Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Vong quốc nô nhảy bài…Vong quốc vũ! - ‘Nhân dân không quên: 1979-2014’- Máu người không phải nước lã- Đề xuất đình chỉ công tác ông Phạm Quý Ngọ

Vong quốc nô nhảy bài…Vong quốc vũ!

LTS: Chính quyền Việt Nam đã phá buổi tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ và những thường dân đã ngã xuống trong cuộc chiến biên giới Việt – Trung 35 năm trước bằng một loạt hoạt động vui chơi nhẩy múa. Dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ là màn khiêu vũ, dưới tượng đài cảm tử quân là các thanh niên tình nguyện ca hát.
Rất nhiều lời bình luận giận dữ trên các trang mạng xã hội, như “những con điếm của đảng”, “vô liêm sỉ”.v.v. Ngay lập tức những hình ảnh này đã xuất hiện trên các hãng thông tân lớn như: AP, AFP, Washington Post.
Đoạn video có thể xem tại đây
——————————————————
Cặp đôi hãnh diện nhẩy múa. Ảnh AP
Cặp đôi hãnh diện nhẩy múa. Ảnh AP

Mười bảy tháng hai năm bảy chín
Sáu mươi vạn quân Tàu giày xéo Bắc biên cương
Có viên tướng Cộng sản ngang nhiên làm nội ứng
Dạy rằng Trung quốc tốt với ta
Báo động quá làm chi
Hãy ăn ngủ bình thường, súng ống cất vào kho! (1)
Một ngày sau, giặc đến!

Nhưng chiến sĩ ta phản ứng kiên cường
Không tiếc máu xương, đẩy lùi quân giặc.
Giá Tự do bao giờ cũng đắt
Sáu vạn con người ngã xuống
Mấy đọi máu đào một tấc đất quê hương?



Nay đến ngày kỷ niệm
Không quốc tang, quốc lễ, quảng trường
Không một nén nhang
Tri ân những anh hùng tử trận?
Lại xua một lũ “bất tri vong quốc hận”
Nhảy múa lăng nhăng cho đẹp ý quân thù!
Hà nội hay Bắc kinh ra lệnh,
Tổ quốc tồn vong ai có biết?
Bốn nghìn năm sao người Việt bỗng hèn ngu?
Họ múa điệu gì vậy?
Dưới chân tượng Lý Thái Tổ. Ảnh FB
Dưới chân tượng Lý Thái Tổ. Ảnh FB
Nào, cứ nhảy múa lên
“Bạn vàng” đã chiếm biển khơi
Đã kiểm soát bầu trời
Đã rải quân đến từng thành phố
Đã len lỏi đến từng hang ổ
Từng khoáng sản, núi rừng, hầm mỏ
Đại gia đình chủ nghĩa búa liềm ơi…

Vui quá là vui
Oai quá là oai
Những bước chân
Vong quốc nô
Vứt liêm sỉ, nhảy bài…
Vong quốc vũ!
Thái Hữu Tình
17-2-2014
© Đàn Chim Việt
————————————————————————
(1) Chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979: Trước ngày quân bành trướng nổ súng, đại tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh giảm cấp báo động, vũ khí cất vào kho, cán bộ về nhà nghỉ phép.

‘Nhân dân không quên: 1979-2014’

Hà Nội – Sáng Chủ nhật ngày 16 tháng Hai, một số người dân Việt Nam đã đánh dấu kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc. Họ hô các khẩu hiệu chống Trung Quốc cùng với những bài hát yêu nước và đặt hoa tại một ngôi đền ở trung tâm Hà Nội.

Cả hai nước cộng sản Việt Nam và Trung Quốc hiện đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan xung quanh vụ tranh chấp lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở khu vực Biển Đông. Thời gian vừa qua ngoại giao hai nước đều lên tiếng chỉ trích nhau vì các chính sách thăm dò dầu khí và các lệnh cấm đánh cá trong vùng biển tranh chấp.

Lập trường ngày càng quyết đoán ở Biển Đông của Bắc Kinh đã làm nhiều người tức giận, dẫn đến nhiều cuộc xuống đường hiếm hoi trong một đất nước độc tài do Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát. Một số trường hợp biểu tình trước đây được phía an ninh Việt Nam bật đèn xanh, tuy nhiên một số cuộc biểu tình khác thì lại bị công an ngăn chặn và dập tắt.

Trung Quốc đã mang quân xâm chiếm các tỉnh phía Bắc của Việt Nam vào tháng Hai năm 1979 vì Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia do Bắc Kinh hậu thuẫn.

Cuộc xung đột tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu với hàng chục ngàn binh lính của cả hai bên tử trận. Cuối cùng, lực lượng Trung Quốc buộc phải rút quân và cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều tuyên bố chiến thắng.

Tuy vậy, quân đội Việt Nam vẫn tiếp tục đóng quân Campuchia đến năm 1989.

Mặc dù Việt Nam nhiều lần ca ngợi chiến thắng quân Pháp và Mỹ nhưng cho đến nay chính quyền vẫn không tổ chức sự kiện nào để đánh dấu cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979 – điều đã làm nhiều cựu chiến binh và các nhà hoạt động xã hội thật vọng.

“Các lãnh đạo Việt Nam có thể đã bị phía Trung Quốc áp lực vì vậy họ không muốn nói về cuộc chiến tranh đó. Dường như họ muốn phủ nhận quá khứ”, Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc nói với AFP.

Truyền thông nhà nước cho biết lâu nay Trung Quốc là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với thương mại song phương hiện lên hơn 40 USD trong năm 2012.
Chủ nhật vừa qua, khoảng hơn 100 nhà hoạt động xã hội đã đến đặt hoa tại tượng đài Lý Thái Tổ tại trung tâm thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên, từ mờ sáng thì khu vực gần tượng đài Lý Thái Tổ đã xuất hiện hàng chục người chơi nhạc rất lớn và nhảy múa nhằm ngăn chặn những người biểu tình từ tổ chức buổi lễ tưởng niệm.
“Đó là việc cố ý … họ (chính quyền) thuê rất nhiều người”, kinh tế gia Nguyễn Quang A nói với AFP tại cuộc biểu tình ở Hà Nội.
Những người biểu tình buộc băng đỏ ngang đầu và mang theo hoa hồng trắng với dải ruy băng đen có dòng chữ “nhân dân không quên”, và sau đó họ đi quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm.
Họ đặt hoa và phát biểu ngắn gọn tại Đền Ngọc Sơn – một điểm đến du lịch nổi tiếng – trước khi phân tán một cách ôn hòa.
An ninh mặc đồng phục và công an đã theo dõi chặt chẽ sự kiện nhưng không thực hiện bất kỳ vụ bắt giữ nào.
Nguyễn Tiến Giới, người đã chiến đấu chống lại Trung Quốc ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, than vãn vì nhà nước cho đến nay vẫn chưa công nhận chính thức buổi lễ kỷ niệm cuộc xung đột năm 1979.
“Đồng chí của tôi và tôi cảm thấy buồn và tức giận nhưng chúng tôi có thể làm gì hơn? Chúng tôi vẫn phải chiến đấu để bảo vệ đất nước chúng tôi”, ông Giới – năm nay 57 tuổi, nói với AFP.
Truyền thông do Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát cũng đã có đưa một số tin liên quan đến dịp kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh với Trung Quốc nhưng không có bài báo nào về cuộc biểu tình hôm Chủ nhật.

Cat Barton, AFP/Yahoo News
Đặng Khương chuyển ngữ, CTV Phía Trước
© 2013 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC

Máu người không phải nước lã

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgoLGUD4T9zmX0sRA3xnB8wCEDgh40T0wPriJz1Ju_JnaBF3lA6xeAbtrkjE-SGbu5wiqBilqROQcNTMAbM8ajIU25ESu3nSRN56NzZgluR9QAMAQE39ozKxNkY8cAR8uTKpFpnWcZDfWDh/s1600/TuBinhVietNamTrongCuocChienBienGioiVietTrung1979.jpg
Các chiến sĩ QĐND Việt nam bị TQ bắt làm tù binh.
Phải đánh vật với bài viết này để đưa lên mạng kịp trong ngày 17.2 không phải vì đã cạn ý, nghẹn lời mà vì sự trăn trở chưa thể tự lý giải được cho mình : tại sao người ta buộc phải làm thế hay cứ muốn làm thế : Cố tình bắt dân tộc phải quên đi nỗi đau về một cuộc chiến tranh đã phơi trần bộ mặt thật của cái người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" trong suốt ngần ấy năm?
Không sao hiểu nổi khi cố tình lờ đi, quên đi, không cho nhắc lại, bỏ tù những ai muốn biểu tỏ lòng căm thù quân cướp nước gây nên cuộc chiến tranh đẫm máu trên đất nước ta do Trung Quốc tiến hành. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của Trung Quốc kể từ cuộc chiến Triều Tiên 1950, điều động 9 quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc lập với hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn hỏa tiễn cùng với sự yểm trợ của hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng phó. Một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc trên toàn tuyến biên giới với tội ác trời không dung, đất không tha, lặp lại điều cha ông chúng xưa kia đã từng làm : giết sạch, đốt sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị trấn khác bị san phẳng. Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã nhuộm đỏ trên biên cương tổ quốc.
Tôi vẫn cố tin và mong điều mình tin đó là sự thật : những người ra cái mệnh lệnh ấy, vạch đường lối ấy, thảo chủ trương ấy, đưa ra chỉ thị ấy dù là trên mực đen giấy trắng hay chỉ thị mật được truyền miệng trực tiếp đến các cấp ủy, đến hệ thống truyền thông, báo chí... cũng có trái tim yệu nước và căm giận bọn cướp nước. Vì, máu Việt Nam vẫn chảy trong huyết quản họ. Hàng ngày họ vẫn phải nhìn vào ánh mắt của con cháu họ, những ánh mắt tuổi thơ cần sự trong sáng và trung thực để lớn lên làm người tử tế. Họ, qua "đường giây nóng" hay chỉ là cấp thực hiện có thể ráo hoảnh thề thốt với phóng viên nước ngoài rằng không hề biết, hoặc không hề có những chủ trương, quyết sách, chỉ thị nọ, nhưng chẳng nhẽ lương tâm họ chai lỳ trước những lời nói dối để trong sâu thẳm tâm linh họ cũng chối bỏ nốt những thoáng dằn vặt hay run sợ " Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần".[Nguyễn Du]
Bởi chưng, máu người đâu phải nước lã! Anh linh của hàng vạn đồng bào và chiến sĩ của ta ngã xuống trên sáu tỉnh biên giới ba mươi lăm năm trước đây đã dồn góp vào, bối đắp thêm cho khí thiêng sông núi giữ nhịp cho mạch sống đất nước, đang nâng đỡ chúng ta, nhắc nhở chúng ta, soi rọi đầu óc chúng ta, và cũng nghiêm khắc trách phạt, căn dặn chúng ta hãy sống trong cuộc đời này như thế nào.
"Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về"[Trịnh Công Sơn]. Ấy vậy mà Nguyễn Gia Thiều lại từng cảnh báo : "Kìa thế cục như in giấc mộng. Máy huyền vi mở đóng khôn lường"! Trong sự "mở đóng khôn lường" đó, cuộc sống tự mở lấy đường đi cho chính nó. Mọi vương triều, chính thể đều cuốn trôi theo dòng thác thời gian để cho sự sòng phẳng nghiêm cẩn của lịch sử phán xét chúng. Lịch sử gần và lịch sử xa đang hòa quyện vào nhau trong sự đa dạng và nhiễu nhương của thời cuộc hôm nay.
Những Trần Hưng Đạo rồi Trần Ích Tắc thế kỷ XIII, những Quang Trung Nguyễn Huệ và rồi Lê Chiêu Thống, thế kỷ XVIII đang được nhân bản với những gương mặt "hiện đại" của thế kỷ XX, rồi thế kỷ XXI này càng làm nổi rõ thêm lực tỏa sáng cũng như sức trĩu nặng của "đôi vầng nhật nguyệt" trên hai vai những người đương thời! Mà lịch sử có khi đi những bước chậm rãi nhưng không thiếu những chuyển động đột biến. Thế rồi, nói như Einstein "trong ánh chớp của những cơn giông sáng lòe của một giai đoạn chuyển động, người ta thấy các sự việc và con người như trần truồng... Các dân tộc chỉ bị thúc đẩy để phát triển bằng nguy cơ và chấn động, mong rằng những chấn động này dẫn tới những hệ quả tích cực".
Vậy thì, những bàn tay dại dột đang cố tình che dấu sự thật có che được nòng súng quân Trung Quốc xâm lược của
pháo Bằng Tường dội sang xối xả
dằng dặc dòng người sơ tán đổ về xuôi

Lẫn lộn người Kinh, người Tày, người Dao
nào gánh, nào xe, nào gùi, nào vác
hiển hiện những ngày xưa loạn lạc
biên ải xưa giặc giã mới tràn vào
những gương mặt nghìn năm đanh sắt lại
máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới
vẫn mới cả nón mê cả áo vá chân trần...

Miếng cơm ăn lẫn cát bụi bên đường
giấc ngủ ngồi che hờ tàu lá chuối
ngôi nhà không bỏ trống sau lưng
đàn trâu lang thang lũ gà con xao xác
lũ trẻ con mắt tròn ngơ ngác
chân trẻ con lũn cũn chạy như đùa

Trẻ con trên ôtô, trên xe trâu, xe thồ
trẻ con trên lưng trẻ con trên tay
trẻ con lon ton níu váy níu áo
đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt nghiến trên vai
một đầu gánh là trẻ con còn đầu kia là nồi là gạo
mắt trẻ con cứ tròn thao láo
như hòn sỏi ném theo đoàn quân đi...
Bịt thông tin thì bịt, nhưng bịt "ánh mắt trẻ con cứ tròn thao láo" mà nhà thơ Nguyễn Duy miêu tả trong "chùm thơ mặt trận Lạng Sơn tháng 2.1979" thì quá táng tận lương tâm.
Ánh "mắt trẻ con cứ tròn thao láo" ấy đang nhìn ông chúng, nhìn cha chúng trong mâm cơm của các vị, trong giấc ngủ của các vị đấy. Chẳng nhẽ các cháu sẽ vẫn tiếp tục bị bưng bít về tội ác của quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến thanh biên giới tháng 2.1979 khi người ta gỡ bỏ yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa. Lời khẳng định “Đấu tranh bảo vệ chủ quyền là vấn đề khác, bằng các giải pháp hòa bình, còn lịch sử là lịch sử, sự thật là sự thật” cũng bị bóc khỏi các trang mạng và trang viết. Một tít lớn chạy trên trang điện tử của báo Thanh Niên : “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979-chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” chỉ giữ trên mạng có nửa buổi, sau đó biến mất! Chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân ‘Hướng về Hoàng Sa’ dự kiến diễn ra tại Công viên Biển Đông (Đà Nẵng) cũng bị hủy vào giờ chót với lời cáo lỗi tội nghiệp của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa, rằng "do công tác chuẩn bị chưa được chu đáo", một kịch bản vụng về.buộc người diễn phải ngậm bồ hòn làm ngọt để rửa mặt cho ai đó tọa lạc trên ngôi cao, quyền lớn.
Vậy thì ở đây, sự thật không còn là sự thật nữa hay ai đó sợ sự thật? Trang viet-studies ngày 11-2-2014 đăng bài của Hoàng An Vĩnh thì nói toạc ra rằng " Cuộc trao đổi qua đường dây nóng giữa ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng là lý do khiến Việt Nam đột ngột chấm dứt các hoạt động tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa và 35 năm Chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc 1979". Liệu đây có phải là "sự thật"?
Nhưng hình ảnh kèm ngay đây thì chắc chắn là sự thật 100% không có gì phải bàn nữa. Hãy xem người ta chỉ đạo đục bỏ dòng chữ Trung Quốc xâm lược trên tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê. Ai chỉ đạo. Ai? Chẳng nhẽ nhân dân ta "vì đại cục", muốn giữ "hòa hiếu" với nhân dân Trung Quốc đã tự ý "đục bỏ lòng yêu nước" của chính mình?
Và rồi ai chỉ đạo quét nhiều lớp nước vôi rất dày để làm mờ đi dòng chữ ghi tên người nữ anh hùng Hoàng Thị Hồng Chiêm được khắc trên bệ đá đặt bức tượng của người con gái từng là biểu tượng sống động của tuổi trẻ trên tuyến đầu biên cương tổ quốc?
Trong bài báo có tên "Lại đục bỏ lòng yêu nước", nhà báo Lê Đức Dục viết :
"Sau khi chị hy sinh, tên của chị được đặt cho ngôi trường cấp 2 xã Bình Ngọc (Móng Cái-Quảng Ninh) là trường Trung học cơ sở Hoàng Thị Hồng Chiêm. Ở góc trường có bức tượng chị Chiêm bằng xi măng đặt trên bệ đá, tay trái cầm khẩu AK, tay phải cầm thủ pháo, mắt nhìn thẳng kiên nghị về phía trước, chân dẫm lên chiếc mũ quân Tàu... Vậy rồi gần 4 năm trước, năm 2010, cũng không biết vì lý do gì, trường không còn mang tên Hoàng Thị Hồng Chiêm nữa, quay lại với tên cũ là trường THCS Bình Ngọc".
Chao ôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm với tầm nhìn xuyên suốt lịch sử về vị thế địa- chính trị của bán đảo hình chữ S này đã những muốn mở nước về phương nam để lùi xa bớt sức ép trứng chọi đá của nước láng giềng khổng lồ nhằm tạo dựng cái thế "vạn đại dung thân" Nếu cụ Trạng Trình mà sống lại thì chắc cũng phải lắc đầu chào thua cái "viễn kiến" hiện đại, tự co mình lại trong sự tự huyễn "lấy nhu thắng cương", kìm nén tối đa sức quật khởi của truyền thống dân tộc mà ông cha bao đời truyền dạy nhằm giữ lấy hòa khí với cái nước lớn "cùng chung ý thức hệ"!
Khốn nỗi, do lú lẫn hay hoang mang trong cơn bĩ cực đã biến chữ "nhu" thành nhu nhược, xúc phạm đến lòng tự hào dân tộc, gây phẫn nộ trong nhân dân. Về chuyện này thì lịch sử cũng đã có ghi, nhất là vào những thời đoạn suy mạt của những vương triều. Không thiếu những hoàng thân, quốc thích vì muốn giữ cái ngai vàng ruỗng nát đang lung lay đã quỳ gối trước các thế lực xâm lược hoặc chạy sang Tàu cầu viện. Vì quyền lực gắn với lợi ích của riêng của bản thân, gia đình, dòng họ, chúng đã phản bội tổ quôc, rước voi dày mã tổ, bêu tiếng xấu muôn đời. Thế nhưng, hình như lịch sử không thấy ghi những chuyện như kiểu "đục bỏ lòng yêu nước" của thời hiện đại!
Hãy ngược dòng thời gian để có cái nhìn đối sánh, lướt qua những gì mà những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống thời hiện đại cùng chung ‎thức hệ với Mao - Đặng và những hậu duệ của họ đã "vượt xa" những bậc tiền bối ra sao.
Thoát khỏi ách Bắc thuộc, bước vào kỷ nguyên Đại Việt thì tìm về dân tộc và thân dân là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc động vọng ngoại, giải Hán hóa, phải chăng đó là cội nguồn của hào khí "Đông A" khiến vương triều Trần huy động được sức mạnh của quân dân, "lấy ít địch nhiều", ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ XIII.
Sử gia Trần Quốc Vượng đưa ra một nhận định sâu sắc về ông vua thứ 7 báo hiệu thời suy vong của vương triều Trần : "Ông vua trụy lạc Trần Dụ Tông vẫn còn một điểm lương tri khi làm thơ ca ngợi đức độ Trần Thái Tông : "miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng". "Tuy đồng mà bất đồng" là một công thức hay để chỉ thế đối sánh Việt Nam-Trung Quốc. Đồng ở cách, bất đồng ở cốt, giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng, kết quả Trung Quốc hóa, hội nhập văn hóa với Trung Quốc trên bề mặt, khác nhau ở phần tiềm ẩn, bản chất- kết quả dân tộc hóa, giải Hán hóa dưới bề sâu. Thực thể dân tộc tính đầu đời Trần rõ ràng đến mức, trăm năm sau, cái ông vua thiếu quả quyết và bất lực như Nghệ Tông cũng biết nói một câu khôn ngoan, đúng đắn : "Triều đình ngày trước dựng nước tự có pháp độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam, Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau".
Xin nhớ là nhà sử học uyên bác này chỉ điểm xuyết đôi dòng về thời suy mạt của một vương triều để chỉ ra điều nổi bật nhất trong tâm thế Việt Nam : quyết không bao giờ khuất phục phong kiến phương bắc cho dù kẻ bành trướng có sức mạnh áp đảo quyết đẩy dân tộc mình vào cái thế "châu chấu đá xe".
Chỉ e răng có khi vị sử gia uyên bác này chưa lường được cái sức mạnh của "ý thức hệ" được ghi đậm trên mười sáu chữ bịp bợm vẫn đang phù phép, biến hóa những việc làm phi đạo l‎ý, thất nhân tâm, quay lưng lại với dân, chà đạp lên truyền thống dân tộc biến thành "tinh thần cảnh giác cách mạng" nhằm chống lại "các lực lượng thù địch" làm mất uy tín của Đảng khi mà "còn Đảng là còn mình". Chẳng thế mà một ông từng giữ chức rất to không úp mở vòng vo, đã nói toạc ra rằng "mất vài hòn đảo chưa sao, mất Đảng là mất tất cả".
Chẳng trách mà bọn xâm lược đang nuôi mộng siêu cường sẵn sàng làm tất cả để thực hiện chủ nghĩa bành trướng sẵn sàng hà hơi tiếp sức cho những người đang cố níu kéo cái ‎"ý thức hệ" lỗi thời đã mục ruỗng nhưng vẫn đang là cái bình phong che chắn cho một thể chế chính trị đang triệt tiêu động lực của sự nghiệp phát triển đất nước.
Chẳng phải là khi Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979 xua hơn 60 vạn quân tràn sang sáu tỉnh biên giới thì "điều thực sự mà Trung Quốc muốn là " làm cho Việt Nam bị kiệt quệ cả về quân sự và kinh tế, và điều này sẽ diễn ra lâu dài". Đây là nhận định của tạp chí Mỹ" Tuần tin tức", số ra ngày 21 tháng 3 năm 1979.
Trong chuyến thăm Mỹ trước đó, ngày 1.1.1979, Đăng Tiểu Bình đã thăm dò về cuộc chiến tranh chốngViệt Nam và phản ứng của Mỹ. Với ông ta, đánh Việt Nam chính là cách vạch rõ ranh giới bạn-thù, nói rõ Trung Quốc không còn anh em, tình nghĩa gì với Việt Nam nữa. Tại Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Mỹ, Đặng nói : “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi, vì hòa bình và ổn định của thế giới, vì chính đất nước mình, chúng tôi có khả năng không thể không làm những việc mà chúng tôi không muốn làm”. Tại Tokyo, Đặng nói với Thủ tướng Nhật Tanaka: “Không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền”, “ đang suy tính, để trừng phạt dù có gặp những nguy hiểm nào đó cũng phải hành động”, ..“đối phó với loại người như thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả”. Thế đó!
Thật ra thì không phải đợi đến tháng 1 năm 1979, sau khi Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, từ năm 1975 Trung Quôc đã thực thi chuẩn bị chiến tranh chống Việt Nam, cái gai mắc ngang cổ họng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán không cho chúng nuốt trôi các nước Đông Nam Á và chiếm trọn Biển Đông.
Tên lính xung kích được chúng sử dụng là bè lũ diệt chủng PolPot ở Campuchia. Trung Quốc hứa viện trợ không hoàn lại cho chính quyền PolPot một tỉ đôla trong vòng năm năm, bao gồm kinh tế và quân sự. Theo AFP thì số viện trợ đó chiếm hơn một nửa tổng số viện trợ của Trung Quốc cho nước ngoài. Đặc biệt là về quân sự : từ bảy sư đoàn năm 1975 lên 23 sư đoàn; giúp xây dựng ba thứ quân và các binh chủng. Tổng số vũ khí mang nhãn hiệu Trung Quốc lên tới 450 khẩu pháo lớn, 294 xe tăng, 1.200 xe các loại, 42 máy bay; Trung Quốc đã cử hàng nghìn cố vấn quân sự đến Cam-pu-chia.
Thực chất cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam là nhằm thực thi âm mưu và thủ đoạn của người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" cùng chung "ý thức hệ" chứ chẳng phải là ai khác cả. Chẳng những thế, Đặng Tiểu Bình còn láo xược gọi các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc tấn công Việt Nam khi nhân dân ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài ngót nửa thế kỷ, mình còn đầy thương tích là nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học".
Không hiểu những người trung thành với cái gọi là "ý thức hệ " với Đặng Tiểu Bình và những người kế tục ông ta đang ra sức bảo vệ cho mười sáu chữ bịp bợm có nhớ về "bài học" này không? Có thể người ta cố tình quên, nhưng thế giới thì họ nhớ. Tại Mỹ, bài báo nhan đề “ Ai cho ai bài học" trên nhật báo phố Wall số ra ngày 6 tháng 3 năm 1979 đưa ra nhận xét : “ Sau khi tính số lỗ lãi của đòn trừng phạt Việt Nam vừa qua của Trung Quốc, thế giới có thể nhất trí rằng : Trung Quốc đã phải rút khỏi cuộc chiến tranh với uy tín bị tổn thương và mặt mày đầy máu me, thương tích …".
Có người lại cố nghĩ rằng, không phải cố tình quên mà là cao kiến hơn, người ta cố nín nhịn để vận dụng chính sách Câu Tiễn sau khi thua trận ở Cối Kê, quyết nằm gai nếm mật để phục thù, rửa hận lấy lại giang sơn? Nếu có được cái quyết tâm đáng kính đó thì hãy nhớ rằng, những hậu duệ của Ngô Phù Sai thế kỷ XXI này ranh ma quỷ quyệt gấp vạn lần bậc tiền bối của họ. Hãy đọc lại những lời nham hiểm của Đặng Tiểu Bình vừa nêu ở trên thì cũng thấy được phần nào trong khi những Ngũ Tử Tư của thời hiện đại này thì chẳng ai chịu rỗi hơi khuyên can những người bị điếc đặc bởi tai đầy ắp những giáo điều ẩm mốc đã biến thành kinh nhật tụng.
Hay là ai đó định chịu nhục như Hàn Tín thuở hàn vi phải chui qua háng của anh bán thịt giữa chợ để mưu sự nghiệp kinh bang tế thế mà cuối thế kỷ XXI này không biết có thấy được không. Rõ ràng là chuyện "đục bỏ lòng yêu nước", hay cuống cuồng trước sự cau mày phật ‎ý hoặc lời khiển trách qua đường dây nóng, so với chuyện chịu nhục để "lấy được thiên hạ" của người tráng sĩ ở Hoài Âm xưa thì chẳng thấm vào đâu. Chỉ có điều, những Lưu Bang, Hạng Vũ nơi xứ sở của hơn tỷ dân đang nuôi mộng siêu cường hôm nay không dễ bị lừa bởi những mưu vặt của người không biết khai thác cái lợi thế mà thời đại đang tạo ra để tự mình vươn lên hội nhập vào thế giới văn minh, tự cô lập để vuột mất thời cơ. Mà mất thời cơ là cái mất lớn nhất.
Ấy vậy mà, trong khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu này thì bộ máy truyền thông Trung Quốc, từ thông tấn báo chí đến văn học nghệ thuật suốt 35 năm nay đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ và dân chúng họ "về cuộc đánh trả tự vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân TQ vẫn hiểu rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công , bắt buộc quân đội họ phải tự vệ !
Và, cũng do sự "nín nhịn" vì "đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước ta hầu như không biết về cuộc chiến tranh xâm lược do Trung Quốc tiến hành. E rằng, Hứa Thế Hữu, viên tướng Tổng chỉ huy quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới đã thất bại với chiến lược biển người quen thuộc chắc cũng tự an ủi rằng mình không bị chết bỏ mạng như viên tướng xâm lược của thế kỷ XVIII cũng họ Hứa, đề đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh, mà lại được thăng chức. Oái oăm hơn nữa là mười năm sau, ngày 19.9.2008 lại được báo Hà Nội Mới, "tiếng nói của Đảng bộ và Nhân dân Hà Nội" trong một bài viết nhan đề là "Thu phục tướng tài" đã ca ngợi viên tướng xâm lược bắn giết dân mình ở biên giới, hậu duệ của viên tướng xâm lược thế kỷ XVIII, là một tướng tài. Cần nói thêm rằng, Hứa Thế Hữu cũng chính là viên tướng chỉ huy cuộc đánh chiếm Hoàng Sa!
Đến Lê Chiêu Thống, kẻ đã rước Hứa Thế Hanh vào nước mình cũng chưa hề được nghe nói hay được đọc dòng nào là y đã tán tụng những tên xâm lược như hôm nay người ta đang làm. Quả là chẳng còn gì để nói.
Vì thế, không lạ khi vào những năm chẵn như năm vừa rồi kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đó kỷ niệm cuộc chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" đòn quyết định đánh sụp sức mạnh không quân của đế quôc Mỹ, đưa tới việc k‎ý kết Hiệp định Paris, các cuộc kỷ niệm ấy diễn ra rất rầm rộ và hào hùng. Thế nhưng, kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới đánh tan gần 60 vạn quân xâm lược Trung Quốc thì không khí lạnh tanh! Có chăng chỉ có sự náo động của lực lượng trấn áp, kể cả côn đồ được thuê để hành hung người biểu tình hô khẩu hiệu yêu nước chống bọn xâm lược.
Mọi sự dài dòng giải thích hay cao giọng rao giảng nhằm hạ nhiệt những bức xúc đang sục sôi trong tâm trạng xã hội trở nên trơ trẽn trước thực tế phũ phàng của những điều vừa dẫn ra! Chính cái đó nói lên tại sao lòng dân ly tán, trật tự an toàn xã hội rối loạn. Khi mà sự nói dối lộ liễu, "sự nói dối vĩ đại", đang cầm chịch cho nhịp đập của xã hội thì trách gì chuyện văn hóa xuống cấp, đạo lý‎ suy đồi.
Vậy thì, nếu " dân tộc và thân dân" là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc động vọng ngoại, giải Hán hóa buổi mở đầu kỷ nguyên Đại Việt cách đây mười thế kỷ khi đất nước khỏi ách bắc thuộc thì trong thời đại của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức hôm nay, biết vứt bỏ cái ‎ý‎ thức hệ lỗi thời, đặt lợi ích của dân tộc và tổ quốc lên trên hết và trước hết để thực tâm mở rộng dân chủ, công khai và minh bạch xây dựng nhà nước pháp quyền và mạnh dạn phát huy sức mạnh của xã hội dân sự nhằm huy động ‎ý chí và sáng kiến của dân, tạo ra một động lực mới, thúc đẩy phát triển. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, và cuộc sống sẽ mở đường đi cho chính nó.
Máu của đồng bào và chiến sĩ ta đổ ra trong các cuộc chiến tranh giữ nước đã thấm đẫm từng tấc đất, thước núi, triền sông, vụng biển sẽ không uổng nếu mệnh lệnh ấy của cuộc sống được thực hiện.
Ngày 16.2.2014
Tương Lai
(Quê choa)

Đào Tuấn - Chiến tranh trong mắt ai

Bia trấn ải bên đồn biên phòng Pha Long.
Chiến tranh như con rắn độc

Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5.3.1979, chiến tranh vẫn liên miên ở Hà Giang, kéo dài suốt đến những năm 1988. Nhưng tới giờ, chiến tranh, như con rắn độc, vẫn lẩn quất đâu đó đối với ngay cả những người sinh ra sau cuộc chiến.

Trở về từ Thung lũng Gọi hồn

Chúng tôi vòng vèo khắp Tam Nông đi tìm anh Lê Quang Thống, em cô Luyến, để rồi, đứng sững ngay trước mặt là một người đàn ông bé nhỏ, đen đúa và cáu bẩn trong bộ quần áo công nhân nhem nhuốc. Trên đầu anh và ngay trên con mắt trái, phủ một lớp mùn cưa, khi anh như chui ra từ đống bạch đàn.

“Chú chưa hết giờ làm, nhưng hẵng cứ vào đây làm hớp nước” – người đàn ông mới 48 tuổi nhưng “đã toan về già” vì lam lũ, nói như càu nhàu, kéo ghế rót nước mời chúng tôi.

Anh Thống “năm 87” là lính sư 314. “Đóng ở đâu hả? Nằm chứ đóng gì. Pháo nó dập cho suốt ngày. Bảo nằm mà lại dám đứng! Nằm chốt Vị Xuyên, Thung lũng Gọi hồn. Tại sao là Thung lũng Gọi hồn á? Thì hi sinh nhiều quá thì gọi là Thung lũng Gọi hồn chứ sao” – anh Thống trả lời như “gẩy liên thanh AK”. Ra đó là một người đàn ông vui tính.

Năm đó, anh Thống, như biết bao thế hệ thanh niên ở đất nước này hăng hái lên đường tòng quân.

Sau mấy tháng “đủ để (bắn từ) tắc đọp sang tành tành”, những người lính trẻ được đưa tới địa danh nổi tiếng của đất Vị Xuyên, Hà Giang là Hang Dơi, để rồi sau đó, lên chốt.

3h sáng một ngày năm 1988, tổ tam tam của anh Thống đang “nằm chốt” khu vực “tuyến hào Mùa xuân”, dưới chân “đài Z” thì pháo, cối Trung Quốc nã sang suốt 30 phút. Ngớt tiếng pháo, bộ binh Trung Quốc theo kèn tiến lên chiếm chốt để lấy đường đánh lên hang 70. Tổ tam tam của Thống sau khi “cứ thong thả” nã hết cơ số đạn thì buộc phải rút. Và ngay khi đó, anh dính mảnh đạn cối.

2 người đồng đội đã khiêng anh “rúc vào một khe đá”. Anh nằm đó tới 7h tối mới được vận tải cứu ra.

Một mảnh đạn cối đã cướp của anh một con mắt. Và người lính ấy cũng để lại mảnh đất biên cương một quả thận.

Cuộc chiến tranh biên giới hoàn toàn không hề ngừng lại sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 5.3.1979.

Ở Vị Xuyên, Hà Tuyên, cuộc chiến kéo dài đến năm 1988 với sự ác liệt lên cao điểm vào giai đoạn 1984-1985. Theo một bức điện của hãng thông tấn RFA điện từ Bắc Kinh, năm 1985, trong số 1 triệu phát đạn pháo bắn trên toàn tuyến thì riêng Vị Xuyên đã hứng 800.000 phát. Có những dải đồi bị pháo Trung Quốc nã đến mức như nhuộm vôi, lở loét đến nỗi không một cành cây ngọn cỏ nào có thể sống.

Cuộc sống của những người lính 314 năm đó là nằm giữ chốt, hứng pháo, đánh nhau với “bọn sơn cước giày 3 đanh” và với cả “em Ngọc Ánh”.

Ngày nào pháo Trung Quốc cũng bắn sang. Dăng ô khắp nơi. Pháo đến mức nhàm tai. Kệ pháo, cứ nằm khểnh nhổ râu. Chỉ đánh nhau khi có tiếng pháo “dọn đường” bởi sau đó bộ binh Trung Quốc sẽ tràn lên chiếm chốt. Chỉ đến đêm, công việc của người lính mới bắt đầu với một cái xẻng, để đào hầm và khẩu AK, chống lại lính sơn cước giày 3 đanh.

“Em Ngọc Ánh là ai?” – Tôi hỏi anh.

À đó là “Hòm thư Ngọc Ánh”, là chương trình phát thanh tâm lý của Trung Quốc. Cứ 19h, loa bằng cái giường từ trên đỉnh phát xuống. Nào là về với vợ con đi. Nào là “Xuân này con không về”. Lải nhải suốt đêm: “Chị đã nhìn thấy hầm em đào. Đừng có ở đó, chị bắn đấy”. Xen giữa màn tra tấn tâm lý, là pháo cối và lính “giày 3 đanh” âm thầm đột nhập, chứ đâu có thể thư giãn với âm nhạc.

Một bóng đen thoáng qua vầng trán người lính. Nó bắn trúng hầm thật. Vừa nói nhìn thấy mình đào hầm tối trước, tới 7h sáng, 2 quả pháo giáng đúng hầm nóc hầm của C2.

Giọng nói người lính chốt năm xưa trở nên xa xăm. Đại đội anh hơn 60 đã hy sinh 14 người sau chỉ 2 trận đánh.

Còn anh, trở về như một người anh hùng khi một con mắt và một trái thận đã gửi lại nơi biên viễn.

Những bàn tay chai nối những… bàn chân

Công việc của những người lính Vị Xuyên năm ấy là đào hầm tránh pháo, những căn hầm xuyên vào đá núi. Bàn tay “có thể dùng làm thớt”, chai sạn đến nỗi không thể bật máu được nữa.

Nhưng bàn tay người anh hùng trở về năm ấy vẫn chưa thôi chai sạn.

Lê Quang Thống trở về với “thước ngắm đít trâu”. 3 đứa con đi học với đồng tiền thương binh 2/4 chính xác là 2 triệu lẻ 70 ngàn, khiến cuộc sống vô vàn chật vật.

Cuộc sống của anh là chuỗi dài mưu sinh. Sáng: Ra ruộng. Chiều, làm tất cả những gì có ai đó thuê mướn. Và “bảo vệ nhà trẻ” để mỗi tháng có thêm 1 triệu đồng.

Bữa tôi gặp, anh đang đi bóc vỏ cây thuê. 120 ngàn một ngày. “Có việc như thế này, vất vả tí chút, nhưng có việc là may lắm rồi, bù cho những ngày ngồi nhà nhổ râu vặt”.


Cái mừng, con mắt còn lại của người lính năm xưa rực sáng, là cả 3 đứa con đều học đại học.

Tháng 2 năm nay, trên những địa danh đẫm máu năm xưa Làng Lò, Hang Dơi, Thung lũng Gọi hồn, đồi Cô Ích, Cốc Nghè, 4 hầm, điểm cao 1509… hoa đào đượm sắc trong giá lạnh.

Cách Thung lũng Gọi hồn, Vị Xuyên không xa có một ngôi nhà gỗ nhỏ của Hầu Xào Chung.

Chàng trai người Mông sinh năm 1981 ở bản Hoàng Lỳ Pả chưa từng biết, chẳng từng nghe chút gì về cuộc chiến tranh từng ác liệt ngay trên dãy núi sau nhà. Cho đến cách đây 4 năm.

Hôm đó, Hầu Xào Chung đi nương trên Sì Khà Láng, dưới chân cao điểm 1030 thủa nào. “Mình đi bình thường thôi” – lời Chung. Đang đi thì mìn phát nổ. Một quả mìn còn lại từ những năm 79-88 đã khiến bàn chân Chung nát bấy.

Anh chỉ nhớ là đã phải bò lê trên đất, nước mắt giàn giụa trong đau đớn và lấy hết hơi tàn để thi thoảng lào khào vài tiếng kêu cứu. Chân Chung sau đó phải cắt ngang ống đồng. Giờ đây, anh quấn nó trong giẻ, nhét vào một chiếc ống bương để lọc cọc lê lết đi lại trên đá…
Đối với Hầu Xào Chung, chiến tranh là hiện hữu nguy cơ khiến người ta không còn nguyên vẹn trở về với tổ tiên

Chỉ riêng một thôn Hoàng Lỳ Pả đã có 6 người cụt chân do dẫm phải mìn. “Mìn ở đây còn nhiều lắm, dân đi chẳng dám rẽ ngang rẽ tắt – một cán bộ địa phương phàn nàn, thì đấy, hồi sư 316 lên dò mìn, ngay ở trong một cái khe đã phát hiện tới 40 quả mìn dưới tán một cái cây”.

3 hôm sau, Chung nhờ người anh lên Sì Khà Láng tìm lại bàn chân chết và nong nó lên gác bếp, để sau này, khi về với ông bà tổ tiên, có thể mang bàn chân hoàn nhập cùng thân xác.

Giờ đây, hàng ngày, Chung cùng với những người anh em của mình vẫn đi rừng. Anh không nói, nhưng chúng tôi biết rằng nghề chính của anh là làm thớt nghiến. Chẳng phải sau lưng anh, ngay dưới dãy núi răng cưa, với những cao điểm lừng danh 1030, một con đường mòn như sợi chỉ vắt sang bên kia biên giới con đường thớt nghiến sang Trung Quốc.

Nhớ hôm ngồi với một “ông Hội đồng” vừa đi tiếp xúc cử tri về tay nới… cà vạt miệng oang oang: Tiếp xúc cử tri ở bản, người dân chỉ “mong muốn kiến nghị” xã cho một cái nồi 3 chảy (nồi nấu 3 bò gạo), một cái chảo gang và 2 bộ ly. Chảo thì để nấu…thịt trâu rồi. Nhưng ly để làm gì. Vị hội đồng cười: Ly để… nào, làm một ly đi anh.

Cái tâm thế người Mông vùng cao Hà Giang chỉ đơn giản là phải mạo hiểm vì miếng cơm, ly rượu. Chung không phải là người hiện sinh chủ nghĩa như Hữu Loan với “Màu tím hoa sim”, cho nên đừng ai hỏi anh về chiến tranh. Chỉ đơn giản, chiến tranh là mìn Tàu.

Với Chung, với không ít những người dân ở Hoàng Lỳ Pả, ở Mã Hoàng Phìn, chiến tranh là hiện hữu nguy cơ biến người ta thành “chấm phẩy”, không còn được nguyên vẹn để về với tổ tiên.

Gió lạnh buồng đào

Có một bó hoa cúc vàng rực rỡ được đặt lên kệ thờ trong nhà bà giáo về hưu Lê Thị Luyến ở Tiến Thịnh, Tam Nông, Phú Thọ vào ngày 14.2.2014. Đó không phải là những đóa hoa Valentine. Chỉ là từ 35 năm nay, vào mỗi tháng 2, bà lại đặt lên ban thờ chồng một lọ hoa cúc vàng.

Lúc đó là 11h30 phút trưa 17.2.1979, sau một buổi sáng lên lớp với “sự bồn chồn như là linh tính”, cô giáo Luyến, trở về căn lán nhỏ trong khu tập thể giáo viên ở Tân Lập, Phú Thọ. Phòng tranh, vách nứa vọc vạch. Và bản tin chiến sự trên Đài tiếng nói Việt Nam từ bên phòng hiệu trưởng vọng sang. Bắt đầu bằng cái tin “như thanh gươm đâm suốt qua tim”: Trung úy Phạm Văn Vụ – Đồn phó đồn 131, Công an vũ trang Mường Khương đã anh dũng hy sinh.

Duyên hảo cầu sao bỗng dở dang

Cô giáo Luyến, năm đó mới 23, chỉ nhìn thấy lờ mờ trước mắt khuôn mặt âu lo hốt hoảng của những người đồng nghiệp vừa ùa sang. Ai cũng nói có thể có sự nhầm lẫn. Nhưng đó là linh cảm. Nhưng cô biết đó là sự thật. Cô ngất lịm trong tay bạn bè đồng nghiệp.

Nỗi đau của người vợ trẻ không có câu chữ nào có thể tả nổi.

35 năm sau, ký ức buổi trưa và bản tin sét đánh hôm ấy vẫn tràn trụa trong những hàng nước mắt người già. Những hàng nước mắt mờ đục bởi thời gian và đau thương mà có lẽ 35 hay bao nhiêu năm cũng không thể gắn hàn.

Họ yêu nhau 4 năm sau một lần anh về phép. Hòm thư của anh ấy đến giờ cô vẫn nhớ: Hòm thư 8268 Hoàng Liên Sơn. Năm đó, anh mới 27, còn cô vừa 23.

Bữa cưới nhau ngồi chờ bên bến đò Hưng Hóa, ai cũng nói họ đẹp đôi nhất vùng.

Bữa cưới nhau, lễ cưới của một cô giáo hậu phương với anh bộ đội nơi tuyến đầu biên giới, ai chúc cũng nói đến “trăm năm hạnh phúc”.

Bữa cưới nhau, họ như hai đứa trẻ, thẹn thùng trong tấm chăn hoa cà bông đỏ.

Chưa tới 10 hôm thì anh nhận điện trở về đơn vị. Cô còn nhớ như in rằng: Người cha, khi ấy còn động viên con lên đơn vị càng nhanh càng tốt. Và hàng chục năm sau ông vẫn băn khoăn về lời động viên ấy, dù với ông, đã là lính thì không thể có sự lựa chọn nào khác. Đã là người lính thì không thể để tình riêng xen lẫn vào việc công.

Hôm chia tay, anh chở cô trên chiếc xe đạp, 60km, đưa cô lên trường ở Tân Lập, nắm tay cô bảo rằng: Khi nào anh về phép sẽ từ đơn vị về thẳng trường đón em. Anh còn nói mình có con, trai sẽ tên là Việt, gái sẽ gọi là Phương.

Thế rồi, anh ra đi và không bao giờ trở về nữa.

Anh bắn đến viên đạn cuối cùng. Và khi anh dũng hy sinh, trên tay vẫn còn một quả lựu đạn chưa kịp mở chốt. Cô không quên. Đó là Tả Ngải Chồ. Là Mường Khương. Là Lào Cai. Và là một đâu đó trên mảnh đất Việt.

Cuộc chiến nào thì đau thương nhất vẫn chỉ là những người phụ nữ. Những bà mẹ mất con. Những người vợ mất chồng. Cô giáo Luyến có chưa tới 10 ngày hạnh phúc để đau khổ suốt 10 năm sau đó.


Thời bình của một người lính trở về sau cuộc chiến tranh biên giới

“Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt;

Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương”.

Phải chăng là Ngọc Hân công chúa đã một lần nói hộ nỗi lòng những người phụ nữ mất chồng đêm đêm xoạt xoạt trở mình tự hỏi “Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?”.

“Có lẽ cô quá yêu chú. Cô quá nặng tình” – cô giáo, giờ phải gọi là bà, giấu khuôn mặt trong tay áo.

10 năm sau đó, không đêm nào cô không nhớ tới người chồng.

Cô lao vào công việc, đi giáo viên màng lưới khắp những vùng xa khó nhất. 10 năm không còn một người đàn ông nào khác trong mắt người vợ mất chồng. 10 năm, cô nhận nuôi thằng út của chị gái, thằng Nghĩa Tồ, để anh rể, một người lính khác, yên tâm cầm súng ở Yên Minh, Hà Giang.

Nỗi cô đơn 35 năm

10 năm yên phận thờ chồng, mãi đến năm 1989, khi thằng Nghĩa Tồ đủ lớn khôn để quyết trở về với mẹ, cô giáo Luyến, một lần nữa khóc hết nước mắt trước nỗi cô đơn, “tứ phía chỉ toàn tường là tường, chăn đắp thế nào cũng thấy lạnh lưng”.

“Giống như y là định mệnh” – cô giáo Luyến thoáng như là thở dài. Trước hôm cưới, trên mu bàn tay người yêu có một vết thương nhỏ. Cô lấy nước muối rửa cho anh hỏi rằng bị sao. Anh mỉm cười hỏi lại “Nếu anh bị thương cụt chân cụt tay thì em còn yêu thương anh nữa không”. Cô bấy giờ không trả lời, đưa tay lên bịt miệng anh.

Run rủi thế nào đó, sau 10 năm thờ chồng, cô mới lại tìm thấy sự thông cảm. Và nói thế nào nhỉ. Người chồng mới Trần Xuân Lập, khi ấy là một thương binh hạng 1/4 (hạng nặng nhất) với đôi chân bị liệt hoàn toàn, cũng trên biên giới phía Bắc, cũng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc vĩ đại của dân tộc.

Bữa chúng tôi ghé thăm, chú Lập không có nhà. Vết thương chiến tranh từ năm 1981 và cuộc sống gần như bất động trên xe lăn đã sinh ra biết bao nhiêu căn bệnh, khiến người anh hùng ngày đó giờ sống gần như cả năm trên Khu điều dưỡng thương binh cách xa nhà không chỉ là khoảng cách vài chục cây số. 2 người có với nhau một con gái, đặt tên Phương (!!!) và đương đi học xa nhà.

Cô quạnh quá. Cô giáo Luyến ngồi tách những hạt ngô đỏ bầm như máu, mắt nhìn ra xa xăm trong căn nhà trống huơ trống hoách. Giờ có những nỗi lo khác. Lo con gái sẽ lấy chồng xa quê. “Nó đã có bạn trai ở tận trong Thanh Hóa”. Lo không xin được việc cho con gần nhà. Nỗi lo của một người phụ nữ đã cả đời cô đơn.

Liệu có ở nơi đâu trên trái đất này có những người phụ nữ mòn mỏi trong chờ đợi. Đợi tin người một cha chiến sĩ; Một người chồng liệt sĩ hy sinh trong ngày 17.2.1979; Một người chồng là thương binh mặt trận Hà Tuyên; Người em, có giấy báo đỗ đại học Tổng hợp văn, xin gác bút lên đường ra biên giới. Và một đứa em nữa trở về từ mặt trận Vị Xuyên năm 1988 sau khi đã gửi lại mảnh đất địa đầu một quả thận và một con mắt.

Chiến tranh. Phải. Chiến tranh là gì, ở đâu đó. Chính chiến tranh, chứ không phải số phận, đã khiến vô số những người phụ nữ Việt Nam sống cả cuộc đời trong mất mát, trong nỗi khắc khoải của sự cô đơn.

Gặp lại tác giả “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”

Chiến tranh có thể là sự ác liệt nhưng hào hùng với đạn rơi máu đổ của những chiến binh chốn sa trường. Chiến tranh, cô đơn và mất mát ngay trong cái dáng ngồi dựa cửa của người thiếu phụ chờ chồng. Chiến tranh, cũng có thể là sự ngơ ngác của một người dân thời bình bỗng một ngày trở thành phế nhân.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên: Lịch sử muôn đời duyệt lại/ Không ai lừa được cuộc đời.

Và chiến tranh, chẳng có gì quá lời khi nói đó là cảm giác hào hùng và tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đã có sẵn trong dòng máu Lạc Việt từ cả ngàn năm nay.

Có một nhạc sĩ, đã 35 năm qua, vẫn nhớ như in cái cảm giác hào hùng năm ấy. Ông là Phạm Tuyên, tác giả của “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”.

Năm 1979, nhạc sĩ Phạm Tuyên đang phụ trách âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam. “Không khí biên giới hồi đó đã rất căng thẳng – ông nhớ lại – Đụng độ từ trước đó mấy năm”. Trước đó, ông đã đi thực tế để viết bài hát “Chúng tôi là đồng đội của Lê Đinh Chinh”, nói về tấm gương hy sinh của người liệt sĩ đầu tiên ngã xuống trên biên giới phía Bắc.

Tối 17.2.1979, người nhạc sĩ đã ngồi lặng đi khi nghe tin quân xâm lược Trung Quốc đã tràn qua biên giới. Bản tin nói rất rõ lời lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình bảo phải dạy cho Việt Nam một bài học. Đó là sự căm phẫn. Và đó cũng là cảm giác hào hùng. Mấy ngàn năm nay, đất Việt đâu cũng có Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa.

“Tôi viết rất nhanh. Ngay trong đêm 17. Trong ngày 18, bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” với câu mở đầu “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Ngày 20.9.1979, tức là 4 ngày kể từ khi quân xâm lược thêm một lần nữa giày xéo mảnh đất này, bài hát được phát trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên nhớ lại cái “cảm giác phát khóc” khi những người dân, những anh cán bộ, những người lính ở Tây Nguyên, ở Khu 5 nhắn với ông rằng họ ước sao có đôi cánh để bay ngay ra biên giới phía Bắc chống quân xâm lược.

Đất nước này ngàn năm trước Sát Thát và ngàn năm sau cũng vẫn là như vậy thôi. Cảm tử cho tổ quốc là tinh thần đã chảy sẵn trong huyết quản người Việt rồi.

Bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” ban đầu được viết dưới dạng hành khúc, hào hùng tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất với những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa có trong ca từ. Nhưng đến đoạn điệp khúc, đáng ra phải là một giai điệu mang âm hưởng hào hùng, nhưng Phạm Tuyên nói ông không thể viết được thế.

“Đến đoạn điệp khúc, tôi nhớ đến đất nước Việt Nam bao đau thương vừa trải qua cuộc chiến tranh dài với hy sinh, mất mát. Bao nhiêu xương máu của cha ông, của lớp lớp các thế hệ người Việt đã đổ xuống để bảo vệ mảnh đất này. Chẳng phải là lịch sử đã trao cho Người sứ mệnh bảo vệ tổ quốc đó sao”.

Còn câu kết của bài hát: “Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người: Độc lập – Tự do”, nhạc sĩ Phạm Tuyên nói ông dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và chăng, độc lập, tự do cũng là khát vọng ngàn đời của người dân Việt.

Phạm Tuyên sau đó đi Quảng Ninh viết “Có một đóa Hồng Chiêm” để ca ngợi người nữ liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm đã hy sinh oanh liệt trên đỉnh Pò Hèn. Bản nhạc được đăng trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 13.7.1979, với câu mở đầu “Có những đóa hoa dịu dàng không rực rỡ/ nhưng sắc hương thắm mãi chẳng hề phai… Đồi Pò Hèn nở đẹp một đóa hoa”.

Vào ngày 5.3, khi Chủ tịch nước ra lệnh Tổng động viên, nhạc sĩ viết bài hát nổi tiếng “Tiễn thầy giáo đi bộ đội”, từ một câu chuyện có thật khi những người thầy tạm rời bục giảng, những sinh viên gác bút nghiên nắm chắc cây súng trước hiểm họa xâm lăng.

35 năm qua, âm hưởng “những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa” vẫn luôn vang vọng.

Đào Tuấn
(Lao Động)

Vấn đề Nạn Kiều năm 1979

Tháng 8-1978 tại Ga Hàng Cỏ, và sau đó ở Lạng Sơn, đã nổ ra hai cuộc biểu tình của người Hoa. Chính quyền nhanh chóng dập tắt, tuy nhiên, chuyện “gián điệp Trung Quốc” được nói đến gần như vào mỗi tối thứ Bảy hàng tuần trong tiết mục “Kể chuyện cảnh giác” của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: “Ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam, bắt tay với Mỹ… Nhưng nói cho khách quan, phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh”. Ở một số địa phương, vấn đề người Hoa đã ngấm ngầm xảy ra từ trước đó.
Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Phòng, Ban Hoa vận đã vận động người Hoa bỏ chữ “kiều” trong tên gọi các cộng đồng ngoại kiều khác để trở thành một dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Họ đã phải “bình đẳng” chịu “cải tạo” trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp tiến hành ở miền Bắc cuối thập niên 1950 và bắt đầu chịu áp lực nhiều hơn kể từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.
http://www.bbc.co.uk/worldservice/assets/images/2009/02/090226143716_vietrefugees1978_512_288.jpg
Toàn bộ Hoa kiều bị ép đi ra nước ngoài
Từ cuối năm 1976, người Hoa ở Hải Phòng, Quảng Ninh, đã không được làm những nghề “có thể làm gián điệp” như thợ cắt tóc, thợ điện gia dụng, không được quan hệ với người nước ngoài… Ông Trịnh Văn Trọng có vợ, nhà thơ Dư Thị Hoàn, là người Hoa ở Hải Phòng. Ông Trọng kể khi chiến dịch “nạn Kiều” bắt đầu, người Hoa ở Quảng Ninh, Hải Phòng, ra đường thì bị kêu là “thằng Hán gian”, về nhà thì gặp cán bộ phường tới phân tích: “Tình hình Việt Nam-Trung Quốc rất căng, nếu ở lại không biết điều gì sẽ xảy ra. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho người Hoa trở về Tổ quốc”.
Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh còn cứng rắn hơn bởi bàn tay của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên 1970, Quảng Ninh có hơn mười sáu vạn người Hoa nói các thứ tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường riêng để dạy con em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt. Ông Vũ Cẩm, khi ấy là trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói: “Tôi xuống các trường cũng phải cần phiên dịch”. Năm 1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi ông lên yêu cầu: “Anh phải xóa hết trường Hán, tiếng Hán”. Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem lại vì các trường sở này hình thành ở đây đã từ lâu đời, nhưng ông Tâm không chịu.
Ông Vũ Cẩm nói: “Tôi không rõ ông Tâm nhận chủ trương này từ ai nhưng ông nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ bản thân ông cũng không dám ra nghị quyết. Tôi nghĩ mãi và cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải thảo một văn bản, không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói là thống nhất hệ thống giáo dục, một xã chỉ có duy nhất một trường phổ thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi, tôi không dám ký, giao cho các phó Ty, các phó của tôi cũng không anh nào chịu ký. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo dục, Bộ bảo tùy địa phương nhưng cũng không dám ra văn bản. Cuối cùng, tôi phải ký. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo viên người Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được hưởng nguyên lương để đi học tiếng Việt”.
Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác, điều đe dọa đối với những giáo viên này không còn là vấn đề việc làm. Năm 1978, theo ông Vũ Cẩm: “Ông Nguyễn Đức Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói, thái độ Trung Quốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu người gốc Hoa vào cấp ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh vẫn còn hơn mười người gốc Hoa, có những người rất có công như anh Lý Bạch Luân đã từng là phó bí thư tỉnh Hải Ninh, sau khi nhập tỉnh, anh Luân làm phó chủ tịch tỉnh mới – tỉnh Quảng Ninh”. Khi Trung Quốc rút các kỹ thuật viên giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động Voòng Nải Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về Trung Quốc. Theo ông Vũ Cẩm: “Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm có sáng kiến, anh rút về thì tôi cho người Hoa về hết luôn”210.
Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đã đến đây từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc.
Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đã tự sát bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống, tuy không còn bị đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông Vũ Cẩm kể: “Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là trưởng Phòng Giáo dục huyện Quảng Hà, cũng bị công an bắt phải trở về Trung Quốc. Anh ta gặp tôi nói, buộc đi thì đi chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu”.
Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái Bình, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: “Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại vì nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim mình. Nghe tin, tôi chạy xuống thì cả gia đình đều đã chết. Tôi bảo cậu Trưởng Phòng Giáo dục phải làm tang lễ tử tế rồi đi báo Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai dè ông ta sắt đá nói ‘kệ’, gương mặt gần như vô cảm”.
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh Nguyễn Đức Tâm đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở đây cũng có không khí ‘cải tạo’, rất nhiều người Hoa đã sống lâu đời ở Việt Nam bị đưa về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng ngắt”. Theo cuốn Địa chí Quảng Ninh Tập 1, người Hoa vốn sống tập trung ở chín huyện trong tỉnh, nhưng sau năm 1978 chỉ còn lại 5.000 người; 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh đã phải ra đi trong vụ “nạn kiều”. Những anh hùng lao động một thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như Voòng Nải Hoài, Mừu Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.
Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đã đóng cửa khẩu, xe công an vẫn chở người Hoa đi về biên giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng mỗi xã như vậy may ra chỉ còn sót lại một hai gia đình người Hoa. Khi vụ người Hoa xảy ra, ông Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái, tuy không bị đuổi nhưng bị buộc phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: “Cậu ấy vào Hạ Long làm nghề cán mì sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh thoảng lại mang bột mì đến cho cậu ấy gia công. Cậu ấy hỏi: ‘Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?’. Tôi biết cậu ấy bị o ép lắm. Công an rình rập kín, hở suốt ngày. Một đêm cậu ấy mở ti-vi oang oang trong nhà, bật đèn sáng để đánh lừa công an rồi đưa cả nhà xuống tàu vượt biên sang Úc”.
Hải Phòng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá thẳng tay với người Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó chủ tịch Thành phố Hải Phòng, thừa nhận: Hơn ba mươi nghìn trong số ba mươi bảy nghìn người Hoa ở thành phố này đã phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười nghìn người Hoa, năm 1978 chỉ còn vài chục người ở lại. Nhà thơ Dư Thị Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Phòng: “Tết thanh minh năm ấy, không ngờ lại là bữa tiệc cuối của sum họp đại gia đình, hình ảnh má và các em các cháu tôi chen lấn trong dòng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu hỏa. Thê thảm nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu ớt, họ giao phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm đó, giao phó cho đoàn tàu chở họ tới một đất nước được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và mong manh? Họ trở về quê hương và không hiểu tại sao, vì lẽ gì? Chị chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba mẹ con tôi đang gào khóc nhìn đoàn tàu mất hút trong đêm tối”.
Ở Sài Gòn, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc Hương: “Chúng tôi không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt Nam thì đăng ký, hơn 90% người Hoa ở Thành phố đã đăng ký ra đi”. Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm ấy là phó Phòng chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Công an cũng đã mạnh tay cô lập những đối tượng tình nghi là còn quan hệ với Trung Quốc”. Một trong những “đối tượng” mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp thụ lý lúc ấy là ông Lý Ban.
Ông Lý Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy sang Diên An sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách mạng tháng Tám, từ căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc, Lý Ban cùng các đồng chí Việt Nam khác của ông ở Diên An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đã từng là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Ngoại thương.
Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lý Ban có những mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc. “Tinh thần chỉ đạo” là phải có “biện pháp đặc biệt, không để các đối tượng ở trong điểm nóng, khi tình hình xấu diễn ra thì phát huy tác dụng”. Ông Lý Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly để điều tra, ông Trừng thừa nhận: “Té ra ông Lý Ban là một người rất trung thành với Đảng”. Nhạc sỹ Lâm Âm đang là biên chế ở Sở Văn hóa Thông tin cũng bị bắt dù sau đó không tìm thấy bất cứ bằng chứng “phản động” nào. Một thời gian sau, Phòng chống phản động bành trướng bá quyền yêu cầu Sở Văn Hóa Thông tin “bảo lãnh”, ông Lâm Âm được tha. Nhưng, theo ông Tư Kết: “Vừa có lệnh thả ra thì nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết”.
“Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ nhen nhóm chính trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần năm 1977); số trốn đi nước ngoài cũng tăng gấp ba lần (2.130 vụ với 8.139 người)”212. Trong số 8.139 người bị bắt đầu năm 1978 có ông Lý Tích Chương, cha của Lý Mỹ – “tấm gương điển hình” trong chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”.
Khi ông Lý Tích Chương bị bắt, Lý Mỹ đang được “Đảng và Nhà nước đưa đi Cuba” tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Theo Lý Mỹ: “Khi tôi ở Cuba, ba tôi ốm phải vào bệnh viện Saint Paul. Một chiều cô em út của tôi lúc ấy mới chín tuổi mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không thấy, nhân viên bệnh viện nói, trong phòng của ổng giờ toàn công an, hôm ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người Hoa đang điều trị trong bệnh viện”. Sau một tháng ở Cuba, khi Lý Mỹ về, ông Mai Chí Thọ đưa xe đến Thành đoàn đón, nói là cho đi thăm ba nhưng vào trại giam thì ông Lý Tích Chương được thả. Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đình quyết định “đi”.
Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người Việt-gốc-Hoa là “nạn kiều”; Hà Nội nói Bắc Kinh “bịa đặt”. Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978 viết: “Bị tác động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc [người Hoa] đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. Cũng theo bài báo này: “Ta đã bắt quả tang một số tên thực hiện chiến dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như Lý Nghiệp Phu, Trần Hoạt, Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh Nàm, Lã Giang Đông, Quan Gia Nghĩa, Lý Đào Lê”. Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: “Ngày 30-4, chủ nhiệm Văn phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Liêu Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm cho Việt Nam”. Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy tuyên bố: “Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Ngày 24-5-1978, người phát ngôn Văn phòng công việc Hoa kiều Quốc vụ viện Trung Quốc ra tuyên bố chính thức phản đối Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”. Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau càng sớm càng tốt, có thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn cả đề nghị của Trung Quốc đưa tàu sang Việt Nam đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại Trung Quốc gởi công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị nói trên của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc “đã quyết định” đưa tàu sang thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước. Bộ ngoại giao Việt Nam “phê phán thái độ ngang ngược nói trên của nhà đương cục Trung Quốc”. Ngày 5-6, Bộ Ngoại giao Việt Nam một mặt “kêu gọi bà con người Hoa hãy yên tâm ở lại Việt Nam làm ăn bình thường”, mặt khác đưa ra cam kết: “Bà con nào muốn rời khỏi Việt Nam đi Trung Quốc thì sẽ được chính quyền Việt Nam giúp làm các thủ tục xuất cảnh để ra đi thuận tiện”.
Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam, chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra còn có hơn 4.000 người Khmer khác. Số người Hoa về nước trên hai con tàu của Trung Quốc chỉ mang tính tượng trưng, theo ông Mai Chí Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được 2.400 người. Một dòng người khác đã phải gồng gánh về phía bên kia theo đường bộ213.
Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ nói: “Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền phản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ý đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”214. Câu chuyện của Tằng Dục Hính, đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978, cho thấy tương lai trở về “tổ quốc” của người Hoa cũng khá tối tăm: “Chúng tôi đáp xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến Cầu Kiều chúng tôi phải qua một trạm công an Việt Nam. Tại đây họ thu lại tất cả những giấy tờ mà chính phủ Việt Nam cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nhìn về phía Trung Quốc tôi nghe được rất rõ tiếng loa, tiếng nhạc quen thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nhìn thấy rất đông người đang chờ đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung Quốc, 3-6- 1978. Buổi chiều, sau khi nộp xong bản khai lý lịch, chúng tôi được một ông cán bộ người Trung Quốc nói giọng Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải đăng ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ thì phải đi Tây Tạng!”.
Theo Tằng Dục Hính, vì sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn Chí Tiền Thành cùng hai thanh niên Hải Phòng nữa đã lội qua sông Hồng ngay trước khi nước chảy rất xiết để trốn về Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được “các đồng chí công an Việt Nam giúp đỡ” cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói tiếp: “Ở Hà Khẩu, tôi biết là có 80 đến 90% bà con muốn trở về lại Việt Nam nhưng không dám”215.
Nhà báo Huy Đức 
Trích cuốn Bên Thắng Cuộc
 

Đề xuất đình chỉ công tác ông Phạm Quý Ngọ

Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương, cho biết đã có một số ý kiến đề xuất đình chỉ công tác đối với Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ để đảm bảo việc điều tra, làm rõ những nội dung tố cáo của Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam khai tại phiên tòa xét xử Dương Tự Trọng và đồng bọn “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.
Thông tin từ Ban Nội chính Trung ương cho biết trong tháng 1-2014 đã báo cáo và được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng- đồng ý đề xuất bổ sung 4 vụ án, 4 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; đề nghị đưa 15 vụ án, 5 vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp vào diện Ban Nội chính Trung ương theo dõi, đôn đốc; 24 vụ án, 16 vụ việc đề nghị các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc trung ương chỉ đạo, xử lý.
Ngoài ra, Ban Nội chính Trung ương đã họp để nghe các cơ quan tiến hành tố tụng trung ương báo cáo về vụ việc liên quan đến các vụ án xảy ra tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), vụ tổ chức người khác trốn đi nước ngoài và vụ án xảy ra tại Công ty TNHH Công nghệ biển Hải Phòng.

Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ

Trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh cũng đã trực tiếp đến theo dõi phiên tòa xét xử các vụ án: Dương Chí Dũng và đồng phạm tham ô tài sản, cố ý làm trái; Dương Tự Trọng và đồng phạm tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài; Huỳnh Thị Huyền Như và đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tham nhũng.

Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ban Nội chính Trung ương trong thời gian tới là việc giải quyết đơn tố cáo của ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines- liên quan đến Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ.

Trước đó, ngày 8-1, TAND TP Hà Nội đã quyết định khởi tố vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” đối với người đã mật báo cho Dương Chí Dũng biết thông tin sắp bị khởi tố, bắt tạm giam để bỏ trốn ra nước ngoài và giao VKSND TP Hà Nội tổ chức báo cáo VKSND Tối cao xử lý theo pháp luật. Tại phiên tòa xét xử vụ án “tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”,  Dương Chí Dũng với tư cách là nhân chứng đã khai người mật báo cho mình bỏ trốn là Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng Bộ Công an.

Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động ngày 16-2, ông Phạm Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Nội chính trung ương, cho biết việc phối hợp điều tra, xử lý những nội dung tố cáo của ông Dương Chí Dũng giữa Ban Nội chính Trung ương, Bộ Công an, VKSND Tối cao… do Bộ Chính trị quyết định. “Việc điều tra vụ án vẫn do cơ quan điều tra thực hiện theo quy trình tố tụng. Ban Nội Chính Trung ương chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Đảng chứ không làm thay cơ quan điều tra được. Đối tượng bị tố cáo thuộc diện Bộ Chính trị quản lý nên cơ quan điều tra, tố tụng vẫn làm theo quy trình về tố tụng”- ông Tuấn nói.

Ông Phạm Anh Tuấn cho biết thêm đã có một số ý kiến đề xuất đình chỉ công tác đối với Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ để đảm bảo việc điều tra, làm rõ những nội dung tố cáo của Dương Chí Dũng. “Quan trọng là phải tiếp cận hồ sơ của tố tụng và không gây ảnh hưởng tới điều tra. Về nguyên tắc thì phải đình chỉ nhưng ông Ngọ đang bệnh nặng nên việc này nhạy cảm. Nếu “sốc mạnh”  thì cũng không lợi lắm, còn thực hư đúng sai thì vẫn phải chờ”- ông Tuấn nhận định.

Đẩy nhanh xử lý vụ “bầu Kiên”
Ban Nội chính Trung ương cho biết trong tháng 2-2014 sẽ tham mưu, giúp Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng triển khai Chương trình công tác trọng tâm năm 2014, trong đó có việc đôn đốc đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ án: Phạm Thị Bích Lương và đồng phạm vi phạm quy định về cho vay, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thiếu trách nhiệm; Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) và đồng phạm cố ý làm trái, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kinh doanh trái phép và trốn thuế; Vũ Việt Hùng và đồng phạm nhận hối lộ, vi phạm quy định về cho vay, lừa đảo chiếm đoạt tài sản; vụ việc sai phạm xảy ra tại Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PGBank); vụ việc xảy ra tại Công ty Dịch vụ Agribank…

Thế Kha
(Người Lao động)

Ngày 17/2/2014 - Có phải chỉ cần “bình yên” nên hạ nhục hàng chục ngàn liệt sĩ?

  • Tuần hành tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979 tại Hà Nội (RFI) - Sáng nay, 16/02/2014, tại thủ đô Hà Nội nhiều người dân đã tham gia tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt– Trung 1979, nổ ra cách nay 35 năm. Những người tuần hành đi vòng quanh Hồ Gươm hô khẩu hiệu phản đối Trung Quốc xâm lược, khẳng định chủ quyền quốc gia và hát nhiều bài hát nổi tiếng ra đời trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Đoàn tưởng niệm không đến được các tượng đài như dự kiến, do một số cản trở từ phía chính quyền địa phương. Lực lượng an ninh không can thiệp vào cuộc tuần hành tưởng niệm.
  • "Chiêu" mới của chính quyền Hà Nội (RFA) - Đòn mới của nhà nước là đưa người nhảy múa trước tượng đài Lý Thái Tổ ở thủ đô Hà Nội, vặn loa cho thật to để át những bài phát biểu và những tiếng hô khẩu hiệu của đoàn người biểu tình và tìm đủ mọi cách để những người trong đoàn không đến được tượng đài.
  • Tại sao các sinh hoạt chính trị tự phát ít lôi kéo được người dân? (RFA) - Nhìn chung, phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam thời gian qua đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng các hoạt động chính trị tự phát vẫn diễn ra lẻ tẻ, thiếu tổ chức. Với số người tham gia còn rất khiêm tốn và không thu hút được sự tham gia của đông đảo người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội.
  • Dệt may Việt Nam chưa sẵn sàng với TPP (RFA) - Mặc dù các vòng đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP chưa kết thúc, nhưng ngay cả vào thời điểm 2016 thì ngành Ngành dệt may Việt Nam vẫn chưa hội đủ điều kiện để hưởng lợi mà còn có thể thua ngay trên sân nhà.
  • Giải mã kinh tế Bắc Triều Tiên (RFI) - Bắc Triều Tiên là chủ đề được đăng tựa trên trang nhất của nguyệt san Le Monde Diplomatique số ra tháng 02/2014. Tác giả bài viết là giáo sư Patrick Maurus, thuộc Viện nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông tại Paris (INALCO). Chuyên gia này cung cấp một góc nhìn khác về Bắc Triều Tiên, theo đó nền kinh tế của nước này không quá ảm đạm như người ta tưởng.
  • LHQ: Bắc Hàn phạm tội ác chống nhân loại (RFA) - Báo cáo được viết dựa vào các tài liệu và những cuộc phỏng vấn với những người Bắc Hàn may mắn trốn thoát được ra nước ngoài, kết luận rằng chính quyền Bình Nhưỡng đã phạm tội ác chống nhân loại, Tòa Án Quốc Tế cần phải điều tra thêm và đưa những kẻ phạm tội ra xét xử.
  • Vì sao Bắc Triều Tiên đồng ý tổ chức cuộc gặp những gia đình ly tán? (RFI) - Hôm thứ Sáu, 14/02, trong vòng hai cuộc gặp cấp cao giữa Nam và Bắc Triều Tiên tại Bàn Môn Điếm, thuộc khu phi quân sự ngăn cách hai nước, chính quyền Bình Nhưỡng đã gây ngạc nhiên khi rút bỏ toàn bộ yêu sách đòi Seoul và Washington hoãn cuộc tập trận thường niên, như là điều kiện để tổ chức vào tuần tới, các cuộc gặp cho gần 100 gia đình bị ly tán do chiến tranh. 
  • Sinh nhật Kim Jong Il, Bình Nhưỡng thăng cấp nhiều chỉ huy quân đội (RFI) - Hôm nay, 16/02/2014, chính quyền Bình Nhưỡng đã kỷ niệm rầm rộ sinh nhật của cố lãnh tụ Kim Jong Il, đồng thời phong cấp cho nhiều chỉ huy, trong đó có chỉ huy đơn vị tên lửa phụ trách chương trình hạt nhân Bắc Triều Tiên.Như thông lệ, lễ kỷ niệm sinh nhậtông Kim Jong Il, thân phụ lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un, đã được tổ chức với sự tham gia của đông đảo các quan chức Đảng, Nhà nước và quân đội, tại sân vận động Bình Nhưỡng.
  • Ân xá Quốc tế đòi Nga thả nhà bảo vệ môi sinh chỉ trích Thế vận Sotchi (RFI) -  Vào lúc Thế vận hội mùa Đông tại Sotchi đang diễn ra, Tổ chứcÂn xá Quốc tế Amnesty International, trụ sở tại Luân Đôn, vào khuya hôm qua, 15/02/2013, đã lên tiếng thúc giục chính quyền Nga trả tự do ngay lập tức cho một nhà bảo vệ môi sinh. Nhân vật này vừa bị gởi đến thọán ba năm trong một trại cải huấn, một bảnán bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền lênán là một hành động nhằm bịt miệng những người chỉ trích việc tổ chức Thế vận hội ở Sotchi.
  • Marathon Hồng Kông vì quyền tự do báo chí (RFI) - Vào hôm nay, 16/02/2014, thành phố Hồng Kông lại tổ chức cuộc chạy marathon thường niên, năm nay thu hút được khoảng 64.000 người tham dự. Điểm gây chúý là lẫn trong đoàn người chạy đua, có cả ngàn người gắn trênáo một mảnh ruban màu xanh lơ để bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự do báo chí tại đây, được cho là đang bị đe dọa.
  • Hồ sơ Biển Đông tiếp tục theo chân Ngoại trưởng Mỹ đến Indonesia (RFI) - Sau Seoul, Bắc Kinh, Ngoại trưởng Mỹ đã có mặt tại Jakarta, chặng thứ ba trong chuyến công du châuÁ lần này củaông. Vào hôm nay, 16/02/2014,ông John Kerry đã đọc một diễn văn quan trọng, kêu gọi mọi người phải chiến đấu chống biến đổi khí hậu tương tự như đấu tranh chống vũ khí hủy diệt hàng loạt. Bên cạnh đó, theo các nguồn tin báo chí, Ngoại trưởng Mỹ và đồng nhiệm Indonesia sẽ còn tập trung trên hồ sơ nóng của khu vực là Biển Đông.
  • Sau chuyến thăm của Mỹ, TQ xây thêm căn cứ quân sự (BaoMoi) - (Quan hệ quốc tế) - Ngoại trưởng Mỹ kết thúc chuyến thăm Trung Quốc với gần như không có sự đột phá nào trong các tiêu chí ban đầu đề ra, báo Pháp đã nhận định Mỹ đã thất bại trong việc kìm chế Trung Quốc
  • Dân ca miền Bắc (RFA) - Theo tôi, dân ca là những bài ca không biết ai là tác giả, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền với đời sống hàng ngày của người dân quê...
  • Vì sao chính quyền Thái Lan phải nhẹ tay với người biểu tình? (RFI) -  Tại Thái Lan, từ ba tháng rưỡi nay, những người biểu tình chống chính phủ đã xuống đường ở thủ đô Bangkok, và từ một tháng nay, họ đã tổ chức chiếm đóng một số ngã tư chiến lược và cơ quan chính phủ trong thành phố. Sau một thời gian cố tránh không cho cảnh sát đối đầu trực tiếp với người biểu tình, từ ngày 14/02/2014 vừa qua, chính quyền Thái Lan bắt đầu huy động cảnh sát đến giải tỏa nhiều địa điểm bị phong trào chống chính phủ trấn giữ. 
  • Pháp, Anh lên án Damas sau thất bại của hội nghị Genève 2 (RFI) - Hôm qua, 16/02/2014, vòng hai cuộc đàm phán về Syria tại Genève chấm dứt trong bế tắc, đe dọa tương lai của các thương lượng nhằm tìm ra một giải pháp chính trị cho cuộc nội chiến. Anh và Pháp chỉ đích danh chính quyền Damas là thủ phạm chính của thất bại này.
  • 'Nên sợ biến đổi khí hậu' (BBC) - Ngoại trưởng Mỹ kêu gọi các nước nỗ lực đối phó biến đổi khí hậu, gọi đây là 'vũ khí hủy diệt hàng loạt đáng sợ nhất thế giới'.
  • Nhảy sào : Qua mức xà 6m16, Renaud Lavillenie đi vào lịch sử (RFI) - Ông hoàng Serguei Bubka trong làng nhảy sào thế giới đã bị hạ bệ. Hôm qua tại giải điền kinh thế giới trong nhà tổ chức tại Donetsk, Ukraina, vận động viên Pháp Renaud Lavillenie đã vượt qua mức xà lịch sử 6m16, phá kỷ lục môn nhảy sào được huyền thoại người Ukraina giữ từ năm 1993. Cú nhảy thần kỳ này đã đưa Reanaud Lavillenie vào lịch sử của làng điền kinh thế giới.
  • Berlin 2014 : Đạo diễn Trung Quốc Điêu Diệc Nam đoạt Gấu vàng (RFI) -  Liên hoan Berlin lần thứ 64 bế mạc tối qua (15/02/2014) với buổi lễ trao giải Gấu vàng và Gấu bạc. Ban giám khảo Berlin đã chấm điểm cao điện ảnh châuÁ vì có hai bộ phim Trung Quốc và một tác phẩm của Nhật Bản có mặt trên bảng vàng năm nay.
  • Giải pháp hòa bình cho Syria vẫn bế tắc (RFA) - Hai mươi bốn giờ đồng hồ sau khu vòng đàm phán thứ nhì về giải pháp hòa bình cho Syria gặp thất nại, vẫn chưa biết khi nào phái đoàn đại diện cho chính quyền và địa diện của phe chống đối sẽ gặp lại nhau.
  • Indonesia nhờ Hoa Kỳ can thiệp vụ thuyền nhân ở Úc (RFA) - Quan hệ giữa Australia và Indonesia đang ở ngưỡng cửa khó khăn, sau khi chính phủ Jakarta cho biết sẽ nhờ Hoa Kỳ can thiệp để Canberra thay đổi chính sách cứng rắn đối với những thuyền nhân từ Indonesia vượt biển sang Australia xin tỵ nạn.
  • Miến: 5 nhà báo bị truy tố về tội tiết lộ bí mật quốc gia (RFA) - Chính phủ Myanamar chính thức truy tố 5 nhà báo về tội tiết lộ bí mật quốc gia, sau khi những ký giả này viết loạt bài nói về một nhà máy chế tạo võ khí hóa học ở thành phố Pakokku là nơi có nhiều cơ xưởng của quân đội hoạt động.
  • Thái: Đàm phán giữa cảnh sát và người biểu tình bất thành (RFA) - Các cuộc đàm phán giữa cảnh sát Thái Lan với một trong những lãnh tụ cuộc biểu tình chống Thủ tướng Yingluck Shinawatra đã không thành công, sau khi phe chống đối nhất định không rút khỏi những địa điểm mà họ đã chiếm đóng cả tháng nay.
  • Trao đổi thư tín (RFA) - “Cộng sản cứ tưởng người dân bây giờ ngu dốt đần độn dễ bị lừa như thời Hồ ChíMinh. Thời nay internet mặc dù bị chận trong nước nhưng dân biết rõ như lòng bày tay, đừng hòng lừa bịp”.
  • Những điều ít biết về chiến lược biển xanh của Trung Quốc (BaoMoi) - Tạp chí Defense Review Asia (DRA) vừa dẫn lời Giám đốc bộ phận dịch vụ tư vấn của Công ty Phân tích hải quân AMI International (Mỹ) Bob Nugent dự đoán, trong 20 năm tới các nước châu Á - Thái Bình Dương sẽ chi 200 tỉ USD để mua hơn 1.000 tàu chiến, tàu hộ vệ, khu trục hạm, tàu có khả năng chở trực thăng, tàu tuần tra… Điều này đồng nghĩa với một cuộc đua vũ trang trên biển khiến khu vực châu Á - Thái Bình Dương “nóng” lên từng ngày.
  • Chuyến thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng Mỹ không có đột phá (BaoMoi) - (TNO) Tờ South China Morning Post (Hồng Kông) cho hay Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã kết thúc chuyến thăm Trung Quốc vào ngày 15.2 mà không có bước đột phá nào trong hai vấn đề hàng đầu của chương trình nghị sự, đó là căng thẳng tranh chấp lãnh thổ ở biển Hoa Đông và biển Đông.
  • Ba tàu Trung Quốc tiếp cận đảo tranh chấp với Nhật (BaoMoi) - Theo hãng Kyodo, lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản (JCG) cho biết ngày 16/2, ba tàu tuần duyên của Trung Quốc đã bị phát hiện di chuyển xung quanh quần đảo Senkaku (Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư) tại biển Hoa Đông, ngay bên ngoài lãnh hải của Nhật Bản.
  • Bài học từ Hiệp ước Munich (BaoMoi) - Hiệp ước Munich năm 1938 đi vào lịch sử như là bài học đắt giá về sự nhượng bộ ngoại giao chỉ có tác dụng khuyến khích kẻ xâm lược lấn tới.
  • Ngoại trưởng Kerry nói gì về ADIZ? (BaoMoi) - TT - Tối 14-2, trong cuộc họp báo một mình cuối ngày, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cho biết các cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc đã kéo dài hơn dự tính về hầu hết mọi vấn đề mà hai bên và khu vực đang quan ngại.
  • “Bá quyền” kiểu Trung Quốc (BaoMoi) - Với vị trí là nền kinh tế số 2 thế giới và đang tiến những bước dài trong cuộc đua với Mỹ, việc Trung Quốc bá quyền chắc chắn không thể tránh khỏi. Tương tự như những gì Mỹ đã từng làm tại châu Mỹ, nhưng Học thuyết Monroe phiên bản Trung Quốc sẽ như thế nào?

Tại sao các sinh hoạt chính trị tự phát ít lôi kéo được người dân?

Những người biểu tình Hà Nội hô khẩu hiệu chống Trung Quốc trong một cuộc biểu tình đánh dấu 35 năm chiến tranh biên giới với Trung Quốc. Ảnh chụp hôm 16/2/2014
Biểu tình, tụ họp tưởng niệm, kỷ niệm ... là những sinh hoạt chính trị của công dân được Hiến pháp quy định. Nhưng vì sao các cuộc biểu tình hay tham dự các phiên tòa ở Việt nam lại không lôi kéo được đông đảo người dân tham gia?

Nghe tường trình
Không như mong đợi

Hoạt động chính trị đường phố hay còn gọi là phong trào xuống đường tự phát của dân chúng ở Việt Nam đã có từ thế kỷ trước. Đó là các cuộc biểu tình ôn hòa, các lễ tưởng niệm, kỷ niệm một sự kiện chính trị.... hoặc các hoạt động tham dự các phiên toà xét xử các nhà hoạt động chính trị - xã hội.

Khi những người có cùng lợi ích tập hợp nhau lại, thì tiếng nói của họ sẽ phát huy tác dụng, phần nào đánh động và tạo áp lực để các cơ quan chính quyền để họ lắng nghe nguyện vọng của một bộ phận dân chúng.

Nhìn chung, phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam thời gian qua đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng các hoạt động chính trị tự phát vẫn diễn ra lẻ tẻ, thiếu tổ chức. Với số người tham gia còn rất khiêm tốn và không thu hút được sự tham gia của đông đảo người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội.

Đánh giá tình hình chung của các hoạt động này hiện nay, ông Vũ Quốc Ngữ một nhà hoạt động xã hội ở Hà nội cho rằng: phong trào dân chủ tuy chưa mạnh mẽ, nhưng đã có các bước tiến lớn trong mấy năm vừa qua. Do phong trào phải đối mặt với một chính quyền rất tàn bạo và tinh vi trong việc đàn áp đối lập. Còn nhân dân thì nói chung ngại va chạm với chính quyền, sợ bị gây khó dễ đến cuộc sống gia đình, công việc.

Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Quốc Ngữ nói:

Phong trào dân chủ tuy không được mạnh mẽ như mong đợi nhưng cũng là bước tiến lớn trong mấy năm vừa qua. Khi gặp nhiều cựu tù chính trị như Phạm Hồng Sơn, Phạm Thanh Nghiên và Nguyễn Văn Đài, họ cho biết trong thời điểm họ bị bắt cách đây 5-6 năm, có rất ít người tranh đấu dân chủ, và khi đó họ cảm thấy rất cô đơn. Nhưng bây giờ thì lớn mạnh rất nhiều“

Khi được hỏi nguyên nhân do đâu các hoạt động chính trị tự phát ít được sự hưởng ứng của đa số người dân? Blogger Lê Anh Hùng từ Quảng trị cho rằng, gần đây việc thăm dò độc giả chọn thích và không thích trong một số bài viết ca ngợi chế độ trên các trang mạng chính thống đã cho kết quả với tỷ lệ lớn nghiêng về phía không thích. Đây có thể coi là một “hàn thử biểu” khá chính xác về mức độ thức tỉnh của dân chúng.

Tuy vậy, theo ông Hùng thừa nhận trên thực tế thời gian qua, các cuộc tụ tập đông người do các cá nhân, tổ chức dân chủ kêu gọi lại ít được sự hưởng ứng của đa số người dân. Nói về các nguyên nhân, trao đổi với chúng tôi, ông Lê Anh Hùng cho biết:




Phong trào dân chủ tuy không được mạnh mẽ như mong đợi nhưng cũng là bước tiến lớn trong mấy năm vừa qua.

- Ông Vũ Quốc Ngữ
“Theo tôi, có mấy nguyên nhân chủ yếu sau đây: Mặc dù nhiều người dân đã thức tỉnh, nhưng đa số họ vẫn chưa vượt qua được cả nỗi sợ hãi lẫn sức ỳ vốn đã bén rễ qua hàng chục năm sống dưới chế độ hà khắc và mị dân hiện nay. Tổ chức của phong trào dân chủ còn lỏng lẻo. Điều này dĩ nhiên là hạn chế hiệu quả của phong trào. Và một nguyên nhân nữa là sự đàn áp vừa tàn khốc, vừa xảo quyệt của bộ máy cầm quyền, với đủ mọi hình thức khác nhau.”

Từ Hà nội, ông Trịnh Toàn một người đã nhiều lần tham gia biểu tình cho rằng, phong trào dân chủ đã có các tiến bộ vượt bậc. Song các hoạt động chính trị đường phố không thu hút được người dân vì chưa đánh trúng và các nội dung không gắn chặt với quyền lợi của số đông người dân. Đặc biệt là vấn đề các nhân vật nổi danh trong các hoạt động này chưa có tính thuyết phục và không được người dân chấp nhận. Trao đổi với chúng tôi, ông Trịnh Toàn nhận xét:

“Những nhược điểm chính của những người hoạt động dân chủ của chúng ta là cái tôi của họ quá cao. Truyền thông lề trái của chúng ta thì đang tôn vinh các thần tượng một cách quá đáng, thiếu thực tế và không thật. Vì những người ấy không có sức lan tỏa. Người Việt nam chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống nên vấn đề đạo đức, phẩm chất là hết sức quan trọng. Một người đứng đầu đám đông lên tiếng thuyết phục, muốn có trọng lượng trước tiên họ phải là người có phẩm chất đạo đức hơn nhiều những người khác.”

Vì sao?

Một nhóm nông dân lên Hà Nội biểu tình khiếu kiện đất đai hôm 29/8/2012. AFP photo
TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho biết một vài lý do đã khiến các hoạt động chính trị không thu hút được người dân. Theo ông Nguyễn Quang A thứ nhất là do bị đàn áp kinh khủng khiến người dân sợ tham gia và dần dần teo mất ý chí, thứ hai là Đảng CS vô cùng sợ mọi loại tổ chức, nên không có tổ chức nào ra đời mà ra hồn, khi không có tổ chức thì làm sao huy động được đông người. Trao đổi với chúng tôi, TS. Nguyễn Quang A cho nói:

“Hàng năm có hàng trăm cuộc biểu tình, những cuộc biểu tình lớn nhỏ của bà con nông dân, bà con dân oan hoặc các cuộc tuần hành của giới đồng tính. Nhưng nó không ảnh hưởng gì đến mối anh nguy của chế độ. Đối với các cuộc biểu tình hoặc các cuộc tham gia vào các phiên xử là các hoạt động mang tính chính trị. Và một khi đã là các hoạt động chính trị thì họ chuẩn bị một cách hết sức chu đáo, nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần trước đó với bài bản hẳn hoi”.

Nói về các giải pháp cơ bản để khắc phục các tồn tại đã nêu trên, trao đổi với chúng tôi blogger Lê Anh Hùng nói:

“Cần không ngừng tuyên truyền dưới nhiều hình thức khác nhau để ngày càng nhiều người dân nhận ra được bản chất của chế độ, cũng như sự cần thiết phải lên tiếng bày tỏ thái độ. Hình thành các tổ chức xã hội dân sự đa dạng để liên kết các thành viên có tinh thần đấu tranh trong xã hội. Và quan tâm đến những người đấu tranh, cũng như thân nhân của họ, để họ yên tâm dấn thân cho công cuộc chung của nước nhà."




Cần không ngừng tuyên truyền dưới nhiều hình thức khác nhau để ngày càng nhiều người dân nhận ra được bản chất của chế độ, cũng như sự cần thiết phải lên tiếng bày tỏ thái độ.

- Blogger Lê Anh Hùng
Ông Vũ Quốc Ngữ đồng tình với các giải pháp khắc phục của blogger Lê Anh Hùng, theo ông Ngữ cần mở rộng đấu tranh về các vấn đề thiết thực để lôi kéo được người dân như : phong trào tẩy chay một mặt hàng, một dịch vụ nào đó nếu cảm thấy người tiêu dùng bị bóc lột, lừa dối để bảo vệ quyền lợi trực tiếp của họ. Và các phong trào đường phố cần tổ chức theo nhóm, lên kế hoạch cụ thể về địa điểm, hình thức thể hiện..., phân công việc cụ thể, tính đến các phương án dự phòng khi bị cản trở.
Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Quốc Ngữ nói:

“Cần phải viết các bài lôi kéo tầng lớp trung lưu: công chức, sinh viên, doanh nhân: cách mạng dân chủ không làm mất ổn định xã hội, trái lại, nó sẽ mang lại sự ổn định bền vững trong tương lai. Quyền lợi của nhiều người, kể cả hưu trí, công chức được đảm bảo. Vận động, tuyên truyền trong chính gia đình mình, bạn bè và những người quen biết, để họ có thể tham dự vào mà không thờ ơ với thời cuộc.”

Quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân - người có mối liên hệ trực tiếp về mặt pháp lý với Nhà nước luôn là mối quan hệ nền tảng mà mọi Nhà nước cần phải tạo lập và điều chỉnh. Các sinh hoạt chính trị của người dân luôn có giá trị tích cực, nó thúc đẩy và buộc nhà nước phải quan tâm tới nguyện vọng của một nhóm dân chúng, viecj này cần được khuyến khích.

Anh Vũ,
thông tín viên RFA

Tiến Sĩ Trần Nhơn - Đảng độc trị

Không ai tặng tự do miễn phí,
Chẳng ai biếu dân chủ, nhân quyền.
Đừng tin lời hứa đảng độc trị,
Tham sân si, khát máu, khát tiền!

Đảng độc trị mạo xưng cách mạng,
Soán ngọc tỷ, chiếm phủ đầu rồng.
Thoái hóa biến chất thành băng đảng,
Cầm tù trí thức, phản công nông.

Đảng độc trị thoán đoạt vương miện,
Cướp hoàng bào, cưỡi cổ thần dân.
Chuyên chính vô sản làm phương tiện,
Sa đọa thành vô học, vô luân.

Đảng độc trị bảo thủ ngu dốt,
Hoạt đầu mọc như nấm sau mưa.
Không thể lựa chọn nhân sự tốt
Trong thể chế gian lận dối lừa!

Quan thanh liêm lọt vào bộ máy,
Không xiểm nịnh thảo khấu cướp ngày,
Cối xay cơ chế nghiền ra bã,
Chuyện buồn “thời Đồ Đảng” bấy nay!

Đảng độc trị quan giàu nước yếu,
Nền chính trị “chí tư vô công”.
Nhân dân ăn quả lừa, quả đểu,
Nhà nước bốn kiên định đến cùng.

Đảng độc trị dùng mọi thủ đoạn
Diệt đối trọng, đối lập đồng hành.
Không đếm xỉa nhân tâm, sinh mạng,
Triệu cốt khô đảng trị công thành.

Đảng độc trị lộng giả thành chân,
Ngụy xưng nhà nước của nhân dân.
Diệt đồng chí, bảo kê đồng lõa,
Trọng tài kiêm cầu thủ bao sân.

Quyền lãnh đạo của đảng độc trị,
Đảng tuyên xưng: ý nguyện toàn dân.
Nội bộ đảng mấy người đồng ý?
Bộ Chính trị mấy vị tán thành?

So với chế độ độc trị khác,
Việt Nam bi thảm gấp ngàn lần.
Bảy thập niên nối giáo Hoa tặc,
Đan cài mười sáu chữ tương lân.

“Thà mất nước còn hơn mất đảng”,
Não trạng đảng chủ quá “ngu đần”!
Đảng chỉ là công cụ Đại Hán,
Diệt thỏ hết rồi, giết chó săn!

Đảng độc trị kêu gào yêu nước,
Đun nồi da nấu thịt dân mình.
Nay tuyên truyền ổn định phát triển,
Cúi đầu tuân chỉ dụ Bắc Kinh!?

Đảng độc trị không chỉ nhịn nhục,
Tẩy não dân thành “cháu thỏ con cừu”.
Trói “ngoại giao nhân dân” bắt nhốt,
Đầu hàng vô điều kiện kẻ thù.

Lịch sử chứa con người, sự kiện,
Nhục – vinh nhiều bài học để đời.
Có Lê Lợi, Quang Trung, Chiêu Thống...
Có Thành Đô trọng tội Linh, Mười.

Người mất đã định hình công tội,
Kẻ còn hãy sám hối thành tâm!
Báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội,
Nhận kỷ luật xin sửa lỗi lầm!

Trung Quốc lo Việt Nam thay đổi,
Tác động tới “ổn định” thiên triều.
Như thời tường Berlin sụp đổ,
Trường thành Xô viết ngã nhào theo.

Khuyến dụ Việt Nam chỉnh đốn đảng,
Tranh giành đấu đá khử trừ nhau.
Canh Tý chui gọn vào bẫy cạn,(*)
Đảng vương thành Thái thú Ba Tàu?

Đảng phái – luôn chỉ là phương tiện,
Lê nin hoán đổi thành mục tiêu.
Stalin, Mao Trạch Đông “cao kiến”
Đánh tráo thành đảng trị vương triều.

Quái thai sinh hậu duệ quái thai,
“Nhà nước – Đảng” dã man độc tài.
Côn đồ đỏ xã hội đen kết nối,
Tà đạo Lê – Mao trượt dốc dài.

Xô một phần ba nhân loại xuống hố,
Dân quyết tử cho đảng trị trường sinh.
Đêm dài “thời Đồ Đảng” đen tối,
Chân trời chưa thấy ánh bình minh.

Có ai ngờ những người cộng sản
Thành băng nhóm khát máu, khát tiền.
Khát quyền lực, háo danh bệnh hoạn,
Sụp đổ rồi thần tượng thiêng liêng!

Đảng độc trị gieo bao nỗi sợ,
Làm thế nào tìm được lối ra?
Kẻ buộc chuông là người tháo mở,
Trách nhiệm đó thuộc về “đảng ta”!

Giao Hội đồng Lý luận trung ương
Soạn lộ trình khai lối mở đường.
Tổng Bí thư yêu cầu đột phá,
Chờ đợi gì chưa có chủ trương?

Tháng 2/2014
TS Trần Nhơn


(*) Canh Tý: 2020 (theo tinh thần mật ước Thành Đô?)
VAOL: Tiến sĩ Trần Nhơn, nguyên thứ trưởng bộ Thủy Lợi, từ tháng 12/1997 đến tháng 9/2007 là chủ tịch Hội khoa học Thuỷ lợi Việt Nam

Sinh ngày: 10/4/1938
Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng
- 1961: Kỹ sư Thuỷ Lợi
- 1991: Tiến sĩ Kinh Tế
- 6/1972: Phó Cục trưởng Cục kiến thiết cơ bản – Bộ Thuỷ Lợi
- 1/1976: Trưởng ty (nay là Giám đốc Sở) Thuỷ Lợi tỉnh Đak Lak
- 1983: Vụ trưởng Vụ xây dựng cơ bản – Bộ Thuỷ Lợi
- 11/1983 – 1995: Thứ trưởng Bộ Thuỷ Lợi
12/1997 đến nay: Chủ Tịch Hội Thuỷ Lợi Việt Nam
Từ tháng 7/2000 Tổng Giám đốc Công ty phát triển và hội nhập Toàn cầu

Chức vụ về Đảng:
- Tỉnh uỷ viên tỉnh uỷ Đak Lak
- Phó bí thư Đảng uỷ khối cơ quan nông nghiệp TW
- Uỷ viên thường vụ Đảng uỷ khối cơ quan kinh tế TW
- Đại biểu đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
- Đại biểu đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII

Nguyễn Trọng Bình - Viết nhân ngày kỷ niệm 35 năm ngày Trung Quốc đại bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam


Là người Việt dĩ nhiên là tôi rất tự hào về lịch sử và “truyền thống chống giặc ngoại xâm” của dân tộc. Tuy vậy, thời gian gần đây mỗi khi nghĩ đến chuyện này tôi thấy có không ít băn khoăn.
1. Phải thừa nhận rằng, trong suốt chiều dài dựng nước của dân tộc ta thì việc phải đối phó với giặc ngoại xâm đến từ Trung Quốc là lâu dài và gian khổ nhất (1000 năm Bắc thuộc trước đó và gần nhất là cách đây tròn 35 năm, ngày 17/2/1079). Việt Nam cũng tiến hành chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhưng chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn và chỉ một lần. Không những thế, khi người Pháp, người Mỹ xâm lược Việt Nam, về mặt quân sự, chính trị tuy họ có gây ra những mất mác đau thương cho người Việt nhưng nếu nhìn ở phương diện văn hóa, tư tưởng, giáo dục thì người Pháp và người Mỹ đã có những đóng góp đáng kể giúp Việt Nam tiến bộ và văn minh hơn trước. Đặc biệt ít nhiều đã giúp Việt Nam đã thoát ra khỏi sự “nô lệ về tư tưởng” của người Trung Quốc. Còn với Trung Quốc, thời nào cũng vậy mỗi khi sang xâm lược Việt Nam họ không những tàn ác về mặt quân sự mà rất nham hiểm, thâm độc về mặt tư tưởng. Họ không chỉ thảm sát người Việt mà còn tìm mọi cách làm cho dân tộc ta đời đời không thể ngoi lên được để họ mãi “đè đầu cỡi cổ”. Lịch sử đã ghi nhận họ không chỉ bắt, giết nhân tài nước Việt mà còn đốt hết văn thư, sách vở của cha ông ta. Nham hiểm hơn họ còn tìm mọi cách để trấn yểm những nơi mà họ gọi là “long mạch” với ý nghĩ làm cho dân tộc Việt phải diệt vong... Cho nên, với tôi cách nói “truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta” phải chăng là cách nói mang hàm ý chống giặc ngoại xâm Trung Quốc là chủ yếu?
Nếu đúng như vậy thì mươi, mười mấy năm qua nhận thức của người Việt Nam về cái “truyền thống” ấy hình như đang có sự lệch lạc và sai lầm rất nghiêm trọng. Điều này thể hiện rất rõ ở qua cách tuyên truyền giáo dục cho thế hệ cháu con về cái “truyền thống” ấy. Để giáo dục thế hệ mai sau cái “truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc”, những “người có trách nhiệm” và các sử gia viết sách giáo khoa hầu như chủ yếu nói về lịch sử chiến đấu, “chiến thắng” liên quan đến hai cuộc chiến tranh với người Pháp và Mỹ gần đây mà hiếm khi đề cập đến những cuộc chiến đấu của cha ông với người Trung Quốc trước đó và sau này (nếu có cũng chỉ là cách nói sơ lược, chung chung).
Một minh chứng cụ thể là trong những ngày này cách đây 35 năm, hơn 60 ngàn quân Trung Quốc hung hăng tràn sang xâm thảm sát đồng bào ta ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Họ tiến hành cuộc chiến tranh chớp nhoáng theo lệnh của Đặng Tiểu Bình với ý nghĩ “dạy cho Việt Nam một bài học”. Sự tàn ác và nham hiểm của họ nói thì nhiều nhưng có thể miêu tả ngắn gọn qua biểu hiện trong nhận thức của quân dân ta lúc bấy giờ đó là: hoàn toàn bất ngờ, không ai nghĩ là “đồng chí”, “anh em”, “láng giềng” với nhau mà họ lại hành xử với chúng ta tàn ác và man rợ như vậy. Lịch sử về cuộc chiến tranh này rõ ràng như vậy nhưng thử hỏi có bao nhiêu người Việt Nam nhất là thế hệ trẻ hiện nay biết được? Thế thì một câu hỏi đặt ra là tại sao với kẻ mà lúc nào cũng rắp tâm nếu thôn tính không được thì hủy diệt dân tộc ta nhưng thời gian qua ta lại ít khi lên tiếng hoặc không dám lên tiếng mỗi khi nói về “truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc”?
Những năm gần đây tôi tin là bất kì người dân Việt Nam nào nếu có bỏ chút ít tìm hiểu tình hình chính trị của đất nước cũng đều biết mối quan hệ giữa chúng ta với Trung Quốc đang có nhiều “lấn cấn”. Tuy vậy, dẫu là biết có bất ổn nhưng tôi tin đa phần người dân Việt Nam lại không biết (kể cả tôi) quan điểm, sách lược cụ thể của lãnh đạo nước nhà trong việc đối phó với sự nham hiểm của bọn người Trung Quốc như thế nào nhất là trong những thời điểm mà thái độ hiếu chiến và ngang ngược của họ ngày một tăng theo cấp số nhân (dĩ nhiên ở đây người dân không đòi hỏi để biết những vấn đề thuộc về bí mật quân sự, bí mật quốc gia, vấn đề là người dân muốn biết cái quan điểm mà qua đó cho thấy thái độ, tư thế, vị thế, bộ mặt của một đất nước Việt Nam độc lập, bình đẵng trong mối quan hệ với Trung Quốc là như thế nào). Điển hình là việc họ liên tục gây hấn trên Biển Đông như cắt cáp tàu của ta, bắt bớ đánh đập, bắn giết ngư dân ta rất nhiều lần. Báo chí truyền thông của họ thì liên tục mạt sát, hăm he, biêu riếu ta trong khi báo chí truyền thông (chính thống) của ta thì hoàn toàn ngược lại. Qua các cơ quan truyền thông chính thống, gần như người dân Việt chỉ biết được quan điểm rất chung chung của “những người có trách nhiệm” liên quan đến vấn đề này là phải “dùy trì mối quan hệ láng giềng hữu nghị” hay “kiên trì giải quyết những bất đồng thông qua đàm phán trên cơ sở luật pháp quốc tế”. Dĩ nhiên, quan điểm chủ trương này là đúng đắn. Trước hết nó thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình của người Việt Nam bao đời nay nên buộc phải chín bỏ làm mười mà nhân nhượng họ. Tuy vậy, vấn đề là ta đã thực tâm, thực lòng với họ nhưng họ có thực tâm thực lòng với ta hay không? Và tôi tin là không một người Việt Nam nào có hiểu biết (nhất là những lãnh đạo cấp cao của ta) lại không biết sự quỷ quyệt và nham hiểm của giới lãnh đạo Trung Quốc. Nếu như vậy, thì nhất định chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận lại những chuyện mà ta đã nhân nhượng họ bấy lâu nay. Nhất là trong nhiều trường hợp có khi sự nhân nhượng đã biến thành sự nhu nhược và yếu hèn lúc nào không hay.
Tôi lấy ví dụ tại sao lại không cho người dân biểu tình chống lại sự hung hăng của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ cướp của ta; tại sao báo chí đưa tin về những vụ việc liên quan đến sự bắt bớ đánh đập ngư dân ta trên biển Đông lại hạn chế và né tránh trong từ ngữ diễn đạt; tại sao không cho hay không dám tổ chức những buổi lễ nhằm tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cách đây 35 năm - ngày mà họ xua hơn 60 ngàn quân tràn sang xâm lược nước ta...? Trong những trường hợp này, rõ ràng rất khó mà thuyết phục dân chúng với lý do chúng ta phải nhân nhượng những “chuyện vặt” để hướng đến “đại cuộc” gì đó. Bởi lẽ cần nhớ rằng vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên biển với họ và vấn đề giáo dục thế hệ cháu con nhằm “phát huy truyền thống đánh giặc ngoại xâm” thông qua việc tổ chức tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cách đây 35 năm là hai vấn đề khác nhau. Việc tranh chấp lãnh thổ suy cho cùng đó là vấn đề mà nói trắng ra là thế giới ai cũng biết (duy chỉ có dân ta đa phần lại rất mơ hồ), là vấn đề nhất định phải mang ra đàm phán đa phương (trên cơ sở luật pháp quốc tế) còn vấn đề tổ chức tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ là vấn đề thuộc về nội bộ của chúng ta. Về nguyên tắc thì Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào khác không được quyền can thiệp vào chuyện nội bộ này. Cho nên không có lý do gì chúng ta lại không cho dân mình cất lên nói lên tiếng nói nhằm tri ân các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống mà lịch sử đã thừa nhận đó là cuộc chiến tranh vệ quốc rất bi tráng và hào hùng trong suốt chiều dài dựng nước của dân tộc (trừ phi có kẻ nào đó không thừa nhận chuyện này).
Một vấn đề nữa, tôi tin rằng chắc rằng giới lãnh đạo và các tướng lĩnh trong quân đội nước ta hiện nay đều không quên nội dung toàn văn lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/2/1946 đặc biệt là những câu mở đầu của văn bản này như sau:
“Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Ai cũng biết tình cảnh của cách mạng Việt Nam thời điểm ấy do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo khó khăn như thế nào. Nhưng hãy xem cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đối phó với sự hung hăng của thực dân Pháp lúc ấy ra sao. Rõ ràng sự nhân nhượng của Hồ Chí Minh qua việc ký kết hiệp định sơ bộ 6/3 và hòa ước 14/9 với người Pháp là có thật. Nhưng vấn đề là sự nhân nhượng ấy nó thể hiện cái tư thế rất đường hoàng của một dân tộc, một đất nước vừa tuyên bố độc lập, yêu cầu người Pháp phải thừa nhận và tôn trọng chứ không phải nhân nhượng trong sự cam chịu vì khiếp sợ và nhu nhược. Nhân nhượng chẳng qua là để tranh thủ thời gian nhằm chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mà theo nhận định của chủ tịch Hồ Chí Minh là rất khó tránh khỏi.
Dẫu biết mọi so sánh đều khập khiểng nhưng qua vấn đề trên một lần nữa cho thấy trong hoàn cảnh hiện nay trong mối quan hệ giữa ta với Trung Quốc cụ thể là vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên biển thì công lý (chiếu theo luật pháp quốc tế) và chính nghĩa đang nghiêng về phía chúng ta. Vấn đề là thái độ của chúng ta trong vấn đề này như thế nào? Chúng ta phải làm gì và đã làm gì để có thể tranh thủ sự ủng hộ của đông đảo bạn bè trên thế giới hay không mà thôi? Cho nên, nếu chúng ta cứ mãi nhân nhượng Trung Quốc theo kiểu bất chấp “truyền thống yêu nước” và “truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc” của nhân dân thì theo tôi hậu quả sẽ rất khôn lường. Cá nhân tôi cho răng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, một chính quyền, một nhà nước nếu nhân danh chuyện phải duy trì quan hệ hòa bình hữu nghị với kẻ thù bên ngoài bằng việc cản trở thậm chí truy cứu lòng yêu nước của dân mình đều là cách ứng xử tệ hại và sai lầm. Trong mọi thời điểm nếu phải cân nhắc giữa một bên là nhân dân trong nước và một bên là những kẻ ngoại bang nham hiểm nếu là một chính trị gia khôn ngoan, một nhà nước thực sự vì dân sẽ không đời nào lại chọn kẻ ngoại bang mà bỏ rơi thần dân trong nước mình. Đây không phải tư tưởng mà mấy trăm năm trước Nguyễn Trãi đã từng nói hay sao?
Việc nhân nghĩa cốt ở an dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
2. Một vấn đề mà thời gian gần đây tôi cũng hay suy nghĩ đến là tại sao các nhà viết sử, các chính trị gia ở ta hay khuyên thế hệ mai sau bằng cụm từ “phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm” . Cá nhân tôi thấy có gì không ổn từ cách nói này. Bởi lẽ, cách nói này ít nhiều phản ánh và hàm chứa một tư duy yếm thế, nhược tiểu của dân tộc ta. Rõ ràng chúng ta không hề muốn chiến tranh, nhưng tại sao lại bảo phải cháu con cần“phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm”? Nói như thế phải chăng chúng ta đang tự thừa nhận mình ở thế bị động, kẻ thù có thể ồ ạt mang quân qua giày xéo quê hương bất cứ lúc nào. Phải chăng chúng ta đang tự thừa nhận những khi đất nước thanh bình thì tinh thần dân tộc, nội bộ của chúng ta đang “có vấn đề bất ổn” nên kẻ thù mới có cơ hội phát động chiến tranh xâm lược? Có vẻ như lịch sử cũng đã cho thấy điều này thì phải? Hầu như mỗi khi quân xâm lược phương Bắc tiến hành xâm lược nước ta, ngoài nguyên nhân là do cái tham vọng “bành trướng” muôn đời của họ thì còn một lý do nữa là nội bộ của chúng ta “có vấn đề” (triều đình phong kiến nhu nhược hoặc không thì cũng chủ quan, lơ là và mất cảnh giác).
Thật ra đây chỉ là những băn khoăn của riêng tôi khi nghĩ về tình hình của đất nước hiện nay trong mối quan hệ với Trung Quốc. Có thể nhiều người sẽ không đồng tình với suy nghĩ này. Tuy vậy, tôi cũng muốn nói rằng hiện nay thay vì nhà nước và chính quyền lo tìm cách đối phó với dân mình khi họ bày tỏ và thể hiện lòng yêu nước hãy dồn tất cả tâm trí để mà đối phó với người “đồng chí” ngoài miệng thì nói lời “hảo, hảo” nhưng trong dạ thì tìm đủ mọi cách để hễ có cơ hội là chà đạp ta. Bởi không khéo có khi ta lại rơi vào cái bẫy của người “đồng chí 4 tốt” nhưng nham hiểm này. Ngoài ra, trong hoàn cảnh hiện nay, Việt Nam phải làm thế nào để thể hiện vị thế của dân tộc mình để những kẻ có ý định xâm lược phải từ bỏ âm mưu và ý định của chúng chứ không phải thụ động “chờ” kẻ thù sang rồi lúc ấy mới... “phát huy truyền thống đánh giặc”. Và để làm được điều này tôi cho rằng trước hết, những người có trách nhiệm cao nhất của đất nước cần phải phân biệt rõ và xác định đúng kẻ thù thực sự đang rình rập mình. Trong cảm nhận và sự hiểu biết của cá nhân tôi, tôi cho rằng kẻ thù nguy hiểm nhất Việt Nam hiện nay và trong tương lai không phải ai xa lạ mà chính là “người hàng xóm” ở ngay bên cạnh mình. Tôi tin rằng nhiều người cũng sẽ đồng tình với tôi về quan điểm này. Cho nên, tôi cho rằng đừng bao giờ đối xử thô bạo với nhân dân trong nước khi họ biểu lộ lòng yêu nước dưới bất kỳ hình thức nào. Trong lịch sử nhân loại, bất kỳ cuộc chiến tranh mang màu sắc “gà nhà bôi mặt đá nhau” nào cũng đều cho thấy sự xuẩn ngốc của những chính trị gia nắm quyền.
Cần Thơ, 15/2/2014
Nguyễn Trọng Bình
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 15-2-14

Đồng Phụng Việt - Có phải chỉ cần “bình yên” nên hạ nhục hàng chục ngàn liệt sĩ?

Đảng CSVN không tưởng niệm, tri ân những người đã chết vì bảo vệ lãnh thổ và cả vì sự tồn tại của chính mình là bất nghĩa.
Ngăn chặn những người khác tưởng niệm, tri ân những người đã chết vì bảo vệ xứ sở của họ là bất nhân.

Tệ đến mức không thể tưởng tượng là chọn hình thức ca hát, nhảy múa hưởng ứng “năm văn minh, trật tự đô thị” để hóa giải chuyện tưởng niệm tri ân. Làm như thế là cố tình hạ nhục những người vị quốc vong thân. Đó là bất lễ, bất tín.
Không thể tìm được từ để diễn đạt cho đúng ý!
Ai đọc nhiều, biết nhiều, “thông kim bác cổ”, chỉ giúp mình xem từ xưa đến giờ trong lịch sủ tồn tại và phát triển của nhân loại, có chính thể nào, kể cả hôn quân, bạo chúa lại chọn cách hạ nhục những trung thần, dũng sĩ của chính mình theo kiểu như vậy để được “bình yên xây dựng và phát triển” như Đảng CSVN mới làm vào sáng 16 tháng 2 tại tượng đài Lý Thái Tổ như vậy hay không?
Hạ nhục những liệt sĩ của mình tới mức như thế thì liệu còn mấy người muốn xả thân? Khi không còn mấy người muốn xả thân bảo vệ xứ sở của mình để xương máu không bị Đảng CSVN dùng để xây “sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối” thì tương lai của xứ sở này, dân tộc này ra sao?
Vụ hạ nhục này không đơn thuần là bất nhân, bất nghĩa, bất lễ, bất tín. Mình không dùng chữ bất trí vì nó có dấu hiệu của một âm mưu hết sức thâm độc. Đó là đồng hóa Đảng CSVN với quốc gia, dân tộc rồi chứng minh Đảng bất nhân, bất nghĩa, bất lễ, bất tín để chẳng còn ai màng tới quốc gia, dân tộc.
Ngày mai, nếu tiếng súng lại vang trên biên giới, sẽ có hàng chục triệu người Việt hoang mang không biết nên làm gì cho đúng và chừng đó là quá đủ cho một âm mưu…
Đồng Phụng Việt
(FB. Đồng Phụng Việt)

Võ Văn Tạo - Nỗi buồn Hồ Gươm sáng 16-2-2014

Cứ nghĩ suốt 35 năm qua, thái độ vong ơn, bạc bẽo đến tội lỗi của người ta đối với vong linh của hàng vạn đồng bào, chiến sĩ ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống 60 vạn quân xâm lược bành trướng Trung Quốc ở biên giới phía Bắc (khởi sự ồ ạt ngày 17-2-1979, kéo dài gần 10 năm), đã là quá đủ!
Cứ ngỡ, giờ đây, sau liên tiếp các sự kiện: Trung Quốc đánh cướp vùng biển đảo Trường Sa của Việt Nam, sát hại 64 chiến sĩ ta ngày 14-3-1988, khởi sự âm mưu tháng 11-2007 và chính thức phê chuẩn ngày 21-6-2012 về việc thành lập cái gọi là TP. Tam Sa (trắng trợn “ôm” các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), “sự cố” tàu Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp thăm dò dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ngày 26-5-2011 ngay tại thềm lục địa của ta, tuyên bố không thể tham lam, ngược ngạo và lố bịch hơn của Trung Quốc ở trụ sở Liên Hiệp Quốc (ngày 7-5-2009) về cái gọi là “đường lưỡi bò” nuốt trọn Biển Đông, hàng trăm vụ lính Trung Quốc bắt bớ, cướp bóc trắng trợn ngư cụ, tôm cá, bắn giết tàn bạo ngư dân Việt Nam ở ngư trường truyền thống của ta trên Biển Đông suốt bao năm qua… Dù muộn màng, cuối cùng người ta cũng phải sáng mắt sáng lòng.
Người dân Hà Nội đặt hoa hồng trắng tại một ngôi đền đánh dấu 35 năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Ảnh chụp hôm 16/2/2014.

Cứ ngỡ, những ngày này năm nay, người ta đủ lương tri tối thiểu để có những hoạt động đại loại: cử đại diện chop bu lên các nghĩa trang biên giới phía Bắc, hoặc chí ít cũng đến Đài Liệt sĩ vô danh ở Thủ đô để đặt vòng hoa, thắp hương, cúi đầu sám hối, tổ chức hội thảo khoa học lịch sử, thăm viếng tri ân gia đình liệt sĩ cuộc chiến biên giới... như những biểu hiện hoàn lương.
Cứ ngỡ, dù chót vót ngôi cao, bổng lậu ngất trời làm cho mờ mắt vô tâm, huyết quản họ vẫn còn chút ít dòng máu Việt.
Cứ ngỡ...
*
Sáng 14-2-2014, hàng triệu con tim mang dòng máu Lạc Hồng hướng về Hồ Gươm – nơi vua Lê hoàn lại thần Kim quy thanh gươm báu sau sự nghiệp phục quốc - ngóng tin các nhân sĩ trí thức và đồng bào Thủ đô yêu nước “tự phát” tổ chức lễ tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ bỏ mình vì nước 35 năm trước. Những tin, mọi chuyện rồi sẽ suôn sẻ (thôi thì, người ta chưa làm được thì chí ít cũng để dân làm).
Nào ngờ, lại những trò cũ đã diễn sáng 19-1-2014, có “cải biên” đôi chút. Thay vì cho “côn an” giả dạng thợ xẻ đá mù mịt đinh tai nhức óc ở sân tượng đài Lý Thái Tổ, người ta lại bày trò “thi công” sân khấu, đưa các cặp đôi nam nữ đến nhảy nhót nhăng nhố trước hoạt động mang nghĩa cử thiêng liêng, trầm mặc của khoảng 300 nhân sĩ, trí thức khả kính và người dân – tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ vị quốc vong thân!
Tổ chức vui chơi giải trí ngay nơi diễn ra hoạt động tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ ngã xuống? Có cái “sáng kiến” làm giỗ nào táng tận lương tâm hơn thế?!
*
Nhưng cũng trong buổi sáng 16-2-2014 này ở Hồ Gươm, có tình tiết khác lạ. Tham gia lễ tưởng niệm, TS Nguyễn Xuân Diện cho biết, không thấy “côn an” chìm nổi, “dân phòng” giả dạng hung hăng chen lấn, xô đẩy, cản phá, cướp giật băng rôn, bắt bớ đánh đập, khủng bố “nguội” hèn hạ đủ kiểu như nhiều lần trước. Không biết có phải người ta bắt đầu bước những bước ngập ngừng đầu tiên trên con đường hoàn lương?
Dẫu sao, mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ non sông đất Việt (từ cả nghìn năm trước đến gần đây) đều được người ta không quên tổ chức kỷ niệm rình rang, chỉ trừ các cuộc chiến từ 1979 chống kẻ thù truyền kiếp là chủ nghĩa Đại Hán bành trướng tham tàn ở phương Bắc, cũng là điều chẳng thể vui.
Dẫu sao, mọi người có lương tri đều hy vọng dịp tưởng niệm Liệt sĩ trận chiến Trường Sa 14-3 tới đây, người ta sẽ chấm dứt những trò nhăng nhố tương tự.
Để kết, xin mượn ý câu thơ Tố Hữu ngày nào:
“Tôi kể ngày nay chuyện Mác – Lê
Giáo điều lầm chỗ để trên đầu
Chủ quyền cố ý trao tay giặc
Sao khỏi cơ đồ đắm biển sâu?”

(nguyên tác trong bài Tâm sự của Tố Hữu:
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thấn vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”)
Võ Văn Tạo
(Quê choa)

Dệt may Việt Nam chưa sẵn sàng với TPP

000_Hkg7958509-600.jpg
Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra (trái) xem một mẫu lụa tơ tằm trong một cửa hàng lụa tại phố cổ Hà Nội hôm 27/10/2012. AFP photo




Mặc dù các vòng đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP chưa kết thúc, nhưng ngay cả vào thời điểm 2016 thì ngành  Ngành dệt may Việt Nam vẫn chưa hội đủ điều kiện để hưởng lợi mà còn có thể thua ngay trên sân nhà.

Ngành dệt may Việt Nam hy vọng tăng gấp ba kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, với triển vọng Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP được thông qua và có hiệu lực trong năm 2015. Kim ngạch dệt may vào Mỹ từ 8,6 tỷ USD năm 2013 sẽ có thể tăng lên hơn 20 tỷ USD trước năm 2020. Hiện nay thuế suất trung bình sản phẩm dệt may Việt Nam vào Mỹ vào khoảng 17%, nhiều dòng sản phẩm chịu thuế tới 30%. Khi áp dụng TPP mức thuế suất hàng dệt may sẽ bằng 0%, giá cả sản phẩm Việt Nam sẽ rất cạnh tranh và chính phủ Việt Nam bị quyến rũ với các dự báo đầy hấp dẫn này.

Chưa đủ điều kiện hưởng lợi


TPP cho tới giai đoạn đàm phán hiện nay bao gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Newzealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam. Đó là một thị trường mở của thế kỷ 21 với 40% GDP và 30% trao đổi thương mại toàn cầu. Tuy vậy điều kiện ràng buộc của sản phẩm dệt may trong TPP do Hoa Kỳ đòi hỏi có ít nhất  3 điều kiện mà Việt Nam khó lòng vượt qua trong vài năm sắp tới.

Thứ nhất nguyên tắc xuất xứ tính từ sợi (yarn-forward), tức sợi để dệt phải được sản xuất tại Việt Nam hoặc các nước thành viên TPP từ bông nội vùng. Thứ hai là quyền lập hội của người lao động, hay nói cách khác phải có tự do nghiệp đoàn và thứ ba là kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Nhưng ngay cả khi việc thương thảo thành công bánh ít đi bánh qui lại, mỗi bên nhân nhượng một phần thì ngành dệt may Việt Nam vẫn còn một nguy cơ lớn. Đó là mất thị phần nội địa với sản phẩm trung cao cấp khi các sản phẩm dệt may của các nước TPP vào Việt Nam cũng được hưởng thuế suất 0%.

GSTS Vũ Văn Hóa, phó hiệu trưởng trường Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội nhận định:

“Thực ra Việt Nam chỉ là gia công, chứ tất cả từ sợi cho đến máy móc để dệt vải rồi cho đến mẫu mã quần áo thì đều phải nhập của nước ngoài. Ở Việt Nam có rất nhiều diện tích để trồng cây lanh hoặc cây bông nhưng lại chưa làm được việc đó. Đây là sự thiếu sót của Chính phủ khi qui hoạch đất đai cũng như quan tâm đến nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp cần thiết phục vụ công nghiệp. Chúng tôi hy vọng rằng qua hiệp định này nếu được ký Việt Nam sẽ bài trí lại diện tích để phát triển cây công nghiệp.”
Ở Việt Nam có rất nhiều diện tích để trồng cây lanh hoặc cây bông nhưng lại chưa làm được việc đó. Đây là sự thiếu sót của Chính phủ khi qui hoạch đất đai ... - GSTS Vũ Văn Hóa
Về điều kiện xuất xứ tính từ sợi (Yarn forward rule of origin), theo ông Diệp Thành Kiệt phó Chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM thì sẽ chậm, nhưng cuối cùng Việt Nam cũng đáp ứng. Các nhà đàm phán Việt Nam hiện đang mưu tìm những điều kiện dễ chịu nhất trong giai đoạn chuyển tiếp.

“Hai bên thảo luận về cái gọi  là  danh mục thiếu hụt, thí dụ về những loại sợi vì một lý do nào đó Việt Nam chưa có, có thể có trong các nước TPP hoặc không có, thì hai bên sẽ đưa ra danh mục thiếu hụt thường xuyên hoặc danh mục thiếu hụt tạm thời. Tôi nghĩ đây là một giải pháp để cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm thời gian chuẩn bị và trong thời gian áp dụng danh mục thiếu hụt chúng ta vẫn được hưởng mức thuế suất bằng 0.”
034_3044332-200.jpg
Một sạp vải tại chợ Đầm, Nha Trang. AFP photo

Được biết Tập đoàn dệt may Việt Nam Vinatex đầu tư 17.000 tỷ đồng trong hai năm 2013-2014 cho các dự án phát triển nguyên phụ liệu, sợi dệt kim, vải nhuộm sợi. Ngoài ra có dấu hiệu nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhảy vào lĩnh vực kéo sợi dệt vải...Nhưng để giải quyết điều kiện xuất xứ tính từ sợi, lại phát sinh những âu lo khác cũng hệ trọng không kém.  Ông Diệp Thành Kiệt nhận định:

“Lo lắng sắp tới là về nguồn lực lao động, khi có nhiều nhà đầu tư vào chắc chắn sẽ có sự cạnh tranh nhất định về lao động, sẽ dẫn tới việc đẩy giá lao động lên và từ đó sẽ làm cho giá thành sản phẩm cao hơn. Một điều đáng quan tâm nữa là thị trường nội địa dệt may của Việt Nam khá lớn và hiện nay có nhu cầu sử dụng hàng may mặc sẵn và hàng có thương hiệu đối với người Việt, đặc biệt ở các thành phố lớn thì đã phát triển rất mạnh. Do đó với TPP chắc chắn là điều kiện rất tốt cho các thương hiệu khác của các nước TPP như từ Malaysia thậm chí cả từ Hoa Kỳ.

Đó là điều cần lo lắng bên cạnh chuyện tính toán cho sợi.  Vấn đề sợi thì tôi nghĩ sớm muộn gì thì chúng ta sẽ có, nói vậy không có nghĩa tự nhiên nó đến, nhưng nó là sự kích thích đầu tư rất dữ nên các nhà đầu tư sẽ tập trung vào. Sợi không còn là lo lắng hàng đầu mà là vấn đề cạnh tranh ở thị trường nội địa, những doanh nghiệp Việt Nam còn non kém về kinh doanh, thương hiệu chưa vững mạnh thì sẽ dễ bị mai một.”

Về vấn đề quyền lập hội của người lao động, tức tự do nghiệp đoàn một điều kiện mà Hoa Kỳ đặt ra trong bất kỳ thỏa thuận mậu dịch tự do nào. Một số ý kiến cho rằng, Việt Nam sẽ nhượng bộ về cơ bản, cam kết nhưng kéo dài bằng thủ tục lập pháp. Trên nguyên tắc Hiến pháp hiện hành có qui định quyền này nhưng thực tế bị “treo” từ 70 năm qua.
Sợi không còn là lo lắng hàng đầu mà là vấn đề cạnh tranh ở thị trường nội địa, những doanh nghiệp Việt Nam còn non kém về kinh doanh, thương hiệu chưa vững mạnh thì sẽ dễ bị mai một.  - Ông Diệp Thành Kiệt
Phó Giáo sư Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội cho rằng:

“TPP thì một trong các điều kiện hết sức quan trọng là quyền tự do lập nghiệp đoàn. Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam thì chủ yếu công đoàn là chịu sự lãnh đạo của Nhà nước hay nói cách khác là Đảng, hay lập hiệp hội gì đấy thì tùy theo qui chế. Nếu Việt Nam thực sự muốn tham gia TPP thì phải thực thi đúng theo cam kết. Nếu không thực thi  thì chắc chắn không thể hội nhập được.”

Với điều kiện kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, đoàn đàm phán Việt Nam sẽ có nhiều thứ để thuyết phục phía Hoa Kỳ. Chẳng hạn như Việt Nam đang trong tiến trình tái cơ cấu các tập đoàn tổng công ty doanh nghiệp nhà nước, trong hai năm 2014-2015 sẽ cổ phần hóa 500 đơn vị.

Một khi TPP được thông qua, nền kinh tế Việt Nam cụ thể là ngành dệt may sẽ tăng tốc phát triển lợi hại như thế nào là chuyện về sau. Nhưng cái lợi trước mắt nếu Việt Nam tiếp tục hội nhập chính là áp lực cải cách, một điều mà người dân Việt Nam trông đợi.

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-02-16 

Ký ức đám cưới ngày 17.2.1979 của con trai Tổng bí thư Lê Duẩn

(TNO) Hôm nay, 17.2.2014, đúng 35 năm ngày mở đầu cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới phía Bắc, cũng là kỷ niệm 35 năm ngày cưới của tôi.

Chú rể Lê Kiên Thành và cô dâu Nguyễn Thị Tú Khanh
trong đám cưới ngày 17.2.1979 - Ảnh tư liệu gia đình
 
Năm 1979, tôi 24 tuổi, 7 năm quân ngũ và bắt đầu làm việc tại Viện kỹ thuật không quân.

Năm 1979, đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ được bốn năm. Có thể lớp trẻ bây giờ khó mà hình dung nổi bối cảnh đất nước lúc đó nhưng tôi cũng không thể nói gì cho đủ nghĩa hơn bằng ba chữ: Rất khó khăn! Hồi đó, bộ đội như chúng tôi được phát mỗi tháng 21 kg gạo nhưng vẫn đói bởi thiếu chất. Hồi đó, mỗi năm, mỗi người dân khó có nổi một bộ quần áo mới. Hồi đó, mẹ tôi làm ở Ban tuyên giáo An Giang, thỉnh thoảng lại phải “cứu viện” chất đạm cho các con, khi thì gửi ít tôm khô, hoặc các loại mắm Nam Bộ. Những đứa con miền Bắc của bà tập quen ăn mắm từ những ngày thiếu, đói đó.

Đầu năm 1979, khi quyết định sẽ cưới vợ, tôi vào An Giang thăm mẹ. Bà, người phụ nữ nhiều năm xa chồng con, biền biệt chiến trường có vẻ như chưa hề được sống một ngày của thời bình. Bà cho tôi xem những bức ảnh chụp những người dân bị Pol Pot giết hại. Lần đầu tiên, trong đời, tôi nhìn thấy hình ảnh những con người bị giết một cách khủng khiếp và man rợ như thế. Hàng chục, hàng trăm người đều chết cùng một tư thế: Miệng há ra, mắt mở man dại. Mẹ tôi giải thích họ bị đâm bằng những que nhọn từ hậu môn lên đến đỉnh đầu...

Năm 1979, trước ngày 17.2, những người lính chúng tôi đã được phổ biến về những va chạm lớn trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.

Nói như thế để nhắc lại rằng, ở thời điểm đó, đất nước chúng ta ở vào thời điểm vô cùng khó khăn. Thiếu, đói... chỉ là yếu tố rất nhỏ trong 2 chữ KHÓ KHĂN đó.

Thế nhưng, cũng sẽ chẳng ai hình dung nổi, khi còn thiếu mặc và đói ăn đó, chúng tôi được giao nhiệm vụ thử nghiệm chế tạo máy bay...

Ngày 16.2, báo động cấp 1 toàn quân được chuyển xuống cấp 3.

Sáng thứ bảy,17.2.1979, Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới.

Tối hôm đó, đám cưới của tôi vẫn diễn ra. Vẫn gần đông đủ những cán bộ cao cấp: Trường Chinh, Tố Hữu, Đại tướng Văn Tiến Dũng... Gọi là đám cưới nhưng thực ra thì cũng là một bữa tiệc nhà có chút rượu, trà thuốc và kẹo. Tôi thoáng thấy sự căng thẳng trên gương mặt của những lãnh đạo đơn vị và quân chủng không quân.
(LB: hiểu rõ rồi, đám cưới vẫn bình thường và đủ mặt các cán bộ cao cấp, Trung Quốc xâm lược giết hại dân quân thì kệ mẹ nó, cứ phải đám cưới đã nhể ...)

Cha tôi - Tổng bí thư Lê Duẩn - và các lãnh đạo cao cấp vẫn nói chuyện bình thường, không nhắc gì về những gì đang diễn ra ở biên giới. Đặc biệt, nét mặt cha tôi rất bình thản, không hề để lộ (hoặc có thể không có) cảm giác âu lo hay căng thẳng gì. Cũng có thể nhờ thế, chỉ vài chục phút sau khi bắt đầu hôn lễ, không khí căng thẳng trong nhóm sĩ quan quân đội được giải tỏa, trở lại bình thường. Hôm sau, một người bạn binh ngũ nói với tôi: “Hôm qua thấy đám cưới vẫn diễn ra, thấy mọi việc vẫn bình thường, và đặc biệt, nhìn nét mặt của ông già mày, bọn tao tin Trung Quốc chẳng đánh đến Hà Nội được đâu...”.

Tôi không bao giờ tưởng tượng rằng mình sẽ có một đám cưới như trong nhiều bộ phim mà mình từng xem thời niên thiếu: Sau đám cưới, chú rể trở về ngay đơn vị...

Ngay sau ngày cưới, tôi trở về đơn vị và bắt đầu cuộc sống của người lính thời chiến tranh. Thỉnh thoảng chủ nhật vợ tôi đến thăm chồng; khi ra về mắt đỏ hoe, làm tôi thấy thương cảm vô cùng!


Những người tham gia thiết kế, chế tạo chiếc máy bay Việt Nam đầu tiên TL-1.
Từ trái qua phải: Lê Kiên thành, Trần Mạnh Chung, Nguyễn Văn Hải, Bùi Thanh Châu.
Đây là những ngày bay thử trên sân bay Hoà Lạc - Ảnh tư liệu gia đình

Lúc đó, nghe nói rằng, chúng ta đã chuẩn bị cho một chiến bằng không quân để bảo vệ biên giới.

Thế nhưng, điều đặc biệt là những ngày tháng đó, Hà Nội vẫn bình thường. Bình thường trong một cuộc chiến hết sức không bình thường. Khi tiếng súng đã nổ ra ở biên giới nhưng mấy tháng sau thì kết thúc, người Hà Nội điềm tĩnh pha chút tự hào kín đáo nhìn lại: Trung Quốc đã không thể kéo dài cuộc chiến và không thể đánh đến Hà Nội...

Cha tôi còn nói: Nếu theo lẽ bình thường, Trung Quốc không nên đánh Việt Nam...

Nhưng có lẽ người Việt Nam là vậy, một khi điều bất bình thường nhất đã xảy ra, họ bình thản đón nhận.

Và tới năm 1980, chiếc máy bay đầu tiên do người Việt Nam tự thiết kế và chế tạo mang tên TL-1 đã bay trên bầu trời Tổ quốc. Năm 1981, đứa con trai đầu lòng của tôi ra đời, tôi đặt tên là Lê Kiên Dũng.

Và cũng là bình thường khi kỷ niệm 35 năm ngày cưới, tôi không thể quên, ngày cưới của mình trùng với ngày nổ ra chiến tranh biên giới. Tất nhiên không nên ôm chặt những chuyện không vui của quá khứ nhưng hãy hiểu quá khứ để nhìn về tương lai một cách chuẩn xác hơn!

Lê Kiên Thành
(Thanh niên)