Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

Bài viết đáng chú ý

Ở Việt Nam thường xuyên có trò đánh tráo khái niệm


Ở VN, thường xuyên có trò đánh tráo khái niệm. Chẳng hạn:

- Trong số những góp ý về sửa đổi Hiến Pháp, có vấn đề về quân đội có trung thành với Đảng hay không?

Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 không ghi quân đội phải trung thành với Đảng. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp ghi thêm điều này.

Có người không tán đồng điều này. Không tán đồng điều này thì bị gán cho là "âm mưu phi chính trị hóa quân đội".

Rồi hàng loạt bài viết phê phán "âm mưu phi chính trị hóa quân đội".

Như vậy không đồng ý Quân đội phải trung thành với Đảng được đổi thành âm mưu phi chính trị hóa quân đội.

Thế thì những người soạn thảo các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đều là những kẻ chủ trương Phi chính trị hóa quân đội? đều là "suy thoái"?

- Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì gắn với chế độ Xã hội chủ nghĩa.

Đánh tráo khái niệm Nhà nước thành khái niệm Tổ quốc/đất nước.

Từ đó lập luận "Tổ quốc không thể không gắn với chế độ xã hội", "yêu Tổ quốc" là phải "yêu chế độ Xã hội chủ nghĩa".

Nhà nước thì đúng là không thể không gắn với chế độ xã hội nào đó, nhưng Tổ quốc/ Đất nước thì chẳng gắn với chế độ xã hội nào. Hồ Chí Minh nói "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" - như vậy thì Tổ quốc/ Đất nước thời vua Hùng với Tổ quốc/ Đất nước thời ông Hồ Chí Minh là một mà thôi, bất kể "chế độ xã hội" thời vua Hùng khác xa "chế độ xã hội" thời ông Hồ Chí Minh.

Trò đánh tráo khái niệm thường được dùng khi muốn vu vạ, kết tội ai. Nó cũng thường được dùng khi muốn tuyên truyền lừa bịp.

Trò này là một "thủ đoạn về logic", chỉ bịp được mấy đứa con nit nhưng rất "hiệu quả" và nguy hiểm khi được dùng để vu vạ người khác.

Ở VN, trong các Bản tự kiểm điểm của các cá nhân (chẳng hạn Cán bộ công chức, Đảng viên) thường có câu "Tôi luôn chấp hành và vận động gia đình chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước".

Ai không tán thành chủ trương của Đảng/ Nhà nước thì có mà là thằng suy thoái, phản động,...

Khai thác Bauxite ở Tây Nguyên là một "chủ trương lớn" của Đảng, Nhà nước. Nay chủ trương lớn này đã thấy là hoàn toàn sai. Ai là người có chủ trương lớn đó phải chịu trách nhiệm chứ không phải chỉ có kẻ thừa hành.

Trách nhiệm này còn có tình tiết tăng nặng là trước đó đã có người cảnh báo - có nghĩa là "cố tình vi phạm".

Mà trên đời không ai phản biện, ai cũng luôn chấp hành chủ trương của Đảng/ Nhà nước bất kể nó đúng hay rõ ràng/ có nguy cơ sai thì đất nước này không biết đi về đâu?
T.Q.N
(Blog Tễu)

“Không dám dừng bô xít Nhân Cơ là một sai lầm lớn!”

“Đào bô xít Tây Nguyên xuất khẩu với thuế 0% là biếu không tài nguyên cho nước ngoài. Còn nói không dám dừng dự án Nhân Cơ là một sai lầm lớn vì ai cũng thấy càng làm càng lỗ”, TS. Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc BQL các dự án than Đồng bằng sông Hồng.
Trao đổi với phóng viên Dân trí về mức thuế xuất khẩu alumina Tây Nguyên chỉ 0% và việc “dự án Nhân Cơ không thể dừng vì sẽ gây nhiều thiệt hại”, TS. Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc BQL các dự án than Đồng bằng sông Hồng -Vinacomin cho rằng đây là tư duy theo kiểu sự đã rồi nên đành “đâm lao thì phải theo lao” của Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (TKV).
TS. Nguyễn Thành Sơn: Đối với TKV ngành than quan trọng hơn rất nhiều so với hai dự án alumina
TS. Nguyễn Thành Sơn: "Đối với TKV ngành than quan trọng hơn rất nhiều so với hai dự án alumina"
Thuế xuất 0% là biếu không tài nguyên cho nước ngoài
Theo TKV mức thuế xuất 15-40% được áp dụng cho quặng sắt và nhôm, không áp dụng cho alumina. Vậy theo ông, mặt hàng alumina áp mức thuế xuất khẩu 0% có làm cho ngân sách nhà nước thất thu hay không?
Bô xít có tỷ lệ quặng nhôm là 50%, nhưng đã là alumina tỷ lệ nhôm lên đến 98%. Như vậy, bô xít là tài nguyên thiên nhiên, sở hữu toàn dân, khi sử dụng trong nước thì không có vấn đề gì nhưng đã xuất khẩu phải thu thuế xuất khẩu. Việc áp mức thuế 0% cho alumina khác nào cho không nước ngoài tài nguyên.
Như vậy có nghĩa là ngân sách nhà nước chịu thất thu để cho dự án bô xít đạt hiệu quả, hay nói cách khác là hiệu quả có điều kiện. Khi thuế xuất khẩu bằng 0%, không những Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam hưởng lợi mà cả bên nhập khẩu cũng có lợi rất lớn. Với cách tính như vậy, mỗi năm nhà nước bị thất thu hàng chục triệu đô la. Còn nghĩa vụ đóng các khoản thuế như phí môi trường, thuế tài nguyên, thuế VAT, thu nhập doanh nghiệp… thì không thấm vào đâu so với thuế xuất khẩu tài nguyên. Theo tôi, cách tính đó là đánh lừa dư luận, đánh lừa lãnh đạo và cần phải xem xét lại.
Những con số như tổng mức đầu tư cho hai dự án bô xít ở Tây Nguyên tăng hơn 30%; giá thành sản xuất alumina cũng tăng khá nhiều; thời gian lỗ và thu hồi vốn cũng được kéo dài; đặc biệt dự án được đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng cũng bị chậm tiến độ so với mục tiêu đề ra, nói lên điều gì, thưa ông?
TKV hơi chủ quan và chưa nghiêm túc thực hiện theo chỉ đạo của Bộ Chính trị trong thông báo 245 về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô xít giai đoạn 2007-2015. Thông báo này nêu rất rõ việc triển khai thế nào? Lấy cái gì làm trọng tâm? Làm thí điểm nhưng thí điểm thế nào? Qua 4 năm triển khai dự án, tôi thấy TKV không làm như vậy.
Thứ nhất, về công nghệ, Bộ Chính trị đã lưu ý: “Việc lựa chọn công nghệ là một nội dung quan trọng; yêu cầu là phải sử dụng công nghệ hiện đại trên thế giới”. Thế nhưng TKV đã có lựa chọn sai lầm là nhà thầu Trung Quốc, không có kinh nghiệm làm bô xít dạng á núi lửa như ở Tây Nguyên. Vì vậy, nhà thầu Trung Quốc phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm ở cả hai dự án, và việc chạy thử nghiệm của dự án Tân Rai bị kéo dài.
Công nghệ nhà thầu Trung Quốc lạc hậu được thể hiện rõ qua việc phải sử dụng than tốt đưa từ Quảng Ninh vào. Phân xưởng khí hóa than sử dụng công nghệ cách đây nửa thế kỷ. Vì vậy, riêng chi phí cho than đã chiếm 26,5% giá thành alumina. Công nghệ của nhà thầu Trung Quốc thải bùn đỏ vừa lạc hậu, vừa nguy hiểm. Công nghệ này cũng sử dụng lượng nước lớn và tổn thất tài nguyên rất lớn.
Thứ hai, Bộ Chính trị cũng đã lưu ý rất rõ: “Kết cấu hạ tầng Tây Nguyên còn thấp kém, nguồn nước và nguồn điện hạn chế, nên cần phải đẩy mạnh phát triển để vừa đáp ứng yêu cầu khai thác bô xít, sản xuất alumina, vừa đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng này”. Theo chỉ đạo thì cơ sở hạ tầng kỹ thuật… Tây Nguyên phải có trước nhưng ở đây TKV lại làm ngược lại, họ chỉ quan tâm đến việc xây nhà máy sản xuất alumina và khai thác bô xít. Bây giờ, bô xít Tây Nguyên đang tắc về vận tải, nước, còn nhiệt điện phải chở than từ tận Quảng Ninh vào…
Chính vì vậy, tổng mức đầu tư cho hai dự án bô xít ở Tây Nguyên tăng hơn 30%; giá thành sản xuất alumina cũng tăng khá nhiều; thời gian lỗ và thu hồi vốn cũng được kéo dài; đặc biệt dự án được đầu tư hàng tỷ đô la cũng bị chậm tiến độ so với mục tiêu đề ra.
Dừng dự án Nhân Cơ đem lại cơ may
Đại diện Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam cho biết, họ không dám dừng dự án Nhân Cơ vì những thiệt hại phải gánh vác rất nhiều. Nhưng chỉ vì sự đã rồi đó, nếu họ vẫn cứ “đâm lao thì phải theo lao”, theo ông thiệt hại sẽ đi đến đâu và liệu dự án bô xít có hết lỗ và thu hồi vốn nhanh như kỳ vọng không?
Rõ ràng cả hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ không hiệu quả. Về dự án Tân Rai do đã “chạy đến phút chót” nên phải tính đến chuyện nghiệm thu để có cơ sở đánh giá, hiệu quả của dự án.
Đối với Nhân Cơ, TKV nói không dám dừng là một sai lầm lớn. Đây là tư duy theo kiểu sự đã rồi và “đâm lao thì phải theo lao”. Dự án Nhân Cơ đã triển khai ồ ạt 92/93 hạng mục (duy chỉ còn hạng mục trồng cây xanh là chưa triển khai), theo tôi là sai lầm của TKV, khi làm hạng mục nào cũng nhoe nhoét ra thì vốn tăng lên là phải. Nếu không muốn thiệt hại nặng nề, theo tôi dự án này càng dừng sớm càng tốt. Khi đã không hiệu quả thì phải dừng, chi phí ấy sẽ nhỏ hơn nhiều việc “đâm lao thì phải theo lao”. Còn nếu sau này nhà máy Tân Rai chạy tốt thì có thể dỡ tất cả thiết bị ở Nhân Cơ về đó (theo thiết kế Nhân Cơ phải nhân đôi công suất).

Băng tải chuyển quặng tinh dự án bô xít (ảnh NLD)
Băng tải chuyển quặng tinh dự án bô xít (ảnh NLD)
Hơn nữa, việc tôi đề xuất dừng dự án Nhân Cơ cũng dựa trên xu thế giá nhôm ngày càng tăng lên. Vì vậy, càng lùi Nhân Cơ lâu bao nhiêu thì càng có cơ may đem lại hiệu quả cho dự án. Còn TKV càng đẩy nhanh, làm mạnh thì càng thua lỗ.
Theo những con số TKV đưa ra, tôi tính toán ngay cả vòng đời dự án bô xít có kéo dài đến 50 năm với thuế xuất chỉ 15% thì đến cuối đời nó cũng không thu hồi được vốn.
Phía TKV cũng cho rằng đánh giá hiệu quả kinh tế dự án không chỉ dựa vào hiệu quả kinh tế đơn thuần mà còn phải tính đến sự lan tỏa kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh dự án bô xít Tây Nguyên chưa thấy khả quan, ông có đồng ý với lập luận đó không?
Một dự án muốn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, điều ai cũng biết trước tiên bản thân dự án phải hiệu quả đã. Ví như: anh muốn nuôi được cha mẹ mình và những người em trong gia đình thì bản thân phải đủ ăn. Ở đây, bản thân dự án bô xít chưa “đủ ăn” thì làm sao nói chuyện hiệu quả kinh tế - xã hội được. Cụ thể, thuế xuất khẩu bằng 0% thì lấy đâu ra mà phát triển. Thậm chí, người dân đóng thuế phải chi thêm tiền để bô xít duy trì sản xuất.
Còn nói dự án Tân Rai tạo ra được 1.500 lao động thì cũng không bõ bèn gì vì con số đó cũng chỉ bằng dân số của một làng. Nếu cả hai dự án đi vào hoạt động, thử hỏi với tổng mức đầu tư tương đương 1,5 tỷ đô la mà chỉ tạo ra khoảng 3.000 lao động thì quá đắt đỏ vì phải mất 500 nghìn đô la cho một suất lao động.
Thay vì làm bô xít, nếu có 1,5 tỷ đô la trong vòng 5 năm đầu tư cho 6 tỉnh Tây Nguyên phát triển cây công nghiệp, phát triển hạ tầng xã hội thì bộ mặt nơi đây thay đổi rất nhiều.


“Không có vài tấn alumina, nền kinh tế không chết”

Theo TS. Nguyễn Thành Sơn nếu TKV cứ lao theo bô xít, nguy cơ rất lớn cho ngành than là không rút được vốn về. “Đối với TKV ngành than quan trọng hơn rất nhiều so với hai dự án alumina. Nhiệm vụ chính trị của TKV là khai thác than làm ra điện phục vụ cho an ninh năng lượng chứ không phải làm alumina rồi xuất với mức thuế bằng 0%. Không có vài tấn alumina nền kinh tế chưa việc gì!”, TS. Sơn nhận định.


Quang Phong (thực hiện)
(Dân trí)

Không chỉ Alumin mà tất cả đều khủng hoảng

43f10

“Thương trường có những mặt phải đến giờ phút chót trước khi tiến hành chúng ta mới biết được”- Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam trả lời báo chí bên hành lang Quốc hội. Ông đề nghị báo chí và nhân dân tin tưởng ở Vinacomin bởi “Trong hai ba tháng nữa sẽ có những quyết định quan trọng”.

Đâu là nguyên nhân chậm trễ của những bauxite, thưa ông?

Sự chậm trễ chủ yếu là nguyên nhân khách quan. Trước lo lắng của dư luận xã hội nên Bộ công thương có chỉ đạo tập đoàn cùng các cơ quan hữu quan của Nhà nước đi khảo sát toàn bộ sự cố hồ bùn đỏ và phải xử lý theo báo cáo, ý kiến góp ý của các nhà khoa học để nâng độ an toàn. Tất nhiên bên cạnh đó cũng có những mặt chủ quan như vấn đề đường xá vận chuyển những thiết bị cồng kềnh, siêu trường, siêu trọng hay vấn đề về nhân công thầu phụ không đáp ứng được.

Thưa ông, trong khi chưa xác định được được dự án Bauxite Tân Rai  hết lỗ và chưa chắc chắn nhu cầu thế giới về alumin, Vinacomin có tính đến việc dừng dự án Nhân Cơ không?

Tôi nghĩ chỉ trong vòng hai hoặc ba tháng nữa thôi chúng ta sẽ thấy được quyết định rất quan trọng của việc phát triển, tác động của hai dự án này. Tất cả sẽ được giải quyết tại chỗ về vấn đề vận chuyển vì bây giờ thương trường có những mặt phải đến giờ phút chót trước khi tiến hành chúng ta mới biết được. Chúng ta phải tin tưởng, bởi ngoài tập đoàn ra còn có các bộ, còn có tư vấn, giám sát. Tôi nghĩ sự tin tưởng là điều giúp cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong giai đoạn hiện nay và không chỉ là doanh nghiệp nhà nước. Những gì sai trái đã có cơ quan pháp luật. Còn vấn đề gì thuộc về bí quyết kinh doanh, đảm bảo bí mật cạnh tranh thì rất mong các cơ quan thông tin báo chí ủng hộ. Tôi tin rằng trong hai ba tháng nữa sẽ có những quyết định quan trọng.

Thế còn lo lắng của các nhà khoa học về sự thua lỗ của hai dự án bauxite, thưa ông?

Việc này không khác gì các nhà khoa học đã từng lo lắng cho dự án mỏ đồng Sinh Quyền đâu. Nếu các bạn lật lại thông tin mà báo chí đã đưa từ 2, 3 năm trước nhưng đến thời điểm này rõ ràng dự án mỏ đồng Sinh Quyền là dự án tốt nhất của Vinacomin. Nó có những giai đoạn nhất định vì thực chất ra chúng ta đã bao giờ làm những dự án như vậy đâu. Tất các các nhà khoa học, nhà công nghệ chúng ta đều phải học tập của nước ngoài và trong quá trình này chúng ta đều phải nhờ chuyên gia nước ngoài, học tập chuyên gia nước ngoài để tiếp thu những công nghệ đó và vận hành những nhà máy thử nhiệm đầu tiên và sau đó quy trình phát triển và quy hoach của chính phủ.

Với công nghệ chế biến mà Vinacomin đang áp dụng, mức độ tiêu hao nước là rất lớn trong khi đó thiếu nước là vấn rất lớn và thường niên ở Tây nguyên?

Chúng tôi nghĩ rằng mỗi dự án đều xây dựng những hồ chứa nước không những đảm bảo cho sản xuất mà ngay cả mùa khô vừa rồi cũng là cứu cánh cho đồng bào phục vụ tưới tiêu trong công nghiệp. Trong khi ở những nơi khác (người dân) phải mua hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn khối nước nhưng theo chỉ đạo của tỉnh chúng tôi lấy nước từ những hồ chứa nước để cấp cho bà con tưới cây công nghiệp trong mùa nắng hạn vừa qua. Tôi nghĩ mỗi dự án phải tính đến để cân đối đủ nước cho tưới tiêu.

Vinacomin sẽ vẫn tiếp tục dự án Nhân Cơ, thưa ông?


Tôi khẳng định dự án Nhân Cơ vẫn sẽ tiếp tục. Cá nhân tôi nghĩ bằng quyết tâm cao, sự chỉ đạo của Chính phủ và nỗ lực  không chỉ của Vinacomin và các thành phần kinh tế khác trong thời gian gần chúng ta sẽ thấy hiệu quả của những dự án trên. Vấn đề là đúng lúc chúng ta trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng không chỉ alumin mà tất cả  các lĩnh vực khác đều khủng hoảng kể cả gạo và những mặt hàng nông sản. Chúng ta đừng quá lo lắng quá. Với trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước và các thành phần khác chúng tôi đều bươn chải tìm đường ra. Thời gian sẽ chứng minh.
Đào Tuấn thực hiện
(Blog Đào Tuấn)

Global Witness phản hồi ý kiến của HAGL

Global Witness nói hai công ty của Việt Nam đang 'tàn phá môi trường'
Tổ chức vận động Global Witness vừa ra thông cáo khẳng định các bằng chứng của mình là xác thực, sau khi Hoàng Anh Gia Lai họp báo bác bỏ cáo buộc phá rừng.
Thông cáo ra tại Anh quốc hôm thứ Hai 20/5, mà BBC có trong tay, viết: "Global Witness khẳng định tính xác thực của các kết luận và bằng chứng đã đưa ra".
Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) đã tổ chức họp báo hôm 17/5, trong đó Chủ tịch Đoàn Nguyên Đức bác bỏ các cáo buộc phá rừng và vi phạm pháp luật trong phúc trình 'Các ông trùm cao su' (Rubber Barons) của Global Witness.
Phúc trình nói trên cáo buộc HAGL cùng Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) đã có nhiều hoạt động "trái pháp luật" ở Lào và Campuchia, gây ảnh hưởng tới môi trường và vi phạm nhân quyền.
Hình ảnh trong phúc trình của Global Witness
Hình ảnh trong phúc trình của Global Witness
Global Witness nói trong thông cáo hôm thứ Hai: "Tổ chức của chúng tôi đã ghi lại các vi phạm có tính hệ thống tại các cơ sở trồng cao su của HAGL ở cả Campuchia và Lào trong năm 2012".
Bà Megan MacInnes, phụ trách vận động về đất đai của Global Witness, đưa thêm cáo buộc trong thông cáo mới: “Thay vì nhìn nhận các bằng chứng đưa ra trong báo cáo và cải thiện cuộc sống cho hàng trăm người bị ảnh hưởng ở địa phương, HAGL dường như chỉ tìm cách bảo vệ hình ảnh của mình trước công chúng".
"HAGL sẽ làm gì để chấm dứt tình trạng tàn phá mà công ty này đang gây ra?"
Thảo luận
Global Witness nói đã có cuộc gặp với đại diện HAGL hôm 22/8/2012 tại thành phố Pleiku để chuyển bằng chứng và khuyến cáo một số biện pháp giải quyết.
Tổ chức này cũng nói sau đó hai bên đã trao đổi qua email, và HAGL nói không muốn thực hiện các biện pháp này.
"Tháng Ba 2013 Global Witness viết thư cho HAGL yêu cầu cập nhật công ty đã có hành động gì kể từ tháng Tám 2012, nhưng HAGL không trả lời."
Global Witness cho hay đang bàn với ông Đoàn Nguyên Đức và các đồng nghiệp của ông về khả năng gặp gỡ lần nữa tại Pleiku vào tháng Sáu 2013.
Tuy HAGL ngỏ ý mời Global Witness thăm nông trường cao su, tổ chức vận động này nói họ tin rằng ngồi với nhau để bàn thảo biện pháp giải quyết thì có ích hơn, vì họ đã thăm các dự án của HAGL nhiều lần trong năm 2012.
Trong khi đó, báo trong nước cho hay giá cổ phiếu của HAGL dường như đang phục hồi trở lại sau khi rớt giá mạnh sau phúc trình của Global Witness.
Chốt phiên giao dịch ngày 14/5, cổ phiếu HAG tụt giá 1.400 đồng, tương ứng 6%.
Tuy nhiên theo báo Dân Trí, trong phiên giao dịch đầu tuần ngày 20/5, HAG "trở lại cầm cự được với mức giá tham chiếu 21.800 đồng".
Báo này cũng nhận định đã có các hoạt động giao dịch mạnh "diễn ra bất thường" xung quanh cổ phiếu HAG trong bối cảnh HAGL bị cáo buộc.
(BBC)

Tư tưởng Hồ Chí Minh qua Bản yêu sách gửi đến Hội nghị Véc-xây và bản Hiến pháp 1946

(LTS Dân trí) - Nhân dịp Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Dân trí xin đăng bài viết của CTV Minh Tuấn (từ Tokyo, Nhật Bản) tìm hiểu những nét tương đồng giữa Bản yêu sách gửi đến Hội nghị Véc-xây (năm 1919) và Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (năm 1946), từ đó thấy được một điểm nhất quán hết sức quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
http://www.lhu.edu.vn/Data/News/117/images/Sinh%20nhat%20Bac%20Ho/HCM3_resize.jpg

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc năm 1918. Ngày 28 tháng 6 năm 1919, các nước thắng trận và bại trận đã họp Hội nghị tại Versailles, Pháp, để ký kết các hòa ước chính thức, cũng như phân chia các quyền lợi cho các nước thắng trận.
Các nước thắng trận bao gồm Anh, Pháp, Nga, Ytalia, Mỹ. Các nước bại trận bao gồm Đức, Áo - Hungary, và Thổ Nhĩ Kỳ. 
Tại Hội nghị Versailles này, bên cạnh các đoàn đại biểu chính thức, còn có đại diện các dân tộc bị áp bức, đến dự Hội nghị để yêu cầu độc lập và tự do cho dân tộc mình, như đại diện cho người Aixơlen, người Ấn Độ, người Triều Tiên, người Arập… Khi đó người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Pháp, đã tự tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pa-ri, và tại các tỉnh ở Pháp. Ông Nguyễn Ái Quốc đã đến Hội nghị Versailles với danh nghĩa đại diện cho tổ chức này.
Tại Hội nghị Versailles, ông Nguyễn Ái Quốc đã phát cho các đại biểu dự Hội nghị “Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam gửi đến Hội nghị Versailles”. “Bản yêu sách” này bao gồm 8 điểm rất ôn hòa, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ cơ bản tối thiểu cho nhân dân Việt Nam.
“Bản yêu sách” nổi tiếng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc  gửi Hội nghị Versaillé năm 1919 đó, bao gồm 8 điểm là:
1- Ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam.
2- Cải cách nền pháp lý Đông Dương, cho người Việt Nam cũng được bảo đảm về mặt pháp lý như người Âu, bỏ hẳn Tòa án đặc biệt, công cụ để khủng bố những người Việt Nam lương thiện nhất.
3- Tự do báo chí và tự do tư tưởng.
4-Tự do lập hội và tự do hội họp.
5-Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do ra nước ngoài.
6-Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh.
7-Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp.
8-Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản xứ bầu ra, ở bên cạnh Nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản xứ”.
Sau “Bản yêu sách 8 điểm” gửi Hội nghị Versailles, lần đầu tiên dư luận ở Pháp, và ở Việt Nam biết đến cái tên Nguyễn Ái Quốc, một thanh niên Việt Nam trẻ tuổi đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Và cũng từ đó, mật thám Pháp bắt đầu để ý, theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động của ông Nguyễn Ái Quốc. Bởi vì, với Nhà nước thực dân độc tài, phản dân chủ, thì mọi tiếng nói đòi tự do, dân chủ cho người dân Việt Nam đều bị coi là nguy hiểm cho Nhà nước thực dân.
Nhưng tất cả những yêu sách ôn hòa đó của Nhóm người Việt Nam yêu nước của ông Nguyễn Ái Quốc đều không được Chính phủ Pháp, cũng như các nước trong Hội nghị Versailles quan tâm, để ý. Từ đó, ông Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan trọng rằng không thể trông cậy vào các nước khác, “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Bây giờ nhìn lại Bản yêu sách 8 điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội nghị Versailles năm 1919, chúng ta thấy rằng tư tưởng của Bác Hồ về một thể chế tôn trọng những quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho người dân được hình thành từ rất sớm. Khi đó Bác Hồ mới 29 tuổi, và mới sang Pháp được 8 năm. Trong số các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, thì Bác Hồ là người duy nhất sống ở nước ngoài tới 30 năm.
Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, tại bến Nhà Rồng, Sài Gòn, và chỉ đến năm 1941 mới trở về nước, để lãnh đạo Đảng, nhân dân đấu tranh giành chính quyền. Bởi vậy Bác là người hiểu rất rõ những hạn chế, xấu xa của chế độ tư bản, thực dân, nhưng đồng thời Bác cũng hiểu được rất rõ các giá trị của nền văn minh phương Tây, của chế độ tự do, dân chủ phương Tây.
Chính bởi vậy, vào năm 1946, khi Bác Hồ chỉ đạo soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản Hiến pháp 1946 đó chứa đựng rất nhiều giá trị tiến bộ của nền dân chủ phương Tây. Bác Hồ đã lãnh đạo Đảng và nhân dân Việt Nam đánh đuổi thực dân, nhưng những giá trị của nền văn minh phương Tây, thì cần phải khiêm tốn học hỏi. Đó chính là tính biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Điều 10 của Hiến pháp 1946 qui định: “Công dân Việt Nam có quyền: - Tự do ngôn luận. - Tự do xuất bản. - Tự do tổ chức và hội họp. - Tự do tín ngưỡng. - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Nội dung của điều 10 này rất giống một phần nội dung 8 điểm mà Bác Hồ đã gửi Hội nghị Versailles cách năm 1946 đó 27 năm.
Hiện nay trong cả nước đang dấy lên phong trào “lao động, học tập gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây là phong trào rất hay, rất cần thiết, nhưng theo tôi thiển nghĩ thì chưa đủ. Bởi vì đạo đức Hồ Chí Minh chỉ là một nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một diểm nhất quán và hết sức quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là về xây dựng một Nhà nước công bộc của dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, “việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”. Trong thư “Gửi các ủy ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện, và làng” tháng 10 năm 1945, Bác Hồ viết “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”. Như vậy, Bác Hồ hiểu rất rõ độc lập cũng chỉ là phương tiện để thực hiện tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Tự do, hạnh phúc cho nhân dân mới là mục đích của nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Chừng nào còn có kẻ đánh bạc cả triệu đôla, nhưng cả triệu người dân còn thiếu thốn nhiều bề, chừng nào còn có cán bộ hách dịch, xếch mé với dân, không làm tròn trách nhiệm là công bộc của dân, chừng nào người dân còn chịu oan khuất, phải đi khiếu kiện kêu cầu công lý, chừng nào bộ máy hành chính còn hành dân, thì chừng đó, tư tưởng Hồ Chí Minh còn chưa được quán triệt trở thành hành động trong thực tế.
Bây giờ nhìn lại Bản yêu sách 8 điểm của Bác Hồ cách đây gần 100 năm, và bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, chúng ta thấy rõ tư tưởng của Bác Hồ về xây dựng một thể chế tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân.
Từ đó chúng ta thấy rõ rằng cần phải từ phong trào lao động, học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay, nâng cao lên thành phong trào học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước công bộc của dân.
Minh Tuấn
(Từ Tokyo, Nhật Bản)
(Dân trí)

Ai sẽ là Bộ trưởng Tài chính thay Vương Đình Huệ?

Ông Đinh Tiến Dũng
Theo chương trình làm việc vừa được Quốc hội thông qua tại phiên họp trù bị sáng nay (20-5-2013), sáng Thứ năm ngày 23-5-2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng sẽ đọc Tờ trình Quốc hội về nhân sự Bộ Tài chính và buổi chiều cùng ngày Quốc hội sẽ tiến hành xem xét việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ tài chính đối với ông Vương Đình Huệ. Chậm nhất đến hết buổi sáng Thứ sáu, ngày 24-5-2013, Quốc hội sẽ phê chuẩn và người dân sẽ biết ai là tân Bộ trưởng Bộ tài chính.
Thật ra giới thạo tin đã phân tích và đoán được ai sẽ thay thế ông Vương Đình Huệ từ đầu tháng 05/2013: “Đó chính là Uỷ viên TW Đinh Tiến Dũng, người đang giữ chức Tổng Kiểm toán Nhà nước, sẽ được điều sang nắm Bộ Tài chính”.
Ông Đinh Tiến Dũng được Quốc hội bầu làm Tổng Kiểm toán Nhà nước tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá XIII với nhiệm kỳ 7 năm thay cho người tiền nhiệm là ông Vương Đình Huệ.
Ông Đinh Tiến Dũng được đào tạo cơ bản, trình độ chuyên môn là cử nhân kinh tế tài chính, hệ chính quy và là thạc sỹ quản trị kinh doanh, Cao cấp Lý luận chính trị. Từ năm 1983 đến năm 2003, ông Dũng đã đảm nhận công tác tài chính kế toán. Ông Dũng từng đảm nhận vị trí Vụ trưởng Vụ Tài chính kế toán, rồi Thứ trưởng Bộ Xây dựng phụ trách lĩnh vực này.
Ông Đinh Tiến Dũng (52 tuổi, quê tỉnh Ninh Bình), từng là Thứ trưởng Bộ Xây dựng trước khi được bầu và phê chuẩn làm Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên. Đến giữa tháng 10-2010, ông được Bộ Chính trị điều động và bổ nhiệm làm Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình. Ông là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. 
Ông Đinh Tiến Dũng được sự ủng hộ rất lớn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Trưởng ban Tổ chức TW Tô Huy Rứa cũng không phản đối.
Câu hỏi tiếp theo là ai sẽ là tân Tổng kiểm toán Nhà nước? Theo quy trình, nhân sự Tổng Kiểm toán nhà nước sẽ do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu để Quốc hội bầu.
Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và sớm thông tin đầy đủ đến quý đọc giả trong vài ngày tới.
    Tiểu sử ông Đinh Tiến Dũng
    Ông Đinh Tiến Dũng sinh ngày 10 tháng 5 năm 1961 tại xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
        Ông từng theo học Đại học Tài chính và Kế toán (nay là Học viện Tài chính), Khoa Kế toán xây dựng cơ bản.
        Tháng 3 năm 1983: ông được phân về làm Cán bộ Phòng Tài vụ của Tổng công ty Sông Đà (thuộc Bộ Xây dựng (Việt Nam)). Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 5 tháng 1 năm 1987.
        Tính đến tháng 4 năm 1993: ông lần lượt giữ các chức vụ tài chính kế toán trong các công ty thành viên của Tổng công ty Sông Đà.
        Tháng 5 năm 1987: Phó Kế toán trưởng Công ty Xây dựng Thủy công Tổng công ty Sông Đà.
        Tháng 5 năm 1988: Phó phòng Tài vụ Công ty Cung ứng vật tư Sông Đà, Tổng công ty Sông Đà .
        Tháng 6 năm 1989: Kế toán trưởng Công ty Cung ứng vật tư Sông Đà, Tổng công ty Sông Đà.
        Tháng 12 năm 1991: Kế toán trưởng Công ty Xây dựng Sông Đà 1, Tổng công ty Sông Đà.
        Đến tháng 4 năm 1993, ông được phân về làm Kế toán trưởng Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng (thuộc Bộ Xây dựng (Việt Nam)).
        Tháng 10 năm 1997: ông được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Tài chính kế toán, Bộ Xây dựng (Việt Nam), bởi sự đề cử của cấp trên cũ là ông Nguyễn Hồng Quân, nguyên Tổng Giám đốc Tổng công ty Sông Đà, bấy giờ vừa được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thường trực Bộ Xây dựng (Việt Nam). Năm 2002, ông Quân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Xây dựng (Việt Nam).
        Tháng 6 năm 2003: ông được bổ nhiệm làm Ủy viên Ban Cán sự, Thứ trưởng Bộ Xây dựng (Việt Nam).
        Tháng 5 năm 2008: ông được điều động tham gia Tỉnh ủy tỉnh Điện Biên và được bầu làm Phó bí thư. Hai tháng sau, tại phiên họp Hội đồng Nhân dân tỉnh Điện Biên, ông được bầu làm Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, thay cho bà Lò Mai Trinh chuyển sang giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Điện Biên.
        Tháng 10 năm 2010: Trung ương Đảng điều động ông Dũng về giữ chức Bí thư tỉnh Ninh Bình.
        Tháng 1 năm 2011: ông trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá XI.
        Ngày 2 tháng 8 năm 2011: ông được Quốc hội bầu vào chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước (Việt Nam) thay người tiền nhiệm là ông Vương Đình Huệ.
(TSNH)
 

Nguyễn Hưng Quốc - Từ chống cộng đến chống toàn trị

Trong lịch sử loài người, thời nào cũng có xung đột. Nhưng xung đột ở thế kỷ 20 và 21 khác các thế kỷ trước ở nhiều điểm.

Thứ nhất, chúng có tính chất toàn cầu. Trước đó, một số đế quốc mang quân đi chinh phạt nhiều quốc gia thuộc nhiều lục địa khác nhau, nhưng xung đột vẫn giới hạn giữa hai quốc gia chính : đế quốc và thuộc địa. Đã có một số liên minh được thành lập để chống lại một nước nào đó, nhưng tất cả các liên minh ấy đều tạm thời và cũng chỉ giới hạn trong một khu vực nhất định. Bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, ngược lại, với hai cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai cũng như cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, quy mô của xung đột mới thực sự có tính toàn cầu : Không có nơi nào thoát khỏi ảnh hưởng của chúng.

Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử, thông tin, và cùng với nó, tuyên truyền, trở thành một thứ vũ khí chủ đạo. Trong thông tin và tuyên truyền, có hai yếu tố đóng vai trò chủ yếu : hình ảnh và ngôn ngữ. Trong hai yếu tố ấy, hình ảnh là một yếu tố mới, gắn liền với các kỹ thuật truyền thông hiện đại, đặc biệt báo chí và truyền hình. Còn ngôn ngữ thì đã có từ lâu. Nó chỉ thay đổi ở mức độ và cách thức được sử dụng. Có thể nói chưa bao giờ ngôn ngữ bị chính trị hóa một cách sâu sắc đến như vậy.

Thứ ba, như là hệ quả của điểm trên, chỉ từ thế kỷ 20 trở đi, các cuộc xung đột mới mang màu sắc văn hóa rõ nét. Hậu quả là, bên cạnh mặt trận quân sự và chính trị vốn hiện hữu từ lâu, người ta có thêm một thứ mặt trận mới : mặt trận văn hóa. Mục tiêu chính của mặt trận văn hóa là chinh phục tình cảm và tư tưởng của con người. Có khi chính mặt trận văn hóa này quyết định cục diện của cuộc chiến đấu, phân định kẻ thắng và người thua, một cách tạm thời cũng như trong dài hạn. Theo Samuel P. Huntington, trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (1996), xung đột chính trên phạm vi toàn thế giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh không còn xuất phát từ ý thức hệ như trước mà chủ yếu xuất phát từ văn hóa, trong đó yếu tố quan trọng nhất là tôn giáo. Tình hình chính trị thế giới sau biến cố 11/9/2001, châu tuần chung quanh cuộc chiến chống khủng bố vốn gắn liền với các phần tử Hồi giáo cực đoan, dường như củng cố một phần các luận điểm của Huntington.

Trong mặt trận văn hóa và với vai trò của thông tin cũng như tuyên truyền, việc định danh (hay gọi tên) là một trọng tâm trong chính sách của mọi phía.

Trên nguyên tắc, sự khác biệt căn bản giữa các nước cộng sản (từ 1917 đến 1991) và các quốc gia Tây phương là ở bình diện kinh tế, hoặc nói theo thuật ngữ của các nhà Mác-xít, ở phương thức sản xuất : Đó là sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, để ý mà xem, trên hầu hết các khẩu hiệu được sử dụng ở các nước cộng sản ấy, từ Liên Xô đến Trung Quốc và cả Việt Nam nữa, khẩu hiệu trung tâm và phổ biến nhất, là chống chủ nghĩa đế quốc (hoặc gọn hơn, như ở Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, “phản đế”, anti-imperialism) chứ không phải là chống chủ nghĩa tư bản (anti-capitalism).

Khi đưa việc chống chủ nghĩa đế quốc thành nội dung chính trong chính sách tuyên truyền, Lenin đã thay đổi một luận điểm căn bản của Karl Marx : Với Marx, được trình bày trong cuốn Tư bản luận, chủ nghĩa đế quốc là thời tiền sử - hoặc sơ kỳ - của chủ nghĩa tư bản ; với Lenin, nó là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản ; với Marx, nó đã hoặc sắp thuộc về quá khứ, với Lenin, nó đang ở thì hiện tại và có thể, trong tương lai. Biểu hiện rõ nhất của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa thực dân (colonialism).

Có điều, sau thập niên 1950, chủ nghĩa thực dân hầu như tan rã khắp nơi : Hầu hết các nước thuộc địa, bằng chiến tranh hoặc bằng biện pháp hòa bình, lần lượt giành được độc lập. Các nhà tuyên truyền cộng sản phải tạo nên một khái niệm mới : chủ nghĩa thực dân mới (neo-colonialism). Nếu, nói như Lenin, chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân mới được xem là giai đoạn phát triển cao nhất, thậm chí, là giai đoạn cuối cùng, của chủ nghĩa đế quốc.

Cả chủ nghĩa thực dân cũ lẫn chủ nghĩa thực dân mới đều nhắm đến một mục tiêu giống nhau : kiểm soát các thuộc địa. Chỉ khác ở cách thức và phương tiện : Với chủ nghĩa thực dân cũ, đó là quân sự và việc xâm chiếm lãnh thổ ; với chủ nghĩa thực dân mới, đó là kinh tế và âm mưu thực dân hóa tâm hồn con người bằng một thứ "văn hóa đồi trụy" ; với chủ nghĩa thực dân cũ, cái lợi chủ yếu nằm ở tài nguyên và sức lao động, với chủ nghĩa thực dân mới, cái lợi chủ yếu nằm ở thị trường và các ảnh hưởng chính trị trên bàn cờ quốc tế.

Có thể nói một cách tóm tắt, sự phát triển của phong trào cộng sản thế giới từ cuối thế kỷ 19 cho đến lúc sụp đổ vào cuối thế kỷ 20 đã trải qua ba giai đoạn với ba khẩu hiệu chính : Thoạt đầu, với Marx và Engels, đó là chống chủ nghĩa tư bản ; với Lenin và Stalin, là chống chủ nghĩa đế quốc ; với các nhà lãnh đạo sau Stalin, là chống chủ nghĩa thực dân mới. Về phương diện tuyên truyền, hai giai đoạn sau tinh tế hơn : Nó chuyển mục tiêu từ kinh tế sang chính trị ; và ở chính trị, biến một ý thức hệ trừu tượng và mơ hồ thành một ác quỷ mang mặt người với súng đạn và tiền bạc, với những bàn tay đầy máu me. Tất cả đều được sử dụng như những con ngoáo ộp để dọa dẫm người khác. Bên cạnh những con ngáo ộp ấy, mọi quốc gia thân thiện với Mỹ đều bị gắn nhãn là tay sai hoặc là bù nhìn. Chưa hết, vì cả hai đều là những giai đoạn "phát triển cuối cùng" nên sau đó chỉ là "vực thẳm" ! Hình ảnh để quốc đứng trên bờ vực thẳm là một sáo ngữ được lặp đi lặp lại khắp nơi.

Về phía Tây phương, để chống lại sự phát triển và những đe dọa từ chủ nghĩa cộng sản, kể từ sau năm 1917, người ta đã tung ra những chiến dịch chống cộng rầm rộ dưới nhiều hình thức và bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ quân sự đến chính trị và văn hóa. Trong lãnh vực văn hóa, người ta nhắm đến việc chứng minh lý thuyết của Marx và Lenin, đặc biệt chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sai : Với Marx, lịch sử phát triển theo con đường tuyến tính, sau chủ nghĩa phong kiến là chủ nghĩa tư bản và sau chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ; với những người chống Cộng, diễn trình ấy chỉ là một ngộ nhận và cái gọi là chủ nghĩa cộng sản như một thứ thiên đường hạ giới chỉ là một không tưởng.

Tuy nhiên, khi biến việc chống cộng thành một khẩu hiệu chính như vậy, người ta lại vấp phải khá nhiều sai lầm trong việc thu hút sự chú ý và sự đồng tình của quần chúng, đặc biệt của giới trí thức.

Thứ nhất, nó biến một xung đột chính trị, thậm chí, xung đột vũ trang thành một thứ xung đột về phương diện lý thuyết. Thay vì chống lại những đội quân hùng hậu đang cầm súng bắn vào họ hoặc bắn vào nhân dân của nước họ, người ta lại tập trung vào việc chống lại ông Marx và ông Engels cũng như các tác phẩm triết học và kinh tế học dày cộm của hai ông ấy - những tác phẩm mà, oái oăm thay, ngay chính các lãnh tụ cao cấp nhất của các đảng cộng sản cũng chưa chắc đã đọc !

Thứ hai, chống lại chủ nghĩa cộng sản không khác gì chống lại một tôn giáo. Cả chủ nghĩa cộng sản lẫn tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, đều giống nhau ở chỗ : cả hai đều nhắm đến những lý tưởng cao đẹp và cao cả, nhằm giải phóng và cứu rỗi con người. Người ta không thể chống lại những lý tưởng như thế. Hơn nữa, ngay cả khi người ta có thể chứng minh những lý tưởng ấy chỉ là những sự không tưởng, người ta cũng rất khó thuyết phục được người khác. Có hai lý do chính. Một, với lý tưởng, người ta sử dụng niềm tin hơn lý trí. Mà niềm tin lại có thể bất chấp lý trí. Hai, nhân danh những lý tưởng ấy, người ta có thể biện hộ cho các sai lầm trong hiện thực : lý tưởng đúng, chỉ có chính sách là sai. Mà chính sách thì có thể thay đổi được. Nếu không thay đổi được thì cũng có thể… thông cảm được.

Lý do thứ hai kể trên là thái độ chung của rất nhiều trí thức Tây phương trong suốt thế kỷ 20. Không phải người ta không biết cộng sản độc tài và tàn bạo ; không phải người ta không biết Stalin và Mao Trạch Đông đã giết chết cả hàng chục triệu người. Nhưng người ta vẫn cho đó chỉ là những giải pháp tình thế trong giai đoạn chuyển tiếp của cách mạng. Với họ, đó là những cái giá phải trả và cần trả cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại.

Đó là chưa kể việc nhân danh chiêu bài chống cộng, một số chính trị gia đã trở thành những kẻ hung hãn, khắc nghiệt, thậm chí độc tài đến độ bóp nghẹt cả tự do và dân chủ, biến thành những cơn ác mộng hãi hùng trong xã hội. Tiêu biểu nhất là trường hợp thượng nghị sĩ Joseph MacCarthy (1908-1957) ở Mỹ. Chống cộng một cách cuồng nhiệt, McCarthy liên tục chụp mũ hết người này đến người khác là cộng sản hoặc là gián điệp của cộng sản và yêu cầu Quốc hội phải điều tra để làm sáng tỏ "tội phạm" của họ. Ông nhắm mũi dùi tấn công vào cả văn phòng tổng thống Harry Truman (có khi ngay chính bản thân Tổng thống Truman !), Quân đội Mỹ và đặc biệt, đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA). Do yêu cầu của ông, từ năm 1949 đến 1954, Quốc hội Mỹ đã mở trên 100 cuộc điều tra lớn. Nhiều công chức cao cấp, kể cả nhân viên đài VOA bị mang ra Quốc hội trả lời các cuộc điều tra của ông (có người không chịu nổi sức ép và sự nhục nhã đã tự tử ngay trong quá trình điều tra để chứng minh mình vô tội !) Chưa hết. Ông còn lùng sục vào các thư viện, tố cáo hết cuốn này là của cộng sản đến cuốn khác là thân cộng và yêu cầu phải dẹp bỏ ; cuối cùng, có đến 30.000 cuốn sách bị loại ra khỏi các kệ sách trong thư viện. Nhiều trí thức và văn nghệ sĩ nổi tiếng, như Richard Wright, James Baldwin, Lester Cole… không chịu nổi cảnh ấy, đã bỏ sang Âu châu sinh sống.

McCarthy và chủ nghĩa McCarthy (McCarthyism) đã gây kinh hoàng cho đa số dân chúng Mỹ và trở thành một hình ảnh xấu trong chính trường Mỹ. Nhiều nhà bình luận chính trị cho chủ nghĩa McCarthy là một món quà quý báu nhất mà người Mỹ đã tặng cho Stalin. Nói cách khác, không ai có "công" đối với cộng sản cho bằng chủ nghĩa McCarthy. Một mặt, nó làm việc "chống cộng" trở thành đồng nghĩa với một cái gì cực đoan và thô bạo. Nó gợi lên những ấn tượng thật xấu, một "bad name", thậm chí, một "từ bẩn thỉu" ("dirty word"). Mặt khác, nó làm nản lòng những người chống cộng thực sự. Trước, những người chống cộng nhất là những người có tinh thần tự do ; sau, là những người bảo thủ, lại là thứ bảo thủ hẹp hòi. Những người có tinh thần tự do, ngược lại, một mặt, không thích cộng sản, mặt khác, lại dị ứng với việc chống cộng.

Hai sự kiện trên dẫn đến hai hiện tượng đáng tiếc.

Thứ nhất, nó làm nảy nở phong trào chống-chống cộng (anti-anti-communist) ở Tây phương, ngay tại Mỹ, trong suốt thập niên 1960 và 1970. Chính trong khí quyển tinh thần như thế, Jean-Paul Sartre đã nói một câu đầy tai tiếng : "Các tên chống cộng đều là chó".

Thứ hai, nó khiến người ta quên bẵng đi chủ nghĩa phát xít hoặc xem những người chống cộng như là đồng minh của chủ nghĩa phát xít, trong khi, trên thực tế, ai cũng biết, như Susan Sontag tuyên bố trong một bài diễn văn tại New York năm 1982 : "Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa phát xít, một thứ chủ nghĩa phát xít thành công". (Communism is Fascism - successful Fascism).

Xin lưu ý là : Mặc dù xem chủ nghĩa cộng sản là một thứ chủ nghĩa phát xít, Susan Sontag cũng không thích những người chống cộng dù bà không hề phản đối những người chống lại chủ nghĩa phát xít. Trong chiến tranh Việt Nam, bà từng ủng hộ Hà Nội và từng đi Hà Nội, sau đó, viết nguyên cả cuốn sách về chuyến đi ấy dưới nhan đề Trip to Hanoi (1969).

Ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý của rất nhiều trí thức Tây phương : Người ta vừa không thích chủ nghĩa cộng sản vừa không thích những người chống lại cộng sản. Có điều, những người cộng sản thì ở xa, trong khi đó, những người chống cộng lại ở gần, rất gần. cộng sản tồn tại như một ý niệm trừu tượng, thuộc một thế giới khác, trong khi những người chống cộng lại cụ thể, hiện diện ngay trước mắt, và không ngừng quấy nhiễu họ. Chính vì vậy, có lúc phong trào chống-chống cộng mạnh hơn cả các phong trào chống cộng. Hơn nữa, cũng cần lưu ý, những trí thức khuynh tả mang tinh thần chống-chống cộng như vậy, một thời gian dài, có rất nhiều ảnh hưởng trong hệ thống giáo dục ở Tây phương. Do đó, ấn tượng xấu về các phong trào chống cộng càng lúc càng lan rộng và còn lại lâu dài. Không chừng đến tận bây giờ. (Những ai có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức Tây phương có thể thấy rõ điều này).

Nhận ra được điều đó, ngay từ thập niên 1960, một số nhà chiến lược và trí thức đề nghị chuyển đổi mục tiêu và tiêu ngữ : thay vì giương cao ngọn cờ chống cộng (anti-communism), người ta lại hô hào chống toàn trị (anti-totalitarianism).

Có bốn nguyên nhân chính của việc chuyển đổi từ chống cộngđến chống toàn trị :

Thứ nhất, nhờ các công trình nghiên cứu của Hannah Arendt, đặc biệt cuốn The Origins of Totalitarianism, được xuất bản lần đầu năm 1950, nghĩa là trước bài phát biểu nhắc ở trên của Susan Sontag trên 30 năm, người ta nhận thấy chủ nghĩa cộngsản rất gần chủ nghĩa phát xít : cả hai đều độc tài và toàn trị ; cả hai đều là những tội ác khủng khiếp. Nếu người ta chống lại chủ nghĩa phát xít thì người ta cũng cần chống lại chủ nghĩa cộng sản. Vì cả hai là một. Bằng cách đó, công cuộc chống cộng huy động được một lực lượng cực kỳ đông đảo ở Tây phương : những người chống lại chủ nghĩa phát xít, trong đó, có cả hàng chục triệu người vốn là nạn nhân hoặc là thân nhân của các nạn nhân của chủ nghĩa phát xít.

Thứ hai, tập trung vào khía cạnh độc tài và toàn trị, một mặt, người ta né tránh được khía cạnh lý thuyết và chỉ nhắm vào khía cạnh thực tiễn ; mặt khác, người ta cũng tránh được những ấn tượng xấu do chủ nghĩa McCarthy để lại trong dư luận quần chúng. Bằng cách đó, người ta vừa hạn chế được mặt yếu của mình (sự hoành hành của phong trào chống cộng cực đoan) vừa khai thác được mặt yếu của đối phương (thực tế độc tài và nghèo đói, sự hiện diện của các trại tù và trại tập trung cải tạo từng giết chết cả hàng triệu người).

Thứ ba, với chiêu bài chống toàn trị, người ta sử dụng một bảng giá trị và những lý tưởng khác ngoài chủ nghĩa tư bản : Người ta chống lại toàn trị không phải để bảo vệ chủ nghĩa tư bản, vốn dù cố gắng đến mấy, vẫn còn đầy những bất toàn, mà là để bảo vệ những lý tưởng cao cả nhất của nhân loại : tự do, bình đẳng và nhân quyền. Bằng cách đó, nó huy động được sự ủng hộ của nhiều người hơn, đặc biệt các trí thức khuynh tả, những người vốn cấp tiến và yêu chuộng tự do.

Thứ tư, như là hệ quả của ba điểm trên, với nội dung chống toàn trị, cuộc đấu tranh chống lại cộngsản có một nội dung cụ thể. Nói chung, bất cứ một phong trào nào bắt đầu bằng chữ "chống" cũng đều có một nội dung tiêu cực : Nó nhằm phủ nhận. Nó không hứa hẹn một sự thay thế nào cả. Nhưng khi xem việc phủ nhận là mục tiêu chính của việc tranh đấu, người ta cũng lại tự tạo thành những khoảng trống ngay dưới chân mình. Hậu quả là người ta chỉ chiến đấu một cách chơi vơi, từ đó, không có sức mạnh gì đáng kể. "Chống toàn trị", ngược lại, hầu như là một ngoại lệ. Nó không đơn thuần là một sự phủ định. Mà còn là một sự xây dựng. Lý do chính là "toàn trị" chỉ có một mặt đối lập : Dân chủ. Chống toàn trị bao hàm ý nghĩa là bênh vực và xây dựng dân chủ. Không thể có cách hiểu nào khác.

Với bốn lý do nêu trên, từ nửa sau thập niên 1970, việc chống chủ nghĩa toàn trị đã trở thành tâm điểm trong ý thức hệ chống cộng thời Chiến tranh lạnh. Việc chọn lựa tâm điểm này làm cho cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trở thành cụ thể và có sức thuyết phục hơn : Người ta chống lại cộng sản không phải vì nó là cộng sản mà vì nó độc tài. Sự độc tài chỉ có thể có hiệu lực khi cộng sản nắm chính quyền một cách độc tôn. Nếu đảng cộng sản chỉ tồn tại như bao nhiêu đảng phái chính trị khác, nó hoàn toàn vô hại. Hơn nữa, sự có mặt của nó còn chứng minh tính chất tự do của một chế độ dân chủ. Nhớ đến điều này chúng ta hiểu tại sao trong thời chiến tranh lạnh, ở phần lớn các quốc gia Tây phương, một mặt người ta chủ trương chống cộng, mặt khác, người ta vẫn cho phép các đảng cộng sản được hoạt động một cách công khai (thật ra, một số quốc gia, trong đó có Úc, từng có kế hoạch loại đảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, nhưng nghị quyết của đảng cầm quyền bị Tòa án Tối cao bác bỏ với lý do nó vi phạm nguyên tắc về tự do tư tưởng và chính trị đã được ghi trong Hiến pháp).

Có thể nói, chiến thắng của Tây phương trong cuộc Chiến tranh lạnh vào cuối thế kỷ 20 thực chất là chiến thắng của cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa toàn trị.

Chiến thắng ấy bắt đầu từ một thay đổi mang tính chiến lược : Từ chống cộng sản đến chống toàn trị.

Xin lưu ý chữ "tính chiến lược" ở trên.
Nguyễn Hưng Quốc
(VOA) 

Quốc hội khóa 13: "Làm rõ thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước"

"Các quy định về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, bổ nhiệm, cách chức các chức danh trong lực lượng vũ trang nhân dân hoặc giữ chức vụ chủ tịch quốc phòng và an ninh đã làm rõ hơn nội hàm thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước...".
Về thẩm quyền của Chủ tịch nước với hoạt động hành pháp, ông Phan Trung Lý, Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm UB Pháp luật của Quốc hội cho biết, có 3 loại ý kiến:

Loại ý kiến thứ nhất, tán thành như quy định của dự thảo, khi cần thiết Chủ tịch nước yêu cầu họp bàn về những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị khi cần thiết Chủ tịch nước yêu cầu họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm.
Loại ý kiến thứ ba không tán thành như quy định tại dự thảo mà đề nghị giữ như hiến pháp hiện hành.
UB soạn thảo sửa đổi Dự thảo Hiến pháp năm 1992 đề nghị tăng thẩm quyền của Chủ tịch nước. 
UB soạn thảo hiến pháp nhận thấy, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại. Trong một số trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm nhằm giúp Chủ tịch nước thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.

Do đó, UB soạn thảo sửa đổi hiến pháp chỉnh lý và trình Quốc hội cho ý kiến về nội dung này theo hướng: “Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.
Ông Phan Trung Lý - Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm UB Pháp luật của Quốc hội: "UB soạn thảo sửa đổi Hiến pháp nhận thấy, căn cứ vào mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước ta và thực tiễn công tác cán bộ hiện nay, việc Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam là phù hợp".

Về thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang, có ý kiến cho rằng có nên cân nhắc Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang như trong Hiến pháp? Về vấn đề này, ông Phan Trung Lý nêu ý kiến của UB dự thảo sửa đổi hiến pháp: "Quy định về vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992".
Mặt khác, các quy định về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, bổ nhiệm, cách chức các chức danh trong lực lượng vũ trang nhân dân hoặc giữ chức vụ chủ tịch quốc phòng và an ninh đã làm rõ hơn nội hàm thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước.
Về thẩm quyền phong hàm cấp tướng và bổ nhiệm các chức danh trong quân đội nhân dân Việt Nam tại khoản 5 Điều 93, có hai loại ý kiến:

Loại ý kiến thứ nhất đề nghị ngoài thẩm quyền phong hàm cần bổ sung quy định về thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Đồng thời, ngoài việc bổ nhiệm cần bổ sung việc miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. 
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Chủ tịch nước với tư cách là thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân nên cần thiết phải quy định thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ Tư lệnh quân khu, quân chủng, quân đoàn và tương đương, vì đây là các chức danh chỉ huy quân đội chứ không phải là chức danh quản lý nhà nước.
UB soạn thảo sửa đổi Hiến pháp nhận thấy, căn cứ vào mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước ta và thực tiễn công tác cán bộ hiện nay, việc Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam là phù hợp.

"Do đó, UB soạn thảo sửa đổi Hiến pháp dự kiến chỉnh lý để trình Quốc hội cho ý kiến về việc bổ sung các trường hợp về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân và bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam cho đầy đủ và phù hợp", ông Lý nhấn mạnh.

Lực lượng vũ trang nước Việt Nam
Giải thích về những yêu cầu lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch nước sẽ được áp dụng chung theo các quy định của pháp luật hiện hành,Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho rằng không cần thiết phải quy định vấn đề này trong dự thảo.

Ông Phan Trung Lý cũng cho biết, có loại ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: "Chủ tịch nước có quyền giải tán Quốc hội, tuyên bố bầu cử sớm, giải tán Chính phủ, cách chức Thủ tướng để Quốc hội bầu Thủ tướng mới, thành lập Chính phủ mới".

Về ý kiến này, UB soạn thảo sửa đổi hiến pháp giải thích: Việc người đứng đầu quốc gia giải tán Quốc hội, Chính phủ chỉ xảy ra ở một số nước, nơi quyền lực tập trung chủ yếu ở Tổng thống do dân bầu trực tiếp - Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp.

Ở Việt Nam, với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nên không thể quy định một thiết chế nào có thể “giải tán” Quốc hội. Do vậy, Ủy ban đề nghị không quy định nội dung này trong Hiến pháp.
  Ngọc Quang 
  (GDVN)
 

Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: Việt Nam nên lựa chọn mô hình Tổng thống...

“Đề nghị kế thừa mô hình Chủ tịch nước như hiện nay”
Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nêu một loại ý kiến đề nghị Việt Nam nên lựa chọn mô hình Tổng thống...
Không nhiều góp ý về chương Chủ tịch nước tại dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được tiếp thu.
Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong một bản báo cáo dài 150 trang đã giải trình chi tiết cả những góp ý chung và góp ý cho các điều khoản cụ thể của nhân dân vào dự thảo này.
Với chương VI - Chủ tịch nước, Ủy ban có nêu một loại ý kiến đề nghị Việt Nam nên lựa chọn mô hình Tổng thống.
Ủy ban lý giải, chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước, nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước của quốc gia đó.
Đối với mô hình cộng hòa, nguyên thủ quốc gia đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, có một phần quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo quan điểm của Ủy ban, mô hình Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, có các thẩm quyền liên quan đến việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như quy định trong dự thảo đã và đang được áp dụng ổn định ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn cho thấy phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, phát huy hiệu quả trên thực tế. Vì vậy, đề nghị tiếp tục kế thừa mô hình Chủ tịch nước như hiện nay.
Về những điều khoản cụ thể, ở điều 91,  loại ý kiến thứ nhất đề nghị quy định trong Hiến pháp việc Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam giữ chức Chủ tịch nước và cho rằng, quy định này sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, bảo đảm thuận lợi trong hoạt động đối ngoại, tạo điều kiện thực hiện nhất quán nhiệm vụ Bí thư Quân ủy Trung ương với nhiệm vụ thống lĩnh lực lượng vũ trang.
Còn loại ý kiến thứ hai không tán thành, vì nếu quy định một người giữ cả hai chức vụ quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước là không phù hợp, không phân biệt được vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng của người đứng đầu Nhà nước, có thể dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, độc quyền. Hơn nữa, nếu không quy định trong Hiến pháp thì theo cách làm hiện nay, Đảng vẫn có thể giới thiệu đồng chí Tổng bí thư ứng cử chức vụ Chủ tịch nước.
Đây là vấn đề liên quan đến công tác nhân sự của Đảng, vì vậy không quy định nội dung này trong Hiến pháp, Ủy ban tỏ rõ quan điểm.
Sang điều 92, cũng có nhiều loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất đề nghị thay đổi phương thức bầu Chủ tịch nước theo hướng “Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp trong số đại biểu Quốc hội” hoặc trong số những Ủy viên Bộ Chính trị.
 Loại ý kiến thứ hai đề nghị Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp theo hình thức tranh cử cùng với bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương với các thành viên của mình (dưới sự lãnh đạo của Đảng), giới thiệu 3 người để nhân dân chọn 1.
Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho rằng, việc quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra là phù hợp với bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị của Nhà nước ta.
Báo cáo cũng thể hiện một loại ý kiến đề nghị quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền đề nghị họp Quốc hội để phế truất Chủ tịch nước; trường hợp có 80% số phiếu yêu cầu phế truất thì Chủ tịch nước phải từ nhiệm.
Với giải thích việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch nước sẽ được áp dụng chung theo các quy định của pháp luật hiện hành, Ủy ban cho rằng không cần thiết phải quy định vấn đề này trong dự thảo.
Được chấp nhận là các ý kiến đề nghị quy định nội dung “Chủ tịch nước làm lễ tuyên thệ nhậm chức”. Ủy ban cho biết, ý kiến này được thể hiện tại điều 75 về yêu cầu tuyên thệ khi nhậm chức đối với một số chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước để thể hiện vị trí, vai trò và trách nhiệm của người giữ vị trí này trước nhân dân.
Tiếp tục giải trình về nội dung ở chương này, bản báo cáo cho biết có loại ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: Chủ tịch nước có quyền giải tán Quốc hội, tuyên bố bầu cử sớm, giải tán Chính phủ, cách chức Thủ tướng để Quốc hội bầu Thủ tướng mới, thành lập Chính phủ mới.
Theo giải thích của Ủy ban, việc người đứng đầu quốc gia giải tán Quốc hội, Chính phủ chỉ xảy ra ở một số nước, nơi quyền lực tập trung chủ yếu ở Tổng thống do dân bầu trực tiếp - Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp.
Ở Việt Nam, với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nên không thể quy định một thiết chế nào có thể “giải tán” Quốc hội. Do vậy, Ủy ban đề nghị không quy định nội dung này trong Hiến pháp.
Với góp ý về quy định khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm, Ủy ban đã chỉnh lý để trình Quốc hội cho ý kiến về nội dung này theo hướng: “Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”. 
Về  các ý kiến  đề nghị bổ sung quy định: “Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền triệu tập và chủ tọa hội nghị chính trị đặc biệt”, Ủy ban cho rằng, hội nghị chính trị đặc biệt là vấn đề đã từng được Hiến pháp năm 1959 quy định, nhưng đó là thực tiễn của những năm đất nước đang đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Hiện nay tổ chức bộ máy Nhà nước ta đã và đang hoàn thiện, Hiến pháp đã ghi nhận thẩm quyền của các thiết chế nhà nước trong các tình huống khác nhau như khi đất nước có chiến tranh, tình trạng khẩn cấp... để bảo đảm có cơ chế xử lý kịp thời, phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng của từng cơ quan. Vì vậy, đề nghị không quy định về hội nghị chính trị đặc biệt trong dự thảo.
(VnEconomy) 

Nếu tất cả đều được tín nhiệm thì...

Nếu tất cả đều được tín nhiệm thì...
“Nếu cả 49 chức danh trong diện được lấy phiếu tín nhiệm đều được tín nhiệm cao, đều tốt đẹp, thì dân sao tin được!”...
Rất nhiều đại biểu Quốc hội khi được hỏi về dự cảm kết quả lần đầu tiên Quốc hội lấy phiếu sẽ thế nào, đều cho rằng: nếu cả 49 chức danh trong diện được lấy phiếu tín nhiệm, chức danh nào cũng đều được tín nhiệm cao, đều tốt đẹp, thì dân sao tin được!
Trong báo cáo tổng hợp từ kiến nghị của hơn 1.700 ý kiến cử tri, Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm cho biết: “Đây là lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, vì vậy các đại biểu Quốc hội cần nêu cao ý thức trách nhiệm trước cử tri và nhân dân cả nước để việc lấy phiếu tín nhiệm được tiến hành thực chất, không hình thức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Nhà nước thực sự có năng lực, đạo đức tốt, liêm khiết, gương mẫu, có tinh thần kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.
Còn Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa Lê Nam có những đánh giá không mấy “bình yên” với một số chức danh trong số 49 chức danh thuộc diện lấy phiếu này - bởi theo ông, họ nói không thuyết phục, không làm cho người khác tin tưởng.
Ông Nam cho rằng nếu tất cả 49 chức danh đều đạt tín nhiệm cao và rất cao thì không phải là kết quả tốt bởi trong tình hình đất nước hiện tại, dư luận hiện tại, với những vấn đề đang đặt ra cho thấy không phải mọi thứ đang tốt đẹp.
“Nếu kết quả mà tất cả đều được tín nhiệm cao thì tôi nghĩ niềm tin của nhân dân sẽ thêm sứt mẻ”, ông Nam nêu quan điểm.
Cùng quan điểm, Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Đỗ Văn Đương đánh giá, trong bối cảnh đất nước đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc, nóng bỏng như hiện nay thì kết quả bỏ phiếu ra sao có ý nghĩa rất lớn: “Giả sử việc bỏ phiếu không được thực chất, kết quả bỏ phiếu “tròn vo” thì sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến niềm tin của cử tri với uy tín của Quốc hội. Khi đó, các đại biểu Quốc hội sẽ nói gì trước cử tri đây?”, ông Đương lo lắng.
Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa - Giáo dục và Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội, Nguyễn Thanh Hải nhận định: “Việc cùng lúc tiến hành lấy phiếu đánh giá tín nhiệm với 49 chức danh quan trọng nhất quả thật sẽ ít nhiều gây áp lực đối với các đại biểu Quốc hội”.
Tuy nhiên, bà Hải tin rằng Quốc hội sẽ thực hiện công việc này một cách thực chất vì “với một tập thể gần 500 người, đại diện cho mọi vùng miền, mọi thành phần cử tri trong xã hội thì việc “chạy phiếu” là rất khó.
Thực tế còn cho thấy rất khó có thể thuyết phục đa số các cá nhân trong một tập thể lớn, đa dạng để có ý kiến hướng theo ý muốn chủ quan của cá nhân nào đó, khi mà các kết quả công việc từ thực tiễn quản lý, điều hành mà cá nhân đó thực hiện không đủ tốt để thuyết phục họ”.
Còn theo đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng Lê Thanh Vân thì việc Quốc hội sẽ dễ dãi cho qua khuyết điểm của những người được đưa ra lấy phiếu theo kiểu “hòa cả làng” vẫn có thể diễn ra.
“Nếu như vậy, tác dụng của việc bỏ phiếu tín nhiệm sẽ không cao và không có chuyện mở lối cho văn hóa từ chức”, ông Vân nói.
(Thời báo Kinh tế Việt Nam)
 

Hiệu Minh - Nhân trị, Pháp trị hay Kỹ trị

Chuyện đổi tên nước, thay đổi hiến pháp, điều 4, quân đội của ai… coi như giải quyết gọn nhẹ ngay từ vòng… gửi xe ở nhà Quốc hội. Thôi thì ta bàn chuyện trên trời cho vui. Với lại chủ nhà cũng hết…”zốn”. :) :razz:
Trong bối cảnh hiện nay, sự lựa chọn thể chế Nhân trị, Pháp trị hay Kỹ trị, cho con đường đi lên của một quốc gia là vô cùng quan trọng.
Nhân trị
Đó là cách cai trị dựa vào đạo đức của con người thuở Nho giáo thịnh hành cách đây mấy ngàn năm. Họ đưa ra bốn biện pháp quản lý xã hội: lễ, nhạc, chính, hình. Như vậy lễ, nhạc đứng đầu rồi mới đến hành chính và hình pháp. Yếu tố con người được đề cao, nhất hàng ngũ lãnh đạo.
Nhân trị cho rằng “lãnh đạo thích gì thì đó là luật”. Trong xã hội dựa vào Nhân, không có hạn chế về sự việc lẫn phương cách nhà lãnh đạo có thể làm.
Vua chúa phong kiến thời xưa và các quốc gia độc tài thời nay là điển hình của xã hội Nhân trị.
Pháp trị
Trong thể chế Pháp trị, luật pháp phải độc lập. Pháp trị là công cụ điều chỉnh quyền lực, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật và có quyền tài phán. Không ai có quyền ngồi trên pháp luật.
Pháp trị giúp giới hạn sự chuyên quyền và lạm quyền, giúp cho lãnh đạo sáng suốt và tạo ra được những chính sách khôn ngoan.
Các nước văn minh phương Tây đang đi theo thể chế pháp trị, tam quyền phân lập, và lấy báo chí là quyền lực thứ 4.
Như vậy, Pháp trị và Nhân trị khó mà đi với nhau.
Kỹ trị
Cuộc cách mạng KHCN phát triển mạnh mẽ cuối những năm 1950 đã làm cho một số người nghĩ đến dùng kỹ thuật để lãnh đao. Thế là thuyết Kỹ trị ra đời, lấy nhân tố “Vật” làm chính mà xem nhẹ nhân tố “Người”.
Phương pháp cai trị xã hội bằng giới khoa học kỹ thuật, là một xu hướng mới trong quản lý nhà nước hiện nay. Kỹ trị là việc đưa giới trí thức tinh hoa lên nắm quyền và áp dụng tri thức – kỹ thuật vào quản lý. Họ phải hội đủ hay yếu tố: hiểu biết về chính trị và thấu đáo về khoa học.
Nếu trong Hội nghị TW 7 vừa qua và được quyền bỏ phiếu bổ sung cho thành viên BCT, giữa anh Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Bá Thanh, tôi sẽ chọn anh Nhân. Bởi đơn giản, anh là người thuộc phái Kỹ trị (Technocrat).
Chuyện nước mình
Ví dụ về khai thác Bauxit Tây Nguyên. Nếu như đó là dự án của các nhà Kỹ trị, thì phải được tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả kinh tế và kỹ thuật tối ưu.
Tuy nhiên, bởi hệ thống chính trị quyết định, nên dự án này là sự mặc cả giữa các thế lực chính trị, xem thường yêu cầu hiệu quả kinh tế, để đổi lấy sự đồng thuận.
TBT, rồi Thủ tướng VN từng nói, khai thác Bauxit là một chủ trương lớn của đảng.
Hậu quả thiệt hại về kinh tế thế nào sau vài năm đã rõ. Sự thiếu vắng của giới Kỹ trị đã làm cho dự án đang bên bờ vực thẳm, chưa nói đến chuyện quốc phòng và an ninh quốc gia.
Vinalines, Vinashin và nhiều dự án lớn hàng tỷ đô la dựa trên quyết tâm chính trị nên cuối cùng thất bại, người ta chỉ chịu trách nhiệm…chính trị.
TBT Nguyễn Phú Trọng từng nghẹn ngào khi bế mạc Hội nghị TW 6 khi ông và BCT đã lấy chữ “Nhân” (Nhân trị) làm trọng, để giải quyết tham nhũng, làm trong sạch đảng, mà không phải là Pháp trị để thẳng tay với quốc nạn đục khoét đất nước.
Sau Hội nghị TW 7, kết quả thế nào cũng đã rõ. Sự nhóm lò của ông đã tắt ngóm sau nửa năm, hết mọi hy vọng về một cuộc “tắm rửa”.
Nhân trị, Pháp trị hay Kỹ trị luôn là câu hỏi lớn cho mỗi vị khi ngồi vào chiếc ghế quyền lực cao nhất. Mỗi thời, mỗi quốc gia, mỗi hoàn cảnh đều có lựa chọn riêng cho mình.
Những quyết định liên quan đến hàng chục hay hàng trăm tỷ đô la không thể bỏ phiếu bởi sự đồng thuận bằng cách giơ tay trên hội trường, nếu người bỏ phiếu không hiểu gì về kinh tế, môi trường và chỉ dùng ý chí giúp cho lá phiếu.
Đã dùng ý chí cho lá phiếu rồi, khi “ý chí” nhầm tai hại, chẳng ai lại bỏ phiếu tín nhiệm một cách công bằng nữa.
Không thể để Pháp trị ghi trong Hiến pháp nhưng ngoài đời lại dùng Nhân trị một cách không đến nơi đến chốn, chỗ này dùng luật khắt khe, ác độc, chỗ kia tha thứ vì bạn bè đồng chí, một cách tùy tiện.
Xu hướng thời nay, khoa học kỹ thuật, internet phát triển như vũ bão, không còn chỗ đứng cho những lãnh đạo không biết đến máy tính hay Google.
Giới Kỹ trị có học hành và hiểu biết thế giới phẳng với biển thông tin sẽ đóng vai trò đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, tụt hậu và dẫn dắt quốc gia đi lên.
Chủ nghĩa lý lịch, cơ cấu hay hạt giống đỏ… thế nào cũng lỗi thời, chẳng chóng thì chầy. Trong khi đó, Kỹ trị tinh hoa không thể móc trong túi ra là có ngay. Đó là một quá trình đào tạo qua vài thế hệ.
Nếu không hiểu những bài học vỡ lòng về “Trị” (Nhân, Pháp, Kỹ) và không biết rằng, công nghệ đang “Trị” thế giới, thì khó nói đến sự tồn vong của chế độ như chính các vị lãnh đạo cấp cao từng than trên truyền thông.
Hiệu Minh
16-05-2013
(Blog Hiệu Minh)

Phạm Thành mắng Phạm Thành: “Mày là thằng khốn nạn!”

Tao mắng mày như vậy, chẳng oan đâu. Cách đây gần một tháng trên blog Bà Đầm xòe mày viết liền hai bài, một bài:
 “Từ ngoại lệ của dân nước mình đến ngoại lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam”
và bài:
“Quay đầu là bờ”, anh hai, anh ba, anh tư, dì chín, mợ năm …ơi!”. 
Ông Phan Trung Lý,Chủ nhiêm UBPL của Quốc hội đọc báo cáo
Ông Phan Trung Lý,Chủ nhiêm UBPL của Quốc hội đọc báo cáo
Trong hai bài đó, mày nói đảng CSVN khác với các ĐCS trên thế giới, vì.. anh Cả, anh Hai, anh Ba, dì Tư, dì Năm, dì Chín… thoát thai từ nhà quê, trong hơi thở còn hôi mùi bùn đất trâu bò, tức là cũng chỉ như bà con mình, nên có thể cải tạo được, và trong năm nay họ sẽ vứt bỏ cái áo khoác giả tạo cộng sản trên người để về với dân tộc với nhân dân.
Mày còn hí hửng tung hô rằng, CSVN làm như vậy, về mặt lý luận, đảng CSVN đã tự biến đổi để thích nghi với tình hình, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và loài người, nó còn là bằng chứng bác bỏ hầu hết các luận điểm của các nhà lý luận về chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới, trong đó có những người đã từng ở vị trị lãnh tụ Cộng sản, rằng: “Cộng sản là không thể cải tạo”. Đảng Cộng sản Việt Nam biến đổi sẽ là cở sơ thực tiễn để các nhà trên phải trố mặt ra, rồi bùi ngùi mà xem lại những luận điểm, tuyên ngôn của mình về Cộng sản”.
Mày lại còn nằm lòng rằng: “Tôi rất tin vào điều này ở các anh Cả, anh Hai, cô Ba, dì Tư …”
Từ lòng tin trong bài của mày đã gieo vào lòng tao niềm tin về CS và hy vọng năm nay họ sẽ “lột xác” để về cùng dân tộc, đi cùng dân tộc, hòa chung bước đi với thế giới văn minh.
Vì tin mày mà tao đã nhiệt tình đóng góp nhiều ý kiến cho việc sửa đổi hiến pháp, tao rỉ tai nhiều rằng “còn có hy vọng”.
Nhưng bây giờ thì tao thất vọng hoàn toàn rồi.
Mới hôm qua đây, trên diễn đàn Quốc hội, CS đã tuyên bố, họ không có thay đổi bất cứ điểm gì trong bốn điều căn bản: đảng, đất đai, tên nước, và chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, chỉ có đảng CS mới có quyền lãnh đạo đất nươc, dân tộc; chỉ có đảng mới có quyền quản lý và sở hữu đất đai; chỉ có đảng mới có quyền đặt tên cho nước, chỉ có đảng mới có quyền định hướng cho dân tộc tiến về đâu.
Tao đau quá mày ơi. Tao đau như đứt từng khúc ruột, chẳng đau oa oa như ông Nguyễn Quang Lập đâu:
“NQL: Muốn văng tục một câu cho đỡ nhạt mồm!…”.
Tao cũng đau như thấy có ai đó vừa đâm trộm dao vào tim mình, chẳng đau cời cời như ông Phạm Viết Đào đâu:
Phạm Thành ơi! Mày đã thật mở hết mắt ra, chưa con? Mày đã nghiền ngẫm nát óc về CS, chưa con? Mày nên bỏ cái trò tin tưởng, lừa dân ấy đi, kẻo không, chẳng phải mình tao chửi mày là kẻ khốn nạn đâu.
Mày ngu lắm. Các anh, các dì của mày bây giờ khác trước rồi. Các anh, các dì bây giờ đầu lúc nào cũng đỏ Mác xít, mông lúc nào cũng bóng chủ nghĩa xã hội rồi, chúng đã thẳng cổ rồi, không còn biết quay là gì nữa đâu.
Hi hi. Đau. Phạm Thành viết như vầy đúng là thằng khốn nạn. Nhưng ở Việt Nam hiện có cả một tập đoàn còn khốn nạn gấp nhiều lần hơn Phạm Thành thì mắng nó ra sao đây. Mà nó là ai? Hẳn bà con mình đã rõ.
Tam biệt mày.
Bà Đầm xòe
(Blog Bà Đầm xòe)(Nhớ lời của Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe cộng sản nói, hãy nhìn cộng sản làm!)

Trường Sa – Hoàng Sa và những chuyện chưa bao giờ kể

Hôm trước, mình đặt câu hỏi về việc các bạn suốt ngày phê phán Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam "nhai đi nhai lại" các thông điệp phản đối khi Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, vậy theo các bạn chúng ta phải làm gì? Thật bất ngờ khi câu hỏi này thu hút một số lượng lớn các bạn vào thảo luận và đưa ý kiến cực kỳ nghiêm túc (http://on.fb.me/13FuVDS). Theo đó, hàng trăm comments đã được gửi lên. Tổng hợp lại thì có các ý lớn thế này:
1- Việc "nhai đi nhai lại" này là cần thiết để mai mốt nếu Việt Nam có kiện ra tòa án Quốc Tế thì cũng có bằng chứng.
2- Các bạn tin tưởng tuyệt đối vào sách lược của Chính phủ trong vấn đề biển đảo. Dù có những cái các bạn vẫn thấy "mơ hồ" nhưng các bạn cho rằng nếu làm cho mọi thứ "rõ ràng" hơn thì không còn gì gọi là bí mật và khi đó Trung Quốc có thể dễ dàng đối phó.
3- Ủng hộ việc dùng vũ lực
4- Kiện ra tòa án quốc tế
5- Tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
6- Tăng cường hỗ trợ giúp ngư dân bám biển
7- Thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế, chính trị và văn hóa
8- Tăng cường năng lực quân sự
Hình minh họa là một trong những hình ảnh hiếm hoi liên quan đến vũ khí tại Trường Sa được Chuẩn đô đốc LMT cho phép công bố
Mình cực kỳ trân trọng các ý kiến đóng góp kèm theo những giải thích, lập luận xác đáng của tất cả các bạn. Còn trong phạm vi những gì mình hiểu biết thông qua tự tìm tòi nghiên cứu, phỏng vấn những người có ảnh hưởng, có uy tín trong xã hội và Chính phủ, thông qua thực tế mắt thấy tai nghe khi ra Trường Sa và tiếp xúc với các chiến sĩ, mình xin được cung cấp thêm thông tin thế này để các bạn tham khảo nhé.
1.
Trung Quốc là nước lớn, mạnh hơn Việt Nam về mọi mặt như Kinh tế, Quân sự, Vũ khí, Đạn dược và tiếng nói trong Cộng đồng Quốc tế. Nếu "đánh nhau" tay đôi, thắng thua không biết, nhưng chắc chắn phía chịu thiệt hại nặng nề là Việt Nam của chúng ta. Khi nói chuyện với các tướng lĩnh từ cấp thấp đến cấp vừa, cấp cao của Việt Nam, mình phải ghi nhận một điều là chẳng ai "run sợ" nếu buộc phải sa vào tình thế chiến tranh. Chúng ta "anh hùng" 1, họ anh hùng gấp 1 triệu lần. Khi chúng ta hứa hẹn này kia trên bàn phím, họ đã và đang anh hùng bằng những hành động và việc làm thiết thực.
Các bạn có biết trong một chuyến đi đón công binh làm nhiệm vụ xây dựng từ một đảo chìm về lại đất liền, tai nạn đã xảy ra. Không rõ vì lý do gì mà chiến sĩ công binh này mất tích (có giả thiết trượt trân ngã rơi xuống biển khi đang câu cá). Rất nhiều tàu cứu hộ đã được phái ra vùng biển đó cấp tốc tìm kiếm trong nhiều ngày trước khi chấp nhận mất đi 1 người đồng đội. Dù đó là điều không ai mong muốn nhưng toàn bộ các chiến sĩ có mặt trên tàu cũng như các cấp chỉ huy tại đất liền đã bị kỷ luật từ quân đến tướng. Mất vạch, mất sao và nhiều hình thức kỷ luật cộng thêm khác nữa. Kể chuyện này để các bạn hiểu rằng mạng sống con người không phải là thứ để mang ra làm chuyện mua vui như vậy được. Mình nhấn mạnh, đó là sự mất mát của chỉ duy nhất 1 người.
Các bạn có biết khi Trung Quốc cử tàu hộ tống mang dàn khoan khổng lồ cao hàng trăm mét ra tìm cách thả xuống biển Đông để khai thác dầu khí, chiến sĩ của chúng ta trên các nhà giàn đã phải thay nhau theo dõi ngày đêm, kết hợp chặt chẽ với chỉ huy tại đất liền để giám sát nhất cử nhất động của tàu địch. Nếu bất cứ khi nào đội tàu hộ tống này có dấu hiệu ngưng lại tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam thì lập tức chúng ta phải cử tàu chiến ra "xua đuổi" không cho dàn khoan này được thả xuống dù với bất cứ lý do gì. Chúng ta “tuyệt đối yếu” hơn đối phương, trong khi chúng lại thường xuyên gây hấn, kích động để Việt Nam "ra tay" trước. Khi ấy, chúng sẽ có lý do hợp pháp để đánh chiếm vào những hòn đảo của chúng ta.
Nếu tình huống xấu nhất là Trung Quốc chiếm thành công 1 đảo của Việt Nam (điều này khó có khả năng xảy ra) thì chúng ta sẽ làm gì? Lên tiếng nhờ cộng đồng quốc tế ủng hộ mình ư? Cũng được, nhưng Trung Quốc sẽ ngay lập tức la làng lên rằng họ không đi xâm lược, không đi đánh chiếm đảo của Việt Nam. Họ chỉ đang "đòi lại" những gì thuộc về “chủ quyền bấy lâu nay” của họ. Trung Quốc sẽ ngay lập tức ngang ngược nói rằng chính Việt Nam mới đi chiếm đảo của Trung Quốc và bây giờ "bị lấy lại". Hãy nhìn vào những gì Trung Quốc đang ngày đêm bắc loa tuyên bố một cách trơ trẽn về Hoàng Sa sẽ hiểu điều mình nói. Tất cả những gì Trung Quốc CẦN, CẦU MONG VÀ CHỜ ĐỢI LÚC NÀY chính là một hành động thiếu kiềm chế bất kỳ từ phía Việt Nam để họ có thể đàng hoàng phát pháo. Và đó cũng chính là điều mà tất cả chiến sĩ của chúng ta ngoài hải đảo phải thuộc nằm lòng. Phải luyện chí rèn gan, giữ vững lập trường và kiên định để tránh tuyệt đối phạm vào sai lầm như vậy.
2.
Còn về vấn đề kiện tụng, ngay khi ngồi ở trên tàu ra Trường Sa mình đã hỏi một luật sư có tiếng. Cô ấy nói Việt Nam không thể nào làm như vậy được. Thứ nhất, chúng ta đang bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc (bạn nào có comment ý này vô cùng chuẩn xác). Nếu chúng ta chỉ cần "lên gân" với Trung Quốc thì có thể hàng chục triệu gia đình sẽ lâm vào cảnh lầm than bằng những đòn đánh vào kinh tế. Để thoát ra khỏi sự lệ thuộc này, cần rất nhiều nỗ lực và thời gian. Thứ hai, ngay cả nếu chúng ta "kiện thắng" thì tòa án Quốc tế cũng không có chức năng hành pháp. Họ CHỈ CÓ THỂ KÊU GỌI bên "thua kiện" thực hiện điều ABC nào đó. Tòa án Quốc tế không giống như tòa án trong nước để có thể có chế tài buộc ông A bà B nào đó phải vào tù hay ông C phải bồi thường cho bà D vài chục triệu, trả lại tang vật trong vụ án v.v... Tức là đừng quá kỳ vọng việc tòa án Quốc tế sẽ giúp chúng ta bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Ai đó nói rằng chúng ta cần “đánh động” thì xin thưa, việc đi kiện tụng như thế chẳng đánh động được cái gì ngoài việc khiến cho Trung Quốc có cớ sử dụng các đòn trừng phạt phi quân sự nhắm tới Việt Nam. Cùng với đó, họ sẽ dùng ảnh hưởng của mình để gây sức ép lên cộng đồng Quốc tế và cô lập Việt Nam, bao vây kinh tế v.v... Trong khi đó, cái mà chúng ta cần nhất bây giờ là tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế. Thế nên phương án kiện là KHÔNG NÊN VÀ KHÔNG THỂ, vì chúng ta sẽ bị hại nhiều hơn lợi. Và cũng cần nói thêm rằng việc "tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế" không đồng nghĩa với việc phụ thuộc hoàn vào vào một "Quốc gia đồng minh" nào cả. Thật ngây thơ khi cho rằng Mỹ, hay Nga hay Nhật sẽ giúp chúng ta một cách vô tư và họ chẳng có ý đồ gì trong đó. Nên nhớ, tiền của dân nước ngoài ta đóng thuế, máu của binh sĩ người ta không có mang qua "cúng chùa" cho Việt Nam đâu ạ. Điều này sẽ rất dễ để hình dung ra được khi các bạn tránh được việc đồng nhất giữa việc bảo vệ chủ quyền biển đảo với việc "chống một mình Trung Quốc".
Các ý như tăng cường sức mạnh quân sự, tăng cường trợ giúp ngư dân bám biển thì Việt Nam đã và đang làm rất tốt. Còn phải làm đến thế nào mới thỏa lòng tất cả mọi người thì đó là câu hỏi không thể có đáp án chung. Cách đây 4 năm, việc di chuyển từ tàu hải quân vào tiếp cận nhà giàn được thực hiện bằng... dây thừng! Hiện nay chúng ta đã có xuồng CQ có thể vào tận nơi một cách dễ dàng. Trước kia các chiến sĩ phải phấn đấu cả 6 tháng trời để được một lần gọi bộ đàm về liên lạc với đất liền thì ngày nay, 100% đảo nổi đảo chìm và nhà giàn của chúng ta được trang bị trạm thu phát sóng vệ tinh của Tập đoàn viễn thông. Chúng ta có cả hệ thống liên lạc internet đủ mạnh để thực hiện họp online, chữa bệnh từ xa. Đời sống ở Trường Sa giờ đây đã hoàn toàn thay đổi.
3.
Ngày trước, mỗi khi đọc tin Trung Quốc khai trương một tòa nhà nào đó ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà họ đang chiếm đóng phi pháp, mình rất cay cú và tự hỏi "tại sao một việc đơn giản thế mà Việt Nam không làm, cứ để cho Trung Quốc một mình một chợ?". Ngày hôm nay thì thấy nó khởi công xây nhà. Ngày mốt thì thấy nó rồng rắn đưa người ngựa ra đốt pháo khánh thành. Ngày sau nữa lại thấy nó làm sân bay. Ngày sau sau nữa lại thấy nó đưa khách ra tham quan du lịch? VẬY TẠI SAO VIỆT NAM KHÔNG CHỊU LÀM NHƯ VẬY MÀ CỨ PHẢN ĐỐI LÊN PHẢN ĐỐI XUỐNG LÀM GÌ???
Và đến khi mình được nghe chuyện về lực lượng công binh, là những người đi phá mìn mở đường xây nhà trên đảo thì mình đã tự có câu trả lời rồi. Tóm lại một cách đơn giản và dễ hiểu thì xây nhà trên đất liền khó 1 thì đặt một viên đá trên mặt biển khó gấp 1 vạn lần. Mình ước gì tất cả các bạn có thể tận mắt chứng kiến nhà giàn có 8 cây cột thép choài ra làm "chân chống" với mỗi cây cột có đường kính khoảng chừng nửa mét, lại được giằng thêm hàng chục cây thép nhỏ hơn để đan kết vào nhau sừng sững giữa bạt ngàn sóng nước. Và nếu các bạn biết rằng cách đó 4 năm, những nhà giàn vững chắc kiên cố như một tòa lâu đài thép đã bị kéo đổ nhào xuống biển, mang theo cả một tiểu đội mãi mãi không bao giờ trở về được đất liền, các bạn sẽ "cảm" được một phần của công việc xây cất ở nhà giàn cũng như trên các đảo.
Hãy thử hình dung, nếu bạn đang ở giữa một đảo san hô, xung quanh ngập nước chừng 1m, xuồng CQ không thể nào tiếp cận, tàu hộ tống chở theo nguyên liệu là xi măng đá tảng buộc phải neo đậu cách đó chừng 5km thì bạn sẽ làm thế nào để mang vác được xi măng, gạch, đá, sắt thép rồi canh thủy triều lên xuống để đổ cho được một cây cọc bê tông đầu tiên xuống rồi "khô lại" giữa lòng biển khơi? Hãy cố hình dung đi. Chỉ cần hình dung với nhiệm vụ là một cây cọc bê tông duy nhất chứ chưa nói tới những gì lớn lao to tát. Khi đã lờ mờ tìm ra một cách làm nào đấy, bạn sẽ tự có câu trả lời cho câu hỏi "đơn giản" được bôi hoa toàn bộ ở phía trên.
Cũng có thể tiết lộ với các bạn rằng ở phạm vi bán kính chừng 1km quanh các đảo (thay đổi tùy theo diện tích) là cơ man các cọc bê tông sừng sững để sẵn sàng "nghênh chiến" với các loại tàu thuyền... [Các chi tiết sâu hơn liên quan đến vũ khí và hệ thống chiến đấu, phòng thủ ở đoạn này đã bị cắt]. Thực sự, nếu được đặt chân lên một đảo tại Trường Sa, các bạn sẽ biết rằng "Việt Nam tuy không hiếu chiến, nhưng để đánh được vào các đảo của Việt Nam là cả một vấn đề".
4.
Cũng trong chuyến đi 10 ngày lênh đênh trên biển, có một sự bất ngờ tới mức "gây sốc" cho toàn bộ đoàn công tác. Đó là dù quan sát ở bất cứ góc độ nào, cũng chỉ thấy có ta và.. ta và... biển. Thế nhưng ngay khi tàu HQ960 "tình cờ" chạm trán với tàu hải giám Trung Quốc (bẻ lái cắt ngang vuông góc) thì ngay lập tức thấy lù lù 2 tàu chiến của hải quân Việt Nam xuất hiện. Tất cả mọi người đều không biết các tàu chiến này ở đâu ra, và càng sốc hơn nữa khi được cho biết họ đi theo bảo vệ đoàn công tác ngay từ khi rời cảng!!! Chưa hết, khi đặt chân lên tới An Bang, mình còn được tận mục sở thị một buổi huấn luyện của đặc công biển Việt Nam với hành trình bơi hàng chục km mỗi ngày luyện tập mang theo vũ khí đổ bộ vào đảo và hiệp đồng tác chiến với các chiến sĩ tại trận địa. Có thể tin hay không tùy bạn, nhưng họ còn có khả năng nằm im dưới nước sâu trong suốt nhiều giờ đồng hồ cho đến khi được lệnh tiếp tục "hành quân" vào đảo.
Tuy nhiên, tất cả các trang thiết bị vũ khí, súng ống đạn được, quân lính tinh nhuệ… của chúng ta không phải được sinh ra để tấn công mà là phòng thủ. Việt Nam còn yếu, nên chủ trương của chúng ta là đối thoại và hợp tác, dựa trên việc thu thập, củng cố rồi tuyên truyền các bằng chứng lịch sử để tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế. Việt Nam không bao giờ đối đầu, không bao giờ dùng vũ lực, không bao giờ "phát pháo" trước trong mọi tình huống để kẻ thù có thể dựa vào làm nguyên nhân gây chiến. Trong khi đó, chúng ta bằng mọi giá bảo vệ chủ quyền tất cả những đảo chìm, đảo nổi, bãi cạn... mà chúng ta đang có. Luôn luôn bày tỏ quan điểm phản đối, nêu rõ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán không thể tranh cãi của Việt Nam với các đảo, quần đảo, bãi cạn mà chúng ta thực sự có chủ quyền, BAO GỒM CẢ NHỮNG NƠI ĐÃ BỊ KẺ THÙ DÙNG VŨ LỰC CHIẾM ĐÓNG TRÁI PHÉP (trong lịch sử). Điều mà các bạn hay gọi là "nhai đi nhai lại".
5.
Liên quan đến việc tàu cá Việt Nam bị Trung Quốc ngăn chặn, xua đuổi, bắn phá khi khai thác trong khu vực quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và tàu cá Trung Quốc ngang ngược tiến vào quần đảo Trường Sa của Việt Nam để đánh bắt trái phép thì do chính những nhà báo của mình NHIỀU KHI không nắm rõ thông tin nên việc tuyên truyền dễ gây ra những nhầm lẫn căn bản.
Đầu tiên phải hiểu thế này. Trường Sa và Hoàng Sa là quần đảo tức là gồm nhiều đảo nhỏ. Với mỗi đảo thì chúng ta lại có rất nhiều thuật ngữ liên quan đến việc xác lập chủ quyền, nhưng gần gũi nhất có lẽ là "lãnh hải". Nếu chỉ xét riêng về lãnh hải, thì các bạn cứ tạm hiểu như một vòng tròn kim cô xung quanh các đảo. Nếu chúng ta xác lập chủ quyền ở 1 đảo, thì mặc nhiên chúng ta có thêm chủ quyền ở một đường biên lớn hơn chạy xung quanh đó nữa.
Tập hợp các đường viền như vậy ở tất cả các đảo mà chúng ta có chủ quyền nó sẽ là nơi chúng ta mặc nhiên đi lại và khai thác. Chứ không phải cứ lấy cây bút rồi khoanh một vòng "to đùng" bao hết các đảo lại cho rằng đó là vùng bất khả xâm phạm của mình. Vậy nên chủ quyền của chúng ta sẽ là một vùng thực sự rất... loằng ngoằng, có chỗ thì chồng chéo, có chỗ bị "hở" ra. Và theo luật, cái chỗ hở đó là hải phận quốc tế. Dù nhìn vô bản đồ nó có vẻ nằm hoàn toàn trong "khu vực" quần đảo Trường Sa.
Chưa hết, trong lịch sử một số đảo chúng ta đã bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đi. Cho nên, dù cái đường vòng quanh đảo đó là lãnh hải của Việt Nam nhưng trong thực tế nếu tầu thuyền của ngư dân đi vào đó thì sẽ bị xua đuổi và bắn phá. Tức là các tàu đó bị bắn phá do xâm phạm vào "lãnh hải có được vì chiếm đóng trái phép" của Trung Quốc, nhưng lại là "lãnh hải dựa trên cơ sở pháp lý quốc tế và căn cứ lịch sử không thể tranh cãi" của Việt Nam. Cho nên báo chí sẽ phải đưa tin là tàu cá ngư dân bị bắn trong vùng lãnh hải "của Việt Nam". Thậm chí Bộ Ngoại Giao cũng phải tuyên bố như vậy. Và chính sự nhập nhằng này cũng khiến nhiều người cho rằng chúng ta quá hèn kém khi để cho ngư dân bị vạ lây như vậy.
Tương tự với việc Trung Quốc xua đội tàu cá hàng chục chiếc "tràn vào khu vực Trường Sa và Hoàng Sa" của Việt Nam để đánh bắt trái phép. Trong thực tế, quanh năm suốt tháng đều có tàu cá của Trung Quốc "mon men" đến gần các đảo của Việt Nam. Và khi này, chắc chắn 100% chiến sĩ trên đảo sẽ theo quy trình để có hành động xua đuổi thích hợp và mức cao nhất là sẵn sàng chiến đấu không khoan nhượng nếu việc xua đuổi không thành công.
Tuy nhiên, nếu các tàu cá này đi vào những vùng "lỗ thủng" của lãnh hải đan xen giữa các đảo thì thực tế không xâm phạm lãnh hải Việt Nam nhưng vẫn coi là "ùa vào khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam được". Điều tương tự xảy ra nếu các tàu này đi vào lãnh hải của các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị đánh cướp bằng vũ lực và chiếm đóng trái phép trong quá khứ. Chưa kể theo thông lệ quốc tế, nếu tàu họ "vô tình" đi vào một vùng lãnh hải nào đó thực sự hoàn toàn thuộc Việt Nam thì mình cũng không thể nào ra bắn phá mà trước tiên là xua đuổi. Và trong đại đa số các trường hợp, khi mình xua đuổi thì nó sẽ dời đi. Nhưng báo chí vẫn coi đấy là việc ùa vào vùng lãnh hải của Việt Nam.
6.
Tóm lại những việc mà chính phủ đang làm - THEO CÁ NHÂN MÌNH ĐÁNH GIÁ - là hoàn toàn đúng đắn về đường lối chính sách, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đất nước. Sau khi đi thực tế, theo cách gọi của đoàn công tác, là "thăm và kiểm tra các đảo" thì phải nói là mình hoàn toàn yên tâm rằng ít nhất là các đảo mình đang giữ sẽ khó mà bị Trung Quốc đánh chiếm. Những sự vi phạm chủ quyền theo dạng quấy nhiễu của Trung Quốc chúng ta đều có quy trình đối phó an toàn nhất.
Về phía cộng đồng quốc tế, chúng ta đang làm cực tốt việc "nhai đi nhai lại bài ca phản đối" mọi lúc mọi nơi, trên mọi phương diện dù sự vi phạm có lớn như con voi hay nhỏ như con kiến. THEO THÔNG LỆ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ, ĐIỀU ĐÓ LÀ CỰC KỲ QUAN TRỌNG! Chúng ta cũng chấp nhận việc "gây hiểu lầm" về năng lực bảo vệ ngư dân hay năng lực phòng thủ khi sẵn sàng ra tuyên bố chủ quyền ngay cả trong trường hợp thực ra chúng ta chỉ bị vi phạm chủ quyền theo lý thuyết. Theo mình, đây là một đánh đổi cực kỳ quan trọng và dũng cảm. Các bạn hãy đọc thật kĩ phần trên để hiểu và cùng đi giải thích cho nhiều người khác cùng hiểu nữa.
Việc tốt nhất mà mỗi người chúng ta có thể chung tay, theo mình chính là nâng cao nhận thức, kiến thức về luật biển, về UNCLOS, phải hiểu được lãnh hải là gì, đường cơ sở là gì, cơ sở xác lập chủ quyền biển đảo thế nào, vùng nội thủy là gì, vùng đặc quyền kinh tế là gì, thềm lục địa là gì, thềm lục địa mở rộng là gì... v.v... và v.v... Chừng nào làm được như vậy chúng ta mới mong hiểu đúng, hiểu rõ và hiểu sâu về tình hình chiến sự tại Biển Đông. Mới không hoang mang khi tiếp nhận thông tin từ những nhà báo thực ra nhiều khi cũng chưa hiểu sâu về biển đảo, từ những thông tin mà Nhà nước buộc phải nói theo kiểu khiến người dân nghe vô sẽ tự nhiên thấy hoang mang (http://on.fb.me/13FvJIW). Và quan trọng nhất là đủ tỉnh táo để phân biệt đúng sai, mức độ chính xác của thông tin từ những nguồn tin không thiện chí.
Nguyễn Ngọc Long Backmoon
----------------------
Ghi chú:
>>> Join group Những bài viết hay nhất trên facebook Nguyễn Ngọc Long Backmoon để không bỏ lỡ các bài viết quan trọng trên facebook của mình.
>>> ĐỌC THÊM:
+ KHÔNG YÊU NƯỚC BẰNG MÁU CỦA BẤT CỨ NGƯỜI NÀO - http://on.fb.me/13FuyJp
+ NGƯỜI CHIẾN SĨ VÔ DANH - http://on.fb.me/10MfiGp
+ SỰ TÍCH PHAN VINH - http://on.fb.me/10MflSI
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P1 - http://on.fb.me/10MfkxY
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P2 - http://on.fb.me/10Mfrts
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P3 - http://on.fb.me/10Mftla
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P4 - http://on.fb.me/10Mfu8H
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P5 - http://on.fb.me/10MfvcL
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P6 - http://on.fb.me/10MeXnk
+ TRƯỜNG SA KÝ SỰ P7 - http://on.fb.me/10Mfzt6
+ TÌM HIỂU VỀ QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM (http://bitly.com/13FuMjR), TẠI HOÀNG SA (http://bitly.com/13FuBoF), TRƯỜNG SA (http://bitly.com/13FuF82) VÀ CÔNG ƯỚC LIÊN HIỆP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN (http://bitly.com/13FuDgb).

Đào Tuấn - “Bất ổn ở nông thôn là bất ổn xã hội, bất ổn chính trị”

67% dân số đang sống ở nông thôn và “Bất ổn ở nông thôn là bất ổn xã hội, bất ổn chính trị”.
Bức tranh kinh tế ảm đạm thể hiện qua những con số biết nói. Năm 2010 con số doanh nghiệp (DN) ngừng hoạt động, phá sản là 43.000; Năm 2011 là 53.000; Năm 2012 lên trên 54.000; Ngay trong những tháng đầu năm 2013, mỗi tháng có 4.900-5.000 tiếp tục ngừng hoạt động hoặc phá sản. Ngay cả những DN còn thoi thóp cũng đang ở vào tình trạng “sống không bằng chết”. 69% báo lỗ trong năm 2012, với số lỗ lên tới hơn 50 ngàn tỷ đồng. Không ngẫu nhiên, Ủy viên Ủy ban Kinh tế, TS Trần Hoàng Ngân trong phiên khai mạc QH ngày hôm qua, đã dùng từ “dịch phá sản” khi nói về “lực lượng tạo ra của cải vật chất và việc làm của xã hội”.
“Bất ổn ở nông thôn là bất ổn xã hội, bất ổn chính trị”
DN cần phải được cứu khẩn cấp bởi có cứu được DN mới mong chặn đứng được suy giảm kinh tế, giải quyết được công ăn việc làm, an sinh xã hội. Và xa hơn, mới chặn đứng được sự hoang mang có tính chất dây chuyền đang nằm trong những bản báo cáo với mấy chữ nghe qua tưởng chuyện nhỏ “suy giảm lòng tin”.
Nhưng nền kinh tế không phải chỉ có các DN cần cứu. Bản thân nông nghiệp, từ nhiều thập kỷ nay luôn được coi là “cứu cánh” của nền kinh tế cũng đang cần được cứu hơn bao giờ hết.
Bản thân báo cáo thẩm tra cũng xác nhận tình trạng giá gạo xuất khẩu đang giảm ở mức “hai con số”: 10,9%. Bản thân chính sách mua tạm trữ lúa, gạo còn nhiều bất cập, gây bức xúc trong nông dân vì số lượng người được hưởng lợi trực tiếp còn ít, việc triển khai mua tạm trữ còn chậm, thời hạn thực hiện ngắn trong khi thời gian thu hoạch cao điểm ở các tỉnh chênh lệch nhau. Và tồn tại lù lù trong các báo cáo là đội ngũ ”thương lái” như những tên cướp đường, thủ phạm trực tiếp gây ra tình trạng ”ép giá vẫn xảy ra phổ biến”.
Những tác giả của “cứu cánh”, người nông dân đang rơi vào lỗ kép. Vị quan chức Quốc hội phân tích: Lỗ kép ở đây là giá nông sản (lương thực, chăn nuôi) đang giảm, dẫn đến nguồn thu của nông dân giảm nhưng các khoản chi khác lại tăng như cho thức ăn giá súc, phân bón, vật tư nông nghiệp... chưa kể giá các dịch vụ y tế, giáo dục từ lâu đối với nông dân đã trở thành những gánh nặng đến mức có người đã quẫn bách khi không tìm thấy lối thoát. Lỗ kép là trong khi tất cả các mặt hàng hầu hết đều tăng chỉ có lương thực, sản phẩm chăn nuôi là giảm. “Chính từ việc lương thực giảm giá đã dẫn đến lạm phát thấp vì chỉ số giá lương thực chiếm tỷ trọng lớn trong rổ hàng hóa. Chứ không phải là do giải pháp kiềm chế lạm phát hữu hiệu”- TS Ngân nói.
Nông nghiệp là ngành duy nhất luôn xuất siêu với những đồng ngoại tệ cứu cánh thấm đẫm mồ hôi nông dân. 67% dân số đang sống ở nông thôn, làm nông nghiệp. Câu kết sau đây là lời Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân “Vì thế cứu doanh nghiệp phải song hành với cứu nông dân, nông nghiệp”. Bởi bất nông nghiệp bất ổn thì nền kinh tế không còn cứu cánh. Bởi “Bất ổn ở nông thôn là bất ổn xã hội, bất ổn chính trị”.
Đào Tuấn
(Blog Đào Tuấn)
 

Đề xuất lập Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố 2 cấp

Thảo luận tại hội trường sáng nay (21-5) về dự thảo luật Phòng, chống khủng bố, nhiều ĐBQH tán thành việc thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố theo 2 cấp: Trung ương và địa phương.
Cũng trong sáng 21-5, Quốc hội (QH) đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của QH Nguyễn Kim Khoa trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật phòng, chống khủng bố của UBTVQH. Sau đó các ĐBQH đã thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo luật này.
Nhiều ý kiến đại biểu quan tâm về vấn đề thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố (BCĐ). ĐB Nguyễn Văn Minh (Bắc Kạn) tán thành: Chính phủ cần thành lập BCĐ phòng, chống khủng bố Quốc gia và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập BCĐ phòng, chống khủng bố cấp tỉnh không chuyên trách. Các thành viên BCĐ hoạt động chuyên nghiệp, thường xuyên, để vừa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống khủng bố vừa đảm bảo được vai trò lãnh đạo.
Một cuộc diễn tập phòng chống khủng bố
ĐB Nguyễn Minh Kha (Cần Thơ) cho rằng để thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện, dự thảo luật cần chia BCĐ phòng, chống khủng bố thành 2 cấp. Ở Trung ương, BCĐ phòng, chống khủng bố do Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban, đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an làm phó trưởng ban thường trực, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm phó ban chỉ đạo và các ngành làm thành viên. Tương tự như thế, ở cấp tỉnh- thành phố trực thuộc trung ương sẽ Chủ tịch UBND làm trưởng ban, đồng chí giám đốc sở công an làm phó ban thường trực và đồng chí chỉ huy trưởng bộ chỉ huy quân sự thành phố làm phó ban chỉ đạo và các sở, ngành làm thành viên.
Đồng quan điểm, ĐB Nguyễn Anh Sơn (Nam Định) tán thành quy định thành lập BCĐ phòng, chống khủng bố 2 cấp và hoạt động thường xuyên, chứ không phải khi nào cần thiết thì mới thành lập. Bộ trưởng Bộ Công an và giám đốc công an tỉnh sẽ đóng vai trò thường trực của BCĐ cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành viên BCĐ hoạt động kiêm nhiệm. ĐB Sơn cũng cho rằng không nhất thiết phải thành lập BCĐ này ở tất cả các bộ, ngành của Trung ương.
Một vấn đề khác được các đại biểu thảo luận nhiều liên quan đến vai trò người chỉ huy phòng, chống khủng bố. Đại biểu Nguyễn Văn Minh (Bắc Kạn) nói: Tuy quy định “Người chỉ huy chống khủng bố là người có thẩm quyền quyết định" xong trong dự thảo luật lại chưa có quy định cụ thể về cấp có thẩm quyền quyết định người chỉ huy chống khủng bố nên trên trên thực tế sẽ khó khăn, đề nghị bổ sung quy định cụ thể về vấn đề này.
ĐB Nguyễn Anh Sơn tán thành phân tích của ĐB Nguyễn Văn Minh và đề nghị dự luật ghi rõ "người chỉ huy chống khủng bố là người được BCĐ phòng, chống khủng bố phân công, quyết định" và "khi BCĐ phòng, chống khủng bố chưa phân công người chỉ huy chống khủng bố thì người đứng đầu, trực tiếp ở nơi xảy ra khủng bố có trách nhiệm tổ chức thực hiện các biện pháp chống khủng bố theo quy định".
Cuối cùng Phó chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn chốt lại cả 2 vấn đề: về BCĐ phòng, chống khủng bố đa số ý kiến ĐB là nhất trí thành lập, nhưng cần bổ sung làm rõ thêm thành phần BCĐ quốc gia, BCĐ ở cấp tỉnh, vai trò thường trực của Bộ Công an, của công an cấp tỉnh, đồng thời nên có bộ phận tham mưu giúp việc.
Về trách nhiệm quyền hạn của người chỉ huy chống khủng bố đa số ý kiến ĐB cũng đều nhất trí nhưng muốn quy định rõ thẩm quyền của từng cấp để bảo đảm thực thi. Nhất trí người chỉ huy do BCĐ phòng, chống khủng bố quyết định, khác với “cấp có thẩm quyền” quyết định. Khi BCĐ chưa có quyết định thì người đứng đầu cơ quan trực tiếp sẽ chỉ huy. Đối với cấp tỉnh thì có thể giám đốc công an là người chỉ huy.
An Huy
(ANTĐ)

Đại biểu QH Hoàng Hữu Phước: Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề nền tảng và không thể thay thế

Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề nền tảng và không thể thay thế
Đại biểu QH Hoàng Hữu Phước.
Bản dự thảo Hiến pháp công bố ngày hôm qua dành được sự quan tâm đặc biệt từ phía dư luận. Bên hành lang kỳ họp QH, PV Lao Động trao đổi với Đại biểu Quốc hội TPHCM Hoàng Hữu Phước. “Có những vấn đề thuộc về nền tảng. Chẳng hạn như sửa một căn nhà, có sửa chữa, cải tạo cách mấy thì vẫn phải giữ lại cái móng”- ông nói.
- Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi đã được công bố sau khi tiếp thu 26 triệu ý kiến và 3 lần chỉnh sửa. Ông nhìn nhận thế nào về sự tham gia của người dân qua con số 26 triệu ý kiến?
- Trước hết là nói về số lượng. Con số 26 triệu ý kiến đang cho thấy sự quan tâm một cách tích cực trong tư duy của người dân. Những ý kiến này đã được những người có trách nhiệm của QH tiếp thu và cập nhật rất thường xuyên. Những tài liệu kèm theo dự thảo mà các ĐBQH nhận được là rất dày. Những ý kiến đóng góp người mà dân hợp lý hợp tình đều được đưa vào và phân nhóm các ý kiến, cho thấy hoạt động đóng góp cho Dự thảo Hiến pháp là rất sôi động. Những điểm mới cũng được truyền thông đại chúng liên tục cập nhật. Tôi cho rằng đây là một sinh hoạt chính trị rất lớn, vừa mang tính chất phổ biến, vừa mang tính chất ghi nhận và mọi người đều quan tâm.
- Xin hỏi một câu mang tính chất cá nhân: Gia đình ông có nhận được bản dự thảo Hiến pháp và việc đóng góp ý kiến của gia đình như thế nào?
- Khi nhận được bản dự thảo, tôi nói với bà xã: Em ơi, tờ góp ý là dành cho em đấy. Tức là mình nói đùa với bà xã, tài liệu là đọc chung, còn tờ góp ý để bà xã góp ý. Mình là ĐBQH, mình nhận tài liệu, họp hành, tranh luận và đóng góp ý kiến. Còn tờ của gia đình thì nhường cho bà xã góp ý kiến và ký tên vào đó. Nhà tôi khi đóng góp có sự vui vẻ. Vui vẻ ở đây không có nghĩa là cười toe toét, mà vui vẻ đối với một hoạt động, một sinh hoạt. Nhận được một cuốn dày như thế mà đọc từ đầu đến cuối thì chắc là bất khả. Bà xã tôi không đọc từ đầu đến cuối, mà chỉ đọc những chương quan trọng mà báo chí nói nhiều tới. Ví dụ như về thể chế. Câu đầu tiên mà bà xã mình viết là “Cơ bản nhất trí”. Dưới thì gạch thêm một hai cái đầu dòng nữa. Đặc biệt là ủng hộ việc giữ nguyên thể chế chính trị.
- Trình độ chị nhà như thế nào và những quy định trong bản dự thảo Hiến pháp có quá khó hiểu không, thưa ông?
- Tôi với bà xã học chung đại học, sau đó cùng làm giáo viên tiếng Anh ở Cao đẳng Sư phạm thành phố, cho nên cứ cho rằng bà xã đọc tài liệu đó cũng có sự dễ dàng.
- 26 triệu ý kiến đóng góp là từ những đối tượng rất khác nhau. Với tư cách ĐBQH nghiên cứu về Hiến pháp, ông thấy bản dự thảo phát tới các hộ gia đình có hơi khô, hơi quá khó cho việc đóng góp?
- Mình tin đối với một số người dân đọc tài liệu này là sẽ khó. Không dám nói là trình độ học vấn của những người dưới quê là không cao, nhưng những vấn đề người ta quan tâm trong cuộc sống hằng ngày từ nhỏ tới lớn, khi cầm một cuốn tài liệu như thế, để tự thân vận động mà đọc thì chắc sẽ khó khăn. Nếu địa phương, chính quyền cơ sở mà tổ chức được những buổi sinh hoạt, học tập thì sẽ giúp người dân được nhiều hơn. Mình tin là với đợt sinh hoạt chính trị lớn và quan trọng thế này thì chính quyền địa phương, cơ sở ở dưới quê chắc là có hướng dẫn người dân.
- Sau khi bản dự thảo Hiến pháp được công bố sáng qua, với những vấn đề cơ bản nhất được giữ nguyên, nhiều cử tri và nhân dân băn khoăn, chưa hiểu là dự thảo lần này có khác gì so với bản trước đây? Có khác gì so với Hiến pháp hiện hành?
- Có những vấn đề thuộc về nền tảng. Chẳng hạn như sửa một căn nhà, có sửa chữa, cải tạo cách mấy thì vẫn phải giữ lại cái móng. Tôi cho rằng những vấn đề cơ bản như sự lãnh đạo của Đảng chẳng hạn, chính là những vấn đề nền tảng và không thể thay thế. Còn đối với những vấn đề đã và đang gây ra những bức xúc lớn về trật tự xã hội, quản lý đất đai hay giám sát ngân sách…, tức là những vấn đề mà người dân cũng rất quan tâm thì Hiến pháp lần này sẽ tạo ra thay đổi trong việc phát triển kinh tế. Còn những cái kia thì là những điều căn cơ, căn bản không thay đổi được.
- Quan điểm của ông với tư cách là một nhà lập pháp về vấn đề sở hữu đất đai cũng như việc đưa những quy định như thu hồi đất hoặc không thu hồi đất vào một đạo luật gốc?
- Thời đại bây giờ có những phát sinh mà 30-40 năm trước không ai nghĩ tới. Chẳng hạn vấn đề kinh tế thị trường, sở hữu… Đây là những vấn đề cần được minh định, nếu không, nó sẽ gây ra những vấn đề khác. Người ta nói Hiến pháp là một đạo luật gốc, cần phải ngắn gọn; nhưng tôi cho rang thời thế đã khác, nếu như có những chi tiết trong Hiến pháp thì càng tốt chứ không phải như một số ý kiến cho rằng Hiến pháp cứ phải ngắn gọn thôi, còn những quy định cụ thể thì đưa vào Luật Đất đai. Tôi thì rất thoáng ở chỗ là dù Hiến pháp ghi vắn tắt hay chi tiết thì cũng không sao cả.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!
Đào Tuấn
(Lao động)

Nước đang sôi, lửa đang bỏng! Lú vừa thôi!

Vừa kết thúc HNTW7, ngày 13.5.2013, khi chưa kịp dọn rửa vụ đem Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ nhét vào Ban Nội chính và Ban Kinh tế và bị BCH TW thổi còi “việt vị” dẫn đến kết cục phải bỏ rơi hai ông này bơ vơ giữa chốn quan trường thì ông Trọng lại bày tiếp một mâm khác, lần này có phần hoành tráng hơn: “Cuối năm nay, Đảng cũng sẽ lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng để kịp thời cảnh tỉnh, răn đe”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Thế là, mặc cho cử tri Lâm Thắng (Phường Thành Công) nhắc khéo vụ “vỡ trận” khi bầu bổ sung Bộ Chính trị và dẫn chiếu sự sai lầm, ấu trĩ chính trị dẫn đến sự thất bại hoàn toàn của NQTW4, ông Trọng vẫn biện chứng lý luận giáo điều: “Việc lấy phiếu tín nhiệm là một hình thức răn đe, cảnh tỉnh đối với những cán bộ sai phạm. Nếu không biết sửa sai, để đến lúc bỏ phiếu tín nhiệm thì sẽ là bãi nhiệm hoặc miễn nhiệm”.
Tổng Bí thư tiếp xúc cử tri ngày 14/5/2013
Khi bị ông Thắng truy tiếp về phương cách đảm bảo chặt chẽ trong việc lấy và bỏ phiếu tín nhiệm thì ông Trọng vốn thiếu thực tiễn đã “bí lù” và quay ra chơi trò “nuôi con gì, trồng cây gì” trả lời nước đôi: “Lo vì có khi người tốt nhưng phiếu lại thấp, cho nên phải làm sao đảm bảo kết quả bỏ phiếu chính xác”. Nhưng “phải làm sao”, “cụ thể thế nào” thì Tổng bí thư cũng chịu. Chắc đành kêu gọi sự tự giác từ các đồng chí của ông thôi. Sao ông không chịu hiểu, cuối năm nay dù trong Đảng có lấy tín nhiệm hay không thì ngay sau HNTW7, bản thân ông đã mất tín nhiệm hoàn toàn rồi!
.
Cay cú vì bị ngồi lỳ một chỗ chẳng xơ múi được gì trong khi đến tuổi
phải về vườn, ông Huỳnh Đảm đâm ra cay cú, chọc ngoáy lung tung?
Thật lạ lùng, ngoài biển Trung Quốc ngang nhiên xua tàu cá, điều tàu chiến xâm lấn tận sân nhà, kinh tế thì khó khăn ngổn ngang đáng lẽ là lúc phải đoàn kết, tập trung giải quyết thì ngài Tổng lú lại khởi động “phê và tự phê”, “lấy tín nhiệm”, tái lập các ban để “tăng cường kiểm soát”. Các hoạt động kiểm soát này của Đảng do Trọng lú khởi động cùng với việc lấy tín nhiệm của Quốc hội và các báo cáo giả cầy đâm sau lưng chiến sĩ của Chủ tịch MTTQ Huỳnh Đảm đã khiến cho Chính phủ như một con trâu đang gắng sức vượt lầy phải nhận thêm vài nhát dao khiến càng bội phần khốn đốn và kiệt sức. Chính phủ nào, Thủ tướng nào trên thế giới có thể làm việc, phát huy hiệu quả trong hoàn cảnh trùng trùng gươm đao, “thập diện mai phục” từ ngay chính các đồng chí của mình như thế? Trung Quốc xâm lấn chỉ thấy có Chính phủ là hành động; không thấy TBT lên tiếng; Ban đối ngoại TW thì “mất tiếng”; BCH TW thì bị lôi vào các trò kiểm điểm, bầu bán, lấy tín nhiệm… Quân uỷ TW chưa thấy làm gì! Chủ tịch nước thì từ hồi bị phát hiện là Chủ tịch tập đoàn sâu bỗng im bặt, hành xử ngoan ngoãn lạ lùng, tự diễn biến và chấm dứt các trò thọc gậy bánh xe.
.
Tình trạng này là do cơ chế ông Trọng bày ra, từ thời của ông lên làm TBT, toàn bộ hệ thống tê liệt, không ai dám làm gì, ngày đêm lo tự phê bình, kiểm điểm, lấy phiếu tín nhiệm, bè phái, băng nhóm đánh đấm không ngừng. Không biết chừng nào mới chịu ngừng để còn bảo vệ và phát triển đất nước đây?
.
Xin gửi đến các ông bài thơ sau của cử tri Quang Định (Cầu Giấy) gửi gắm tâm tư trước hiện tình của Đảng, của đất nước:

BÃO BIỂN ĐẤT LIỀN

*
Chủ chăn đang chỉ đạo
Cuộc đấu khó hạ màn
Trọng lú dụ Tư Sang
Ráng cải biên hồ cáo
Hội nghị bảy ba xạo
“Thành công đại thành công”
Đưa dân đến đại đồng
Giống dòng thầy gian giảo
*
Tư tưởng từ bố láo
Giáo liềm búa mác lê
Biển đông lỡ lộn lề
Phu thê thề ra đảo
Mặc loài chim báo bão
Bọn cách mạng lão thành
Tàu chậm thua tàu nhanh
Một anh canh nhà chứa
*
Kế hoạch sinh đôi lứa
Khủng sản chửa năm lần
Tướng tá thôi cầm quân
Về giữ quần phụ nữ
Thanh trừng nhau không cữ
Ma quỷ kiến cũng sầu
Giang sơn sẽ đi đâu
Bầy sâu trung ương đảng
*
Ban chấp hành tùy táng
Bộ chính trị chấp tang
Cha già dưới suối vàng
Toan chui lên ống cống
Không khôn liền lúc sống
Chết mộng được cận ngu
Mười bốn tên lù đù
Đu thêm hai đứa nữa
*
“Thà vuốt bàn chân giữa
Hơn nghe đảng sửa sai
Còn thái thú đầu cai
Còn dài dài hiếp pháp”
Mặc dù rất ít hy vọng nhưng mong ông Trọng và các đồng chí hãy thức tỉnh, muộn còn hơn không? Và trong khi chờ đợi, BCH TW nên suy nghĩ về một khả năng khác: “Có nên cho bỏ phiếu tín nhiệm sớm hơn để để kịp thời cảnh tỉnh, răn đe ông Trọng và các đồng chí?
Tâm Thanh
(TSN

Lo ngại thay đổi chế độ, lãnh đạo Việt Nam giữ nguyên tên nước

Toàn cảnh Quốc hội Việt Nam trong phiên khai mạc kỳ họp đầu năm ngày 20/05/2013.
Toàn cảnh Quốc hội Việt Nam trong phiên khai mạc kỳ họp đầu năm ngày 20/05/2013. (REUTERS/Kham)

Giữa tháng 04/2013, một loạt các đề xuất sửa đổi Hiến pháp 1992 đã được Ban biên tập soạn thảo tiếp thu, trong đó có phương án đổi lại tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội hôm qua 20/05, việc đổi tên nước đã đột ngột bị loại khỏi văn bản dự thảo.

Từ đầu năm 2013, chính quyền Việt Nam mở ra đợt « lấy ý kiến nhân dân » cho dự án sửa đổi Hiếp pháp 1992. Thoạt tiên thời gian dành cho việc sửa đổi Hiến pháp chỉ được quy định cho đến hết tháng 03/2013, tuy nhiên trước các đòi hỏi của công luận, chính quyền chấp nhận kéo dài thời hạn góp ý kiến Hiến pháp cho đến trước kỳ họp thứ hai của Quốc hội, tháng 10/2013. Trung tuần tháng 04/2013, một loạt các đề xuất mới đã được Ban biên tập soạn thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tiếp thu, trong đó có phương án đổi lại tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dự kiến sẽ được đưa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc hội này.

Cho đến khi kết thúc kỳ họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội (từ 14-16/05/2013) - phụ trách chuẩn bị kỳ họp Quốc hội đầu năm -, chủ trương thảo luận hai phương án liên quan đến tên nước trong bản Hiến pháp sửa đổi vẫn được giữ nguyên. Điều này được khẳng định trong cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội, trước kỳ họp Quốc hội, thứ Sáu 17/05. Điều khá bất ngờ là, trong phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội, thứ Hai 20/05, việc đổi tên nước đột ngột bị loại khỏi văn bản dự thảo, cùng với một loạt các phương án khác liên quan đến điều 4 - quy định sự lãnh đạo của Đảng -, chế độ sở hữu đất đai hay nhiệm vụ của quân đội.

Trả lời phỏng vấn RFI, đại biểu Quốc hội, nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết quyết định này « bộc lộ rất rõ một xu thế chung của các nhà lãnh đạo Việt Nam » là « e ngại việc đổi tên nước có liên quan (…) đến định hướng phát triển về mặt chính trị và bản chất của nhà nước ».

RFI : Xin chào nhà sử học Dương Trung Quốc, hôm qua, 20/05/2013, trong phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam năm nay, Ban biên tập soạn thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tuyên bố không đưa vấn đề thay đổi tên nước ra thảo luận tại Quốc hội. Quyết định này gây ngạc nhiên. Xin ông cho biết cụ thể về vấn đề này.

Ông Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ công chúng chung thì có thể thấy bất ngờ, bởi vì trước kỳ họp này thì cũng thấy các văn bản soạn thảo đều có đưa ra hai phương án lựa chọn. Nhưng thực ra chúng tôi cũng không cảm thấy bất ngờ lắm, bởi vì cái quyết định này nó bộc lộ rất là rõ một xu thế chung của các nhà lãnh đạo Việt Nam, là có rất nhiều cái e ngại cho rằng việc đổi tên nước có liên quan gì đó đến định hướng phát triển về mặt chính trị và bản chất của nhà nước.

Thật ra phải nói là việc triển khai sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã lâu rồi, nhưng phải cho đến đây một vài tháng thôi, thì cái phương án (đổi tên thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) mới được đưa ra trong các cuộc thảo luận ở Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp. Và quyết định ấy (đưa ra hai phương án tên nước) cũng tạo ra một mối quan tâm chung của xã hội. Bởi vì một trong các lý do được đưa ra, tôi có được tham dự cuộc trao đổi đó, cho rằng là, cái « thượng tầng » của chúng ta nhấn mạnh đến cái « xã hội chủ nghĩa », nhưng cái « hạ tầng » phải nói là vẫn ở trong thời kỳ phát triển rất thấp. Cho nên giữa cái thượng tầng và hạ tầng nó không phù hợp. Có ý kiến của những nhà nghiên cứu cho rằng cái xu thế muốn trở lại danh xưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày càng nhiều.

Tôi cũng có phát biểu rằng không nên coi đây (phương án lấy lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) là một « bước lùi », bởi vì cũng như một cỗ xe có cơ chế lùi, người lái xe phải biết lùi, cái xe mới có thể tiến đi xa được, vững vàng được. Tôi nhớ là sau cuộc thảo luận ấy, Chủ tịch Quốc hội đặt vấn đề là : Vậy thì ta đưa ra hai phương án để cho Quốc hội bàn thảo xem. Nhưng ta biết rằng, sau đó còn qua rất nhiều bộ lọc khác.
"Cái đáng nói nhất (…) (là) thiếu một công cụ để thực hiện quyền phúc quyết của Dân. Đây là vấn đề chung của Hiến pháp"
Sau khi… kỳ họp Thường vụ Quốc hội vừa rồi, thì trình ra cái văn bản ngày hôm nay. Giải thích của Ban soạn thảo là gác lại phương án trở lại danh xưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nói cách khác là vẫn giữ như cũ. Những giải thích của Ban soạn thảo thì cũng đưa ra một số yếu tố về mặt thủ tục hành chính, thí dụ như : Có đổi tiền không ? Có thay dấu má không ? Sự tốn kém có không ? Đồng thời cũng nói việc là việc đổi tên ảnh hưởng đến cái nhận thức và thay đổi cái đường hướng phát triển.

Vì thế tôi nghĩ không bất ngờ lắm, vì cái đó vẫn theo cái nếp cũ, chưa có đột phá, nhất là khó nhất là lúc này không có được cái điều kiện để định lượng xem quyền phúc quyết của người dân như thế nào. Đây là vấn chung đối với toàn bộ Hiến pháp, trong đó vấn đề đổi quốc danh chỉ là một trong các vấn đề của Hiến pháp mà thôi.

RFI : Được biết ông là một người ủng hộ việc đổi tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xin ông cho biết thêm về tầm quan trọng của việc đổi tên nước.

Ông Dương Trung Quốc : Tôi thì nghĩ, như tôi đã phát biểu là, nếu có ai e ngại đây là bước lùi, thì đây hoàn toàn là không phải. Quan điểm của tôi là ta trở lại cái nền tảng. Dẫu sao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là một danh xưng được lựa chọn, sau một biến cố lịch sử rất lớn là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cho nên, tính đồng thuận rất cao của người dân, khi gắn liền nền độc lập chấm dứt chế độ thuộc địa và chế độ phong kiến, bằng một cái mô hình chính trị có thể nói là tiên tiến nhất lúc đó.

Chúng tôi, những người làm sử đặt câu hỏi : Tại sao cụ Hồ Chí Minh, là một chiến sĩ cộng sản, đã từng hoạt động rất lâu năm ở nước Nga Xô Viết, là một chiến sĩ quốc tế cộng sản, vậy mà khi dành được độc lập cụ lại không áp đặt chế độ Xô Viết năm 1945 ? Cái sự lựa chọn ấy khẳng định rất rõ nhận thức rằng, chế độ dân chủ cộng hòa là một thành tựu về mặt chính trị của nhân loại, mà người Việt Nam lựa chọn trong quá trình xây dựng đất nước của mình, khi nước nhà được độc lập.

Chúng ta biết năm 1976, tức là chỉ một thời gian rất ngắn sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa đã bị sụp đổ, thì việc thống nhất lãnh thổ, thống nhất hành chính, trong đó có thống nhất quốc danh, gần như là một nhu cầu hết sức bức xúc. Vì ta biết rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một danh xưng chung của cả nước Việt Nam, trong Hiến pháp nói là danh xưng của một nước Việt Nam độc lập, từ bắc chí nam, nhưng với cái hiệp định Genève 1954, thì dẫu sao không gian của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ yếu là ở miền bắc, còn miền nam là chế độ Việt Nam Cộng hòa. Khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, thì nhà nước Cộng hòa Miền nam Việt Nam của Mặt trận Dân tộc Giải phóng về danh nghĩa là người quản lý phía nam. Vì thế hình như lúc đó phải chăng người ta muốn chọn một cái tên gì đó để không tạo ra mội cái hình thức là miền Bắc thôn tính miền Nam, thế nhưng lại có một lý do nữa là tại sao không chọn một cái tên nào khác ?
"Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (…) đã từng tạo dựng được sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trong khi đó thì chủ nghĩa xã hội vẫn là một cái gì đó rất xa xôi."
Ta nhớ rằng, năm 1976, lúc đó có thể nói Liên Xô là một chỗ dựa, một đồng minh lớn nhất, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội nằm trong tầm tay. Cái hiến pháp 1980 trong một chừng mực nào đó có xu thế là xô viết hóa. Tên nước là CHXHCN Việt Nam, rồi cũng đổi chính phủ là Hội đồng Bộ trưởng, và Hội đồng Nhà nước... Và chúng ta cũng biết trong Hiến pháp 1980, những yếu tố của Hiến pháp Liên Xô cũng được đưa vào đây, thí dụ điều 4 về quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hay là khái niệm về sở hữu toàn dân chẳng hạn, lúc đó mới bắt đầu có. Hiến pháp 1980 chỉ tồn tại được có 12 năm thôi, thì nó phải sửa đổi, nhưng các yếu tố đó vẫn được giữ lại như là một sự kế thừa, và cái sự kế thừa khiến các nhà lãnh đạo Việt Nam không dám thay đổi, vì cho rằng thay đổi tức là mình đã không đi tiếp được con đường mình đã vạch ra rồi. Và trong bối cảnh chính trị phức tạp như thế này, có thể người ta e ngại rằng đó là thông điệp gì đó về chế độ chính trị. Tôi cho là tâm lý ấy là tâm lý dễ thấy ở các nhà lãnh đạo Việt Nam.

Cá nhân tôi, tôi muốn trở lại với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi không bàn về mục tiêu phát triển sau này, nó là chủ nghĩa xã hội hay không, nhưng ít nhất là trở lại cái nền tảng. Cái nền tảng đã từng tạo dựng được sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trong khi đó thì chủ nghĩa xã hội vẫn là một cái gì đó rất xa xôi. Trở lại với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là trở về nền tảng, từ nền tảng đó chúng ta hoàn toàn có thể lựa chọn con đường phù hợp nhất với xã hội Việt Nam trong tương lai.

RFI : Thưa ông, ở điểm mà ông nhấn mạnh đến, tức là tên gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể tập hợp sức mạnh của dân tộc, cũng có những ý kiến lo ngại rằng, như vậy sẽ làm gợi lên sự đối đầu xưa giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa, ông nghĩ sao về quan điểm này ?

Ông Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ là tất nhiên mỗi người có thể có cách nhìn khác nhau, tôi hết sức tôn trọng. Tôi chỉ đang trình bày quan điểm của tôi thôi. Bởi vì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình thành từ năm 1945 và được khẳng định trong Hiến pháp 1946. Rõ ràng là vào thời điểm ấy nó là một sức tập hợp toàn dân. Còn sau này, trong quá trình phát triển của nó, chịu tác động bởi những yếu tố thay đổi, nó có thể mang lại những sự phân tâm trong xã hội Việt Nam. Mỗi vùng miền có sự lựa chọn chế độ chính trị khác nhau. Nhưng tôi muốn trở lại cái gốc của một nước Việt Nam hiện đại, nước Việt Nam độc lập xác lập trên nền tảng một cuộc cách mạng dân tộc thực sự. Và nếu người làm sử nhớ lại, có thể nói thời kỳ đó đã tạo nên sự thống nhất rất là cao trong dân tộc, còn sự phân hóa là trong quá trình tác động sau này. Và không thể không nói đến những yếu tố quốc tế, với thời kỳ chiến tranh lạnh, thời kỳ đối đầu giữa các hệ tư tưởng khác nhau. Thì tôi nghĩ rằng chúng ta phải mạnh dạn nhìn lại một lịch sử như thế, phải tìm lại ngọn nguồn của mình, để điều chỉnh lại sự phát triển của đất nước, cho phù hợp với thời đại ngày hôm nay. Đấy là quan điểm của cá nhân tôi và có thể của một số người khác.

Tôi cho việc sửa đổi Hiến pháp là một cơ hội lịch sử. Những Hiến pháp Việt Nam có một sức sống không dài lắm. Nó luôn được điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của đất nước. Thông thường nó là 20 năm. Hiến pháp 1980 là 10-12 năm. Tôi cho rằng, nếu coi đó là một cơ hội, thì ta phải cố gắng có một cái nhìn nó thấu đáo, để có thể điều chỉnh những gì có thể điều chỉnh được. Chứ còn nếu ta giữ lại nguyên như cũ, thì có thể theo thói quen bình thường thấy ít có một sự phiền phức nào đó, đấy là nhận thức của một số người. Còn tôi vẫn nghĩ rằng, dẫu sau mình cũng nên nhìn vào lịch sử để điều chỉnh sự phát triển của đất nước. Chúng ta biết rằng tên gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho dù tồn tại trong thời gian Nam Bắc bị phân chia, rồi diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng nếu đi về căn nguyên của nó, thì nó vẫn là biểu trưng cho độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Nhưng tôi cho rằng, quyết định vẫn là ở đại biểu quốc hội, xem cái việc đó có nên đơn giản kết thúc như thế không ?

RFI : Chính ở đấy mong được ông cho biết thêm ý kiến.

Ông Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ ban dự thảo thực hiện đúng chức trách của nó, được Quốc hội giao phó cho, còn Quốc hội vẫn là người quyết định cuối cùng, nội dung văn bản cuối cùng của Hiến pháp. Tất nhiên nó còn tùy thuộc vào quan điểm của các bên, trao đổi với nhau như thế nào, có thuyết phục được nhau không. Tôi thì nghĩ rằng là, nếu có cơ hội, tôi vẫn phát biểu ý kiến của tôi, mặc dù tôi vẫn rất là tôn trọng cái quyết định của ban dự thảo.

Cái đáng nói nhất ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi nghĩ rằng thiếu một công cụ để thực hiện quyền phúc quyết của Dân. Đây là vấn đề chung của Hiến pháp, chứ không phải riêng vấn đề tên nước.

Tôi nghĩ rằng người dân Việt Nam hiện nay còn có ba quyền tự do, mà tôi dùng khái niệm, là « đang bị treo », tức là chưa thực thi vào cuộc sống. Ba cái quyền này là công cụ để người dân thể hiện một cách đầy đủ nhất sự phúc quyết của mình, các vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó có vấn đề Hiến pháp. Đó là quyền tự do hội họp, trong đó có cả biểu tình, thứ hai là quyền lập hội và thứ ba là việc tổ chức trưng cầu dân ý, là phương thức để định lượng sự phúc quyết ấy.
"người dân Việt Nam hiện nay còn có ba quyền tự do (...) đang bị treo"
Rất tiếc là ba công cụ này gần như đã sẵn sàng, ai cũng cảm thấy cần thiết. Vấn đề biểu tình đã được sự đồng thuận cao là cần phải có, và luật lập hội đã đưa ra Quốc hội nhiều lần, nhưng chưa thông qua được, còn việc tổ chức trưng cầu dân ý, tôi thấy Quốc hội nêu ra nhiều lần rồi, và cũng đang có tiến trình tiếp cận để mà soạn thảo.

Quả thực khi mà có được ba cái này, là cái công cụ để người dân thể hiện được tiếng nói của mình, tập hợp trong những nhóm lợi ích xã hội khác nhau, nêu lên tiếng nói của mình, và có một công cụ định lượng quyền phúc quyết ấy, thì rất nhiều vấn đề, trong đó tên gọi nước, tôi cho là hoàn toàn đơn giản hơn rất nhiều. Còn bây giờ rất khó nói là : Ai, bao nhiêu người, nhiều người ủng hộ phương án này hơn hay phương án kia hơn ? Rất khó !

RFI : Dường như là vừa rồi, theo cái gọi là « lấy ý kiến » ở các địa phương, thì thấy thông báo là đa số muốn giữ lại tên gọi hiện nay, trong khi đó, thì theo nhiều thăm dò dư luận trên mạng, thì số người ủng hộ đổi tên thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại nhiều hơn.

Ông Dương Trung Quốc : Thực ra về điểm này, tôi thấy ban soạn thảo cũng đưa ra con số 26 triệu người đóng góp ý kiến nói chung, rồi 28.000 cuộc họp, cuộc hội thảo. Điều đó cũng đáng ghi nhận, vì tôi cho đây là lần đầu tiên Hiến pháp được bàn thảo một cách rộng rãi như thế. Nhưng cách làm ấy đã gọi là lấy ý kiến để định lượng được hay chưa, thì chắc chắn còn phải bàn. Nhiều người đã tham dự phát biểu ý kiến của mình thì rất là đáng ghi nhận. Nhưng còn nói là bao nhiêu người ủng hộ cái này và cái kia như một cuộc trưng cầu dân ý, thì tôi chắc là chưa có.

RFI : Xin cảm ơn ông rất nhiều. Trước khi chia tay với thính giả, ông có thêm nhận xét nào không về chủ đề này ?

Ông Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ rằng, sửa đổi Hiến pháp là một cơ hội lịch sử làm cho nhiều người dân quan tâm đến, thể hiện được sự đóng góp của mình, cũng là thể hiện cái quyền của mình là làm sao thực thi được cái nguyên lý : người dân có quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan trọng của đất nước, đúng theo tinh thần mà mình đã nói rất nhiều là : Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Nên đứng trước diễn biến như thế này, tôi nghĩ rằng cũng là điều đáng tiếc.

Nếu như vào những cơ hội như thế này mà người dân có thể tham gia một cách trực tiếp hơn, để có những quyết định kịp thời hơn, sáng suốt hơn, thì tôi cho là có thể rút ngắn được những bước đi không cần thiết, để Việt Nam có thể phát triển được một cách bền vững, thu hút được sự tụ tâm, nhất là trong bối cảnh đương rất nhiều thử thách như thế này. Đã nói nhiều đến thử thách về kinh tế, tôi nghĩ những thử thách về bảo vệ chủ quyền của đất nước, tôi nghĩ cũng phải coi đấy là một yếu tố thường trực và đang là vấn đề cần được sự đồng thuận cao của người dân.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà sử học Dương Trung Quốc. 
 Trọng Thành (RFI)

Chọn kinh tế hay nhân quyền?


Việt Nam vừa muốn phát triển kinh tế, vừa không muốn nới lỏng vấn đề nhân quyền

Việt Nam nên làm gì và làm như thế nào để có thể cân bằng một cách tốt nhất trước những thử thách mà nước này đang đối mặt: sức mạnh của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), và của Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên-Thái Bình Dương (TPP)?

Cùng muốn đóng vai trò quan trọng trong tương lai kinh tế của khu vực Châu Á–Thái Bình Dương, cả hai hiệp định đều mang tính thử thách cao vượt ra ngoài những vấn đề cơ bản liên quan tới thương mại, kinh tế mà Hà Nội đã từng gặp trước đây.

Tuy khá giống nhau về nội dung tự do hóa thương mại cũng như hợp tác kinh tế, nhưng thực chất hai hiệp định này lại mang tính đối lập vì cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều muốn khẳng định sức mạnh của họ trong khu vực.

Việt Nam tham gia cả RCEP lẫn TPP và ngày càng muốn cân bằng mối quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ.

Trung Quốc và RCEP

RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership)

  • Được bàn thảo từ 2006, nay RCEP bao gồm 16 quốc gia trong khu vực châu Á–Thái Bình Dương
  • Các thành viên gồm 10 quốc gia ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Miến Điện, Campuchia), Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand và Úc (gọi tắt là ASEAN+6)
  • RCEP không có sự hiện diện của Hoa Kỳ

Mục đích của RCEP là củng cố thêm hiệp định tự do Thương mại trong khối ASEAN lẫn các quốc gia không nằm trong khối nhằm cân bằng và tạo thêm sức ảnh hưởng lên các hiệp định thương mại này.

RCEP có thể giúp thúc đẩy thương mại Việt Nam vượt xuyên ra khu vực châu Á–Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, thời gian gần đây Hà Nội thường xuyên có những mối lo ngại lớn hơn về mặt chiến lược đối với sự áp đảo ngày càng gia tăng của Trung Quốc, đặc biệt các vụ tranh chấp quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

Gần đây Hà Nội đã hoan nghênh tiếp nhận những lời đề nghị mang tính hợp tác từ phía Hoa Kỳ, nhưng những bước tiến này vẫn chưa đủ mạnh đến mức có thể làm Trung Quốc phiền lòng.

Nếu không có sự đối trọng đến từ Hoa Kỳ, Việt Nam có thể sẽ mắc phải sự chi phối kinh tế từ Bắc Kinh, đặc biệt khi Việt Nam vẫn là nước tiêu thụ lượng hàng nhập khẩu rất lớn từ Trung Quốc.

Hoa Kỳ và TPP

Với Hà Nội, tầm quan trọng của TPP không thể xem nhẹ vì nó sẽ giúp mở rộng thêm nhiều cơ hội kinh tế đối với Việt Nam và đẩy mạnh việc xuất khẩu sang thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới bên kia Thái Bình Dương.

TPP cũng bao gồm nhiều thành viên RCEP, nhưng quy mô rộng lớn của TPP đòi hỏi các nước thành viên đầu tiên phải giải quyết những khác biệt trước khi nêu ra bất kỳ mối quan ngại nào trong các vòng đàm phán TPP, bao gồm cả việc bảo vệ và nâng cao các điều luật trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

TPP (Trans-Pacific Partnership)

  • TPP là Hiệp định Tự do Thương mại do Hoa Kỳ chủ xướng với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc 12 quốc gia Xuyên-Thái Bình Dương
  • Khởi đầu là TPSEP, gồm bốn thành viên sáng lập hồi 2005 là Brunei, Chile, New Zealand, Singapore. Tới 2010 TPSEP được đề xướng mở rộng thành TPP, với các nước đang đàm phán tham gia là Australia, Canada, Malaysia, Mexico, Nhật Bản, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam
  • TPP không có sự tham gia của Trung Quốc
Tuy nhiên, điều có lợi cho nhân dân Việt Nam thì chưa hẳn đã thuận ý các lãnh đạo chóp bu tại nước cộng sản này, nhất là khi TPP có thể bao gồm các điều khoản liên quan đến nhân quyền làm điều kiện gia nhập.

Cho đến giờ phút này, Hoa Kỳ vẫn còn quan ngại về những yếu kém liên quan đến hồ sơ nhân quyền tại Việt Nam.

Đây cũng chính là lý do khiến đối thoại nhân quyền thường niên năm 2012 giữa Washington và Hà Nội bị trì hoãn. Mặc dù Washington có thúc ép tới đâu thì tình hình nhân quyền tại Việt Nam vẫn ngày càng xấu đi kể từ khi nước này được gia nhập vào WTO hồi năm 2007.

Việc này được thể hiện qua các vụ bắt bớ các nhà hoạt động xã hội, nhà báo, bloggers, và những nhân vật sinh hoạt chính trị ôn hòa có ý kiến trái chiều với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cải thiện nhân quyền

Để rút ngắn khác biệt giữa hai nước, Hoa Kỳ có thể bắt đầu bằng việc yêu cầu Việt Nam cải cách những điều khoản cơ bản về luật lao động, bao gồm cả việc cho phép thành lập các công đoàn độc lập không bị kiểm soát bởi Đảng Cộng sản Việt Nam.

TPP có khả năng sẽ đề cập đến các vấn đề liên quan tới quyền lao động, mặc dù cho đến nay TPP vẫn chưa chính thức cam kết thiết lập quy chuẩn lao động và cơ chế thi hành.


TPP có thể giúp VN đẩy mạnh việc xuất khẩu sang bên kia Thái Bình Dương

Thậm chí nếu Hà Nội không tham gia vào TPP, Hoa Kỳ vẫn có thể yêu cầu Việt Nam thể hiện ý định cải cách, bắt đầu bằng việc cho phép công nhân có quyền tự do thành lập nghiệp đoàn và thương lượng tập thể.

Hiện vẫn chưa rõ sự khác biệt về nhân quyền giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ được giải quyết như thế nào nhưng có một số nhượng bộ mà lãnh đạo Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng, bao gồm cả việc thả một số nhân vật bất đồng chính kiến và nới lỏng chính sách kiểm duyệt Internet.

Các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có thể cần phải vượt qua thử thách về nhân quyền và tìm cách dung hòa với Hoa Kỳ nhưng rất khó để họ nới lỏng hệ thống kiểm soát chính trị chặt chẽ hiện nay nhất là đối với những ý kiến bất đồng mang tính tổ chức.

Nếu việc cải cách diễn ra quá mạnh mẽ, Đảng Cộng sản có thể vô tình làm tăng thêm sức mạnh cho các nhà hoạt động dân chủ và những tiếng nói phản biện hay đối lập.

Nhưng nếu Đảng Cộng sản không thực sự cải cách hoặc quá trình cải cách không mang lại hiệu quả như mong đợi thì Việt Nam đứng trước khả năng đánh mất cơ hội gia nhập TPP.

Sửa đổi luật lao động có thể chỉ là bước khởi đầu trong các vòng đàm phán.

Khi các thỏa thuận của TPP được thực hiện, có khả năng rất lớn rằng các tổ chức bảo vệ nhân quyền cũng như nhiều nhóm vận động khác nhau sẽ lên tiếng yêu cầu Việt Nam trả tự do cho toàn bộ các tù nhân chính trị bị cáo buộc bởi các điều khoản mập mờ như “tuyên truyền chống nhà nước”, “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” hay “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”.

Nếu Hoa Kỳ tạo sức ép quá mạnh về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, Việt Nam có thể rút khỏi TPP.

Nhưng nếu Hoa Kỳ đặt chính sách hợp tác kinh tế thương mại lên trên những nguyên tắc cơ bản về dân chủ và nhân quyền thì chính phủ của Tổng thống Obama có thể phải đối mặt với nhiều phản đối từ Quốc hội cũng như các nhóm bảo vệ nhân quyền.

Quyền lợi quốc gia


VN đã bắt bớ các nhà báo, bloggers, và những người ý kiến trái chiều với Đảng CS

Lựa chọn các hiệp định kinh tế thương mại để phát triển đất nước nhất thiết phải đặt lợi ích kinh tế, chính trị và con người trên tất cả các lợi ích của bất cứ một nhóm cá nhân hay tổ chức nào.

Nhân quyền là điểm khác biệt quan trọng giữa TPP và RCEP, vì RCEP không kèm theo bất cứ yêu cầu nào liên quan đến chính trị để làm điều kiện đầu tiên khi gia nhập.

Tuy nhiên, trong lúc Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn ở Biển Đông thì điều một nước nhỏ như Việt Nam cần hướng đến là một nền kinh tế không bị lệ thuộc và một đồng minh đủ tin tưởng hoặc ít nhất là đủ mạnh để hỗ trợ cho mình.

Hà Nội đã hé lộ trong các mối quan hệ chiến lược rằng Việt Nam đang cần Hoa Kỳ để đối trọng lại sức ảnh hưởng đang ngày càng gia tăng của nước láng giềng đầy tham vọng phương Bắc.

Tuy nhiên, để tiến tới mối quan hệ toàn diện thì không thể bỏ qua yêu cầu của Hoa Kỳ về một số cải cách quan trọng liên quan tới nhân quyền, điều mà các lãnh đạo Việt Nam đã cố tình cưỡng lại kể từ khi gia nhập WTO hồi năm 2007.

Có thể thấy rằng các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường và việc lựa chọn không hề dễ dàng.

Nhưng để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững, đồng thời hạn chế sự ảnh hưởng của Trung Quốc và duy trì sự sống còn của mình, liệu các nhà lãnh đạo Việt Nam còn lựa chọn thông minh nào khác hơn là việc nới lỏng một số quyền kiểm soát chính trị theo những gì người dân đáng được hưởng?

Bài viết bày tỏ quan điểm riêng của hai tác giả.
Luật sư Vũ Đức Khanh và ông Võ Tấn Huân
Gửi cho BBC từ Canada

Bùi Tín - Dân vận là thế này ư?

Lễ khai mạc kỳ họp thứ năm của Quốc hội khóa XIII tại Hà Nội , ngày 20/5/2013.
21.05.2013
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương đảng CS khóa XI đã bế mạc. Thông báo kết quả vẫn theo công thức rất cũ: nhất trí cao, với tinh thần dân chủ, ý thức trách nhiệm, phát huy trí tuệ và đạt kết quả tốt đẹp.

Trong diễn văn khai mạc cũng như diễn văn bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc rất nhiều đến chữ nhân dân, chỉ rõ mối quan hệ then chốt, sinh tử ấy đang có nhiều vấn đề gay gắt kéo dài, từ chênh lệch giàu nghèo mở rộng, bất công lan tràn, nông dân nổi giận, bộ máy nặng nề quan liêu ‘ hành dân’ , nạn tham nhũng dai dẳng bất trị, nạn thất nghiệp gia tăng, xã hội mất ổn định, tội phạm và tiêu cực hoành hành.

Tuy chữ «dân» được nhắc đi nhắc mấy chục lần trong diễn văn, nghị quyết, nêu bật các khẩu hiệu dân vận, như: phải «thật sự trọng dân, gần dân, hiểu dân, tin dân», «việc gì có lợi cho dân thì cố gắng làm thật tốt, điều gì có hại cho dân thì hết sức tránh», nhưng không thấy đưa ra được một biện pháp cụ thể nào để có thể lấy lại niềm tin đã mất của người dân.

Ngược lại, trong khi họp cũng như ngay trước và sau cuộc họp, các cuộc đàn áp thô bạo và xử án người dân yêu nước họp dã ngoại để cùng nhau trao đổi ý kiến về nhân quyền, rồi việc kết án một cách ngang ngược 2 sinh viên yêu nước chống bành trướng Đinh Nguyên Kha 8 năm và Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù giam là những hành động khiêu khích công luận, khiêu khích toàn xã hội, khiêu khích thế giới dân chủ. Phải chăng đó là những hành động tiêu biểu cho chính sách dân vận mới? Như vậy chỉ làm cho mối quan hệ giữa đảng CS và người dân đã rất xấu càng tồi tệ thêm.

Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng báo trước rằng Ban dự thảo Hiến pháp tiếp thu có chọn lọc 26 triệu ý kiến của cử tri, để rồi một mực giữ hầu như nguyên bản dự thảo đã bị hàng vạn trí thức tiêu biểu phủ định với lý lẽ vững chắc, cũng là một biểu hiện của chính sách «trọng dân, gần dân, hiểu dân, tin dân» đó ư ?

Rõ ràng Bộ Chính trị, dù là gồm 14 hay 16 người, vẫn một mực giữ thái độ xa dân, khinh dân, đi ngược lòng dân, chống lại dân.  Khi dân kiên quyết chống bành trướng, kiên quyết đòi quyền tự do, đòi xây dựng Hiến pháp và pháp luật tiến bộ, đòi chống tham nhũng thật sự, thì Bộ Chính trị một mực kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị cả thế giới đào thải, kiên định chế độ một đảng cực kỳ lạc hậu, phản tiến hóa, kiên định thái độ hèn với giặc, ác với dân. Ông Nguyễn Thiện Nhân vừa vào Bộ Chính trị đã phải sang ngay Bắc Kinh trình diện trấn an thiên triều, xóa bỏ ngay cái nhãn hiệu được đào tạo ở Mỹ, có ý thức cởi mở với phương Tây, giữ khoảng cách với bành trướng.

Xin hỏi tất cả các trí thức chuyên gia có trình độ và tâm huyết với ngành giáo dục về cống hiến của ông Nhân khi làm bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo xem ông đã cống hiến được gì, đã có chút thành tựu dù nhỏ ra sao đối với nền giáo dục cũ kỹ, chạy theo thành tích, chạy theo thi cử, sùng bái bằng cấp, hủ lậu, hình thức. Suốt thời kỳ làm bộ trưởng, ông một mực duy trì nền giáo dục không có thực chất, không thực học, thực chứng, xa thực tế. Ông là một bộ trưởng bất lực nhất, kém chuyên môn nhất, thất bại hiển nhiên trong ngành chuyên môn của mình, chỉ giỏi vâng dạ đối với cấp trên, lại được lên phó thủ tướng và nay được đội vương miện của một ông vua trong Bộ Chính trị. Văn bằng từ Đại học Harvard của ông không mảy may có giá trị thực chứng.

Còn bà Nguyễn Thị Kim Ngân ư? Xin hỏi giới chuyên gia kinh tế -tài chính-ngân hàng trong nước thì rõ. Bà Ngân có «công»  từ khi làm giám đốc sở tài chính tỉnh Bến Tre, được ra Trung ương làm thứ trưởng Bộ Tài chánh, dính sâu với «Kim và Ngân», tiền nong và vàng bạc, rồi làm thứ trưởng Bộ Thương mại, cũng dính sâu vào tiền nong và hàng hóa, xuất nhập cảng. Sau đó bà Ngân làm bộ trưởng Bộ Lao động – Xã hội, thành tích, nếu có, nổi rõ nhất là thả lỏng để hàng vạn lao động Trung Quốc tràn vào Việt Nam suốt từ 6 tỉnh biên giới phía Bắc xuống Hải Phòng, vào Thanh Hóa, tràn lên Tây Nguyên, xuống tận Sóc Trăng, Cà Mau, với những thị trấn Tàu, hàng hiệu Tàu, chợ Tàu, khu gia cư của người Tàu. Bà cũng chịu trách nhiệm chính về nạn xuất khẩu lao động cực kỳ tai tiếng, bất nhân, kiểu buôn người, đem con bỏ chợ, cũng như nạn thất nghiệp tăng nhanh. Đó là những «thành tích nổi bật nhất» phục vụ đảng, để bà lên chức phó chủ tịch Quốc hội, nay được vào Bộ Chính trị.

Chế độ này thưởng công rất hậu cho những ai từng giữ các chức vụ cao trong ngành tài chính - ngân hàng. Các quan lớn CS ở VN phạm tội biển thủ công quỹ cho đảng và cho mình như thế, từng lộng hành trong ngành tài chính – ngân hàng, có thể điểm danh hàng loạt là: ông Nguyễn Sinh Hùng từng tiến thân từ vụ trưởng Vụ Ngân sách, rồi thứ trưởng Tài chính, rồi bộ trưởng Tài chính, rồi phó thủ tướng đặc trách kinh tế - tài chính - ngân hàng, để lên đến đỉnh cao là chủ tịch Quốc hội; ông Vũ Văn Ninh cũng từ thứ thưởng Tài chính rồi lên làm bộ trưởng Tài chính, nay là phó thủ tướng chuyên trách kinh tế - tài chính - ngân hàng; ông Vương Đình Huệ là bộ trưởng tài chính; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng là thống đốc Ngân hàng Nhà nước; các thống đốc ngân hàng nhà nước khác như Lê Đức Thúy, Nguyễn Văn Giàu (hiện là phó chủ tịch Quốc hội), Nguyễn Văn Bình; và còn có Đại tá Công an Lương Ngọc Anh bị nước Úc chỉ mặt từng dính dáng đến vụ nhận hối lộ 10 triệu đôla trong vụ Securency.

Đây là kiểu biển thủ đặc biệt, đại quy mô, từ ngân sách quốc gia do thu thuế, từ 2 nguồn viện trợ và đầu tư ngoại tệ lớn là ODA (Official Development Assistance) và FDI (Foreign Direct Investment) - mỗi năm hàng vài chục tỷ đôla - do các quan chức tài chính ngân hàng thu nhận và phân phối, Bộ Chính trị âm thầm phê duyệt, sau lưng chính phủ, sau lưng Quốc hội, được Ban Kiểm tra Trung ương Đảng nhắm mắt làm lơ với sự đồng lõa của viên chức đảng đóng vai Tổng kiểm toán nhà nước.

Tội biển thủ khổng lồ vô vàn tiền, đôla, vàng… của các quan chức đảng được thơ văn của các blog tự do gọi là «chặt đẹp, cắt, xẻo, thiến, múc» tài sản công, thực tế là cưỡng chiếm mồ hôi nước mắt của dân lao động và trí thức nước ta. Đã có vô kể triệu phú đôla mới trong hàng ngũ quan chức CS thời đổi mới và hội nhập, đàn sâu tệ hại nhất bòn rút tận xương tủy của toàn dân ta.

Đã có nhóm dân chủ yêu nước nào lập danh sách các tội phạm bán nước và biển thủ cỡ đầu sỏ để xử lý theo lòng dân trong thời kỳ hậu Cộng sản sẽ tới, như ở Đông Âu hơn 20 năm trước chưa? Để thêm kinh nghiệm, họ có thể tham khảo vụ án Tổng Bí thư Erich Honecker của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đông Đức bị tòa án Cộng hòa Liên bang Đức xét xử về tội biển thủ công quỹ sau ngày nước này thống nhất với Cộng Hòa Dân chủ Đức. Việc lập một danh sách như vậy, ngay từ bây giờ, là việc rất nên làm.

Công tác «dân vận» của đảng hiện nay là thế, nghĩa là làm ngược lại với phương châm trong nghị quyết dân vận là «kiên quyết làm mọi điều dân muốn, không làm bất cứ điều gì dân không muốn», thành ra là «kiên quyết làm mọi điều dân không muốn - nhưng ta muốn vì có lợi cho địa vị, bản thân và gia đình của ta», như  hèn với giặc, buông lỏng chống tham nhũng, và kiên quyết không làm điều dân muốn là chống bành trướng và quét thẳng tay bầy sâu tham nhũng lớn, minh bạch hóa nền tài chính quốc gia.

Nhân dân luôn đánh giá đảng từ việc làm, không từ phương châm trên giấy. Làm «dân vận» như lãnh đạo đảng đang làm - bổ sung vào cơ quan lãnh đạo 2 nhân vật «có công» như trên, sửa đổi Hiến pháp theo kiểu «hiếp dân», dự định thay tên nước kiểu cưỡng bách để trở về với cái tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có danh mà không có thực chất, lại mang nhiều tiếng xấu, đàn áp độc ác các thanh niên yêu nước chống bành trướng được toàn dân yêu mến - thì chỉ tổ làm cho toàn dân, từ lao động, nông dân đến trí thức dân tộc, nhà kinh doanh vừa và nhỏ, và cả đông đảo đảng viên CS ở cơ sở… thêm căm giận, phẫn nộ.

«Dân vận» như thế chỉ là tự diệt.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Mỹ không đưa VN vào 'sổ đen tôn giáo'


Ngoại trưởng John Kerry từng tham chiến tại Việt Nam.

Hoa Kỳ ra phúc trình nói Việt Nam có tiến bộ về tự do tôn giáo và không đưa Hà Nội vào danh sách Các nước gây quan ngại đặc biệt (CPC) thường niên 2012.

Trung Quốc, Bắc Hàn và Ảrập Saudi vẫn bị Hoa Kỳ giữ trong danh sách này.

Phúc trình về Tự do Tôn giáo Quốc tế là khảo sát của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đối với gần 200 nước, được ra lần đầu tiên cách đây 15 năm .

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry, được dẫn lời nói “Báo cáo này là thước đo rõ ràng và khách quan về thực trạng tự do tôn giáo trên toàn thế giới."

"Và khi cần thiết, báo cáo này có thể nêu tên một số nước bạn của Hoa Kỳ; cũng như một số quốc gia mà chúng tôi đang tìm cách tăng cường quan hệ mạnh hơn."
"Khi cần thiết, báo cáo này có thể nêu tên một số nước bạn của Hoa Kỳ; cũng như một số quốc gia mà chúng tôi đang tìm cách tăng cường quan hệ mạnh hơn"
John Kerry, Ngoại trưởng Hoa Kỳ

Đại sứ chuyên trách về chủ đề tự do tôn giáo Sausan Johnson Cook được dẫn lời cho biết có tiến bộ tại Việt Nam nơi chính phủ đã bắt đầu cho phép các cuộc tụ họp tôn giáo lớn với số 100.000 người trở lên.

Tuy nhiên một dân biểu của Đảng Cộng hòa nói Hoa Kỳ đáng ra phải đánh giá Việt Nam nghiêm khắc hơn.

Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ, cho biết "Việt Nam vẫn đàn áp tự do tôn giáo."

Trong một tuyên bố đưa ra ngay sau khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra báo cáo này, ông nói "Chính phủ Cộng sản Việt Nam không cho người dân được hưởng các quyền tự do cơ bản nhất."

Ông Royce đã đưa ra dự luật kêu gọi Bộ Ngoại giao khôi phục lại tình trạng bất lợi cho Việt Nam một lần nữa bằng cách tái liệt kê Hà Nội vào danh sách quốc gia cần quan ngại đặc biệt.

Phúc trình của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói Trung Quốc có chiến dịch qui mô trấn áp tự do tôn giáo bằng việc giam giữ, theo dõi và các kỹ thuật đàn áp khác.

Và báo cáo cho biết trong năm 2012 Bắc Hàn "xử lý mạnh tay với tất cả các đối tượng đối lập” và không khuyến khích các hoạt động tôn giáo có tổ chức.

'Quan ngại tầm chiến lược'



Chính khách Hoa Kỳ đã có các cuộc tiếp xúc với giới bất đồng chính kiến tại Việt Nam.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cho biết chính phủ các nước đàn áp tôn giáo không chỉ gây bất ổn cho chính họ mà còn tạo rủi ro cho các nước khác.

Tấn công tự do tôn giáo là "quan ngại cả về đạo đức lẫn an ninh quốc gia tầm chiến lược đối với Hoa Kỳ,” ông Kerry nói.

Vào tháng Ba năm nay, chính quyền ông Obama đã bày tỏ quan ngại về tình trạng "sa sút" của Việt Nam về nhân quyền và khẳng định rằng việc tiến tới tự do cá nhân là "nội dung then chốt" trong chính sách của Hoa Kỳ tại Á châu.

Năm 2012, không hài lòng về việc Việt Nam không cải thiện tình hình nhân quyền, Hoa Kỳ đã hoãn cuộc đối thoại nhân quyền thường niên.
"Các bản án này phần nào cho thấy một xu hướng đáng lo ngại là nhà chức trách Việt Nam sử dụng các tội danh trong các luật về an ninh quốc gia để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ vì họ bày tỏ quan điểm một cách ôn hoà"
Thông cáo của Mỹ về vụ xử tù hai sinh viên

Tổ chức Human Rights Watch tiếp tục đánh giá Việt Nam có nhiều vi phạm "thô bạo" và "nghiêm trọng" về nhân quyền, trong đó nhấn mạnh việc chính quyền tiếp tục "đàn áp, bắt bớ có hệ thống" các nhà hoạt động ủng hộ nhân quyền, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, các bloggers, cũng như giới bất đồng chính kiến ôn hòa.

Gần đây, sau vụ kết án nặng với blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) và bloggers khác cùng vụ án, chính quyền cũng bị chỉ trích là "nhắm mục tiêu" vào nhà hoạt động vì nhân quyền, luật sư Lê Quốc Quân thông qua việc bắt bớ đối với bản thân ông và một số người thân trong gia đình.

Vào ngày 17/05, Đại sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội ra thông cáo bày tỏ “quan ngại về việc một toà án Việt Nam đã kết án Đinh Nguyên Kha 8 năm tù giam và Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù giam với các tội danh chống chính quyền”.

“Các bản án này phần nào cho thấy một xu hướng đáng lo ngại là các nhà chức trách Việt Nam sử dụng các tội danh trong các luật về an ninh quốc gia để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ vì họ bày tỏ quan điểm một cách ôn hoà.

Bản thông cáo cũng “kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho những tù nhân lương tâm và cho phép tất cả người dân Việt Nam được bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách ôn hoà”.
(BBC)

Hoa Kỳ chỉ trích chính sách hai mặt về tôn giáo của Việt Nam

Hoa Kỳ : « Xu hướng chung của chính phủ Việt Nam trong năm qua là không có thay đổi nào đáng kể. Nhiều trường hợp chà đạp tự do tôn giáo kể cả hành vi câu lưu, giam giữ và kết án tù ».
Hoa Kỳ : « Xu hướng chung của chính phủ Việt Nam trong năm qua là không có thay đổi nào đáng kể. Nhiều trường hợp chà đạp tự do tôn giáo kể cả hành vi câu lưu, giam giữ và kết án tù ». (REUTERS)

Hiến pháp và luật pháp Việt Nam công nhận quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên trên thực tế chính quyền diễn giải tùy tiện và trong một số trường hợp đã giới hạn quyền tự do tín ngưỡng. Trên đây là nhận định của bản phúc trình về vi phạm tự do tôn giáo năm 2012 tại Việt Nam do bộ ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 20/05/2013.

Bộ ngoại giao Mỹ vừa công bố báo cáo 2012 về tình hình tự do tôn giáo trên thế giới . Phần 7 trang dành Việt Nam, Hoa Kỳ nhận định là « xu hướng chung của chính phủ Việt Nam trong năm qua là không có thay đổi nào đáng kể. Nhiều trường hợp chà đạp tự do tôn giáo kể cả hành vi câu lưu, giam giữ và kết án tù ». Tại các tỉnh và vùng xa xôi, chính quyền địa phương sử dụng biện pháp hành chánh nhiêu khê để sách nhiễu tín đồ Thiên chúa giáo. Tình trạng người theo đạo bị phân biệt đối xử vẫn tồn tại.

Bản báo cáo liệt kê một danh sách dài về các sự kiện tiêu cực trong cách thi hành pháp luật tại Việt Nam. Cụ thể là vào cuối năm 2012, chính phủ ra sắc lệnh mới về đăng ký hoạt động tôn giáo với mục tiêu được công bố là làm giảm bớt thời gian chờ đợi. Tuy nhiên trên thực tế sắc lệnh này tạo điều kiện cho chính quyền địa phương « can thiệp vào sinh hoạt tôn giáo, học tập giáo lý, đào tạo nhân sự … » và mặc khác vẫn còn phải chờ « nghị định hướng dẫn thi hành » vào cuối năm nay 2013.

Chính quyền Việt Nam tiếp tục bất chấp những quy định tôn trọng tự do tôn giáo có ghi trong Hiến pháp. Những hội thánh Tin lành hay tổ chức Phật giáo không được nhà nước công nhận, mặc dù đã tuân thủ pháp luật nộp đơn xin hoạt động, tiếp tục bị sách nhiễu, trừng phạt. Bản báo cáo đương cử trường hợp chính quyền tỉnh An Giang tiếp tục truy bức nhân sự của Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo Thuần túy.

Tháng 7/2012, tín đồ Bùi Văn Thâm bị bắt và bị kết án hai năm sáu tháng tù với tội danh « chống nhà nước ». Đến tháng 10, bắt luôn người cha là Bùi văn Trung. Ở Pleiku, mục sư Tin lành Nguyễn Công Chính bị kết án 11 năm tù trong phiên xử phúc thẩm vào tháng 11/2012 với tội danh « phá hoại đoàn kết dân tộc ». Còn ở Sóc Trăng, nhà sư Thạch Thoul, người Việt gốc Khmer bị quy tội tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam với báo chí nước ngoài và bị ép buộc « hoàn tục ».

Chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục gây khó khăn cho Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tháng 8 năm ngoái, công an bao vây chùa Liên Trì ở quận 2 TP HCM, cản trở Thượng tọa Không Tánh tổ chức một buổi lễ có sự tham gia của nhiều cựu chiến binh, thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Chùa Giác Minh ở Đà Nẵng cũng bị bao vây, sư trụ trì bị «tố » nhận tiền của nước ngoài.

Ngay những Giáo hội được chính thức hoạt động, được chính quyền công nhận cũng bị giới hạn sinh hoạt. Tháng ba năm 2012, một phái đoàn tín hữu Công giáo bị cấm xuất cảnh sang Ý dự lễ phong thánh cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Tháng tư, dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn bị chính quyền thành phố Hồ Chí Minh buộc phải cung cấp giấy tờ, cản trở lễ tấn phong linh mục của 7 tu sĩ.

Danh sách những vụ vi phạm quyền tự do tôn giáo rất dài, trải rộng từ bắc xuống nam, từ tín đồ Tin lành người Hmong bị truy bức đến giáo dân Cồn Dầu bị đuổi đất. Tuy nhiên, tác giả bản báo cáo, trong phần cuối cũng ghi nhận 4 trường hợp được xem là « có cải thiện ». Đó là lần đầu tiên chính quyền cho phép 20 tín đồ đạo Bahai sang Israel dự đại hội. Trong tháng 7 và 8, có 20 hội thánh Tin lành ở Tây nguyên được đăng ký. Tháng 8, chính quyền Hà Nội trả lại 500 mét vuông đất cho nhà thờ thánh Phêrô…

Bộ ngoại giao Mỹ khẳng định là sứ quán Mỹ tại Hà Nội và tòa lãnh sự tại thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên đối thoại và khuyến khích chính quyền Việt Nam nới rộng tự do tôn giáo. Nhân viên ngoại giao Mỹ cũng tiếp xúc thường xuyên với các nhà lãnh đạo tôn giáo kể cả những tu sĩ bị áp bức trực tiếp. Bộ Ngoại giao Mỹ kêu gọi Hà Nội tiếp tục cải thiện nhân quyền.
Tú Anh (RFI)

Nhà khoa học Mỹ liên quan đến tập đoàn Hoa Vi tại Singapore bị sát hại

Rick Todd,  cha của nhà khoa học Shane Todd tại Singapore ngày 17/5/ 2013.
Rick Todd, cha của nhà khoa học Shane Todd tại Singapore ngày 17/5/ 2013. (REUTERS/Edgar Su)

Một bác sĩ pháp y Mỹ hôm nay 21/05/2013 khẳng định nhà nghiên cứu Mỹ Shane Todd làm việc tại Singapore về một hồ sơ nhạy cảm đối với tập đoàn viễn thông Trung Quốc Huawei (Hoa Vi) đã bị sát hại chứ không phải đã tự tử như kết luận trước đó của cảnh sát.

Bác sĩ pháp y Edward Adelstein ở Missouri, Hoa Kỳ đã khẳng định bằng văn bản trong khuôn khổ cuộc điều tra được tiến hành từ một tuần qua: “Nguyên nhân cái chết của ông Shane Todd là do bị thắt cổ.Tôi kết luận nạn nhân đã bị sát hại”.

Một thẩm phán Singapore đã phản đối mạnh mẽ kết luận này, tuy bản thân nhìn nhận là chỉ dựa trên cơ sở các hình ảnh của xác chết và các thông tin gián tiếp. Tuyên bố của thẩm phán trên đã thúc đẩy cha mẹ của Shane Todd tẩy chay phiên tòa, nói rằng họ đã “mất lòng tin” vào cuộc điều tra.

Theo giải phẫu pháp y, Shane Todd, người kỹ sư điện tử Mỹ 31 tuổi bị phát hiện chết trong tư thế treo cổ ở Singapore vào tháng 6/2012, đã tự tử. Ngược lại, cha mẹ nạn nhân tin rằng Shane Todd đã bị ám sát. Nhà nghiên cứu này đã tỏ ra lo ngại cho tính mạng của mình, sau khi làm việc cho Institut of Microelectronics (IME) về một dự án siêu nhạy cảm liên quan đến tập đoàn Trung Quốc Huawei (Hoa Vi).

Tập đoàn Huawei, nhà cung cấp thiết bị viễn thông đứng thứ nhì thế giới bị một số dân biểu Mỹ nghi ngờ là có quan hệ với chính quyền Bắc Kinh, cho đây là mối nguy cho an ninh của Mỹ.

Theo bác sĩ Edward Adelstein, thì ông Todd là “một nhân vật hết sức nguy hiểm” cho Huawei và IME, nên đã “bị những kẻ giết mướn sát hại” – tuy không đưa ra được bằng chứng cụ thể. IME và Huawei cải chính là không làm việc trong một dự án chung mà Shane Todd có tham gia.

Phiên tòa công khai sẽ kết thúc vào ngày 28/5 và kết luận sẽ được đưa ra từ nay đến cuối tháng Sáu. Cuộc điều tra trên đây chỉ nhằm xác định nguyên nhân của cái chết, chứ không nhằm quy trách nhiệm. Nếu được khẳng định đây là một vụ giết người, thì sẽ có các cuộc điều tra riêng rẽ để tìm ra thủ phạm.
Thụy My (RFI)
 

Việt Nam: Hàng ngàn người ký kiến nghị đòi trả tự do cho Phương Uyên và Nguyên Kha

Hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha
Hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha

Chỉ mới xuất hiện trên mạng từ tối qua, đến sáng nay 21/05/2013 bản kiến nghị đòi trả tự do cho hai thanh niên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đã thu hút được hàng ngàn chữ ký trong và ngoài nước.

Hôm 16/05/2013, tòa án tỉnh Long An đã tuyên án Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù, 3 năm quản thúc, và Đinh Nguyên Kha 8 năm tù, 3 năm quản thúc. Bản kiến nghị trên viết : « Hai thanh niên yêu nước này bị kết án vì đã chống mưu đồ và hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền nước ta, chống bọn tham nhũng đang phá hoại đất nước, mặc dù họ chỉ dùng những biện pháp ôn hòa phù hợp với Hiến pháp Việt Nam và Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ».

Nhấn mạnh đến « Thái độ và lời phát biểu của hai thanh niên đó trước tòa biểu thị trí tuệ và khí phách của thế hệ trẻ nặng lòng vì nước, không khuất phục trước cường quyền », bản kiến nghị nhận định : « Bản án này khiến dư luận xã hội bất bình, thế giới lên án, chỉ làm hài lòng những kẻ có mưu đồ bành trướng xâm hại Việt Nam ». Những người ký tên trong kiến nghị kêu gọi « nhà cầm quyền trả tự do cho Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha và những người yêu nước ôn hòa đã bị kết án và tù đày trong thời gian qua ».

Tuy chỉ mới được đưa lên mạng từ tối qua, nhưng đến sáng nay đã có gần một ngàn chữ ký trực tuyến của nhiều giới trong và ngoài nước. Trong đó có các thân hào nhân sĩ, những khuôn mặt hoạt động phong trào trước 1975, các nhà văn, nhà báo, nhà khoa học tên tuổi, cũng như những người lao động bình thường đang sinh sống tại Việt Nam và nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Thụy My (RFI)

Chính quyền phớt lờ mọi góp ý của dân

Vào chiều ngày khai mạc kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa 13, ông Phan Trung Lý, chủ nhiệm Ủy ban Pháp Luật, trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp đọc báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của nhân dân và chỉnh lý dự thảo sửa đổi hiến pháp.
Theo đánh giá của nhiều người thì bốn vấn đề căn bản trong dự thảo sửa đổi hiến pháp mà ông Phan Trung Lý nêu ra không có gì thay đổi so với trước.
Gia Minh nêu vấn đề với luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, và trước hết ông này lý giải vì sao lại như thế.
Luật gia Lê Hiếu Đằng: Tôi nghĩ rằng họ sợ. Qua vụ án em Phương Uyên, rồi những vụ án khác; họ tăng cường khủng bố, tăng cường đánh đập, bắt bớ người dân khi có biểu tình, có họp mặt … Điều đó chứng tỏ càng ngày Đảng, Nhà Nước thiếu chính nghĩa, do đó phải thi hành những biện pháp trấn áp. Họ lo sợ mất chế độ… Họ phải sử dụng biện pháp có thể nói là cưỡng ép người dân. Họ cưỡng ép rất tinh vi, chứ không phải trắng trợn đâu. Thật ra trong chế độ này ai cũng sợ bị gây khó khăn nếu không tán thành với điều này, điều kia…
Thành ra, tôi cho xuất phát từ sự thiếu tự tin do những sai lầm, khuyết điểm và hiện nay mất lòng dân nhiều nên họ sợ mất chế độ, mất đảng. Vì vậy họ vẫn duy trì những điều cũ kỹ của những đầu óc lạc hậu. Như quê hương của Cách Mạng Tháng Mười, Liên Xô sụp đổ đã lâu rồi, thế mà bây giờ (VN) vẫn giữ những giáo điều cũ rích, thế là sao? Tôi cho rằng phải trở về với dân tộc. Lịch sử trước đây, thôi không nói nữa; hiện nay chúng ta có điều kiện nhận thức lại nhiều vấn đề trong lịch sử, phải trở lại với dân tộc, đất nước; đặt lợi ích đất nước lên trên. Còn nếu vì lợi ích của nhóm, của cá nhân, hay vì lợi ích của chế độ mà đang ngăn cản sự phát triển của đất nước, đến lúc nào đó sẽ có những biến động bất lợi mà không ai muốn cả.
_MG_1427-305.jpg
Một viên chức nhà nước đang băng qua đường, ảnh minh họa.
RFA photo
Không hy vọng một sự thay đổi
Gia Minh: Có những người có suy nghĩ tích cực là sẽ có những thay đổi xảy ra, nhưng cũng có người suy nghĩ tiêu cực cho rằng với tình hình thế này, với nỗi sợ quá lớn trong xã hội như vậy, thì xoay chuyển khó lắm. Ông nghĩ sao về ý kiến ở hai thái cực như thế?
Luật gia Lê Hiếu Đằng: Theo suy nghĩ của tôi thì chúng ta không mong gì có thay đổi ở một nhà nước toàn trị cả, vì bây giờ chính quyền đang gắn liền với các tập đoàn lợi ích; do đó chúng ta không mong gì có sự thay đổi căn bản cả. Nếu có thay đổi chỉ là râu ria thôi, còn căn bản thì không.
Vì vậy theo quan điểm của tôi là phải tiến hành đấu tranh. Cuộc đấu tranh nào sẽ xảy ra khi đòi hỏi của người dân ngày càng cao, áp bức ngày càng nhiều, người ta càng đấu tranh. Từ đấu tranh đó sẽ xây dựng một xã hội dân sự, một xã hội công dân đủ mạnh để tạo áp lực trở lại với chính quyền. Từ đó chúng tôi rất mong điều gọi là ‘kịch bản một’: trong chính quyền với áp lực như vậy, cọng với tình hình thế giới hiện nay, trào lưu tiến bộ, trào lưu đang đòi hỏi nhân quyền và dân quyền càng cao, thì sẽ có chuyển biến trong nội bộ đảng và nhà nước, sẽ có một số nhân vật người ta phải suy nghĩ lại.
Một nguy hiểm hiện nay từ lãnh đạo cho đến cấp dưới là sự dối trá, không trung thực. Một xã hội dối trá và không trung thực thì hỏng cả. Theo tôi nghĩ hiện nay, những người còn có suy nghĩ, còn có tấm lòng yêu đất nước thì phải dũng cảm, dám nói lên tiếng nói của mình và từ bỏ cuộc sống hai mặt, để trở thành người tử tế, người tôn trọng sự thật như truyền thống trước đây cha ông chúng ta đã nêu ra. Chứ đừng chấp nhận sống vật vờ và dối trá, mà điều nguy hiểm nhất là làm hư hại cả một thế hệ trẻ. Rất mừng là hiện nay có những em trẻ như Phương Uyên, Nguyên Kha và những sinh viên khác như ba em ở trường luật lập ra trang mạng bảo vệ công lý cho Đoàn Văn Vươn. Nhưng cách làm của các bạn trẻ hiện nay còn có hạn chế, khác với chúng tôi thuộc thế hệ chống Pháp và chống Mỹ.
Gia Minh: Giới trí thức Việt Nam vừa qua cũng có những hoạt động mạnh mẽ, lên tiếng thẳng thẳn, trực tiếp, vậy sắp đến cần phải làm gì thêm nữa để có thể đạt được những điều mới nói?
Luật gia Lê Hiếu Đằng: Nếu so với trước đây thì nay có những chuyển biến, đặc biệt giới trẻ nay có những hoạt động công khai để nói lên tiếng nói của họ ví dụ Tuyên bố của Công dân Tự do và vừa rồi hai buổi chủ nhật dù bị đàn áp nhưng vẫn diễn ra những buổi trao đổi về nhân quyền, dân quyền. Tôi xin nhấn mạnh hiện nay, người ta đang chống lại những khuynh hướng của các nhà nước độc tài, toàn trị và độc tài tuyên truyền bằng cách nêu cao dân quyền, nhân quyền, cũng như bảo vệ môi trường.
Đó là xu hướng tiến bộ trên thế giới. Vì vậy, vừa rồi các em đi sinh hoạt về Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và bị đánh đập nhưng các em vẫn làm. Tôi cho rằng trong xã hội đang dần dần hình thành những khuynh hướng, những tổ chức nhất định để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của đất nước, đấu tranh bảo vệ quyền lợi nhân dân; trong đó có đấu tranh chống lại sự xâm lược của nhà cầm quyền Trung Quốc. Tất nhiên khi làm như thế phải chấp nhận bị bắt bớ, bị trả thù như em Phương Uyên.  Chúng tôi những người đang đấu tranh chấp nhận điều đó và tin rằng những bản án đó chỉ có tác dụng kích thích nhiều người mạnh dạn hơn nữa.
Gia Minh: Cám ơn Luật gia Lê Hiếu Đằng.
Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-05-21

Khi ý kiến người dân bị “bỏ sọt rác”

Sửa đổi hiến pháp năm 1992 được Quốc hội cho biết là một trong những vấn đề quan trọng tại kỳ họp khai diễn vào ngày 20 tháng 5 sau một thời gian kêu gọi công dân góp ý.
Tuy nhiên theo nhiều người thì đã có câu trả lời qua phát biểu của ông Phan Trung Lý, chủ nhiệm Ủy ban Pháp Luật, ủy viên Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp, trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi hiến pháp hồi chiều ngày 20 tháng 5 tại hội trường Quốc hội.
Vẫn như cũ
Báo cáo và giải trình tiếp thu ý kiến nhân dân và chỉnh lý dự thảo sửa đổi hiến pháp được ông Phan Trung Lý trình bày trước Quốc hội vào ngay chiều khai mạc kỳ họp thứ năm, Quốc Hội khóa 13.
Theo báo cáo của ông Phan Trung Lý thì trong thời gian từ khi hoạt động góp ý bắt đầu vào ngày 2 tháng giêng năm nay cho đến lúc tổng kết, ủy ban này nhận được trên 26 triệu lượt người góp ý kiến cho dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992. Cơ quan chức năng tổ chức hơn 28 ngàn hội thảo góp ý như thế.
Và báo cáo của ông Phan Trung Lý cũng được đề cập đến bốn vấn đề lớn được nhiều người nói đến là tên nước, vai trò của Đảng Cộng sản, vai trò của quân đội và quyền sở hữu đất đai Theo báo cáo tổng kết của ông Phan Trung Lý thì hầu như các ý kiến đóng góp đều theo hướng là giữ nguyên tên nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay. Ông này còn nói thêm nếu thay đổi tên nước vào thời điểm này có thể đưa đến những hệ quả bất lợi, thậm chí bị xuyên tạc xa rời mục tiêu, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội; cũng như từ đó gây phát sinh nhiều thủ tục tốn kém.
Về ý kiến đối với Điều 4 qui định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì ông Phan Trung Lý nói các ý kiến mà ủy ban của ông tiếp thu cho rằng giữ điều 4 là cần thiết.
Đối với vai trò của lực lượng vũ trang, thì chỉ có đảo một số chữ nhưng giữ nguyên điều 70 ghi trong dự thảo. Theo đó lực lượng vũ trang nhân dân ngoài việc tuyệt đối trung thành với Tổ quốc vẫn phải tuyệt đối trung thành với Đảng.
Riêng vấn đề quyền sở hữu đất đai, ông Phan Trung Lý cho rằng đây không phải là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị- xã hội nên ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp đề nghị quốc hội giữ nguyên khái niệm sỡ hữu toàn dân.
Ngay sau khi bài phát biểu của ông Phan Trung Lý được công khai trên những phương tiện thông tin đại chúng, nhiều trang mạng đã đưa lên ý kiến của một số người quan tâm kết luận là như vậy mọi điều cơ bản vẫn như cũ, không có gì thay đổi.
Blogger Đào Tuấn cho rằng ‘điểm mới nhất trong bản dự thảo lần này có thể tóm gọn trong 4 chữ ‘tiếp tục giữ nguyên’ đối với những vấn đề cơ bản nhất.
qh-1-305.jpg
Kỳ họp thứ năm, Quốc Hội khóa XIII hôm 20/05/2013.
Courtesy chinhphu.vn
Thiếu lắng nghe
Sau khi chính ông Phan Trung Lý lên tiếng hồi tháng 12 năm ngoái rằng mọi người dân được kêu gọi góp ý cho dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992 và việc góp ý không có ‘vùng cấm’, nhiều người quan tâm đã hưởng ứng lời kêu gọi đó. Nhóm 72 nhân sĩ trí thức đã ra một bản góp ý với 7 điểm cụ thể đề ngày 19 tháng 1 năm 2013. Đến ngày 4 tháng 2, một nhóm đại diện do ông cựu bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc dẫn đầu đã đến văn phòng Ban dự thảo sửa đổi hiến pháp của Quốc hội để trao bản kiến nghị đó.
Một số tổ chức tôn giáo như Hội Đồng Giám mục Việt Nam cũng có thư nhận định và góp ý cho dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992. Nhóm Công dân Tự do cũng có góp ý với những đề xuất mạnh mẽ như phải cho trưng cầu dân ý về Hiến Pháp thực sự của người dân… Nội dung của những góp ý vừa nêu về bốn điểm mà ông Phan Trung Lý báo cáo trước Quốc hội vào chiều ngày 20 tháng 5 vừa qua hầu như hoàn toàn trái ngược.Những góp ý được đưa ra là phải bãi bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, cần có đa nguyên - đa đảng để cạnh tranh công bằng; ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp phải độc lập với nhau để tránh lộng quyền; và đất đai không thể là thuộc sở hữu toàn dân, thống nhất do Nhà nước quản lý như lâu nay khiến nảy sinh vố số những thảm cảnh cưỡng bức thu hồi, đền bù rẻ mạt dẫn đến khiếu kiện dai dẳng bấy lâu nay…
Gây thất vọng
Sau khi có những phản công từ phía truyền thông Nhà Nước đối với Bản kiến nghị góp ý của 72 nhân sĩ, trí thức về sửa đổi dự thảo hiến pháp năm 1992, rồi việc phát tờ góp ý đến từng hộ dân với gợi ý cho mục đồng ý… nhiều người lên tiếng nhận định hoạt động kêu gọi góp ý cho dự thảo sửa đổi hiến pháp chỉ là một trò mang tính hình thức, thậm chí là lừa bịp người dân. Ông Nguyễn Thượng Long, một cựu giáo viên và là người tham gia công cuộc đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam hiện nay từng phát biểu:
“Tôi nghĩ rằng đồi với người dân Việt Nam trước khi người ta bày tỏ góp ý cho hiến pháp thì về phía ban lãnh đạo Việt Nam về phía Đảng, Nhà Nước, Chính quyền cũng cần phải có sự chuẩn bị. Sự chuẩn bị hầu như không có gì cả. Ít nhất là lãnh đạo phải nói thẳng, nói thực với nhân dân về thực trạng đất nước hiện nay thế nào. Tình trạng của đất nước đứng trước người Trung Quốc như thế nào. Không thể giấu nhân dân bất cứ điều gì; chứ còn những điều nói với nhân dân không hết, chưa hết, thậm chí còn nói ngược nhiều vấn đề thì sự góp ý chắc chắn sẽ không thể nào mỹ mãn, nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng. Mà có bao nhiêu người dân quan tâm đâu khi mà cuộc sống phải luôn đối diện với ‘miếng cơm, manh áo’; thì có bao nhiêu người trong 90 triệu dân này đau đáu với ‘khế ước xã hội’.
Sự chuẩn bị không kỹ càng dễn dàng rơi vào hình thức, và cũng không có gì khác so với những dự thảo lần trước. Đó là điều rất buồn cho nhân dân chúng tôi.”
Đối với báo cáo của ông Phan Trung Lý, tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên tức blogger Gốc Sậy, có bài đăng trên mạng với tựa để ở thế nghi vấn ‘Ông Phan Trung Lý xổ toẹt tất cả các đóng góp sửa đổi hiến pháp?’ Ts Nguyễn Hồng Kiên chất vấn ‘tại sao chủ nhiệm ủy ban pháp luật và là người phát ngôn của ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992, Phan Trung Lý lại có thể phủ nhận tất cả các kết quả đóng góp sửa đổi hiến pháp khi bảo ‘không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng’. Ts Nguyễn Hồng Kiên tiếp tục cho thấy ông Phan Trung Lý bỏ qua Hội nghị góp ý về dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 do Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hồi ngày 19 tháng 2 tại đó ông Hoàng Thái, nguyên ủy viên Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam nêu vấn đề Nhà Nước, Quốc hội, Mặt trận đều có luật nên cần phải có luật về Đảng để công khai, minh bạch, tránh tùy tiện.
Theo Ts Nguyễn Hồng Kiên một ý kiến khác cũng bị ông Phan Trung Lý bỏ qua là của ông Lê Quang Vinh, nguyên phó tổng thư ký UB Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc VN cho rằng nếu không ban hành luật về Đảng thì cũng chỉ là khẩu hiệu, mệnh lệnh mà thôi.
TS Nguyễn Hồng Kiên cho rằng ông Phan Trung Lý còn ‘bỏ sọt rác’ cả ý kiến của giáo sư Nguyễn Quang Thái, tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế khi góp ý phải có một đạo luật về hoạt động của Đảng để giám sát, phản biện như thế sẽ giúp giảm một bộ phận không nhỏ những đảng viên cán bộ thoái hóa biến chất như ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng thừa nhận.
Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-05-21

Hậu HNTW 7: Điềm gở, một cú thở hắt ra của quá khứ

Cơn ớn lạnh trong một ngày 40 độ
Cách đây một tuần, tác giả bài này có bình luận về những thay đổi không thể chối cãi diễn ra gần đây trong văn hoá chính trị Việt Nam, và kết luận mà không cần giả định nào về tương lai, rằng nền chính trị Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới. Và hôm nay tôi vẫn giữ quan điểm của tôi, là Việt Nam đang ở một vị thế mới và người Việt Nam đang cất lên tiếng nói chính trị của họ.
Giờ đây có những dấu hiệu cho thấy là chiếc giày còn lại đã rơi (thành ngữ chỉ một việc không tránh khỏi đã xảy ra, một kết cục đã đến), bởi vì chỉ trong có nửa tháng sau khi Hội nghị 7 của Ban Chấp hành Trung ương bế mạc, chúng ta đã chứng kiến một loạt diễn biến cho thấy một nỗ lực “đàn áp” có thể đang diễn ra thật sự.
Tin mới nhất, chỉ vừa cuối tuần trước, là sẽ không có tin tức nào không bị kiểm soát, cho đến khi BBC, CNN và các hãng tin nước ngoài khác chịu tuân thủ yêu cầu về giấy phép hoạt động ở Việt Nam, như quy định trong Nghị định 20. Các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cáp quốc doanh đã vừa chấm dứt hoạt động (thành ngữ: rút phích cắm, chỉ sự kết thúc một kế hoạch, cắt đứt một nguồn sống…) của những hãng tin ngoại quốc.
Điều này xảy ra chỉ vài ngày sau khi hai thanh niên bị kết án tù rất nặng vì tội dán cờ của “các chế độ cũ” (dán cờ phía dưới một khẩu hiệu đối đầu với hành vi cư xử của Trung Quốc trên Biển Đông Nam Á), và một ngày sau kỷ niệm sinh nhật của ông Hồ Chí Minh, khi thanh niên trên khắp Việt Nam (không phải chỉ ỏ Hải Phòng) diễu hành với các khẩu hiệu, bảng chữ tuyên xưng niềm yêu kính và ngưỡng mộ theo đúng chỉ thị của họ đối với các cống hiến vĩ đại của ông Hồ.
Tuy nhiên, cách cư xử của đảng cầm quyền ở Việt Nam có vẻ mâu thuẫn với các nguyên tắc được nêu trong Tuyên ngôn Độc lập của ông Hồ, theo đó, ông mượn một câu từ Quyền con người để nói rằng “tất cả mọi người đều sinh ra tự do và có quyền bình đẳng”.
Ở đâu đó có những nhận định rằng dập tắt các kênh tin tức là một nỗ lực của các cơ quan chức năng có liên quan nhằm làm tăng khả năng truy cập vào các trang này và kiếm tiền nhanh cho một số người có khả năng dịch tốt, bằng cách bắt buộc các chương trình truyền hình quốc tế phải có phụ đề ở một tỷ lệ nội dung nào đó.
Một khả năng khác, đã được bóng gió ở trên, là đây thật ra là sự bắt đầu của những kế hoạch hưởng ứng lời kêu gọi thắt chặt kiểm soát, như đã được nêu ra trong phiên họp toàn thể gần đây của đảng. Khả năng thứ ba và gây tò mò nhất, cũng lại chỉ là suy đoán, là chấm dứt hoạt động của các kênh tin tức ngoại quốc chủ yếu vì những nỗ lực muộn màng của nhà nước hoặc của các quan chức nhà nước cụ thể nào đó nhằm làm giảm bớt khó khăn của ban lãnh đạo đảng trước các công dân của họ và trước thế giới, khi mà họ vừa có bản án quá nặng đối với hai người trẻ. Người ta có thể hình dung cảnh một quan chức cao cấp phun phì cả nước trà khi đang xem truyền thông quốc tế đưa tin về bản án, và sau đó là một cú phôn ngắn gọn, vào lúc khuya, với một giọng khàn khàn: “Chấm dứt đi!”.
Bản án, không còn nghi ngờ gì nữa, được sự tán thành của các phần tử thủ cựu canh giữ trong đảng, có quyền trấn áp, và cũng phải thừa nhận là nó được sự ủng hộ của một số đáng kể dân số – những người đánh đồng lá cờ vàng với bạo lực thời chiến và xung đột dân sự. Nhưng bản án quá nặng và không có lợi gì cho hình ảnh quốc gia, ở trong nước cũng như nước ngoài.
Bây giờ đang là thời điểm thú vị ở Việt Nam. Văn hoá chính trị đã phát triển và đang có sự bất mãn đáng kể ngay trong nội bộ đảng, về việc làm thế nào giải quyết tình hình hiện nay. Chuyện phe phái trong đảng tất nhiên là chẳng phải cái gì mới mẻ. Và sự đa nguyên trong nội bộ đảng đó, nếu nó đi xa hơn, thật sự có thể có lợi cho quá trình dân chủ hoá, cho dù dưới hình thức nào. Tất nhiên, đa số dân chúng Việt Nam hy vọng có một kết quả như thế.
Hôm thứ hai tại Hà Nội nóng tới 40 độ C. Nhưng một cơn gió lạnh vừa tạt qua. Đấy là điềm gở về một mặt trận đang đến gần hay một cú thở hắt ra của quá khứ, chúng ta sẽ chờ xem.
May 21, 2013
Jonathan London
(Jonathan London)

Trần Kinh Nghị - Lựa chọn nào cho chính trường Việt Nam?


Hội nghị TW 7 chưa  hoàn toàn kết thúc, nhưng những gì diễn ra  từ sau Đại hội Đảng lần thứ XI đang cho thấy một tình hình mới hiếm có trong chính trường đất nước, đó là sự bất đồng giữa Trung ương và Bô Chính trị xung quanh chủ đề nhân sự và chiến dịch chống tham nhũng. Điều này được thể hiện qua kết quả của Hôi nghị TW 6 và Hội nghi TW 7 cách nhau không đầy một năm. Tại Hội nghị TW 6 đã bỏ phiếu đa số tuyệt đối bác bỏ nghi quyết của Bộ Chính trị về việc "thi hành kỷ luật một ủy viên bộ Chính trị...". Và mới đây tại Hội nghị TW 7 lại bác bỏ danh sách đề cử bổ sung nhân sự của Bộ Chính trị, trong đó có nhân vật chủ chốt Nguyễn Bá Thanh-người đang giữ chức Trưởng Ban Nội chính Trung ương (tức cơ quan chỉ huy chống tham nhũng) và do đó rất cần thiết có chân trong Bộ Chính trị để phát huy đầy đủ quyền lực. Đó là những dấu hiệu cho thấy sự mâu thuẩn đến mức nào và không chỉ giữa các thế lực lãnh đạo chóp bu mà còn giữa các trào lưu tư tưởng và lợi ích trên quy mô toàn quốc.
Có thể nói, đại đa số người dân Việt Nam không tránh khỏi cảm giác thất vọng trước diễn biến tình hình nói trên.Với  lòng tin sâu sắc rằng tham nhung là nguyên nhân chính ngăn cản bước tiến của đất nước và được Đại Hôi Đảng XI tái xác nhận "đang đe dọa sự tồn vong của chế độ", người dân đặt kỳ vọng vào chiến dịch chống tham nhũng do vị Tổng Bí thư (được hiểu là Đảng và Nhà nước) phát động. Đó cũng là lý do để người dân cảm thấy thất vọng về vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời bất bình trước sự cố kết của các thế lực tham nhũng đang ăn tan phá hoại nền kinh tế đất nước với những hậu quả không thể chối cãi. Nhiều ý kiến quả quyết rằng "bác Tổng đi sai nước cờ" hoặc do "thiếu quyết đoán" nên đã thất bại ... Dĩ nhiên, trong khi ván cờ còn chưa đến hồi kết thúc, thì ai đó  vẫn có quyền hy vọng... Nhưng đối với những người xem bên ngoài thì thắng thua coi như đã rõ. Và cảm nhận chung là một sự bi quan bao trùm.
Tuy nhiên, còn một "cách tiếp cận win-win" khác xem ra cũng rất  có lý. Đó là hãy coi tình hình hiện nay như một hình thái mới xuất hiện trong chính trường Việt Nam, mà từ đây sẽ có thể dẫn đến những thay đổi theo hướng tích cực. Cơ sở cho cách tiếp cận này là dựa vào quy luật tiến hóa: Những gì đã lỗi thời sớm muộn cũng phải bị đào thải để nhường chỗ cho cái mới phát huy. Cách tiếp cận này cho rằng trong chính trường Việt Nam lâu nay mọi thứ thường diễn ra một hướng và bao giờ cũng êm đềm trong bối cảnh  chẳng có đối lập cũng không có cánh tả, cánh hửu hay quân đỏ, quân đen... thì  sự kiện đấu đá nội bộ vừa xảy ra giữa Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị đúng là một hiện tượng  mới, thậm chí đáng lo ngại (đến nỗi ông Tổng Bí thư cũng phải khóc đấy thôi!). Nhưng, so với thế giới thì đó là một hiện tượng rất bình thường. Đúng ra, nên coi đó là hiện tượng lành mạnh hiếm có trong chính trường Việt Nam để lấy đó làm niềm an ủi và cảm hứng. Có người mô tả nó như cuộc đấu giữa "Phủ chúa" và "Cung vua" nghe khá hình tượng.  Nhưng nếu gọi đó là cuộc đấu giữa  "Nhóm lợi ích"  và "Nhóm bảo thủ" thì có lẽ chính xác hơn. Thực ra hai nhóm đó chẳng nhóm nào tốt hơn nhóm nào. Nhưng vào lúc này nếu có thể lựa chọn thì người ta nên lựa chọn cái "ít xấu hơn", đó là Nhóm lợi ích. Lý do đơn giản là vi dù sao nhóm này đã "ăn đủ" rồi và hi vọng bọn họ ít nhiều đã hiểu được cái giá phải trả cho sự tham nhũng(?). Còn Nhóm bảo thủ như thường lệ quá đề cao lý thuyết chính trị là thống soái và xa rời với thực tế. Họ tưởng có thể chống tham nhũng bằng thứ vũ khí "phê và tự phê" trong khi vẫn duy trì cơ chế và luật lệ đã bị bản thân coi  là "bất cập" từ lâu rồi.   
Đó là nói trong trường hợp có thể chọn lựa.  Nhưng e rằng không dẽ diễn ra kịch bản lựa chọn như vậy! Bởi lẽ luôn còn đó nguy cơ của sự thỏa hiệp giữa Nhóm bảo thủ và Nhóm lợi ich như nó vốn vẫn diễn ra. Và sự thỏa hiệp còn nguy hại hơn nhiều. Đó cũng là nguyên nhân của tình trạng tiến thoái lưỡng nan thường thấy trong chính trường Việt Nam lâu nay./. 
Trần Kinh Nghị
(Blog Trần Kinh Nghị)

Global Witness tái khẳng định Hoàng Anh Gia Lai đã vi phạm pháp luật

hagl-cambodia
Một khu rừng ở Campuchia được giao cho tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai khai phá để trồng cao su.
Thông cáo báo chí của tổ chức Global Witness ra ngày hôm qua 20/5, một lần nữa khẳng định rằng việc trồng cao su của tập đoàn HAGL tại Lào và Campuchia do ông Đoàn Nguyên Đức làm chủ có vi phạm pháp luật, gây ra những tác động xấu tới người dân và môi trường tại các quốc gia này. Global Witness khẳng định tính xác thực và bằng chứng đã đưa ra.
Global Witness cho biết họ có tài liệu về những vi phạm pháp lý mang tính hệ thống của HAGL tại cả Campuchia và Lào trong năm 2012. Các dẫn chứng nêu trong báo cáo ‘Rubber Barons’ (những ông trùm cao su) cho thấy HAGL đã thu nạp những diện tích đất lớn, gấp khoảng năm lần mức giới hạn cho phép theo pháp luật ở Campuchia, và đã tỏ ra không cần biết tới các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và xã hội, gây ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của người dân và rừng tự nhiên ở địa phương.
Ngoài ra, Global Witness cũng trích lời bà Megan MacInnes cho rằng “Thay vì nhìn nhận các bằng chứng đưa ra trong báo cáo và cải thiện cuộc sống cho hàng trăm người bị ảnh hưởng ở địa phương, HAGL dường như chỉ tìm cách bảo vệ hình ảnh của mình trước công chúng.”
Global Witness cũng cho biết họ đã gặp gỡ với đại diện của HAGL vào hôm 22/8/2012 tại Pleiku để đưa ra những bằng chứng đồng thời đề xuất các bước đi mà HAGL nên thực hiện để khắc phục vấn đề. Tuy nhiên, ông Đức cho rằng không có cuộc họp này và Global Witness khẳng định lời phủ nhận của ông Đức là không đúng.
Trước đó, trong cuộc họp báo ngày 17/5, Chủ tịch HAGL Đoàn Nguyên Đức khẳng định, toàn bộ nhân viên và lãnh đạo HAGL chưa hề gặp Global Witness hay nhận các thông tin liên quan đến ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, cáo buộc phá hoại rừng và cuộc sống của người dân tại Lào và Campuchia.
Global Witness cho hay, hiện họ đang thực hiện đối thoại với ông Đức và các đồng nghiệp của ông về một cuộc gặp tiếp theo tại Pleiku vào tháng 6 tới đây.
RFA
2013-05-21

VN ‘sắp thành lập’ công ty xử lý nợ xấu


Thống đốc Nguyễn Văn Bình dẫn dắt nỗ lực giải quyết nợ xấu

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói kế hoạch thành lập công ty quản lý tài sản để xử l‎ý nợ xấu sẽ được phê duyệt trong tháng Năm.

Truyền thông Việt Nam trích dẫn thông cáo báo chi Ngân hàng Nhà nước ra ngày 20/05 nói vốn điều lệ công ty quản lý tài sản (VAMC) được cấp từ “nguồn vốn hợp pháp” của Ngân hàng Nhà nước.

“VAMC là doanh nghiệp đặc thù, được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và chịu sự quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước,” theo VNeconomy.

Được biết VAMC sẽ phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng bán nợ cho VAMC có thể sử dụng trái phiếu đặc biệt để vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước.

Tuy nhiên thông cáo không nói rõ VAMC sẽ mua và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng nào

Một số nhiệm vụ VAMC

Cung cấp các giải pháp để hỗ trợ, giảm khó khăn cho doanh nghiệp có khoản nợ được bán cho VAMC như:
  • Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ; giảm hoặc miễn toàn bộ số lãi đã quá hạn thanh toán; đầu tư, cung cấp tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp xử lý khó khăn tài chính tạm thời...
  • Các doanh nghiệp có nợ xấu bán cho VAMC sẽ được tiếp tục vay vốn của tổ chức tín dụng theo quy định hiện hành”, thông cáo cho hay.
  • Tháo gỡ khó khăn về pháp lý, chính sách thuế… cho doanh nghiệp, đẩy nhanh quá trình xử lý tài sản đảm bảo cho tổ chức tín dụng, VAMC xử lý nợ và tài sản bảo đảm đã mua. Khi đó, các nhà đầu tư sẽ được quyền tham gia vào quá trình này theo nguyên tắc thị trường dưới hình thức bán đấu giá.
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam

Mới đầu tháng này Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, ông Đặng Thanh Bình, nói với hãng thông tấn Reuters rằng một công ty xử lý nợ xấu có tên VAMC sẽ được thành lập với số vốn ban đầu là 24 triệu đôla.

Tuy nhiên một số người đánh giá là khoản này quá nhỏ so với khối nợ xấu đang ảnh hưởng tới gần như mọi góc cạnh của nền kinh tế Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ước tính nợ xấu ở khoảng 7,8 tỷ đôla, hay 6% của tổng dư nợ là 130 tỷ đôla.

Tuy nhiên, các nguồn tin của Reuters nói mức nợ xấu của các ngân hàng cao hơn mức này ít nhất là ba lần - khoảng 23 tỷ đôla.

Như vậy, nguồn vốn của VAMC chỉ bằng 0,3% mức nợ xấu hiện tại và có lẽ chỉ đại diện cho vốn lưu động. Việc giải quyết nợ xấu thực sự được cho là sẽ giải quyết thông qua các giấy bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước.

"24 triệu đôla có vẻ như là một khoản tiền nhỏ để tái huy động vốn khu vực ngân hàng," Matt Hildebrandt, một kinh tế gia tại J.P.Morgain Chase ở Singapore bình luận.

"Quan ngại của tôi, đó là việc thiết lập VAMC diễn ra quá chậm và lượng vốn quá ít để thực sự giải quyết được vấn đề. Hướng giải quyết mông lung thế này đồng nghĩa với việc nền kinh tế sẽ tiếp tục trong tình trạng yếu kém nhiều năm tới."

'Không có tiền ngân sách'


"Xử lý nợ xấu trước hết là việc làm của các ngân hàng thương mại"
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị Ngân hàng 2013

Mới đầu năm nay, Thủ tướng Việt Nam khẳng định nợ xấu là nhiệm vụ của các ngân hàng, ngân sách không có tiền xử lý nợ xấu và Nhà nước chỉ giúp hỗ trợ xử lý nợ xấu qua chính sách.

Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2013 của Ngân hàng Nhà nước ngày 9/1, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được dẫn lời nói “Xử lý nợ xấu trước hết là việc làm của các ngân hàng thương mại,

"Có thể thông qua tái cấp vốn hoặc 'gì đó' chứ ngân sách sẽ không có tiền để giải quyết vấn đề này."

Lý giải về lời bình luận này, ông Dũng cho rằng "chính các ngân hàng thương mại đưa ra quyết định cho vay, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, nợ xấu phát sinh thì ngân hàng cũng là người đầu tiên phải đi xử lý".
(BBC)
 

Đoan Trang - "Nói với mình và các bạn": Mặt trái của biểu tình

Dưới đây là bài viết thứ 9 trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Mục đích mà loạt bài hướng tới là góp phần giúp độc giả, nhất là các bạn trẻ, hiểu hơn về chính trị, về sự tham gia, về tự do ngôn luận và sự phân biệt giữa tự do ngôn luận với xúc phạm người khác, về hiến pháp, quyền lập hiến và quyền tẩy chay hiến pháp, bất tuân dân sự, về kỹ thuật bầu cử và làm thế nào để có bầu cử tự do, công bằng.
Ở bài trước, chúng ta đã nói rằng văn hoá chính trị là cái quyết định một xã hội nhìn chung sẽ có thái độ như thế nào trước các hoạt động chính trị như biểu tình, đình công, kiện tụng… Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng biểu tình có những mặt trái của nó. Làm thế nào để giảm thiểu tác hại tiêu cực của biểu tình đây?
Phạm Đoan Trang
* * *
Kỳ 9
MẶT TRÁI CỦA BIỂU TÌNH
Một trong những mặt trái của biểu tình – và nó càng trở nên nghiêm trọng trong văn hoá chính trị “phản biểu tình” của Việt Nam – là sự cản trở tự do đi lại. Vì “phố phường chật chội, người đông đúc”, biểu tình có nguy cơ gây ảnh hưởng đến giao thông, mà đấy là người biểu tình ở nước ta còn chưa sử dụng biện pháp phong toả đường đi lối lại, cắm trại, dựng rào v.v. đấy nhé.
Ở một quốc gia dân chủ, với văn hoá chính trị thừa nhận và ủng hộ biểu tình, thì để vừa đảm bảo quyền tự do biểu đạt của nhóm người biểu tình, vừa đảm bảo quyền tự do đi lại của những người khác, chính quyền sẽ phải có các biện pháp như bố trí lực lượng hỗ trợ người biểu tình (dẹp đường, hướng dẫn giao thông...), đảm bảo những không gian công cộng thích hợp cho việc biểu tình. Ở Việt Nam thì khác: Chính quyền gộp tất cả những người đi biểu tình vào một rọ, gồm các “đối tượng” hoặc là phản động nhân danh yêu nước, hoặc là bị bọn phản động lợi dụng, lôi kéo. Từ quan niệm đó đến hành động cụ thể như thế nào thì chúng ta đều đã biết, nên người viết sẽ không “kể lể” thêm, mà sẽ bàn về các trường hợp có mâu thuẫn, xung đột thật sự liên quan đến biểu tình, ở phần tiếp sau.
“Ông Nguyễn Sinh Hùng và thế lưỡng nan”
Biểu tình hoàn toàn có thể cản trở nghiêm trọng quyền tự do đi lại của một cá nhân cụ thể. Ví dụ, đó là khi những người biểu tình chặn cổng Văn phòng Quốc hội, không cho ông Nguyễn Sinh Hùng ra đường khi đã hết giờ làm. (Xin các bạn lưu ý, đây chỉ là một ví dụ giả tưởng, trên thực tế bản thân người viết cũng không biết chính xác ông Nguyễn Sinh Hùng làm việc ở đâu). Trong trường hợp này, chúng ta đối diện với một thứ mà các nhà khoa học ưa gọi là “thế lưỡng nan”:
    Vì ông Nguyễn Sinh Hùng là Chủ tịch Quốc hội, là quan chức, cho nên ông có nghĩa vụ phải lắng nghe ý kiến của người dân, tôn trọng quyền tự do biểu đạt và biểu tình của công dân;
    Vì ông Nguyễn Sinh Hùng là một công dân Việt Nam, nên ông có quyền riêng tư, quyền tự do đi lại, tự do về thân thể, và ông phải được đi đâu tuỳ ý sau khi đã hết giờ làm việc. Do đó, khi bị cản trở tự do đi lại, ông có quyền khởi kiện.
Trên giác độ luật pháp thuần tuý, công dân Nguyễn Sinh Hùng quả thật có thể kiện những kẻ đã xâm phạm quyền của ông. Tuy nhiên, trong văn hoá chính trị ở nhiều nước, người ta thường quan niệm lãnh đạo, quan chức là luôn phải ở một thế chịu thiệt thòi trước công luận hơn người dân, và sẽ rất nực cười nếu lãnh đạo, quan chức muốn “ăn thua đủ” với dân – cái này trong tiếng Việt gọi là “tiểu nhân”. Đương nhiên là ông Hùng có quyền kiện và có thể kiện, nhưng nếu ông làm thế thì sẽ rất buồn cười trong mắt các chính trị gia đồng nhiệm, đồng nghiệp của ông ở nước ngoài.
Tương tự, chúng ta sẽ không thể thấy Tổng thống Clinton hay đảng Dân chủ tìm cách can thiệp, đóng cửa tờ báo nào dám bôi nhọ ông và chuyện tình ái, bồ bịch của ông. Tổng thống Bush cũng không thể truy tìm và khởi kiện kẻ nào dám vẽ bẩn vào ảnh ông rồi vác đi biểu tình, rồi đốt… Bởi vì văn hoá chính trị của người Mỹ, về căn bản, ủng hộ quyền tự do biểu đạt, ngôn luận của công dân và buộc lãnh đạo phải chấp nhận “chịu thiệt”, “tỏ ra quân tử” trong mắt dư luận.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đừng quên rằng, trong các chế độ dân chủ, ghế của quan chức phụ thuộc vào lá phiếu của người dân, nên quan chức có xu hướng nhượng bộ trước những phản ứng của người dân và tìm cách thuyết phục họ, chứ không dám đối đầu.
Nếu chúng tôi thích “biểu tình chống biểu tình”, thì sao?
Trường hợp nói trên là khi biểu tình cản trở quyền tự do đi lại của một cá nhân cụ thể - một quan chức. Còn trường hợp sau đây hơi khác.
Giả sử sau khi Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói vài câu phản đối như thường lệ. Giả sử khoảng 300 người ở quận Nhất, TP.HCM nổi giận – trong đó một nửa phẫn nộ với Trung Quốc, một nửa bất mãn về chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam – và họ xuống đường biểu tình. Giả sử cùng lúc, có khoảng 300 người dân ở quận Hai, TP.HCM lại suy nghĩ ngược lại hoàn toàn – một nửa trong số họ cho rằng Trung Quốc cấm đánh bắt cá là đúng (cần phải bảo vệ và khai thác tiết kiệm tài nguyên thuỷ hải sản chứ, bất luận tài nguyên ấy của quốc gia nào), một nửa ủng hộ chính sách ngoại giao của Việt Nam (phản ứng ở mức độ như người phát ngôn đã phản ứng thôi chứ còn làm gì hơn được nữa).
Câu hỏi đặt ra là: 300 người ở quận Hai có thể đi biểu tình phản đối 300 người ở quận Nhất không?
Câu trả lời: Có, nếu như đúng là tất cả công dân Việt Nam đều được hưởng quyền tự do ngôn luận và tự do tụ tập.
Vậy sẽ ra sao nếu trên đường phố, các nhóm cư dân bất đồng quan điểm cứ biểu tình qua lại như thế?
Chẳng sao cả, chuyện đó là… bình thường trong một xã hội dân chủ, có nền văn hoá chính trị thiên về các giá trị dân chủ, tự do, nhân quyền. Có điều, trong mọi trường hợp, bạo lực phải bị lên án và loại bỏ; xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác là một tội có thể bị kiện và bị xử lý theo pháp luật. Khi ấy, vai trò của luật pháp và của Nhà nước càng trở nên quan trọng hơn trong việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận và tụ tập của các bên, quyền tự do đi lại của những người khác, giữ gìn trật tự trị an và điều hoà các lợi ích mâu thuẫn. Việc này, tất nhiên, chưa bao giờ dễ dàng.
Vai trò của lực lượng công an là bảo vệ người biểu tình chứ không phải là vật người biểu tình như thế này.

Ảnh: Một dân phòng (hoặc công an mặc thường phục) đánh biểu tình viên Phan Nguyên, ngày 12/6/2011.
Tuy nhiên, bạn cần lưu ý một điểm quan trọng: Sẽ là một nhà nước lưu manh, phản động, nếu chính nhà nước bí mật tổ chức cho một nhóm trong xã hội chuyên đi “biểu tình chống biểu tình”. Nói cách khác, nếu chính quyền dùng tiền ngân sách, dùng quyền lực của lãnh đạo, để huy động lực lượng “phản biểu tình”, “đấu tranh với các luận điểm sai trái, thù địch” của một số công dân, mà thực chất là tấn công vào quyền tự do ngôn luận của những công dân ấy, thì đó là biểu hiện của một nhà nước độc tài đáng ghê tởm.
Khi văn hoá chính trị khó chấp nhận biểu tình
Ở đâu cũng vậy, biểu tình có những hành động đặc thù như gây tiếng ồn, phong toả đường đi lối lại, thậm chí có khi còn kéo theo bạo lực – giữa công an, cảnh sát với những người tuần hành, hoặc giữa chính những người dân với nhau, nhóm phản đối gây lộn với nhóm ủng hộ như trong ví dụ giả tưởng nêu trên. Đó chính là các mặt trái của biểu tình, và trong văn hoá chính trị của Việt Nam thì những hạn chế đó càng bị khuếch đại: Bạn hãy hình dung một nơi đường phố chật hẹp, bụi bặm, vỉa hè là không gian kinh doanh (mà đoàn người đi biểu tình có thể gây ảnh hưởng đến việc kinh doanh đó), và đa số dân chúng thì tới gần 70 năm nay không có ý niệm nào về việc “tự nhiên ra ngoài đường hò hét”.
Liệu văn hoá chính trị như thế có tạo ra một môi trường tâm lý-xã hội ủng hộ biểu tình và các hoạt động chính trị khác không? Chúng ta thấy ngay là không.
Vậy khi văn hoá chính trị về cơ bản là chống lại việc biểu tình, thì một số ít người muốn thể hiện chính kiến thông qua hành động biểu tình có thể và nên làm gì? Có nên hò hét, chửi bới kể tội “phe kia”, đốt cờ/ảnh, phong toả đường xá v.v.? Chúng ta sẽ tiếp tục vấn đề gây tranh cãi này ở kỳ sau, với câu chuyện về một hình thức hoạt động chính trị khác, xuất phát từ một phương pháp đấu tranh của vị anh hùng dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi: bất tuân dân sự.
Kỳ sau: Bất tuân dân sự hay phản động?

Kỳ 8: Biểu tình, đình công trong văn hoá chính trị Việt Nam  
Đoan Trang
(Blog Đoan Trang)

Kỷ lục lạm phát của Việt Nam vượt mọi quốc gia

Kỷ lục lạm phát của Việt Nam đã vượt qua tất cả các quốc gia trong khu vực kể từ khi đất nước tiến hành đổi mới đến nay, theo một nghiên cứu khoa học vừa công bố sáng nay (21-5).
Công trình nghiên cứu của tiến sĩ Đào Văn Hùng, Nguyễn Thạc Hoát và các đồng sự thuộc Học viện Chính sách và Phát triển phát hiện, trong tất cả các giai đoạn 5 năm suốt từ năm 1991 đến năm 2012, Việt Nam đã vượt qua tất cả các nước trong khu vực về một chỉ tiêu đáng buồn là lạm phát.
Công trình được đưa ra tại buổi hội thảo “Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức cùng Học viện Chính sách và Phát triển và USAID cho biết, mức lạm phát của Việt Nam lên tới hơn 18% năm 2011 và 6,8% năm 2012, cao hơn nhiều so với mức trung bình khoảng 3% của các nước như Trung Quốc, Indonesia, Phillippines và Thái Lan.
Lạm phát kéo dài ảnh hưởng đến đời sống của người nghèo. Ảnh: TBKTSG Online.
Quốc gia có lạm phát cao nhất trong hai năm qua là Indonesia, song mức lạm phát của họ cũng chỉ 3,8-5% trong hai năm qua, thấp hơn nhiều so với của Việt Nam.
Tất cả các kỳ 5 năm được chọn để so sánh đều cho xu hướng như trên.
Nghiên cứu cho biết, trong 27 năm từ 1996-2012, Việt Nam có 13 năm và 4 giai đoạn lạm phát trên 2 con số, trong đó đáng kể nhất là từ 1986-1992 với mức lạm phát bình quân ba chứ số 225%/năm; 2007-2008 với 16,3% năm và 2010-1011 với 15%/năm.
Theo tiến sĩ Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, kể cả so với Trung Quốc thì lạm phát của Việt Nam cao hơn, trong khi tăng trưởng lại thấp hơn.
Trong giai 2008-2012 tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là gần 5,9% năm, và lạm phát là 12,6%; còn Trung Quốc tương ứng là 9,3%/năm và 3,3%/năm.
Trong 20 năm (1991-2010), Việt Nam tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,4%, lạm phát gần 11%; thì Trung Quốc tương ứng là 10,5% và 4,8%.
Ông Hồ đặt câu hỏi: “Tại sao trong 20 năm qua họ tăng trưởng gấp đôi ta nhưng lạm phát bằng nửa ta?”.
Chỉ vào đồ thị về diễn biến của lạm phát 1992-2012 tại hội thảo sáng nay, ông Nguyễn Thạc Hoát nói: “Xu hướng biến thiên của đường lạm phát rất phức tạp, biến động mạnh, đỉnh nhọn, biên độ lớn. Điều đó cho thấy kiểm soát lạm phát ở Việt Nam chưa bền vững; sự bất ổn của tiền tệ và kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn lớn”.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh bày tỏ lo ngại, mức lạm phát cao triền miên như vậy đang làm chi phí vốn và chi phí đầu tư kinh doanh ở Việt Nam cao hơn các quốc gia khác.
Ông Sinh cho rằng, các quốc gia khác cho vay lãi suất thấp vì rủi ro vĩ mô của họ thấp, còn Việt Nam thì ngược lại.
Tuy nhiên, thứ trưởng nhận xét, sau một thời gian dài áp dụng các chính sách kinh tế nhằm giảm lạm phát, đến lúc này, doanh nghiệp đã có tâm lý không muốn làm ăn, người dân không muốn mua sắm tiêu dùng nữa.
“Các doanh nghiệp với lãi suất cho vay hiện nay và đầu ra khó sẽ chỉ gửi vốn ngân hàng lấy lãi, hơn là đầu tư kinh doanh. Đây là xu hướng rất nguy”, ông nói.
Ông khẳng định, số lượng doanh nghiệp biến mất khỏi thị trường là điều rất đáng lo ngại, và đặt câu hỏi: “Liệu nền kinh tế có giữ được không với lãi suất vẫn cứ cao như thế này”.
Tuy nhiên, là một trong những tác giả chính của các đề án phát triển kinh tế của Chính phủ, ông Sinh tỏ ra lo lắng làm sao tìm ra nguồn vốn cho nền kinh tế sôi động lại, nhất là khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% cho năm nay (tương ứng với 360.000  tỉ đồng) không thể đạt được.
Tại hội thảo, các nhà kinh tế đề xuất mức lạm phát tối ưu khoảng 7-7,5%/năm trong giai đoạn 2013-2015.
Bên cạnh đó, họ kiến nghị cần có cơ quan phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ độc lập với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính.
    (TBKTSG Online)

Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập sắp hầu Tòa

Ông Đinh Đức Lập – Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết
Thông tin mới nhất Vụ Đinh Đức Lập:
    Khiển trách về mặt chính quyền!
    Đảng đoàn Mặt trận có dấu hiệu sai phạm?
    Sau vài ngày hẹn sẽ thông tin tới đọc giả, hôm nay, chúng tôi xin gửi tới quý đọc giả thông tin nóng hổi vừa diễn ra trong buổi sáng hôm nay tại Hội trường Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam về việc Ban Thường trực Ủy Ban Trung ương MTTQ VN công bố Quyết định kỷ luật ông Đinh Đức Lập về mặt chính quyền.
    Vì ông Vũ Trọng Kim – Phó Chủ tịch Kiêm Tổng thư ký Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam – Thủ trưởng cơ quan đi công tác tại Nga nên bà Bùi Thị Thanh – Phó Chủ tịch – Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy – Phụ trách công tác Tổ chức cán bộ của MTTQ VN chủ trì cuộc họp công bố Quyết định kỷ luật ô.
    Thành phần tham dự cuộc họp có hai Phó Chủ tịch MTTQ VN khác là ông Nguyễn Lam và ông Nguyễn Văn Pha. Tất cảcác Ban, Đơn vị thuộc MTTQ VN đều được mời tham dự. Về phía báo Đại Đoàn Kết có ông Đinh Đức Lập – đương sự; ông Nguyễn Quốc Khánh – Bí thư chi bộ Phó Tổng biên tập; ông Mai Ngọc Tuyền – Chủ tịch BCH Công đoàn báo Đại Đoàn Kết. Ngoài ra, những đoàn thể khác từ Cựu chiến binh; Công đoàn; Thanh tra nhân dân; Đoàn thanh niên đều được mời tham dự…
    Bà Bùi Thị Thanh giao cho ông Nguyễn Ngọc Ba – Phó Ban Tổ chức cán bộ - Thư ký của Chủ tịch Huỳnh Đảm đọc bản Quyết định. Quyết định này được ký sau cuộc họp của Ban Thường trực Chủ nhật ngày sinh nhật Bác 19/5 vừa rồi. Ban Thường trực Ủy Ban Trung ương MTTQ VN đã ra Quyết định với hình thức Khiển trách đối với ông Đinh Đức Lập – Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết. Mức kỷ luật này tương đương với mức kỷ luật Khiển trách về kỷ luật Đảng trước đó đối với ông Lập.
    Phát biểu sau khi nghe Quyết định, ông Lập nói giọng có phần bức xúc khi cho rằng: Đây là Quyết định của Ban Thường trực thì ông phải chịu nhưng ông không phục. Theo ông Lập thì lẽ ra ông phải không bị kỷ luật gì. Tuy nhiên, nhìn vào sắc mặt của ông Lập, nhưng người tham dự thấy rất là vui tươi, hể hả.
    Ông Nguyễn Quốc Khánh – Bí thư chi bộ báo Đại Đoàn Kết phát biểu: Lấy làm tiếc vì sự việc ở báo và rất thông cảm với anh Lập.
    Còn ông Mai Ngọc Tuyền – Chủ tịch BCH Công đoàn báo Đại Đoàn Kết thì phát biểu: Việc sai phạm vừa qua của Tổng biên tập Đinh Đức Lập đã gây tổn hại đến hình ảnh, uy tín của báo Đại Đoàn Kết. Tia ra của báo sụt giảm mạnh (dù cố quảng bá trên truyền hình mỗi sáng –PV).
    Bà Hồng – Phó Ban Dân chủ Pháp luật của MTTQ VN phát biểu bày tỏ sự cảm thông với ông Lập khi phải làm việc ở báo ĐạiĐoàn Kết. Bà Hồng nói: các đơn vị khác của MTTQ được rót tiền còn báo thì không nên chúng ta phải biết thương anh Lập…
    Còn vài ý kiến khác nói chỉ để cho có.
    Như vậy, ông Đinh Đức Lập – Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết đã bị kỷ luật Khiển trách cả về mặt Đảng và chính quyền. Tức là những người tố cáo như Hữu Nguyên, Kim Ngân, Mạnh Thắng tố cáo đúng. Vậy thì sao ông Lập, ông Khánh cố tình kỷ luật ba người tố cáo là vi phạm pháp luật, chống lại lãnh đạo MTTQ VN!.
    Với hai bản Quyết định này thì ông Vũ Trọng Kim đã quyết bảo vệ những sai phạm của ông Đinh Đức Lập đến cùng. Nhưng bàn tay sao che nổi bầu trời?. Ban Nội chính Trung ương đã chính thức đề nghị Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương vào cuộc điều tra lại những nội dung đơn tố cáo ông Đinh Đức Lập – Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết khi cho rằng lãnh đạo MTTQ VN đã bao che cho ông Lập.
    Một thông tin vô cùng quan trọng cho thấy cái sai của Đảng đoàn MTTQ VN trong việc ra hai văn bản Kết luận số 42 và 43 về việc giải quyết đơn tố cáo đối với ông Đinh Đức Lập – Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết là: Cấp có thẩm quyền ra Kết luận phải là Đảng ủy MTTQ VN chứ không phải Đảngđoàn MTTQ VN!. Đảng đoàn MTTQ VN không có chi bộ trực thuộc, không phải quản lý chi bộ báo Đại Đoàn Kết và quản lý trực tiếp về mặt chính quyền đối với báo ĐạiĐoàn Kết. Có lẽ khi ký hai bản Kết luận 42 và 43 này, ông Vũ Trọng Kim không muốn đứng danh là Đảng ủy MTTQ VN vì ông là Bí thư Đảng ủy, mà với danh nghĩa Đảngđoàn MTTQ VN (ông chỉ là Phó Bí thư Đảng đoàn, ông Huỳnh Đảm là Bí thư Đảngđoàn MTTQVN). Với cách ký này, ông Kim đã dự phòng nếu có bị cấp có thẩm quyền xem xét thì Đảng đoàn (tức ông Huỳnh Đảm) phải chịu trách nhiệm.
    PV xin tiết lộ thêm:
    1. Thông tin về việc ký sai hai bản Kết luận số 42 và 43 của Đảngđoàn MTTQ VN đang được cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý.
    2. Tòa án Nhân dân Quận Hoàn Kiếm đã chính thức tống đạt quyết định vào sáng thứ 2 (ngày 20/5/2013) triệu tập ông Đinh Đức Lập Tổng biên tập báo ĐạiĐoàn Kết ra tòa vào đầu tháng 6 tới.
   
P. V
(Blog Tễu)

P. Thạnh Mỹ Lợi – Quận 2: Cục 12 Tổng cục 2 BQP bất chấp pháp luật

 Sau ngày khởi công 15/04/2013 với pano, băng rôn, sân khấu và rất nhiều bàn tiệc với khá đông các vị khách tới dự, những kẻ chủ trương cướp đất của hơn 20 hộ dân tại P.Thạnh Mỹ Lợi, Q.2 tổ chức rất long trọng trên đất của người dân đang có chủ quyền trong khi bản vẽ phối cảnh là khu biệt thự cao cấp, cùng với khu thương mại cao ốc văn phòng mà không hề có bất cứ một quyết định pháp lý nào tỷ lệ 1/500 và giấy phép xây dựng. Tổ chức lễ khởi công mà trang bị hàng trăm công an, quân đội, dân phòng giăng xung quanh và đuổi tất cả các hộ dân có đất ra khỏi khu vực! Ai cũng biết công trình này có vấn đề khuất tất.

Thiết tưởng khi người dân Khu phố 1 Phường Thạnh Mỹ Lợi Quận 2 còn đang được các cấp chính quyền nhận đơn giải quyết hàng loạt như Tòa án Quận 2, UBND Thành phố đang giao cho thanh tra Thành Phố xem xét trình Ủy Ban để có các văn bản giải quyết cho dân. Thế nhưng việc cục 12 Tổng cục 2 trắng trợn khởi công trên đất có chủ quyền đã hoàn toàn trái pháp luật. Bà con đã tiếp tục gửi đơn khiếu nại tố cáo đi khắp nơi từ các cơ quan cao nhất của Trung ương đến địa phương và đang chờ giải quyết, nhưng họ vẫn ngang nhiên xây dựng trụ pano quảng cáo bằng xi măng sắt thép lén lút đào, dùng máy xúc đào lỗ để đổ bê tông cốt thép làm hàng rào; họ chở cả xi măng sắt thép, gạch đá để trám trên đất của các hộ dân.

Vào thứ bảy 18/5 khi các hộ dân phát hiện, ngăn cản thì họ mới chịu dừng thi công. Nhưng một viên Đại úy tên Bảy cho biết thứ 2 vẫn tiếp tục cho đào móng xây hàng rào! Bà con vô cùng phẫn nộ và bức xúc hẹn nhau 8h sáng thứ 2 (20/5) có mặt tại khu đất để giữ đất và ngăn cản họ. Sáng thứ hai các hộ dân bị cướp đất Khu phố 1 Phường Thạnh Mỹ Lợi Quận 2 chẳng khác nào phải canh giữ kẻ trộm cướp vào nhà. Các hộ dân ở đó xuống xua đuổi ngăn cản thì họ ngừng lại không làm. Khi các hộ dân phân tán do phần vì lớn tuổi, phần phải lo công việc gia đình, một số còn đang làm tại các cơ quan nhà nước nên ngại xuất hiện ở hiện trường, thì lợi dụng lúc ít người ở đó họ lại cho máy xúc, máy ủi đào hố hàng rào ngay. Tất cả các hộ dân bị cướp đất vô cùng uất ức vì chưa có một giai đoạn lịch sử của xã hội Việt Nam nào lại có những kẻ mang danh bộ đội cụ Hồ mà Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn ca ngợi, luôn hi sinh để bảo vệ đất nước bảo vệ nhân dân lại trắng trợn cướp đoạt tài sản và đe dọa tính mạng của nhân dân một cách phi lý như thế này.

Việc thực hiện dự án trái pháp luật đã nêu trong lá thư tố cáo trước với đầy đủ bằng chứng. Nay họ thi công Dự án mà không hề có bản vẽ niêm yết công khai tỷ lệ 1/500 được cấp có thẩm quyền phê duyệt, không hề có giấy phép xây dựng thế mà họ vẫn thi công mà không hề có bất cứ cơ quan nào can ngăn. Trong khi bà con đã khiếu nại tố cáo lên cấp Phường, Quận yêu cầu đình chỉ việc thi công trái pháp luật, nhưng Phường chỉ biết ghi biên bản trình lãnh đạo Quận; lãnh đạo Quận thì không chịu gặp bà con mà chỉ qua phòng tiếp dân ghi ý kiến trình lãnh đạo và cuối cùng là không giải quyết.

Hôm nay thứ ba 21/5, họ vẫn cho máy, xúc máy ủi tiếp tục thi công. Khi bà con tập trung đông kéo đến ngăn cản thì đơn vị thi công tạm ngưng và tập kết máy móc vào khu vực láng trại mà trước đây họ đã ép mua với giá rẻ mạt của một vài hộ dân. Nhưng ở khu vực này họ vẫn tiếp tục đúc cột để chờ cơ hội bà con về là họ làm hàng rào ngay. Bà con rất hoang mang và đã gửi đơn tố cáo khiếu nại đi khắp mọi nơi nhiều năm nay từ Trung ương đến địa phương nhưng không được giải quyết mà cứ đùn đẩy và kéo dài thời gian khiến nhiều hộ hoang mang lo sợ và không biết phải trông cậy vào đâu.

Chúng tôi, những Người dân Việt Nam xin cầu cứu các tổ chức công lý và hòa bình, Nhân quyền và Tôn giáo quốc tế; các cơ quan báo, đài trong và ngoài nước hãy công tâm lên tiếng, đăng tải và truyền thông nội vụ mà chúng tôi đang bị ức hiếp nói trên. Yêu cầu Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đối xử dân chủ công bằng với mọi người dân theo đạo luật Nhân quyền quốc tế.

Chữ ký của đại diện hơn 20 hộ dân có cả số điện thoại để sẵn sàng trả lời phỏng vấn các báo đài quan tâm, đặc biệt là hai Ông Lê Mai Ninh (0903840112) và Bùi Thành Long (01234557510) là những người nắm rõ sự việc.

Tất cả các hộ dân trong Khu phố 1 Thạnh Mỹ Lợi trân trọng kính đơn.
Hình chụp sáng thứ hai ngày 20/5/2013
Hình nhỏ trích từ hình lớn: diện tích viền đỏ là dự án khu đô thị 174 ha, nơi cục 12 được cấp đất. Phần diện tích màu xanh nằm bên kia đường là phần bị chiếm dụng của hơn 20 hộ dân
BIÊN BẢN TIẾP XÚC ngày 8/5/2013 giữa UBND P. Thạnh Mỹ Lợi và các hộ dân bị chiếm đất

  CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập- Tự Do- Hạnh Phúc
—–o0o—–
 BIÊN BẢN TIẾP XÚC
(Các hộ dân có đất bị thu hồi liên quan dự án 174 ha)
Hôm nay, vào lúc 09 giờ 0 phút ngày 08/05/2013, tại trụ sở UBND Phường, tiếp xúc các hộ dân có đất bị thu hồi trong dự án 174 ha
Thành phần tham gia:
Về phía UBND Phường có
  1. Ông Nguyễn Ngọc Tuấn                  : Phó Chủ tịch UBND Phường
  2. Ông Phạm Văn Huấn                       : Công chức ĐC-XD-MT
  3. Bà Nguyễn Minh Hiền                     : Công chức tư pháp hộ tịch
  4. Ông Đoàn Phước Luông                  : Công chức ĐC-XD-MT
Về phía các hộ dân có danh sách kèm theo các biên bản
Nội dung buổi tiếp xúc
Các hộ dân cho rằng vấn đề quy hoạch dự án 174 ha không rõ ràng, như thu hồi đất không đúng trình tự và hơn nữa là nhà đất của hộ dân không thuộc dự án hạ tầng kỹ thuật 174 ha mà thuộc khu dân cư chỉnh trang.
Ông Lê Mai Ninh có ý kiến
- Các hộ dân không được cơ quan nhà nước công bố quy hoạch dự án 174 ha
- Đất của Ông nằm ngoài dự án 174 ha
- Nếu Cục 12 là chủ đầu tư xây dựng công trình nhà ở để kinh doanh thì yêu cầu nhà nước cho chủ đầu tư thỏa thuận với dân có đất theo thị trường hiện nay
- Do đó Ông yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ngưng ngay công trình xây dựng của Cục 12 cho đến khi giải quyết xong thắc mắc khiếu nại của Ông
Ông Bùi Thành Long có ý kiến
- Qua tìm hiểu các văn pháp luật thì Ông được biết nhà đất của Ông không nằm trong dự án 174 ha
- Cục 12 không có chức năng kinh doanh bất động sản và cho đến nay Cục 12 vẫn chưa có giấy phép xây dựng
- UBND Phường nên có chính kiến bảo vệ hiến pháp, pháp luật và người dân địa phương khi mà công ty xây dựng công trình khi chưa có giấy phép, vậy mà chính quyền địa phương điều công an ra bảo vệ lễ khởi công xây dựng của Cục 12
- các hộ dân chúng tôi đang khiếu nại tố cáo đến cùng để bảo vệ quyền lợi của chúng tôi và bảo vệ pháp lý
Ông Hồ Viết Thông có ý kiến (đại diện cho hồ sơ Ông Nguyễn Anh Thiện)
- Đất của các hộ dân đứng trong đơn không thuộc dự án 174 ha
- Yêu cầu chính quyền địa phương làm rõ vấn đề giấy phép xây dựng của Cục 12 và cho các hộ dân biết rõ
- Đơn từ của các hộ dân đã trình bày nhiều về pháp lý của dự án, nay đề nghị chính quyền địa phương, cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết xong mọi thắc mắc, khiếu nại tố cáo của các hộ dân mới cho Cục 12 tiếp tục xây dựng công trình còn hiện nay chưa có giấy phép thì phải tạm ngưng hoàn toàn vấn đề xây dựng của Cục 12 tránh tình trạng đáng tiếc xảy ra vì liên quan đến quyền lợi của người dân
Bà Dương Thị Bình Minh có ý kiến
Yêu cầu giải quyết xong mọi thắc mắc khiếu kiện mới cho Cục 12 xây dựng công trình tránh trường hợp xô xát đáng tiếc xảy ra như vụ Tiên Lãng, Hải Phòng
Ý kiến của UBND Phường
UBND Phường ghi nhận ý kiến của các hộ dân và báo cáo lên UBND Quận với thông tin các hộ dân cho biết là ngày mai Cục 12 tiến hành xây dựng công tình thì UBND Phường không có thẩm quyền ngăn chặn nhưng UBND Phường sẽ có văn bản báo cáo lên UBND Quận.
Kết luận: Sau buổi tiếp xúc hôm nay, UBND Phường làm báo cáo lên UBND Quận và báo cáo vấn đề xây dựng thi công vào ngày mai của Cục 12.
Biên bản kết thúc lúc 10 giờ cùng ngày và được đọc lại cho mọi người cùng nghe rõ và đồng ý ký tên.
Các hộ dân khác thống nhất với các hộ dân, các đại diện đã có ý kiến trình bày như trên.

VRNs  
(22.05.2013)

Nha Trang: CA bắt giam 2 blogger Mẹ Nấm, Nguyễn Tiến Nam vì phát Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Lúc 17 giờ chiều nay, 21/5/2013, blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã bị CA Nha Trang bắt giam trái phép, sau khi cô cùng bạn bè tham gia phân phát cho người dân bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền cùng những quả bóng bay mang nội dung 'Quyền Con người của Chúng Ta phải được tôn trọng'.

Cùng bị bắt giữ chung với Mẹ Nấm là blogger Binh Nhì - Nguyễn Tiến Nam và Phạm Văn Hải (SeaFree). Cả ba bị áp giải về trụ sở CA phường Lộc Thọ, sau đó bị tách riêng để giam giữ và thẩm vấn.
Cập nhật lúc 00h40, ngày 22/5/2013: Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vừa rời khỏi trụ sở CA tỉnh Khánh Hòa. Hiện giờ, cô đã về đến nhà để chăm sóc cho bé trai 6 tháng tuổi đang lên cơn sốt.


Trong khi đó, hai blogger Binh Nhì - Nguyễn Tiến Nam, Phạm Văn Hải (SeaFree) vẫn đang tiếp tục bị giam giữ. Không rõ tình trạng hiện nay ra sao.

Tâm tình của blogger Mẹ Nấm trên Facebook vào lúc 1:30 sáng:
Điều làm tôi sung sướng nhất sau tất cả những gì trải qua ngày hôm nay đó là không có một bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nào bị vứt bỏ tại quảng trường như những tờ rơi quảng cáo.
Những người dân khi thấy tôi và bạn bè tranh luận với công an về việc thu giữ giấy tờ tùy thân của tôi bất hợp pháp đã quây lại ủng hộ và tự nguyện tìm đọc bản TNQTNQ trên tay tôi.
Đó là hạnh phúc lớn lao mà tôi cảm nhận được.
Xin lỗi Nấm vì mẹ đã không thể ở bên cạnh con buổi tối trước khi con thi học kỳ 2 vào ngày mai,
Xin lỗi Gấu vì mẹ đã để chàng trai 6 tháng kiên cường của mẹ phải chiến đấu với cơn sốt một mình,
Xin lỗi cả nhà vì đã để mọi người phải lo lắng.
Chúc tất cả ngủ ngon,
Ngày mai là một ngày mới không hề đơn giản. https://www.facebook.com/mothermushroom

Video trong trụ sở CA: Ngay sau khi bị bắt giữ, cơ quan công an đã huy động lực lượng đến để tra khảo 3 blogger, đồng thời quay phim những 'tang vật' mà họ gọi là 'tài liệu phản động'. Trên thực tế, đây đều là những bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.

Đoạn video trên được quay trong trụ sở CA, khi những viên an ninh đang chĩa máy quay vào mặt blogger Mẹ Nấm nhằm thực hiện những mưu đồ bất chính.

Cũng như những lần trước, kịch bản về bộ phim mang tên 'CA Nha Trang phá chuyên án phát tán tài liệu phản động' không chừng sẽ được sớm trình chiếu trên hệ thống truyền thông lề đảng.

Tin cập nhật lúc 11h30: Được biết, ngoài 2 blogger Mẹ Nấm và Binh Nhì – Nguyễn Tiến Nam, còn có blogger Phạm Văn Hải (SeaFree) cũng đã bị CA bắt giam trái phép sau buổi phân phát bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền chiều nay. Hiện không rõ tình trạng blogger Phạm Văn Hải ra sao và đang bị giam giữ ở đâu.

Tin cập nhật lúc 21h40: Một nguồn tin cho biết, cách đây hơn 30 phút, Blogger Binh Nhì - Nguyễn Tiến Nam cũng đã bị áp giải về trụ sở CA tỉnh Khánh Hòa, Địa chỉ: 80, Trần Phú, Phường Lộc Thọ, Thành Phố Nha Trang, Khánh Hòa. Số điện thoại: (058)3527060.

Trong khi đó, CA tỉnh Khánh Hòa vẫn từ chối không cho Mẹ Nấm được gặp và chăm sóc con trai 6 tháng tuổi. Bé Gấu - con trai Mẹ Nấm đã được gia đình đưa về nhà do bị lên cơn sốt.


Được biết, trong chiều nay, hai blogger Mẹ Nấm và Nguyễn Tiến Nam đã phát tận tay cho người dân hàng trăm bản Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân quyền, cùng những quả bóng bay màu xanh.

Trong lúc bắt người và tra khảo, phía CA cáo buộc Mẹ Nấm đã phạm tội 'phân phát tài liệu phản động'. Bằng chứng được cơ quan CA gọi là 'tài liệu phản động' thực ra chính là Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền.
Theo tin mới nhận được, lúc 20 giờ tối nay, Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sau khi bị tách riêng thẩm vấn đã tiếp tục bị áp giải về trụ sở CA tỉnh Khánh Hòa. Nhiều khả năng cô sẽ bị giam giữ qua đêm.
Được biết, blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hiện đang  chăm sóc con trai 6 tháng tuổi.

Lúc 20h30 phút tối nay, 21/5/2013, bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, mẹ ruột Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã bế cháu ngoại đến trước trụ sở CA tỉnh để yêu cầu cho hai mẹ con gặp nhau. Tuy nhiên, công an tỉnh Khánh Hòa đã từ chối không cho Blogger Mẹ Nấm được gặp và chăm sóc cho con.

Hiện nay, bà Nguyễn Thị Tuyết Lan vẫn đang bế cháu ngoại 6 tháng tuổi đứng trước trụ sở CA tỉnh Khánh Hòa, Địa chỉ: 80, Trần Phú, Phường Lộc Thọ, Thành Phố Nha Trang, Khánh Hòa. Số điện thoại: (058)3527060
















Mẹ - Nấm và Gấu - Quyền cho con người hôm nay và cho thế hệ tương lai.


Cuối tuần trước, Binh Nhì cùng các bạn Chúng Ta - Công Dân Tự Do 
phân phát TNQTNQ tại Hà Nội.

Copy của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được in ra và phân phát và là "tang vật" tại đồn công an: