Vong quốc nô nhảy bài…Vong quốc vũ!
Rất nhiều lời bình luận giận dữ trên các trang mạng xã hội, như “những con điếm của đảng”, “vô liêm sỉ”.v.v. Ngay lập tức những hình ảnh này đã xuất hiện trên các hãng thông tân lớn như: AP, AFP, Washington Post.
Đoạn video có thể xem tại đây
——————————————————
Cặp đôi hãnh diện nhẩy múa. Ảnh AP |
Mười bảy tháng hai năm bảy chín
Sáu mươi vạn quân Tàu giày xéo Bắc biên cương
Có viên tướng Cộng sản ngang nhiên làm nội ứng
Dạy rằng Trung quốc tốt với ta
Báo động quá làm chi
Hãy ăn ngủ bình thường, súng ống cất vào kho! (1)
Một ngày sau, giặc đến!
Nhưng chiến sĩ ta phản ứng kiên cường
Không tiếc máu xương, đẩy lùi quân giặc.
Giá Tự do bao giờ cũng đắt
Sáu vạn con người ngã xuống
Mấy đọi máu đào một tấc đất quê hương?
Nay đến ngày kỷ niệm
Không quốc tang, quốc lễ, quảng trường
Không một nén nhang
Tri ân những anh hùng tử trận?
Lại xua một lũ “bất tri vong quốc hận”
Nhảy múa lăng nhăng cho đẹp ý quân thù!
Hà nội hay Bắc kinh ra lệnh,
Tổ quốc tồn vong ai có biết?
Bốn nghìn năm sao người Việt bỗng hèn ngu?
Họ múa điệu gì vậy?
Sáu mươi vạn quân Tàu giày xéo Bắc biên cương
Có viên tướng Cộng sản ngang nhiên làm nội ứng
Dạy rằng Trung quốc tốt với ta
Báo động quá làm chi
Hãy ăn ngủ bình thường, súng ống cất vào kho! (1)
Một ngày sau, giặc đến!
Nhưng chiến sĩ ta phản ứng kiên cường
Không tiếc máu xương, đẩy lùi quân giặc.
Giá Tự do bao giờ cũng đắt
Sáu vạn con người ngã xuống
Mấy đọi máu đào một tấc đất quê hương?
Nay đến ngày kỷ niệm
Không quốc tang, quốc lễ, quảng trường
Không một nén nhang
Tri ân những anh hùng tử trận?
Lại xua một lũ “bất tri vong quốc hận”
Nhảy múa lăng nhăng cho đẹp ý quân thù!
Hà nội hay Bắc kinh ra lệnh,
Tổ quốc tồn vong ai có biết?
Bốn nghìn năm sao người Việt bỗng hèn ngu?
Họ múa điệu gì vậy?
Nào, cứ nhảy múa lên
“Bạn vàng” đã chiếm biển khơi
Đã kiểm soát bầu trời
Đã rải quân đến từng thành phố
Đã len lỏi đến từng hang ổ
Từng khoáng sản, núi rừng, hầm mỏ
Đại gia đình chủ nghĩa búa liềm ơi…
Vui quá là vui
Oai quá là oai
Những bước chân
Vong quốc nô
Vứt liêm sỉ, nhảy bài…
Vong quốc vũ!
Thái Hữu Tình
17-2-2014
© Đàn Chim Việt
————————————————————————
(1) Chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979: Trước ngày quân bành trướng nổ súng, đại tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh giảm cấp báo động, vũ khí cất vào kho, cán bộ về nhà nghỉ phép.
“Bạn vàng” đã chiếm biển khơi
Đã kiểm soát bầu trời
Đã rải quân đến từng thành phố
Đã len lỏi đến từng hang ổ
Từng khoáng sản, núi rừng, hầm mỏ
Đại gia đình chủ nghĩa búa liềm ơi…
Vui quá là vui
Oai quá là oai
Những bước chân
Vong quốc nô
Vứt liêm sỉ, nhảy bài…
Vong quốc vũ!
Thái Hữu Tình
17-2-2014
© Đàn Chim Việt
————————————————————————
(1) Chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979: Trước ngày quân bành trướng nổ súng, đại tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh giảm cấp báo động, vũ khí cất vào kho, cán bộ về nhà nghỉ phép.
‘Nhân dân không quên: 1979-2014’
Hà Nội – Sáng Chủ nhật ngày 16 tháng
Hai, một số người dân Việt Nam đã đánh dấu kỷ niệm 35 năm cuộc chiến
tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc. Họ hô các khẩu hiệu chống Trung
Quốc cùng với những bài hát yêu nước và đặt hoa tại một ngôi đền ở
trung tâm Hà Nội.
Cả hai nước cộng sản Việt Nam và Trung
Quốc hiện đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan xung quanh vụ tranh
chấp lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở khu vực Biển
Đông. Thời gian vừa qua ngoại giao hai nước đều lên tiếng chỉ trích
nhau vì các chính sách thăm dò dầu khí và các lệnh cấm đánh cá trong
vùng biển tranh chấp.
Lập trường ngày càng quyết đoán ở Biển
Đông của Bắc Kinh đã làm nhiều người tức giận, dẫn đến nhiều cuộc xuống
đường hiếm hoi trong một đất nước độc tài do Đảng Cộng sản Việt Nam
kiểm soát. Một số trường hợp biểu tình trước đây được phía an ninh Việt
Nam bật đèn xanh, tuy nhiên một số cuộc biểu tình khác thì lại bị công
an ngăn chặn và dập tắt.
Trung Quốc đã mang quân xâm chiếm các
tỉnh phía Bắc của Việt Nam vào tháng Hai năm 1979 vì Việt Nam lật đổ
chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia do Bắc Kinh hậu thuẫn.
Cuộc xung đột tuy ngắn ngủi nhưng đẫm
máu với hàng chục ngàn binh lính của cả hai bên tử trận. Cuối cùng, lực
lượng Trung Quốc buộc phải rút quân và cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều
tuyên bố chiến thắng.
Tuy vậy, quân đội Việt Nam vẫn tiếp tục đóng quân Campuchia đến năm 1989.
Mặc dù Việt Nam nhiều lần ca ngợi chiến
thắng quân Pháp và Mỹ nhưng cho đến nay chính quyền vẫn không tổ chức
sự kiện nào để đánh dấu cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm
1979 – điều đã làm nhiều cựu chiến binh và các nhà hoạt động xã hội
thật vọng.
“Các lãnh đạo Việt Nam có thể đã bị
phía Trung Quốc áp lực vì vậy họ không muốn nói về cuộc chiến tranh đó.
Dường như họ muốn phủ nhận quá khứ”, Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ
Việt Nam tại Trung Quốc nói với AFP.
Truyền thông nhà nước cho biết lâu nay
Trung Quốc là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam,
với thương mại song phương hiện lên hơn 40 USD trong năm 2012.
Chủ nhật vừa qua, khoảng hơn 100 nhà hoạt động xã hội đã đến đặt hoa tại tượng đài Lý Thái Tổ tại trung tâm thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên, từ mờ sáng thì khu vực gần tượng đài Lý Thái Tổ đã xuất hiện hàng chục người chơi nhạc rất lớn và nhảy múa nhằm ngăn chặn những người biểu tình từ tổ chức buổi lễ tưởng niệm.
“Đó là việc cố ý … họ (chính quyền) thuê rất nhiều người”, kinh tế gia Nguyễn Quang A nói với AFP tại cuộc biểu tình ở Hà Nội.
Những người biểu tình buộc băng đỏ ngang đầu và mang theo hoa hồng trắng với dải ruy băng đen có dòng chữ “nhân dân không quên”, và sau đó họ đi quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm.
Họ đặt hoa và phát biểu ngắn gọn tại Đền Ngọc Sơn – một điểm đến du lịch nổi tiếng – trước khi phân tán một cách ôn hòa.
An ninh mặc đồng phục và công an đã theo dõi chặt chẽ sự kiện nhưng không thực hiện bất kỳ vụ bắt giữ nào.
Nguyễn Tiến Giới, người đã chiến đấu chống lại Trung Quốc ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, than vãn vì nhà nước cho đến nay vẫn chưa công nhận chính thức buổi lễ kỷ niệm cuộc xung đột năm 1979.
“Đồng chí của tôi và tôi cảm thấy buồn và tức giận nhưng chúng tôi có thể làm gì hơn? Chúng tôi vẫn phải chiến đấu để bảo vệ đất nước chúng tôi”, ông Giới – năm nay 57 tuổi, nói với AFP.
Truyền thông do Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát cũng đã có đưa một số tin liên quan đến dịp kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh với Trung Quốc nhưng không có bài báo nào về cuộc biểu tình hôm Chủ nhật.
Chủ nhật vừa qua, khoảng hơn 100 nhà hoạt động xã hội đã đến đặt hoa tại tượng đài Lý Thái Tổ tại trung tâm thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên, từ mờ sáng thì khu vực gần tượng đài Lý Thái Tổ đã xuất hiện hàng chục người chơi nhạc rất lớn và nhảy múa nhằm ngăn chặn những người biểu tình từ tổ chức buổi lễ tưởng niệm.
“Đó là việc cố ý … họ (chính quyền) thuê rất nhiều người”, kinh tế gia Nguyễn Quang A nói với AFP tại cuộc biểu tình ở Hà Nội.
Những người biểu tình buộc băng đỏ ngang đầu và mang theo hoa hồng trắng với dải ruy băng đen có dòng chữ “nhân dân không quên”, và sau đó họ đi quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm.
Họ đặt hoa và phát biểu ngắn gọn tại Đền Ngọc Sơn – một điểm đến du lịch nổi tiếng – trước khi phân tán một cách ôn hòa.
An ninh mặc đồng phục và công an đã theo dõi chặt chẽ sự kiện nhưng không thực hiện bất kỳ vụ bắt giữ nào.
Nguyễn Tiến Giới, người đã chiến đấu chống lại Trung Quốc ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, than vãn vì nhà nước cho đến nay vẫn chưa công nhận chính thức buổi lễ kỷ niệm cuộc xung đột năm 1979.
“Đồng chí của tôi và tôi cảm thấy buồn và tức giận nhưng chúng tôi có thể làm gì hơn? Chúng tôi vẫn phải chiến đấu để bảo vệ đất nước chúng tôi”, ông Giới – năm nay 57 tuổi, nói với AFP.
Truyền thông do Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát cũng đã có đưa một số tin liên quan đến dịp kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh với Trung Quốc nhưng không có bài báo nào về cuộc biểu tình hôm Chủ nhật.
Cat Barton, AFP/Yahoo News
Đặng Khương chuyển ngữ, CTV Phía Trước
© 2013 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Máu người không phải nước lã
Các chiến sĩ QĐND Việt nam bị TQ bắt làm tù binh. |
Phải đánh vật với bài viết này để đưa lên mạng kịp trong ngày 17.2 không
phải vì đã cạn ý, nghẹn lời mà vì sự trăn trở chưa thể tự lý giải được
cho mình : tại sao người ta buộc phải làm thế hay cứ muốn làm thế : Cố
tình bắt dân tộc phải quên đi nỗi đau về một cuộc chiến tranh đã phơi
trần bộ mặt thật của cái người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" trong
suốt ngần ấy năm?
Không sao hiểu nổi khi cố tình lờ đi, quên đi, không cho nhắc lại, bỏ tù
những ai muốn biểu tỏ lòng căm thù quân cướp nước gây nên cuộc chiến
tranh đẫm máu trên đất nước ta do Trung Quốc tiến hành. Một cuộc chiến
tranh quy mô lớn nhất của Trung Quốc kể từ cuộc chiến Triều Tiên 1950,
điều động 9 quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc lập với hàng trăm xe
tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn hỏa tiễn cùng với sự yểm trợ của
hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng phó. Một cuộc chiến tranh xâm
lược tàn khốc trên toàn tuyến biên giới với tội ác trời không dung, đất
không tha, lặp lại điều cha ông chúng xưa kia đã từng làm : giết sạch,
đốt sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị
trấn khác bị san phẳng. Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã nhuộm đỏ
trên biên cương tổ quốc.
Tôi vẫn cố tin và mong điều mình tin đó là sự thật : những người ra cái
mệnh lệnh ấy, vạch đường lối ấy, thảo chủ trương ấy, đưa ra chỉ thị ấy
dù là trên mực đen giấy trắng hay chỉ thị mật được truyền miệng trực
tiếp đến các cấp ủy, đến hệ thống truyền thông, báo chí... cũng có trái
tim yệu nước và căm giận bọn cướp nước. Vì, máu Việt Nam vẫn chảy trong
huyết quản họ. Hàng ngày họ vẫn phải nhìn vào ánh mắt của con cháu họ,
những ánh mắt tuổi thơ cần sự trong sáng và trung thực để lớn lên làm
người tử tế. Họ, qua "đường giây nóng" hay chỉ là cấp thực hiện có thể
ráo hoảnh thề thốt với phóng viên nước ngoài rằng không hề biết, hoặc
không hề có những chủ trương, quyết sách, chỉ thị nọ, nhưng chẳng nhẽ
lương tâm họ chai lỳ trước những lời nói dối để trong sâu thẳm tâm linh
họ cũng chối bỏ nốt những thoáng dằn vặt hay run sợ " Mai sau dầu đến
thế nào, Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần".[Nguyễn Du]
Bởi chưng, máu người đâu phải nước lã! Anh linh của hàng vạn đồng bào và
chiến sĩ của ta ngã xuống trên sáu tỉnh biên giới ba mươi lăm năm trước
đây đã dồn góp vào, bối đắp thêm cho khí thiêng sông núi giữ nhịp cho
mạch sống đất nước, đang nâng đỡ chúng ta, nhắc nhở chúng ta, soi rọi
đầu óc chúng ta, và cũng nghiêm khắc trách phạt, căn dặn chúng ta hãy
sống trong cuộc đời này như thế nào.
"Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi
về"[Trịnh Công Sơn]. Ấy vậy mà Nguyễn Gia Thiều lại từng cảnh báo : "Kìa
thế cục như in giấc mộng. Máy huyền vi mở đóng khôn lường"! Trong sự
"mở đóng khôn lường" đó, cuộc sống tự mở lấy đường đi cho chính nó. Mọi
vương triều, chính thể đều cuốn trôi theo dòng thác thời gian để cho sự
sòng phẳng nghiêm cẩn của lịch sử phán xét chúng. Lịch sử gần và lịch sử
xa đang hòa quyện vào nhau trong sự đa dạng và nhiễu nhương của thời
cuộc hôm nay.
Những Trần Hưng Đạo rồi Trần Ích Tắc thế kỷ XIII, những Quang Trung
Nguyễn Huệ và rồi Lê Chiêu Thống, thế kỷ XVIII đang được nhân bản với
những gương mặt "hiện đại" của thế kỷ XX, rồi thế kỷ XXI này càng làm
nổi rõ thêm lực tỏa sáng cũng như sức trĩu nặng của "đôi vầng nhật
nguyệt" trên hai vai những người đương thời! Mà lịch sử có khi đi những
bước chậm rãi nhưng không thiếu những chuyển động đột biến. Thế rồi, nói
như Einstein "trong ánh chớp của những cơn giông sáng lòe của một giai
đoạn chuyển động, người ta thấy các sự việc và con người như trần
truồng... Các dân tộc chỉ bị thúc đẩy để phát triển bằng nguy cơ và chấn
động, mong rằng những chấn động này dẫn tới những hệ quả tích cực".
Vậy thì, những bàn tay dại dột đang cố tình che dấu sự thật có che được nòng súng quân Trung Quốc xâm lược của
pháo Bằng Tường dội sang xối xả
dằng dặc dòng người sơ tán đổ về xuôi
Lẫn lộn người Kinh, người Tày, người Dao
nào gánh, nào xe, nào gùi, nào vác
hiển hiện những ngày xưa loạn lạc
biên ải xưa giặc giã mới tràn vào
những gương mặt nghìn năm đanh sắt lại
máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới
vẫn mới cả nón mê cả áo vá chân trần...
Miếng cơm ăn lẫn cát bụi bên đường
giấc ngủ ngồi che hờ tàu lá chuối
ngôi nhà không bỏ trống sau lưng
đàn trâu lang thang lũ gà con xao xác
lũ trẻ con mắt tròn ngơ ngác
chân trẻ con lũn cũn chạy như đùa
Trẻ con trên ôtô, trên xe trâu, xe thồ
trẻ con trên lưng trẻ con trên tay
trẻ con lon ton níu váy níu áo
đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt nghiến trên vai
một đầu gánh là trẻ con còn đầu kia là nồi là gạo
mắt trẻ con cứ tròn thao láo
như hòn sỏi ném theo đoàn quân đi...
Bịt thông tin thì bịt, nhưng bịt "ánh mắt trẻ con cứ tròn thao láo" mà
nhà thơ Nguyễn Duy miêu tả trong "chùm thơ mặt trận Lạng Sơn tháng
2.1979" thì quá táng tận lương tâm.
Ánh "mắt trẻ con cứ tròn thao láo" ấy đang nhìn ông chúng, nhìn cha
chúng trong mâm cơm của các vị, trong giấc ngủ của các vị đấy. Chẳng nhẽ
các cháu sẽ vẫn tiếp tục bị bưng bít về tội ác của quân xâm lược Trung
Quốc trong cuộc chiến thanh biên giới tháng 2.1979 khi người ta gỡ bỏ
yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa chủ quyền Hoàng Sa, Trường
Sa vào sách giáo khoa. Lời khẳng định “Đấu tranh bảo vệ chủ quyền là vấn
đề khác, bằng các giải pháp hòa bình, còn lịch sử là lịch sử, sự thật
là sự thật” cũng bị bóc khỏi các trang mạng và trang viết. Một tít lớn
chạy trên trang điện tử của báo Thanh Niên : “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm
sự kiện (1974) Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và
35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979-chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc”
chỉ giữ trên mạng có nửa buổi, sau đó biến mất! Chương trình tưởng niệm,
thắp nến tri ân ‘Hướng về Hoàng Sa’ dự kiến diễn ra tại Công viên Biển
Đông (Đà Nẵng) cũng bị hủy vào giờ chót với lời cáo lỗi tội nghiệp của
ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa, rằng "do
công tác chuẩn bị chưa được chu đáo", một kịch bản vụng về.buộc người
diễn phải ngậm bồ hòn làm ngọt để rửa mặt cho ai đó tọa lạc trên ngôi
cao, quyền lớn.
Vậy thì ở đây, sự thật không còn là sự thật nữa hay ai đó sợ sự thật?
Trang viet-studies ngày 11-2-2014 đăng bài của Hoàng An Vĩnh thì nói
toạc ra rằng " Cuộc trao đổi qua đường dây nóng giữa ông Tập Cận Bình và
ông Nguyễn Phú Trọng là lý do khiến Việt Nam đột ngột chấm dứt các hoạt
động tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa và 35 năm Chiến tranh chống
xâm lược biên giới phía Bắc 1979". Liệu đây có phải là "sự thật"?
Nhưng hình ảnh kèm ngay đây thì chắc chắn là sự thật 100% không có gì
phải bàn nữa. Hãy xem người ta chỉ đạo đục bỏ dòng chữ Trung Quốc xâm
lược trên tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê. Ai chỉ đạo.
Ai? Chẳng nhẽ nhân dân ta "vì đại cục", muốn giữ "hòa hiếu" với nhân
dân Trung Quốc đã tự ý "đục bỏ lòng yêu nước" của chính mình?
Và rồi ai chỉ đạo quét nhiều lớp nước vôi rất dày để làm mờ đi dòng chữ
ghi tên người nữ anh hùng Hoàng Thị Hồng Chiêm được khắc trên bệ đá đặt
bức tượng của người con gái từng là biểu tượng sống động của tuổi trẻ
trên tuyến đầu biên cương tổ quốc?
Trong bài báo có tên "Lại đục bỏ lòng yêu nước", nhà báo Lê Đức Dục viết :
"Sau khi chị hy sinh, tên của chị được đặt cho ngôi trường cấp 2 xã Bình
Ngọc (Móng Cái-Quảng Ninh) là trường Trung học cơ sở Hoàng Thị Hồng
Chiêm. Ở góc trường có bức tượng chị Chiêm bằng xi măng đặt trên bệ đá,
tay trái cầm khẩu AK, tay phải cầm thủ pháo, mắt nhìn thẳng kiên nghị về
phía trước, chân dẫm lên chiếc mũ quân Tàu... Vậy rồi gần 4 năm trước,
năm 2010, cũng không biết vì lý do gì, trường không còn mang tên Hoàng
Thị Hồng Chiêm nữa, quay lại với tên cũ là trường THCS Bình Ngọc".
Chao ôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm với tầm nhìn xuyên suốt lịch sử về vị thế
địa- chính trị của bán đảo hình chữ S này đã những muốn mở nước về
phương nam để lùi xa bớt sức ép trứng chọi đá của nước láng giềng khổng
lồ nhằm tạo dựng cái thế "vạn đại dung thân" Nếu cụ Trạng Trình mà sống
lại thì chắc cũng phải lắc đầu chào thua cái "viễn kiến" hiện đại, tự co
mình lại trong sự tự huyễn "lấy nhu thắng cương", kìm nén tối đa sức
quật khởi của truyền thống dân tộc mà ông cha bao đời truyền dạy nhằm
giữ lấy hòa khí với cái nước lớn "cùng chung ý thức hệ"!
Khốn nỗi, do lú lẫn hay hoang mang trong cơn bĩ cực đã biến chữ "nhu"
thành nhu nhược, xúc phạm đến lòng tự hào dân tộc, gây phẫn nộ trong
nhân dân. Về chuyện này thì lịch sử cũng đã có ghi, nhất là vào những
thời đoạn suy mạt của những vương triều. Không thiếu những hoàng thân,
quốc thích vì muốn giữ cái ngai vàng ruỗng nát đang lung lay đã quỳ gối
trước các thế lực xâm lược hoặc chạy sang Tàu cầu viện. Vì quyền lực gắn
với lợi ích của riêng của bản thân, gia đình, dòng họ, chúng đã phản
bội tổ quôc, rước voi dày mã tổ, bêu tiếng xấu muôn đời. Thế nhưng, hình
như lịch sử không thấy ghi những chuyện như kiểu "đục bỏ lòng yêu nước"
của thời hiện đại!
Hãy ngược dòng thời gian để có cái nhìn đối sánh, lướt qua những gì mà
những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống thời hiện đại cùng chung thức hệ với
Mao - Đặng và những hậu duệ của họ đã "vượt xa" những bậc tiền bối ra
sao.
Thoát khỏi ách Bắc thuộc, bước vào kỷ nguyên Đại Việt thì tìm về dân tộc
và thân dân là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc động vọng ngoại,
giải Hán hóa, phải chăng đó là cội nguồn của hào khí "Đông A" khiến
vương triều Trần huy động được sức mạnh của quân dân, "lấy ít địch
nhiều", ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ XIII.
Sử gia Trần Quốc Vượng đưa ra một nhận định sâu sắc về ông vua thứ 7 báo
hiệu thời suy vong của vương triều Trần : "Ông vua trụy lạc Trần Dụ
Tông vẫn còn một điểm lương tri khi làm thơ ca ngợi đức độ Trần Thái
Tông : "miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng". "Tuy đồng mà bất đồng" là một
công thức hay để chỉ thế đối sánh Việt Nam-Trung Quốc. Đồng ở cách, bất
đồng ở cốt, giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng, kết quả Trung
Quốc hóa, hội nhập văn hóa với Trung Quốc trên bề mặt, khác nhau ở phần
tiềm ẩn, bản chất- kết quả dân tộc hóa, giải Hán hóa dưới bề sâu. Thực
thể dân tộc tính đầu đời Trần rõ ràng đến mức, trăm năm sau, cái ông vua
thiếu quả quyết và bất lực như Nghệ Tông cũng biết nói một câu khôn
ngoan, đúng đắn : "Triều đình ngày trước dựng nước tự có pháp độ riêng,
không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam, Bắc đều làm chủ nước mình, không
cần phải bắt chước nhau".
Xin nhớ là nhà sử học uyên bác này chỉ điểm xuyết đôi dòng về thời suy
mạt của một vương triều để chỉ ra điều nổi bật nhất trong tâm thế Việt
Nam : quyết không bao giờ khuất phục phong kiến phương bắc cho dù kẻ
bành trướng có sức mạnh áp đảo quyết đẩy dân tộc mình vào cái thế "châu
chấu đá xe".
Chỉ e răng có khi vị sử gia uyên bác này chưa lường được cái sức mạnh
của "ý thức hệ" được ghi đậm trên mười sáu chữ bịp bợm vẫn đang phù
phép, biến hóa những việc làm phi đạo lý, thất nhân tâm, quay lưng lại
với dân, chà đạp lên truyền thống dân tộc biến thành "tinh thần cảnh
giác cách mạng" nhằm chống lại "các lực lượng thù địch" làm mất uy tín
của Đảng khi mà "còn Đảng là còn mình". Chẳng thế mà một ông từng giữ
chức rất to không úp mở vòng vo, đã nói toạc ra rằng "mất vài hòn đảo
chưa sao, mất Đảng là mất tất cả".
Chẳng trách mà bọn xâm lược đang nuôi mộng siêu cường sẵn sàng làm tất
cả để thực hiện chủ nghĩa bành trướng sẵn sàng hà hơi tiếp sức cho những
người đang cố níu kéo cái "ý thức hệ" lỗi thời đã mục ruỗng nhưng vẫn
đang là cái bình phong che chắn cho một thể chế chính trị đang triệt
tiêu động lực của sự nghiệp phát triển đất nước.
Chẳng phải là khi Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh xâm lược năm
1979 xua hơn 60 vạn quân tràn sang sáu tỉnh biên giới thì "điều thực sự
mà Trung Quốc muốn là " làm cho Việt Nam bị kiệt quệ cả về quân sự và
kinh tế, và điều này sẽ diễn ra lâu dài". Đây là nhận định của tạp chí
Mỹ" Tuần tin tức", số ra ngày 21 tháng 3 năm 1979.
Trong chuyến thăm Mỹ trước đó, ngày 1.1.1979, Đăng Tiểu Bình đã thăm dò
về cuộc chiến tranh chốngViệt Nam và phản ứng của Mỹ. Với ông ta, đánh
Việt Nam chính là cách vạch rõ ranh giới bạn-thù, nói rõ Trung Quốc
không còn anh em, tình nghĩa gì với Việt Nam nữa. Tại Ủy ban Ngoại giao
Thượng viện Mỹ, Đặng nói : “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây
rối loạn khắp nơi, vì hòa bình và ổn định của thế giới, vì chính đất
nước mình, chúng tôi có khả năng không thể không làm những việc mà chúng
tôi không muốn làm”. Tại Tokyo, Đặng nói với Thủ tướng Nhật Tanaka:
“Không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây
chuyền”, “ đang suy tính, để trừng phạt dù có gặp những nguy hiểm nào đó
cũng phải hành động”, ..“đối phó với loại người như thế, không có những
bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả”.
Thế đó!
Thật ra thì không phải đợi đến tháng 1 năm 1979, sau khi Việt Nam đánh
bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, từ năm 1975 Trung Quôc đã
thực thi chuẩn bị chiến tranh chống Việt Nam, cái gai mắc ngang cổ họng
chủ nghĩa bành trướng Đại Hán không cho chúng nuốt trôi các nước Đông
Nam Á và chiếm trọn Biển Đông.
Tên lính xung kích được chúng sử dụng là bè lũ diệt chủng PolPot ở
Campuchia. Trung Quốc hứa viện trợ không hoàn lại cho chính quyền PolPot
một tỉ đôla trong vòng năm năm, bao gồm kinh tế và quân sự. Theo AFP
thì số viện trợ đó chiếm hơn một nửa tổng số viện trợ của Trung Quốc cho
nước ngoài. Đặc biệt là về quân sự : từ bảy sư đoàn năm 1975 lên 23 sư
đoàn; giúp xây dựng ba thứ quân và các binh chủng. Tổng số vũ khí mang
nhãn hiệu Trung Quốc lên tới 450 khẩu pháo lớn, 294 xe tăng, 1.200 xe
các loại, 42 máy bay; Trung Quốc đã cử hàng nghìn cố vấn quân sự đến
Cam-pu-chia.
Thực chất cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam là nhằm thực thi âm
mưu và thủ đoạn của người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" cùng chung "ý
thức hệ" chứ chẳng phải là ai khác cả. Chẳng những thế, Đặng Tiểu Bình
còn láo xược gọi các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc tấn công Việt
Nam khi nhân dân ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài ngót nửa thế
kỷ, mình còn đầy thương tích là nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học".
Không hiểu những người trung thành với cái gọi là "ý thức hệ " với Đặng
Tiểu Bình và những người kế tục ông ta đang ra sức bảo vệ cho mười sáu
chữ bịp bợm có nhớ về "bài học" này không? Có thể người ta cố tình quên,
nhưng thế giới thì họ nhớ. Tại Mỹ, bài báo nhan đề “ Ai cho ai bài học"
trên nhật báo phố Wall số ra ngày 6 tháng 3 năm 1979 đưa ra nhận xét : “
Sau khi tính số lỗ lãi của đòn trừng phạt Việt Nam vừa qua của Trung
Quốc, thế giới có thể nhất trí rằng : Trung Quốc đã phải rút khỏi cuộc
chiến tranh với uy tín bị tổn thương và mặt mày đầy máu me, thương tích
…".
Có người lại cố nghĩ rằng, không phải cố tình quên mà là cao kiến hơn,
người ta cố nín nhịn để vận dụng chính sách Câu Tiễn sau khi thua trận ở
Cối Kê, quyết nằm gai nếm mật để phục thù, rửa hận lấy lại giang sơn?
Nếu có được cái quyết tâm đáng kính đó thì hãy nhớ rằng, những hậu duệ
của Ngô Phù Sai thế kỷ XXI này ranh ma quỷ quyệt gấp vạn lần bậc tiền
bối của họ. Hãy đọc lại những lời nham hiểm của Đặng Tiểu Bình vừa nêu ở
trên thì cũng thấy được phần nào trong khi những Ngũ Tử Tư của thời
hiện đại này thì chẳng ai chịu rỗi hơi khuyên can những người bị điếc
đặc bởi tai đầy ắp những giáo điều ẩm mốc đã biến thành kinh nhật tụng.
Hay là ai đó định chịu nhục như Hàn Tín thuở hàn vi phải chui qua háng
của anh bán thịt giữa chợ để mưu sự nghiệp kinh bang tế thế mà cuối thế
kỷ XXI này không biết có thấy được không. Rõ ràng là chuyện "đục bỏ lòng
yêu nước", hay cuống cuồng trước sự cau mày phật ý hoặc lời khiển
trách qua đường dây nóng, so với chuyện chịu nhục để "lấy được thiên hạ"
của người tráng sĩ ở Hoài Âm xưa thì chẳng thấm vào đâu. Chỉ có điều,
những Lưu Bang, Hạng Vũ nơi xứ sở của hơn tỷ dân đang nuôi mộng siêu
cường hôm nay không dễ bị lừa bởi những mưu vặt của người không biết
khai thác cái lợi thế mà thời đại đang tạo ra để tự mình vươn lên hội
nhập vào thế giới văn minh, tự cô lập để vuột mất thời cơ. Mà mất thời
cơ là cái mất lớn nhất.
Ấy vậy mà, trong khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép công bố sự
thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu này thì bộ máy truyền thông
Trung Quốc, từ thông tấn báo chí đến văn học nghệ thuật suốt 35 năm nay
đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ và dân chúng họ "về cuộc đánh
trả tự vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân TQ vẫn
hiểu rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công , bắt
buộc quân đội họ phải tự vệ !
Và, cũng do sự "nín nhịn" vì "đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh
tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước
ta hầu như không biết về cuộc chiến tranh xâm lược do Trung Quốc tiến
hành. E rằng, Hứa Thế Hữu, viên tướng Tổng chỉ huy quân xâm lược Trung
Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới đã thất bại với chiến lược biển
người quen thuộc chắc cũng tự an ủi rằng mình không bị chết bỏ mạng như
viên tướng xâm lược của thế kỷ XVIII cũng họ Hứa, đề đốc Quảng Tây Hứa
Thế Hanh, mà lại được thăng chức. Oái oăm hơn nữa là mười năm sau, ngày
19.9.2008 lại được báo Hà Nội Mới, "tiếng nói của Đảng bộ và Nhân dân Hà
Nội" trong một bài viết nhan đề là "Thu phục tướng tài" đã ca ngợi viên
tướng xâm lược bắn giết dân mình ở biên giới, hậu duệ của viên tướng
xâm lược thế kỷ XVIII, là một tướng tài. Cần nói thêm rằng, Hứa Thế Hữu
cũng chính là viên tướng chỉ huy cuộc đánh chiếm Hoàng Sa!
Đến Lê Chiêu Thống, kẻ đã rước Hứa Thế Hanh vào nước mình cũng chưa hề
được nghe nói hay được đọc dòng nào là y đã tán tụng những tên xâm lược
như hôm nay người ta đang làm. Quả là chẳng còn gì để nói.
Vì thế, không lạ khi vào những năm chẵn như năm vừa rồi kỷ niệm chiến
thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp
đó kỷ niệm cuộc chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" đòn quyết định
đánh sụp sức mạnh không quân của đế quôc Mỹ, đưa tới việc ký kết Hiệp
định Paris, các cuộc kỷ niệm ấy diễn ra rất rầm rộ và hào hùng. Thế
nhưng, kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới đánh tan gần 60 vạn
quân xâm lược Trung Quốc thì không khí lạnh tanh! Có chăng chỉ có sự náo
động của lực lượng trấn áp, kể cả côn đồ được thuê để hành hung người
biểu tình hô khẩu hiệu yêu nước chống bọn xâm lược.
Mọi sự dài dòng giải thích hay cao giọng rao giảng nhằm hạ nhiệt những
bức xúc đang sục sôi trong tâm trạng xã hội trở nên trơ trẽn trước thực
tế phũ phàng của những điều vừa dẫn ra! Chính cái đó nói lên tại sao
lòng dân ly tán, trật tự an toàn xã hội rối loạn. Khi mà sự nói dối lộ
liễu, "sự nói dối vĩ đại", đang cầm chịch cho nhịp đập của xã hội thì
trách gì chuyện văn hóa xuống cấp, đạo lý suy đồi.
Vậy thì, nếu " dân tộc và thân dân" là phương thuốc tích cực nhất để
giải nọc động vọng ngoại, giải Hán hóa buổi mở đầu kỷ nguyên Đại Việt
cách đây mười thế kỷ khi đất nước khỏi ách bắc thuộc thì trong thời đại
của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức hôm nay, biết vứt bỏ cái
ý thức hệ lỗi thời, đặt lợi ích của dân tộc và tổ quốc lên trên hết và
trước hết để thực tâm mở rộng dân chủ, công khai và minh bạch xây dựng
nhà nước pháp quyền và mạnh dạn phát huy sức mạnh của xã hội dân sự nhằm
huy động ý chí và sáng kiến của dân, tạo ra một động lực mới, thúc đẩy
phát triển. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, và cuộc sống sẽ mở đường đi
cho chính nó.
Máu của đồng bào và chiến sĩ ta đổ ra trong các cuộc chiến tranh giữ
nước đã thấm đẫm từng tấc đất, thước núi, triền sông, vụng biển sẽ
không uổng nếu mệnh lệnh ấy của cuộc sống được thực hiện.
Ngày 16.2.2014
Tương Lai
(Quê choa)
Đào Tuấn - Chiến tranh trong mắt ai
Bia trấn ải bên đồn biên phòng Pha Long. |
Chiến tranh như con rắn độc
Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5.3.1979, chiến tranh vẫn liên miên ở Hà Giang, kéo dài suốt đến những năm 1988. Nhưng tới giờ, chiến tranh, như con rắn độc, vẫn lẩn quất đâu đó đối với ngay cả những người sinh ra sau cuộc chiến.
Trở về từ Thung lũng Gọi hồn
Chúng tôi vòng vèo khắp Tam Nông đi tìm anh Lê Quang Thống, em cô Luyến, để rồi, đứng sững ngay trước mặt là một người đàn ông bé nhỏ, đen đúa và cáu bẩn trong bộ quần áo công nhân nhem nhuốc. Trên đầu anh và ngay trên con mắt trái, phủ một lớp mùn cưa, khi anh như chui ra từ đống bạch đàn.
“Chú chưa hết giờ làm, nhưng hẵng cứ vào đây làm hớp nước” – người đàn ông mới 48 tuổi nhưng “đã toan về già” vì lam lũ, nói như càu nhàu, kéo ghế rót nước mời chúng tôi.
Anh Thống “năm 87” là lính sư 314. “Đóng ở đâu hả? Nằm chứ đóng gì. Pháo nó dập cho suốt ngày. Bảo nằm mà lại dám đứng! Nằm chốt Vị Xuyên, Thung lũng Gọi hồn. Tại sao là Thung lũng Gọi hồn á? Thì hi sinh nhiều quá thì gọi là Thung lũng Gọi hồn chứ sao” – anh Thống trả lời như “gẩy liên thanh AK”. Ra đó là một người đàn ông vui tính.
Năm đó, anh Thống, như biết bao thế hệ thanh niên ở đất nước này hăng hái lên đường tòng quân.
Sau mấy tháng “đủ để (bắn từ) tắc đọp sang tành tành”, những người lính trẻ được đưa tới địa danh nổi tiếng của đất Vị Xuyên, Hà Giang là Hang Dơi, để rồi sau đó, lên chốt.
3h sáng một ngày năm 1988, tổ tam tam của anh Thống đang “nằm chốt” khu vực “tuyến hào Mùa xuân”, dưới chân “đài Z” thì pháo, cối Trung Quốc nã sang suốt 30 phút. Ngớt tiếng pháo, bộ binh Trung Quốc theo kèn tiến lên chiếm chốt để lấy đường đánh lên hang 70. Tổ tam tam của Thống sau khi “cứ thong thả” nã hết cơ số đạn thì buộc phải rút. Và ngay khi đó, anh dính mảnh đạn cối.
2 người đồng đội đã khiêng anh “rúc vào một khe đá”. Anh nằm đó tới 7h tối mới được vận tải cứu ra.
Một mảnh đạn cối đã cướp của anh một con mắt. Và người lính ấy cũng để lại mảnh đất biên cương một quả thận.
Cuộc chiến tranh biên giới hoàn toàn không hề ngừng lại sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 5.3.1979.
Ở Vị Xuyên, Hà Tuyên, cuộc chiến kéo dài đến năm 1988 với sự ác liệt lên cao điểm vào giai đoạn 1984-1985. Theo một bức điện của hãng thông tấn RFA điện từ Bắc Kinh, năm 1985, trong số 1 triệu phát đạn pháo bắn trên toàn tuyến thì riêng Vị Xuyên đã hứng 800.000 phát. Có những dải đồi bị pháo Trung Quốc nã đến mức như nhuộm vôi, lở loét đến nỗi không một cành cây ngọn cỏ nào có thể sống.
Cuộc sống của những người lính 314 năm đó là nằm giữ chốt, hứng pháo, đánh nhau với “bọn sơn cước giày 3 đanh” và với cả “em Ngọc Ánh”.
Ngày nào pháo Trung Quốc cũng bắn sang. Dăng ô khắp nơi. Pháo đến mức nhàm tai. Kệ pháo, cứ nằm khểnh nhổ râu. Chỉ đánh nhau khi có tiếng pháo “dọn đường” bởi sau đó bộ binh Trung Quốc sẽ tràn lên chiếm chốt. Chỉ đến đêm, công việc của người lính mới bắt đầu với một cái xẻng, để đào hầm và khẩu AK, chống lại lính sơn cước giày 3 đanh.
“Em Ngọc Ánh là ai?” – Tôi hỏi anh.
À đó là “Hòm thư Ngọc Ánh”, là chương trình phát thanh tâm lý của Trung Quốc. Cứ 19h, loa bằng cái giường từ trên đỉnh phát xuống. Nào là về với vợ con đi. Nào là “Xuân này con không về”. Lải nhải suốt đêm: “Chị đã nhìn thấy hầm em đào. Đừng có ở đó, chị bắn đấy”. Xen giữa màn tra tấn tâm lý, là pháo cối và lính “giày 3 đanh” âm thầm đột nhập, chứ đâu có thể thư giãn với âm nhạc.
Một bóng đen thoáng qua vầng trán người lính. Nó bắn trúng hầm thật. Vừa nói nhìn thấy mình đào hầm tối trước, tới 7h sáng, 2 quả pháo giáng đúng hầm nóc hầm của C2.
Giọng nói người lính chốt năm xưa trở nên xa xăm. Đại đội anh hơn 60 đã hy sinh 14 người sau chỉ 2 trận đánh.
Còn anh, trở về như một người anh hùng khi một con mắt và một trái thận đã gửi lại nơi biên viễn.
Những bàn tay chai nối những… bàn chân
Công việc của những người lính Vị Xuyên năm ấy là đào hầm tránh pháo, những căn hầm xuyên vào đá núi. Bàn tay “có thể dùng làm thớt”, chai sạn đến nỗi không thể bật máu được nữa.
Nhưng bàn tay người anh hùng trở về năm ấy vẫn chưa thôi chai sạn.
Lê Quang Thống trở về với “thước ngắm đít trâu”. 3 đứa con đi học với đồng tiền thương binh 2/4 chính xác là 2 triệu lẻ 70 ngàn, khiến cuộc sống vô vàn chật vật.
Cuộc sống của anh là chuỗi dài mưu sinh. Sáng: Ra ruộng. Chiều, làm tất cả những gì có ai đó thuê mướn. Và “bảo vệ nhà trẻ” để mỗi tháng có thêm 1 triệu đồng.
Bữa tôi gặp, anh đang đi bóc vỏ cây thuê. 120 ngàn một ngày. “Có việc như thế này, vất vả tí chút, nhưng có việc là may lắm rồi, bù cho những ngày ngồi nhà nhổ râu vặt”.
…
Cái mừng, con mắt còn lại của người lính năm xưa rực sáng, là cả 3 đứa con đều học đại học.
Tháng 2 năm nay, trên những địa danh đẫm máu năm xưa Làng Lò, Hang Dơi, Thung lũng Gọi hồn, đồi Cô Ích, Cốc Nghè, 4 hầm, điểm cao 1509… hoa đào đượm sắc trong giá lạnh.
Cách Thung lũng Gọi hồn, Vị Xuyên không xa có một ngôi nhà gỗ nhỏ của Hầu Xào Chung.
Chàng trai người Mông sinh năm 1981 ở bản Hoàng Lỳ Pả chưa từng biết, chẳng từng nghe chút gì về cuộc chiến tranh từng ác liệt ngay trên dãy núi sau nhà. Cho đến cách đây 4 năm.
Hôm đó, Hầu Xào Chung đi nương trên Sì Khà Láng, dưới chân cao điểm 1030 thủa nào. “Mình đi bình thường thôi” – lời Chung. Đang đi thì mìn phát nổ. Một quả mìn còn lại từ những năm 79-88 đã khiến bàn chân Chung nát bấy.
Anh chỉ nhớ là đã phải bò lê trên đất, nước mắt giàn giụa trong đau đớn và lấy hết hơi tàn để thi thoảng lào khào vài tiếng kêu cứu. Chân Chung sau đó phải cắt ngang ống đồng. Giờ đây, anh quấn nó trong giẻ, nhét vào một chiếc ống bương để lọc cọc lê lết đi lại trên đá…
Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5.3.1979, chiến tranh vẫn liên miên ở Hà Giang, kéo dài suốt đến những năm 1988. Nhưng tới giờ, chiến tranh, như con rắn độc, vẫn lẩn quất đâu đó đối với ngay cả những người sinh ra sau cuộc chiến.
Trở về từ Thung lũng Gọi hồn
Chúng tôi vòng vèo khắp Tam Nông đi tìm anh Lê Quang Thống, em cô Luyến, để rồi, đứng sững ngay trước mặt là một người đàn ông bé nhỏ, đen đúa và cáu bẩn trong bộ quần áo công nhân nhem nhuốc. Trên đầu anh và ngay trên con mắt trái, phủ một lớp mùn cưa, khi anh như chui ra từ đống bạch đàn.
“Chú chưa hết giờ làm, nhưng hẵng cứ vào đây làm hớp nước” – người đàn ông mới 48 tuổi nhưng “đã toan về già” vì lam lũ, nói như càu nhàu, kéo ghế rót nước mời chúng tôi.
Anh Thống “năm 87” là lính sư 314. “Đóng ở đâu hả? Nằm chứ đóng gì. Pháo nó dập cho suốt ngày. Bảo nằm mà lại dám đứng! Nằm chốt Vị Xuyên, Thung lũng Gọi hồn. Tại sao là Thung lũng Gọi hồn á? Thì hi sinh nhiều quá thì gọi là Thung lũng Gọi hồn chứ sao” – anh Thống trả lời như “gẩy liên thanh AK”. Ra đó là một người đàn ông vui tính.
Năm đó, anh Thống, như biết bao thế hệ thanh niên ở đất nước này hăng hái lên đường tòng quân.
Sau mấy tháng “đủ để (bắn từ) tắc đọp sang tành tành”, những người lính trẻ được đưa tới địa danh nổi tiếng của đất Vị Xuyên, Hà Giang là Hang Dơi, để rồi sau đó, lên chốt.
3h sáng một ngày năm 1988, tổ tam tam của anh Thống đang “nằm chốt” khu vực “tuyến hào Mùa xuân”, dưới chân “đài Z” thì pháo, cối Trung Quốc nã sang suốt 30 phút. Ngớt tiếng pháo, bộ binh Trung Quốc theo kèn tiến lên chiếm chốt để lấy đường đánh lên hang 70. Tổ tam tam của Thống sau khi “cứ thong thả” nã hết cơ số đạn thì buộc phải rút. Và ngay khi đó, anh dính mảnh đạn cối.
2 người đồng đội đã khiêng anh “rúc vào một khe đá”. Anh nằm đó tới 7h tối mới được vận tải cứu ra.
Một mảnh đạn cối đã cướp của anh một con mắt. Và người lính ấy cũng để lại mảnh đất biên cương một quả thận.
Cuộc chiến tranh biên giới hoàn toàn không hề ngừng lại sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 5.3.1979.
Ở Vị Xuyên, Hà Tuyên, cuộc chiến kéo dài đến năm 1988 với sự ác liệt lên cao điểm vào giai đoạn 1984-1985. Theo một bức điện của hãng thông tấn RFA điện từ Bắc Kinh, năm 1985, trong số 1 triệu phát đạn pháo bắn trên toàn tuyến thì riêng Vị Xuyên đã hứng 800.000 phát. Có những dải đồi bị pháo Trung Quốc nã đến mức như nhuộm vôi, lở loét đến nỗi không một cành cây ngọn cỏ nào có thể sống.
Cuộc sống của những người lính 314 năm đó là nằm giữ chốt, hứng pháo, đánh nhau với “bọn sơn cước giày 3 đanh” và với cả “em Ngọc Ánh”.
Ngày nào pháo Trung Quốc cũng bắn sang. Dăng ô khắp nơi. Pháo đến mức nhàm tai. Kệ pháo, cứ nằm khểnh nhổ râu. Chỉ đánh nhau khi có tiếng pháo “dọn đường” bởi sau đó bộ binh Trung Quốc sẽ tràn lên chiếm chốt. Chỉ đến đêm, công việc của người lính mới bắt đầu với một cái xẻng, để đào hầm và khẩu AK, chống lại lính sơn cước giày 3 đanh.
“Em Ngọc Ánh là ai?” – Tôi hỏi anh.
À đó là “Hòm thư Ngọc Ánh”, là chương trình phát thanh tâm lý của Trung Quốc. Cứ 19h, loa bằng cái giường từ trên đỉnh phát xuống. Nào là về với vợ con đi. Nào là “Xuân này con không về”. Lải nhải suốt đêm: “Chị đã nhìn thấy hầm em đào. Đừng có ở đó, chị bắn đấy”. Xen giữa màn tra tấn tâm lý, là pháo cối và lính “giày 3 đanh” âm thầm đột nhập, chứ đâu có thể thư giãn với âm nhạc.
Một bóng đen thoáng qua vầng trán người lính. Nó bắn trúng hầm thật. Vừa nói nhìn thấy mình đào hầm tối trước, tới 7h sáng, 2 quả pháo giáng đúng hầm nóc hầm của C2.
Giọng nói người lính chốt năm xưa trở nên xa xăm. Đại đội anh hơn 60 đã hy sinh 14 người sau chỉ 2 trận đánh.
Còn anh, trở về như một người anh hùng khi một con mắt và một trái thận đã gửi lại nơi biên viễn.
Những bàn tay chai nối những… bàn chân
Công việc của những người lính Vị Xuyên năm ấy là đào hầm tránh pháo, những căn hầm xuyên vào đá núi. Bàn tay “có thể dùng làm thớt”, chai sạn đến nỗi không thể bật máu được nữa.
Nhưng bàn tay người anh hùng trở về năm ấy vẫn chưa thôi chai sạn.
Lê Quang Thống trở về với “thước ngắm đít trâu”. 3 đứa con đi học với đồng tiền thương binh 2/4 chính xác là 2 triệu lẻ 70 ngàn, khiến cuộc sống vô vàn chật vật.
Cuộc sống của anh là chuỗi dài mưu sinh. Sáng: Ra ruộng. Chiều, làm tất cả những gì có ai đó thuê mướn. Và “bảo vệ nhà trẻ” để mỗi tháng có thêm 1 triệu đồng.
Bữa tôi gặp, anh đang đi bóc vỏ cây thuê. 120 ngàn một ngày. “Có việc như thế này, vất vả tí chút, nhưng có việc là may lắm rồi, bù cho những ngày ngồi nhà nhổ râu vặt”.
…
Cái mừng, con mắt còn lại của người lính năm xưa rực sáng, là cả 3 đứa con đều học đại học.
Tháng 2 năm nay, trên những địa danh đẫm máu năm xưa Làng Lò, Hang Dơi, Thung lũng Gọi hồn, đồi Cô Ích, Cốc Nghè, 4 hầm, điểm cao 1509… hoa đào đượm sắc trong giá lạnh.
Cách Thung lũng Gọi hồn, Vị Xuyên không xa có một ngôi nhà gỗ nhỏ của Hầu Xào Chung.
Chàng trai người Mông sinh năm 1981 ở bản Hoàng Lỳ Pả chưa từng biết, chẳng từng nghe chút gì về cuộc chiến tranh từng ác liệt ngay trên dãy núi sau nhà. Cho đến cách đây 4 năm.
Hôm đó, Hầu Xào Chung đi nương trên Sì Khà Láng, dưới chân cao điểm 1030 thủa nào. “Mình đi bình thường thôi” – lời Chung. Đang đi thì mìn phát nổ. Một quả mìn còn lại từ những năm 79-88 đã khiến bàn chân Chung nát bấy.
Anh chỉ nhớ là đã phải bò lê trên đất, nước mắt giàn giụa trong đau đớn và lấy hết hơi tàn để thi thoảng lào khào vài tiếng kêu cứu. Chân Chung sau đó phải cắt ngang ống đồng. Giờ đây, anh quấn nó trong giẻ, nhét vào một chiếc ống bương để lọc cọc lê lết đi lại trên đá…
Chỉ riêng một thôn Hoàng Lỳ Pả đã có 6 người cụt chân do dẫm phải
mìn. “Mìn ở đây còn nhiều lắm, dân đi chẳng dám rẽ ngang rẽ tắt – một
cán bộ địa phương phàn nàn, thì đấy, hồi sư 316 lên dò mìn, ngay ở trong
một cái khe đã phát hiện tới 40 quả mìn dưới tán một cái cây”.
3 hôm sau, Chung nhờ người anh lên Sì Khà Láng tìm lại bàn chân chết và nong nó lên gác bếp, để sau này, khi về với ông bà tổ tiên, có thể mang bàn chân hoàn nhập cùng thân xác.
Giờ đây, hàng ngày, Chung cùng với những người anh em của mình vẫn đi rừng. Anh không nói, nhưng chúng tôi biết rằng nghề chính của anh là làm thớt nghiến. Chẳng phải sau lưng anh, ngay dưới dãy núi răng cưa, với những cao điểm lừng danh 1030, một con đường mòn như sợi chỉ vắt sang bên kia biên giới con đường thớt nghiến sang Trung Quốc.
Nhớ hôm ngồi với một “ông Hội đồng” vừa đi tiếp xúc cử tri về tay nới… cà vạt miệng oang oang: Tiếp xúc cử tri ở bản, người dân chỉ “mong muốn kiến nghị” xã cho một cái nồi 3 chảy (nồi nấu 3 bò gạo), một cái chảo gang và 2 bộ ly. Chảo thì để nấu…thịt trâu rồi. Nhưng ly để làm gì. Vị hội đồng cười: Ly để… nào, làm một ly đi anh.
Cái tâm thế người Mông vùng cao Hà Giang chỉ đơn giản là phải mạo hiểm vì miếng cơm, ly rượu. Chung không phải là người hiện sinh chủ nghĩa như Hữu Loan với “Màu tím hoa sim”, cho nên đừng ai hỏi anh về chiến tranh. Chỉ đơn giản, chiến tranh là mìn Tàu.
Với Chung, với không ít những người dân ở Hoàng Lỳ Pả, ở Mã Hoàng Phìn, chiến tranh là hiện hữu nguy cơ biến người ta thành “chấm phẩy”, không còn được nguyên vẹn để về với tổ tiên.
Gió lạnh buồng đào
Có một bó hoa cúc vàng rực rỡ được đặt lên kệ thờ trong nhà bà giáo về hưu Lê Thị Luyến ở Tiến Thịnh, Tam Nông, Phú Thọ vào ngày 14.2.2014. Đó không phải là những đóa hoa Valentine. Chỉ là từ 35 năm nay, vào mỗi tháng 2, bà lại đặt lên ban thờ chồng một lọ hoa cúc vàng.
Lúc đó là 11h30 phút trưa 17.2.1979, sau một buổi sáng lên lớp với “sự bồn chồn như là linh tính”, cô giáo Luyến, trở về căn lán nhỏ trong khu tập thể giáo viên ở Tân Lập, Phú Thọ. Phòng tranh, vách nứa vọc vạch. Và bản tin chiến sự trên Đài tiếng nói Việt Nam từ bên phòng hiệu trưởng vọng sang. Bắt đầu bằng cái tin “như thanh gươm đâm suốt qua tim”: Trung úy Phạm Văn Vụ – Đồn phó đồn 131, Công an vũ trang Mường Khương đã anh dũng hy sinh.
Duyên hảo cầu sao bỗng dở dang
Cô giáo Luyến, năm đó mới 23, chỉ nhìn thấy lờ mờ trước mắt khuôn mặt âu lo hốt hoảng của những người đồng nghiệp vừa ùa sang. Ai cũng nói có thể có sự nhầm lẫn. Nhưng đó là linh cảm. Nhưng cô biết đó là sự thật. Cô ngất lịm trong tay bạn bè đồng nghiệp.
Nỗi đau của người vợ trẻ không có câu chữ nào có thể tả nổi.
35 năm sau, ký ức buổi trưa và bản tin sét đánh hôm ấy vẫn tràn trụa trong những hàng nước mắt người già. Những hàng nước mắt mờ đục bởi thời gian và đau thương mà có lẽ 35 hay bao nhiêu năm cũng không thể gắn hàn.
Họ yêu nhau 4 năm sau một lần anh về phép. Hòm thư của anh ấy đến giờ cô vẫn nhớ: Hòm thư 8268 Hoàng Liên Sơn. Năm đó, anh mới 27, còn cô vừa 23.
Bữa cưới nhau ngồi chờ bên bến đò Hưng Hóa, ai cũng nói họ đẹp đôi nhất vùng.
Bữa cưới nhau, lễ cưới của một cô giáo hậu phương với anh bộ đội nơi tuyến đầu biên giới, ai chúc cũng nói đến “trăm năm hạnh phúc”.
Bữa cưới nhau, họ như hai đứa trẻ, thẹn thùng trong tấm chăn hoa cà bông đỏ.
Chưa tới 10 hôm thì anh nhận điện trở về đơn vị. Cô còn nhớ như in rằng: Người cha, khi ấy còn động viên con lên đơn vị càng nhanh càng tốt. Và hàng chục năm sau ông vẫn băn khoăn về lời động viên ấy, dù với ông, đã là lính thì không thể có sự lựa chọn nào khác. Đã là người lính thì không thể để tình riêng xen lẫn vào việc công.
Hôm chia tay, anh chở cô trên chiếc xe đạp, 60km, đưa cô lên trường ở Tân Lập, nắm tay cô bảo rằng: Khi nào anh về phép sẽ từ đơn vị về thẳng trường đón em. Anh còn nói mình có con, trai sẽ tên là Việt, gái sẽ gọi là Phương.
Thế rồi, anh ra đi và không bao giờ trở về nữa.
Anh bắn đến viên đạn cuối cùng. Và khi anh dũng hy sinh, trên tay vẫn còn một quả lựu đạn chưa kịp mở chốt. Cô không quên. Đó là Tả Ngải Chồ. Là Mường Khương. Là Lào Cai. Và là một đâu đó trên mảnh đất Việt.
Cuộc chiến nào thì đau thương nhất vẫn chỉ là những người phụ nữ. Những bà mẹ mất con. Những người vợ mất chồng. Cô giáo Luyến có chưa tới 10 ngày hạnh phúc để đau khổ suốt 10 năm sau đó.
3 hôm sau, Chung nhờ người anh lên Sì Khà Láng tìm lại bàn chân chết và nong nó lên gác bếp, để sau này, khi về với ông bà tổ tiên, có thể mang bàn chân hoàn nhập cùng thân xác.
Giờ đây, hàng ngày, Chung cùng với những người anh em của mình vẫn đi rừng. Anh không nói, nhưng chúng tôi biết rằng nghề chính của anh là làm thớt nghiến. Chẳng phải sau lưng anh, ngay dưới dãy núi răng cưa, với những cao điểm lừng danh 1030, một con đường mòn như sợi chỉ vắt sang bên kia biên giới con đường thớt nghiến sang Trung Quốc.
Nhớ hôm ngồi với một “ông Hội đồng” vừa đi tiếp xúc cử tri về tay nới… cà vạt miệng oang oang: Tiếp xúc cử tri ở bản, người dân chỉ “mong muốn kiến nghị” xã cho một cái nồi 3 chảy (nồi nấu 3 bò gạo), một cái chảo gang và 2 bộ ly. Chảo thì để nấu…thịt trâu rồi. Nhưng ly để làm gì. Vị hội đồng cười: Ly để… nào, làm một ly đi anh.
Cái tâm thế người Mông vùng cao Hà Giang chỉ đơn giản là phải mạo hiểm vì miếng cơm, ly rượu. Chung không phải là người hiện sinh chủ nghĩa như Hữu Loan với “Màu tím hoa sim”, cho nên đừng ai hỏi anh về chiến tranh. Chỉ đơn giản, chiến tranh là mìn Tàu.
Với Chung, với không ít những người dân ở Hoàng Lỳ Pả, ở Mã Hoàng Phìn, chiến tranh là hiện hữu nguy cơ biến người ta thành “chấm phẩy”, không còn được nguyên vẹn để về với tổ tiên.
Gió lạnh buồng đào
Có một bó hoa cúc vàng rực rỡ được đặt lên kệ thờ trong nhà bà giáo về hưu Lê Thị Luyến ở Tiến Thịnh, Tam Nông, Phú Thọ vào ngày 14.2.2014. Đó không phải là những đóa hoa Valentine. Chỉ là từ 35 năm nay, vào mỗi tháng 2, bà lại đặt lên ban thờ chồng một lọ hoa cúc vàng.
Lúc đó là 11h30 phút trưa 17.2.1979, sau một buổi sáng lên lớp với “sự bồn chồn như là linh tính”, cô giáo Luyến, trở về căn lán nhỏ trong khu tập thể giáo viên ở Tân Lập, Phú Thọ. Phòng tranh, vách nứa vọc vạch. Và bản tin chiến sự trên Đài tiếng nói Việt Nam từ bên phòng hiệu trưởng vọng sang. Bắt đầu bằng cái tin “như thanh gươm đâm suốt qua tim”: Trung úy Phạm Văn Vụ – Đồn phó đồn 131, Công an vũ trang Mường Khương đã anh dũng hy sinh.
Duyên hảo cầu sao bỗng dở dang
Cô giáo Luyến, năm đó mới 23, chỉ nhìn thấy lờ mờ trước mắt khuôn mặt âu lo hốt hoảng của những người đồng nghiệp vừa ùa sang. Ai cũng nói có thể có sự nhầm lẫn. Nhưng đó là linh cảm. Nhưng cô biết đó là sự thật. Cô ngất lịm trong tay bạn bè đồng nghiệp.
Nỗi đau của người vợ trẻ không có câu chữ nào có thể tả nổi.
35 năm sau, ký ức buổi trưa và bản tin sét đánh hôm ấy vẫn tràn trụa trong những hàng nước mắt người già. Những hàng nước mắt mờ đục bởi thời gian và đau thương mà có lẽ 35 hay bao nhiêu năm cũng không thể gắn hàn.
Họ yêu nhau 4 năm sau một lần anh về phép. Hòm thư của anh ấy đến giờ cô vẫn nhớ: Hòm thư 8268 Hoàng Liên Sơn. Năm đó, anh mới 27, còn cô vừa 23.
Bữa cưới nhau ngồi chờ bên bến đò Hưng Hóa, ai cũng nói họ đẹp đôi nhất vùng.
Bữa cưới nhau, lễ cưới của một cô giáo hậu phương với anh bộ đội nơi tuyến đầu biên giới, ai chúc cũng nói đến “trăm năm hạnh phúc”.
Bữa cưới nhau, họ như hai đứa trẻ, thẹn thùng trong tấm chăn hoa cà bông đỏ.
Chưa tới 10 hôm thì anh nhận điện trở về đơn vị. Cô còn nhớ như in rằng: Người cha, khi ấy còn động viên con lên đơn vị càng nhanh càng tốt. Và hàng chục năm sau ông vẫn băn khoăn về lời động viên ấy, dù với ông, đã là lính thì không thể có sự lựa chọn nào khác. Đã là người lính thì không thể để tình riêng xen lẫn vào việc công.
Hôm chia tay, anh chở cô trên chiếc xe đạp, 60km, đưa cô lên trường ở Tân Lập, nắm tay cô bảo rằng: Khi nào anh về phép sẽ từ đơn vị về thẳng trường đón em. Anh còn nói mình có con, trai sẽ tên là Việt, gái sẽ gọi là Phương.
Thế rồi, anh ra đi và không bao giờ trở về nữa.
Anh bắn đến viên đạn cuối cùng. Và khi anh dũng hy sinh, trên tay vẫn còn một quả lựu đạn chưa kịp mở chốt. Cô không quên. Đó là Tả Ngải Chồ. Là Mường Khương. Là Lào Cai. Và là một đâu đó trên mảnh đất Việt.
Cuộc chiến nào thì đau thương nhất vẫn chỉ là những người phụ nữ. Những bà mẹ mất con. Những người vợ mất chồng. Cô giáo Luyến có chưa tới 10 ngày hạnh phúc để đau khổ suốt 10 năm sau đó.
“Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt;
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương”.
Phải chăng là Ngọc Hân công chúa đã một lần nói hộ nỗi lòng những người phụ nữ mất chồng đêm đêm xoạt xoạt trở mình tự hỏi “Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?”.
“Có lẽ cô quá yêu chú. Cô quá nặng tình” – cô giáo, giờ phải gọi là bà, giấu khuôn mặt trong tay áo.
10 năm sau đó, không đêm nào cô không nhớ tới người chồng.
Cô lao vào công việc, đi giáo viên màng lưới khắp những vùng xa khó nhất. 10 năm không còn một người đàn ông nào khác trong mắt người vợ mất chồng. 10 năm, cô nhận nuôi thằng út của chị gái, thằng Nghĩa Tồ, để anh rể, một người lính khác, yên tâm cầm súng ở Yên Minh, Hà Giang.
Nỗi cô đơn 35 năm
10 năm yên phận thờ chồng, mãi đến năm 1989, khi thằng Nghĩa Tồ đủ lớn khôn để quyết trở về với mẹ, cô giáo Luyến, một lần nữa khóc hết nước mắt trước nỗi cô đơn, “tứ phía chỉ toàn tường là tường, chăn đắp thế nào cũng thấy lạnh lưng”.
“Giống như y là định mệnh” – cô giáo Luyến thoáng như là thở dài. Trước hôm cưới, trên mu bàn tay người yêu có một vết thương nhỏ. Cô lấy nước muối rửa cho anh hỏi rằng bị sao. Anh mỉm cười hỏi lại “Nếu anh bị thương cụt chân cụt tay thì em còn yêu thương anh nữa không”. Cô bấy giờ không trả lời, đưa tay lên bịt miệng anh.
Run rủi thế nào đó, sau 10 năm thờ chồng, cô mới lại tìm thấy sự thông cảm. Và nói thế nào nhỉ. Người chồng mới Trần Xuân Lập, khi ấy là một thương binh hạng 1/4 (hạng nặng nhất) với đôi chân bị liệt hoàn toàn, cũng trên biên giới phía Bắc, cũng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc vĩ đại của dân tộc.
Bữa chúng tôi ghé thăm, chú Lập không có nhà. Vết thương chiến tranh từ năm 1981 và cuộc sống gần như bất động trên xe lăn đã sinh ra biết bao nhiêu căn bệnh, khiến người anh hùng ngày đó giờ sống gần như cả năm trên Khu điều dưỡng thương binh cách xa nhà không chỉ là khoảng cách vài chục cây số. 2 người có với nhau một con gái, đặt tên Phương (!!!) và đương đi học xa nhà.
Cô quạnh quá. Cô giáo Luyến ngồi tách những hạt ngô đỏ bầm như máu, mắt nhìn ra xa xăm trong căn nhà trống huơ trống hoách. Giờ có những nỗi lo khác. Lo con gái sẽ lấy chồng xa quê. “Nó đã có bạn trai ở tận trong Thanh Hóa”. Lo không xin được việc cho con gần nhà. Nỗi lo của một người phụ nữ đã cả đời cô đơn.
Liệu có ở nơi đâu trên trái đất này có những người phụ nữ mòn mỏi trong chờ đợi. Đợi tin người một cha chiến sĩ; Một người chồng liệt sĩ hy sinh trong ngày 17.2.1979; Một người chồng là thương binh mặt trận Hà Tuyên; Người em, có giấy báo đỗ đại học Tổng hợp văn, xin gác bút lên đường ra biên giới. Và một đứa em nữa trở về từ mặt trận Vị Xuyên năm 1988 sau khi đã gửi lại mảnh đất địa đầu một quả thận và một con mắt.
Chiến tranh. Phải. Chiến tranh là gì, ở đâu đó. Chính chiến tranh, chứ không phải số phận, đã khiến vô số những người phụ nữ Việt Nam sống cả cuộc đời trong mất mát, trong nỗi khắc khoải của sự cô đơn.
Gặp lại tác giả “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”
Chiến tranh có thể là sự ác liệt nhưng hào hùng với đạn rơi máu đổ của những chiến binh chốn sa trường. Chiến tranh, cô đơn và mất mát ngay trong cái dáng ngồi dựa cửa của người thiếu phụ chờ chồng. Chiến tranh, cũng có thể là sự ngơ ngác của một người dân thời bình bỗng một ngày trở thành phế nhân.
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương”.
Phải chăng là Ngọc Hân công chúa đã một lần nói hộ nỗi lòng những người phụ nữ mất chồng đêm đêm xoạt xoạt trở mình tự hỏi “Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?”.
“Có lẽ cô quá yêu chú. Cô quá nặng tình” – cô giáo, giờ phải gọi là bà, giấu khuôn mặt trong tay áo.
10 năm sau đó, không đêm nào cô không nhớ tới người chồng.
Cô lao vào công việc, đi giáo viên màng lưới khắp những vùng xa khó nhất. 10 năm không còn một người đàn ông nào khác trong mắt người vợ mất chồng. 10 năm, cô nhận nuôi thằng út của chị gái, thằng Nghĩa Tồ, để anh rể, một người lính khác, yên tâm cầm súng ở Yên Minh, Hà Giang.
Nỗi cô đơn 35 năm
10 năm yên phận thờ chồng, mãi đến năm 1989, khi thằng Nghĩa Tồ đủ lớn khôn để quyết trở về với mẹ, cô giáo Luyến, một lần nữa khóc hết nước mắt trước nỗi cô đơn, “tứ phía chỉ toàn tường là tường, chăn đắp thế nào cũng thấy lạnh lưng”.
“Giống như y là định mệnh” – cô giáo Luyến thoáng như là thở dài. Trước hôm cưới, trên mu bàn tay người yêu có một vết thương nhỏ. Cô lấy nước muối rửa cho anh hỏi rằng bị sao. Anh mỉm cười hỏi lại “Nếu anh bị thương cụt chân cụt tay thì em còn yêu thương anh nữa không”. Cô bấy giờ không trả lời, đưa tay lên bịt miệng anh.
Run rủi thế nào đó, sau 10 năm thờ chồng, cô mới lại tìm thấy sự thông cảm. Và nói thế nào nhỉ. Người chồng mới Trần Xuân Lập, khi ấy là một thương binh hạng 1/4 (hạng nặng nhất) với đôi chân bị liệt hoàn toàn, cũng trên biên giới phía Bắc, cũng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc vĩ đại của dân tộc.
Bữa chúng tôi ghé thăm, chú Lập không có nhà. Vết thương chiến tranh từ năm 1981 và cuộc sống gần như bất động trên xe lăn đã sinh ra biết bao nhiêu căn bệnh, khiến người anh hùng ngày đó giờ sống gần như cả năm trên Khu điều dưỡng thương binh cách xa nhà không chỉ là khoảng cách vài chục cây số. 2 người có với nhau một con gái, đặt tên Phương (!!!) và đương đi học xa nhà.
Cô quạnh quá. Cô giáo Luyến ngồi tách những hạt ngô đỏ bầm như máu, mắt nhìn ra xa xăm trong căn nhà trống huơ trống hoách. Giờ có những nỗi lo khác. Lo con gái sẽ lấy chồng xa quê. “Nó đã có bạn trai ở tận trong Thanh Hóa”. Lo không xin được việc cho con gần nhà. Nỗi lo của một người phụ nữ đã cả đời cô đơn.
Liệu có ở nơi đâu trên trái đất này có những người phụ nữ mòn mỏi trong chờ đợi. Đợi tin người một cha chiến sĩ; Một người chồng liệt sĩ hy sinh trong ngày 17.2.1979; Một người chồng là thương binh mặt trận Hà Tuyên; Người em, có giấy báo đỗ đại học Tổng hợp văn, xin gác bút lên đường ra biên giới. Và một đứa em nữa trở về từ mặt trận Vị Xuyên năm 1988 sau khi đã gửi lại mảnh đất địa đầu một quả thận và một con mắt.
Chiến tranh. Phải. Chiến tranh là gì, ở đâu đó. Chính chiến tranh, chứ không phải số phận, đã khiến vô số những người phụ nữ Việt Nam sống cả cuộc đời trong mất mát, trong nỗi khắc khoải của sự cô đơn.
Gặp lại tác giả “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”
Chiến tranh có thể là sự ác liệt nhưng hào hùng với đạn rơi máu đổ của những chiến binh chốn sa trường. Chiến tranh, cô đơn và mất mát ngay trong cái dáng ngồi dựa cửa của người thiếu phụ chờ chồng. Chiến tranh, cũng có thể là sự ngơ ngác của một người dân thời bình bỗng một ngày trở thành phế nhân.
Và chiến tranh, chẳng có gì quá lời khi nói đó là cảm giác hào hùng
và tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đã có sẵn trong dòng máu
Lạc Việt từ cả ngàn năm nay.
Có một nhạc sĩ, đã 35 năm qua, vẫn nhớ như in cái cảm giác hào hùng năm ấy. Ông là Phạm Tuyên, tác giả của “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”.
Năm 1979, nhạc sĩ Phạm Tuyên đang phụ trách âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam. “Không khí biên giới hồi đó đã rất căng thẳng – ông nhớ lại – Đụng độ từ trước đó mấy năm”. Trước đó, ông đã đi thực tế để viết bài hát “Chúng tôi là đồng đội của Lê Đinh Chinh”, nói về tấm gương hy sinh của người liệt sĩ đầu tiên ngã xuống trên biên giới phía Bắc.
Tối 17.2.1979, người nhạc sĩ đã ngồi lặng đi khi nghe tin quân xâm lược Trung Quốc đã tràn qua biên giới. Bản tin nói rất rõ lời lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình bảo phải dạy cho Việt Nam một bài học. Đó là sự căm phẫn. Và đó cũng là cảm giác hào hùng. Mấy ngàn năm nay, đất Việt đâu cũng có Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa.
“Tôi viết rất nhanh. Ngay trong đêm 17. Trong ngày 18, bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” với câu mở đầu “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Ngày 20.9.1979, tức là 4 ngày kể từ khi quân xâm lược thêm một lần nữa giày xéo mảnh đất này, bài hát được phát trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên nhớ lại cái “cảm giác phát khóc” khi những người dân, những anh cán bộ, những người lính ở Tây Nguyên, ở Khu 5 nhắn với ông rằng họ ước sao có đôi cánh để bay ngay ra biên giới phía Bắc chống quân xâm lược.
Đất nước này ngàn năm trước Sát Thát và ngàn năm sau cũng vẫn là như vậy thôi. Cảm tử cho tổ quốc là tinh thần đã chảy sẵn trong huyết quản người Việt rồi.
Bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” ban đầu được viết dưới dạng hành khúc, hào hùng tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất với những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa có trong ca từ. Nhưng đến đoạn điệp khúc, đáng ra phải là một giai điệu mang âm hưởng hào hùng, nhưng Phạm Tuyên nói ông không thể viết được thế.
“Đến đoạn điệp khúc, tôi nhớ đến đất nước Việt Nam bao đau thương vừa trải qua cuộc chiến tranh dài với hy sinh, mất mát. Bao nhiêu xương máu của cha ông, của lớp lớp các thế hệ người Việt đã đổ xuống để bảo vệ mảnh đất này. Chẳng phải là lịch sử đã trao cho Người sứ mệnh bảo vệ tổ quốc đó sao”.
Còn câu kết của bài hát: “Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người: Độc lập – Tự do”, nhạc sĩ Phạm Tuyên nói ông dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và chăng, độc lập, tự do cũng là khát vọng ngàn đời của người dân Việt.
Phạm Tuyên sau đó đi Quảng Ninh viết “Có một đóa Hồng Chiêm” để ca ngợi người nữ liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm đã hy sinh oanh liệt trên đỉnh Pò Hèn. Bản nhạc được đăng trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 13.7.1979, với câu mở đầu “Có những đóa hoa dịu dàng không rực rỡ/ nhưng sắc hương thắm mãi chẳng hề phai… Đồi Pò Hèn nở đẹp một đóa hoa”.
Vào ngày 5.3, khi Chủ tịch nước ra lệnh Tổng động viên, nhạc sĩ viết bài hát nổi tiếng “Tiễn thầy giáo đi bộ đội”, từ một câu chuyện có thật khi những người thầy tạm rời bục giảng, những sinh viên gác bút nghiên nắm chắc cây súng trước hiểm họa xâm lăng.
35 năm qua, âm hưởng “những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa” vẫn luôn vang vọng.
Đào Tuấn
Có một nhạc sĩ, đã 35 năm qua, vẫn nhớ như in cái cảm giác hào hùng năm ấy. Ông là Phạm Tuyên, tác giả của “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”.
Năm 1979, nhạc sĩ Phạm Tuyên đang phụ trách âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam. “Không khí biên giới hồi đó đã rất căng thẳng – ông nhớ lại – Đụng độ từ trước đó mấy năm”. Trước đó, ông đã đi thực tế để viết bài hát “Chúng tôi là đồng đội của Lê Đinh Chinh”, nói về tấm gương hy sinh của người liệt sĩ đầu tiên ngã xuống trên biên giới phía Bắc.
Tối 17.2.1979, người nhạc sĩ đã ngồi lặng đi khi nghe tin quân xâm lược Trung Quốc đã tràn qua biên giới. Bản tin nói rất rõ lời lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình bảo phải dạy cho Việt Nam một bài học. Đó là sự căm phẫn. Và đó cũng là cảm giác hào hùng. Mấy ngàn năm nay, đất Việt đâu cũng có Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa.
“Tôi viết rất nhanh. Ngay trong đêm 17. Trong ngày 18, bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” với câu mở đầu “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Ngày 20.9.1979, tức là 4 ngày kể từ khi quân xâm lược thêm một lần nữa giày xéo mảnh đất này, bài hát được phát trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên nhớ lại cái “cảm giác phát khóc” khi những người dân, những anh cán bộ, những người lính ở Tây Nguyên, ở Khu 5 nhắn với ông rằng họ ước sao có đôi cánh để bay ngay ra biên giới phía Bắc chống quân xâm lược.
Đất nước này ngàn năm trước Sát Thát và ngàn năm sau cũng vẫn là như vậy thôi. Cảm tử cho tổ quốc là tinh thần đã chảy sẵn trong huyết quản người Việt rồi.
Bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” ban đầu được viết dưới dạng hành khúc, hào hùng tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất với những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa có trong ca từ. Nhưng đến đoạn điệp khúc, đáng ra phải là một giai điệu mang âm hưởng hào hùng, nhưng Phạm Tuyên nói ông không thể viết được thế.
“Đến đoạn điệp khúc, tôi nhớ đến đất nước Việt Nam bao đau thương vừa trải qua cuộc chiến tranh dài với hy sinh, mất mát. Bao nhiêu xương máu của cha ông, của lớp lớp các thế hệ người Việt đã đổ xuống để bảo vệ mảnh đất này. Chẳng phải là lịch sử đã trao cho Người sứ mệnh bảo vệ tổ quốc đó sao”.
Còn câu kết của bài hát: “Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người: Độc lập – Tự do”, nhạc sĩ Phạm Tuyên nói ông dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và chăng, độc lập, tự do cũng là khát vọng ngàn đời của người dân Việt.
Phạm Tuyên sau đó đi Quảng Ninh viết “Có một đóa Hồng Chiêm” để ca ngợi người nữ liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm đã hy sinh oanh liệt trên đỉnh Pò Hèn. Bản nhạc được đăng trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 13.7.1979, với câu mở đầu “Có những đóa hoa dịu dàng không rực rỡ/ nhưng sắc hương thắm mãi chẳng hề phai… Đồi Pò Hèn nở đẹp một đóa hoa”.
Vào ngày 5.3, khi Chủ tịch nước ra lệnh Tổng động viên, nhạc sĩ viết bài hát nổi tiếng “Tiễn thầy giáo đi bộ đội”, từ một câu chuyện có thật khi những người thầy tạm rời bục giảng, những sinh viên gác bút nghiên nắm chắc cây súng trước hiểm họa xâm lăng.
35 năm qua, âm hưởng “những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa” vẫn luôn vang vọng.
Đào Tuấn
(Lao Động)
Vấn đề Nạn Kiều năm 1979
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: “Ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc
dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam,
bắt tay với Mỹ… Nhưng nói cho khách quan, phía lãnh đạo của ta cũng
thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc
nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh”. Ở một số địa phương, vấn đề
người Hoa đã ngấm ngầm xảy ra từ trước đó.
Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Phòng, Ban Hoa vận đã vận
động người Hoa bỏ chữ “kiều” trong tên gọi các cộng đồng ngoại kiều khác
để trở thành một dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Họ đã phải “bình
đẳng” chịu “cải tạo” trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp tiến
hành ở miền Bắc cuối thập niên 1950 và bắt đầu chịu áp lực nhiều hơn kể
từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.
Toàn bộ Hoa kiều bị ép đi ra nước ngoài |
Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh còn cứng rắn hơn bởi bàn tay của Bí
thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên 1970, Quảng Ninh có hơn mười
sáu vạn người Hoa nói các thứ tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường
riêng để dạy con em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt.
Ông Vũ Cẩm, khi ấy là trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói: “Tôi xuống
các trường cũng phải cần phiên dịch”. Năm 1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư
Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi ông lên yêu cầu: “Anh phải xóa hết trường
Hán, tiếng Hán”. Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem lại vì các trường sở này
hình thành ở đây đã từ lâu đời, nhưng ông Tâm không chịu.
Ông Vũ Cẩm nói: “Tôi không rõ ông Tâm nhận chủ trương này từ ai nhưng
ông nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ bản thân ông cũng không dám
ra nghị quyết. Tôi nghĩ mãi và cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải
thảo một văn bản, không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói
là thống nhất hệ thống giáo dục, một xã chỉ có duy nhất một trường phổ
thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi, tôi không dám ký, giao cho các phó
Ty, các phó của tôi cũng không anh nào chịu ký. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo
dục, Bộ bảo tùy địa phương nhưng cũng không dám ra văn bản. Cuối cùng,
tôi phải ký. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo viên người
Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được hưởng nguyên lương để
đi học tiếng Việt”.
Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác, điều đe dọa
đối với những giáo viên này không còn là vấn đề việc làm. Năm 1978, theo
ông Vũ Cẩm: “Ông Nguyễn Đức Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói,
thái độ Trung Quốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu
người gốc Hoa vào cấp ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh vẫn còn hơn
mười người gốc Hoa, có những người rất có công như anh Lý Bạch Luân đã
từng là phó bí thư tỉnh Hải Ninh, sau khi nhập tỉnh, anh Luân làm phó
chủ tịch tỉnh mới – tỉnh Quảng Ninh”. Khi Trung Quốc rút các kỹ thuật
viên giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động Voòng Nải
Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về Trung Quốc. Theo ông Vũ
Cẩm: “Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm có sáng kiến, anh rút về thì tôi cho
người Hoa về hết luôn”210.
Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa
năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất.
Nhiều người Hoa đã đến đây từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương;
nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ đâu. Tất
cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc.
Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đã tự
sát bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống,
tuy không còn bị đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông
Vũ Cẩm kể: “Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là trưởng Phòng
Giáo dục huyện Quảng Hà, cũng bị công an bắt phải trở về Trung Quốc. Anh
ta gặp tôi nói, buộc đi thì đi chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu”.
Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần Vĩnh Ngọc,
hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái
Bình, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt,
cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được
xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: “Bị công an yêu cầu phải trở
về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại vì nó có biết quê quán ở đâu
đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm
báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an
người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên
thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông
đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự
đâm vào tim mình. Nghe tin, tôi chạy xuống thì cả gia đình đều đã chết.
Tôi bảo cậu Trưởng Phòng Giáo dục phải làm tang lễ tử tế rồi đi báo
Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai dè ông ta sắt đá nói ‘kệ’,
gương mặt gần như vô cảm”.
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh Nguyễn Đức Tâm
đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở
đây cũng có không khí ‘cải tạo’, rất nhiều người Hoa đã sống lâu đời ở
Việt Nam bị đưa về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng ngắt”. Theo
cuốn Địa chí Quảng Ninh Tập 1, người Hoa vốn sống tập trung ở chín huyện
trong tỉnh, nhưng sau năm 1978 chỉ còn lại 5.000 người; 160.000 người
Hoa ở Quảng Ninh đã phải ra đi trong vụ “nạn kiều”. Những anh hùng lao
động một thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như Voòng Nải Hoài, Mừu
Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.
Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đã đóng cửa khẩu,
xe công an vẫn chở người Hoa đi về biên giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng
mỗi xã như vậy may ra chỉ còn sót lại một hai gia đình người Hoa. Khi vụ
người Hoa xảy ra, ông Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải
Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái, tuy không bị đuổi nhưng bị buộc
phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: “Cậu ấy vào Hạ Long làm nghề cán
mì sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh thoảng lại mang bột mì đến cho cậu ấy
gia công. Cậu ấy hỏi: ‘Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?’. Tôi biết cậu
ấy bị o ép lắm. Công an rình rập kín, hở suốt ngày. Một đêm cậu ấy mở
ti-vi oang oang trong nhà, bật đèn sáng để đánh lừa công an rồi đưa cả
nhà xuống tàu vượt biên sang Úc”.
Hải Phòng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá thẳng tay với
người Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó chủ tịch Thành phố Hải
Phòng, thừa nhận: Hơn ba mươi nghìn trong số ba mươi bảy nghìn người Hoa
ở thành phố này đã phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười
nghìn người Hoa, năm 1978 chỉ còn vài chục người ở lại. Nhà thơ Dư Thị
Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Phòng: “Tết thanh minh năm ấy, không ngờ
lại là bữa tiệc cuối của sum họp đại gia đình, hình ảnh má và các em các
cháu tôi chen lấn trong dòng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu hỏa. Thê
thảm nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu ớt, họ giao
phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm đó, giao phó cho đoàn tàu
chở họ tới một đất nước được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và
mong manh? Họ trở về quê hương và không hiểu tại sao, vì lẽ gì? Chị
chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba mẹ con tôi đang gào khóc nhìn đoàn tàu
mất hút trong đêm tối”.
Ở Sài Gòn, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc Hương: “Chúng
tôi không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt Nam thì đăng ký, hơn 90%
người Hoa ở Thành phố đã đăng ký ra đi”. Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm
ấy là phó Phòng chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố
Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Công an cũng đã mạnh tay cô lập những đối tượng
tình nghi là còn quan hệ với Trung Quốc”. Một trong những “đối tượng”
mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp thụ lý lúc ấy là ông Lý Ban.
Ông Lý Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy sang Diên An
sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách mạng tháng Tám, từ
căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc, Lý Ban cùng các đồng chí
Việt Nam khác của ông ở Diên An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh
Toàn, Nguyễn Sơn, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đã từng là ủy viên dự
khuyết Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Ngoại thương.
Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lý Ban có những mối liên hệ chặt
chẽ với Trung Quốc. “Tinh thần chỉ đạo” là phải có “biện pháp đặc biệt,
không để các đối tượng ở trong điểm nóng, khi tình hình xấu diễn ra thì
phát huy tác dụng”. Ông Lý Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly để điều
tra, ông Trừng thừa nhận: “Té ra ông Lý Ban là một người rất trung
thành với Đảng”. Nhạc sỹ Lâm Âm đang là biên chế ở Sở Văn hóa Thông tin
cũng bị bắt dù sau đó không tìm thấy bất cứ bằng chứng “phản động” nào.
Một thời gian sau, Phòng chống phản động bành trướng bá quyền yêu cầu Sở
Văn Hóa Thông tin “bảo lãnh”, ông Lâm Âm được tha. Nhưng, theo ông Tư
Kết: “Vừa có lệnh thả ra thì nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết”.
“Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ nhen nhóm chính
trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần năm 1977); số trốn đi nước
ngoài cũng tăng gấp ba lần (2.130 vụ với 8.139 người)”212. Trong số
8.139 người bị bắt đầu năm 1978 có ông Lý Tích Chương, cha của Lý Mỹ –
“tấm gương điển hình” trong chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư
doanh”.
Khi ông Lý Tích Chương bị bắt, Lý Mỹ đang được “Đảng và Nhà nước đưa đi
Cuba” tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Theo Lý Mỹ: “Khi tôi ở
Cuba, ba tôi ốm phải vào bệnh viện Saint Paul. Một chiều cô em út của
tôi lúc ấy mới chín tuổi mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không
thấy, nhân viên bệnh viện nói, trong phòng của ổng giờ toàn công an, hôm
ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người Hoa đang điều trị trong bệnh
viện”. Sau một tháng ở Cuba, khi Lý Mỹ về, ông Mai Chí Thọ đưa xe đến
Thành đoàn đón, nói là cho đi thăm ba nhưng vào trại giam thì ông Lý
Tích Chương được thả. Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đình
quyết định “đi”.
Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người Việt-gốc-Hoa là
“nạn kiều”; Hà Nội nói Bắc Kinh “bịa đặt”. Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978
viết: “Bị tác động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc
[người Hoa] đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”.
Cũng theo bài báo này: “Ta đã bắt quả tang một số tên thực hiện chiến
dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như Lý
Nghiệp Phu, Trần Hoạt, Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh Nàm, Lã Giang Đông, Quan
Gia Nghĩa, Lý Đào Lê”. Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: “Ngày 30-4, chủ nhiệm
Văn phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Liêu
Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm cho Việt Nam”.
Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy tuyên bố: “Đảng và Chính
phủ Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát
nước đầy. Có một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn
xấu tác động”. Ngày 24-5-1978, người phát ngôn Văn phòng công việc Hoa
kiều Quốc vụ viện Trung Quốc ra tuyên bố chính thức phản đối Việt Nam
“bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”. Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao
Việt Nam gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt
tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau càng sớm càng tốt, có
thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết những bất
đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn cả đề nghị của Trung Quốc
đưa tàu sang Việt Nam đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại
Trung Quốc gởi công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị
nói trên của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc “đã quyết định” đưa
tàu sang thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978
để đón người Hoa về nước. Bộ ngoại giao Việt Nam “phê phán thái độ
ngang ngược nói trên của nhà đương cục Trung Quốc”. Ngày 5-6, Bộ Ngoại
giao Việt Nam một mặt “kêu gọi bà con người Hoa hãy yên tâm ở lại Việt
Nam làm ăn bình thường”, mặt khác đưa ra cam kết: “Bà con nào muốn rời
khỏi Việt Nam đi Trung Quốc thì sẽ được chính quyền Việt Nam giúp làm
các thủ tục xuất cảnh để ra đi thuận tiện”.
Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt
Nam, chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra còn có hơn 4.000 người Khmer
khác. Số người Hoa về nước trên hai con tàu của Trung Quốc chỉ mang tính
tượng trưng, theo ông Mai Chí Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được
2.400 người. Một dòng người khác đã phải gồng gánh về phía bên kia theo
đường bộ213.
Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí
Thọ nói: “Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều,
tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền
phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa kiều
họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới
chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền phản động Campuchia. Thái độ trái
ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ
tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ý đồ khác.
Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”214. Câu chuyện
của Tằng Dục Hính, đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978, cho thấy
tương lai trở về “tổ quốc” của người Hoa cũng khá tối tăm: “Chúng tôi
đáp xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến Cầu Kiều chúng tôi phải
qua một trạm công an Việt Nam. Tại đây họ thu lại tất cả những giấy tờ
mà chính phủ Việt Nam cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nhìn
về phía Trung Quốc tôi nghe được rất rõ tiếng loa, tiếng nhạc quen
thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nhìn thấy rất đông người đang chờ
đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung Quốc, 3-6- 1978. Buổi chiều, sau
khi nộp xong bản khai lý lịch, chúng tôi được một ông cán bộ người Trung
Quốc nói giọng Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải đăng
ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ thì phải đi Tây
Tạng!”.
Theo Tằng Dục Hính, vì sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn Chí Tiền Thành
cùng hai thanh niên Hải Phòng nữa đã lội qua sông Hồng ngay trước khi
nước chảy rất xiết để trốn về Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được “các
đồng chí công an Việt Nam giúp đỡ” cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói
tiếp: “Ở Hà Khẩu, tôi biết là có 80 đến 90% bà con muốn trở về lại Việt
Nam nhưng không dám”215.
Nhà báo Huy Đức
Trích cuốn Bên Thắng Cuộc
Đề xuất đình chỉ công tác ông Phạm Quý Ngọ
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương, cho biết đã có
một số ý kiến đề xuất đình chỉ công tác đối với Thứ trưởng Bộ Công an
Phạm Quý Ngọ để đảm bảo việc điều tra, làm rõ những nội dung tố cáo của
Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam khai tại phiên
tòa xét xử Dương Tự Trọng và đồng bọn “Tổ chức cho người khác trốn đi
nước ngoài”.
Thông tin từ
Ban Nội chính Trung ương cho biết trong tháng 1-2014 đã báo cáo và được
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng- đồng ý đề xuất bổ sung 4 vụ án, 4 vụ việc có dấu
hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi,
chỉ đạo; đề nghị đưa 15 vụ án, 5 vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức
tạp vào diện Ban Nội chính Trung ương theo dõi, đôn đốc; 24 vụ án, 16
vụ việc đề nghị các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc trung ương chỉ đạo, xử
lý.
Ngoài ra, Ban Nội chính Trung ương đã họp để nghe các cơ quan tiến
hành tố tụng trung ương báo cáo về vụ việc liên quan đến các vụ án xảy
ra tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), vụ tổ chức người
khác trốn đi nước ngoài và vụ án xảy ra tại Công ty TNHH Công nghệ
biển Hải Phòng.
Trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh cũng đã trực tiếp đến
theo dõi phiên tòa xét xử các vụ án: Dương Chí Dũng và đồng phạm tham ô
tài sản, cố ý làm trái; Dương Tự Trọng và đồng phạm tổ chức cho người
khác trốn đi nước ngoài; Huỳnh Thị Huyền Như và đồng phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và tham nhũng.
Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ban Nội chính Trung ương trong thời gian tới là việc giải quyết đơn tố cáo của ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines- liên quan đến Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ.
Trước đó, ngày 8-1, TAND TP Hà Nội đã quyết định khởi tố vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” đối với người đã mật báo cho Dương Chí Dũng biết thông tin sắp bị khởi tố, bắt tạm giam để bỏ trốn ra nước ngoài và giao VKSND TP Hà Nội tổ chức báo cáo VKSND Tối cao xử lý theo pháp luật. Tại phiên tòa xét xử vụ án “tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”, Dương Chí Dũng với tư cách là nhân chứng đã khai người mật báo cho mình bỏ trốn là Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng Bộ Công an.
Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động ngày 16-2, ông Phạm Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Nội chính trung ương, cho biết việc phối hợp điều tra, xử lý những nội dung tố cáo của ông Dương Chí Dũng giữa Ban Nội chính Trung ương, Bộ Công an, VKSND Tối cao… do Bộ Chính trị quyết định. “Việc điều tra vụ án vẫn do cơ quan điều tra thực hiện theo quy trình tố tụng. Ban Nội Chính Trung ương chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Đảng chứ không làm thay cơ quan điều tra được. Đối tượng bị tố cáo thuộc diện Bộ Chính trị quản lý nên cơ quan điều tra, tố tụng vẫn làm theo quy trình về tố tụng”- ông Tuấn nói.
Ông Phạm Anh Tuấn cho biết thêm đã có một số ý kiến đề xuất đình chỉ công tác đối với Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ để đảm bảo việc điều tra, làm rõ những nội dung tố cáo của Dương Chí Dũng. “Quan trọng là phải tiếp cận hồ sơ của tố tụng và không gây ảnh hưởng tới điều tra. Về nguyên tắc thì phải đình chỉ nhưng ông Ngọ đang bệnh nặng nên việc này nhạy cảm. Nếu “sốc mạnh” thì cũng không lợi lắm, còn thực hư đúng sai thì vẫn phải chờ”- ông Tuấn nhận định.
Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ban Nội chính Trung ương trong thời gian tới là việc giải quyết đơn tố cáo của ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines- liên quan đến Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ.
Trước đó, ngày 8-1, TAND TP Hà Nội đã quyết định khởi tố vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” đối với người đã mật báo cho Dương Chí Dũng biết thông tin sắp bị khởi tố, bắt tạm giam để bỏ trốn ra nước ngoài và giao VKSND TP Hà Nội tổ chức báo cáo VKSND Tối cao xử lý theo pháp luật. Tại phiên tòa xét xử vụ án “tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”, Dương Chí Dũng với tư cách là nhân chứng đã khai người mật báo cho mình bỏ trốn là Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng Bộ Công an.
Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động ngày 16-2, ông Phạm Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Nội chính trung ương, cho biết việc phối hợp điều tra, xử lý những nội dung tố cáo của ông Dương Chí Dũng giữa Ban Nội chính Trung ương, Bộ Công an, VKSND Tối cao… do Bộ Chính trị quyết định. “Việc điều tra vụ án vẫn do cơ quan điều tra thực hiện theo quy trình tố tụng. Ban Nội Chính Trung ương chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Đảng chứ không làm thay cơ quan điều tra được. Đối tượng bị tố cáo thuộc diện Bộ Chính trị quản lý nên cơ quan điều tra, tố tụng vẫn làm theo quy trình về tố tụng”- ông Tuấn nói.
Ông Phạm Anh Tuấn cho biết thêm đã có một số ý kiến đề xuất đình chỉ công tác đối với Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ để đảm bảo việc điều tra, làm rõ những nội dung tố cáo của Dương Chí Dũng. “Quan trọng là phải tiếp cận hồ sơ của tố tụng và không gây ảnh hưởng tới điều tra. Về nguyên tắc thì phải đình chỉ nhưng ông Ngọ đang bệnh nặng nên việc này nhạy cảm. Nếu “sốc mạnh” thì cũng không lợi lắm, còn thực hư đúng sai thì vẫn phải chờ”- ông Tuấn nhận định.
Đẩy nhanh xử lý vụ “bầu Kiên”
Ban Nội chính Trung ương cho biết trong tháng 2-2014 sẽ tham mưu, giúp
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng triển khai Chương
trình công tác trọng tâm năm 2014, trong đó có việc đôn đốc đẩy
nhanh tiến độ xử lý các vụ án: Phạm Thị Bích Lương và đồng phạm vi phạm
quy định về cho vay, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thiếu trách nhiệm;
Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) và đồng phạm cố ý làm trái, lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, kinh doanh trái phép và trốn thuế; Vũ Việt Hùng và đồng
phạm nhận hối lộ, vi phạm quy định về cho vay, lừa đảo chiếm đoạt tài
sản; vụ việc sai phạm xảy ra tại Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PGBank);
vụ việc xảy ra tại Công ty Dịch vụ Agribank…
Thế Kha
(Người Lao động)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét