kyi (Dân Luận).
- Sau khi phong Đại tướng cho Bộ trưởng Trần Đại Quang, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang làm việc với Ðảng ủy Công an Trung ương (ND). - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công an (TTXVN). – Bí thư Nguyễn Bá Thanh nói chuyện với lực lượng Công an (DT). Không biết có cám ơn, khen ngợi chiến công trong vụ Cồn Dầu, mà một phần nhờ đó ông mới được thêm tín nhiệm, ra trung ương, vô BCT?
H2
<- Vườn hoa dân oan ngày tất niên 2012 (blog Thành). – Làng tôi soi bóng dòng lịch sử (NNVN).  - Phỏng vấn một kẻ cướp (Nguyễn Tường Thụy).
- VKSND trả lại hồ sơ vụ án hủy hoại tài sản gia đình ông Vươn (NLĐ). - Vụ án cưỡng chế tại Tiên Lãng: Trả kết luận điều tra (LĐ). - Vụ Tiên Lãng: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung (DV).
- Hàng nghìn mét đất “vàng” bỏ hoang khi chủ đầu tư tháo chạy (Sống Mới). - Lấy ý kiến nông dân về dự thảo luật Đất đai (TN).
2,6 tỷ đồng hỗ trợ vùng động đất Bắc Trà My (DV). - Người dân vùng động đất mong Tết bình yên (TP).
- Video: Đầu năm Cụ Lê Hiền Đức gặp Mẹ E Phúc , lớp 11A7 Lí Nhân , Hà Nam ! (NCHHD). – Tôi đang làm rõ vụ việc tại trường cấp 3 Lý Nhân Hà Nam (Lê Hiền Đức).
- Khi thị phi lộng hành (ĐĐK). – BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT BỨC XÚC HỘ THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG VỀ NGÔI NHÀ THỜ CỦA ÔNG BỊ MIÊNG LƯỠI THỊ PHI ĐỒN THỔI… (Phạm Viết Đào). – Bài này lên mạng trước bài của nhà báo Ngọc Niên: Nhà thờ TỔ CHA DÒNG HỌ NGUYỄN TẤN DŨNG (VNSG75) (đúng là sau khi anh X thoát nạn, tụi nâng bi lại được tái xuất).
- Vở kịch này diễn dở mà diễn hoài, hạ màn đi thôi: Năm 2012 phát hiện 89 vụ tham nhũng (SGTT). “Ngành thanh tra đã kiến nghị thu hồi 104.592 triệu đồng, kiến nghị xử lý hành chính đối với hai tập thể, 56 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra hình sự 24 vụ, 42 người, xử lý trách nhiệm 20 người đứng đầu”. Méc thanh tra chính phủ, bỏ sót vụ này: Tham ô tiền tỷ, 2 sỹ quan công an bị bắt giam (DV). - Xem ra vẫn còn nhẹ (Petrotimes). - Thanh tra năm 2012: Kiến nghị thu hồi 29.860 tỉ đồng (PLTP).
Sáu nhóm nhiệm vụ của Ban Nội chính Trung ương (PLTP). - Bút Lông – Nguyễn Bá Thanh, thủ lĩnh chống tham nhũng? (Dân Luận). “Hiện tình hình tham nhũng đã đến mức báo động, mà bước đột phá nên có ngay những giải pháp răn đe, giáo dục và trừng trị những đối tượng có nguy cơ và đã tham nhũng.  Những cách ông Thanh từng tiến hành ở Đà Nẵng tại sao không nâng tầm lên thành một giáo trình ngừa tham nhũng cấp quốc gia?Chớ có mơ. Những kẻ tham nhũng “cấp quốc gia” có chức to hơn ông Thanh nhiều, nên bà con chớ có kỳ vọng để rồi sớm thất vọng.  – XÃ TẮC VÀ ‘LỬA’ NGUYỄN BÁ THANH ?  (Bùi Văn Bồng). - “Thương hiệu” Nguyễn Bá Thanh  (LĐ). - “Chỉ có kẻ tham nhũng mới ngại ngùng người như ông Nguyễn Bá Thanh” vì … ông quá rành các ngón nghề tham nhũng? (GDVN). - Dấu ấn Đà Nẵng – Thành phố 5 không (SGGP).
- Cái giá của sự bất công bằng – (Về giai cấp “siêu giàu” mới nổi) (TBKTSG/ viet-studies). – Bắt hàng loạt đại gia tham gia cá độ trăm tỷ (VNN). – Nhâm Thìn, năm sóng gió của nhiều nhà lãnh đạo (NĐT). Hổng phải do làm bậy mà do “năm tuổi”?
- Nhà thầu Trung Quốc đẽo cày giữa đường: Thiệt hại nặng nề cho các chủ đầu tư Việt Nam (Sống Mới).
- Vạch mặt 3 dạng khai thác trái phép và buôn lậu khoáng sản (PetroTimes). - Hỗn loạn trước công ty khai thác khoáng sản (TN).
- “Nhóm lợi ích” ở một bệnh viện: Kỳ 2: Bỗng dưng bị bệnh… tâm thần! (TN). – Quan chức y tế: ‘Có chuyện sàm sỡ nữ bệnh nhân’ (NĐT).
Chất vấn nóng (TP).  - Đề nghị cách chức GĐ Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh Bến Tre (TN). - Kỷ luật nhiều cán bộ lãnh đạo của Sở LĐ-TB-XH Kon Tum (TN).  - Hàng loạt cán bộ, lãnh đạo Sở LĐ-TB&XH tỉnh Kon Tum bị kỷ luật (PLTP). - Đề nghị kỷ luật cả lãnh đạo cũ và mới của Bảo hiểm xã hội (Sống Mới).
“Chạy” công chức 100 triệu: Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy chỉ nói theo dư luận (LĐ).
Nhà dân số xã thành… nhà hoang (LĐ).
Phải chữa ngay bệnh “sợ trách nhiệm” (PLTP) (đơn giản là Luật pháp nghiêm minh thẳng tay trừng trị thì cái bệnh đấy muốn có cũng chả tồn tại được).
Cảnh cáo một đại tá đánh trẻ thủng màng nhĩ (TT).
Chuyện thật như đùa: Công an nhăm nhăm đi… đập đầu gà chọi (Petrotimes).
Ngày thứ 2 thu phí bảo trì đường bộ – Nhiều chủ xe tự giác đóng phí (SGGP). - Thu phí sử dụng đường bộ đã nhanh hơn (PLTP). - Sẽ xử phạt vi phạm giao thông qua tài khoản (TN). - Chưa đến hạn đăng kiểm vẫn được nộp phí bảo trì đường bộ (TT).
Đề xuất được tăng dưới 1.000 đồng/lít xăng: Con dao hai lưỡi (DV).
- VỤ ÁN VƯỜN MÍT: Đề nghị tử hình Lê Bá Mai (NLĐ).
3Án hành chính: Thắng kiện như không!  (PLTP). Ông Rô dựng nhà tạm trên đất người quen sau khi nhà, đất bị giải tỏa =>
- Adieu et merci (Trương Nhân Tuấn). Tác giả nêu ra vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách VN cần nghĩ tới, đó là, có hơn 10% GDP VN phụ thuộc vào nguồn kiều hối. Sắp tới, người Việt hải ngoại sẽ bước sang thế hệ thứ 3, thứ 4…, những người này thành dân Mỹ, dân Pháp… Họ xem mình như những người dân bản xứ, không có mối liên hệ với quê hương của cha mẹ họ, sẽ không còn chuyện gửi tiền về VN nữa, VN sẽ mất nguồn kiều hối này.
- Báo nhà nước bắt đầu tấn công ‘Bên Thắng Cuộc’ (Người Việt). – Nguyễn Ngọc Già – Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã đọc “Bên Thắng Cuộc” chưa? (Dân Luận). “… tác phẩm ‘Bên Thắng Cuộc’ nên được đón đọc và chiêm nghiệm bằng tấm lòng hướng thiện, sám hối để hòa giải lòng người trong nước lẫn nhau cũng như giữa người trong nước và người Việt hải ngoại, kết hợp đặt trong bối cảnh Việt Nam nguy khốn hiện nay, hơn là nhận định hời hợt, hậm hực, dằn dỗi, so bì và có phần võ biền như ông Nguyễn Đức Hiển – báo Pháp Luật Tp.HCM”. Bài liên quan: - Nhân đọc bên thắng cuộc (20) – Suy ngẫm cuối năm 2012, hay, Trao đổi với tác giả của note “Đọc Bên Thắng Cuộc, nghĩ về bên thua cuộc” (NQ&TD).
- Biên bản của Cảnh Sát Công An (VNCH) về việc bắt đại tá Phạm Ngọc Thảo năm 1965 (viet-studies).
- Xin mời hương hồn các anh trở về quê ăn tết (Nguyễn Tường Thụy).
- Tổ chức an vị Tượng cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong (TTXVN).
- Đài Loan thay Tổng tham mưu trưởng làm gián điệp cho Trung Quốc (GDVN).
- Giới tranh đấu kêu gọi thăm vợ Lưu Hiểu Ba (Người Việt).
- Chế độ Trung Cộng Ra Sức Bí Mật Làm Chìm Xuồng Vụ án Pháp Luân Công (ĐKN).
- Tập Cận Bình vạch kế hoạch chống tham nhũng (VNN).  – CHND Trung Hoa: người nhận hối lộ hơn $1600 sẽ ra hầu tòa (NTDTV/ Kichbu). – Kinh tế gia Trung Quốc: Tham nhũng sẽ giết Chế độ, Nhưng Không Giết Trung Quốc (ĐKN). – Bắc Kinh: Ký giả báo Times không bị buộc phải rời Trung Quốc (VOA).
- Nhật Bản cam kết hỗ trợ Myanmar phát triển kinh tế (TTXVN). – Nhật Bản xác nhận ý định xóa nợ cho Miến Điện để thưởng công cải tổ (RFI).  – VN: Điện mừng kỷ niệm ngày độc lập của CHLB Myanmar (TTXVN).
- Mỹ: Triều Tiên chỉ nói thôi là chưa đủ! (NLĐ).  – Mỹ ra nghị quyết lên án Triều Tiên phóng tên lửa (TTXVN).   – Chủ tịch tập đoàn Mỹ Google dự định đi thăm Bắc Triều Tiên (RFI). – Tổng Giám đốc Google sắp đi thăm Bắc Triều Tiên (VOA). – Chủ tịch Google ‘sẽ thăm Bắc Hàn’ (BBC).
- Media: Vợ của Kim Long Un đã sinh con (VZ/ Newsland/ Kichbu).
11- Cách mạng Nhung (pro&contra).   – Kêu gọi Vladimir Putin chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập Liên bang Xô Viết (Newsland/ Kichbu).

- Bạn bè đón J.B. Nguyễn Hữu Vinh ra ăn trưa với ổ bánh mì, để chiều lại vào “làm việc” tiếp với ANĐT-CAHN. = >

- Trung Quốc tập trận trái phép tại Hoàng Sa (Petrotimes) (không thấy BNG cực lực phản đối nữa nhể?).
- Tam Thanh…đoạn luận (Hiệu Minh).
- Thế nào là “tự diễn biến”? (Nguyễn Văn Thiện). “Tự diễn biến, cũng như một ông quan, lúc đầu còn có chút liêm sỉ, biết nhục nhà và xấu hổ, nhưng càng ngày càng trơ trẽn, càng làm việc càng đổ bể nhưng chỉ đứng lên xin lỗi rồi sau đó vẫn tươi cười nói năng dạy dỗ người ta về liêm sỉ. Càng nói càng thối hơn phân, thối hơn xác chết”.
- Đối thoại về xây dựng chợ ở huyện Ứng Hòa, Hà Nội: Luật sư “Vì Dân” không vì sự thật, mà vì… (NCT).
- THƠ XUÂN THỜI THỔ TẢ (Nguyễn Văn Thiện).
- Mỹ chỉ trích chuyến thăm Triều Tiên của chủ tịch Google chứ không xếp Google vào “thế lực thù địch”? (VNE).

Sự thịnh vượng của đất nuớc: Lý thuyết của Adam Smith và thực tế tại Việt Nam (2)(Danluan)   -Đỗ Kim Thêm

Sự thịnh vượng của đất nuớc: Lý thuyết của Adam Smith và thực tế tại Việt Nam (1)(Danluan)

Phạm Trần – Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 có gì “hấp dẫn”? [*](Danluan)

An Thanh Lương – Thư ngỏ gửi Daw Aung San Suu Kyi(Danluan)

Nguyễn Ngọc Già – Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã đọc “Bên Thắng Cuộc” chưa?(Danluan)

Chút hơi ấm cho kẻ không nhà trong đêm đông  (RFA) -Sài Gòn những ngày cuối năm, có những ngày lạnh lẻo và những đêm giá buốt, thời tiết không dễ chịu chút nào đối với những người không nhà, sống lang thang trên đường phố về đêm
Đề nghị công an điều tra lại vụ Tiên Lãng (RFA)   —Thủ tướng Dũng dùng Twitter? (BBC)   —Nạn nhân của tội phạm tình dục ở VN (BBC)
Góp ý sửa đổi hiến pháp 1992: Lấy ý kiến Việt kiều, trí thức (DV)   ——Khai Phong – Dự thảo Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992 (Những thay đổi đáng chú ý) (Dân Luận)   -Điều 22 bỏ quy định “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.” ở Điều 71 cũ. – Cứ Công an “mời ” là được,mời 48 rồi nhân n lần là hợp hiến hợp pháp.
-Kiểm soát quyền lực bằng cơ quan độc lập (VNN)  -Đã gọi là “lãnh đạo toàn diện” thì làm sao có cái “khoản trống ” nào mà “tạo” ra một cơ quan độc lập “tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến”??Ngộ à?? (Chưa kể ông quản lý của một Quốc gia cũng quản lý tất)Vậy là “đi chệch hướng và chống lại ” à???
Ông Bí thư ‘nói được là làm được’ (VnEx) -Không chỉ đề nghị “Cán bộ phải biết tập xấu hổ”, “làm việc đừng hô khẩu hiệu”, ông Thanh còn tuyên bố “cảnh sát chung chi vài trăm nghìn sẽ cho về vườn”. Nhiều lãnh đạo Sở cũng bị ông “truy” tới cùng trong kỳ họp HĐND. > Ông Nguyễn Bá Thanh làm
 Biển Đông “nhận” cơn bão đầu tiên của năm mới (Dantri)   —-Sáu nhóm nhiệm vụ của Ban Nội chính Trung ương (TP)

KINH TẾ
- Đánh giá triển vọng kinh tế 2013: Sẽ tạo ra những chuyển biến mới (TP).
- Các kiểu nợ xấu (Nguyễn Vạn Phú). “Đó là sửa đổi Luật Phá sản để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bất động sản có lối thoát, tự nhiên giá cả sẽ quay về mức xã hội chấp nhận được và một phần lớn nợ xấu sẽ được thu hồi. Không lẽ chúng ta phải đợi những hệ quả của nợ xấu xảy ra như phá giá đồng tiền ở Thái Lan, vỡ nợ tại nhiều ngân hàng ở Mỹ… lúc đó mới chịu có biện pháp mạnh tay?” – HSBC: giải quyết nợ xấu vẫn chưa đủ với Việt Nam (TBKTSG).
Thủ đoạn “lách trần” của ngân hàng (TN). - NHNN bơm mạnh vốn cho các nhà băng (LĐ). - Kỳ vọng cổ phiếu ngân hàng (TP). - Vẫn có cơ hội để giảm lãi suất (ANTĐ). - Nhếch nhác, xuống cấp mà đòi thu phí ATM (DT).
Thị trường chứng khoán: Bùng nổ thanh khoản đầu năm (LĐ).
4<- Kinh doanh vàng ở VN giảm mạnh (BBC).
Bất động sản sẽ giảm giá có điều kiện (PLTP).  - TP HCM ế hơn 28.000 căn hộ (VNE). - Sẽ tiếp tục cạnh tranh mạnh ở phân khúc căn hộ cho thuê (LĐ).
Nuôi cá tra ngày càng bất ổn (TN). - Tôm Việt Nam không được trợ giá (PLTP).- Tôm xuất khẩu của Việt Nam lại bị kiện tại Mỹ (LĐ). - DN thủy sản “sợ” ký hợp đồng xuất khẩu lớn (PLTP).  - Xuất khẩu tôm 2013 – Nhiều thách thức (SGGP).
Bộ NNPTNT khuyến cáo về việc trống sắn bán lá (DV).
Triển khai các giải pháp hỗ trợ sản xuất muối vụ 2013 (TTXVN).
- Sản phẩm phần mềm dự kiến chịu thuế VAT (TBKTSG).
Năm 2013: Lo giá điện tiếp tục tăng mạnh (TP). - Cước vận tải nhấp nhổm tăng (TT).
- TỪ GIẢI PHÁP ĐẾN HÀNH ĐỘNG: Doanh nghiệp cần gì? (NLĐ). - Trò chuyện với doanh nhân: Thị trường luôn có sẵn cơ hội (TBKTSG). - Mong đợi của doanh nghiệp (TN).
Du lịch có khả quan như báo cáo? (TN).
- Starbucks sắp vào Việt Nam (BBC).  - Cà phê Starbucks sắp khai trương tại Việt Nam (VOA).  – Tập đoàn Starbucks mở điểm bán cà phê đầu tiên tại Việt Nam (RFI).
- Air Mekong thành con nợ (NLĐ/ Tin mới). – Hãng lớn cắt bớt tuyến, giá vé bị thổi! (SGTT).
Công nhân chỉ mong có việc làm đến Tết (DV). - Èo uột lương, thưởng Tết khối nông – lâm – thủy sản (DV).
- Tập đoàn Đông Nam Á càn quét DN Việt (VNN).
- Khu vực dịch vụ Trung Quốc tăng trưởng (BBC).
Châu Âu: “nguy cơ thật sự” cho kinh tế toàn cầu 2013 (TT).

- Nhà nông hối hả làm hàng tết: Săn lùng dưa hấu hình… xe hơi, thỏi vàng làm quà Tết (DV).
VĂN HÓA-THỂ THAO
-  258. NGƯỜI ĐÀN BÀ KHAI QUỐC TRIỀU LÊ (Việt sử ký). –  259. MƯU GIAN LẬT ĐỔ QUỐC VƯƠNG TƯ TỀ.
5Phát hiện giếng cổ trong quần thể di sản Thành nhà Hồ (TT). - Phát hiện giếng cổ hơn 600 năm gần thành nhà Hồ (NLĐ).  =>
Hoàn thiện hồ sơ đề cử Cát Tiên là di sản thế giới (NLĐ).
- Trần Độ: Về mối quan hệ giữa quản lí và tự do sáng tác trong văn học nghệ thuật (PBVH). – Phạm Xuân Nguyên: Cái hèn của người cầm bút. - Trần Đình Sử dịch: Biểu tượng trong hệ thống văn hóa.
- YÊU THỜI…ĐỒ ĐỂU (KỲ 25) (Nhật Tuấn).
- Rối rắm bi hài danh hiệu nhà thơ, nhà văn ở VN (Nguyễn Tường Thụy).
- Lưu Tấn Thành: Nếp nghĩ (Inrasara).
- “Có thể tình cờ em sẽ nhớ …” (Anh Vũ).
- 10 sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch tiêu biểu 2012 (TTXVN). Trong đó, có 2 sự kiện gây tranh cãi: Việt Nam giành quyền đăng cai ASIAD 18 năm 2019 và Lễ công bố Vịnh Hạ Long là một trong bảy Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới (khi nào UNESCO công nhận hẵng hay).
- Vũ Duy Chu: Hà Nội tiếu lâm truyền kì (kì 94) (Trần Nhương).
- Phạm Duy  và bạn thơ: Kỳ 5: Đưa nhau tìm động hoa vàng (TN).
Nghe nhạc online cũng phải trả phí ? (TN). - Mới thu được 20% tiền bản quyền âm nhạc (LĐ).
- Đầu năm nói chuyện sấm ký (ĐCV).
- Người Trung Quốc tin vào số 8 (BBC).
- Điểm mặt xế cổ “lạ – sang – hiếm” trên thế giới (PetroTimes).
- Tu viện Eberbach: tên của đóa hoa hồng (Phan Ba).
- Jacques Tardi từ chối “Bắc đẩu bội tinh” vì không muốn bị chính trị chi phối (Sống Mới).

- CHỢ CHỒM HỔM Ở HOUSTON (Nguyễn Trọng Tạo).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Giáo dục với tư duy hậu hiện đại (Newvietart/ TCPT). - Giáo dục đại học – Uy tín quyết định số phận (GDVN).  - Độc giả sôi nổi ‘hiến kế’ xây nền giáo dục sạch (VNN).
Nhiều quy định chặt chẽ cho trường chuẩn quốc gia (GDVN). - Sắp cho phép cá nhân thành lập tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục (GDVN). - Kiểm định trường phổ thông: Trường chất lượng cũng khó đạt chuẩn (TN). - Sẽ kiểm định chất lượng giáo dục theo chu kỳ 5 năm (TTXVN).
8<- Cộng đồng mạng tranh cãi nảy lửa về “liên thông” (TP). - Chưa liên thông, trường chuyên lãng phí (NLĐ). - Không thể liên thông dễ dãi (TT). - Bộ Giáo dục – Đào tạo: Bất ngờ “khai tử” đào tạo liên thông (LĐ).
- PISA có thực chất? (NLĐ).
- Cho phép thí sinh mang camera, máy ghi âm vào phòng thi: Bộ Giáo dục – Đào tạo đã bất lực?! (Petrotimes).
Quảng Ngãi ban hành quy định dạy thêm, học thêm (TN).
Báo động tình trạng giả danh Bộ Giáo dục (GDVN).
Cắt xén tiền ăn của trẻ đem… gửi ngân hàng (TN).
Phê phán – biểu dương: Đâu là ranh giới? (TVN).
Gieo chữ trên bản nghèo (LĐ).
Không nên nôn nóng cho trẻ đi học sớm (DV). - Trẻ học ngôn ngữ từ trong bụng mẹ (NLĐ). - Thế nào là tiếng Việt trong sáng? (chùa Phúc Lâm).
- Cư dân tiền sử vùng núi và miền biển có sự giao lưu (TTXVN).

- Phê phán – biểu dương: Đâu là ranh giới? (TVN). “Quyền duy nhất mà họ có là dạy theo những gì mà sách giáo khoa đã viết, làm theo những gì mà nội quy đã quy định, và hưởng một chế độ thấp nhất trong các nghề đòi hỏi trí tuệ”.
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Quảng Bình có thêm một tàu cá bị mất tích (Sống Mới).  – Những giờ cuối cùng của tàu đắm qua lời người thoát chết (Tin mới). - Nhiều ngư dân đang gặp nạn (TN). - Nỗi đau chồng nỗi đau (SGGP). - Cứu sống ngư dân tàu cá Bình Định bị nạn trên biển (SGGP).
- ĐẾN CHĂN CŨNG CHẲNG CÓ MÀ ĐẮP (Mai Thanh Hải).
- LS Trần Đình Triển: “Gia đình bỏ rơi là nguyên nhân chủ yếu của tội phạm trẻ em’ (NĐT).
- Hãi hùng với mứt Tết… vỉa hè (TP/ Sống Mới). - Thức ăn đường phố – Vừa bẩn vừa khó quản lý (SGGP).
- Côn đồ xả súng vào ô tô giữa Hà Nội (Infonet).  - Nạn “đầu gấu” khu công nghiệp (TN).
- Vĩnh biệt Hiệp sỹ Nguyễn Công Hùng (VNN).  – Tiễn đưa “Hiệp sĩ CNTT” Nguyễn Công Hùng về nơi an nghỉ (NLĐ).  – “Ngọn lửa nhiệt huyết của Nguyễn Công Hùng cháy mãi trong chúng tôi” (DT).  – Nguyễn Công Hùng, Trái tim không tật nguyền (Phương Bích). - “Ngọn lửa của Hùng cháy mãi (TT).
6Người mẹ của những linh hồn bé thơ (LĐ). =>
- Kéo giảm người chết vì TNGT (Tin mới).
Xe khách chất lượng cao: Chưa đến Tết đã… hết vé! (Petrotimes). - Bão giá, người bán nước chè “than” mỗi tháng lãi… vài chục triệu đồng (GDVN).
- Vụ “Cái bang: ngày liệt, tối… nhảy tưng tưng”: Khám xét “trụ sở” cái bang (TT).
Vỡ hụi 15 tỷ đồng, trăm tiểu thương khốn đốn (DV).
Trung Quốc phát hiện chất độc trong gia vị lẩu (TN).
- Xóa số đường dây “hóa kiếp” xe gian quy mô lớn (VNN).
Tan nát rừng A Đăng (TN).
Đến lượt cây hoang bị tận thu để… bán (DV).
- Indonesia: Cấm phụ nữ ngồi dạng chân sau xe máy (NLĐ).
- Trung Quốc: Công trình chưa xây xong đã bị “nhái” (Sống Mới).

- Chút hơi ấm cho kẻ không nhà trong đêm đông (RFA). “…mình vẫn hỏi họ có gia đình có nhà cửa gì không … Thường mình hỏi những câu đó thì họ rất sợ, họ sợ mình là cán bộ của nhà nước đến bắt họ vô trường trại cải tạo vì họ không nhà không cửa, cho nên họ từ chối và bỏ đi”.
QUỐC TẾ
- Theo LHQ, xung đột tại Syria làm hơn 60 ngàn người thiệt mạng (RFI). – Phe nổi dậy Syria tiếp tục tấn công phi trường quân sự (VOA). - Xung đột Syria làm hơn 60.000 người chết (TN). - Cuộc xung đột tại Syria có thể kéo dài (VOV).
Mỹ “giúp” Iran chế máy bay không người lái (TN).
Đánh bom xe ở Iraq làm hơn 60 người thương vong (TTXVN).
Một chỉ huy cảnh sát ở Libya bị phiến quân bắt cóc (TTXVN).
- Tổng thống Mỹ ký Luật Ngân sách quốc phòng 2013 (Tin mới).  – Obama ký ban hành ngân sách quốc phòng 633 tỷ đô la (RFI). – Tổng thống Obama ký dự luật tăng thuế nhà giàu Mỹ (VOA). - Tránh “vách đá tài chính”, Mỹ vẫn có nguy cơ cạn tiền (LĐ). - Tân đại biểu Quốc hội đối mặt với tranh chấp mức nợ trần của Mỹ (VOA). – Học sinh Sandy Hook trở lại trường lần đầu sau vụ thảm sát (VOA). – Giải mã dự án thử nghiệm “Bom Sóng thần” của Mỹ (VNN).
- Ấn Độ: thủ phạm cưỡng hiếp sắp ra tòa (BBC). – Ấn Độ khởi tố 5 nghi phạm vụ cưỡng hiếp nữ sinh (RFI). – Ấn Độ truy tố 5 nghi can vụ cưỡng hiếp nữ sinh (VOA). – Năm kẻ hiếp dâm tập thể bị điệu ra tòa ở Ấn Độ (TTXVN). – Nỗi đau gia đình nạn nhân bị cưỡng hiếp (BBC). - Ấn Độ xử nghi phạm cưỡng hiếp (TN). - Vụ nữ sinh viên bị hiếp dâm ở Ấn Độ: Công tố sẽ đề nghị kết án tử hình (PLTP).
- Chính quyền Ấn Độ bị lên án do bỏ lơ kiểm soát việc thử nghiệm thuốc trên người (RFI).
- Sức khỏe của ông Chavez ‘mong manh’ (VOA). – ‘Hãy nói thật về tình trạng của Chavez’ (BBC).  – Báo tiếng Tây Ban Nha nói ông Hugo Chavez sắp chết: Hugo Chavez Health Rumors Swirl Online After Spanish Newspaper Says Venezuelan President Close To Death (Huffington Post). Đó là bài báo này, nói ông Chavez bị hôn mê: Hugo Chávez, en coma inducido (abc.es). Chuyện che giấu sức khỏe lãnh đạo thế này chỉ xảy ra ở những nước có lãnh đạo độc tài! – Hugo Chavez đang sống những ngày cuối: Hugo Chavez ‘living his last days’ (Telegraph).  – Ai sẽ điều hành đất nước Venezuela sau khi Chavez qua đời? Who will run Venezuela after Hugo Chavez? (cbc.ca). ĐCSVN đang lo: Ai sẽ giúp Việt Nam tiến lên CNXH đây hả Trời?  – TỔNG THỐNG HUGO CHAVEZ VÀ HIẾN PHÁP VENEZUELA (TSYG).
- Quốc tế yêu cầu Miến Điện ngừng không kích lực lượng Kachin (RFI). – LHQ cảnh báo Miến Ðiện về các vụ không kích ở bang Kachin (VOA). – LHQ kêu gọi Thái Lan đừng trục xuất người tị nạn Rohingya (VOA).
- Tổng thống Putin cấp quốc tịch Nga cho tài tử Pháp Gérard Depardieu (RFI).
7<- Hải quân Nga trang bị thêm 50 tàu chiến trước 2016 (TTXVN). – Nga tập trận hải quân quy mô lớn nhất từ vài thập kỷ (RFI).
- Lực lượng khu vực Trung Phi yêu cầu phe nổi dậy ngưng tiến quân (VOA).
- Máy bay không người lái hạ sát một lãnh chúa Pakistan (VOA).
- Khẩu chiến Monti – Berlusconi (NLĐ/ Tin mới).
- Hàng ngàn tín đồ Hồi giáo Shia đổ về thánh địa Karbala (VOA).
- Ba người bị bắn chết ở một làng Thụy Sĩ (BBC).
- Hạ viện Mỹ biểu quyết về tiền cứu trợ nạn nhân bão Sandy (VOA).
- Lãnh đạo ngày nay ‘dùng nhiều Twitter’ (BBC).

* VTV1: + Chào buổi sáng – 03/01/2013; + Tài chính kinh doanh sáng – 03/01/2013; + Tài chính kinh doanh trưa – 03/01/2013; + Tài chính tiêu dùng – 03/01/2012; + Đối thoại chính sách – 02/01/2013; + Thời sự 12h – 03/01/2013;  + Nhịp đập 360 độ thể thao – 03/01/2013; + Trò chơi âm nhạc – 02/01/2013; + Điểm hẹn văn hóa – 03/01/2013; + Khoảnh khắc thường ngày – 03/01/2013; + Cuộc sống thường ngày – 03/01/2013.

1524. Sống với Trung Quốc

Đôi lời: Một bài viết công phu, toàn diện, sâu sắc hiếm thấy liên quan chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Tuy nhiên, có một vài điều không ổn, khiếm khuyết “chết người”. Không biết có phải do để khỏi khiếm khuyết thì cũng dễ “chết mình”, nên phải né tránh chăng? Những không ổn này nếu không được chỉnh sửa một cách nghiêm túc thì nó sẽ xổ toẹt toàn bộ công phu của tác giả, thậm chí trở thành một thứ bả độc. 
PHẦN I
1. Đánh giá chung về một bên là chính quyền, một bên là giới trí thức và người dân trước họa TQ có cái vẻ ngoài khá công minh, thẳng thắn. Thế nhưng, khi thiếu sự gắn kết, về mối quan hệ nhân quả, trong thái độ ứng xử từ hai phía đã làm nội dung thiếu khách quan, không công bằng. Cụ thể, trong môi trường thông tin bị che giấu, hành động yêu nước bị bôi nhọ, trấn áp bằng quyền lực tuyệt đối nhưng lại không chịu chấp nhận bất cứ một giải pháp đối thoại nào, thì không thể dễ dãi ám chỉ rằng những kẻ yếu ớt bị áp chế đã thiếu tỉnh táo được. Suy nghĩ kiểu đó sẽ tự mình, nếu không muốn nói là khéo léo đẩy người đọc, rơi vào cái bẫy nguy hiểm, đó là “hòa cả làng”. Lối vuốt ve bên này cũng có cái dở, bên kia cũng mắc sai lầm, khi nhận định tình hình sẽ dẫn tới cái kết tất yếu là … “Nghĩ mãi không ra”, thậm chí sa vào hang cùng không thấy lối thoát.

Tệ hơn nữa, khi đem so sánh rất khập khiễng “ta” nay với cha ông xưa, những thời trên dưới một lòng, “có những vị vua vô cùng anh minh, lại khiêm nhường”, mà quan trọng hơn cả là tuyệt đối không có thứ “đồng chí”, “4 tốt”, 16 chữ vàng” cùng kẻ thù truyền kiếp, để rồi khuyên “con dân nước Việt mà đại diện của nó là giới trí thức, phải thật tỉnh táo để không gây ra trạng thái rối trí”. Dám so sánh vậy, dù có vô tình, cũng là rất hỗn với tiền nhân! 
2. Nhận định về thời chiến tranh VN, đánh đồng Pháp, cũng giống Mỹ, “quyết chia cắt Việt Nam để ngăn làn sóng đỏ” là không chính xác.  
3.  Từ khẳng định “không thể trách những nhà chính trị miền Bắc thời ấy khi họ buộc phải dựa vào Trung Quốc” rồi đi tới so sánh họ cũng “giống như những nhà chính trị của chính thể Việt Nam Cộng hoà phải dựa vào Hoa Kỳ”, mặc dù có thòng một nhận xét “bên trong những kiện hàng viện trợ là một tính toán lâu dài về lãnh thổ và lợi ích quốc gia của người Hán”, là rất sai về bản chất. Sai nhiều lẽ, trong đó có một cái sai khủng khiếp, sẽ dẫn dắt người đọc tới cái sai cuối cùng về giải pháp đối phó. Đó là một đằng dựa vào kẻ thù truyền kiếp, từng thôn tính ta hàng ngàn năm và mãi mãi muốn xâm chiếm hoàn toàn, cộng với truyền bá một thứ chủ thuyết sẽ không còn coi chủ quyền quốc gia là cái thá gì nữa, nên nay nó tệ hại hơn xưa rất nhiều, còn một đằng dựa vào đồng minh thực sự, không bao giờ có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ. Thêm nữa, còn có thứ quan trọng không kém, là hai chỗ dựa đó khác nhau một trời một vực về bản chất chính trị – văn hóa nội tại, mà ngày nay gần như cả thế giới dân chủ văn minh đều phải công nhận. 
4. “Chúng ta đã thất bại quá lâu cho một cuộc hoà giải dân tộc …” Ô hay! “Chúng ta” là ai đây? Có phải cái tội lớn đã không thực hiện “hòa giải dân tộc” là tội chung của cả Dân tộc? Nếu vậy chắc cố TT Võ Văn Kiệt khi sinh thời đã không phải đơn độc để lên tiếng về vần đề này. 
5. “… mọi sự hữu hảo giữa hai đảng, hai nước, hai dân tộc… chỉ là sự vờ vịt mà cả hai bên đều đọc thấy hết những gì thật sự ẩn chứa bên trong, sẽ còn kéo dài chưa biết đến bao giờ…” Lại một lối “sập xí sập ngầu” nữa! Cái “hữu hảo” giữa hai đảng hoàn toàn khác với lối “hữu hảo” của người dân, thưa tác giả. 
Thêm nữa, là với cái hình tượng “một con mãnh thú luôn đói mồi”“một con nhím chỉ muốn yên thân nhưng bất khuất, đầy kinh nghiệm thoát hiểm và có khả năng làm đối phương phải tổn thương”, tuy người đọc được xoa dịu bằng đánh giá “những chữ vàng về tình anh em” chỉ là thứ son phấn, song cũng không che dấu được một lối ẩn dụ, so sánh theo kiểu vơ vào tất thẩy, rất khập khiễng, mị dân. Bởi cái gọi là “con nhím” này thật khó hiểu, nó là hình tượng của “toàn đảng, toàn quân, toàn dân nhất trí một lòng” hay sao?
Không lạ gì lối viết này, khi nó cũng có vài điểm na ná bài diễn thuyết của Trần Đăng Thanh, với nhiều lời đánh giá nghiêm khắc, nhưng chẳng có gì mới mẻ và khó nói, về bản chất, mưu đồ của TQ, làm không ít người đọc mê mẩn, song ở những điểm mấu chốt nhất mà người đọc cần có thì nó lại … méo mó. Đó là: + Bản chất mối quan hệ hai đảng CSVN và CSTQ; + Bản chất mối quan hệ giữa người dân với ĐCS, chính quyền VN trong vấn đề quan hệ với TQ.
PHẦN II
6. Khi bàn về ngoại giao, chứ không phải chỉ quân sự, trong nhiều năm qua mà coi Philippines cũng giống VN, đều “bình chân như vại”, cùng “nhắm mắt bịt tai tự dối lòng mình” trong một thời gian dài trước những “thủ đoạn chính trị” của TQ là không chính xác, là làm lơ những gì ĐCSVN đã thỏa thuận với TQ liên quan chủ quyền mà hiện giờ người dân vẫn chưa được biết. 
7. Toàn bộ Phần II là một sai lạc khổng lồ khi tác giả sa vào bàn tới lĩnh vực mà chắc chắn không thể thông tỏ được bao nhiêu, là chiến lược, chiến thuật quân sự trên biển, liên quan tới nhiều quốc gia, trong khi theo như tiểu tựa thì nó phải là những “điều có thể xảy ra”, không phải chỉ quanh chuyện “hải chiến” để “đánh chiếm Biển Đông”. Chính vì vậy nên người đọc bị ngập trong cả một biển chữ với nhiều từ ngữ văn vẻ, biểu lộ cảm xúc, nặng tính tuyên truyền, cổ võ, thứ không cần thiết cho thể loại được tự coi là “chuyên luận” này, cùng với nhiều nhận định có phần ngây thơ. 
Thực tế trong suốt ít nhất là 1 năm qua, TQ đã chứng tỏ khá thành công trong hàng loạt động thái lấn lướt trên biển, để rồi sẽ “bất chiến tự nhiên thành”. Họ lại được hậu thuẫn quá vững chắc bằng cam kết “16 chữ vàng”, “4 tốt”. Rất nhiều khả năng trong thời gian dài tới, họ vẫn sẽ tiếp tục chiến thuật này mà không cần phải động binh, hoặc nếu có thì cũng chỉ là vài động tác cảnh cáo, không đáng gọi là “hải chiến”, để phục vụ các hoạt động ngoại giao, kinh tế, pháp lý. Vậy thử hỏi cứ sa vào chỉ bàn tới chuyện TQ có dám đánh hay không, đánh thì thua hay thắng, thiệt hại tới đâu … có phải là một sự lạc hướng hay không? 
Một cái “lạc” khác không kém phần nguy hại, đó là coi cam kết “16 chữ vàng”, “4 tốt” như là sự “đánh lừa” của TQ đối với lãnh đạo ĐCSVN, như thể các vị này không khác gì một đám con nít, thậm chí như trâu bò, đang bị “dắt mũi”. Ẩn số mà tác giả quan tâm là có hay không chuyện “các lãnh tụ hàng đầu” của VN “đều tin vào những lời đường mật” của TQ, vì còn “chưa đủ bằng chứng”, chứ không phải là có hay không cả hai phía cùng nhất trí đồng lòng, chung lưng đấu cật để sống qua ngày đoạn tháng, trước nguy cơ sụp đổ nốt những mảnh tường thành còn lại của khối XHCN; họ ngấm ngầm chấp nhận trình diễn màn cãi cọ để một kẻ chịu để rơi mất cái mặt nạ “phát triển trong hòa bình”, còn kẻ kia thì hy sinh lợi ích Dân tộc, mất nốt niềm tin còn sót lại từ dân chúng. 
PHẦN III
8. Nhưng may là, toàn bộ nửa đầu của Phần III này đã sửa chữa phần nào cho cái sai lạc của Phần I và II, đó là việc nêu ra vài hoạt động phi quân sự đã, đang xảy ra hoặc quân sự nhỏ lẻ có thể có trong tương lai của TQ để gặm nhấm dần Biển Đông. Kể cả những cảnh báo với nhà cầm quyền VN về nguy cơ từ “tự bưng bít thông tin”, “tự làm nhụt chí nhau”, “viện vào ý thức hệ”, “tự nguyện quàng thêm vào cổ cái ách ý thức hệ để tự trói tay mình” cũng bổ trợ cho cả 2 phần trên. Nếu đoạn này được đưa lên Phần I và II, có vị trí xứng đáng hơn thì những nhận định tình hình sẽ rõ hơn, bớt sai lạc và tự mâu thuẫn hơn. 
Khi bàn tiếp về chỗ dựa “ý thức hệ”, tác giả đã làm rõ hơn sự nguy hại với nhận xét rất xác đáng rằng “nó đang trói tay chúng ta trong những hành động vì lợi ích lâu dài của dân tộc và cách ly Việt Nam khỏi thế giới”, có điều không rõ dựa vào đâu mà ngay trước đó lại đánh giá như trái ngược rằng những người cộng sản VN đang “khôn ngoan kiểu con sóc”, có “tài leo dây để thoát hiểm”
9. Chính thứ “đang trói tay chúng ta” đấy đã cách ly VN trong mối quan hệ, xây dựng niềm tin với Hoa Kỳ. Thế nhưng, trong phần bàn về giải pháp “dựa vào Hoa Kỳ” để bớt bị TQ bắt nạt, tác giả đã lan man quá dài những điều không cần thiết, mà quên mất điều hệ trọng nhất này, thứ có thể dẫn đến một kết cục là người Mỹ sẽ “buông” VN một khi không còn đủ kiên nhẫn trước một kẻ lá mặt là trái không thể tin cậy nổi. Với chỗ dựa ASEAN, tác giả cũng không nêu ra được điều quan trọng này, khi mà nhiều thành viên trong đó, chỉ mấy chục năm trước, từng nằm trong khối SAETO cùng ngăn chặn họa cộng sản từ phương Bắc và VN tràn xuống. Giờ đây, liệu có thể xây dựng được niềm tin với họ khi mà đằng sau những trò đỏng đảnh với “bạn vàng” là những thỏa thuận ngấm ngầm giữa hai đảng?
10. Một sai lầm tiếp theo là khi bàn về chỗ “dựa vào sức mình” để bảo vệ chủ quyền, tác giả lại hầu như chỉ chú tâm nói tới chiến tranh với TQ, tương tự như toàn bộ Phần II của bài. Tác giả đúc kết có tất cả “6 lợi thế”“6 bất lợi”, đều liên quan tới cuộc chiến tranh giữa hai nước nếu như xảy ra. Rõ ràng như vậy là rất phiến diện; còn bao nhiêu mặt trận đấu tranh như pháp lý, ngoại giao, truyền thông, kinh tế, … đã không được bàn đến. 
11. Có lẽ do ôm đồm quá trong một phạm vi quá rộng những điều đề cập tới, nên tác giả đã bị đuối khi nói về những “lợi thế”, “bất lợi” ở trên, gồm những khẳng định to tát nhưng rất sơ sài, cho tới phần cuối “kết luận” chung chung, vô thưởng vô phạt, kiểu như “không thể đưa đẩy trốn tránh trách nhiệm nhưng cũng không được nóng vội, hấp tấp, thiếu chín chắn”, hay “bất cứ sai lầm nào cũng đều không có cơ hội sửa chữa hoặc phải trả giá đắt kéo dài suốt nhiều đời”, hoặc mơ hồ như “chỉ riêng việc phải lựa chọn giữa sống hay là chết dưới tay Trung Quốc, chúng ta đã không còn thời gian để cân nhắc”, “nhiệm vụ quan trọng nhất là đất nước phải hùng mạnh và trở thành một thành tố trong chuỗi giá trị toàn cầu, càng nhanh càng tốt”. Những góp ý thiện chí về “xây dựng một xã hội dân chủ thực sự”“thực hiện triệt để hoà giải dân tộc”  đã không được đi sâu.
Ngoài yếu tố do ôm đồm quá sức mình dẫn tới những mâu thuẫn trong lập luận, bố cục lủng củng, ý hay, dở trái ngược nhau trong cùng một chủ đề, … không biết có phải tác giả vẫn viết theo kiểu “lách”, nên đã cho ra một sản phẩm như vậy? “Lách” kiểu đó, trong một “chuyên luận” công phu, của một nhà văn có tiếng, đăng trên một trang mạng tự do uy tín nhất với giới trí thức, chứ không phải trên báo nhà nước, là không hợp lẽ chút nào và sẽ có những tác động không tốt cho lợi ích chung.
BS
Bauxite Việt Nam

Sống với Trung Quốc

Tạ Duy Anh
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
(Nguyễn Trãi)
Lời tự bạch:
Cổ nhân có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Người thất học còn phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của xã tắc, nữa là một kẻ ít nhiều có đọc qua vài trang sách Thánh hiền.
Tôi có ba tư cách để viết chuyên luận này: Tư cách con dân Việt, tư cách chiến binh Việt bẩm sinh và tư cách một kẻ sĩ Việt.
Tôi dựa trên nền tảng quan điểm sau:
- Mục tiêu lớn nhất của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là thôn tính Biển Đông và đối thủ số một là Việt Nam.
- Việt Nam là nước nhỏ hơn nên luôn cần hoà bình, sống yên ổn bên cạnh Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là cửa ngõ phía Nam, nơi Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lý trong tác chiến.
- Một cuộc chiến tổng lực giữa Việt Namvà Trung Quốc trên Biển Đông là bất phân thắng bại nhưng là thảm hoạ cho cả hai nước. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều cần hoà bình.
Tôi tin rằng:
- Thượng sách là làm sao để sống hòa bình với Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền tinh thần (bao gồm chính trị, văn hóa, lối sống…)
- Hạ sách là phải lựa chọn chiến tranh, dù ngắn hay dài, bởi hệ lụy của nó thì chưa thể biết hết, nhưng điều biết trước là – do cùng chung biên giới – sau sự tan hoang, đổ máu sự căng thẳng luôn trở về đúng điểm xuất phát khi chưa xảy ra binh đao và nguy hiểm hơn là nó tiếp tục làm tăng thêm mối hằn thù dân tộc là thứ sẽ để lại hậu quả cho con cháu lâu dài.
- Tối hạ sách là quá sợ chiến tranh mà đành ôm mối nhục để kẻ thù xâu xé cương vực, nuốt dần lãnh thổ, giết hại dân lành.
Chuyên luận chia làm ba phần: Bản chất của mối quan hệ Việt-Trung; Biển Đông và những điều có thể xảy ra; và Dự đoán hành động của Trung Quốc và sự lựa chọn của Việt Nam.
Tôi được khích lệ, chia sẻ ý tưởng từ nhiều người, nhất là những bạn trẻ nhiệt huyết với vận mệnh đất nước, những đồng nghiệp nhiều ưu tư nhưng vì nhiều lý do mà không thể tự do phát biểu quan điểm như tôi. Tôi xin tặng lại chuyên luận này cho họ.
Có thể những gì tôi suy nghĩ và viết ra chỉ đáng là những điều vô bổ, nông cạn hoặc là những chuyện đã biết rồi, không ai cần đọc. Nhưng tôi không vì điều đó mà nản chí bởi đây là tấm lòng của tôi với đất nước, một đất nước chưa bao giờ thôi khốn khó nhưng là nơi duy nhất tôi có thể sống và chết. Tôi cũng không giấu giếm rằng, cho đến khi hạ chữ cuối cùng của chuyên luận này, tôi vẫn chưa thoát khỏi cảm giác Nghĩ mãi không ra.

PHẦN I:

BẢN CHẤT CỦA MỐI QUAN HỆ VIỆT-TRUNG

Kể từ cuộc xâm lược Đại Việt của nhà Tống cho đến năm 1979, cứ cách ngắn nhất là 200, dài nhất là gần 400 năm (trung bình khoảng 250 năm) người Hán lại chủ động gây can qua với nước ta. Tất cả đều nhằm tới mục tiêu thôn tính lãnh thổ, biến nước ta thành quận huyện của họ. Nếu khẩu độ thời gian này thành quy luật, thì chúng ta đang ở vào thời kỳ Hoà Bình với Trung Quốc. Nhưng không có bất cứ điều gì đảm bảo cho nhận định đó. Tôi luôn cảm thấy chúng ta còn rất ít thời gian để chuẩn bị cho một cuộc đối đầu mới với Trung Quốc, vượt khỏi quy luật về tần suất vừa nêu và về mức độ khốc liệt. Nói cách khác, với Trung Quốc ngày nay, mọi sự đều vô cùng khó lường. Vì thế chúng ta cần phải động não đưa ra được một đối sách để tồn tại hoà bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ quyền lãnh thổ (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta) và chủ quyền chính trị. Trong thời gian qua, ngoài quan điểm được nói ra mồm của chính quyền: “Tránh những hành động làm ảnh hưởng đến đại cục trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”, nổi lên những xu hướng sau từ phía dân chúng trong và ngoài nước:
Xu hướng chủ chiến muốn Việt Nam dàn quân ngay tức khắc, cụ thể là đưa tàu chiến, máy bay ra để đối lại với những hành động bắt nạt, cướp bóc và giết hại ngư dân Việt Nam mà phía Trung Quốc thực hiện, khi điều kiện cho phép có thể dùng vũ lực đánh chiếm lại quần đảo Hoàng Sa và những vị trí bị Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa. Xu hướng này cũng lập tức kết tội chính quyền hiện tại hèn nhát, bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc và yêu cầu họ nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những lực lượng khác. Trong khi chưa thể chỉ ra lực lượng khác ấy là lực lượng nào, những người theo xu hướng này có lẽ cũng đã quên rằng, phần quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974 là từ quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, đồng minh số 1 của Hoa Kỳ lúc ấy, khiến hơn 60 chiến sĩ hải quân là con dân nước Việt bị bắn chết một cách tức tưởi trong cảm hứng vô cùng dã man của kẻ thù. Với một hạm đội khổng lồ của ông bạn lớn Hoa Kỳ nằm cách đó vài chục km, với rất nhiều vũ khí hiện đại, nếu người Việt (cụ thể là chính quyền miền Nam lúc ấy) định dàn quân giành lại Hoàng Sa thì không còn cơ hội nào tốt hơn chính thời điểm đó. Thực tế này với chính sách bị coi là nhu nhược của chính quyền hiện tại như một số người quy kết, là hai vấn đề khác nhau và mỗi vấn đề đều cần phải làm rõ, rạch ròi, công bằng trước lịch sử.
Xu hướng dân tộc chủ nghĩa cứng rắn muốn dựa vào tinh thần dân tộc, tinh thần bài Hán để thể hiện quan điểm cứng rắn với Trung Quốc. Giới hạn của xu hướng này là công khai đối đầu với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao, thậm chí nếu cần thì cắt đứt bang giao, sẵn sàng cho một cuộc đánh trả bằng quân sự. Xu hướng này gây sức ép với chính quyền để họ phải tỏ rõ thái độ chống lại Trung Quốc bằng lời lẽ và hành động ngay lập tức.
Nếu sau mọi chuyện, sáng dậy mở mắt ra chúng ta đã không còn là láng giềng của Trung Quốc thì chẳng có gì phải bàn nhiều.
Thực ra dưới thời cố Tổng bí thư Lê Duẩn, quan hệ Việt-Trung là thể hiện rõ ràng nhất của xu hướng này, với đỉnh cao của cuộc đối đầu là trận chiến biên giới năm 1979, kéo dài 30 ngày trên lý thuyết nhưng phải hơn 7 năm sau mới chấm dứt được sự đổ máu, sau khi để lại một biên giới tan hoang và một nền kinh tế kiệt quệ. Đấy là chưa kể thiệt hại lớn nhất về nhân mạng mà con số chắc chắn là nhiều vạn người vẫn còn trong vòng bí mật quốc gia!
- Xu hướng dân tộc chủ nghĩa mềm dẻo muốn Việt Nam độc lập với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao để tự chủ quan hệ đồng minh với những quốc gia có chung lợi ích chiến lược ở Biển Đông, số 1 là Hoa Kỳ, khiến Trung Quốc không dám cậy mạnh lấn lướt mà phải lựa chọn sự hữu hảo bình đẳng. Mặt khác nhà cầm quyền cần từ bỏ ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa như một mặc định vô lý, nhanh chóng dân chủ hoá đất nước theo tấm gương của một số quốc gia phát triển trong khu vực để nâng cao sức mạnh dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng, tiến tới đưa nước ta thành một cường quốc kinh tế, quân sự… Khi đó nền hoà bình với Trung Quốc sẽ tự nhiên được thiết lập và có cơ sở để bền chắc và có cơ hội để đòi lại những phần lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.
Hàng loạt kiến nghị, tuyên bố… của những nhân sĩ, trí thức, công, nông, binh… trong thời gian qua là theo xu hướng này. Cùng với đó là những đợt người dân hai thành phố lớn xuống đường giương biểu ngữ phản đối Trung Quốc khi có sự cố nào đó họ gây ra trên Biển Đông.
Đây là xu hướng trước sau đất nước cũng phải lựa chọn, bởi nó mang tính tất yếu về mặt phát triển, đáp ứng nhiều nhất lợi ích của dân tộc trên mọi phương diện. Tuy nhiên khi tiếp cận ở một vài vấn đề then chốt vẫn còn hấp tấp, thiếu đi độ lạnh của lý trí, sự điềm tĩnh cần thiết để duy trì sự tỉnh táo. Chính vì thế nhiều ý tưởng đầy trách nhiệm với quốc gia, xuất phát từ những tấm lòng lớn với xã tắc, lại bị lồng trong cái vỏ của thứ ngôn ngữ chỉ dùng khi chửi bới, miệt thị, chế nhạo khiến mất đi tính đối thoại, rất đáng tiếc. Ngoài ra, vì để cho sự bức xúc chi phối mà nhiều ý kiến thành tâm bị mọi người hiểu sai, dẫn đến tác giả của nó bị vùi dập không thương xót, cũng làm mất đi không khí bàn bạc, tôn trọng nhau mà đáng ra giới trí thức phải gương mẫu duy trì (*). Với cá nhân tôi, những gì xảy ra giữa một bộ phận người dân với chính quyền Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là với Nhà nước Việt Nam thời gian qua là một bi kịch dân tộc. Trong khi kẻ thù đang lăm le ăn sống nuốt tươi lãnh thổ của Tổ Quốc, thì nội bộ Dân tộc lại bị phân tán. Tôi phản đối mạnh mẽ cách thức hành xử của chính quyền khi đàn áp biểu tình, tấn công các blogger có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc. Hành xử như vậy cho thấy chính quyền thiếu tự tin về trí tuệ nhưng lại quá tự mãn, ngạo mạn với vai trò và quyền lực của mình. Chính quyền không thể cho mình cái quyền không cần đối thoại với dân chúng mà chỉ một mực đòi họ tuyệt đối tin tưởng, trước một vấn đề nước sôi lửa bỏng như vấn đề chủ quyền và sinh mệnh đồng bào. Họ là những người dân bình thường, không thể đòi hỏi họ cũng phải tư duy như những chính khách và càng không thể vì thiếu tư duy ấy mà họ bị khép tội. Họ có quyền lo lắng cho đất nước và cần biết niềm tin của họ có cơ sở hay không và đang đặt vào đâu. Ngay cả khi phải giữ bí mật, phải đóng kịch với Trung Quốc để không phá vỡ sách lược nào đó không cần phải cho người dân biết, thì vẫn có cách chuyển tải điều đó cho dân chúng. Sự vụng về thì có thể thông cảm được chứ rất khó mà chia sẻ với cái kiểu “bí thí tốt” như đã xảy ra.
Nhưng mặt khác cũng phải nói một sự thật rằng, chúng ta không thể đối phó được âm mưu của Trung Quốc muốn chiếm vĩnh viễn Hoàng Sa và Trường Sa nếu chỉ bằng những cuộc biểu tình trên đường phố hoặc những lời hô hào trên Internet. Đánh thức lòng yêu nước, sự cảnh giác của mọi tầng lớp dân chúng trước âm mưu Hán hoá mà Trung Quốc đang tiến hành với Việt Nam là cần thiết, thậm chí cấp thiết hơn bao giờ hết và chắc chắn còn có nhiều cách khác nữa. Nhưng sự tỉnh táo sau đó để giải mã hành động của Trung Quốc rồi đưa ra đối sách khôn ngoan mới là thứ cần thiết hơn. Chúng ta không sợ một cuộc chiến tranh với Trung Quốc – nếu nó xảy ra – không có nghĩa rằng chúng ta luôn sẵn sàng để tuyên chiến với Trung Quốc, đặt đất nước thường xuyên bên bờ vực chiến tranh. Những lời hô hào kích động cho một cuộc chiến tranh thấy rải rác đâu đó, là vô cùng thiếu lý trí, thậm chí là vô trách nhiệm. Nếu ai đó ở Trung Quốc cũng nuôi quan điểm như vậy với Việt Nam, cho dù họ ở thế nước lớn gấp 30 lần chúng ta, cũng đáng bị coi là thiển cận.
Một cuộc chiến tranh với Trung Quốc là điều đầu tiên chúng ta (và không chỉ chúng ta, ngay nước Mỹ, nước Nhật…) phải tìm mọi cách để tránh khi còn có thể. Bản thân Trung Quốc cũng phải làm điều tương tự với các láng giềng của họ, ngoại trừ họ ảo tưởng mù quáng về sức mạnh hoặc có kẻ nào đó trong giới chóp bu tại Bắc Kinh lại thích cá cược với lịch sử. Tìm mọi cách để tránh, khác với tránh nó bằng mọi giá. Đọc lại lịch sử chúng ta đều nhận thấy ông cha ta cực kỳ nhất quán với quan điểm đó, tức là cố gắng hoà hiếu đến phút chót và chỉ khi không còn cách nào khác mới phải dùng đến vũ khí. Trước thế giặc quá mạnh, Triều đình Nhà Trần thậm chí đã nghĩ đến chuyện buông vũ khí để mong không phải chịu cảnh binh đao khốc liệt có nguy cơ huỷ diệt cả dân tộc! Sửa chữa sai lầm chết người đó chính là nhân sĩ, trí thức, tướng lĩnh và những người dân cày Đại Việt. Rút cuộc vua tôi nhà Trần đã khiến kẻ thù phải bạc tóc hàng trăm năm sau mỗi khi nhớ lại cuộc xâm lược nhục nhã đó. Bởi vì nhà Trần có những vị vua vô cùng anh minh, lại khiêm nhường (những người còn tin có thần Phật, trời đất đều khiêm nhường), biết coi sinh mệnh của xã tắc cao hơn sĩ diện cá nhân, sĩ diện của triều đại. Nhà vua dám nói lên suy nghĩ của mình, dám thú nhận với bá tính sự kém cỏi, thiếu tự tin của mình trước một kẻ thù quá mạnh (dám thú nhận sự kém cỏi của mình chưa bao giờ là người kém cỏi!), cần đến các hiền tài dân tộc, cần tiếng nói quyết định của mọi tầng lớp nhân dân. Chính nhờ ở tinh thần “bóp nát quả cam”, ở những lời nói khẳng khái “Đầu thần còn trên cổ thì hoàng thượng chớ lo”, “Nếu định hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”… mà Triều đình nhà Trần đã kết thành một khối rắn chắc chôn vùi huyền thoại sức mạnh Nguyên-Mông và tạo nên hào khí Đông A để tiếng thơm đến muôn đời. Có những bậc minh quân như vậy, những người biết chọn đối thoại, biết lắng nghe thay vì đối đầu với dân chúng, làm sao kẻ thù có thể thắng được.
Giờ đây là lúc cả dân tộc cần đến một sự gắn kết, cần một sự đồng lòng, cần những bộ óc thông minh, trong sạch hơn bao giờ hết. Bởi vì vận mạng của dân tộc, sự tồn vong của xã tắc chưa bao giờ bị đặt vào thế chông chênh như hiện tại. Kẻ thù ngày nay không phải là những đạo quân công khai tuyên bố sẽ làm cỏ cái nước Nam nhỏ bé với những tối hậu thư ngông cuồng và lỗ mãng, ép con dân Việt phải cầm vũ khí. Kẻ thù ngày nay luôn mang bộ mặt bạn bè, thậm chí còn là những người có cùng mục tiêu lý tưởng, luôn luôn vuốt ve bằng những lời lẽ ngoại giao thuộc loại lịch sự nhất. Kẻ thù trước đây đặt chúng ta vào tình thế hoặc đánh lại hoặc bị tiêu diệt. Kẻ thù ngày nay tạo cảm giác là chỗ dựa tin cậy, cùng tồn tại và cùng phát triển, vì một mục tiêu cao cả cùng hướng tới. Nhưng trên thực tế, chưa khi nào nước ta bị xâm lược ở quy mô lớn và toàn diện như hiện nay. Chưa khi nào nguy cơ lại rơi vào vòng lệ thuộc ngoại bang của dân tộc chúng ta hiển nhiên như hiện tại. Vì vậy con dân nước Việt mà đại diện của nó là giới trí thức, phải thật tỉnh táo để không gây ra trạng thái rối trí.
Chúng ta phải xác định ngay với nhau rằng, Trung Quốc là mối bận tâm lớn nhất của người Việt, từ cổ sử cho đến muôn đời. Người Pháp, người Nhật và sau cùng là người Mỹ, chỉ là những yếu tố ngẫu nhiên làm gián đoạn mối bận tâm chính yếu đó, xét trên suốt hành trình là không đáng kể cho dù nó cũng đã làm thay đổi số phận của dân tộc. Chính các cường quốc phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ đã giúp người Việt tạm thời quên đi những đau thương do Trung Quốc gây ra. Quan hệ Việt-Trung bỗng nồng ấm tình anh em khi người Pháp và liền sau là Mỹ quyết chia cắt Việt Nam để “ngăn cơn sóng đỏ”. Không thể trách những nhà chính trị miền Bắc thời ấy khi họ buộc phải dựa vào Trung Quốc (giống như những nhà chính trị của chính thể Việt Nam Cộng hoà phải dựa vào Hoa Kỳ) cho dù không ít người nhận ra bên trong những kiện hàng viện trợ là một tính toán lâu dài về lãnh thổ và lợi ích quốc gia của người Hán. Họ (bao gồm cả hai phía) đáng trách ở chỗ đã ngạo mạn đánh đồng các mục tiêu chính trị có tính đảng phái dựa trên những chủ thuyết chính trị, với các mục tiêu dân tộc vốn cao hơn, thiêng liêng hơn mọi ý thức hệ. Vì thế, người Việt nên trách nhau một cách nghiêm khắc thì công bằng hơn. Chúng ta đã thất bại quá lâu cho một cuộc hoà giải dân tộc (**) (giờ này vẫn chưa hết thất bại!), tạo cơ hội cho các loại ngoại bang nhảy vào xâu xé, chia chác, tự tiện đưa ra những quyết định theo ý họ trên lưng người Việt. Hàng triệu con cháu của bà Âu Cơ bị chính người anh em, đồng bào của họ giết chết bởi vũ khí ngoại bang, là điều khủng khiếp nhất của lịch sử đất nước và các thế hệ tương lai phải tiếp tục suy ngẫm về cơn bĩ cực đau thương đó. Trong số những ngoại bang ấy thì Trung Quốc là ẩn số lớn nhất, chứ không phải Hoa Kỳ. Việc Trung Quốc mạnh mẽ viện trợ chiến tranh cho Bắc Việt Nam nhưng lại không muốn thấy một nước Việt Nam thống nhất, là bằng chứng rõ ràng nhất về điều đó. Họ muốn người Việt tàn sát nhau cho tới người cuối cùng để dễ bề nuốt gọn cái dải đất phía Nam mà hàng ngàn năm ông cha họ không thực hiện được, hoặc ít ra cũng biến thành cái đệm an ninh như họ đang đạt được với Bắc Triều Tiên. Trung Quốc là bậc thầy thiên hạ về khả năng giấu kín những mục tiêu chiến lược của mình. Những lời dạy của Đặng Tiểu Bình “Giấu mình chờ thời” đã nói rõ bản chất của nền chính trị Trung Hoa hiện đại. Giấu mình khi chưa đủ mạnh. Chờ thời cơ chín muồi, trong đó Trung Quốc đã là cường quốc, trong khi những cường quốc khác suy yếu, sẽ làm một cuộc trỗi dậy, đánh úp thiên hạ để rửa nhục cho những thất bại triền miên của dân tộc Trung Hoa (không phải chỉ thất bại trước người Việt). Thực ra đây là một tư tưởng nguy hiểm cho thế giới, đặc biệt với những nước láng giềng trong đó có Việt Nam. Và cũng chính thủ đoạn đầy tinh thần Đại Hán đó đã xác định bản chất của mối quan hệ không chỉ Việt-Trung mà cả giữa Trung Quốc với thế giới.
Chưa khi nào Trung Quốc ngạo mạn và tự tin vào sức mạnh của họ như hiện nay.
May mắn lớn nhất là đến giờ này chúng ta vẫn chưa bị Hán hoá! Trên thế giới hiếm có một dân tộc nào bị đô hộ tới cả ngàn năm mà lại vẫn sống sót với tư cách một dân tộc, để rồi sau đó phát triển thành một quốc gia, như Việt Nam. Đó là bi kịch khủng khiếp cho cả hai phía. Trong khi chúng ta bị dồn đuổi, bị áp bức, bị lệ thuộc, thì kẻ đô hộ cũng chẳng sung sướng gì. Sau một ngàn năm, việc người Hán đành phải nuốt hận dừng chân trên đường chinh phạt xuống phía Nam, chấp nhận có một quốc gia bé hơn họ gần ba mươi lần về diện tích, sống bên cạnh như một láng giềng, mà lại là láng giềng bướng bỉnh, là nỗi hổ thẹn không dễ gì quên đi được. Bằng chứng là từ khi nhà nước Đại Việt ra đời cho đến cuối thế kỷ 20, tức là 1000 năm sau đó, họ đã tám lần xua binh hùng tướng mạnh, lần lượt đối đầu với sáu triều đại chính của Việt Nam, quyết rửa nỗi nhục đế quốc mà vẫn không thành. Điều đó xác lập nên mối quan hệ lịch sử trớ trêu và bi thảm giữa chúng ta và Trung Quốc. Mỗi lần Trung Quốc muốn làm cỏ nước Nam, thì thêm mỗi lần họ phải nuốt xuống sâu hơn nỗi nhục thất bại. Nỗi nhục đó là nỗi nhục Quốc truyền. Ý thức rõ không thể tránh được Trung Quốc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tìm ra một triết lý sinh tồn bên cạnh người láng giềng khổng lồ và chưa bao giờ hết tham vọng lãnh thổ, đó là “thần phục giả vờ” (chữ của cố giáo sư Trần Quốc Vượng). Nghĩa là bề ngoài cha ông ta luôn tỏ vẻ thần phục Bắc triều với các hình thức dâng lễ vật hàng năm, bẩm báo một cách hình thức những việc trọng đại, chấp nhận chịu lễ phong vương (tức là chấp nhận thuộc quốc về mặt hình thức)… Thậm chí sau mỗi cuộc chiến, dù mình là người chính nghĩa và chiến thắng, nhưng – như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và sau này là Quang Trung đã làm – vẫn giành cho kẻ thù chút sĩ diện để nó không quá nhục mà trở nên điên cuồng. Nhưng bên trong thì lúc nào cha ông ta cũng giữ độc lập, bình đẳng với Trung Quốc trong mọi việc, sẵn sàng – cả về tinh thần (đoàn kết dân tộc) lẫn vật chất (rèn luyện binh sĩ, vũ khí, chẳng hạn chính sách “ngụ binh ư nông”… hoàn toàn chỉ để đối phó với Trung Quốc) – để cho gã khổng lồ nếm tiếp nỗi nhục thất bại nếu nó lại gây can qua. Về phía các triều đại Trung Quốc, một mặt họ cay đắng chấp nhận sự thần phục mà họ biết rõ là vờ vĩnh đó, một mặt họ không nguôi tìm cách xóa xổ nước Việt ở phương Nam, khi điều kiện cho phép. Điều kiện đó là khi nước nhà ta suy yếu hay lủng củng về nội bộ. Điều kiện đó còn là khi các triều đại của Trung Hoa tiếm quyền nhau và muốn lấy lòng dân chúng, muốn chứng tỏ họ hùng mạnh, muốn mở mang cương vực (thời điểm hiện tại có vẻ như đang hội đủ những yếu tố bên trong và bên ngoài như vậy!). Họ đã thành công với hầu hết các nước nhỏ ở phía Tây, phía Bắc nhưng chưa bao giờ làm được điều tương tự khi quay xuống phương Nam. Vì thế, sự ngang nhiên tồn tại một nhà nước của một trong số những tộc Việt không thể tiêu diệt, chính là nỗi hận truyền đời của người Hán. Vì những mục tiêu lâu dài, trong một số điều kiện không thể chủ động, Trung Quốc buộc phải làm chỗ dựa cho Việt Nam trong một thời gian. Đây là một phần của sự thật lịch sử bang giao hiện đại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sự thật này có vẻ bề ngoài ngọt ngào nhưng bên trong vẫn là cái hạt đắng đót kết lại từ hàng ngàn năm quá khứ mà chính sách trắng của Bộ ngoại giao Việt Nam năm 1979 đã chỉ ra. Cuộc chiến biên giới Tây Nam năm 1978 với chế độ đồ tể Pônpốt và cuộc chiến phía Bắc năm 1979 với bậc thầy của hắn ta, tuy với hai quốc gia khác nhau nhưng đều có một điểm xuất phát từ Bắc Kinh. Nó là nút thắt định mệnh mỗi 250 năm (chính xác chỉ có 190 năm, kể từ cuộc xâm lược của nhà Thanh, là khẩu độ thời gian ngắn nhất) của lịch sử chưa bao giờ hữu hảo thật sự giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Giờ đây, cho dù được khoác bằng những chữ vàng về tình anh em, được tô son trát phấn bởi đủ thứ mỹ tự, thì quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, trên thực tế là quan hệ giữa một con mãnh thú luôn đói mồi với một con nhím chỉ muốn yên thân nhưng bất khuất, đầy kinh nghiệm thoát hiểm và có khả năng làm đối phương phải tổn thương. Người Trung Quốc có thể cũng rất muốn có sự yên ổn ở phía Nam, nhưng với điều kiện các đòi hỏi về lãnh thổ và lãnh hải – đặc biệt là lãnh hải – của họ phải được thoả mãn. Mà điều vô lý theo kiểu sô-vanh đó thì không bao giờ được chấp nhận, một khi người Việt chưa diệt vong. Vì vậy, mọi sự hữu hảo giữa hai đảng, hai nước, hai dân tộc… chỉ là sự vờ vịt mà cả hai bên đều đọc thấy hết những gì thật sự ẩn chứa bên trong, sẽ còn kéo dài chưa biết đến bao giờ, ít nhất là chừng nào chúng ta còn chưa giành lại được Hoàng Sa, hoặc chừng nào Trung Quốc chưa trở thành một cường quốc dân chủ, có trách nhiệm và do đó từ bỏ tham vọng ngông cuồng, đầy ảo tưởng thể hiện trên bản đồ lãnh hải hình lưỡi bò.
Có thể đã thừa căn cứ để nói rằng: Không ai mong muốn làm láng giềng núi liền núi, sông liền sông với Trung Quốc như những gì thế giới chứng kiến ở họ. To lớn như nước Nga hay Ấn Độ họ cũng không thích thú gì có một ông bạn thâm hiểm, tham tàn và khó lường như Trung Quốc ở bên cạnh. Trong nửa sau thế kỷ 20, Trung Quốc trực tiếp và gián tiếp gây chiến tranh với hầu hết bạn bè lân bang, đúng tinh thần của Binh pháp Tôn Tử: “Viễn giao, cận công”. Vì thế, số phận quả là khắc nghiệt đã đặt chúng ta bên cạnh Trung Quốc, lại ở phía dễ tổn thương nhất. Việc thất bại trong quá trình đồng hoá và xâm lược Việt Nam suốt hai ngàn năm, chưa phải là bài học cuối cùng cần khép lại vĩnh viễn với người Trung Quốc. Họ sẵn sàng theo đuổi tiếp hai ngàn năm nữa để thực hiện mục tiêu đó. Mấy chục năm hữu hảo, mấy trăm triệu đô la viện trợ để chúng ta có thể “đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng” chỉ là bước đi nhỏ, của một tính toán dài hạn, lạnh lùng, không thay đổi một li một lai mà người Trung Quốc vạch ra chi tiết cho việc thôn tính chúng ta. Xét về mọi khía cạnh thì đây là một thực tế bi thảm mà chúng ta phải đối mặt. Bi thảm vì chúng ta luôn ở thế lép vế so với họ; bi thảm vì chúng ta không có quyền lựa chọn không gian sống khác; bi thảm vì dân tộc chúng ta là một dân tộc quật cường, hoặc sống hoặc chết chứ không trở thành họ, càng không trở thành một bộ phận dơ dáy của họ. Bi thảm còn vì chúng ta không thể nhắm mắt lại rồi hy vọng khi mở ra đã ở bên một nước khác không phải Trung Quốc. Chúng ta, trong bất cứ khoảnh khắc nào đều không được phép sao lãng công việc để ý ông bạn láng giềng. Bỗng dưng nó mạnh lên là phải cảnh giác. Nhưng đột nhiên nó có nguy cơ tan vỡ cũng lại là mối nguy hiểm. Thấy họ cãi nhau với người hàng xóm khác (chẳng hạn như những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với Nhật Bản hay Philippines), phải nghĩ ngay đến việc họ đang giương đông kích tây, đánh lừa dư luận khỏi chú ý đến mục tiêu chính ở Biển Đông, tức là có thể bất ngờ đánh úp mình bất cứ lúc nào.
Nhưng có lẽ bi thảm nhất là vô tình chúng ta đóng vai trò vật cản tự nhiên của tham vọng bành trướng Đại Hán Trung Quốc. Đây là thực tế phũ phàng xác định tính thực chất lâu dài cho mối quan hệ Việt-Trung.
Nói gọn lại, chừng nào Trung Quốc còn nuôi ý đồ độc chiếm Biển Đông, chừng nào Trung Quốc còn chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa, tìm cách gặm dần Trường Sa của Việt Nam, chừng nào người Việt Nam còn không chấp nhận sự chiếm đóng của Trung Quốc trên một phần lãnh thổ, không chấp nhận sự lệ thuộc tinh thần, thì chừng đó quan hệ Việt-Trung là quan hệ của hai đối thủ, mọi sự hữu hảo chỉ là tạm thời và vờ vĩnh. Thực chất của mối quan hệ đó là bên này tìm cách cô lập, làm suy yếu bên kia càng nhiều càng tốt (trên thực tế điều này chỉ đang diễn ra một chiều, từ phía Trung Quốc). Với Trung Quốc là cả một chiến lược toàn diện, dài hạn, nhất quán, được chuẩn bị kỹ với tầm nhìn hàng trăm năm từ chuẩn bị lực lượng quân sự, chèn ép về buôn bán, giao thương, xâm lược văn hoá, quấy nhiễu, gây rối an ninh, áp đặt dư luận bằng quy mô tuyên truyền lớn, thao túng hàng hoá, tiền tệ, công nghệ, làm suy thoái nòi giống Việt (***)… không thể kể hết, đến những can dự vào chính trị, chia rẽ nội bộ, kiềm toả về ngoại giao, kinh tế, nhằm làm cho Việt Nam suy yếu toàn diện, … Còn về phía Việt Nam, chúng ta chỉ có một cách duy nhất là tỉnh táo thoát khỏi những mưu mô đó của Trung Quốc, tận dụng thời cơ trong đó có cả những mâu thuẫn giữa các cường quốc để phát triển. Về phần Trung Quốc, họ nắm toàn bộ sự chủ động, có thể đề ra luật chơi theo ý mình nhưng tuyệt đối không phải vì thế mà họ có quyền định đoạt. Về phần mình, chúng ta bắt buộc phải sống bên cạnh họ – nhiều người có vẻ không nhớ thực tế đơn giản này – đành ở vào thế phải nương theo và vì vậy chúng ta chỉ có thể tồn tại và phát triển bên cạnh Trung Quốc bằng một đối sách khôn ngoan.
PHẦN II:
BIỂN ĐÔNG VÀ ĐIỀU CÓ THỂ XẢY RA
Trung Quốc luôn viện dẫn căn cứ vùng biển lịch sử để bào chữa cho lý do họ muốn chiếm trọn Biển Đông. Một trong những căn cứ mơ hồ đó là tên gọi lấy phương vị dựa theo lục địa Trung Quốc: Biển Nam Trung Hoa. Diễn nôm ra theo ý họ thì đó là vùng biển phía Nam của Trung Quốc. Đây là sự diễn dịch vô lối: từ phương diện thuận tiện cho hàng hải biến thành phương diện chủ quyền. Nó cũng là căn cứ mang màu sắc nước lớn bắt nạt thiên hạ. Trung Quốc chỉ nên lấy đó làm niềm tự hào dân tộc – trên phương diện địa lý, văn hoá, chủng tộc. Thực tế là từng có cả một đại dương mang tên nước Ấn Độ song điều đó không có nghĩa Ấn Độ có chủ quyền toàn bộ cái đại dương mênh mông đó. Mexico trong quan hệ chủ quyền với vịnh Mexico sẽ là ví dụ tiếp theo.
Nhưng mọi tranh cãi chỉ là vô ích và vô nghĩa khi chúng ta hiểu người Trung Quốc nghĩ gì và muốn gì.
Người Trung Quốc tự coi họ là trung tâm của thế giới. Đây vừa là sự phô trương văn hoá, niềm hãnh diện tinh thần của một dân tộc lớn, nhưng chính điều đó cũng bắt đầu cho một bi kịch Trung Hoa kéo dài hàng ngàn năm qua chưa tìm ra lối thoát. Các triều đại Trung Hoa, với vị thế của một nước trung tâm, là vua thiên hạ, đã cố công để cho tấm áo khoác ngoài xứng tầm với vóc dáng của họ. Nhưng chính vì sự cao ngạo dân tộc đó mà suốt hàng ngàn năm, nước Trung Quốc thấy tự đủ là một thế giới, không cần phải mở ra bên ngoài, nơi chỉ là phên dậu, man di của họ. Hoàng đế tài giỏi Càn Long trở thành gã vua gàn khi cứ khăng khăng trước sứ thần người Anh là cho dù các ngươi tài giỏi đến đâu, cũng thua xa nước trẫm! (Chỉ mấy chục năm sau, Trung Quốc phải nhục nhã nhượng Hồng Kông cho Anh Quốc và chịu sự sai bảo như một thuộc quốc). Nghe nói Mao không thèm học ngoại ngữ, bởi vì với ông ta “Thế giới phải học tiếng Trung Quốc!”. Đó là một phần lý do khiến Trung Quốc ngủ yên trên ngai vàng suốt nhiều thế kỷ, tụt lại khá xa so với thế giới phương Tây và Nhật Bản.
Bi kịch xuất phát từ sự kiêu ngạo Trung Hoa khiến nước Trung Quốc chậm phát triển, bị canh chừng trên toàn thế giới. Nhưng điều đó chưa thấm vào đâu so với bi kịch về mặt địa lý trước vị thế của một cường quốc. Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga… đều là những cường quốc thông với thế giới, hoặc có khả năng mở ra mọi hướng. Riêng Trung Quốc thì lọt tỏm giữa các thành trì – xét theo cả hai nghĩa. Phía Bắc là nước Nga khổng lồ, phía Đông là Nhật Bản và không gian “lợi ích cốt lõi về an ninh” của Hoa Kỳ, phía Tây có Ấn Độ án ngữ, thêm vào đó là vùng đệm Hồi Giáo bị cạnh tranh ảnh hưởng mạnh mẽ giữa Hoa Kỳ và Nga. Về mặt địa lý đó đều là những vùng núi non hiểm trở, đất đai cằn cỗi do sa mạc hoá, lại luôn bất ổn về chính trị, sắc tộc, rất khó kiểm soát. Đó là lý do vì sao Trung Quốc quyết tâm gây chiến với Ấn Độ để thôn tính hoàn toàn vùng đất mà Ấn Độ gọi là Nam Tây Tạng làm ngõ ra phía Tây bằng cái giá đắt. Rủi cho họ là mục tiêu đó chưa thành. Như vậy là ba lối ra của gã khổng lồ mơ giấc mơ đại cường đều vấp phải thành luỹ khó vượt qua, thậm chí là không thể vượt qua. Cuối cùng chỉ còn duy nhất ngả phía Nam, nơi có vùng biển rộng gần bằng nửa diện tích Trung Quốc, nối với ba lục địa quan trọng là châu Âu, châu Mỹ, châu Phi (tức là phần lớn thế giới) và hai đại dương chiến lược. Vùng biển này quan trọng với Trung Quốc cả về quốc phòng, kinh tế lẫn giao thương. Nhưng có lẽ quan trọng nhất là vùng biển này xác định vị thế trung tâm chi phối của Trung Quốc với thế giới về khả năng ảnh hưởng. Nếu cần nói rõ hơn thì sẽ là: Trung Quốc coi Biển Đông của Việt Nam là khu vực Exit của họ, có giá trị bảo hiểm cho những rủi ro dân tộc Trung Hoa về lâu dài. Vì vậy có thể thấy đây là vùng biển yết hầu, có ảnh hưởng to lớn đến mục tiêu bá chủ thế giới của Trung Quốc. Khắc nghiệt nhất với họ là vùng biển ấy lại của người khác, mang sứ mệnh đảm bảo giao thương hàng hải cho cả thế giới. Đây có thể là ý Trời, không muốn quả địa cầu này đến lúc nào đó chỉ còn duy nhất giống người mang dòng máu Hán. Không dân tộc nào có lỗi với Trung Quốc trong vấn đề này. Những gì họ đang làm là hành động cưỡng lại định mệnh xuất phát từ tham vọng mang tinh thần Đại Hán. Hãy giả định Trung Quốc làm chủ phần biển nằm trong đường chữ U do họ tự vẽ. Khi đó toàn bộ nguồn tài nguyên dưới đáy biển, được dự đoán là cực kỳ lớn, thuộc về họ, là thứ của dự trữ tự nhiên, khổng lồ gấp trăm lần vài ngàn tỷ USD dự trữ hiện nay của họ. Toàn bộ nguồn hải sản, đủ nuôi sống hàng trăm triệu người, cũng thuộc về họ. Hình dung tiếp: ngày nào đó thế giới cạn dầu, trong khi Trung Quốc vẫn rủng rỉnh, họ sẽ có quyền đưa ra những quyết định khiến thế giới phải phục tùng. Khi có thể đưa ra bất cứ quyết định nào về Biển Đông, Trung Quốc cũng dễ dàng hơn trong việc bắt chẹt Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là chiến lược thu hồi Đài Loan, hoặc chính Đài Loan, trong thế kẹt không còn sự lựa chọn, phải tự nguyện trở về với Đại Lục.
Lý do thứ tư mang tính võ đoán nhưng rất có thể lại là mục tiêu chủ chốt của Trung Quốc: Muốn thực hiện giấc mơ cai quản toàn bộ khu vực Đông Nam Á, chi phối châu Á, tiến tới thống trị ít nhất là một nửa bán cầu. Chính Mao Trạch Đông đã chả từng muốn làm chủ tịch 500 triệu bần nông Đông Nam Á đó sao? Chính ông ta chả muốn đưa người Trung Quốc xuống sinh sống ở Lào,Thái Lan,Myanmar… đó sao? Liệu đây là sự buột miệng của một hoàng đế tự coi mình ngang với trời, hay là mật chỉ cho các thế hệ con cháu? Chúng ta sẽ phải tìm lý do xác đáng cho nhận định này sau một vài sự kiện ở Indonesia, Campuchia hay gần đây là Myanmar… Nhưng nếu chỉ dừng ở những lý do trên, cũng dễ dàng nhận ra, Trung Quốc sẽ không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để có được điều họ vẫn thèm khát hàng trăm năm qua: Độc chiếm Biển Đông và trở thành đại cường số một thế giới!
Để thực hiện mục tiêu đó, nghe nói Trung Quốc đưa ra đường lối chiến lược 100 năm, lấy mốc là năm 2049, năm kỷ niệm chẵn một thế kỷ thành lập nước Trung Hoa hiện đại! Những năm đầu, do sai lầm trong đường lối kinh tế, do ảo tưởng về sức mạnh Trung Hoa và chủ yếu do mải mê củng cố quyền lực, đấu đá tiêu diệt lẫn nhau, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khiến đất nước của họ tiều tuỵ, to xác nhưng rỗng ruột, không khiến ai vị nể. Họ đành tạm nuốt xuống mục tiêu đầy tham vọng đã nêu. Và nó được nhớ lại khi ông Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền, mở đầu thời kỳ tư bản hoá nền kinh tế, biến Trung Quốc thành một nước phát triển nhanh nhất (đồng thời cũng tàn phá kinh khủng nhất) thế giới trong ba chục năm qua. Cho dù nhiều người thích nói lấy được khi gán mọi sự tiêu cực cho sự vươn dậy của Trung Quốc, thì sức mạnh Trung Quốc vẫn không vì thế mà thiếu tính hiện thực. Giờ đây càng ngày Trung Quốc càng có trong tay nhiều công cụ để thực hiện giấc mơ cường quốc, thậm chí là cường quốc duy nhất. Nhưng họ vẫn chưa thể đủ sức đưa ra những phán quyết theo ý mình khi chưa có trong tay thứ quan trọng đang thuộc về người khác ở cửa ngõ phía Nam. Họ vẫn phải “giấu mình”. Nếu xét kỹ thì chiến lược “giấu mình chờ thời” của Trung Quốc là vì mục tiêu lớn nhất thâu tóm Biển Đông. Trung Quốc có thể gây ảnh hưởng ở châu Phi, có thể chi phối Nam Á… nhưng đó chỉ là những chi phối mang màu sắc thương mại nhất thời. Tại đó Trung Quốc thực hiện cuộc “bòn vét”, “tận thu” thuộc địa mà không phải xua quân đội chiếm đóng, cai quản. Trên thực tế Trung Quốc thực hiện thứ chủ nghĩa thực dân kiểu Hán: Không chiếm đất mà chỉ cần chiếm của cải, sau đó rũ tay phủi trách nhiệm về vô vàn hậu quả họ để lại. Sẽ đến lúc những nền chính trị ở những khu vực đó trưởng thành, họ sẽ xua đuổi Trung Quốc, y như các thuộc địa xua đuổi thực dân châu Âu đầu và giữa thế kỷ trước. Khi đó người Trung Quốc sẽ thay chân người Mỹ trở thành mục tiêu khủng bố của những kẻ dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Biển Hoa Đông, với vài hòn đảo tranh chấp, không quá quan trọng với Trung Quốc về kinh tế cũng như mở rộng không gian sinh tồn. Vả lại họ biết rằng không thể vượt qua bức thành trì Nhật Bản có Hoa Kỳ luôn ở phía sau, một cách dễ dàng. Cuối cùng chỉ có thâu tóm Biển Đông, Trung Quốc mới tạo ra được sự chi phối mang giá trị địa chính trị, chi phối về an ninh, tạo bàn đạp để Trung Quốc vươn ảnh hưởng ra toàn cầu. Thiếu cái bàn đạp định mệnh này, giống như Trung Quốc chưa có điểm dậm chân hữu hiệu cho cú nhảy quyết định xem mình ở tầm cao nào. Điều đó giải thích vì sao Trung Quốc giành mọi ưu tiên chiến lược lãnh thổ cho Biển Đông. Để làm điều này, Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn chính trị. Một trong những thủ đoạn thành công nhất của họ là đã khiến cho những đối thủ tiềm tàng mất cảnh giác. Đầu tiên họ tìm cách qua mặt Hoa Kỳ bằng cú lừa “trỗi dậy hoà bình”, chờ Hoa Kỳ sa lầy họ mới lộ diện. Với Việt Nam, đối thủ chính cần tiêu diệt đầu tiên nhưng lại khó nuốt nhất, họ đánh lừa bằng 16 chữ vàng, tinh thần 4 tốt, lấy lợi ích đại cục mang tính ý thức hệ làm chính. Chúng ta chưa đủ bằng chứng để kết luận các lãnh tụ hàng đầu của Việt Nam đều tin vào những lời đường mật của Trung Quốc, nhưng rõ ràng, chúng ta đã để cho Trung Quốc dắt mũi khá lâu (trong đó có cả việc khiến người Việt bịt miệng người Việt về chủ quyền lãnh hải) ít ra là cho đến khi họ vẽ đường lưỡi bò trên Biển Đông. Trong khoảng thời gian 20 năm chơi trò gian lận ngoại giao, Trung Quốc đã chủ động cầm cái cuộc chơi ấy, kịp cho họ âm thầm chuẩn bị lực lượng mọi mặt, trong khi Việt Nam và cả Philippines vẫn bình chân như vại. Hải quân, không quân Việt Nam đã thuộc loại yếu, những lực lượng này của Philippines còn yếu hơn, tạo cho Trung Quốc thế thượng phong tuyệt đối trên biển. Chỉ đến khi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, nhòm ngó bãi cạn Scarborough mà Philippines tuyên bố chủ quyền, lãnh đạo của hai nước mới không còn có thể nhắm mắt bịt tai tự dối lòng mình được nữa.
Một câu hỏi cấp thiết đặt ra là: Với ý đồ chiến lược ấy, liệu Trung Quốc có quyết tâm đánh chiếm Biển Đông bằng một cuộc hải chiến toàn diện hay không và nó xảy ra khi nào?
Trả lời câu hỏi này trước hết phải trả lời được những câu hỏi sau:
- Hải quân và không quân của Trung Quốc nói riêng và tiềm lực của Trung Quốc nói chung thực chất mạnh đến cỡ nào?
- Nếu trận hải chiến toàn diện xảy ra, liệu nó sẽ kéo quốc gia nào vào cuộc?
- Phản ứng mạnh mẽ nhất của Hoa Kỳ sẽ ở mức nào?
- Hậu quả của cuộc hải chiến mà Trung Quốc phải gánh chịu lớn tới mức nào?
Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng khía cạnh một.
Trung Quốc có nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ, có thể nhanh chóng huy động tiềm lực quốc gia nhưng với hơn 1,3 tỉ dân, trong đó già nửa số đó thuộc diện nghèo đói, áp lực an sinh là vô cùng lớn. Trung Quốc luôn phải đối diện với sự rối loạn từ bên trong. Thay vì tập trung cho việc chiến đấu, quân đội Trung Quốc phải thường trực một lực lượng lớn để đề phòng hội chứng “mùa xuân Ả Rập”.
Hải quân, không quân Trung Quốc tuy mạnh lên khá nhanh nhưng chưa đủ áp đảo trong một cuộc chiến mà tầm hoạt động quá xa như ở Biển Đông. Với diện tích mặt nước mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền rộng hơn 3 triệu km vuông, thì lực lượng hải quân của Trung Quốc hiện tại quá mỏng, lại chưa từng qua thử thách chiến trường, trong khi đó đối phương sẽ không bao giờ chịu ngồi yên. Bài học về cuộc chiến biên giới năm 1979 hẳn nhiều nhà quân sự Trung Quốc chưa quên. Lừa được Việt Nam mất cảnh giác để bất ngờ mở cuộc đánh úp khiến lực lượng “mỏng dính” của Việt Nam nhanh chóng bị chọc thủng. Nhưng chỉ sau đó vài ngày phía Trung Quốc bắt đầu ngấm đòn từ những chiến binh Việt ngày thường mặc áo nông dân. Trên bộ còn thế nữa là trên biển, nơi chưa bao giờ Trung Quốc được coi là có thế mạnh. Đó là chưa kể sau khi đánh chiếm rồi thì còn phải giữ được nó. Trung Quốc rất biết điểm yếu này. Trung Quốc chưa có tàu sân bay và về lâu dài thì tàu sân bay của Trung Quốc cũng chưa thể hoạt động có hiệu quả. Không quân Trung Quốc giương oai thanh thế với thiên hạ là chính chứ chưa thể với tầm ra toàn bộ Biển Đông, đặc biệt là khả năng khống chế đối phương có bờ biển dài như Việt Nam. Nếu Việt Nam có kế hoạch phòng thủ tốt trên các đảo ở quần đảo Trường Sa, có sự hỗ trợ của không quân Việt Nam với tầm bay ngắn chỉ bằng một nửa của đối phương, thêm vào sự hỗ trợ của tên lửa phòng thủ bờ biển có độ chính xác cao, tên lửa đặt trên các tàu khu trục, tàu ngầm… thì mặc dù mỏng manh hơn Trung Quốc nhiều lần, các lực lượng phối hợp đó vẫn là đối tượng khó vượt qua của Trung Quốc. Vì vậy, ngay cả khi Trung Quốc có thể tự do hành động (ngụ ý không bị cản trở trực tiếp bởi Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ…), Trung Quốc cũng phải tính toán cực kỳ kỹ lưỡng trước khi khai hoả. Nếu chỉ dựa vào sức mạnh thuần tuý, Trung Quốc chưa dám phiêu lưu bằng cuộc chiến tổng lực quá nhiều rủi ro như vậy.
Việc quốc gia nào bị kéo vào cuộc xung đột trực tiếp, phần lớn phụ thuộc vào tính toán của Trung Quốc. Đây là lợi thế của nước lớn. Họ sẽ chủ động điều chỉnh phạm vi chiến trường sao cho không phải phân tán lực lượng và không thách thức công khai Hoa Kỳ. Bằng vào những thực tế chính trị, địa lý hiện tại, có thể trả lời, ngoài Việt Nam, sẽ không có nước nào bị lôi kéo đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Những gì mà Trung Quốc chuẩn bị công phu mấy chục năm qua cho lực lượng hải quân và không quân là để đối đầu và đè bẹp Việt Nam! Những hành động cố làm cho to chuyện ở biển Hoa Đông chỉ là đòn nghi binh của Trung Quốc, để Việt Nam mất cảnh giác. Nhưng Trung Quốc biết rõ những lực lượng nào của thế giới sẽ hậu thuẫn Việt Nam, những lực lượng mà chỉ khi chiến tranh nổ ra họ mới công khai xuất hiện, vì lợi ích của họ và còn cả vì sự căm ghét Trung Quốc là thứ tình cảm có thật vẫn tồn tại trên khắp hành tinh. Điều đó có nguy cơ đẩy Trung Quốc trở thành kẻ chống lại phần lớn thế giới.
Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất hiểu sâu sắc và thực tế cái giá đắt mà họ, sau đó đến thế giới phải trả một khi Trung Quốc chiếm được Biển Đông. Nếu để chuyện đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ mất lợi ích và mất quyền lãnh đạo thực sự với thế giới, đặc biệt là với khu vực Thái Bình Dương cực kỳ quan trọng với họ. Ngoài ra Hoa Kỳ còn có nghĩa vụ với đồng minh là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Úc, Singapore… những quốc gia có lợi ích kinh tế và an ninh gắn chặt với Biển Đông. Vì những lý do chiến lược ấy, Hoa Kỳ sẽ quyết tâm ngăn cản bằng các biện pháp gián tiếp để cuộc chiến không xảy ra. Hoa Kỳ làm được điều này, ít nhất là trong tương quan hiện tại. Trung Quốc chưa đủ mạnh và còn rất lâu nữa vẫn chưa đủ mạnh đến mức có thể phớt lờ những cảnh báo mang tính răn đe của Hoa Kỳ!
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến yếu tố quan trọng nhất quyết định cuộc chiến Biển Đông có xảy ra hay không, đó là hậu quả của nó mà Trung Quốc phải gánh chịu lớn tới mức nào.
Thế giới này luôn luôn hiện hữu những mối ràng buộc giữa các quốc gia, các châu lục. Trung Quốc, như đã phân tích, cho dù có tiềm lực quốc gia lớn, nhưng vẫn là nước mới thoát nghèo về thu nhập. Trung Quốc luôn luôn có vấn đề nội bộ khiến họ rất khó phình to thêm mà không sợ bị tan vỡ. Chỉ riêng vấn đề Tây Tạng, Tân Cương… có thể sẽ hút cạn vốn liếng chính trị và sự tự tin của họ trong thời gian tới đây. Trên thực tế trong mấy thập kỷ qua Trung Quốc phát triển được là nhờ ở việc chấp nhận có sự phụ thuộc lẫn nhau. Không mở cửa với Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu… không bao giờ Trung Quốc có được vị thế kinh tế, quốc phòng như hiện nay. Mối liên quan ràng buộc chặt chẽ với nhau này khiến mỗi quốc gia không thể tuỳ tiện đưa ra những hành động đơn phương mà không gây tổn thất cho quốc gia khác và cho chính mình. Nền hoà bình thế giới và khu vực được duy trì chính bởi những sợi dây quyền lợi này. Vì thế Trung Quốc sẽ phải lượng xem họ có thể chịu nổi hậu quả của một sự ly khai của thế giới khi họ phát động chiến tranh hay không. Chẳng hạn một lệnh trừng phạt kinh tế của Hoa Kỳ và đồng minh nhắm vào Trung Quốc, nếu họ gây chiến với Việt Nam và Philippines. Một sự trừng phạt như vậy là hoàn toàn hiện thực. Và Trung Quốc như một gã khổng lồ với đôi chân yếu, có thể không chịu nổi điều đó nhiều hơn thời gian tối thiểu mà một quốc gia yếu kém có thể chịu đựng. Hoặc chẳng hạn một cuộc tẩy chay Trung Quốc và các lợi ích của Trung Quốc diễn ra trên toàn cầu? Điều này cũng hoàn toàn có thể thành hiện thực. Trung Quốc khi đó sẽ đánh mất toàn bộ thứ giá trị Trung Hoa mà họ gây dựng, cổ suý suốt bao nhiêu năm trước khi có thể trở thành cường quốc thực sự. Đó là chưa kể Trung Quốc có thể phải đối mặt với những cuộc ly khai mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa của các vùng lãnh thổ tự trị rộng lớn, tạo điều kiện cho Ấn Độ mở rộng ảnh hưởng. Bởi vì xã hội Trung Quốc chưa bao giờ thống nhất. Nó luôn tiềm ẩn sự chia rẽ sâu sắc và chỉ chờ cơ hội để nổ ra.
Trên đây chúng ta đã chỉ ra những hạn chế về thực lực quân sự và những ràng buộc chính trị khiến Trung Quốc phải cân nhắc khi họ dự định một cuộc hải chiến lớn ở Biển Đông. Dù sao thì những nhận định đó cũng chỉ là giả thuyết tương đối. Với nền chính trị kiểu Trung Hoa thì một cuộc phiêu lưu quân sự đôi khi được bắt đầu bằng những lý do rất mơ hồ và khó lường. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cũng đã từng nằm ngoài mọi dự đoán của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, khi họ quá tin vào logic thông thường, chỉ dựa trên những hiện tượng bề nổi. Nhưng còn có thứ logic khác, đó là logic của thứ phi logic mà văn minh Trung Hoa luôn coi đó như một sản phẩm độc đáo. Có thể đã đủ chứng cứ khẳng định cá nhân ông Đặng Tiểu Bình đưa ra quyết định xâm lược Việt Nam, phần nhiều vì sĩ diện cá nhân và còn vì ông muốn làm một cú test quyền lực cho bản thân. So với cú test của Mao, thì số sinh mạng ông Đặng đem ra đặt cược nhỏ hơn rất nhiều. Ngay cả con số lính Trung Quốc bỏ mạng trong một tháng Nam chinh ấy là 30 ngàn như ước tính của Hoa Kỳ, thì cũng chỉ bằng một phần ngàn số người mà bậc đàn anh của ông làm thịt vì cuộc thử nghiệm quái gở mang tên Cách mạng văn hoá. Nền chính trị Trung Hoa luôn ẩn chứa rủi ro không chỉ cho họ mà còn cho thế giới, vì nó vẫn là một nền chính trị tôn sùng bá đạo, thực chất là một nền chính trị thủ ác, nền chính trị của bóng tối. Vì thế, nếu chỉ vì những ràng buộc trên, chưa đủ để khẳng định một cuộc chiến đẫm máu, do Trung Quốc khởi xướng, không xảy ra trên Biển Đông. Nhưng lý do sau đây có thể là điều khiến Trung Quốc sẽ còn phải chùn tay: Họ không dám chắc thắng tuyệt đối bằng một trận tổng lực, trong thời gian ngắn, tức là chưa có trong tay kịch bản kết thúc cuộc chiến. Mà điều này thì hoàn toàn có thể xảy ra. Lịch sử của những cuộc nhà Hán chinh phục phương Nam hẳn là điều họ chưa thể quên được. Thêm một lần thất bại nữa, nước Trung Hoa hiện đại có thể sụp đổ, trước hết là sụp đổ tinh thần Trung Hoa mà họ đang tìm mọi cách dung dưỡng. Hậu quả nhãn tiền của nó là sẽ khiến mọi bí mật hư hư thực thực của tiềm lực Trung Hoa – thứ mà Trung Quốc đang sử dụng hiệu quả trong việc chèn ép thiên hạ – bị lộ mặt, từ đó bẽ mặt với cả đồng minh lẫn kẻ thù. Lợi thế răn đe của Trung Quốc với các lân bang khác ngoài Đông Nam Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là Đài Loan… cũng vì thế mà không còn. Khi đó Trung Quốc mất sạch cả vốn lẫn lãi và có thể lịch sử Trung Hoa buộc phải viết lại từ nhiều trang trong quá khứ.
Vì vậy, như đã nói, vấn đề lớn nhất với Trung Quốc không phải là bắt đầu cuộc chiến như thế nào, mà sẽ kết thúc cuộc chiến ra sao? Các chiến lược gia diều hâu của Trung Quốc chưa thể nghĩ ra kịch bản nào tốt hơn là sau khi khai hoả, ồ ạt áp đảo đối phương bằng lực lượng vượt trội, có thể giành một chút chiến thắng nhưng sau đó sẽ lại phải rút về. Nếu biết trước như vậy mà vẫn lao vào thì chỉ những kẻ mất trí mới làm. Không kết thúc được, nghĩa là toàn bộ sườn phía Nam có giá trị như cửa sinh tử của Trung Quốc sẽ ở trong tình trạng chiến tranh, chưa biết đến bao giờ. Khi đó quyền chủ động cuộc chơi nằm trong tay các nước đối đầu mà nguy hiểm nhất với họ chính là Việt Nam. Việt Nam là dân tộc có khả năng phòng thủ kiên cường và nghệ thuật quân sự chứa nhiều ẩn số vào loại nhất thế giới. Khi buộc phải đánh nhau, khi Biển Đông là chiến trường, khi có sự hỗ trợ ngầm về vũ khí từ các cường quốc vì lợi ích của họ, thì Việt Nam có thể khiến Trung Quốc sống dở chết dở, có khả năng bóp nghẹt, cắt đứt con đường giao thương quan trọng nhất của họ để qua eo biển Malacca. Những gì họ đang làm ở Campuchia là để phòng xa sự cố này cũng sẽ vô ích. Không ai phải nghi ngờ điều này và cũng không cần phải có tới 5000 quả tên lửa diệt hạm, con số trên lý thuyết để dìm toàn bộ lực lượng hải quân của Trung Quốc xuống Biển Đông. Bởi vì đó là bản năng sinh tồn của người Việt hình thành từ hàng ngàn năm, để không thể bị tiêu diệt.
Kết lại: Trung Quốc sẽ khai hoả ngay tức thì ở Biển Đông một khi họ đã có trong tay kịch bản kết thúc chiến tranh. Chúng ta sẽ phải cho người Trung Quốc thấy, không bao giờ họ thực sự có trong tay cái bảo bối ấy và do đó, một điều tưởng phi logic khác lại trở thành thứ logic của định mệnh: Chính người Việt sẽ quyết định có cho phép Trung Quốc làm mưa làm gió ở Biển Đông hay không. Việt Nam là nước nhỏ hơn nên luôn cần hoà bình, sống yên ổn bên cạnh Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là cửa ngõ phía Nam, nơi họ không thể phớt lờ Việt nếu muốn có sự đảm bảo trên thực tế về an ninh. 
PHẦN III:
DỰ ĐOÁN HÀNH ĐỘNG CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM
Tuy nhiên, việc Trung Quốc nuôi ý đồ quyết chiếm đoạt Biển Đông là điều không còn gì phải nghi ngờ. Đừng ai ảo tưởng tin vào thiện chí của Trung Quốc, được quảng bá bằng đủ thứ lời lẽ ngoại giao hoa mỹ. Vấn đề cần quan tâm là họ có khả năng làm được điều đó hay không và phương pháp mà họ sẽ tiến hành.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra phỏng đoán, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ “doạ” là chính, tìm cách gây áp lực, mua chuộc, ve vãn, chèn ép… để các nước có liên quan đến Biển Đông lâm vào khó khăn phải tìm cách thoả thuận với Trung Quốc theo những điều kiện Trung Quốc đặt ra. Cách Trung Quốc làm vẫn sẽ là tạo ra những sự cố ồn ào rồi nhân đấy áp đặt quan điểm của họ hoặc nếu có thể thì gặm một miếng – như miếng Gạc-ma năm 1988 và miếng Vành khăn năm 1995, 1998. Khi các quốc gia kịp phản ứng thì việc đã ở vào chuyện đã rồi. Nói rõ ra thì Trung Quốc sẽ vẫn chỉ áp dụng biện pháp tằm ăn dâu, gặm từ từ, đánh lấn, quấy nhiễu, chủ động làm phức tạp hoá tình hình để can dự và gây áp lực. Cách làm này của Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối với họ.
Thứ nhất họ chỉ có thắng mà không thua, chỉ được mà không mất, vì đối phương vốn ở thế yếu, sẽ phải kiềm chế, không dễ có hành động tương ứng đáp trả ngay tức khắc.
Thứ hai là họ phân hoá được đối tượng làm áp lực với họ. Vì lợi ích quốc gia, nhiều nước sẽ dĩ hoà vi quý để hưởng lợi. Nhiều nhà phân tích phương Tây cho rằng, không ít quyết định của chính quyền địa phương, của quân đội Trung Quốc liên quan đến Biển Đông là tự ý, chính quyền trung ương không biết. Nhận định này căn cứ trên lời bao biện của một số nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc. Nó có thể do quá ngây thơ, hoặc do thói quen sống trong môi trường thượng tôn luật pháp, mọi thứ đều minh bạch kiểu dân chủ phương Tây. Thực ra đó là thứ kế sách kiểu Trung Hoa. Họ dùng biện pháp đó để dò đường. Nếu mọi chuyện êm xuôi, thì coi như là chính sách của nhà nước. Còn nếu không thuận lợi, thì họ dễ bề chối bỏ trách nhiệm ở tầm quốc gia. Tương tự như vậy họ đã dùng tờ Hoàn Cầu thời báo để tung ra những quan điểm mang tính thám hiểm phản ứng của đối phương. Nó dễ dàng biến thành quan điểm của nhà nước Trung Quốc nếu điều kiện cho phép. Đó cũng là cách mà Trung Quốc dùng để “bắn tin dữ” với thiên hạ. Một nền chính trị như ở Trung Quốc hiện nay, nhất cử nhất động đều bị kiểm soát, không cấp dưới nào dám mạo hiểm làm như vậy nếu như đó không phải cũng là quan điểm của chính quyền trung ương.
Thứ ba là chỉ dừng lại ở những phi vụ “vặt vãnh” như vậy, chưa đủ là cái cớ để đối phương hoặc những quốc gia liên quan coi là chiến tranh.
Cái lợi thứ tư là Trung Quốc cho thấy họ liên tục đòi hỏi chủ quyền một cách quyết liệt ở những vùng mà nước khác cũng đòi hỏi. Đây là cách pháp lý hoá những việc bất hợp pháp sau này theo kiểu Trung Hoa. Bước chuẩn bị mà họ vừa làm là thành lập tỉnh Tam Sa. Chúng ta không nên coi thường động thái này. Đầu tiên chỉ là cái tỉnh trên giấy, bị Việt Nam, Philippines… coi là vô giá trị. Nhưng sau đó, họ sẽ ấn cái tỉnh đó vào đầu hàng tỉ người Trung Quốc, tạo ra những giao tiếp thương mại, ngoại giao với các nước láng giềng không bị ảnh hưởng quyền lợi bởi hành động của họ, thông qua Tam Sa. Chẳng hạn hành động mời thầu thăm dò dầu khí vừa rồi. Hay những phi vụ buôn bán thương mại với lợi nhuận hấp dẫn, gắn với cái địa danh Tam Sa? Những hội nghị, triển lãm, thi đấu thể thao nhỏ… do Trung Quốc đăng cai được tổ chức ở Tam Sa! Dần dần cái tên Tam Sa sẽ thành một địa danh quen thuộc với thế giới. Nó sẽ đi vào các văn bản giấy tờ mang tính quốc tế. Nó cứ từ từ là một đơn vị hành chính hiện thực của Trung Quốc. Khi đó những hoạt động trên Biển Đông của chúng ta, được mặc nhiên coi là hoạt động ở tỉnh Tam Sa của Trung Quốc! Thế giới không bị buộc phải nhớ Tam Sa thực chất là cái gì, gây tổn hại cho ai, mà họ chỉ cần biết Tam Sa mang lại cho họ cái gì. Giống như thói quen thế giới gọi biển phía Nam Trung Quốc là biển Hoa Nam, tết Âm lịch là tết Trung Quốc, đến lúc nào đó, họ chỉ còn biết Tam Sa là một tỉnh của Trung Quốc! Về phần mình, Trung Quốc sẽ dựa vào đó để coi hành động tuyên chiến của họ là quyền tự vệ, cụ thể ở đây là bảo vệ Tam Sa!
Đây là một mưu đồ rất thâm hiểm và nguy hiểm cho Việt Nam.
Chúng ta đang ở vào thế khó khi phải đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến vấn đề chủ quyền đối với Trung Quốc. Đó là thực tế hiện nay đặt ra trước cả dân tộc chứ không chỉ đối với Đảng Cộng sản. Những người cộng sản đương nhiên là rất bí bởi họ tự nguyện quàng thêm vào cổ cái ách ý thức hệ để tự trói tay mình. Trong khi ý thức hệ là cái bẫy chiến thuật của người Trung Quốc, thì với nhiều lãnh đạo cộng sản Việt Nam nó lại được coi là giải pháp mang tính chiến lược.
Kết luận rằng những người cộng sản Việt Nam không làm gì, hoặc không quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải là nói lấy được, cốt cho bõ tức hơn là đưa ra một nhận định nghiêm túc. Chỉ có thể nghi ngờ hiệu quả của biện pháp mà họ đang áp dụng. Trong thời gian qua, biện pháp ấy của họ là phỏng theo sự khôn ngoan kiểu con sóc: Dùng tài leo dây để thoát hiểm. Đó là một mưu mẹo không hề thiếu sự khôn ngoan. Nhưng chiến thuật này sẽ chỉ có tác dụng nhất thời, trong điều kiện hiện tại của Trung Quốc. Khi họ đã là cường quốc thì mọi xảo thuật lập tức bị vô hiệu hoá. Nói thẳng ra thì giải quyết tranh chấp với Trung Quốc vào thời điểm này, mặc dù cực kỳ khó khăn nhưng vẫn thuận lợi hơn phải làm điều đó với họ sau vài chục năm nữa. Vì vậy không cẩn thận chính người Việt đang tạo thuận lợi cho việc câu giờ của Trung Quốc. Chúng ta cứ hay quên rằng chính Trung Quốc mới là phía cần sự yên tĩnh xung quanh hơn chúng ta để thực hiện chiến lược trỗi dậy và ổn định nội tình. Chúng ta, do quá tự ti về tầm vóc, mà không dám tận dụng vị trí lợi hại của mình để chủ động áp đặt điều kiện ngược lại với Trung Quốc. Nói khác đi trong tay người Việt không thiếu “con bài” mà Trung Quốc phải dè chừng. Nếu không tỉnh táo, tự bịt mắt nhau, tự làm nhụt chí nhau, người Việt Nam sẽ mắc vào chính cái lưới do mình giăng ra với mục đích kìm chân đối phương. Cái lưới đó là viện vào ý thức hệ; cái lưới đó là không làm cho tình hình Biển Đông phức tạp thêm; cái lưới đó còn là tự bưng bít thông tin vì sợ làm xấu mối quan hệ hai đảng anh em, sau đó là làm suy yếu tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Quan điểm của chúng tôi là mọi biện pháp bảo vệ được chủ quyền, lợi ích đất nước, bảo vệ được công dân Việt Nam (đặc biệt là những ngư dân) đều tốt nếu nó thực sự cho thấy sự khôn ngoan và hữu hiệu. Hãy thử thật bình tĩnh, khách quan và lý trí phân tích xem chúng ta có thể dựa vào đâu để đạt mục tiêu đó.
Dựa vào ý thức hệ
Có vẻ như thực tế của những cuộc đối đầu giữa Việt Nam với Trung Quốc và giữa Philippines với Trung Quốc có sự khác biệt bởi có yếu tố ý thức hệ: Trung Quốc đối đầu với Philippines là đối đầu với một địch thủ, còn với Việt Nam là cuộc tranh giành của thừa kế giữa hai anh em? Vì thế, cho dù Việt Nam mới là vật cản chính trên con đường Nam tiến của Trung Quốc, thì những tranh chấp lại có vẻ đỡ khốc liệt hơn?
Nếu chỉ nhìn vào những biểu hiện thì quả là có thấy dấu hiệu này.
Nhưng đây là chỗ bất lợi nhất do chính Việt Nam tạo ra cho mình trong việc đề ra sách lược bảo vệ đất nước. Trung Quốc đã thổi phồng lợi ích của mối tương đồng hình thức về thể chế để lừa lại những nhà lãnh đạo của Việt Nam. Về lý thuyết thì khi chủ nghĩa cộng sản toàn thắng, mọi biên giới quốc gia, mọi nhà nước cũng sẽ biến mất. Không lý gì hai quốc gia đang nỗ lực hết mình cho mục tiêu ấy của nhân loại lại không hiểu tương lai nào mới là quan trọng với họ. Một số nhà lãnh đạo Việt Nam do cả tin và do tình cảm ý thức hệ chi phối, đã nhất nhất phụng sự mục tiêu đó bằng cách đẩy lợi ích dân tộc xuống hàng thứ yếu. Điều đó phản ánh sinh động và cô đọng nhất trong câu nói nổi tiếng của một trong những lãnh tụ cộng sản hàng đầu Việt Nam: “Trung Quốc có thể xấu, tham lam nhưng họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Chính nhà lãnh đạo này đã cấm tiệt báo chí trong suốt hàng chục năm, từ 1991 – sau Hội nghị Thành Đô – không được nhắc đến địa danh Hoàng Sa vì sợ điều đó làm phật lòng Trung Quốc, có thể khiến hỏng đại cục (lời thổ lộ của một cựu lãnh đạo báo Nhân Dân trong buổi nói chuyện tại Trường viết văn Nguyễn Du năm 1994 với mục đích ca ngợi “tầm nhìn” của nhà lãnh đạo kia). Đại cục ở đây là phong trào cộng sản quốc tế do Trung Quốc đi đầu. Một số còn lại thì thấy bám vào chỗ dựa ý thức hệ là cách tốt nhất để đẩy quả bóng chủ quyền cho thế hệ tương lai. Đối với những người này thì quyền lực của họ – núp dưới quyền lực đảng – cao hơn, quan trọng hơn quyền lợi dân tộc.
Không có gì phải bàn nếu Trung Quốc cũng nghĩ và hành động như vậy. Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Trung Quốc tung ra chiêu hoả mù ý thức hệ như một chiến thuật vô hiệu hoá Việt Nam ít tốn kém nhất. Trong khi trói Việt Nam vào sợi dây vô hình đó khiến cho Việt Nam không dám tự ý hành động vì lợi ích quốc gia trong vấn đề Biển Đông và hàng loạt vấn đề khác, thì họ tranh thủ từng phút để lập hồ sơ giả về Biển Đông, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc Đại Hán cho mục tiêu chiếm Biển Đông khi có điều kiện. Những thoả thuận mập mờ “giữa lãnh đạo hai nước” là đòn hiểm mà Trung Quốc đạt được quá dễ dàng trước các nhà lãnh đạo Việt Nam. Những thoả thuận không minh bạch nội dung như vậy có tác dụng chia rẽ nội bộ dân tộc, chia rẽ và gây nghi ngờ giữa các nhà lãnh đạo, giữa người dân với người cầm quyền… cực kỳ hữu hiệu. Nhưng nguy hiểm hơn, nó khiến cho những người ủng hộ Việt Nam mệt mỏi, chán ngán, thiếu tin tưởng và cứ thế phân tán dần sự quan tâm. Khi Philippines muốn biết Việt Nam thoả thuận gì với Trung Quốc, thì Trung Quốc đã coi như đạt mục đích, có thể ôm bụng mà cười đắc chí. Philippines có thể không quá quan trọng. Nhưng Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, thậm chí cả Nga cũng cùng có câu hỏi ấy, nghĩa là chúng ta sắp bị bỏ rơi cho con mãnh thú.
Vậy là có thể kết luận: Lá chắn ý thức hệ chỉ tạo ra ảo giác về lợi ích trước mắt, ngắn hạn, có lợi cho Trung Quốc nhiều hơn. Nhưng cái lá chắn giống như những sợi chỉ căng ngang ấy, một mặt không thể giúp ngăn được chút tham vọng nào của người Hán, mặt khác trên thực tế nó đang trói tay chúng ta trong những hành động vì lợi ích lâu dài của dân tộc và cách ly Việt Nam khỏi thế giới, điều có lẽ Trung Quốc không mong gì hơn.
Dựa vào khối ASEAN
Một trong những thành tựu ngoại giao lớn nhất mà những người cộng sản Việt Nam đạt được trong vòng 20 năm qua chính là đã đưa nước ta gia nhập khối ASEAN (chỉ cần nhớ lại thái độ bực tức, bất lực của Trung Quốc khi ấy cũng thấy). Có thể nói đó là dấu mốc của một sự chuyển hướng quan trọng trong tư duy chính trị Việt Nam. Là thành viên của khối ASEAN, Việt Nam đã mở được cửa chính thông ra với thế giới để từ đó đi những bước tiếp theo với vị thế của một nước lớn (hay ít ra cũng là nước quan trọng) trong tiểu khu vực. Không ở đâu chúng ta có được sự đánh giá này. Không ở đâu chúng ta có tiếng nói mà người khác buộc phải chăm chú lắng nghe, như trong Hiệp hội ASEAN. Cũng từ vị thế thành viên Hiệp hội, từ đây chúng ta có thêm nhiều thuận lợi trong việc thoát khỏi cái bóng khổng lồ Trung Quốc, đặt Trung Quốc vào thế phải tính toán thận trọng hơn khi đưa ra những đòi hỏi lợi ích liên quan đến toàn khu vực. Điều quan trọng hơn, chúng ta có thêm kênh để quan hệ với Hoa Kỳ và những nước quan trọng khác thường nhìn vào thái độ của Hoa Kỳ để đưa ra quyết định. Thế giới này đã, đang và sẽ còn sự phụ thuộc như vậy. Bỏ qua thực tế ấy là thiếu khôn ngoan, thiển cận về chính trị.
Nhưng trong vấn đề chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông, ASEAN chỉ có tác dụng như một tiếng nói, có thể là tiếng nói quan trọng, về mặt dư luận và thể hiện thái độ. Trung Quốc không thể phớt lờ tiếng nói này, bởi quyền lợi của họ với cả khối là khá lớn. Vả lại, phía sau một mình Việt Nam là những lực lượng khác xa với phía sau ASEAN trong đó có Việt Nam. Trung Quốc biết rõ điều này, rằng luôn có một Hoa Kỳ lởn vởn lúc xa, lúc gần, là đối tác của cả khối, có quyền lợi quốc gia về thương mại, chính trị, ngoại giao, nơi họ có khá nhiều đồng minh truyền thống, trong đó quan trọng bậc nhất là Indonesia và nếu thời cuộc thuận lợi, Việt Nam sẽ là danh sách tiếp theo. Ngoài ra là Nhật Bản, Ấn Độ, Liên hiệp châu Âu và từ những sức ép lợi ích khiến cả Nga cũng nhập cuộc, trở thành những đối tác có sự can dự thường xuyên, biến ASEAN thành trung tâm quốc tế về an ninh, hàng hải, trao đổi các ý tưởng. Sự can dự này vô tình khiến Trung Quốc phải ở vào thế bị lép vế. Chúng ta cần phải triệt để khai thác vị thế thành viên của ASEAN, nơi những tranh chấp đơn phương nào cũng có nguy cơ thành tranh chấp đa phương – điều mà Trung Quốc ngán nhất. Không phải họ ngán lực lượng yếu ớt và không bao giờ thống nhất của ASEAN, mà họ biết rằng, Hoa Kỳ sẽ không bao giờ bỏ mất cơ hội để can dự vào nội tình khu vực, mà thực chất của can dự đó là tìm bằng chứng ngăn cản Trung Quốc. Họ biết rõ, bất kỳ thỏa thuận nào giữa ASEAN và Trung Quốc cũng có bàn tay của Hoa Kỳ, khác rất xa những thoả thuận chỉ có Việt Nam và Trung Quốc.
Kết luận lại, chúng ta không thể dựa vào ASEAN như một lực lượng có thể răn đe hoặc để giành chiến thắng khi phải đối đầu quân sự trực tiếp với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền. Nhưng ASEAN là một tiếng nói có sức mạnh chính trị, nơi có khả năng khiến Trung Quốc không thể tự ý đưa ra quyết định độc đoán. Vì vậy, với Hiệp hội ASEAN, Việt Nam cần gắn kết chặt hơn nữa, thúc đẩy quá trình ràng buộc các bên nhiều hơn nữa, chứng tỏ sự chân thành hơn nữa, thậm chí phải hy sinh chút ít lợi ích nhỏ để kéo cả khối can dự sâu hơn nữa vào Biển Đông bằng nhiều cách thức, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề an ninh và tự do hàng hải. Biển Đông là vấn đề của cả Hiệp hội ASEAN, tức là của quốc tế – Việt Nam cần nhất quán lập trường này, ở bất cứ diễn đàn nào, bất cứ cuộc đối thoại nào, vô hiệu hoá mọi mưu đồ xé nhỏ ASEAN của Trung Quốc như họ đang làm và có vẻ thành công bước đầu trong trường hợp với chính phủ Campuchia.
Dựa vào các bạn bè truyền thống
Trong số này hiển nhiên quan trọng nhất là Liên bang Nga. Việt Nam cần phải duy trì mối quan hệ với người bạn quan trọng này, bất chấp mọi thời tiết chính trị của nước Nga cũng như của thế giới. Cho đến nay Nga vẫn là đối tác đáng nhờ cậy nhất về mặt quân sự. Nhưng nước Nga không phải là Liên Xô trước đây có thể dễ dàng đưa ra những quyết định cảm tính dựa trên tinh thần quốc tế, tức là phải hy sinh một phần lợi ích dân tộc. Nước Nga ngày nay có đường lối đối ngoại thực dụng, dân tộc lạnh lùng và khó đoán. Nga là quốc gia duy trì nhiều mối quan hệ phức tạp nhất trên thế giới và nó luôn được đảm bảo bằng công cụ dễ tráo trở là tiền. Nga không còn ở thế có thể can dự trực tiếp vào những vấn đề bên ngoài lãnh thổ của họ và các chính khách của Nga ngày nay sẽ không làm điều đó. Xét về mối quan hệ thương mại cũng như những lợi ích mà Nga đang có từ Trung Quốc, xét về vị trí địa lý và hàng loạt mối ràng buộc khác, có thể thấy Trung Quốc quan trọng với Nga gấp nhiều lần Việt Nam. Hy sinh lợi ích với Trung Quốc là một tính toán thiển cận và nước Nga giờ đây không cho phép bất cứ nhà lãnh đạo nào của họ tự ý làm điều đó. Vì thế, có thể thấy Nga không bao giờ mong muốn một Trung Quốc hùng mạnh, có thể nuốt chửng vùng Viễn Đông của họ trong tương lai, có thể áp chế họ như những gì nước Mỹ đang làm, nhưng Nga sẽ quyết tâm không bị lôi kéo vào cuộc đụng độ ở Biển Đông. Tuy vậy, Nga có sĩ diện dân tộc rất lớn, không dễ bỏ mất vị thế cường quốc của họ. Vả lại Nga cũng cần Việt Nam trong chiến lược trở lại Đông Nam Á. Đó là lý do Nga sẽ làm hết sức để Trung Quốc không ngang nhiên dàn quân uy hiếp Việt Nam, đẩy Nga vào thế khó. Trong tay họ có một vài quân bài như: năng lượng, công nghệ quân sự, lợi ích ngoại giao với vị thế là Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tạm thời những quân bài đó còn đủ mạnh để họ có thể chi phối phần nào những quyết định của Trung Quốc. Nhưng phép màu của những quân bài đó đang mất dần. Điều chúng ta có thể và cần tranh thủ Nga lúc này là mua những loại vũ khí hiện đại, có độ chính xác cao, tiếp cận công nghệ của họ tiến tới có thể sản xuất chúng ngay trên lãnh thổ Việt Nam như Nga đã và đang làm với Ấn Độ. Tạo mọi điều kiện để Nga can dự trở lại Đông Nam Á, phân tán mối quan tâm của Trung Quốc.
Khác với Nga, Nhật Bản và Ấn Độ ít ràng buộc lợi ích chiến lược với Trung Quốc hơn. Đường lối ngoại giao của họ cũng rõ ràng hơn. Đây là hai cường quốc khu vực cực kỳ quan trọng với Việt Nam. Nếu xét cả về lợi ích và vị thế cũng như tầm vóc, Ấn Độ dễ chấp nhận dấn thân hơn. Chúng tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của Ấn Độ với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Lịch sử quan hệ và tranh chấp lãnh thổ khiến nước lớn này là địch thủ công khai và lâu dài của Trung Quốc. Rất khó để hai nước tìm được sự hữu hảo thực sự, khi mà Trung Quốc còn công khai tuyên bố chủ quyền với vùng đất chiến lược của Ấn Độ. Ấn Độ không bao giờ chấp nhận sự lãnh đạo của Trung Quốc ở châu Á. Lòng tự trọng dân tộc, quy mô diện tích, dân số và vai trò nước lớn trong khu vực không cho Ấn Độ thoả hiệp với tư tưởng hạ mình ấy. Can dự vào những vấn đề an ninh khu vực được Ấn Độ coi là quyền lợi và sứ mệnh của họ. Mối quan hệ mật thiết của Trung Quốc với Pakistsan khiến Ấn Độ tìm thấy thêm lý do phải cân bằng lực lượng ở Biển Đông ngoài lý do bảo vệ lợi ích và đó là thuận lợi cho chúng ta. Nếu xảy ra đụng độ lớn tại Biển Đông, Ấn Độ sẽ là những quốc gia đứng về phía Việt Nam mạnh mẽ nhất, có thể công khai cung cấp vũ khí hiện đại cho Việt Nam, thậm chí sẵn sàng gây áp lực quân sự với Trung Quốc ở giới hạn nào đó. Ấn Độ ở vào vị thế tương đối độc lập khi đưa ra những quyết định như vậy. Nhưng Ấn Độ cũng sẽ không để bị lôi kéo vào cuộc chiến.
Trong khi đó Nhật Bản rất khó làm điều tương tự như Ấn Độ vì luật pháp hoà bình của nước này và vì mối ràng buộc với Hoa Kỳ. Cũng như Ấn Độ, Nhật Bản có lợi ích sống còn về hàng hải ở Biển Đông và chung lợi ích chiến lược, chia sẻ những giá trị lịch sử với Việt Nam trong vấn đề kìm chế Trung Quốc. Mà kìm chế tốt nhất là không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Họ sẽ làm mọi cách có thể cùng với Việt Nam để thực hiện điều đó nhưng vai trò chi phối quân sự của Nhật là có giới hạn. Cũng như Úc, châu Âu, họ chỉ có thể ngầm giúp chúng ta, chỉ có thể đóng vai trò người can ngăn, có thể gián tiếp tạo ra một sự ủng hộ từ Hoa Kỳ với chúng ta.
Dựa vào Hoa Kỳ
Phải khẳng định là, nếu không có Hoa kỳ thì Trung Quốc không chỉ nuốt sống Biển Đông, biển Hoa Đông, mà đã tìm cách thống trị thế giới từ lâu rồi. Đó hoàn toàn không chỉ là một cách nói. Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, định nghĩa theo một cách dễ hiểu hơn, là không có giới hạn nào về địa lý thoả mãn được nó. Nếu không bị cả thế giới tìm cách ngăn chặn, sẽ đến lúc mục tiêu của nó là lãnh thổ Hoa Kỳ, trước khi nó hướng tới mặt trăng. Trung Quốc hiện tại, cho dù đang thức tỉnh, đang thay đổi thì vẫn cứ là một thực thể quá nặng nề để có thể mở cuộc đua bứt phá với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ chưa cần làm gì, Trung Quốc đã phải dè chừng. Nhưng vẫn có những biến số trong một thế giới đang thay đổi chóng mặt. Không ai tiên đoán nổi, chỉ trong vòng vài chục năm, cuộc đổi vai trò cường quốc giữa Liên Xô (sau đó là Nga) với Trung Quốc lại đơn giản thế. Đơn giản còn hơn cả việc thực thi một hiệp ước có ký kết. Chính sự thay đổi đó mà thế giới ngày nay thậm chí còn nguy hiểm hơn với những nước nhỏ, so với thời chiến tranh lạnh. Nguy hiểm nhất là không thể biết con sư tử Trung Hoa còn đói mồi đến bao lâu và có ai hy sinh lợi ích để ngăn chặn nó. Hàng trăm năm qua đã có tới cả ngàn lời khuyên quý giá của các triết gia, các nhà chính trị lớn, về cách mà thế giới sẽ phải làm để có thể sống với Trung Quốc. Nhưng chỉ có Hoa Kỳ quan tâm và hiểu những lời khuyên đó. Những cố gắng to lớn của Hoa Kỳ trong việc đưa Trung Quốc vào khuôn khổ, yêu cầu họ phải nhận lấy một phần trách nhiệm nước lớn, đã giúp thế giới có được sự yên ổn tương đối và những phát triển ngoạn mục khi Trung Quốc tư bản hoá nền kinh tế và nới rộng hơn chiếc cùm chính trị đối với hơn một tỷ người.
Nhưng Hoa Kỳ đang sắp phải trả giá cho hành động của mình. Trung Quốc đã đánh lừa cả thế giới bằng những thông điệp đơn giản nhưng dễ lọt tai. Giờ đây họ sắp sửa cười vào ngay chính những thông điệp đó. Đòi hỏi gần hết chủ quyền Biển Đông bằng cách vẽ trên giấy một đường ranh giới lãnh hải hình cái lưỡi bò, rồi bắt mọi người phải tôn trọng, không có chuyện tranh cãi, là hành động mang tính biểu tượng cao xác quyết quyền lực Trung Hoa, không chỉ nhằm vào lợi ích trực tiếp của Việt Nam và vài nước Đông Nam Á, mà hướng sự thách thức vào Hoa Kỳ và những nước lớn khác như Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, thậm chí cả Nga. Đây là thông điệp mang tinh thần Trung Hoa hiện đại: Tự tin đến ngạo mạn gửi tới toàn thế giới. Sắp tới, theo lý luận Trung Hoa, toàn bộ châu Phi là vùng họ cai quản, toàn bộ châu Á thuộc về sự bảo hộ của họ. Phía bên kia, nước Mỹ là kẻ thù cuối cùng…
Với Trung Quốc mọi điều đều có thể.
Trước mắt giả thuyết đó còn cần một điều kiện: Nếu Hoa Kỳ khoanh tay đứng nhìn, làm ngơ hay bất lực.
May thay nước Mỹ đã kịp thức tỉnh khi nó còn là cường quốc số một. Bằng quyết định quay lại châu Á, ngài Barack Obama có lẽ là tổng thống thông minh nhất của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ trong vòng 20 năm trở lại đây. Bởi vì Trung Quốc trước sau cũng trở thành mối đe doạ toàn cầu, trước hết về mặt văn hoá, sản phẩm chính trị bẩn, sau mới đến hàng hoá giá rẻ có chứa chất độc và cuối cùng là sức mạnh quân sự. Những gì mà người Trung Quốc đang reo giắc ở châu Phi, Nam Á… là bằng chứng hiển nhiên nhất. Nó đương nhiên cũng là mối đe doạ cho riêng nước Mỹ.
Nhưng trên phương diện lợi ích dân tộc, chúng ta chờ đợi điều gì từ sự quay lại châu Á của Hoa Kỳ? Có thể nói ngay: Không chỉ Việt Nam mà cả thế giới, dù ghét bỏ Hoa Kỳ đến đâu đi nữa, thì cũng sẽ không thể thiếu được họ, nếu muốn cuộc sinh tồn này còn có công lý tương đối. Bất chấp thực tế này là thiếu công bằng và thiển cận. Chỉ có điều, sẽ còn thiển cận hơn với bất cứ người Việt Nam nào coi Hoa Kỳ là chỗ dựa tuyệt đối tin cậy, phó thác tất cả cho họ. Bởi vì ngay cả khi, giả dụ những người cộng sản Việt Nam đã được giải phóng khỏi cái ách ý thức hệ, Việt Nam trở thành nước dân chủ cùng chung hệ giá trị với các nước văn minh, thì ý tưởng trở thành đồng minh của Hoa Kỳ, được nằm trong cái ô hạt nhân của họ, như nhiều người đề xuất, chỉ đáng coi là một mong ước, rất thức thời, thể hiện nỗi âu lo chân thành cho vận mệnh đất nước nhưng không khả thi. Thậm chí trong một thời gian dài nữa đó vẫn còn là ý tưởng hão huyền. Nhiều người lấy nước Nhật ra làm bài học cho Việt Nam trong việc trở thành đồng minh của Mỹ. Có vẻ như họ tìm thấy rất nhiều tương đồng lý thú. Nhưng chưa kể đến sự khác biệt về thể chế, vị trí địa lý, sự lựa chọn con đường phát triển giữa Nhật Bản và Việt Nam, chưa kể đến sự khác biệt trong lịch sử bang giao Nhật-Mỹ so với Việt-Mỹ, thì hoàn cảnh lịch sử thế giới khi Nhật trở thành đồng minh của Mỹ sẽ không tái hiện thêm một lần nữa với Việt Nam. Thế giới của nửa thế kỷ trước là thế giới của những mối liên kết quân sự, phụ thuộc chính trị hơn là liên kết kinh tế, vì cuộc đối đầu ý thức hệ rạch một giới tuyến rõ ràng, bên này lùi thì bên kia tiến. Nó cần sự gắn kết chặt chẽ về mặt nhà nước giữa các quốc gia cùng hệ ý thức. Nhật Bản và sau này cả Hàn Quốc, Đài Loan… có giá trị với Mỹ như những căn cứ quân sự tiền đồn ở châu Á, những trạm trung chuyển hậu cần nếu chiến tranh ý thức hệ xảy ra, hơn là những đối tác thương mại. Còn giờ đây, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, nhu cầu hình thành vòng cung bao vây do Hoa Kỳ cầm đầu không còn cấp thiết nữa. Mối quan hệ Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ-Đài Loan… trở thành di sản cuối cùng của chiến tranh lạnh và thực tế là nó cũng đang lỏng dần ra vì những liên kết song phương khác do các bên tiến hành. Người ta từng chứng kiến Hiệp ước Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn nhiều phen gặp sóng gió do vấn đề lợi ích kinh tế – vấn đề mà trước đây bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Còn với Đài Loan, số phận của hòn đảo này từng có lúc được Mỹ đặt lên bàn cân với Trung Quốc đại lục (sau khi Mỹ hi sinh Việt Nam Cộng hoà trong vấn đề Hoàng Sa năm 1974, hy sinh tiếp tính mạng của gần hai triệu người dân Campuchia cũng đều vì lợi ích với Trung Quốc). Thực tế đó cho thấy hai điều: Thứ nhất, những mối quan hệ đồng minh toàn diện giữa hai quốc gia không còn hợp thời và thứ hai, chính Hoa Kỳ cũng có lúc không đáng tin! (Có thể giờ đây họ đang nỗ lực để sửa chữa sai lầm mang tính đạo đức này?).
Nhưng chúng ta tạm thời chỉ quan tâm đến vấn đề thứ nhất, là vấn đề khách quan quyết định những mối liên kết. Giờ đây thế giới đã bước vào thời kỳ của sự phụ thuộc lẫn nhau về lợi ích và an ninh. Internet và chủ nghĩa khủng bố quyết định điều này. Internet khiến thế giới nhỏ lại, không còn ranh giới về địa lý, quốc tịch, ngôn ngữ, văn hoá… Chủ nghĩa khủng bố, với tư cách là kẻ thù của toàn cầu, đã tạo ra nỗi hoảng sợ khổng lồ, xuyên quốc gia và một bóng đen hiểm hoạ vô tận. Chưa bao giờ thế giới phẳng như hiện nay. Nhưng mặt khác, chưa bao giờ thế giới nhiều vách ngăn như hiện nay. Trong khi Internet chủ trương tạo ra kiểu công dân toàn cầu, tin tưởng lẫn nhau, phụ thuộc nhau về lợi ích, thì chưa bao giờ con người lại bị đẩy ra xa nhau, với đầy những nghi kị, những tính toán ích kỷ như hiện nay. Chủ nghĩa khủng bố tước đi của các cường quốc vị thế nước lớn trong nhiều vấn đề. Bởi vì không quốc gia nào đủ tự tin để không phải dựa vào quốc gia khác khi giải quyết nỗi sợ hãi do chủ nghĩa khủng bố tạo ra. Thay vì dựa lưng vào nhau, dựa vào một nhóm nước, giờ đây mỗi quốc gia là một tập hợp của các mối quan hệ chằng chéo. Nó tất yếu không thể bền chắc, cố định được mà phải lỏng lẻo, mang tính chiến thuật để dễ thay đổi. Nói như cách lý luận phương Đông: Trong kẻ thù có yếu tố bạn bè, đối tác và ngược lại! Vì thế việc hình thành nên những đồng minh giữa hai quốc gia vấp phải vật cản bất khả vượt qua dựng lên từ chính những tính toán lợi ích của các quốc gia đó. Những tính toán như vậy của Hoa Kỳ lớn hơn Việt Nam rất nhiều nếu đem đặt lên bàn cân. Nhưng giả sử cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều tìm thấy lợi ích sống còn khi là đồng minh quân sự với nhau, thì vấn đề lớn nhất mà cả hai bên khó lòng vượt qua là niềm tin.
Hãy gạt bỏ khỏi đầu mong ước trở thành đồng minh toàn diện của Hoa Kỳ để tính đến những liên kết khả thi và thực tế hơn. Chúng ta cần nắm lấy thời cơ là chưa bao giờ Việt Nam quan trọng với Hoa Kỳ như khi họ quyết định trở lại châu Á. Họ biết rõ chúng ta là ai, có thể làm gì giúp cho mục tiêu của họ. Cái mục tiêu ấy là không cho Trung Quốc vượt qua giới hạn đỏ về quyền lực bằng những bành trướng nhanh chóng lực lượng hải quân do đó phải thôn tính Biển Đông làm bàn đạp. May thay đấy cũng là mục tiêu của chúng ta, trùng khít với lợi ích của chúng ta ở khía cạnh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Sự trùng hợp lợi ích này chính là cơ sở bền chắc và đáng tin nhất cho một mối quan hệ thân cận, phụ thuộc nhau về mục tiêu chiến lược, lợi ích lâu dài giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Thời cơ cho mối quan hệ này đang chín muồi và Việt Nam, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, sẽ phải chủ động dọn dẹp, dũng cảm gạt sang một bên những vật cản mà lịch sử quăng lại để tiến về phía Hoa Kỳ, hơn là đòi hỏi điều ngược lại.
Dựa vào sức mình
Nếu xảy ra đụng độ với Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chiến đấu một mình, đó là điều có thể thấy trước. Vì vậy trong vấn đề bảo vệ chủ quyền, Việt Nam chỉ có một chỗ dựa chắc chắn, đáng tin duy nhất là sức mạnh toàn dân tộc. Theo hướng đó, chúng tôi thấy hiện tại Việt Nam có sáu lợi thế quan trọng và đi kèm với nó là sáu bất lợi cơ bản sau:
Lợi thế và là điểm mạnh tuyệt đối của Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông chính là ở vị trí địa lý và tâm lý dân tộc: Có bờ biển dài và không ai trong số 90 triệu dân sợ và chấp nhận quyền lực Trung Quốc. Dọc hơn 3000 km con đường hàng hải huyết mạch của Trung Quốc để qua eo biển Malacca, đều có thể nằm trong tầm khống chế của các lực lượng quân sự Việt Nam. Trong khi đó lượng vận tải của Trung Quốc rất lớn, chủ yếu phải đi qua khu vực này. Trung Quốc chỉ có thể an toàn trong hai trường hợp: Hoặc chiếm giữ toàn bộ Biển Đông, đủ sức kiểm soát nó bằng quân sự và được quốc tế thừa nhận; hoặc chấp nhận hiện trạng đó là vùng biển quốc tế, thừa nhận chủ quyền của các nước khác. Trường hợp thứ nhất là điều Trung Quốc mong muốn nhưng không bao giờ thành hiện thực. Vì vậy, trên thực tế, chỉ Việt Nam mới có thể đảm bảo an toàn hàng hải cho Trung Quốc.
Lợi thế thứ hai là chúng ta ở về phía phòng thủ, có thể bị động về thời gian xảy ra chiến sự nhưng lại hoàn toàn chủ động trong việc chi phối chiến cuộc, tránh được tổn thất vì vậy có thể duy trì chiến tranh trong thời gian đủ dài để lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc mất hết nhuệ khí. Điều Trung Quốc lo sợ nhất là không thể thắng chớp nhoáng, phải đánh nhau dằng dai thì lại đúng vào sở trường của phía Việt Nam: Lấy ít đánh lại nhiều và đánh trường kỳ, không cho kẻ thù kết thúc có lợi.
Lợi thế thứ ba là hầu hết các cường quốc còn lại và Liên hiệp châu Âu đều công khai hoặc ngấm ngầm đứng về phía Việt Nam vì họ không chấp nhận Trung Quốc quản lý Biển Đông.
Lợi thế thứ tư chính lại ở cái yếu thế của Việt Nam: Nước nhỏ hơn trong cuộc đối đầu, là nước bị bắt nạt, là phía chính nghĩa cả về pháp lý và tình cảm, sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân các nước. Trung Quốc không thể coi thường những cuộc biểu tình phản đối với hàng chục triệu người xuống đường trên khắp thế giới.
Lợi thế thứ năm là chúng ta có kinh nghiệm chiến tranh, với một quân đội thiện chiến, được khích lệ bởi những chiến thắng trong lịch sử, có giá trị như một điểm tựa tinh thần chắc chắn.
Lợi thế thứ sáu đó là khả năng chịu đựng tốt của kết cấu xã hội trong tình trạng thời chiến nhờ đã được tôi luyện. Ngoài ra do chúng ta nhỏ hơn nên khả năng chuyển đổi để thích nghi nhanh hơn.
Còn đây là sáu bất lợi:
Bất lợi thứ nhất là tiềm lực kinh tế của chúng ta quá nhỏ bé, ít tích luỹ, hậu quả là tiềm lực quốc phòng, đặc biệt là hải quân và không quân thua xa đối phương cả về số lượng và công nghệ. Trong khi đó chúng ta vẫn đang tiếp tục lãng phí những nguồn lực quan trọng nhất của đất nước khiến hạn chế khả năng huy động tổng lực cho chiến tranh – nếu nó xảy ra. (****)
Bất lợi thứ hai là người dân bị bưng bít thông tin, kém hiểu biết về tình hình đất nước, tình hình lãnh thổ, lãnh hải, nếu chiến tranh xảy ra dễ ở vào thế hoang mang, bị động.
Bất lợi thứ ba là mâu thuẫn dân tộc còn khá nặng nề, không phát huy được tối đa sức mạnh trong và ngoài nước.
Bất lợi thứ tư là hạt nhân tập hợp lực lượng không còn đủ sức hút cần thiết, hạn chế khả năng lãnh đạo, động viên mọi tầng lớp xã hội trong tình trạng đất nước nguy cấp.
Bất lợi thứ năm là tiếng nói của Việt Nam ít gây chú ý với cộng đồng quốc tế do bị Trung Quốc thao túng dư luận, xuyên tạc sự thật quá lâu.
Bất lợi thứ sáu là Việt Nam không có đồng minh quân sự.
Những điểm yếu mà chúng tôi nêu ra đều có nguyên nhân chủ quan và đều thuộc về nội tình đất nước. Vì vậy vấn đề hoàn toàn phụ thuộc vào quyết tâm khắc phục của tất cả những con dân Việt. Với niềm tin rằng, không kẻ thù nào chiến thắng nổi một dân tộc có tới ngót 100 triệu quyết tâm, có nhiều hơn thế lòng tự tôn và có vô số khả năng nằm ngoài mọi phán đoán của những kẻ ngoại bang, chúng tôi đưa ra kiến nghị khẩn thiết sau:
Thực hiện triệt để hoà giải dân tộc thể hiện bằng một đạo luật, trong đó nghiêm cấm tất cả những hành vi phân biệt đối xử giữa các công dân Việt Nam qua các thời kỳ và các thể chế khác nhau và hiện sinh sống trên những quốc gia khác nhau, nghiêm cấm trả thù, nghiêm cấm hành vi tuyên truyền, kích động thù hận, hành vi gợi lại nỗi đau của dân tộc. Ngày 30-4 hàng năm trở thành ngày Hoà giải và tha thứ.
Làm được điều đó, chúng ta có thứ vũ khí mà kẻ xâm lược nào cũng không còn đáng sợ.
Kết luận:
Vấn đề làm thế nào để có thể tiếp tục sống yên ổn, nguyên vẹn bờ cõi bên cạnh Trung Quốc là chuyện của thời khắc này, nhưng cũng là chuyện của lâu dài, của muôn đời con cháu. Không thể đưa đẩy trốn tránh trách nhiệm nhưng cũng không được nóng vội, hấp tấp, thiếu chín chắn bởi dù thích hay không, người Việt không thể lựa chọn một láng giềng khác ở phía Bắc. Bất cứ sai lầm nào cũng đều không có cơ hội sửa chữa hoặc phải trả giá đắt kéo dài suốt nhiều đời. Đó là điều khác biệt cơ bản so với tất cả những vấn đề quốc gia đại sự còn lại. Nó luôn ở thì chưa hoàn thành, không có kết thúc. Những gì cha ông để lại cho chúng ta là một cương vực rõ ràng, một nền hoà bình tương đối và một kho báu kinh nghiệm để trường tồn. Chúng ta không thể để lại cho tương lai một di sản kém hơn.
Để làm được điều đó, nhiệm vụ quan trọng nhất là đất nước phải hùng mạnh và trở thành một thành tố trong chuỗi giá trị toàn cầu, càng nhanh càng tốt. Vấn đề còn lại chỉ là người Việt sẽ đi đến mục tiêu đó bằng cách nào. Từ cuộc vươn dậy nhọc nhằn, đau thương của dân tộc và thực tế thế giới suốt một thế kỷ qua, đã đủ bằng chứng để rút ra kết luận: không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự. Đó có thể là con đường chông gai nhất, đau đớn nhất, nhiều phân vân nhất của người Việt trong thế kỷ này. Nhưng chỉ riêng việc phải lựa chọn giữa sống hay là chết dưới tay Trung Quốc, chúng ta đã không còn thời gian để cân nhắc.

Hà Nội tháng 5 -2012 đến tháng 12-2012
(Rút từ cuốn Nghĩ mãi không ra)
T. D. A.
(*) Tôi muốn nhắc đến trường hợp bài trả lời phỏng vấn của ông Lê Vĩnh Trương trên báo Pháp luật TPHCM ngày 4/11/2012 (và trước đó nữa là bài của giáo sư Ngô Bảo Châu). Ông Trương – trong khuôn khổ của một tờ báo chính thống – đưa ra được một số thông điệp như vậy là rất cố gắng, thực tế là chưa có tiền lệ trong thời gian từ sau năm 1991. Ông không đáng bị “ném đá” như những gì đã xảy ra, nếu mỗi người tỉnh táo, suy ngẫm thấu đáo hơn. Tôi đồng ý với đánh giá khá bình tĩnh của ông Dương Danh Huy. Những người ném đá ông Trương quên mất một thực tế là, do bị nhồi sọ quá lâu, hàng triệu người –những người cần biết thực tế của mối quan hệ Việt-Trung cũng như những việc hệ trọng khác của đất nước – vẫn chưa có thói quen tin vào những trang mạng tự do. Những thông tin trên đó bị “hàng rào chính trị” trong đầu họ gói tuốt vào một rổ với những thứ chống phá đất nước. Chúng ta có thể trách họ nhưng đó đang là thực tế. Theo tôi, những người bình thường có thể xả ra mọi bức xúc, hay vẫn gọi là “ném đá”, còn thứ mà giới trí thức “ném ra” chỉ nên là những quan điểm, ý tưởng có giá trị phản biện.
(**) Năm 2002 tôi có chuyến sang Hoa Kỳ và khi đến vùng có nhiều người Việt sinh sống thì tôi được người dẫn đường nói nhỏ vào tai: Đừng nói gì nhé, kẻo bị hành hung đấy. Hành hung thì chưa, nhưng tôi bị một cháu sinh viên Việt lừ mắt hỏi “Sang đây làm chi?” đáp lại vẻ mặt hớn hở và lời hỏi thăm đầy tình đồng bào của tôi sau một tháng xa nhà. Sau đó tôi được biết nhà văn N. K. từng bị chính đồng bào mình nện mũ cối vào đầu, nhà văn L. M. K. và H. A. T. thì phải nhờ đến cảnh sát Hoa Kỳ làm hàng rào mới thoát khỏi cuộc vây hãm của hàng trăm người Việt, nhà văn N. H. T. bị bao vây khi ông đến nói chuyện tại một trường đại học… Lý do chỉ là những nhà văn đầy tinh thần dân chủ này (tất nhiên không ai thèm biết điều đó!) từng và đang làm việc cho nhà nước Cộng sản. Khi về nước tôi cứ đau buồn mãi về chuyện này và tự hỏi: Bao giờ thì quan hệ của những “đồng bào Việt” mới không gắn với chính trị và bao giờ thì họ mới tha thứ cho nhau?.
(***) Ở tầm vĩ mô, ngoài những gì ghi trong sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam năm 1979, có thể kể thêm vụ ngăn cản Việt Nam bình thường hóa với Hoa Kỳ, gia nhập WTO, ép các nhà thầu dầu khí nước ngoài không hợp tác với Việt Nam… Còn ở những tiểu xảo thì muôn hình vạn trạng. Những chuyện như thu mua rễ cây hồi, đuôi trâu, đỉa, râu ngô có thể là một vài ví dụ. Năm 1995, một anh bạn thạo tin rỉ tai tôi là Trung Quốc bỏ ra khoảng 27 tỉ nhân dân tệ (hơn 4 tỉ USD) để trợ giá cho những mặt hàng như điện máy, điện tử, giày dép, đồ may mặc của họ… để giết chết những ngành này ở Việt Nam bằng buôn bán tiểu ngạch. Tôi không có điều kiện kiểm chứng thông tin này. Nhưng năm 1995, khi tôi sang Bằng Tường rồi vào sâu trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 30 km, tôi tận mắt chứng kiến những mặt hàng đã kể, cùng chủng loại, cùng nhãn mác… ở nội địa Trung Quốc bán cao gấp từ 2 đến 3 lần ở Lạng Sơn, Móng Cái… Vì thế những người dân Trung Quốc ở vùng biên bèn sang ViệtNam để mua hàng Trung Quốc, rẻ chưa bằng một nửa khi bán tại nước họ, về tiêu dùng.
Năm 1999 tôi có dịp thăm cửa khẩu Sóc Giang, Cao Bằng, chứng kiến cảnh Trung Quốc xua người dân lấn đất của Việt Nam bằng các cách sau: Dịch cột mốc tạm thời, cho người cắt cỏ theo đường phân giới, lấn sâu vào phía Việt Nam rồi cứ thế căn cứ vào màu cỏ để coi là ranh giới, trồng cây sao cho gốc chéo sang đất Việt Nam nhưng ngọn vẫn ở bên đất Trung Quốc rồi chờ đêm đến cho người ra dựng thẳng cái cây đó lên, coi như gốc cây là điểm giáp biên. Hoặc ở cửa khẩu Tà Lùng, có một con suối trở thành một đoạn đường biên tự nhiên giữa hai nước. Phía Trung Quốc bèn xui ViệtNamcùng họ đắp đập để lấy nước tưới. Nhưng khi tháo nước thì chỉ có phía ViệtNamthực hiện. Bờ sông phía Việt Nam lập tức bị nước khoét lõm vào khoảng vài chục mét – do áp lực nước quá lớn – và phía Trung Quốc lấy ngay cái bờ mới đó để chia lại đường phân thủy, kết quả là họ được lợi vài ngàn mét vuông. Chính anh em biên phòng bảo với tôi, phía Trung Quốc định ra mức thưởng 1000 nhân dân tệ (khoảng hơn 2 triệu đồng Việt Nam lúc ấy) cho một héc ta đất rừng lấn chiếm được. Người dân Trung Quốc ở vùng giáp biên với ViệtNamđa phần rất nghèo, có thể là nghèo nhất thế giới, nên họ thấy tiền là bất chấp tính mạng để lao vào. Cũng phải chứng kiến tận nơi mới thấy bộ đội biên phòng của chúng ta cũng như đồng bào ViệtNamở vùng biên gian khổ nhưng bất khuất và giàu lòng yêu nước như thế nào.
(****) Chúng ta đang lãng phí một cách không thể chấp nhận được, gồm: 1-Lãng phí của cải và nguồn lực đất nước (chỉ riêng thiệt hại do một mình tập đoàn Vinashin gây ra tương đương với giá của gần 4000 quả tên lửa diệt hạm tối tân, tương đương với 12 chiếc tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga, tương đương với hàng chục chiếc tàu khu trục hiện đại có khả năng tàng hình của Ấn Độ. Bất cứ quốc gia biển nào chỉ cần sở hữu một trong những số lượng vũ khí kể trên cũng được coi là một quốc gia có lực lượng hải quân đáng gờm); 2-Lãng phí nhân tài; 3-Lãng phí thời gian và cơ hội; 4-Lãng phí ý tưởng; 5-Lãng phí cảm hứng; 6-Lãng phí lòng yêu nước và cuối cùng là 7-Lãng phí sự chân thành và các giá trị đạo đức. Những lãng phí này khiến nội lực dân tộc bị suy nhựơc kinh niên.
Nguồn: Bauxite Việt Nam

1520. ‘Mùa xuân Ả rập’ và Mùa xuân Myanmar (bao giờ lan tới Việt Nam, Trung Hoa?)

Bổ sung, ngày 3/1/2013 – Độc giả phát hiện bài này mới bị gỡ bỏ trên cả VietnamNet lẫn TuanVietnam. Tuy nhiên, nó vẫn còn qua đường dẫn trên Baomoi.com.
Dù tinh vi tới đâu thì bản chất của mọi chế độ độc tài đều là cai trị đất nước để phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cai trị, thay vì để phụng sự nhân dân và đất nước“.
Nhưng sự cai trị bằng nỗi sợ hãi của dân chúng cũng tạo ra sự căm phẫn âm ỉ, và nó sẽ bùng lên khi tích tụ đủ mạnh và có một mồi lửa ném vào.”
TuanVietNam

‘Mùa xuân Ả rập’ và Mùa xuân Myanmar

02/01/2013
Hồng Ngọc
 Cùng thuộc về một làn sóng dân chủ hóa trên thế giới, nhưng “Mùa xuân Ả rập” để lại những vết thương sâu sắc chưa hứa hẹn ngày lành, thì Mùa xuân Myanmar cũng chính là quá trình làm lành vết thương của thời kỳ độc tài.
Mùa xuân bão táp ở Ả rập
Một loạt chế độ tại Ả rập – từng ưỡn ngực với sự “đặc thù” của văn hóa Hồi giáo mà từ chối nền dân chủ – đã đồng loạt đi đến hồi kết. Tất cả được châm mồi với chỉ một đốm lửa ở Tunisia hai năm trước.
…Trong Mùa xuân Ả rập, cựu Tổng thống Yemen Ali Saleh đã ra đi theo một cách êm ả nhất có thể: ông từ chức sau 33 năm cầm quyền và sang Mỹ đổi lại quyền miễn tố, để lại một Yemen kiệt quệ và đối mặt với các cuộc nổi dậy và nội chiến.
Hầu hết trong số đó đều tiếp tục nhiệm kỳ của mình sau các cuộc “bầu cử” không có ứng cử viên đối lập và chiến thắng với tỷ lệ phiếu bầu cực cao. Nhưng sự “tín nhiệm cao” đó không che giấu được những vấn đề trầm trọng của dân chúng và khối tài sản kếch xù của những nhà cầm quyền.
Và những cuộc nổi dậy của “Mùa xuân Ả rập” đã lột tả bản chất của sự “tín nhiệm cao” chính là sự sợ hãi của dân chúng, chứ không phải vì đó là chính quyền của nhân dân như các nhà độc tài vẫn tự xưng.
Nhưng sự cai trị bằng nỗi sợ hãi của dân chúng cũng tạo ra sự căm phẫn âm ỉ, và nó sẽ bùng lên khi tích tụ đủ mạnh và có một mồi lửa ném vào.
Cái giá mà đất nước họ phải trả còn lớn hơn thế. Là sự kiệt quệ của dân chúng do sự bòn rút của họ. Là sự hèn đụt và tính thụ động của dân chúng do sự đe dọa của họ. Là sự khủng hoảng lòng tin và đạo đức của dân chúng, do sự cai trị vô đạo đức và chia rẽ dân chúng của họ. Và cuộc nổi dậy như một vết thương được làm loét thêm, do tâm lý trả thù không chỉ nhằm vào nhà độc tài mà còn hướng cả vào những người từng tham gia hệ thống ấy, và những người được lợi nhờ hệ thống ấy, tạo ra một xã hội bị chia rẽ.
Mùa xuân ấm áp với Myanmar
Myanmar, giành độc lập năm 1948, bị hết thống tướng này đến thống tướng khác cai trị sau cuộc đảo chính quân sự năm 1962. Trong ngôn ngữ của chính trị học, đó là chế độ Qủa đầu (độc tài nhóm), một hình thức tinh vi hơn của độc tài cá nhân.
1
Dù tinh vi tới đâu thì bản chất của mọi chế độ độc tài đều là cai trị đất nước để phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cai trị, thay vì để phụng sự nhân dân và đất nước. Đó là nguyên nhân Myanmar từ vị thế là một đất nước phát triển hàng đầu châu Á đầu thập kỷ 1960 đã tụt hậu và kiệt quệ thành một nước lạc hậu nhất ở Đông Nam Á những năm qua.
Đứng trước nguy cơ bị lệ thuộc vào cường quốc láng giềng, giới lãnh đạo Myanmar đã có những thay đổi kịp thời và ngoạn mục.
Cuộc bầu cử dân sự năm 2010 tưởng như chỉ là mang tính hình thức để hợp thức hóa sự cai trị của những tướng lĩnh cũ, mà Tổng thống được bầu vào Mùa xuân 2011 Thein Sein nằm trong số này. Lần đầu tiên nắm quyền cao nhất ở Myanmar, vị tướng cũ đã từ bỏ đường lối cai trị độc tài, bằng cách chấm dứt những dự án của cường quốc láng giềng gây nguy hại cho Myanmar, công nhận đảng đối lập và tổ chức cuộc bầu cử bổ sung tự do vào Mùa xuân 2012, phóng thích hàng loạt tù nhân lương tâm, và cho phép tự do báo chí.
Myanmar còn có một nhân vật vĩ đại nữa làm biểu tượng cho quá trình dân chủ hóa: Aung San Suu Kyi, người đã để lại gia đình của mình ở nước Anh để trở về nước vận động dân chủ năm 1988 bất chấp bị đàn áp, đe dọa, bắt bớ, cấm tranh cử, rồi bị giam lỏng trong thời gian bầu cử năm 1990. Kết quả: bà chiến thắng áp đảo cùng Đảng của mình (82% số phiếu) nhưng bị từ chối chuyển giao quyền lực và tiếp tục bị giam lỏng, và bà từ chối rời khỏi đất nước để tiếp tục cuộc đấu tranh cho dân chủ. Ngày đó đã đến như mong mỏi của bà và nhân dân Myanmar, cho dù Đảng của bà chỉ tranh cử ở cuộc bầu cử bổ sung 45/664 ghế.
Một người từ bỏ quyền lực độc tài để đưa đất nước đến với dân chủ, và ca ngợi đối thủ từng bị phe mình giam giữ. Một người đã chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ nhưng chấp nhận sự cai trị của chính phe phái từng tước đoạt quyền lực của mình, thậm chí vận động quốc tế xóa bỏ cấm vận với chính quyền đương nhiệm, để tìm kiếm sự khởi đầu mới cho quá trình dân chủ hóa đất nước. Qúa trình dân chủ hóa của Myanmar, nhờ vậy, đồng thời là quá trình hòa giải dân tộc, giúp Myanmar không chỉ giữ được hòa bình mà còn giảm nguy cơ bị chia rẽ.
Đó là lý do cả hai được xếp hàng đầu trong danh sách 100 nhà tư tưởng của thế giới năm 2012 do Tạp chí Foreign Policy (Mỹ) lựa chọn. Riêng Thein Sein được tờ Straits Time (Singapore) bình chọn là Nhân vật châu Á của năm 2012. Vì từ bỏ độc tài quyền lực để trả quyền lực về cho nhân dân luôn là lựa chọn vô cùng khó khăn của mọi chế độ độc tài trong lịch sử.
Nhưng đó là lối thoát duy nhất cho một quốc gia muốn phát triển, và ngay lập tức đầu tư nước ngoài đã xếp hàng vào Myanmar. Và cũng là lối thoát duy nhất cho nhà độc tài để tránh bị xét xử hay bị giết hại khi dân chúng nổi dậy và trả thù, như đã diễn ra với “Mùa xuân Ả rập”.
Ba ngàn năm trước, nhà tư tưởng chính trị Khương Tử Nha đã thấu hiểu điều đó khi nhắc nhở Chu Văn Vương rằng: Thiên hạ không của riêng ai, thiên hạ là của cả thiên hạ, chung lợi ích với thiên hạ thì được thiên hạ, đoạt lợi ích của thiên hạ thì mất thiên hạ. Nhờ tư tưởng đó, nhà Chu tồn tại tới tám trăm năm, và là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất về tư tưởng, triết học, binh pháp, kỹ thuật của Trung Quốc cổ và trung đại.
Ngày nay, không cần phải thông thái như Khương Tử Nha cũng biết điều đó. Quá nửa quốc gia trên thế giới là những nền dân chủ, thể chế buộc chính quyền phải chung lợi ích với thiên hạ, thay vì chờ đợi chính quyền tự nguyện như triều đại nhà Chu. Nhờ thế, những quốc gia thịnh vượng nhất, văn minh nhất đều là những nền dân chủ.
Nguồn: TuanVietNam