Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Phải gọi là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam- Tác dụng của những bài học mà các đồng chí Trung Quốc dạy các đồng chí ta - THÁNH CHỈ THIÊN TRIỀU ĐÃ BAN! LŨ TIỂU VƯƠNG QUAN VIỆT ĐANG RA SỨC PHÁ TAN LỊCH SỬ VIỆT

Song Chi - Không một trang sử nào có thể bị xóa trắng

17 tháng 2, 1979-17 tháng 2, 2014. Tròn 35 năm ngày quân đội Trung Quốc nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh ngắn ngủi, chỉ kéo dài 30 ngày, nhưng đã kịp để lại những hậu quả nặng nề cho cả quân xâm lược lẫn bên tự vệ.

Như nhiều tài liệu còn ghi chép lại, cuộc tấn công của Trung Quốc, mặc dù có những dấu hiệu báo trước trong mối quan hệ từ lâu đã không còn thắm thiết giữa hai đảng, hai nhà nước cộng sản, nhưng về phía các nhà lãnh đạo Việt Nam, và ngay cả đa số người dân, vẫn là sự bất ngờ.

Những người sử dụng Facebook đã dùng biểu tượng hoa sim để nhớ về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược, 17 tháng 2, 1979.
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 vì vậy có thể xem như đã chính thức lột bỏ trước thế giới cái mặt nạ về mối quan hệ “anh em, đồng chí” như “môi với răng” này. Trả lại đúng thực chất nguyên nhân, ý đồ phía sau sự gắn bó, “viện trợ” của Trung Cộng dành cho Việt Nam trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ trước đó.
Và nếu nhìn lại từ trận hải chiến đánh cướp Hoàng Sa 1974, các cuộc chiến tranh biên giới 1979, 1984, 1988, việc xâm chiếm đảo Gạc Ma-Trường Sa cho tới tuyên bố của Trung Quốc về đường lưỡi bò phi lý trên biển Ðông, và có thể, sẽ là việc đơn phương tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên biển Ðông tiếp theo sau vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Ðông mới đây...
Rõ ràng Trung Quốc luôn luôn nhất quán với đường lối của chính họ trong âm mưu thôn tính lâu dài Việt Nam như một phần trong chiến lược thâu tóm toàn bộ biển Ðông, phục vụ khát vọng phục hưng đế chế Trung Hoa, trở thành bá chủ toàn cầu.
Mỗi bước đi của Trung Cộng đều có sự tính toán trước hàng chục, thậm chí hàng trăm năm.
Có lẽ đến bây giờ thì nhà cầm quyền Việt Nam, chỉ trừ những kẻ u mê quá độ, là đã thấm thía hiểu ra điều này.
Nhưng dù có hiểu ra thì sự khiếp nhược, sợ mất đảng hơn cả mất nước, cũng không giúp họ có đủ dũng khí để thay đổi thái độ, đường lối, chính sách đối với Trung Nam Hải.
Ngày 17 tháng 2 năm nay vì thế cũng như mọi năm, sẽ không hề có lễ tưởng niệm nào về một cuộc chiến tranh cố tình bị lãng quên và hàng chục nghìn binh lính lẫn thường dân đã ngã xuống 35 năm trước.
Báo chí cũng đã được lệnh im lặng, một số bài báo viết về sự kiện lịch sử này đã bị rút vội xuống, các tổng biên tập, phó biên tập, phóng viên... chắc chắn đã được ban tuyên giáo nhắc nhở với những luận điệu quen thuộc.
Chẳng hạn, “phải suy nghĩ vì đại cục”, “không nên tạo bất cứ cái cớ gì để Trung Quốc có thể vin vào đó mà làm khó dễ hoặc có thể leo thang gây hấn với ta”, hoặc “đừng để mắc vào những âm mưu phía sau lời kêu gọi tưởng niệm ngày 17 tháng 2 của các thế lực xấu, luôn tìm cách kích động, gây chia rẽ mối quan hệ tốt đẹp giữa ta và Trung Quốc” v.v.
Và chắc chắn, nếu có bất cứ một cuộc biểu tình hay hoạt động nào của người dân nhằm tưởng niệm ngày 17 tháng 2, sẽ bị nhà nước đàn áp thẳng thừng, như mọi hành động tương tự phản đối Trung Quốc của nhân dân Việt Nam từ trước đến nay.
Vì muốn được yên thân bằng mọi giá, nhà cầm quyền Việt Nam từ lâu đã không còn biết nhục, mặc cho những tiếng chửi rủa như “bè lũ bán nước, hèn hạ, tập đoàn Lê Chiêu Thống thời nay”... có đến tai họ.
Giống như Trung Quốc có tiếp tục mắng chửi, ngang ngược xâm phạm lãnh hải Việt Nam, đâm chìm tàu cá, đánh đập, cướp phá ngư cụ, hải sản của ngư dân Việt Nam, hay làm bất cứ điều gì đi nữa, họ cũng sẽ nhịn.
Không chỉ nhịn nhục, họ còn làm cho nhân dân Việt Nam cũng hèn hạ như họ.
Trong cuộc đối đầu với Trung Quốc hiện tại và tương lai gần, đảng cộng sản Việt Nam đã tự mình tước bỏ hai vũ khí, hai nguồn sức mạnh lớn nhất mà họ từng sử dụng rất thành thục, rất hiệu quả trước kia.
Một, tuyên truyền, kích động lòng yêu nước để người dân dũng cảm cầm súng lao vào cuộc chiến tranh gian khổ suốt mấy chục năm chống lại “thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược”. Thứ hai, tuyên truyền với thế giới về tính chính danh, chính nghĩa của mình, để kêu gọi sự ủng hộ của các nước trên thế giới.
Và rõ ràng, họ đã thành công, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh với Mỹ.
Việc Mỹ quyết định rút khỏi Việt Nam không phải vì thua miền Bắc trên chiến trường. Mà chính vì sức ép của dư luận quốc tế, các phong trào xã hội có tính chất khuynh tả ở các nước phương Tây lúc bấy giờ, phong trào phản chiến tại Mỹ, sức ép của báo chí phương Tây, nhất là báo chí của chính nước Mỹ, với cách đưa tin, bài nhấn mạnh những tổn thất về tiền bạc và sinh mạng của người Mỹ, chỉ trích sự sa lầy của chính phủ Mỹ tại Việt Nam...
Ngay cả trong cuộc chiến tranh biên giới 1979, dù bị bất ngờ, Việt Nam vẫn đủ sức giáng trả cho quân đội Trung Quốc những đòn tổn thất nặng nề. Và bài học mà Ðặng Tiểu Bình định dạy cho Việt Nam, hóa ra cũng là bài học cho chính Bắc Kinh khi sự lạc hậu về vũ khí, yếu kém trong chỉ huy, thiếu kinh nghiệm chiến đấu của quân đội Trung Quốc đã bộc lộ đầy đủ qua cuộc chiến.
Nhưng chí ít, khi đó nhà cầm quyền Việt Nam còn chưa sợ Bắc Kinh, báo chí còn được phép gọi tên vạch mặt quân xâm lược Trung Quốc, kêu gọi lòng yêu nước, căm thù của nhân dân.
Còn bây giờ, cả thế, lực lẫn thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam đối với Trung Cộng đã khác xa nhiều lắm.
Quan trọng nhất, khi chọn lựa con đường trái ngược hoàn toàn, đối ngoại không dám công khai lên tiếng trước thế giới về những hành vi gây hấn ngày càng ngang ngược và âm mưu bành trướng lâu dài của Trung Nam Hải, đối nội cố tình che dấu lịch sử, cố tình làm cho người dân trở nên vô cảm với hiện tình đất nước, thậm chí làm nhụt lòng yêu nước của người dân, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã tự gây khó cho mình, tự làm suy yếu mình trước Trung Quốc.
Trách nhiệm giữ lửa yêu nước đó bây giờ hoàn toàn nằm trong tay người dân Việt Nam.
Nhờ có internet, ngày càng nhiều người Việt Nam chia sẻ với nhau những hình ảnh, thông tin bị bưng bít. Như cuộc chiến tranh biên giới 35 năm trước, khi báo chí nhà nước buộc phải im tiếng thì đã có báo chí lề dân, các trang mạng xã hội liên tục đưa tin, kêu gọi tưởng niệm ngày 17 tháng 2 bằng nhiều hình thức khác nhau.
Không ai muốn chiến tranh lại xảy ra. Nhất là với một dân tộc đã phải chịu đựng quá nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra bởi những sự lựa chọn đường đi, nhận định bạn, thù sai lầm trong quá khứ của một số cá nhân, một vài thế hệ cầm quyền.
Nhưng đâu phải khi ta cứ nhẫn nhục là có thể hóa giải được tham vọng bành trướng của nước khác? Khi trong mục tiêu và trên con đường đi của nước khác, Việt Nam vô tình lại là chướng ngại vật phải khuất phục hoặc triệt tiêu?
Chỉ khi dám nhìn thẳng vào những bài học quá khứ, như các dân tộc Nhật, Ðức hay Do Thái, và luôn giữ cho mình sự tỉnh táo, ngọn lửa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, chúng ta mới có thể đứng vững trước mọi thử thách trong tương lai mà không bị bất ngờ như cái ngày 17 tháng 2, 1979 ấy.
Như một câu ngạn ngữ Latin “Si vis pacem, para bellum”, tức “If you want peace, prepare for war” (”Nếu muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”).
Chuẩn bị cho chiến tranh đâu chỉ là mua thêm vũ khí, tàu ngầm, rèn luyện quân đội... Bởi chạy đua vũ trang với một quốc gia nhỏ, nghèo làm sao cho đủ và cũng sẽ là vô ích một khi người dân không được chuẩn bị đầy đủ về tâm lý và đảng cầm quyền thì thiếu đi tính chính danh, sức mạnh ủng hộ từ nhân dân và quốc tế.
Song Chi
Theo Người Việt

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Phải gọi là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam

(PetroTimes) - Vẫn tác phong nhanh nhẹn, hồ hởi và lối tư duy sắc sảo, mạch lạc của người chỉ huy chiến đấu năm xưa khi anh kể lại những kỷ niệm sâu sắc trong những tháng năm ở chiến trường. Trưởng thành từ người chiến sĩ ngoài mặt trận rồi sau này trở thành Phó tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, anh là người lính chiến dày dạn kinh nghiệm. Trong những ngày đầu chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc, anh giữ cương vị Phó chính ủy trung đoàn. Ông dành cho phóng viên PetroTimes một cuộc trò chuyện rất tâm đắc.

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm đang tặng hoa cho các cựu chiến binh cao tuổi của Sư đoàn 316

PV:Thưa anh, là người trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu chống quân Trung Quốc trên biên giới phía Bắc, sau 35 năm nhìn lại, anh có suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến ấy?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Trước hết phải nói thế này, tôi có một suy nghĩ khác với nhiều người về cuộc chiến tranh đó. Lâu nay chúng ta quen với tên gọi là Cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung, như vậy không đúng.

Theo tôi, phải gọi đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam. Lý do là hai nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị gắn bó từ những năm chúng ta còn kháng chiến chống Pháp. Biên giới lãnh thổ đã được phân định rõ ràng. Vậy mà phía Trung Quốc ngang nhiên đưa hàng chục vạn quân đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Trung Quốc đã dùng sức mạnh áp đảo để chiếm 4 thị xã và hàng chục huyện dọc biên giới của ta trong thời gian gần một tháng. Như vậy rõ ràng phải gọi nó là cuộc chiến tranh xâm lược.

PV: Khi chiến tranh nổ ra, anh đang đóng quân ở đâu và giữ cương vị gì?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Lúc đó Trung đoàn 148, Sư đoàn 316 chúng tôi đóng ở huyện Than Uyên, Hoàng Liên Sơn (nay là Lai Châu). Tôi là Phó chính ủy trung đoàn. Ngày ấy thông tin liên lạc còn khó khăn nên chiều ngày 18/2 chúng tôi mới nhận được thông báo Trung Quốc đã đánh vào thị xã Lào Cai. Thế là ngay chiều hôm ấy, trung đoàn tôi và Trung đoàn 174 được lệnh khẩn cấp hành quân về Lào Cai để đánh phản kích.

PV:Tình thế chiến trường lúc đó thế nào, thưa anh?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Ở hướng Lào Cai, quân Trung Quốc không đánh theo hướng trực diện qua cầu Hồ Kiều vào thị xã mà tiến bằng hai hướng Quang Kim, Bát Xát và ngã ba Bản Phiệt xuống. Pháo của địch bắn rất dữ dội để dọn đường cho bộ binh nên sau một ngày chúng đã chiếm được thị xã Lào Cai. Lực lượng địch được huy động đông gấp hàng chục lần phía ta.

Trước tình hình đó, Trung tướng Vũ Lập - Tư lệnh Quân khu 2 ra lệnh phá một số cây cầu để làm chậm tốc độ tiến công của địch. Đồng thời, Trung đoàn 148 nhận nhiệm vụ phòng ngự để bảo vệ dân, dàn quân từ Cốc San lên tuyến đường đi Sa Pa. Từ 2 thị xã Lào Cai và Cam Đường, hàng vạn người dân hoảng loạn chạy sơ tán về phía sau. Như vậy là bộ đội tiến lên phía trước, còn dân chạy về phía sau, tránh chết chóc. Trước đó chúng ta quen với chiến tranh giải phóng, bây giờ mới thực hiện chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Cảnh tượng lúc đó giống như trong những bộ phim của Nga trong chiến tranh thế giới thứ 2.

Trung đoàn 148 có tới 80% là chiến sĩ trải qua chiến đấu ở chiến trường chống Mỹ từ phía Nam ra, rất kiên cường, dũng cảm. Đại đội 10 của Tiểu đoàn 6 chiếm giữa điểm cao 608, Trung Quốc dùng một sư đoàn tấn công 7 ngày nhưng không lên nổi. Sau đó họ lấn chiếm được một nửa điểm cao thì tôi tổ chức cho bộ đội đánh giáp lá cà khiến quân địch hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Chính vì thế, Sư đoàn 316 đã đánh thọc sườn, chặn quân Trung Quốc không tiến sâu được nữa.

Suốt 1 tuần lễ, Trung Quốc dùng hơn một quân đoàn và lực lượng pháo binh rất mạnh để đánh về Cam Đường và Sa Pa nhưng rồi cũng chỉ quanh quẩn ở thị xã Lao Cai. Khi địch vào được Sa Pa thì chúng tôi đã bảo vệ dân rút an toàn về phía sau. Nếu tiến thêm nữa thì Trung Quốc sẽ gặp khó khăn vì Trung đoàn 148 đã chặn đánh chúng ở đèo Khí tượng.

Bây giờ tôi không muốn nhắc lại chi tiết những trận chiến đấu ác liệt ngày đó nữa. Chỉ biết rằng, cuộc chiến đã để lại những hậu quả nặng nề cho cả hai phía. Sau mấy trận chiến đấu, tôi được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba và được bổ nhiệm thẳng lên làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 148.

PV: Là cán bộ trực tiếp chỉ huy chiến đấu, anh rút ra những điều gì về cuộc chiến tranh đó?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Đó là những vấn đề tôi vẫn suy nghĩ từ nhiều năm nay. Thứ nhất là chúng tôi bất ngờ trước sự tấn công của Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì quá vội vã. Chỉ 15 ngày sau khi Đặng Tiểu Bình gặp Tổng thống Mỹ Ca-tơ là đánh ta luôn. Trong tư duy của chúng tôi trước đó thì không thể có chuyện Trung Quốc sẽ dùng sức mạnh quân sự để đánh Việt Nam mà vẫn chỉ là những mâu thuẫn trong quan hệ đối ngoại, sẽ được hai nhà nước giải quyết bằng con đường ngoại giao. Vì thế, một số đơn vị đóng quân ở phía Bắc chỉ huấn luyện và tham gia sản xuất. Mà huấn luyện thì cũng vẫn huấn luyện bộ đội theo cách đánh Mỹ.

Thứ hai là nếu chúng ta xác định rằng Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam thì chủ động hơn trong cách đánh phòng ngự. Và với kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm ở chiến trường đánh Mỹ, chắc chắn bộ đội ta sẽ chặn đứng được bước tiến của địch trong những ngày đầu.

Thứ ba là qua thực tế chiến trường, chúng tôi thấy trình độ tác chiến, kỹ năng chiến đấu của quân Trung Quốc còn kém, lính rất nhát. Bởi bao nhiêu năm quân đội Trung Quốc không đương đầu với cuộc chiến tranh nào nên khi chạm trán với những người lính thiện chiến Việt Nam, lính Trung Quốc rất lúng túng, chỉ dựa vào quân đông và hỏa lực mạnh. Tư tưởng của người lính trên chiến trường có ý nghĩa quyết định thắng bại. Quân đội ta đánh Pháp, đánh Mỹ và vừa đánh thắng bọn Pôn Pốt ở Campuchia hơn một tháng trước đó có tác động đến tư tưởng của quân Trung Quốc. Họ run sợ. Nếu cố tiến sâu nữa thì Trung Quốc sẽ thiệt hại nặng nề hơn.
Xe tăng Trung Quốc bị bộ đội ta bắn cháy trong cuộc chiến tranh biên giới.

PV: Với kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường, anh thấy quân Trung Quốc với quân đông, hỏa lực mạnh như thế thì tốc độ tấn công, hiệu suất chiến đấu của họ trên thực tế thế nào?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Tôi cho là tốc độ tấn công của họ quá chậm. Ở các hướng, tính bình quân mỗi ngày họ chỉ tiến được hơn 1 cây số. Bởi họ đã vấp phải sự kháng cự dũng cảm của quân và dân ta. Như ở Lào Cai, một quân đoàn của Trung Quốc mà đánh nhau với một trung đoàn của ta còn mất hàng tuần mới tiến được có mấy cây số. Chính vì thế, khi quân Trung Quốc vào được Sa Pa và Cam Đường thì chúng tôi đã bảo vệ dân rút hết về phía sau rồi.

Trung Quốc nói tiêu diệt quân chủ lực của ta nhưng không có chuyện đó. Mặc dù lực lượng mạnh như thế nhưng tấn công xâm lược mà không diệt gọn được đại đội nào của ta. Ta lượng sức mình yếu trước kẻ mạnh nên phải bảo toàn lực lượng, có đơn vị vừa đánh vừa rút. Và thực chất là tháng 2/1979, Trung Quốc mới đánh nhau với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ở biên giới của ta thôi. Thế mà họ đã bị thiệt hại nặng nề.

PV: Anh có nhận xét gì về cuộc tấn công xâm lược ấy của Trung Quốc?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Trung Quốc đã thất bại cả về quân sự, chính trị, ngoại giao; cả về ý nghĩa xã hội, nhân văn. Phát động một cuộc chiến tranh xâm lược như thế, họ muốn gây sức ép buộc ta rút quân khỏi Campuchia và kéo dài việc đàm phán phân định biên giới. Nhưng qua cuộc xâm lược ấy, họ thể hiện sự yếu kém. Cho nên tôi cho rằng, cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đã thua về nhiều mặt chứ chẳng vẻ vang gì như họ vẫn tuyên truyền lâu nay.

PV:Anh muốn nói gì với thế hệ trẻ hôm nay qua cuộc chiến tranh ấy?

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Tôi muốn thế hệ trẻ hôm nay hiểu rõ sự thật của cuộc chiến tranh xâm lược ấy của Trung Quốc. Từ đó tự hào với truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc - truyền thống quý báu của bất kỳ thế hệ nào. Như vậy, vấn đề giáo dục truyền thống phải được chú trọng. Tôi thấy các bảo tàng quân sự của ta không có nội dung phản ánh cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc. Đó là một thiếu sót, cần phải bổ sung ngay. Lịch sử là lịch sử. Thế hệ trẻ cần được hiểu rõ sự thật lịch sử tháng 2/1979!

PV:Xin cám ơn Trung tướng về cuộc trò chuyện!

Đức Toàn

Ký ức về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 17/2/1979

35 năm đã trôi kể từ khi xảy ra cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc (1979-1989) nhưng trong ký ức tôi, những đồi hoa sim tím suốt dọc dài biên cương phía Bắc vẫn còn in đậm với những tên đất, tên người và những trận chiến đấu ác liệt ở đó.  

Những chuyến hành quân lên mặt trận
Ngày 17/2/1979, chiến tranh biên giới Việt - Trung trải dài ở 6 tỉnh Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Từ các tỉnh phía sau, nguồn nhân lực, vật lực được khẩn trương huy động đáp ứng cho mặt trận.
 Tôi đã chứng kiến trong tiết trời giá lạnh, hình ảnh người Hà Nội vẫy chào, tiễn những đoàn xe quân sự vượt cầu Long Biên tiến về phía Bắc. Thanh niên, sinh viên khi ấy đều háo hức muốn được lên biên giới, góp sức mình cùng bộ đội bảo vệ biên cương. Và khi có lệnh tổng động viên đầu tháng 3/1979, hàng vạn thanh niên cả nước đã hăng hái lên đường.
Những cuộc hành quân qua nhiều địa danh trên biên giới, tôi gặp những vùng đất nhuộm tím hoa sim. Một loài hoa dại bạt ngàn từng đi vào thơ ca, vào ký ức học trò. Vậy mà bom đạn chiến tranh đã khiến những đồi hoa sim bị băm nát, xáo trộn cùng đất đỏ. Những cánh hoa tím mong manh bị sạm đen khói súng, tả tơi. Thời bình, người ta có thể thong thả ngắm nhìn vẻ đẹp lãng mạn của đồi sim. Song khi ấy, chiến sự căng thẳng khiến mọi người không còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Các chiến sĩ trinh sát dẫn chúng tôi đi, không ồn ào, không đùa giỡn bởi dưới mặt đất có khá nhiều mìn và những quả đạn chưa nổ. Họ yêu cầu chúng tôi phải đi đúng vào vết chân họ đi trước dẫn đường và sẵn sàng ẩn nấp khi có pháo hoặc đạn cối bắn sang.
Thời ấy, tôi đang là phóng viên của Chương trình phát thanh QĐND, Đài tiếng nói Việt Nam, làm nhiệm vụ tường thuật chiến đấu tại mặt trận. Ngoài quân tư trang, tôi phải đeo thêm chiếc máy ghi âm R6 cổ lỗ chạy băng cối và 6 pin đại, nặng tới 6 kg.
Sau dịp tết năm 1980, tôi cùng lên biên giới Lạng Sơn với các nhà văn và nhà báo Thân Như Thơ, Cao Nham, Mai Thế Chính, Nguyễn Văn Nhung, Phạm Thành, Đinh Xuân Dũng. Từ Quân đoàn 14, chúng tôi phân công nhau đi về nhiều hướng của mặt trận. Những trận đánh quy mô nhỏ thỉnh thoảng xảy ra ở những điểm cao dọc đường biên. Các nẻo đường biên giới vắng ngắt, chỉ có các đơn vị quân đội, rất hiếm bóng dân thường.
Quân ta tiến ra mặt trận (Ảnh: Mạnh Thường)
Trời mưa phùn rả rích, đường trơn lầy lội. Chúng tôi leo lên một điểm tựa ở dãy núi đá thuộc huyện Văn Lãng. Phân đội súng cối 81 ly có hơn chục chiến sĩ. Hôm ấy đúng vào ngày rằm tháng giêng. Chiếc nồi quân dụng đầy cơm nhưng thức ăn chỉ có thịt muối và mắm kem, không rau. Anh em bảo rằng, miếng thịt muối đã ngâm nước từ tối qua (cho mềm và bớt mặn) nhưng hôm nay thái ra vẫn còn rắn lắm. Tôi bỗng thấy thương anh em quá. Người ta thường ví “Giỗ tết quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Cả nước đang quay quần bên mâm cỗ ngày rằm với đầy đủ món ngon truyền thống thì ở đây, bộ đội phải ăn bữa cơm quá đạm bạc!
Hôm sau, tôi và anh Mai Thế Chính hành quân từ Văn Lãng về Đồng Đăng (Lạng Sơn). Bữa cơm trưa hôm ấy ở sở chỉ huy Trung đoàn 42 do Trung tá Nguyễn Như Hoạt, Anh hùng LLVT thời đánh Mỹ làm trung đoàn trưởng. Bữa ăn chỉ có cá khô, thịt muối. Anh Hoạt lấy phích nước sôi, rót ra cái bát to và rắc vào đó ít mì chính và vài hạt muối để thay canh. Mấy ngày trước tết, Trung đoàn 42 vừa được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh lên thăm. Tuy đóng ở địa bàn thuận lợi hơn nhiều đơn vị khác nhưng trung đoàn cũng còn rất thiếu thốn.
Đầu năm 1982, chúng tôi nhận lệnh lên biên giới Cao Bằng. Từ bến xe Bến Nứa (Long Biên), đi xe khách mất nửa ngày mới đến Thái Nguyên; sau đó chúng tôi cuốc bộ 7 km về Bộ tư lệnh Quân khu 1. Chờ 4 ngày nữa mới có xe của Quân đoàn 26 về lấy hàng, chúng tôi theo chiếc xe tải đó lên Hòa An, nơi đóng quân của sở chỉ huy, cách thị xã Cao Bằng gần chục cây số. Từ km số 8, chúng tôi lại cuốc bộ xuyên rừng núi 5 km để vào Bộ tư lệnh. Rồi lại chờ 3 ngày nữa mới có xe của Sư đoàn 311 về họp và đón đi Thạch An, Đông Khê. Thế là mất đứt một tuần lễ chúng tôi mới đến được với bộ đội. Trước đấy vài tháng, vào dịp tết, đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị mới lên thăm bộ đội Quân đoàn 26 (Binh đoàn Pắc Bó), đã làm bài thơ “Điểm tựa” tại Quảng Hòa tặng cán bộ, chiến sĩ. Bài thơ ấy thể hiện được sự cảm thông sâu sắc của lãnh đạo cấp cao đối với bộ đội nơi điểm tựa tiền tiêu, có tác dụng rất lớn, động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ.
Cao Bằng vốn là tỉnh có nhiều núi đá nên bộ đội sống trên điểm tựa đều thiếu nước. Nước sinh hoạt hàng ngày phải gùi từ suối lên, có chỗ leo qua thang dây và hàng trăm bậc đá. Ngay ở Bộ tư lệnh quân đoàn, bể nước chỉ để dành cho nhu cầu ăn uống, do nhà bếp quản lý, thường khóa chặt. Việc tắm giặt phải dùng nước suối hoặc nhờ nhà dân. Trời mùa xuân ẩm ướt, lại ở hang đá và nhà tranh tạm bợ, ít ai tránh khỏi bệnh ghẻ và hắc lào. Chúng tôi từ thành phố lên điểm tựa được 1 tuần là bị ngay, ngứa gãi suốt ngày đêm. Vì thế, có hôm trên đường hành quân, gặp suối là tất cả trút bỏ tư trang, quần áo, nhảy xuống tắm tiên hàng giờ đồng hồ.
Những ngày ở đại đội đóng bên dòng sông Bắc Vọng (thuộc huyện Quảng Hòa), cứ cuối buổi chiều là các chiến sĩ lại rủ chúng tôi ra sông tắm. Dòng sông này chỉ rộng chừng 30m, đường phân thủy giữa sông là biên giới Việt - Trung. Bờ bên kia là điểm cao 302, quân Trung Quốc bố trí mấy khẩu cối 82 ly và 60 ly chĩa sang phía ta. Bộ đội ra tắm tiên, không mang theo vũ khí nên quân Trung Quốc cũng không có hành động khiêu khích gì. Một hôm tắm xong, lên bờ mặc quần áo, tôi giật mình thấy 2 con vắt bám vào người…
Thời gian này không còn những trận đánh lớn xảy ra mà chỉ có những cuộc đụng độ nhỏ trên đường biên. Các đồn biên phòng đã được củng cố và xây dựng lại bằng những căn nhà cấp 4. Nhân dân đã trở lại bản làng cũ, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Một vài đơn vị quân đội cũng vỡ đất, trồng mía, làm đường, chăn nuôi tự túc một phần thực phẩm. Các trường học đã hoạt động trở lại. Nhưng hệ thống giao thông thì hầu như bị hư hỏng nặng, nhất là đường lên huyện Bảo Lạc. Cán bộ đi từ xã lên huyện đều cuốc bộ, xuyên rừng, lội suối. Quốc lộ 4 lâu ngày không được tu sửa lại qua cuộc chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, chỉ còn là con đường đá lởm chởm. Hôm chúng tôi đi từ sư đoàn xuống trung đoàn bằng chiếc xe mô tô ba bánh mà thấy khiếp mãi bởi đèo dốc vòng vèo và những cú xóc nảy người, nhiều lúc cảm thấy xe sắp bay xuống vực. Trâu ngựa hai bên đường thấy xe là tung vó, nhảy lên chạy tán loạn.
Hè năm 1983, chiến sự lại rộ lên ở vùng Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) và Hà Tuyên (Hà Giang). Tôi đến vùng giáp ranh Lào Cai và Lai Châu. Có hôm cùng các chiến sĩ đi tuần tra đường biên, vượt những quả đồi đầy cỏ lau và đá lởm chởm; thỉnh thoảng trượt chân, cả người và ba lô cứ trôi tuồn tuột trên thảm cỏ, gặp tảng đá thì sững lại, đứng đậy đi tiếp. Lối lên các điểm tựa chỉ là vệt mòn nhỏ. Các chiến sĩ luôn nhắc tôi phải đi đúng vết chân các anh, nếu không sẽ đạp phải mìn. Tôi thắc mắc, sao lắm mìn thế thì anh em bảo rằng, để chống thám báo mò lên tập kích.
Chiến sự ác liệt và dai dẳng nhất diễn ra ở huyện Vị Xuyên (Hà Giang). Những địa danh nổi tiếng lúc đó như Làng Lò, Làng Pinh, Hang Dơi, Thung lũng gọi hồn, đồi Cô Ích, đồi Đài, Cốc Nghè, 4 hầm, ngã ba Thanh Thủy, các điểm cao 772, 685, 211… đã in đậm trong tâm khảm mỗi cán bộ chiến sĩ từng tham gia chiến đấu ở Vị Xuyên. Nhiều chiến sĩ ta đã hy sinh ở chiến trường này. Trận đánh ngày 12/7/1984, mật độ pháo địch dày đặc, bắn như vãi đạn nhiều giờ liền sang trận địa ta, gây tổn thất lớn trên điểm cao 772 khiến hàng trăm cán bộ, chiến sĩ thương vong.
Tôi chứng kiến Tiểu đoàn 10 pháo binh (Quân khu 2) sau một trận chiến đấu, hầu như bị tê liệt hoàn toàn. Con số thương vong quá nhiều, những khẩu pháo bị phá hủy, nằm chỏng chơ ngay bên đường đi. Vỏ đạn pháo 85 ly bằng đồng sáng lóa, vàng rực như những đống rơm. Những bụi sim mua xơ xác, cháy trụi, phủ một lớp bụi dày. Cả một dãy núi đá bị pháo địch cày xới nhiều lần, trơ ra một màu trắng toát lạnh người. Từ đó, bộ đội ta quen gọi nó là “Lò vôi thế kỷ”.
Sau thiệt hại nặng ở Vị Xuyên, những nghĩa trang liệt sĩ cứ mở rộng dần ra, tinh thần bộ đội ta có phần nao núng. Các sư đoàn chủ lực chuyển sang hình thức luân phiên chiến đấu. Những đơn vị ở phía sau lên thay thế để các đơn vị đã tham chiến rút về phía sau củng cố lượng lượng. Lúc này công tác động viên tư tưởng cho bộ đội rất khó khăn bởi mặt trận ác liệt Vị Xuyên chỉ cách thị xã Hà Giang vài chục cây số. Cuộc sống sinh hoạt ở thị xã đã mang không khí thanh bình; hàng quán mọc lên, cảnh làm ăn tấp nập; tối đến tiếng nhạc xập xình, đèn màu nhấp nháy. Sự đối lập giữa hy sinh và hưởng thụ chi phối từng ngày đến tâm tư chiến sĩ.
Cuộc sống của người lính chiến
Tôi ở với bộ đội đặc công của Quân khu 2 trong một hang đá. Lúc đầu, các chiến sĩ còn hái được ít rau dớn (giống như cây dương xỉ) luộc ăn thay rau. Khi không còn loại rau rừng nào nữa, anh em bắn hạ mấy buồng quả cọ xuống luộc chấm muối ăn cho đỡ xót ruột. Vì mật độ đóng quân dày đặc, chiến đấu liên tục lại ở hầm và núi đá ẩm ướt, ít được tắm giặt nên bộ đội bị ghẻ lở khá nhiều. Quần áo thời đó may bằng loại vải chất lượng kém nên cũng chóng rách hai đầu gối. Có chiến sĩ quay quần mặc phía rách ra đằng sau và nói vui là “ưu tiên phía trước”.
Cứ một vài tuần anh em mới được luân phiên ra suối Thanh Thủy tắm một lần. Được những hôm đi tắm như thế, anh em ngâm nước suối khá lâu và lấy lá rừng xát vào người chữa ghẻ. Các chị em dân bản đi làm nương về qua suối, gặp bộ đội tắm rất đông và đều trần truồng cả nên ngượng, cứ phải làm thêm, chờ nhá nhem tối mới về nhà được. Vì vậy trong chuyến lên thăm bộ đội ở Vị Xuyên, chị Nguyễn Thị Hằng, lúc đó là Bí thư Trung ương Đoàn đã nói vui với các chiến sĩ rằng: “Tôi chúc các đồng chí khỏe, không ghẻ và tắm phải có quần đùi”.
Một hôm ở Sở chỉ huy tiền phương Quân khu 2, tôi được Thiếu tướng Phạm Hồng Cư và Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết, sáng sớm mai sẽ có trận pháo kích rất lớn của ta từ Thanh Thủy nã sang điểm cao 1509, cụm phòng thủ lớn của quân Trung Quốc. Trận địa pháo được bố trí ở sân bay Phong Quang (do Pháp làm trước đây đã bỏ hoang). Tôi có nhiệm vụ nấp trong chiếc hầm đơn sơ ở giữa sân bay, cũng là giữa hai làn pháo đấu nhau để tường thuật trận pháo kích ấy. Đêm trăng sáng. Sân bay Phong Quang là một thung lũng có cây rừng lúp xúp, dài khoảng hơn 1km. Những khẩu pháo giả nghi binh bằng ống tre, đường kính 8 cm đã được bố trí. Khi pháo thật ở phía sau bắn thì pháo giả cho nổ bộc phá tạo khói lừa địch. Dự kiến trận đánh khai hỏa vào 5 giờ sáng hôm sau. Nhưng rất tiếc, nửa đêm về sáng, mây mù kéo về dày đặc, đài quan sát không nhìn rõ mục tiêu nên đành hoãn trận đánh ấy..
Khi tiếng súng ở khu vực Vị Xuyên tạm ngưng, địch tập trung đánh đường giao thông của ta ở núi Bạc, Quản Bạ nhằm cắt đứt tuyến chi viện từ thị xã Hà Giang đi các huyện Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Bất kể loại xe nào chạy qua sườn núi Bạc đều bị pháo Trung Quốc bắn cháy. Vì đoạn đường này nằm sát biên giới lại trơ trọi giữa sườn núi đá cao nên từ bên kia biên giới, lính Trung Quốc nhìn rất rõ. Hàng chục chiếc xe các loại, có cả xe chở khách đã bị bắn cháy, lộn nhào xuống vực. Nếu qua được đoạn đường này thì lại gặp tọa độ thứ hai ở dốc Cổng Trời (từ Quản Bạ sang Yên Minh).
15 giờ chiều hôm ấy, xe chúng tôi đến núi Bạc, trời còn đang nắng gắt. Chiếc barie chắn đường có một nam dân quân chừng 45 tuổi đeo khẩu K44 đứng gác. Anh yêu cầu xe dừng lại và chờ trời tối mới được đi tiếp. Mặc dù chúng tôi trình bày lý do cần đến mặt trận gấp nhưng thái độ anh rất lạnh lùng, nguyên tắc, giữ đúng kỷ luật chiến trường. Chúng tôi đành phải chấp hành và ngồi trò chuyện với anh để “giết” cái khoảng thời gian dài 3 giờ đồng hồ chờ trời tối. Tên anh dân quân là Tẩn Dìn Phùng, quê ở ngay dưới chân núi Bạc. Xã cử một tổ 4 người thay nhau canh gác ở hai đầu đoạn đường qua núi Bạc, bảo vệ an toàn cho xe cơ giới qua lại đây.
Khi trời đã nhá nhem tối, anh mở barie cho xe chúng tôi đi. Chiếc xe com măng ca “đít vuông” cũ nát lại chở thêm một phi xăng 200 lít lắc lư, nhảy chồm chồm trên sườn núi đá. Hơi nóng từ núi đá, hơi xăng phả ra khiến bầu không khí ngột ngạt. Chúng tôi cuộn hết bạt hai bên xe lên cho thoáng và cũng để dễ quan sát; nếu có địch phục kích hoặc pháo bắn sang là có thể nhảy thật nhanh sang hai bên đường. Xe xấu, đường xóc nên đêm ấy, khi tới Quản Bạ thì chiếc xe của chúng tôi bị gãy đến nửa số thanh nhíp giảm xóc, không thể đi tiếp được nữa. Từ đấy, chúng tôi chỉ còn cuốc bộ.
Trưa hôm sau từ tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện Quản Bạ, tôi và nhà văn Đặng Văn Nhưng hành quân về xã Bạch Đích vì ở đó chiến sự đang diễn ra. Trời nắng nóng, chúng tôi phải cắt rừng núi đi theo đường chim bay. Một chiến sĩ người dân tộc Nùng khoác ba lô cùng súng đạn dẫn hai anh em đi. Cậu chiến sĩ quen luồn rừng lội suối từ nhỏ nên không tỏ ra mệt mỏi gì nhưng với hai anh em tôi thì đó là cuộc hành quân rất vất vả. Trèo qua hết dãy núi đá này sang dãy núi đất khác, cứ sau một giờ hỏi lại thì cậu chiến sĩ trẻ đều bảo sắp đến rồi. Cơn khát nước lại là một thử thách.
Nắng nóng, mang nặng lại trèo núi, băng rừng như vậy mà khát nước là cảm giác tôi chưa gặp bao giờ. Đến một vách đá có cây to và dây leo chằng chịt, tôi sáng mắt lên khi nhìn thấy một dòng nước từ kẽ đá chảy ra. Tôi gỡ ngay ba lô nhờ cậu chiến sĩ cầm giúp và ngắt một tàu lá to để hứng nước. Anh Nhưng nhắc tôi: “Chú mà uống nước rừng này là độc lắm đấy, ngã nước như chơi”. Nhưng vì cơn khát không còn chịu được, tôi vẫn uống. Tôi định ngồi nghỉ một lát nhưng cậu chiến sĩ nói ngay: “Nếu các thủ trưởng mà nghỉ nữa thì tối cũng chưa đến nơi được đâu. Mà ban đêm đi trong rừng càng khó, nhất là phải vượt qua núi”. Nói rồi cậu ta nhận mang giúp tôi chiếc máy ghi âm. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại. Nhưng cậu chiến sĩ trẻ cứ coi như không có gì, vừa đi vừa kể chuyện rôm rả bằng giọng lơ lớ.
Chừng 17 giờ thì chúng tôi vào tới xã Bạch Đích. Nhưng một không khí vắng lặng bao trùm. Đồn biên phòng đã bị tàn phá tan hoang. Phía đầu bản là kho thóc còn đang cháy dở. Có một bác nông dân người Dao đang đi tìm trâu lạc cho chúng tôi biết: bộ đội biên phòng và dân bản rút hết lên dãy núi phía trên kia rồi. Quân Trung Quốc cũng đã rút về bên kia biên giới. Thế là chúng tôi lại quay ra, tìm đường lên dãy núi, nơi có con dốc dài, nối Yên Minh sang Đồng Văn. Cán bộ và chiến sĩ biên phòng đang ở tạm trong những hốc đá. Đêm ấy chúng tôi nghỉ cùng với anh em trên dãy núi ấy.
Đêm hôm sau chúng tôi đi tiếp sang dãy núi khác, nơi dừng chân tạm của tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện Yên Minh. Đồng chí chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện bị thương vào bắp chân hôm trước, do mảnh đạn cối xuyên thủng. Vết thương đang sưng to, lên cơn sốt, chưa kịp chuyển về tuyến sau, nằm rên hừ hừ trên đám lá thông. Lát sau, một đồng chí ở bộ phận quân y đến tiêm cho mũi thuốc giảm đau. Anh có vẻ bức xúc lắm nên khi nói chuyện với chúng tôi, anh bảo: “Tôi là lính chống Mỹ, bao nhiêu năm không sao, bây giờ lại bị thương ở đây. Chờ 2 ngày rồi chưa thấy quân tiếp viện. Chẳng lẽ ngày mai tôi cho anh em rút về tuyến sau”. Rồi anh bảo chúng tôi, mỗi người tự bẻ lấy mấy cành thông, rải ra mà nằm. Đêm ấy chúng tôi ngủ ở trên đỉnh núi, có mấy cây thông ở độ cao gần 2000 mét, đúng là cảnh “màn trời, chiếu đất”.
Hôm quay trở lại Quản Bạ, chúng tôi cũng đi vào ban đêm, nhờ chiếc xe tải của một đơn vị từ Mèo Vạc về. Xe đi đêm trên núi đá cheo leo hiểm trở nhưng không được bật đèn. Chúng tôi đứng trên thùng xe để tiện quan sát và nhảy xuống đường nếu bị pháo kích hoặc thám báo tấn công. Ba lô để dưới sàn xe, đứng dạng chân chèo, hai tay bám chặt vào thành xe và buồng lái mới chống đỡ được những cú xóc và lắc. Đang căng mắt về phía trước thì bất ngờ chúng tôi thấy hai bóng đen nhảy từ ven đường ra vẫy xe. Anh chiến sĩ lái xe giật mình, ngỡ là thám báo, bật đèn pha sáng rực. Hai người đàn ông đeo ba lô, máy ảnh, đi giày da bám đầy bụi đất xin đi nhờ. Tôi nhận ra đó là anh Vũ Đạt, phóng viên báo QĐND và anh Trần Định, phóng viên báo ảnh TTXVN. Gặp chúng tôi, các anh mừng quá, đi cùng về Ban chỉ huy quân sự huyện Quản Bạ đêm hôm đó.
Hồi ấy điều kiện thông tin rất khó khăn. Các tin bài viết xong phải đến trung tâm huyện mới gửi được qua đường thư bưu điện về Hà Nội và chậm mất 1 tuần. Tin chiến sự khẩn cấp thì dùng điện thoại từ cấp sư đoàn hoặc bưu điện huyện gọi về cho anh em ở tòa soạn chép lại. Vì thế, tòa soạn muốn chỉ đạo gì cũng không thể liên lạc được ngay.
Cuối năm 1983, chúng tôi lên Mường Khương (Lào Cai). Cũng con đường độc đạo dẫn lên đến cửa khẩu Pha Long nhưng nếu gặp mưa lũ là tuyến này bị chia cắt hẳn. Dọc con đường đi qua các xã Dìn Chin, Tả Gia Khâu, Tả Ngải Chồ, Tung Trung Phố, quân Trung Quốc đặt mìn hoặc dùng B41 đánh trộm những xe cơ giới qua đây. Dân ở những địa phương này đều là người thiểu số, không biết tiếng phổ thông. Do ít được tiếp xúc với người Kinh nên thấy bộ đội qua đây, họ nhìn với ánh mắt lạ lẫm, ngơ ngác. Giống chó ở vùng này cũng rất đặc biệt, lông xù, to như con sư tử. Cứ có xe ô tô chạy qua bản là chó lao ra sủa inh ỏi, râm ran thành dây chuyền suốt dọc đường. Đêm ở đồn biên phòng Pha Long với tôi là lần đầu tiên được biết đến cái rét thấu xương như thế nào. Mấy anh em ngồi quanh bếp lửa mà phía lưng vẫn lạnh đến run người.
Tôi nhớ hôm đoàn công tác chúng tôi từ Pha Long trở ra, đang vượt qua một cái ngầm thì xe bị thổi đệm nắp máy, đứng khựng lại. 6 anh em cùng nhảy xuống cố đẩy xe về Ban chỉ huy quân sự huyện Mường Khương. Nhưng tối hôm ấy, mấy anh cán bộ ở đó băn khoăn, yêu cầu chúng tôi phải giấu kín xe chứ nếu biết có xe con ở đây, thế nào phía Trung Quốc cũng bắn pháo tầm xa sang, rất nguy hiểm. Đường miền núi, xe lại xuống cấp, quá “đát” cả nên mỗi lần lên biên giới, chúng tôi phải mượn phụ tùng, linh kiện của các đơn vị chiến đấu để về Hà Nội là chuyện thường xuyên; nhất là mượn bánh xe, đèn pha và xin xăng dầu.
Tình nghĩa quân dân nơi biên giới
Những năm tháng sống giữa vùng chiến sự, chúng tôi có nhiều dịp giao lưu với đồng bào các dân tộc thiểu số ở biên cương phía bắc. Bởi đã lâu lắm, sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, bà con mới được đón nhiều bộ đội về như thế. Núi rừng bao năm trầm lắng, nay có bộ đội về, không khí sôi động hẳn lên. Những cánh rừng hoang vắng, tưởng như chưa có dấu chân người, giờ đây đã rộn rã, ồn ào bởi những đoàn xe cơ giới các loại kéo lên. Nhiều con đường mòn đã được phá đá mở rộng thành những tuyến giao thông liên hoàn nối các làng bản, xã huyện. Bộ đội giúp dân tăng gia, sản xuất, hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh. Nhiều tập tục lạc hậu được xóa bỏ. Người dân được bộ đội dạy chữ, chữa bệnh, rời nhà từ núi cao xuống thung lũng, hạn chế du canh, du cư.
Suốt những năm tháng diễn ra cuộc chiến tranh ở biên giới phía bắc, ngoài tấn công quân sự, Trung Quốc còn triệt để lợi dụng chiến tranh tâm lý, vu cáo Việt Nam và xóa nhòa ranh giới giữa kẻ đi xâm lược với người chống xâm lược. Từ các dãy núi cao, Trung Quốc đặt những cụm loa nén công suất lớn, có điểm chúng đặt tới vài chục chiếc loa, hướng sang phía Việt Nam. Hàng ngày, các cụm loa tâm lý chiến này phát 2-4 lần. Mở đầu là bài hát Tình hữu nghị Việt Nam - Trung Hoa của Đỗ Nhuận; tiếp đó là bài nói nói xấu chế độ và các nhà lãnh đạo Việt Nam. Ngoài ra là những bài đánh vào tâm tư, tình cảm của bộ đội ta, sống xa nhà, thiếu thốn, gian khổ…
Mùa gió bấc, tiếng loa có thể phóng sâu vào phía Việt Nam đến chục cây số. Trước tình huống đó, cán bộ chính trị, tuyên huấn của các đơn vị phải tăng cường bám sát nhân dân, tuyên truyền, giải thích cho bà con không nghe và tin vào những lời lẽ xuyên tạc của địch, đoàn kết cùng bộ đội chống lại kẻ thù, bảo vệ từng tấc đất biên giới. Cục địch vận (Tổng cục chính trị) cũng bố trí những xe lưu động gắn loa, phát đi những băng ghi sẵn nội dung tuyên truyền chống quân Trung Quốc xâm lược. Tuy nhiên, do địa hình rừng núi và công suất loa của ta yếu nên không lấn át được đài địch ra rả suốt ngày.
Sau cuộc tấn công của quân Trung Quốc, cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở biên giới bị đảo lộn thời gian dài nên gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình mất hết nhà cửa, tài sản, phải sơ tán về phía sau. Có gia đình bị lính Trung Quốc giết chết gần hết. Tuy nhiên, bà con rất sẵn lòng ủng hộ, tạo điều kiện cho bộ đội chiến đấu. Nhiều gia đình đón bộ đội về ở tạm khi chưa làm kịp lán trại; nhường cả ruộng nương, vườn tược cho bộ đội làm trận địa. Các Hội mẹ chiến sĩ, các đoàn thể thường xuyên đến thăm hỏi, động viên bộ đội sau mỗi trận chiến đấu. Hội phụ nữ tỉnh Hà Giang tiêu biểu nhất trong phong trào này. Tình đoàn kết quân dân ấy đã giúp cho các đơn vị củng cố vững chắc thế trận để chống trả quân xâm lược.
Nhớ về biên cương phía bắc, tôi lại nhớ những đồi hoa sim tím, những chiến sĩ dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và nhớ tấm lòng của bà con các dân tộc ở biên giới với tình đoàn kết quân dân.
 
Bùi Đức Toàn-Nguyên PV báo QĐND
(Petrotimes)

Nhật ký mở lần thứ 78: THÁNH CHỈ THIÊN TRIỀU ĐÃ BAN! LŨ TIỂU VƯƠNG QUAN VIỆT ĐANG RA SỨC PHÁ TAN LỊCH SỬ VIỆT

Tô Hải

THÁNH CHỈ THIÊN TRIỀU ĐÃ BAN! LŨ TIỂU VƯƠNG QUAN VIỆT ĐANG RA SỨC PHÁ TAN LỊCH SỬ VIỆT

Đúng là vậy! 35 năm đã trôi qua …
Bao nỗi hờn căm, uất ức đắng cay đã bị nhà cầm quyền đảng trị bắt nhân dân ta phải quên đi, nuốt hận đi, nhất là với các gia đình có chồng con bỏ mạng dưới chủ trương giết sạch, đốt sạch …phá sạch của Đặng Tiểu Bình khi xua 60 vạn quân xâm chiếm 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam trong cái ngày 17 tháng 2/1979 không thể quên đó!
Đã 40 lần ngày 19 tháng 1 trôi qua trong câm nín ấm ức …
Và 35 lần ngày 17 tháng 2 cũng sẽ sắp phải trôi qua mà con cháu chúng ta sẽ không thể biết đó là ngày quốc nhục ngàn đời, ….
Mình chả phải là nhà nhận định tình hình chính trị quốc tế gì bén gót ông Carl Thayer.
Mình cũng chẳng có cái đầu và trái tim của mấy ông giáo sư /tiến sỹ của Đảng họ, thỉnh thoảng…”thò ra thụt vào” một vài ý kiến ra cái đều cần ”sòng phẳng với lịch sử” khi không quên những gì ta đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc nhưng….cũng không nên đào sâu sự hận thù với các đồng chí…bố(n) tốt của họ (!? ), hoặc nhốt mọi nỗi hận thù vào trong những …”hội thảo khoa học” công khai một cách cực kỳ hạn chế!
Gần đây, nắm chắc là nhà cầm quyền sẽ cấm tiệt đả động tới những ngày nhậy cảm nói trên, g/s Vũ Minh Giang đã dọn đường cho những ai muốn làm to chuyện vụ ”nhận một bài học thật đắt giá” của quân và dân 6 tỉnh biên giới ngày 17 tháng 2 tới đây là, ”không làm to thì làm nhỏ” giữa các nhà khoa học với nhau trong một hội thảo khoa học mà chẳng sợ vi phạm những gì đã hứa với thiên triều! Tất nhiên là có sự chỉ đạo của những nhà khoa học hàng đầu của các ”viện hàn (xì) lâm” phụ trách ný nuận của đảng họ! Không cho phép mấy tay nhân sỹ trí thức biến chất, ”học nhiều quá hóa khùng”, chưa đến ngày 17 tháng 2 đã tung lên mạng những bài viết, những hình ảnh ”không có lợi” cho tình đồng chí mà Đảng họ đã cố gắng nối lại kể từ ngày các bậc đàn anh họ đã phải cúi đầu tạ tội với đấng sinh thành ra họ sau khi đã bị vụt cho bao nhiêu cú roi tóe máu đít ở Thành Đô tháng 9/1990 năm nào!
Với con mắt, cái đầu và trái tim một em học sinh cấp 1, mình cũng thừa sức để thấy được:
TẤT CẢ ĐỀU DO CÓ THÁNH CHỈ BÊN THIÊN TRIỀU BAN RA!
Chả thế mà…
Chưa đến hai tuần khi đại diện cho một nhóm quyền lực vừa đưa ra ý kiến ”phải đưa những sự kiện Hoàng Sa, Trường Sa”…. vào giáo trình lịch sử cho con em, phải tổ chức kỷ niệm tất cả những ai đã hy sinh vì bảo vệ chủ quyền cả đất nước….
Chả thế mà…
Sau một tuần, như những lò hơi được mở xúp páp, hơn 700 tờ báo và gần 100 cái đai, Tivi không ngớt hoan ca đồng nhất gọi bọn ”ngụy quân-ngụy quyền” bằng cái tên Việt Nam Cộng Hòa, đưa ảnh những người đã hy sinh tại Hoàng Sa và vợ con họ lên trang đầu của các mặt báo, trên màn ảnh nhỏ …thì trước ngày kỷ niệm 2 ngày bỗng dưng đồng loạt tắt tiếng, câm họng cả lũ!
Tất cả diễn biến đột ngột chỉ sau ”cú điện đàm nóng” giữa 2 người đứng đầu 2 nước ”vừa là kẻ thù vừa là anh em” vào ngày 16/1/2013 nhân dịp chúc nhau cái gì gì đó nhân dịp này dịp nọ thì không rõ nhưng rõ nhất là ngay sau đêm đó: CẤM TIỆT MỌI KỶ NIỆM, TƯỞNG NHỚ, THẮP NẾN, ĐỐT NHANG VỀ SỰ KIỆN HOÀNG SA ĐÃ ĐƯỢC MẶC NHIÊN TRỞ VỀ VỚI ĐẤT MẸ TRUNG QUỐC! (có giấy tờ công nhận của nhà cầm quyền Việt Nam!)
Mặc kệ cho cả thế giới ngạc nhiên! Mặc kệ cho dân trong nước uất hận dâng trào! Mặc kệ cho các nhà trí thức bi nhỡ tầu giữa Đà Nẵng phải bật khóc,! Đối với bọn họ: thì….Tất cả chỉ có một con đường: Còn Tầu còn mình/ Còn Tập Cận Bình, còn vương triều Sang Trọng Hùng Dũng….!
Bất kể một hành động nào không làm vừa lòng các đồng chí 4 tốt của bọn họ đều là đồ…thoái hóa, đồ….phản động!
Mình cũng chú ý đến sự hèn hạ, phủ nhận lịch sử để tránh làm phiền lòng mấy ông bố(n) tốt”của họ gần đây nhất:
Ngày mồng 5 tết vừa qua, lễ hội Đống Đa giữa thủ đô Thăng Long xưa,
Ngày mồng 6 lễ hội Hai Bà tại quận Mê Linh nay cũng đã nhập về Hà Nội, …
Không có một bóng vía nào của bọn cầm quyền, một cấp ủy nào từ cấp Trung Ương, thành phố đến Quận, Phường dám ló mặt ra vì sợ phải phát biểu đôi lời! Nhỡ chẳng may lỡ lời thì ..mất ghế như chơi!
Kỷ niệm nhũng anh hùng dân tộc mà chỉ còn là mấy anh chị khăn đỏ, áo xanh rước kiệu trống không; chẳng có bài vị ai, đi loanh quanh rồi kết thúc ở những trò chọi gà, sới vật, cờ tướng, cờ người! …
Trái lại nhờ có Internet, nhờ có những cây viết không thể dễ bị bịt mồm ["Phút bi tráng ở Pò Hèn" by Ngọc Uyên - Một Thế Giới, Chiều thứ Tư 12/2/2014] đã lên tiếng rất sớm về cái ngày cấm tuyên truyền này để con cháu được biết về một sự thật lịch sử viết hoa đã bị đã bị cả Thiên Triều lẫn lũ thái thú cấm nói tới (*)
Kể cả đánh du kích chỉ được có 8 tiếng đồng hồ lên mạng đã phải vâng lệnh gỡ bỏ!
Nhưng không thể nào ngăn cấm được nó lan tỏa trong nhân dân với những bằng chứng có tên người, tên núi, tên sông, tên làng cụ thể ……
Mình bỗng nhớ ra cách đây 5 năm, (2/2009) mình đã dám liều mạng đưa ra một loạt các tư liệu, nhân chứng, vật chứng về sự kiện đại hèn quốc sỉ khi ”cấm kỷ niệm những ngày bi hùng chiến thắng quân xâm lược Trung Quốc”
Những chữ, cụm từ chính do các bậc đàn anh họ đưa ra cho toàn dân học tập cho văn nghệ sỹ sáng tác (ảnh) ….Thế mà chỉ sau Thành Đô, một số những Lê chiêu Thống, Trần Ích Tắc… đàn anh đã cùng bọn hậu sinh chúng đã trơ mặt chó liếm sạch những gì các bậc tiền bối của chúng đã khạc ra và cố tình đẩy toàn dân ta vào quên lãng trước nỗi nhục ngàn đời này (ảnh dưới)
vẫn còn đây ảnh chụp tờ báo Nhân Dân 20.3.1979 chửi Tầu (thật là quang vinh của đảng ta: “Bãi đờm và máu nhổ ra rồi lại liếm vào như không”)
mồ liệt sỹ Việt là như thế này đây
dấu tích còn đây, chối bỏ sao đặng?
nghĩa trang liệt sỹ Tầu mới xây hoàng tráng 27 tỷ !
Tự nhận thấy, 5 năm đã qua, nhưng những gì mình đã nói, dám nói đến hôm nay vẫn nguyên giá trị lên án bọn bán nước cầu ngai vàng này .
Hơn thế nữa, sức khỏe và trí nhớ ngày hôm nay không thể sao bằng cách đây 5 năm nữa rồi .
Vì vậy, mình post lại bài này để các bạn mới làm quen với mình, đặc biệt là các bạn trẻ thông cảm dùm:
1- Mình đã cố gắng tối đa, thậm chí hy sinh tất cả để làm được một vài điều có lợi cho đất nước đặc biệt là giải tỏa cho bằng được cái vòng kim cô ”Dối Trá là hàng đầu” của những người tự gọi là cộng sản bằng cách đưa ra những Sự Thật Lịch Sử mà mình là nhân chứng!
2- Đọc lại những gì mình viết cách đây hơn 6 năm trời, mình cảm thấy hơi bị, …ngán ngẩm vì hình như …mọi sự càng ngày càng diễn ra tồi tệ: Lịch sử càng bị chôn vùi, xuyên tạc, bịa đặt trâng tráo như những ngôi đền thờ mọc lên khắp nơi để con cháu chúng ta phải thờ những cái tên cha căng, chú kiếc nào làm anh hùng của đất nước mình! Trong khi đó thì 17.000 liệt sỹ Vị Xuyên thì nhà cầm quyền cấm được nói đến, cấm thăm hỏi …(ảnh trên) .
Vì đâu nên nỗi? Hỡi các bạn trẻ của tôi?
Các bạn phải vuợt lên mọi sự sợ hãi để làm cái gì hơn lớp già ”quá đát” chúng tôi chứ?
Và đây một bài viết cách đây 5 năm nhưng rất nhiều bằng chứng mà chính người viết hôm nay đọc lại cũng tự thấy không sao viết nổi nữa:

17 tháng 2 ngày dzì dzậy?

Ngày 17 tháng 2/2009

Tô Hải

Từ sáng sớm tớ đã vào mạng… Đọc lướt qua các đầu đề các bài viết trên những tờ báo “nhớn” ra ngày 17 tháng 2/2009…Thất vọng! Bấm máy cho các “lão đồng chí” xưa gồm 3 ông đại tá, một ông trung tá đã về hưu từ thời bao cấp… Hỏi: Có biết hôm nay là ngày gì không? Cả ba đều trả lời: -Không nhớ!… Không biết!… Cúp máy. Gọi thẳng cho mấy ông có nhiều thành tích, có ít hay nhiều điều kiện dính líu tới sự kiện ngày 17 tháng 2 này! Đạo diễn Đặng Nhật Minh, tác giả “Thị xã trong tầm tay” …

Không ai bắt máy! Quay sang đạo diễn Nam Hà, Trưởng đoàn quay phim phóng sự về những ngày 12/2/1979 tới 6 tháng 3 /1979 (theo bài “kể chuyện cũ” của anh trên Blog-đã “treo” Linh Gia) …
Hỏi: -Mày còn nhớ ngày 17 tháng 2 là ngày gì không?
Sau một hồi ú ớ… trả lời: -Ngày gì? Sinh nhật ông à?
- Của khỉ! Lú lẫn hết rồi à? Ngày mày xuýt chết cùng Takano trên Lạng Sơn, quên dễ thế à?
- À, à, ừ, ừ, nhớ chứ, nhớ chứ nhưng nhớ mà làm gì thêm tổ… bực mình khi “người ta” đã muốn chúng ta phải quên đi!…
-
Thế rồi anh kể một lô, một lốc những chuyện cũ, những đơn vị, những con người, những địa điểm, những tên đồi có đánh số, điểm cao nào có hai đại đội đã hy sinh gần hết… mà suốt thời gian đi làm phóng sự tại chỗ, anh đã thoát hiểm để có được những thước phim, phát trên Tivi tố cáo “tội ác trời không dung đất không tha của quân bành trướng Trung Quốc”… được vài lần rồi… xếp kho.
-
Chỉ tiếc rằng hôm nay anh đã treo Blog vì nhiều lý do “tế nhị” nên không thể công khai nó bằng các entries khá hấp dẫn năm xưa… Và rồi, công việc kéo anh đi, người đời không còn ai để ý, anh cũng quên luôn như quên những năm tháng làm khẩu đội trưởng pháo của F367, đánh Điện Biên năm nào mặc cho những thằng một ngày có măt tại Điện Biên cũng không ,hôm nay cứ đi khắp nơi báo cáo…phét !!
-
Thật buồn!… Tôi còn được giới thiệu số điện của nguyên Đại Tá Sư đoàn 346 (thời đó còn gọi là sư 3), đơn vị có nhiều “thành tích chiến thắng” quân Tàu khựa để làm một cuộc phỏng vấn không tiền khoáng hậu… chắc sẽ có nhiều chuyện hay ho hơn. Nhưng tính tớ không ưa ca ngợi chiến tích mà chỉ thích nhìn rõ cái mặt trái của chiến tích chứ không khuếch trương chiến thắng trên thây xác của cả 1.000 đồng đội của mình ! Chán cái tay sư trưởng này vì chẳng biết gì hơn là hắn đã bắt được cả lũ tù binh Tầu…chưa biết bắn súng !Thế là tớ quay sang đọc các trang mạng khác. May quá! Không ít những bài nói về cuộc chiến giữa ta và người “VỪA LÀ ĐỒNG CHÍ VỪA LÀ ANH EM NÀY”.
-
Đáng kể nhất là những bài của những con người trực tiếp nếm mùi “bài học” tại chỗ của chú Đặng, kẻ đã lên Tivi chửi các cấp lãnh đạo nước ta là “Đồ côn đồ (nguyên văn Hooligan) cần phải dạy cho chúng một bài học” (tài liệu của ông Dương Danh Dy, bí thư thứ nhất Đại Sứ Quán VN tại Bắc Kinh thời đó, đã nghe “được”nguyên văn và tại chỗ cả câu này).
Và ngay sớm hôm sau, ngày12/2/1979, Đặng đã xua 20 sư đoàn xâm chiếm, tàn phá, đốt hết, giết hết 6 tỉnh biên giới nước ta…, lộ nguyên mặt bành trướng… coi thường dân tộc Việt Nam.
-
Tớ cũng được biết thêm, qua những bài viết của các tác giả Trung Điền, Lương Sỹ Cầm, Trương Nhân Tuấn, Huy Đức, Nguyễn Hữu Vinh, Phạm Hồng Sơn, Trần Anh Kim…, những lời phát biểu của các nhân vật danh tiếng một thời như nguyên thứ trưởng ngoại giao, ủy viên Trung Ương Đảng, nay đã hết thời, Trần quang Cơ, … những con người mà theo tớ, không thể là những “phần tử xấu” muốn phá hoại “16 chữ vàng” của hai Đảng Cộng Sản “thắm tình hữu nghị truyền thống lâu đời” được.
Tớ cũng được xem ảnh “Nghĩa trang Vị Xuyên”, nhìn rõ những tấm bia mộ của 1600 chiến sỹ hy sinh vì cuộc chiến ngắn ngủi nhưng nhiều người bị giết hại nhất. Tớ cũng được nghe những lời phỏng vấn các bà mẹ như Hoàng Thị Lịch, 72 tuổi, đang còn là nhân chứng sống cho cuộc tàn sát đẫm máu tại thôn Tung Tháp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An- Cao Bằng. Ở đó: 43 người bị giết chết một cách thảm thương trong đó 21 phụ nữ (7 người đang có mang) và 20 trẻ em. Tất cả đều bị chặt bằng dao kiếm thành nhiều khúc rồi vứt xuông giếng và, khi đã quá đầy, chúng bèn vứt rải rác các mảnh xác người khắp hai bờ suối quanh làng…
-
Cũng được nghe chính ông Lương Đức Toa, bí thư chi bộ xã này thời đó nay còn sống (người đã tự tay mình vớt từng mảnh xác đồng bào mình từ giếng lên), giắt một Blogger có tên tuổi đi thăm lại cái “giếng căm thù ngày xưa”, nay đã bị bỏ hoang, cây cỏ mọc rậm rịt che hết lối vào…
Và các ông Quế, mẹ Dự… những người có con là tự vệ công nhân đường sắt đã hy sinh ngay trong trận đầu khi ngăn chặn bước tiến của các “đồng chí bốn tốt” từ phương bắc tràn vào…, nói lên nỗi căm hờn kẻ thù truyền thống, … về nỗi oan ức của họ khi không được nhận bất cứ một danh hiệu “chiến sỹ thi đua” hay “anh hùng diệt giặc”…Tầu nào!
Và càng đắng cay hơn, khi đến ngày kỷ niệm “chiến thắng biên giới” như thường thấy trước khi “bình thường hóa quan hệ”, người ta đã lờ tịt đi tất cả, coi như không hề có cái cuộc chiến này bao giờ! ? Tớ càng thấy xấu hổ khi đọc trên mạng, thấy các “đồng chí-anh em” vẫn dương dương tự đắc cho là cuộc chiến biên giới năm 79, là họ đã “chiến thắng”, là họ chỉ cốt “dạy cho bọn côn đồ Việt Nam một bàì học” chứ nếu muốn, họ có thể “buổi sáng ăn cơm ở Lạng Sơn, buổi trưa ăn cơm ở… Hà Nội”.!
Mặc dầu họ cũng công nhận là cái giá của sự “chiến thắng” của họ là: 6000 người chết và 21000 bị thương (“10 năm chiến tranh Trung Việt” – nhà xuất bản đại học Tứ Xuyên, tác giả Lý Tôn Bảo) … Còn nhiều hình ảnh và bài viết trên các mạng đáng tin cậy. Tiếc thay, tất cả những bài viết tâm huyết đó chỉ được đăng, phát trên các đài, báo viết và báo mạng của… nước ngoài vì các tác giả đáng kính đó thừa biết là chẳng có ông Tổng Biên nào dám duyệt đăng, dù chỉ là cái tít, nếu không muốn mất chức tức thì! (trừ tờ báo mạng của “Saigon Tiếp Thị” dám đưa lên mạng bài của Huy Đức nhưng vẻn vẹn có 2 tiếng đã lập tức có lệnh phải “bóc ngay”.
-
Cũng may là cả trăm tờ báo mạng khác đã kịp post lại, giúp cho những người như tớ, tranh thủ viết ngay những suy nghĩ của cá nhân mình về “cuộc chiến thứ ba bị bỏ quên” này! Nhưng thôi! Càng đọc nhiều, tớ càng thấy thêm buồn bực vì cái sự “im hơi lặng tiếng đáng xấu hổ” của hơn 700 tờ báo và gần 100 đài phát thanh truyền hình đã bị dán băng keo vào miệng một cách trắng trợn.
Để kết luận cho bài này tớ chỉ xin nhắc một ý của ông Dương Danh Dy khi đã về hưu gặp nguyên cố vấn Võ Văn Kiệt năm 2001 (lúc quan hệ hai bên đã được “bình thường hóa”. Ông Kiệt nói với ông Hy bằng một câu ngắn gọn nhưng “hơi bị sáng suốt”: “Cẩn thận! mỗi khi có kí kết gì với “họ” là họ đều có “giăng bẫy” cả đấy!” ….
Cái “bẫy” đó rõ ràng hôm nay đã được giăng ra tới tận Cà Mau và nhất là gần đây, tại vùng Tây Nguyên với kế hoạch khai thác Bô-xit mà “tiền trạm” của người láng giềng 4 tốt đã có mặt đầy đủ như một đơn vị đặc nhiệm với tăng, bạt, đội bảo vệ… và các phương tiện truyền tin hiện đại. Có thật đây là một chuyện “tự nguyện mắc bẫy” ? Hay chính là âm mưu bán rẻ cả đất nước của tổ tiên,đã đổ bao xương máu để gìn giũ từng tấc đất cho con Lạc cháu Hồng !?
18/02/2009
Năm năm sau, ….Trung Quốc đã hoàn toàn thuần hóa bọn Việt Nam “vô ơn bạc nghĩa”.
Tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống, ….đã gần như lệ thuộc vào Bắc Kinh ….và công khai hứa với Bắc Kinh “không ăn ở hai lòng”
Tất cả những tư tưởng, lời nói hành động chống Trung Quốc đều bị đàn áp, bắt bớ, tù tội…
Thỉnh thoảng có một vài cá nhân hoặc nhóm lợi ích nào muốn chiếm tí ti lòng dân, vùa mới có vài tuyên bố có vẻ… “đổi mới thể chế” thì lập tức cả một bô máy khổng lồ truyền thông cùng súng đạn, nhà tù vào cuộc, buộc phải câm họng!
Từ biên giới phía Bắc tới Cà Mâu, đâu đâu cũng thấy đủ thành phần người Tầu, Khắp các tỉnh đều có những phố Tầu ….Nhà máy Alumin không bán được cho ai đã đi vào sản xuất theo “chủ trương lớn của Bộ Chính Trị”! 10 sư đoàn Tầu đã nằm sẵn ngay trong lòng mẹ Việt!
Gần đây nhất lại có tin: Nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc đã lên tới 20 tỷ đô-la?! Và theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành thì với 1000 tỉ đô-la (bằng số tiền cho Mỹ vay) Trung Quốc có thể mua đứt nước Việt Nam bằng con đường kinh tế mà chẳng cần gây hấn ngoài biển Đông, trên biên giới hay hải đảo gì xất!?!?
Có thể nào tồi tệ đến thế chăng? Và nếu đó là sự việc “có thể” thì ngày đó có lẽ không còn xa nếu nước Việt Nam cứ tiếp tục bị cai trị bởi những kẻ đã cam tâm cúi đầu tuân lệnh Thiên Triều để tồn tại?
Bao giờ? Cho đến bao giờ dân Việt Nam mới biến nỗi uất ức hờn căm này thành sức mạnh đạp đổ tất cả những tên bạo chúa bắt triệu triệu dân lành phải quì mọp dưới chân của bọn thiên triều đại đế để bảo vệ cả một tập đoàn thái thú tội lỗi tầy trời với nhân dân đây?

(*) Bài viết “Phút bi tráng ở Pò Hèn” 17.2.1979 [by Ngọc Uyên - Một Thế Giới - 12/2/2014] hết sức cảm động này, sau có 8 tiếng đã có lệnh “phải bóc ngay” nhưng vẫn có nhiều người copy kịp, các friend có thể vào đây để đọc

'Việt Nam đã học được bài học cảnh giác'

Việt Nam đã học được bài học về sự 'cảnh giác' từ cuộc chiến biên giới Trung - Việt diễn ra tròn 35 năm về trước, theo nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam.

Cuộc chiến tranh Biên giới phía Bắc 1979 giữa Việt Nam và TQ tròn 35 năm.
Bài học này là việc Việt Nam phải luôn luôn 'sẵn sàng' và chuẩn bị về nội lực để đối phó với bất cứ ai miệng nói lời 'tốt đẹp' nhưng lại có thể sẵn sàng 'chĩa súng', 'chĩa bom đạn' vào Việt Nam, theo Giáo sư Trần Đức Cường, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam từ Hà Nội.

Theo sử gia này, Trung Quốc đã hoàn toàn sai trái khi xua quân đội xâm lược Việt Nam vào ngày 17/2/1979 và Việt Nam đã chiến thắng khi bảo vệ được cương thổ của mình và các lập luận cho rằng Trung Quốc chỉ tiến hành cuộc chiến tranh tự vệ hay phản vệ đều là sai trái.

Nhân dịp này, nhà sử học cũng chia sẻ những quan điểm mang tính chất tư vấn về giải pháp mà theo ông Việt Nam cần thực hiện nhằm bảo vệ và giữ vững chủ quyền, độc lập và an ninh lãnh thổ, từ phía tăng cường nội lực cũng như nghiên cứu tận dụng các lực lượng ủng hộ từ môi trường quốc tế và khu vực.




Bài học qua cuộc chiến đấu ấy là chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng ở trong một tư thế như thế nào đó để cho đất nước được giàu mạnh, để sẵn sàng đối phó với bất kỳ một người nào có thể nói những lời tốt đẹp, nhưng họ lại sẵn sàng chĩa bom đạn, chĩa mũi súng vào đất nước chúng ta"

GS. Trần Đức Cường
Trước hết, nhìn lại tuyên bố 'dạy cho Việt Nam một bài học' của cố lãnh đạo Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình trong cuộc chiến Việt - Trung năm 1979 và bài học mà Việt Nam có thể rút ra sau tròn 35 năm cuộc xung đột, Giáo sư Cường nói:

"Tôi không nghĩ là ông ấy dạy cho Việt Nam một bài học, bởi vì người Việt Nam chúng ta có tấn công vào đất nước của ông ta đâu, mà ông ta rõ ràng là có một hành động xâm lược vào lãnh thổ quốc gia của Việt Nam,

"Còn nói về bài học, thì riêng cá nhân tôi, tôi cũng rút ra được một bài học qua cuộc chiến đấu ấy là chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng ở trong một tư thế như thế nào đó để cho đất nước được giàu mạnh,

"Để sẵn sàng đối phó với bất kỳ một người nào có thể nói những lời tốt đẹp, nhưng họ lại sẵn sàng chĩa bom đạn, chĩa mũi súng vào đất nước chúng ta, có lẽ đối với chúng ta thì đấy cũng là một bài học."

'Sẽ kỷ niệm hay không?'

Bấm vào để nghe bài tường thuật
Mặc dù cho rằng cuộc chiến tranh biên giới 1979 do Trung Quốc phát động là một hành động xâm lược nhắm vào Việt Nam và rằng lịch sử cần phải được thể hiện một cách trung thực và toàn diện, Giáo sư Cường cho hay Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trong đợt 17/2/2014 sẽ không tổ chức bất cứ hoạt động kỷ niệm, hoặc đánh dấu chính thức nào.

Ông Cường nói:

"Vì hiện nay chưa có điều kiện để tổ chức một hình thức tưởng niệm nào riêng của Hội Khoa học Lịch sử, chúng tôi động viên các Hội viên của mình tham gia trực tiếp vào các nơi, các địa phương, hoặc các lĩnh vực công tác mà họ đang đảm nhiệm."

Phát biểu này của Giáo sư Cường trên tư cách của đại diện ban lãnh đạo Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam dường như có sự khác biệt nhất định với phát biểu của một thành viên cao cấp khác trong cùng Hội sử này.

Hôm 11/2, Giáo sư Bấm Vũ Minh Giang, nguyên thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nói với tờ Lao Động, Hội Khoa học lịch sử sẽ tổ chức đánh dấu sự kiện chiến tranh Biên giới phía Bắc.




Lễ tưởng niệm dự kiến sẽ được tổ chức gắn với một hội thảo khoa học về đề tài này. Sự kiện này chúng ta chưa tổ chức bao giờ, nên đây sẽ là lần đầu tiên. Vì vậy, chúng tôi dự kiến không trọng quy mô, mà trọng chiều sâu, nêu đúng bản chất của vấn đề. Chủ trương của Hội Sử học là dứt khoát phải thể hiện quan điểm"

GS Vũ Minh Giang nói với tờ Lao Động
"Lễ tưởng niệm dự kiến sẽ được tổ chức gắn với một hội thảo khoa học về đề tài này," ông Giang được tờ báo của Việt Nam trích thuật nói.

"Sự kiện này chúng ta chưa tổ chức bao giờ, nên đây sẽ là lần đầu tiên.

"Vì vậy, chúng tôi dự kiến không trọng quy mô, mà trọng chiều sâu, nêu đúng bản chất của vấn đề. Chủ trương của Hội Sử học là dứt khoát phải thể hiện quan điểm."
'Làm bộ quốc sử'

Hôm thứ Sáu, Giáo sư Cường, cho BBC hay Hội sử học đang đảm nhiệm một công trình sử học quy mô về lịch sử qua các thời đại, trong đó ở giai đoạn sử cận hiện đại, các cuộc chiến tranh như Biên giới phía Bắc 1979, biên giới Tây Nam 1979 và các cuộc xung đột vũ trang trên Biển Đông, như Hoàng Sa, Trường Sa v.v... sẽ được phản ánh.

Ông Cường nói:

Tàu sân bay của Trung Quốc gần đây được điều tới khu vực Biển Đông.
"Hội khoa học lịch sử vừa qua được giao cho việc xây dựng một đề án để biên soạn một bộ lịch sử Việt Nam nhiều tập mà chúng tôi dự kiến là 24 tập và tập hợp đội ngũ các nhà sử học ở tất cả các vùng miền, cũng như các cơ sở nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các trường đại học và cũng tính đến mời các nhà sử học ở nước ngoài cùng tham gia,

"Trong đó chúng tôi cũng nói rõ rằng để phản ánh trung thực lịch sử của dân tộc ta, trong đó khi chúng tôi thảo luận, chúng tôi cũng nói về cuộc chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc, phía Tây Nam cũng như các vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, thì chúng tôi cũng sẽ đưa vào công trình này."

Sử gia nói thêm rằng Hội sử học VN cũng đã có những kiến nghị đưa các cuộc chiến tranh và xung đột này vào hệ thống sách giáo khoa và cho biết mục đích của việc này.

Ông nói:

"Trong thời gian vừa qua, chúng tôi đã có những đề nghị với các cơ quan có trách nhiệm có những hình thức phù hợp để kỷ niệm trận chiến đấu này, cái đó là với những người đã hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ biên giới, biên cương của Tổ quốc như là nhiều trăm năm trước, hàng nghìn năm trước, ông cha ta đã làm, đã thực hiện,




Chúng ta phải hết sức cảnh giác, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất, còn họ làm hay không, cái đó tùy thuộc vào cuộc đấu tranh của nhân dân VN, và cũng như là thái độ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới"

GS Trần Đức Cường
"Và cũng đã có những hình thức nhất định ở trong giới có những hình thức nghiên cứu, đồng thời cũng đề xuất những vấn đề như vậy, kể cả Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Tây Nam, thì cũng đưa vào sách giáo khoa, để giáo dục cho những thế hệ người VN trẻ tuổi thấy được xương máu mà ông cha, các thế hệ kế tiếp nhau đã đổ ra để bảo vệ lãnh thổ."

'Nếu TQ hung hăng hơn?'

"Nhân dịp này, Giáo sư Cường đưa ra quan sát của ông về các động thái gần đây của Trung Quốc ở khu vực và trên Biển Đông, nhất là sau các sự kiện quy định bản đồ "đường lưỡi bò" trên Biển Đông, mở "vùng thông báo bay" mới ở Biển Hoa Đông, thông báo quy định về vùng cấm đánh cá ở Biển Đông gần đây...

Ông Cường nêu quan điểm trong trường hợp Trung Quốc tỏ ra 'hung hăng' hơn trên Biển Đông, ông nói:

"Chúng ta phải hết sức cảnh giác, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất, còn họ làm hay không, cái đó tùy thuộc vào cuộc đấu tranh của nhân dân, và cũng như là thái độ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới,

"Chứ không phải thời buổi này là thời kỳ của chính sách pháo hạm của các nước thực dân như cách đây vài thế kỷ."

Sử gia cho rằng nhà nước thời nào cũng cần phải 'cấu kết được lòng dân' để chống ngoại xâm hữu hiệu.
Theo sử gia, trong lúc cân nhắc khả năng cụ thể có nên có các quan hệ đồng minh hay không, bên cạnh việc phát huy nội lực, Việt Nam cũng cần quan tâm tới phối hợp với các quốc gia Đông Nam Á (Asean) để củng cố an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước khả năng Trung Quốc lấn tới ở khu vực.

Ông nói: "Ngoài nội lực, thì chúng ta cũng phải dựa vào sức mạnh của khối đoàn kết của các nước Asean và Việt Nam hết sức có nhiều cố gắng để có được mối quan tâm, cũng như các mối liên kết ấy là một, và thứ hai, chúng ta có mối quan hệ với gần hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước lớn, các nước có vai trò vị trí..."

Theo sử gia, các mối quan hệ này cũng có vai trò 'ràng buộc' đối với các bên liên quan, bởi vì nếu Trung Quốc tuyên bố "vùng cấm bay trên Biển Đông", thì vấn đề sẽ không "liên quan đến một mình Việt Nam."

Trả lời câu hỏi nhà nước Việt Nam từ góc độ đối nội liên quan tới quốc phòng, cần làm gì để tận dụng được lòng yêu nước của người dân, Giáo sư Cường nói:

"Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, luôn luôn phải cấu kết được lòng dân, và cái này thì nhà nước cũng như các tổ chức chính trị, xã hội khác cũng phải hết sức tham gia cùng với nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc," sử gia nói với BBC.
Theo BBC

Tác dụng của những bài học mà các đồng chí Trung Quốc dạy các đồng chí ta

Một lần được nghe sư phụ Thích Chơn Quang giảng hẳn về quan hệ Việt-Trung, tui mới té ngửa ra rằng Trung-Việt là anh em (khi nói câu này, giọng sư phụ nghe xúc động lắm!) Và được sư phụ giảng cho thấy hành động của Lý Thường Kiệt tiến đánh Lưỡng Quảng là “hỗn láo”. Ngẫm lại, tui thấy lời dạy của Thày quả trùng khớp với quan điểm của các đồng chí lãnh đạo ta!
Vào những năm 1975-1978, VN ta đã từng có những hành động hỗn láo với Thiên Triều. Đến mức đồng chí Đặng Tỉu Bềnh bấy giờ đã tuyên bố phải “dạy cho VN một bài học”. Và nói sao làm vậy, ngày 17 tháng 2 năm 1979, đồng chí đã xua hàng chục vạn quân, tinh nhuệ có, ô hợp có, tràn qua biên giới xuống nước ta. Để tỏ thái độ một cách rõ ràng, quân TQ đã thẳng tay tàn sát hàng vạn dân thường. Đúng ra thì lúc đó phía ta phải tạ tội với bậc đàn anh, nhưng lại tiếp tục hỗn láo, cố chống lại, giết hàng vạn “tên xâm lược bành trướng bắc kinh”, làm các đồng chí đàn anh tuy rút quân sau vài tháng nhưng vẫn còn tức tối.

Từ năm 1984 đến 1989, đàn anh Đại Hán tiếp tục trừng phạt VN. Vài ví dụ: Tháng 4 năm 1984, TQ đánh chiếm ngọn núi 1509 (Núi Đất) thuộc địa phận Hà Giang. Tháng 3 năm 1988 xảy ra cuộc chiến đẫm máu tại đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa… Để bài học tăng thêm sức răn đe, các đồng chí đàn anh chiếm dần đất đai và các đảo ngoài biển Đông. (Chứ chẳng lẽ dọa chơi để sau lại đâu vô đấy à?)
Việc dạy dỗ của các đồng chí đàn anh đã có tác dụng rõ rệt.
Ngày 3 tháng 9 năm 1990, đồng chí Nguyễn Văn Linh tổng bí thư đã dẫn đầu đoàn đại biểu ĐCSVN, trong đó có cố vấn Phạm Văn Đồng, sang dự Hội Nghị Thành Đô lịch sử. Kể từ ngày đó, các đồng chí ta đã đặt VN dưới sự bảo trợ của đàn anh TQ. Các đồng chí ta vĩnh viễn không bao giờ phải lo về vấn đề an ninh nữa. Nếu một số tầng lớp dân đen nghe theo sự xúi giục của các thế lực thù địch mà dám ho he nổi dậy thì đã có các bậc đàn anh lo đem quân sang đè bẹp, giống như Liên Xô làm ngày xưa ở Hung Gia Lợi hay Tiệp Khắc (trừ khi chính ở Thiên Triều cũng có hỗn loạn.) Nhìn tấm hình chụp các đồng chí ta với các đồng chí đàn anh mà mát lòng mát ruột: đồng chí Giang Trạch Dân đứng chính giữa hàng đầu, được vinh dự đứng sát hai bên là đồng chí Lý Bằng và đồng chí Linh của ta, rồi đến cố vấn Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười, vân vân. Từ ngày đó, tình anh em Trung-Việt được nối lại, và khi về qua biên giới, đồng chí TBT Nguyễn Văn Linh đã sung sướng và xúc động nói: “Hữu Nghị Quan đời đời là Hữu Nghị Quan” (có điều sau đó các đồng chí đàn anh đã lấy hẳn HNQ và đổi tên, chắc như rứa có lợi cho VN ta hơn!)
Từ ngày đó tình anh em không ngừng đơm hoa kết trái. Nó bền chặt đến mức ngay cả khi ngư dân ta léng phéng trên biển, bị các đàn anh dạy tiếp cho nhiều bài học (đánh đập, bắt giam, đâm cho chìm tàu,…) thì nó vẫn không suy suyển. Không có gì chứng minh sự bền chặt đó bằng câu nói của đồng chí tổng đương kim: “Quan hệ Trung-Việt chưa bao giờ tốt đẹp như lúc này.”
Vâng, các đồng chí đàn anh Trung Quốc vẫn đang tiếp tục dạy, và “chúng ta” vẫn đang tiếp tục học.
Có điều, dân chúng nước ta vốn đa số bướng bỉnh. Bọn họ vốn là con cháu Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… mà.
Cho nên họ không chịu tiếp thu những bài học các đồng chí Thiên Triều dạy. Rồi cũng sẽ có ngày…
Michael Lang
 Blog Lề Trái

Đặng Tiểu Bình trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979

Trần trung Đạo – Đanchimviet

Deng
Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du côn, côn đồ.”
Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?
Đảng CS Trung Quốc hy sinh quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến.
Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều
Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Quốc, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ ngã Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Quốc khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.
Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực

Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Quốc trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.
Nỗi sợ bị bao vây
Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ cá lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Quốc của họ Phạm vào năm 1968. Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.
Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.
Cambodia, giọt nước tràn ly
Không những Trung Quốc sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba, 1976. Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Quyết định của Đặng Tiểu Bình
Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẻ trong nội bộ Bộ Chính Trị, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.
Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ ngã Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.
Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.
Lên đường thuyết khách tìm đồng minh
Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.
Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.
Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Quốc thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao. Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.
Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Y nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không có gì chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới. Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ trong vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết Trung Quốc đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn”.
Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Quốc có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Quốc sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Quốc cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới.
TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.”
Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong vòng giới hạn.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống Carter để lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đã đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”. Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.
Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979 Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tâ;n công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Quốc tràn qua biên giới?
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nở lòng đem quân đánh đàn em CSVN. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.”
Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Quốc. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979 “Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xã hội chủ nghĩa anh em” có thể đánh họ.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội Trung Quốc học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đã mô tả quân Trung Quốc chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.
Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979

Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Quốc bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẳn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).
Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”. Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
- Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
- China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
- Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
- A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
- Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
- Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
- Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
- Wikipedia Đặng Tiểu Bình
- Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
- Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
- A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
- Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
- “Côn đồ” Đặng Tiểu Bình trong quan hệ Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
- Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan: Khó hình dung nổi sự “leo thang hợp tác hòa bình” Việt-Mỹ

Trao đổi với phóng viên Lao Động nhân 20 năm bình thường hóa quan hệ thương mại, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nói rằng, "sự leo thang hợp tác hòa bình" giữa hai nước Việt Nam (VN) và Mỹ đã đem lại lợi ích thiết thực, có lợi cho xu thế hợp tác ở Châu Á - Thái Bình Dương.
http://www.15phut.vn/wp-content/uploads/2012/03/125377vukhoan1.jpg
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan
Ông Vũ Khoan nói:
- Trong thời gian qua, quan hệ giữa hai nước có bước tiến vượt bậc, nếu tính rằng cả hai đã trải qua cả một cuộc chiến tranh tàn khốc. Là một trong những người trong cuộc, với tư cách là một cán bộ ngoại giao, thương mại và Chính phủ, thú thật trước đây tôi không thể hình dung nổi sự "leo thang hợp tác hòa bình" như vậy giữa hai "cựu thù". Hai nước đã chứng kiến những dấu mốc quan trọng, như gỡ bỏ cấm vận năm 1994, thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, ký Hiệp định thương mại song phương (BTA) năm 2000, thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện năm 2013. Rõ ràng sự "leo thang" như vậy đem lại lợi ích thiết thực cho hai nước, có lợi cho xu thế hợp tác ở Châu Á - Thái Bình Dương.
- Theo Phòng Thương mại Mỹ, thương mại hai chiều Việt-Mỹ hiện đạt gần 30 tỉ USD, tăng hơn 130 lần so với thời điểm năm 1994. Ông nhìn nhận về con số này như thế nào?
- Như trên đã nói, khi đi ký BTA với Mỹ vào tháng 7.2000, tôi không hình dung nổi kim ngạch hai chiều lại gia tăng vượt bậc như vậy. Lúc ấy kim ngạch buôn bán Việt-Mỹ chưa đầy 1 tỉ USD, nay là 30 tỉ USD. Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu hàng đầu của VN và có lợi cho ta vì VN luôn xuất siêu. Đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ vào VN cũng gia tăng đáng kể.
Theo cách nói phổ biến hiện nay và trên thực tế chúng ta cũng thấy, mặc dù tốc độ và quy mô khá lớn, song vẫn "chưa tương xứng với tiềm năng" hai nước. Điều đó thể hiện ở chỗ, sự hiện diện của Mỹ về đầu tư trực tiếp ở VN còn tương đối nhỏ so với tầm cỡ và trình độ phát triển của nước này. Trong khi đó, VN chưa tranh thủ được nhiều công nghệ nguồn từ phía Mỹ, chưa len chân được vào chuỗi sản xuất và phân phối của Mỹ.
- Dẫu vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, quan hệ Việt-Mỹ vẫn còn những nghi ngại và cách biệt. Đánh giá của ông về lòng tin Việt-Mỹ ra sao?
- Điều dễ hiểu là hai nước vẫn còn tồn tại sự cách biệt về chế độ chính trị - xã hội, về luật lệ và cả văn hóa làm ăn, trong đó đôi khi nảy sinh những tranh chấp thương mại mang tính bảo hộ từ phía Mỹ. Giới đầu tư nước ngoài - trong đó có các doanh nghiệp Mỹ - mong mỏi ta có sự cải thiện hơn nữa về cơ chế, chính sách. Để quan hệ hợp tác hai bên phát triển thuận lợi hơn nữa, điều quan trọng hàng đầu là tạo dựng, củng cố nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi, tuân thủ những luật chơi chung, cụ thể là những cam kết trong BTA, WTO.
- Chặng đường tới hoàn tất đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được xem là không mấy dễ dàng. Ông đánh giá thế nào về triển vọng ký kết TPP?
- Rõ ràng TPP sẽ là "một bậc thang mới" trong quá trình "leo thang hợp tác". Riêng đối với ta, TPP sẽ góp phần mở rộng hơn nữa thị trường, tranh thủ thêm đầu tư, nhưng cũng sẽ đặt ra không ít thách thức. Do đó, điều cấp bách nhất lúc này là chủ động, tích cực chuẩn bị các điều kiện bên trong, tận dụng cơ hội, hóa giải thách thức thì mới có lợi. Riêng tôi mong sự hiện diện của Mỹ không chỉ là "dịch vụ ăn nhanh" như Kentucky, Starbucks hay McDonald's, mà là những dự án "ăn lâu" về công nghiệp chế tạo, chế biến, nhất là công nghệ cao. Còn đàm phán TPP bao giờ kết thúc thì tôi không có điều kiện dự báo. Điều quan trọng là có được một thỏa thuận "fair", chứ không phải thời điểm ký kết.
- Trước đây, trên cương vị là Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế đối ngoại, ông được ghi nhận là người có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình đàm phán BTA. Ông có thể chia sẻ những khó khăn và những kỷ niệm đáng nhớ trong quá trình đàm phán này?
- Việc ký BTA để lại trong tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Lúc đó, tôi vừa chân ướt chân ráo từ Bộ Ngoại giao sang Bộ Thương mại. Bên cạnh hàng đống công việc mới lạ đối với một người "chưa từng đi chợ", nay gánh trách nhiệm "buôn bán" của cả nước, tôi phải khăn gói lên đường hoàn tất nốt một số nội dung để ký kết.
Tôi vẫn còn lưu giữ cái cảm giác nặng nề trong các cuộc bàn thảo cuối cùng, những giờ phút chờ đợi thâu đêm suốt sáng (với nghĩa đen) tin từ trong nước "bật đèn xanh" cho ký. Đến phút chót lại nảy sinh trục trặc kỹ thuật, do loại giấy đánh văn bản hiệp định của ta với máy của phía Mỹ không khớp. Trong khi đó, Tổng thống B.Clinton hẹn tiếp đúng 5 giờ chiều!
Nhưng mọi chuyện rồi cũng được dàn xếp trôi chảy. Lòng tôi lâng lâng khi bước vào Nhà Trắng, vì mình là quan chức VN đầu tiên bước vào ngôi nhà nổi tiếng này. Khi tiếp tôi, Tổng thống B.Clinton đã nhắc tới việc Tổng thống F.Roosevelt từng nói tới một nước VN mới, chính ở căn phòng chúng tôi đang đứng.
Sau đó, chúng tôi cùng các thượng nghị sĩ John Kerry của Đảng Dân chủ, John McCain của Đảng Cộng hòa và nhiều quan chức khác đứng trên thềm Nhà Trắng, nhìn ra Vườn Hồng tuyên bố với toàn thế giới về sự kiện lịch sử hai nước - vốn thù địch - ký BTA. Đó chẳng phải là một mốc quan trọng trên con đường mở rộng hợp tác hay sao?
- Xin cảm ơn ông! 
(Lao động)

Giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam những năm chống chiến tranh phá hoại (1965 - 1972)

Tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong cuộc đối đầu lịch sử với một đối phương mạnh hơn gấp nhiều lần, có tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội, Việt Nam luôn nhận được sự đồng tình, cổ vũ của các lực lượng khác nhautrên thế giới. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ không tách rời sự ủng hộ quốc tế to lớn, trong đó có sự giúp đỡ của Liên Xô – quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh với những vũ khí chiến lược tối tân, hiện đại. Viện trợ quân sự toàn diện của Liên Xô, nhất là vào những thời điểm quan trọng của cuộc kháng chiến, đã tăng cường và tạo ra sức mạnh đáng kể cho Quân đội nhân dân Việt Nam.
http://topwar.ru/uploads/posts/2010-10/1287255382_s-75.jpg

1. Quyết định tăng cường viện trợ cho Việt Nam

Từ giữa những năm 60 (XX), ở Đông Nam Á diễn ra những thay đổi nhanh chóng. Mỹ tăng cường sự hiện diện, củng cố quyền lực trong khu vực, đẩy mạnh hỗ trợ các nước Đông Nam Á chống lại “nguy cơ của chủ nghĩa Cộng sản”. Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh của Liên Xô, một mặt, vừa tiếp tục có thái độ thù địch với Liên Xô, vừa "tìm kiếm quan hệ với Washington để cân bằng địa vị với Liên Xô”[1], đẩy nhanh hòa hoãn với Mỹ; mặt khác, tích cực giúp đỡ Việt Nam chống Mỹ, thông qua Việt Nam mở rộng ảnh hưởng đối với các nước Đông Nam Á. Những sự kiện nêu trên minh chứng cho vị trí địa - chiến lược, địa – chính trị và địa – quân sự quan trọng của Đông Nam Á nói riêng, châu Á nói chung và tác động, ảnh hưởng, buộc Liên Xô phải nhìn nhận, cân nhắc lại quan hệ với khu vực này, khởi động lại chính sách châu Á. Trên con đường khẳng định vị thế, tham gia vào các vấn đề của khu vực, Việt Nam - quốc gia "điểm nóng" là sự lựa chọn thích hợp, "một kênh quan trọng giúp Liên Xô có thể thâm nhập vào Đông Nam Á, cô lập, ngăn chặn chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc, không rơi vào thế yếu một khi Trung Quốc hòa hoãn với Hoa Kỳ"[2]. Chuyến thăm của Đoàn đại biểu Liên bang CHXHCN Xô-viết do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N. Kosygin dẫn đầu đến Việt Nam vào tháng 2-1965 là dấu mốc quan trọng, mở ra bước ngoặt trong quan hệ Việt – Xô với cam kết giúp đỡ toàn diện, cung cấp vũ khí củng cố khả năng phòng thủ của Việt Nam, chống lại sự tấn công bằng không lực của Mỹ. Đó là lựa chọn – như phân tích của Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ, "đảm bảo cho sự có mặt và ảnh hưởng lâu dài của Liên Xô ở Việt Nam (…). Đó cũng là cách Liên Xô giúp đỡ Việt Nam cộng sản chiến thắng – một chiến thắng không gắn với và khuyếch trương uy tín, thanh thế của Trung Quốc"[3].

Tháng 4-1965, Lê Duẩn dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam sang thăm Liên Xô, thỏa thuận và ký kết hiệp định về viện trợ quân sự. Ngày 10-7 và ngày 21-10 -1965, hai nước ký thêm hai thỏa thuận về viện trợ bổ sung. Trong các thỏa thuận và quyết định hỗ trợ quân sự cho Việt Nam của Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết, nội dung viện trợ, giúp đỡ được thực hiện trên cơ sở các kế hoạch dài hạn,bao gồm:1- Cung cấp vũ khí, thiết bị quân sự, đạn dược, phụ tùng và các vật liệu quân sự chuyên biệt; 2- Biệt phái các chuyên gia quân sự Liên Xô giúp đỡ Quân đội Việt Nam tiếp cận, sử dụng các loại vũ khí, trang thiết bị quân sự được viện trợ, giúp sửa chữa và hiện đại hóa chúng; 3- Hỗ trợ xây dựng, trang bị cơ sở vật chất cho các mục đích quân sự; 4- Chuyển giao giấy phép, các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho việc sản xuất đạn dược, một số loại vũ khí, thiết bị quân sự, cũng như các hướng dẫn kỹ thuật khác; 5- Đào tạo quân nhân Việt Nam trong các cơ sở quân sự của Bộ Quốc phòng Liên Xô[4]. Theo các bản cam kết và ghi nhớ, các loại trang thiết bị quân sự Liên Xô viện trợ cho Việt Nam gồm: Tên lửa đất đối không (SAM), pháo cao xạ, thiết bị ra đa, thiết bị vô tuyến điện tử, bệ phóng tên lửa, máy bay chiến đấu MiG-17, máy bay chiến đấu siêu thanh MiG-21, IL-28, máy bay tiêm kích SU-17, máy bay vận tải IL14, LI-2, xe tăng T-34 và T-54, khí tài vượt sông; một số khí tài thông tin, phòng hóa[5]… Nhìn chung, vũ khí, khí tài đa dạng về chủng loại, tối tân, hiện đại, có khả năng phát huy tốt trên chiến trường Việt Nam. Theo thỏa thuận, vũ khí, khí tài được vận chuyển tới Việt Nam qua hai ngả: Bằng đường sắt qua Trung Quốc và đường biển qua cảng Hải Phòng. Để dễ dàng, nhanh chóng vận chuyển hàng viện trợ, A.N. Kosygin đề nghị Trung Quốc cho phép sử dụng sân bay Côn Minh, lập cầu hàng không qua không phận Trung Quốc, song Trung Quốc từ chối. Sau một thời gian đàm phán, Trung Quốc đồng ý để viện trợ cho Việt Nam được vận chuyển bằng đường sắt qua lãnh thổ Trung Quốc và “để đạt được thỏa thuận, Liên Xô đã chuyển cho Trung Quốc 50 triệu rúp”[6]. Đối với vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, Liên Xô huy động thường xuyên 20 tàu vận tải cỡ lớn của Công ty vận tải Biển Đen và Viễn Đông.

 Chính phủ Liên Xô khẳng định rằng, viện trợ cho Việt Nam được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Xô –viết, tuân thủ các điều ước, hiệp ước và thông lệ quốc tế, trên tinh thần anh em, tương trợ lẫn nhau và tình cảm quốc tế vô sản sâu sắc.

2. Viện trợ vũ khí, khí tài và đào tạo nhân lực quân sự bậc cao

Mức độ viện trợ, các loại vũ khí, khí tài Liên Xô giúp đỡ Việt Nam chưa bao giờ được hai nước công bố chính thức. Thu thập từ những nguồn khác nhau, số liệu viện trợ không thống nhất và cách thức thống kê cũng không đồng nhất: Theo số lượng, khối lượng, chủng loại, trị giá…

 Theo một số tài liệu lưu trữ của Cục lưu trữ Liên bang Nga, vũ khí của Liên Xô được tăng cường chuyển tới Việt Nam từ cuối năm 1964 đầu năm 1965, mặc dù những thỏa thuận cụ thể chỉ đạt được từ tháng 4 -1965. Thực hiện các hiệp định, thỏa thuận và cam kết[7], từ tháng 3-1965, “lực lượng phòng không của Việt Nam được trang bị pháo cao xạ 37 mm và súng phòng không 57 mm. Từ tháng 7-1965, tổ hợp tên lửa đất đối không tầm cao SA-75 Dvina (SAM) đã có mặt ở Việt Nam”[8].

Về trị giá viện trợ từng năm, theo một báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên Xô (10-1965), từ năm 1962đến năm 1965,Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam trang thiết bị quân sự(trong đó cócả máy bay) trị giá gần 200 triệuUSDvàhơn một nửa số này (60%)được chuyển cho Việt Namtrong năm 1965[9]. Cũng về viện trợ trong năm 1965, Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế(IISS, Luân Đôn) cung cấp số liệu sau: Năm 1965, trị giá viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là  210 triệu USD (chiếm 60% tổng viện trợ kinh tế)[10]. Năm 1967, theo Báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Liên Xô (12-1967), đây là năm Liên Xô cung cấp viện trợ cao nhất cho Việt Nam[11], còn Viện IISS không đưa ra trị giá cụ thể, chỉ thống kê chủng loại, số lượng vũ khí: “Đến tháng 9-1967, Liên Xô đã gửi đến Việt Nam các máy bay chiến đấu MiG-17 và MiG-21, IL-28,máy bay ném bom, máy bay vận tải, máy bay trực thăng, 6.000 súng phòng không, tên lửa đất đối không và 200-250 bệ phóng tên lửa cùng hàng ngàn súng phòng không các loại”[12]. Theo thống kê của Việt Nam, trong điều kiện chiến sự diễn ra ác liệt, căng thẳng, Bộ Quốc phòng “đề nghị Liên Xô gửi gấp ngay sang số khí tài quân sự trong kế hoạch viên trợ năm 1967, đặc biệt cấp thiết là các máy bay chiến đấu MiG-21,F13 và MiG-17 F, tên lửa bổ sung cho số đã dùng trong chiến đấu, đạn cao xạ, trang bị cho đơn vị tên lửa bảo vệ bờ biển, các khí tài chống nhiễu, các trạm rađa SNAR-6, các loại khí tài bổ sung cho những thiệt hại trong chiến đấu và trang bị cho các trung đoàn tên lửa phòng không”[13]. Số lượng cụ thể Bộ Quốc phòng Việt Nam đề nghị là: “1 trung đoàn MiG-17 F (32 máy bay chiến đấu + 10 cơ số đạn + 5 cơ số bom); 1 trung đoàn MiG-21 F13 (24 máy bay chiến đấu + 2 máy bay huấn luyện + 10 cơ số đạn + 480 quả tên lửa + 5 cơ số bom); 12 MiG-17 F bổ sung cho tiêu hao. 1.500 quả tên lửa B-750B, 75 quả tên lửa CA-65M, 288 quả tên lửa CA-75M, hai bộ điều khiển tên lửa PCHA-75M, 7 bệ phóng tên lửa, 1 trạm lưu động trung tu khí tài tên lửa phòng không SA-75M. 150.000 viên đạn 57 ly, 2,5 triệu viên đạn 12,7 ly, 1,5 triệu viên đạn 14,5 ly, 3 triệu viên đạn 37 ly và 2 trạm khí tượng, rađa pháo mặt đất, cao xạ”[14]. Trả lời yêu cầu của Việt Nam, ngày 4 -5-1967, Liên Xô gửi thư thông báo về nội dung viện trợ quân sự, không chỉ đáp ứng đầy đủ, mà còn quyết định giúp đỡ thêm lương thực[15].

Về viện trợ quân sự trong năm 1968 (thời gian Việt Nam chuẩn bị và thực hiện cuộc Tổng tiến công chiến lược Mậu thân 1968), theo thống kê của Tổng cục 10[16], Bộ Quốc phòng Liên Xô, “Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 357 triệu rúp (tương đương 369,7 triệu USD[17]), chiếm 2/3 tổng toàn bộ viện trợ mọi mặt”[18], còn Viện IISSđưa ra con số: “Năm 1968, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Chính phủ Bắc Việt Nam  đạt 542 triệu rúp (tương đương với 209 triệu USD), trong đó 361 triệu rúp không hoàn lại”[19]. Như vậy, con số từ hai nguồn thống kê trên có sự chênh lệch và cách quy đổi tỷ giá hối đoái của Viện IISS thấp hơn một nửa so với quy định của Bộ Tài chính Liên Xô. Số liệu thống kê về viện trợ trong năm 1968 của Viện IISS gần với số liệu báo cáo của Bộ Quốc phòng Liên Xô về viện trợ trong hai năm 1966-1967: “Tổng trị giá viện trợ trang thiết bị quân sự cho Việt Nam từ tháng 1-1966 đến tháng 12-1967 là 500 triệu rúp (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”[20]. Về phía Việt Nam, trong các tài liệu lưu trữ, chỉ có số liệu thống kê chung cho cả ba năm 1965-1968: Khối lượng viện trợ là 257.912 tấn, trị giá ước khoảng 1.173 triệu rúp[21] (khối lượng này theo Thống kê số liệu viện trợ quốc tế, Bộ Quốc phòng là 226.969 tấn[22], có sự chênh lệch, song không đáng kể). Theo đánh giá chung, những năm 1965-1968, Liên Xô là nước viện trợ quân sự chủ yếu với trị giá lớn nhất cho Việt Nam. Báo cáo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam cho thấy “Liên Xô viện trợ nhiều nhất vào hai năm 1965 - 1967, có nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại, nhưng phần lớn đã qua sử dụng, trừ MiG -21, ĐKZ- B, cao xạ 23 ly, xe kéo pháo bánh xích, ô tô”[23].

Những năm 1969-1972, theo Thống kê số liệu viện trợ quốc tế,Bộ Quốc phòng, mức viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam đạt 143.793 tấn[24]. Giai đoạn 1965-1971, theo số liệu của các nhà nghiên cứu Liên bang Nga, "tổng giá trị viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là 1 tỷ 579 triệu USD, tính trung bình vào khoảng 2 triệu UDS/ ngày”[25]. Về các loại vũ khí chiến lược, trong giai đoạn này,“Việt Nam nhận được từ Liên Xô 2.056 xe tăng, 1.708 xe bọc thép, 7.000 khẩu súng và súng cối, hơn 5.000 khẩu pháo cao xạ và bệ đỡ, 158 tổ hợp tên lửa, hơn 700 máy bay chiến đấu, 120 máy bay trực thăng, 100 tàu chiến”[26]. Ngoài ra, “Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng và đưa vào sử dụng 117 cơ sở quốc phòng”[27].Trong những năm 1965-1972, riêng tên lửa phòng không, “Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 95 tổ hợp SA-75 Dvina và 7.658 tên lửa”[28]. Năm 1972, khi Mỹ tiến hành chiến dịch Linebacker II, Liên Xô gửi gấp sang Việt Nam một số tên lửa S-125 (SAM 3), song do triển khai chậm, nên các tên lửa này đã không kịp tham gia chiến đấu[29].

Không chỉ viện trợ trang bị kỹ thuật, Liên Xô còn giúp Việt Nam đào tạo cán bộ, chiến sĩ để tiếp nhận, sử dụng hiệu quả vũ khí viện trợ, nhất là những vũ khí hiện đại. Báo cáo của Đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam cho biết: “Riêng năm 1966, đã có 2.600 người Việt Nam được gửi đào tạo ngành không quân và phòng không tại Liên Xô. Trong năm 1966, Liên Xô đào tạo cho Việt Nam đội ngũ đủ để xây dựng một trung đoàn phòng không, kỹ thuật viên cho một trung đoàn không quân và hàng chục phi công”[30]. Tháng 2-1966, “Chủ tịch Đảng Cộng sản Canada, Tim Buck trả lời phỏng vấn Radio Djakarta,đưa ra một thông tin về khoảng 5.000 người Việt Nam đã được đào tạo từ năm 1965 đến 1966 ở Liên Xô để phục vụ trong lực lượng phòng không, không quân”[31]. Chủ tịch Tim Buck cũng nói thêm rằng, đây là thông báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Canada đến thăm Hà Nội vào cuối năm 1965. Theo Thượng tướng A.I.Hyupenen, Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam (1972-1975), “riêng năm 1966, 1.342 người lính Việt Nam bắt đầu học tập trong các trường quân sự của Liên Xô; trong hai năm 1966 -1967, các cơ sở giáo dục quốc phòng Liên Xô đã đào tạo cho Việt Nam khoảng 3.000 quân nhân”[32], đến hết năm 1975, “Liên Xô đào tạo cho Việt Nam ước tính là 13,5 nghìn quân nhân”[33]. Mặc dù gặp phải rào cản ngôn ngữ, trình độ, song các học viên Việt Nam đã nắm bắt kiến thức nhanh chóng, nỗ lực hoàn thành các khóa học.

3. Gửi chuyên gia quân sự sang Việt Nam

Ngoài việc tăng số lượng và chủng loại vũ khí trang bị, Liên Xô đề nghị gửi một số đơn vị sang bảo vệ khu vực Hà Nội, Hải Phòng, gồm: “Một lữ đoàn tên lửa, hai trung đoàn phòng không và các đơn vị kỹ thuật, bảo đảm; một phân đội máy bay MiG-21 (trong đó có 12 máy bay chiến đấu), một tiểu đoàn địa cầu, một tiểu đoàn trinh sát kỹ thuật”[34]. Phía Liên Xô dự kiến khi các đơn vị trên sang Việt Nam, Việt Nam sẽ giao nhiệm vụ chiến đấu, Liên Xô chỉ huy chiến đấu, thời gian ở Việt Nam một năm, chi phí hoạt động do Liên Xô đảm bảo, cơ sở đóng quân và bảo vệ do Việt Nam đảm nhiệm, các phân đội máy bay sử dụng sân bay Nội Bài và Cát Bi; việc ký kết hiệp định về các vấn đề nêu trên ở Hà Nội sẽ thông qua Ủy ban kinh tế hai bên. Vì một số lý do khách quan và để tránh va chạm với Trung Quốc, Bộ Chính trịĐảng Lao động Việt Namquyết nghị không nhận các đơn vị chiến đấu của Liên Xô gửi sang Việt Nam, mà xin trang bị, đề nghị Liên Xô cử chuyên gia sang giúp.

Tại cuộc hội đàm ngày 27-3-1965(Hà Nội), trong năm 1965, Liên Xôquyết định cử 290 chuyên gia giúp huấn luyện kỹ thuật cho lữ đoàn tên lửa phòng không, 14 chuyên gia huấn luyện phi công và nhân viên kỹ thuật hàng không, 14 chuyên gia giúp huấn luyện cho hải quân, tổng số tất cả là 318 người[35].

Ngày 6-7-1965, Hội đồng Bộ trường Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết ban hành Quyết định № 525-200,Về việc thành lập Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[36], dù biết rằng sự có mặt của các chuyên gia quân sự Xô-viết tại Việt Nam là một mạo hiểm cho hòa hoãn Xô – Mỹ. Quyết định № 525-200 nêu rõ nhiệm vụ của Đoàn chuyên gia: “Trong thời gian ngắn nhất, giảng dạy và huấn luyện lực lượng Phòng không-không quân Việt Nam đủ khả năng tác chiến”[37]. Công tác chuẩn bị gửi chuyên gia quân sự sang Việt Nam đã được Nhà nước Xô viết, Bộ Quốc phòng Liên Xô khẩn trương xúc tiến, thực hiện chu đáo, kỹ lưỡng. Các chuyên gia quân sự phải đáp ứng những yêu cầu cao về trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, sức khỏe…. Ứng viên vào các vị trí chỉ huy được lựa chọn gắt gao và bắt buộc phải qua được "cửa ải" khắt khe của Tổng cục 10, Bộ Tổng tham mưuvà sau đó là cuộc phỏng vấn – thẩm định của Tổng tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Xô-viết[38]. Hầu hết các chuyên gia đều là những sĩ quan, hạ sĩ quan từng tham gia cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và chiến tranh Triều Tiên 1953, được tôi luyện, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, trình độ kỹ thuật – quân sự cao và là vốn quý của lực lượng vũ trang Liên Xô. Sau thời gian chuẩn bị, chọn lựa, Ban chỉ huy Đoàn chuyên gia đầu tiên được chỉ định, gồm: Chỉ huy trưởng Thiếu tướng G.A. Belov[39]; Phó Chỉ huy trưởng phụ trách chính trị Đại tá M. Borisenko và Trưởng nhóm chuyên gia Phòng không Đại tá A.M. Dưza[40].Từ năm 1967, Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam qua các thời kỳ là: Thượng tướng Abramov (1967-1969; Trung tướng B.A. Stolnikov (1968-1970); Thiếu tướngN.K. Maksimenko (1970-1972) và Thượng tướng A. I.Hyupenen (1972-1975)[41].

Tháng 4-1965, Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô đầu tiên có sĩ số 100, dưới sự chỉ huy của Đại táA.M. Dưza đã đến Việt Nam với nhiệm vụ “nhanh chóng huấn luyện và đưa vào chiến đấu hai trung đoàn Phòng không Quân đội Nhân dân Việt Nam”[42]. Cũng trong tháng 4-1965, Trung tâm huấn luyện quân sự dưới sự chỉ huy của Đại tá M.Tsygankov đã đến Việt Nam; trên cơ sở đó, hình thành hai Trung tâm huấn luyện quân sự số 1 và 2. Từ ngày mùng 1-5 đến 15-5-1965, Bộ Quốc phòng Liên Xô gửi đến Việt Nam thêm hai Trung tâm huấn luyện quân sự[43]. Trong một thời gian ngắn, cả bốn Trung tâm đã đi vào hoạt động, “đến cuối năm 1966, số lượng chuyên gia quân sự Liên Xô tại 4 trung tâm huấn luyện lên đến 786 người”[44]. Từ tháng 6-1965 đến tháng 5-1967, “Bộ Quốc phòng Liên Xô đã gửi sang Việt Nam thêm 6 Trung tâm huấn luyện tên lửa –phòng không, mỗi một Trung tâm đảm nhiệm huấn luyện một trung đoàn Phòng không Việt Nam”[45]. Tính ra, “từ tháng 4-1965 đến tháng5-1966, đã có 2.266 chuyên gia Phòng không Liên Xô đến Việt Nam”[46] và trong khoảng thời gian đó, “các chuyên gia quân sự Liên Xô đã đào tạo tại chỗ 10 trung đoàn tên lửa phòng không, 3 trung đoàn kỹ thuật vô tuyến, 2 trung đoàn không quân tiêm kích”[47].

Để lắp ráp, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa, phục hồi các khí tài bị hư hại, kiểm tra mức độ sẵn sàng chiến đấu, Liên Xô cử đến Việt Nam một đội ngũ chuyên gia kỹ thuật quân sự. Họ hoàn thành “những loại công việc mà ngay tại Liên Xô, để thực hiện chúng, cần phải có những thiết bị đặc biệt của những xưởng cố định”[48]. Tại sân bay quân sự Nội Bài có các phi công quân sự Liên Xô “làm nhiệm vụ huấn luyện các chiến sĩ Không quân Việt Nam kỹ thuật hàng không và kỹ thuật lái máy bay”[49]. Họ bay trên những chiếc máy bay kiểu Xpáccơ không được trang bị vũ khí, hoặc những máy bay chiến đấu MiG-21U trong tình trạng bất cứ lúc nào sân bay cũng có thể bị phong tỏa và những chiếc Xpáccơ có tốc độ chậm có thể bị bắn hạ. Hàng đêm, “các phi công Liên Xô đã tìm cách thực hiện xoay vòng được 20 chuyến bay huấn luyện, hoặc nhiều hơn”[50]. Không hiếm trường hợp, máy bay luyện tập do chuyên gia Liên Xô điều khiển bị máy bay Mỹ truy đuổi và các phi công đã phải hạ cánh thẳng xuống sân bay, không có các thiết bị định vị. Cùng với các chuyến bay huấn luyện, các phi công Liên Xô còn đảm nhận những nhiệm vụ khác như “thực hiện các chuyến bay thử nghiệm kiểm tra sau khi bảo trì trong mọi điều kiện thời tiết và thời gian trong ngày”[51].

Năm 1964, Liên Xô và Việt Nam đã ký một Hiệp định, theo đó, “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giúp Liên Xô thu thập, đánh giá những mẫu vũ khí và trang thiết bị quân sự Mỹ”[52]. Đầu năm 1965, Tổng cục 10, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô thành lập nhóm chuyên gia quân sự thu nhặt, nghiên cứu chiến lợi phẩm của Mỹ và tháng 10-1965, Đoàn chuyên gia khoa học quân sự, “gồm các chuyên viên cao cấp của các Học viện quân sự, Viện nghiên cứu khoa học Bộ Quốc phòng, các chuyên gia - cán bộ thiết kế ngành công nghiệp quốc phòng, chuyên gia điện tử, thiết bị dẫn đường, thông tin liên lạc”[53]… sang đến Việt Nam và lập tức bắt tay nghiên cứu. Từ năm 1965 đến năm 1974, Liên Xô đã gửi sang Việt Nam tất cả “40 chuyên gia quân sự cao cấp các ngành công nghiệp quốc phòng”[54] cho mục đích trên. Từ tháng 5-1965 đến tháng 1-1967, nhóm chuyên gia “lượm lặt, lựa chọn và gửi về Liên Xô hơn 700 chủng loại thiết bị quân sự và vũ khí Mỹ”[55]. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, các chuyên gia quân sự Liên Xô biên soạn những tài liệu quân sự giá trị, “đưa những đề xuất điều chỉnh các loại vũ khí của Liên Xô có tính năng phù hợp hoặc vượt trội chống lại trang thiết bị quân sự của Mỹ”[56]; cho phép “giảm đáng kể chi phí và thời gian nghiên cứu sản xuất những vũ khí tương tự, thúc đẩy nền công nghiệp quốc phòng Xô-viết phát triển nhanh chóng”[57].

Từ cuối năm 1966 đến tháng 5-1968, Liên Xô gửi sang Việt Nam ba nhóm chuyên gia khoa học quân sự: Nhóm chuyên gia khoa học tên lửa[58], nhóm chuyên gia công nghiệp quốc phòng (85 người)[59], nhóm chuyên gia quân sự gây nhiễu và tác chiến điện tử (do Trung tá V.X. Kixilov chỉ huy)[60]. Ba nhóm chuyên gia nêu trên có nhiệm vụ nghiên cứu, cải tiến hệ thống tên lửa phòng không S-75, cải tiến bộ khí tài tên lửa, tìm ra phương thức gây nhiễu và chống nhiễu hiệu quả. Các chuyên gia quân sự Liên Xô nỗ lực làm việc trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, sinh hoạt khó khăn và trong một thời gian ngắn đã kịp thời chuyển giao kết quả nghiên cứu, góp phần nâng cao đáng kể hiệu suất chiến đấu cho lực lượng cho Phòng không - không quân Việt Nam.

Từ tháng 4-1965 đến tháng 12-1974, Liên Xô cử một đội tầu tình báo Hải quân thuộc Hạm đội Thái Bình Dương (trong đó có những tàu ngầm thuộc loại hiện đại nhất) “thường trực tại khu vực biển Đông – Vịnh Bắc Bộ - đảo Gyam với nhiệm vụ trinh sát, đảm bảo hoạt động chiến đấu cho các đơn vị vũ trang Xô-viết và Việt Nam”[61]. Tình báo Hải quân Liên Xô theo dõi và cung cấp thông tin về thời gian cất cánh, chiến thuật đánh phá của máy bay Mỹ, hoạt động của các chiến hạm Mỹ phong tỏa bờ biển Việt Nam. Trong năm 1965, “đội tàu ngầm của Liên Xô đã tiến hành 12 lượt trinh sát tại vùng biển Philippines và biển Đông; trong năm 1966, số lượng trinh sát tại các vùng biển nêu trên tăng hơn gấp đôi, đạt 27 lần”[62]. Những năm 1964-1974, trong vùng biển Việt Nam vàvùngbiển gần Việt Nam, thường xuyêncó “17 đội tàu trinh sát liên tục hoạt động, thực hiện 94 lượt trinh sát, mỗi lượt kéo dài từ 3-4 tháng’[63]. Nhờ các thông tin tình báo do Hạm đội Thái Bình Dương cung cấp, lực lượng Phòng không – không quân Việt Nam luôn chủ động di chuyển, ẩn tránh, hoặc đón đánh Thần Sấm, B-52.

Từ tháng 10-1968 đến cuối năm 1972, nhằm giúp Việt Nam chống lại chiến lược phong tỏa bờ biển của Mỹ, rà phá bom mìn trên các cửa cảng, Liên Xô gửi đến nhóm chuyên gia bom mìn (Chỉ huy trưởng, Đại tá Hải quân S. Buito), các thợ lặn Hải quân (Chỉ huy trưởng, Chuẩn úy V.Palamarchuk)[64]. Bên cạnh đó, trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, sát hải phận Việt Nam, “hai chiếc tàu gỡ mìn và vớt thủy lôi số hiệu PR.264A "MT-4", "MT-5" dưới sự chỉ huy của Đại tá D.T. Lukas tích cực rà tìm, phá nổ bom mìn, giải tỏa vùng biển”[65]. Được sự trợ giúp của các chuyên gia bom mìn Xô viết, các cửa cảng nhanh chóng được mở trở lại, đón những chuyến hàng viện trợ, tăng cường tiềm lực cho Việt Nam trên chặng đường cuối cùng giải phóng đất nước.

Theo thống kê của Tổng cục tác chiến, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, "từ ngày 11-7-1965 đến ngày 31-12-1974, có 6.359 sĩ quan, tướng lĩnh và hơn 4.500 binh sĩ, hạ sĩ quan các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia chiến đấu tại Việt Nam”[66]; “13 chuyên gia quân sự Liên Xô đã hy sinh”[67]. Vì lòng quả cảm, tinh thần chiến đấu quên mình và những đóng góp to lớn đối với nhân dân Việt Nam, “2.190 chuyên gia quân sự được tặng các phần thưởng của Nhà nước Liên Xô, hơn 3.000 chuyên gia quân sự được tặng thưởng các huân chương và huy chương của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[68].

4- Những con sóng ngầm

Các trang bị vũ khí, khí tài Liên Xô viện trợ đã phát huy tác dụng tích cực trên chiến trường miền Nam Việt Nam, đẩy mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, tiềm lực quốc phòng của Việt Nam được tăng cường nhanh chóng. Đến cuối năm 1965, bộ đội chủ lực miền Bắc tăng từ 195.000 người lên 400.000 người, các quân, binh chủng tăng gấp ba lần so với năm 1964. Riêng Quân chủng Phòng không - Không quân phát triển vượt bậc với pháo phòng không, tên lửa đất đối không, ra đa cảnh giới, không quân tiêm kích… bố trí thành thế trận liên hoàn có thể đánh địch ở những độ cao khác nhau, vừa bảo đảm tác chiến rộng khắp, vừa có thể tập trung lực lượng bảo vệ những trọng điểm giao thông, những khu vực quốc gia trọng yếu. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh phá hoại nói riêng, trong kháng chiến chống Mỹ nói chung không tách rời sự ủng hộ, giúp của Liên Xô. Song bên cạnh đó, tranh thủ sự ủng hộ cũng như nhận sự giúp đỡ, viện trợ củaLiên Xô không phải mọi lúc, mọi nơi đều “xuôi chèo, mát mái”…

Trong khối xã hội chủ nghĩa, Liên Xô và Trung Quốc là hai quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự và ảnh hưởng chính trị to lớn, quan trọng, hàng đầu không chỉ trong nội bộ khối, mà cả trên thế giới. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam đứng trước những thách thức, trở ngại, khó khăn, Liên Xô, Trung Quốc cũng là hai nước chủ yếu viện trợ, giúp đỡ Việt Nam kháng chiến. Tuy nhiên, mâu thuẫn Xô – Trung là một trong những trở ngại chính, ảnh hưởng đến hiệu quả ủng hộ, đến khả năng phối hợp hành động.

Ở vào bối cảnh quan hệ với Trung Quốc rơi vào “điểm chết”, Trung Quốc thậm chí đã coi Liên Xô là “kẻ thù số một” còn nguy hiểm hơn cả Mỹ, không ngừng tập hợp lực lượng, tuyên truyền, vận động chống Liên Xô, Liên Xô luôn lo ngại ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam. Liên Xô phê bình Việt Nam để “cái bóng Bắc Kinh” phủ xuống quan hệ Việt – Xô, Việt Nam “thiên vị Trung Quốc”, phụ thuộc vào Trung Quốc trong đường lối đánh Mỹ và đường lối quốc tế, để bàn tay của Trung Quốc nhúng sâu vào chiến tranh Việt Nam. Liên Xô chỉ trích Việt Nam: “Khi Trung Quốc vu khống Liên Xô, Việt Nam không phản đối, chỉ im lặng, mà im lặng tức là đồng ý”[69]. L.I.Breznierv từng nhận xét: “Chúng tôi nhìn thấy ở Việt Nam những biểu hiện phản ánh sự phụ thuộc vào Trung Quốc”[70].

Giúp đỡ Việt Nam, Liên Xô mong muốn Việt Nam đứng hẳn về phía Liên Xô, yêu cầu Việt Nam “phải lựa chọn dứt khoát một con đường hoặc dựa vào Liên Xô hoặc tiếp tục liếc nhìn Trung Quốc”[71]. Để kéo Việt Nam ra xa Trung Quốc, Liên Xô tìm cách đẩy Việt Nam xích mích với Trung Quốc, yêu cầu Việt Nam tự đàm phán về vận chuyển hàng quá cảnh của Liên Xô qua lãnh thổ Trung Quốc, hy vọng qua đó, Việt Nam nhận ra bản chất của người anh em “môi hở răng lạnh”.

Trong điều kiện mâu thuẫn Xô – Trung ngày càng trầm trọng, Liên Xô chủ trương vận động Trung Quốc phối hợp hành động, vừa nhằm tạo thuận lợi cho việc ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, vừa nhằm đặt Trung Quốc vào thế khó xử nếu không chấp thuận.Liên Xô cảnh báo Việt Nam: “Phải để mắt tới các hoạt động của họ, cụ thể là việc vận chuyển vũ khí và huấn luyện quân sự của họ. Nếu không, quan hệ giữa hai nước chúng ta có thể chuyển từ tốt sang xấu, ảnh hưởng đến hợp tác giữa hai nước”[72].

Khi Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở Đông Nam Á và Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh của Liên Xô đang tích cực mở rộng ảnh hưởng tại khu vực này, Liên Xô khởi động lại chính sách châu Á, coi Việt Nam "là một kênh quan trọng giúp Liên Xô có thể thâm nhập vào khu vực Đông Nam Á, cô lập, ngăn cản chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc, không rơi vào thế yếu một khi Trung Quốc hòa hoãn với Hoa Kỳ"[73]. Vì thế, viện trợ cho Việt Nam, giúp Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, Liên Xô còn có mục tiêu kiềm chế Trung Quốc, lan tỏa ảnh hưởng, làm cho Việt Nam gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc Liên Xô hơn. Tháng 4-1968, Liên Xô đề nghị đặt một hệ thống cố vấn quân sự từ Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, các Cục chủ yếu của Bộ Tổng tham mưu, Tổng Cục hậu cần, các quân chủng đến các đơn vị quân đội Việt Nam có trang bị vũ khí của Liên Xô với tổng số khoảng 273 người[74]. Trong cuộc gặp gỡ cấp cao tháng 3-1967, Liên Xô gợi ý cử cố vấn bên cạnh Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam[75]. Về yêu cầu của Liên Xô, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị không đồng ý chấp nhận, song xử lý phải hết sức khéo léo.

Một cách tổng quát, những năm 1965-1972,nhìn  nhận, phân tích những mảng khuất đằng sau sự ủng hộ, giúp đỡ củaLiên Xô đối với Việt Nam, có thể thấy:

Một là,thái độ tiêu cực của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam ở một số thời điểm, trong một số vấn đề dừng lại ở giới hạn nhất định. Dù còn có những quan điểm không thống nhất với Việt Nam, song nhìn chung, Liên Xô chủ yếu trao đổi, bàn bạc, ít khi áp đặt, không ra điều kiện, không ra tối hậu thư, các bất đồng giữa Liên Xô và Việt Nam không bị trầm trọng hóa, dừng lại trong phạm vi hẹp.

Hai là, Liên Xô giúp Việt Nam vì nghĩa vụ với đồng minh, vì sự gắn bó ý thức hệ, vì tình cảm của nhân dân Liên Xô đối với Việt Nam, song còn vì Việt Nam kiềm chế, làm cho Mỹ suy yếu, sa lầy có lợi cho Liên Xô, tạo điều kiện để Liên Xô cân bằng thế  chiến lược với Mỹ. Hết lòng giúp Việt Nam, Liên Xô còn có mục tiêu đề cao vị thế trong phong trào cách mạng thế giới, tranh thủ các nước dân tộc, làm thất bại tính toán mở rộng vùng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và khả năng “nói chuyện” với Mỹ của Trung Quốc – đối thủ mà về lâu về dài, Liên Xô cho rằng sẽ hết sức nguy hiểm.

Thứ ba,ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, cứu nước, ngoài yếu tố ý thức hệ, Liên Xôđồng thời theo đuổi, thực hiện và đảm bảo những lợi ích quốc gia riêng, dung hòa giữa lợi ích quốc gia dân tộc với yếu tố ý thức hệ, trong đó lợi ích quốc gia là yếu tố bất biến, quyết định. Đó cũng là cơ sở, là điểm quy chiếu quan trọng cho việc nhìn nhận, lý giải, đánh giá mức độ, cách thức, yêu cầu và mục tiêu… của từng giai đoạn, nội dung và cách thức ủng hộ của Liên Xôđối với Việt Nam trong nhữngnăm kháng chiến chống Mỹ.
 
Nguyễn Thị Mai Hoa


[1]Letter from Allen S. Whiting to Henry Kissinger, 16 August 1969, enclosing report, "Sino-Soviet Hostilities and Implications for U.S. Policy",National Archives, Nixon Presidential Materials Project, box 839, China.
[2]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh mật của Liên Xô, Nxb. Yauza, Eksmo,M, 2008, (tiếng Nga), tr. 189.
[3]Soviet TacticsConcerningVietnam, 15 July 1965, CIA  Released Documents,  National Archivesand Records Administration, Special Memorandum RO,13-65.
[4]Đảng Cộng sản Liên Xô qua các nghị quyết, quyết định của các đại hội, hội nghị và các phiên họp toàn thể của Ủy ban Trung ương(1898-1986), Nxb Chính trị, M, 1983, tr. 378.
[5]Bản ghi nhớ về viện trợ quân sự giữa Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại diện Chính phủ Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 21-10-1965, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 140, tài liệu số 55, tr.2.
[6]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 189.
[7]Từ năm 1965 đến năm 1972, Việt Nam và Liên Xô đã ký kết gần 20 thỏa thuận, cam kết, ghi nhớ và hiệp định về viện trợ quân sự.
[8]Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-5-1965(tài liệu giải mật), Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 114, tài liệu số 15, tr.4.
[9]Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày  26-10-1965, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 140, tài liệu số 55, tr.2.
[10]Sources of Military Equipment to North Vietnamese Military Forces,1975, Archives,The International Institute For Strategic Studies, Volume I,p.5.
[11]Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày  28-12-1967, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 152, tài liệu số 5, tr.3.
[12]Sources of Military Equipment to North Vietnamese Military Forces,1975, Tlđd,p.7.
[13]Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô-viết về viện trợ quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967,tài liệu trữ Bộ Quốc phòng, phông BTTM, hồ sơ 1146.
[14]Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô-viết về viện trợ quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967,Tlđd.
[15]Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô-viết về viện trợ quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967,Tlđd.
[16]Tổng cục Hợp tác quân sự quốc tế, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, trực tiếp điều phối và thực hiện viện trợ quân sự cho Việt Nam.
[17]Tỷ giá quy đổi USD theo tỷ giá hối đoái chính thức của Liên Xô:1USD =0,9 rúp.
[18]Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết,ngày 30-12-1968, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 145, tài liệu số 21, tr.6.
[19]Sources of Military Equipment to North Vietnamese Military Forces,1975, Archives,The International Institute For Strategic Studies, Volume II,p.7.
[20]Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết,ngày 30-12-1967, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 142, tài liệu số 26, tr.7.
[21]Tổng hợp số liệu, (tài liệu họp Quân ủy Trung ương), Quân ủy Trung ương, 1969, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ, Bộ Quốc phòng, tr.119.
[22]Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống kê số liệu viện trợ quốc tế, hồ sơ 795, sô 15.
[23]Bộ Tổng tham mưu, Báo cáo Thường trực Quân uỷ Trung ương về đề nghị các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ quân sự năm 1968,ngày 8-5-1967, tài liệu trữ Bộ Quốc phòng, phông BTTM, hồ sơ 1150.
[24]Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống kê số liệu viện trợ quốc tế, Sđd.
[25]V.A. Zolotareva (chủ biên): Nước Nga (Liên Xô) trong các cuộc chiến tranh cục bộ và các xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Nxb. Politresyrxu, M, 2000, (tiếng Nga), tr.100.
[26]V.A. Zolotareva (chủ biên): Nước Nga (Liên Xô) trong các cuộc chiến tranh cục bộ và các xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.100.
[27]V.A. Zolotareva (chủ biên): Nước Nga (Liên Xô) trong các cuộc chiến tranh cục bộ và các xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.100.
[28]Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết,ngày 30-12-1972, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 150, tài liệu số 25, tr.8.
[29]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 326.
[30]Báo cáo của Đại sứ quan SSSR tại Việt Nam gửi  Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày  25-12-1966, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 142, tài liệu số 12, tr.8.
[31]States of Sovist and Chinese Military Aid to North Vietnam,Special Report, Page 5, Central- intelligence agency,CIA  Released Documents,  National Archivesand Records Administration.
[32]A.I.Hyupenen, Hỗ trợ kỹ thuật quân sự của Liên Xô cho Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ, Tuyển tập “Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…”, M, 2000, (tiếng Nga), tr.44.
[33]Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1975, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 160, tài liệu số 20, tr.9.
[34]Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tlđd, quyển 12.
[35]Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, quyển 12, Tlđd.
[36]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 345.
[37]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 348
[38]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 349.
[39]Thiếu tướng G.A. Belov là Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam từ tháng 9-1965 đến tháng 10-1967. Trước đó, Đại tá A.M. Dưza phụ trách nhóm chuyên gia Phòng không từ tháng 4-1965 đến tháng 9-1965.
[40]B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, M. 2003, tr.40.
[41]B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.40.
[42]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 349.
[43]Alexander Okorokov: Những cuộc chiếntranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 350.
[44]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, M, 2000, tr.44.
[45]B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.47.
[46]B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.47.
[47]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, M, 2000, tr.234.
[48]P.A.Iacolevik: Đặc thù công việc kỹ sư trưởng trung đoàn tên lửa phòng không ở Việt Nam, M, 2008, (tiếng Nga), tr.6.
[49]V.B.Alecsandrovik: Nhật ký chỉ huy trưởng nhóm chuyên gia quân sự Liên Xô ở Việt Nam, M, 2008, (tiếng Nga), tr.56.
[50]V.B.Alecsandrovik: Nhật ký chỉ huy trưởng nhóm chuyên gia quân sự Liên Xô ở Việt Nam, TLđd, tr. 26.
[51]I.P. Ivanovik: Những chiếc MiG trên bầu trời Việt Nam, M, 2012, (tiếng Nga), tr. 77.
[52]I.V. Gaidyk: Liên bang Xô viết và chiến tranh Việt Nam, M, 1996, (tiếng Nga), tr.30.
[53]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, Tlđd, tr.342.
[54]B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.97.
[55]C.G.Ivannovik: Từ ghi chép của nhà thử nghiệm, M, 2009, tr.34.
[56]I.V. Gaidyk: Liên bang Xô viết và chiến tranh Việt Nam, Sđd, tr.30.
[57]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, TLđd., tr.414.
[58]Trong nhóm chuyên gia khoa học tên lửa có nhà khoa học tài năng phụ trách thiết kế tên lửa S-75 và chuyên gia quân sự “huyền thoại I.P.Shavkun”- người đã có công lớn hiện đại hóa tên lửa phòng không SAM, được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng huân chương “Chiến thắng” hạng 1,2,3.
[59]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, TLđd., tr.424.
[60]H.H. Kolecsnik: Về sự tham gia của các chuyên gia quan hệ trong chiến tranh Việt Nam, M, 2009, (tiếng Nga), tr.99.
[61]A. Sirocorad: Những chiếc tàu trinh sát, Tạp chí Đồng đội, Số 1, 2012 (tiếng Nga), tr.14.
[62]R.Aleksandr: Những thủy thủ Xô viết giúp đỡ Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập, chống đế quốc Mỹ, M, 2006, (tiếng Nga), tr.45.
[63]К.V. Asinhinovik: Những trang sử chưa viết của hạm đội Thái Bình Dương, M, 2008, (tiếng Nga), tr.34.
[64]R.Aleksandr: Những thủy thủ Xô viết giúp đỡ Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập, chống đế quốc Mỹ, Tlđd, tr.46.
[65]R.Aleksandr: Những thủy thủ Xô viết giúp đỡ Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập, chống đế quốc Mỹ, Tlđd, tr.48.
[66]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, TLđd, tr.320.
[67]Tạp chí “Sư tử vàng”, số 73-74. Theo Tạp chí này, ngoài 13 chuyên gia quân sự hy sinh do bom đạn Mỹ, còn có 3 chuyên gia mất tại Việt Nam vì bệnh tật.
[68]Tậpthể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, TLđd, tr.324.
[69]Vụ Liên Xô, Bộ Ngoại giao: Về quan hệ Việt-Xô trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước,Tlđd, tr. 49.
[70]The Polish-Soviet Talks in Moscow: October 10-15, 1966, Andrzej Paczkowski, ed. Tajne Dokumenty Biura Politycznego PRL-ZSRR, 1956-1970. London: Aneks Publishers, 1996.
[71]Vụ Liên Xô, Bộ Ngoại giao: Về quan hệ Việt-Xô trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước,Tlđd, tr. 49.
[72]Discussion between Zhou Enlai and Ho Chi Minh, Hanoi,1 March 1965, Ibid.
[73]АлександрОкороков: Секретные войны Советского Союза, Указ. Соч, C.152.
[74]Tài liệu lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ số 569.
[75]Vụ Liên Xô, Bộ Ngoại giao: Về quan hệ Việt-Xô trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, Tlđd, tr. 36. 
(Văn hóa Nghệ An)

Lần trước cắt đá – Lần này cắt gì?

Nguyễn Vũ — DienDanCTM

Cho đến giờ phút này, nhìn lại những trò công an Hà Nội dùng để phá buổi lễ của dân chúng sáng hôm 19-1-2014 trước tượng đài Lý Thái Tổ để tưởng niệm 74 liệt sỹ đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa chống quân Trung Quốc xâm lược, người dân vẫn không thể hiểu được mức tự trọng và sĩ diện của một nhà nước có thể thấp xuống đến mức đó.
Đúng hai cục gạch xi-măng được đưa tới rồi dùng máy điện cưa tới cưa lui để bụi bốc lên mù mịt, tiếng động ầm ĩ cho mất sự nghiêm trang của buổi lễ rồi dùng luôn lý cớ đang thi công xây dựng “2 cục đá vào ngày chủ nhật” để cấm dân chúng tụ tập. Đến khi dân chúng nhìn kỹ thì người “công nhân” miệt mài cưa đá đó chính là Nguyễn Tuấn Khiêm, phó đồn công an phường Tràng Tiền.
Chưa hết, một đám mặc thường phục nhưng lại cầm loa cá nhân có dán nhãn công an làm hành động rất vô văn hóa – chỉa sát loa vào mặt dân và ký giả ngoại quốc mà hét liên tục, cố tình gây hấn để có cớ bắt người. Vẫn chưa hết, một đám thường phục khác lấm lét giật các băng rôn mang các giòng chữ tưởng niệm rồi bỏ chạy như những tên móc túi. Và một đám “lạ mặt” khác xông vào đánh đại một vài người mà chúng cho là “cầm đầu” để có cớ lôi lên xe chở đi.
Tất cả những trò hèn kém trên đã được thu vào ống kính của hàng trăm máy chụp hình của nhân dân và ký giả, đặc biệt là tên “cưa đá”.
Vào ngày chủ nhật 16/2/2014 sắp tới đây, những người Việt yêu nước, thể theo lời kêu gọi của anh chị em No-U Hà Nội, sẽ lại đến trước tượng đài Lý Thái Tổ từ 9 giờ sáng để tưởng nhớ và tôn vinh những người con đã ngã xuống để bảo vệ biên giới suốt 10 năm trời 1979 – 1989. Đây là lần tưởng niệm thứ 35 ngày mấy trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang 6 tỉnh biên giới phía bắc 17/2/1979.
Mọi người sắp tham gia ngày 16/2 tại tượng đài Lý Thái Tổ đều tiên đoán giới lãnh đạo đảng sẽ lại ra lệnh cho công an giở các trò còn hèn kém hơn cả ngày 19/1 vì những lý do sau đây:
1. Hoàng đế Bắc triều Tập Cận Bình vừa ra chỉ thị trực tiếp cho Tổng Bí Thư đảng CSVN rồi. Tin tức đã lan khắp Hà Nội và cả nước về cú gọi điện thoại dây nóng của Bác Tập. Sau đó báo lề phải đã phải xác nhận nhưng chỉ đổi ngày đi thôi. Đó là lệnh cấm: không được để người dân Việt tưởng niệm những chiến sĩ và đồng bào của họ đã hy sinh trong những trận chiến bảo vệ đất nước chống Trung Quốc xâm lược tại Hoàng Sa năm 1974, dọc theo biên giới phía Bắc từ 1979 đến 1989, và tại Trường Sa năm 1988. Một bằng cớ quá rõ là ngay sau cú điện thoại này, mọi buổi lễ tưởng niệm Hoàng Sa, ngay cả buổi do chính nhà nước tổ chức rình rang ở Đà Nẵng, đều lập tức bị hủy bỏ. Bài vở đã đăng trên các báo mạng lập tức bị gỡ xuống. 2. Lần này không chỉ để tưởng niệm 74 chiến sĩ Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, một thể chế bị xem là thù địch, nhưng cuộc tổ chức kỷ niệm Ngày Biên Giới Việt Nam lần này là để tiếc thương hàng trăm ngàn quân và dân Việt đã chết ngay tại các tỉnh biên giới phía Bắc trong suốt 10 năm trường. Theo các phóng chiếu của giới quan sát quốc tế (vì lãnh đạo đảng vẫn không dám công bố) thì hàng vạn các chiến sĩ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã chết khi chiến đấu trong chỉ 1 tháng (17/2 đến 18/3) năm 1979 và hàng vạn chiến sĩ khác đã hy sinh trong các trận năm 1984 quanh các cao điểm tại Thanh Thủy, Hà Giang. Trong khi đó, vô số người dân Việt đã chết vì đạn pháo của giặc trên đường sơ tán; chết vì bị quân Trung Quốc tràn vào hãm hiếp, tàn sát, đốt phá mà nay vẫn còn các nhân chứng; và chết vì số mìn của địch gài lại cho đến ngày nay. Con số thương tích và tàn tật suốt đời còn cao hơn nữa. 3. Tội ác của Bắc Kinh dọc theo biên giới quá cao! và chính vì vậy mà tội của giới lãnh đạo Việt Nam trước thiên triều cũng sẽ rất cao nếu họ không chận được các buổi lễ tưởng niệm của người dân Việt và các nỗ lực ghi khắc sự thật vào lịch sử Việt Nam cho các thế hệ tương lai.
(Cũng xin mở ngoặc tại điểm này: Với những gì mà ai cũng biết sắp xảy ra ngày 16/2/2014 tới đây và nghĩ lại những lời tuyên bố quanh ngày UPR vừa qua, người ta mới thấy da mặt ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao, dày cỡ nào khi ông khẳng định nhà nước của ông bảo vệ nhân quyền quá tốt mà các thế lực xấu cứ xuyên tạc. Nếu vậy, sáng ngày 16/2, ông Phạm Bình Minh nhớ dẫn cả 23 cán bộ thuộc phái đoàn UPR của VN đến tượng đài Lý Thái Tổ để hít thở cái không khí tràn ngập nhân quyền nhé.)

Nhưng một lần nữa, các trò hèn kém của công an sẽ chẳng ngăn được lòng yêu nước của dân tộc Việt mà chỉ lại được ghi vào hàng trăm máy chụp hình của dân chúng như những chân dung của các lãnh đạo đảng và nhà nước. Một nhà dân chủ tại Hà Nội đã nhận xét: “Nếu lần này, công an Hà Nội vẫn giở lại các trò cũ thì lãnh đạo đảng không chỉ cắt đá, mà cắt nhừ tử luôn ngọn cờ dân tộc mà bấy lâu nay họ vẫn cứ quấn vào người để độc quyền lãnh đạo.”

Dương Chí Dũng có đơn tố cáo đưa tiền cho người “mật báo“


Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong tháng 2.2014 của Ban Nội chính Trung ương là tập trung thực hiện nhiệm vụ Ban Bí thư giao về việc giải quyết tố cáo của bị can Dương Chí Dũng.
Nội dung này được thể hiện trong báo cáo về tình hình, kết quả công tác tháng 1, nhiệm vụ công tác tháng 2.2014 của Ban nội chính Trung ương.
Ngày 14.2, trao đổi với Tuổi Trẻ, một lãnh đạo Ban Nội chính Trung ương xác nhận tố táo của ông Dương Chí Dũng gồm có hai nguồn là bằng đơn thư và lời khai tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ Dương Tự Trọng. Trong số các nội dung tố cáo có nội dung liên quan đến người đã “mật báo” cho Dương Chí Dũng trốn trước khi cơ quan chức năng tiến hành lệnh bắt và lời khai về việc ông Dương Chí Dũng đưa tiền cho người đã báo tin nêu trên.
Nhiệm vụ giải quyết tố cáo của ông Dương Chí Dũng mà Ban Nội chính Trung ương được giao là theo “kênh” quy định trong Đảng, còn các nội dung tố tụng khác có liên quan vẫn tiến hành theo quy định của pháp luật.
Cũng trong tháng 2.2014, Ban Nội chính Trung ương sẽ theo dõi, đôn đốc, báo cáo kịp thời về tình hình, kết quả giải quyết các vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo, Ban Nội chính Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương theo dõi, chỉ đạo, đôn đốc xử lý.
Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ án: Phạm Thị Bích Lương và đồng phạm vi phạm quy định về cho vay, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thiếu trách nhiệm; Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm cố ý làm trái, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kinh doanh trái phép và trốn thuế; Yũ Việt Hùng và đồng phạm nhận hối lộ, vi phạm quy định về cho vay, lừa đảo chiếm đoạt tài sản; vụ việc sai phạm xảyra tại Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PGBank); vụ việc sai phạm xảy ra tại Công ty dịch vụ Agribank…
Theo Noichinh.vn- Tuổi Trẻ

Nguyễn Trần Sâm - 17-2, nghĩ về tình đồng chí và những cuộc tương tàn

Mỗi năm, cứ đến ngày 17 tháng 2, những người đã từng phải tham dự vào trận chiến Việt-Trung hoặc trực tiếp hứng chịu những hậu quả mà nó gây ra lại phải nhớ lại ngày này với tâm trạng đau buồn. Đau vì máu của người thân lại đổ, và đau vì những kẻ gây ra cảnh đổ máu chính là những kẻ mà chỉ ngày hôm qua thôi ta cứ tưởng chúng là anh em của ta. Tình đồng chí, điều mà bao năm ta tưởng là thiêng liêng nhất, hóa ra chỉ là trò giả dối. Những người “đồng chí” nã đạn vào nhau, băm vằm xâu xé nhau!
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/1/12/A_Chinese_prisoner_in_Vietnam.jpg

Chỉ có điều, chỉ những người đồng chí cấp dưới mới phải hứng chịu bom đạn, lưỡi lê, dao găm, và cả gậy gộc. Những đồng chí cấp dưới, và hơn thế, là “quần chúng”, những người “chưa đủ tư cách” để được gọi nhau bằng từ “đồng chí” – họ mới là những kẻ phải chết hay mang thương tật suốt đời vì cuộc chiến. Còn với các đồng chí trên cao kia, cuộc chiến chỉ là “chiến tranh tư tưởng”.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, các đồng chí nước đàn anh phương Bắc, sau khi đã ôm hôn kẻ thù truyền kiếp là đế quốc Mỹ, xua quân tràn xuống các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta, tàn sát hàng vạn người dân vô tội.
Trước đó, vào năm 1975, ngay sau khi được Việt Nam giúp hoàn thành việc cướp chính quyền từ tay tập đoàn Lon Nol, các đồng chí Khmer Đỏ đã gây ra cuộc chiến tranh biên giới, xâm nhập lãnh thổ Việt Nam và chém giết dân lành.
Lùi về trước 6 năm, vào năm 1969, các đồng chí hai nước anh cả và anh hai nện nhau ở cái đảo mà anh cả gọi là Damansky, anh hai gọi là Trấn Bảo, trên sông Amur hay Hắc Long Giang. (Đó chỉ là một trong những sự thể hiện thái độ sau mấy năm các đồng chí Trung Quốc điên cuồng chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại” của tập đoàn đồng chí Khruschëv ở Liên Xô.)
Không phải chỉ có những cuộc tương tàn của các đồng chí ở những nước khác nhau. Các đồng chí trong cùng một đảng cũng trừ khử nhau. Những phó chủ tịch của đảng đàn anh láng giềng phương Bắc của chúng ta, ngày hôm trước còn được gọi là “bạn chiến đấu thân thiết của Người”, ngày hôm sau đã trở thành kẻ thù của cách mạng, thành tay sai của chủ nghĩa đế quốc, và bị Hồng Vệ Binh đập chết như con chó ngay tại chỗ hoặc bị hành hạ chết dần trong tù. Ở nước anh cả tuy không đến mức man rợ như vậy, nhưng đồng chí lãnh tụ thời kỳ 1922-1953 đã cho hành quyết hàng chục đồng chí tướng soái và hàng ngàn đồng chí cấp thấp hơn.
Ở cái quốc gia bè bạn ngang hàng với ta, CH “Dân Chủ Nhân Dân” Triều Tiên, các đồng chí lãnh tụ họ Kim vĩ đại cũng sắt máu đến ghê sợ. Mới đây thôi, đồng chí Kim Ủn vừa hành quyết đồng chí chồng của bà cô ruột, người nâng đỡ đồng chí Ủn trong những bước đi ban đầu của công cuộc cai trị đất nước.
Hẳn bọn dân ở các nước tư bản thối tha phải rùng mình khi biết đến cách hành xử với nhau giữa những người đồng chí.
Một việc làm tuy trái ngược với sự gây chiến, nhưng tệ hại không kém, là chỉ vài năm sau cuộc tương tàn, vài năm sau thời gian từng coi nhau là kẻ thù tồi tệ nhất, họ lại tay bắt mặt mừng, ôm hôn nhau thắm thiết, lại gọi nhau là đồng chí. Nó tệ hại bởi các đồng chí ở bên từng bị tấn công đã bán rẻ dân mình. Nó tệ hại, bởi sự tráo trở, đổi trắng thay đen. Nay đồng chí, mai thù, ngày kia lại đồng chí,… Sự tráo trở, đổi trắng thay đen đó ở lớp người thao túng xã hội có tác động ghê gớm làm băng hoại đạo đức xã hội. Chẳng lẽ cái lý luận cao siêu mà người dân thường, kể cả những người có học thực sự, chẳng thể nào hiểu nổi, là như thế hay sao?
Đã bao năm nay, hàng ngày ta vẫn nghe những người đồng chí nói về việc những kẻ xấu, những phần tử thoái hóa biến chất, các thế lực thù địch thường xuyên bịa đặt để bôi nhọ họ. Nhưng nhìn lại lịch sử quan hệ giữa chính họ với nhau thì chỉ kẻ ngu mới không tự hỏi: Ai mới thực sự là kẻ bôi tro trát trấu vào mặt họ? Cũng chỉ kẻ đui mù mới không thấy câu trả lời là: Chính họ! Nếu không thì chẳng lẽ những chuyện như nói trên là bịa đặt? Không hề!
Vậy chúng ta hãy nhớ lấy! Tất cả những ai còn cảm thấy mình có lương tri, hãy nhớ rằng đã từng có những chuyện tày đình như vậy.
Và đừng bao giờ quên ngày 17 tháng Hai!
Nguyễn Trần Sâm
(Quê Choa)
 

Bữa quốc yến ở Mỹ và sự đáng thương của chai vang Đà Lạt

Người Việt, giờ không thể nhớ tới một thương hiệu rượu Việt nào cho ra hồn. Trừ rượu nếp “Hà Nội 29”
Thực đơn “Quốc yến” mà Tổng thống Mỹ, đất nước giàu nhất thế giới chiêu đãi thượng khách, cũng là đồng minh chiến lược, đã được tiết lộ tràn ngập trên báo chí vào ngày hôm qua.
Món trứng cá muối, từ loại cá nuôi ở các cửa sông của bang Illinois; Trứng chim cút bang Pennsylvania. Món sa lát mang cái tên mỹ miều “Khu vườn Mùa đông” được lấy từ “rau vườn nhà” của đệ nhất phu nhân.
Món chính bao gồm sườn bò được mang tới từ một trang trại của gia đình tổng thống ở Colorado, ăn kèm với khoai tây chiên tới từ Vermont.

Kem vani có nguồn gốc từ bang Pennsylvania; kẹo bông rắc vỏ cam, kẹo mềm làm từ siro của cây phong ở bang Vermont. Và rượu trong quốc yến là loại được đặt từ từ California và Vigirnia, nơi vị khách được chiêu đãi, Tổng thống Pháp Francois Hollande vừa tới thăm.
Sở dĩ phải liệt kê dài dòng tất cả các món ăn trong bữa tiệc, là để nhấn mạnh nguồn gốc nội địa của tất cả các loại thực phẩm cho một bữa tiệc nhà nước. Và không ngẫu nhiên, khi “đọc vị” thực đơn, khối anh nông dân Mỹ có thể cười phá lên rằng “Quốc yến cũng thường thôi”, hoặc tự tin hơn, hoàn toàn có thể ngỏ lời mời khánh tới dự một “quốc yến” tại gia với các loại sơn hào hải vị thậm chí còn hoành tráng hơn cả Nhà Trắng.
Nói đến chai rượu “Quốc yến” chỉ có giá 30 USD lại nhớ đến chai vang Đà Lạt.
Hồi hội nghị APEC diễn ra năm 2006, nông dân Đà Lạt đã sướng đến tê người khi Thủ tướng Chính phủ chọn vang Đà Lạt làm thức uống chính thức chiêu đãi các nguyên thủ quốc gia. Quyết định ấy bấy giờ gây cảm hứng đến mức có người “thổn thức lên mây xanh”, rằng “Cũng là đồ uống, vang Đà Lạt chất lượng cao thì có cơ may tồn tại và phát triển, còn nếu đi vào con đường “làm theo” ra vang Bordeaux hay vang California thì có bỏ công của ra gấp 5 10 lần nhưng sản phẩm chính quốc sẽ vẫn mãi mãi tụt hậu, phá sản cầm chắc trong tay”.
Nhưng sau 7-8 năm, điều gì đang xảy ra? Vang Pháp đang thống lĩnh toàn bộ thị phần rượu vang. Sau vang Pháp, hồi tháng 11 năm ngoái, một báo cáo cho biết vang Úc cũng len chân vào thị phần ít ỏi còn sót lại với 15% thị phần.
Vấn đề đã có từ trước vẫn tồn tại sau đó: Người Việt hầu như không “tự hào hàng Việt” trong thực tế.
Không chỉ rượu vang, giờ đến lượt bò Úc cũng được nhập nguyên con, đàn áp không thương tiếc bò Việt trên thị trường với giá bán không chênh lệch bao nhiêu. Rồi sau bò, đến lượt lô 600 con trâu đầu tiên vào Việt Nam. Ngay cả đến “café số 1 thế giới” giờ cũng tủi phận “ẩn nấp” trong cái bóng nước ngoài.
Tuần trước BBC vừa làm một phóng sự điều tra cho biết lượng cà phê tiêu thụ tại Anh có nguồn gốc từ Việt Nam và đang đứng đầu thị trường này. Nhưng xem phóng sự, không ai mừng cả khi đằng sau đó là một sự thật mà có người gọi là “đắng hơn café”. Ấy là “khi tiêu thụ tại Anh thì cà phê Việt Nam đã được pha chế qua bàn tay của các nhà sản xuất Brazil. Nghĩa là nó đã khoác một cái vỏ bọc là cà phê Brazil và hầu hết người uống cà phê ở Anh vẫn tin đó là cà phê Brazil”.
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang chờ phía trước với việc cánh cửa bảo hộ phải mở toang. Vang Đà Lạt sẽ ra sao khi những chai rượu vang Cali, có mặt trong Quốc yến của Tổng thống Mỹ sẽ tràn vào Việt Nam khi thuế xuất trở về 0%?
Tất nhiên không thể đổ hết trách nhiệm lên người tiêu dùng khi giờ đây họ không thể nhớ tới một thương hiệu rượu Việt nào cho ra hồn. Trừ rượu nếp “Hà Nội 29”.
Đào Tuấn
(Blog Đào Tuấn ) 

Đặng Huy Văn - Mẹ già thao thức Vị Xuyên!

Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên, nơi yên nghỉ của hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc Ảnh: ĐÌNH THẮNG
Đặng Huy Văn: Một người em họ của tôi có cha đẻ đã bị bọn cố vấn CCRĐ của TQ chỉ đạo bắn chết oan năm 1955, khi chú ấy mới lên 3 tuổi. Mẹ của chú phải nuôi 2 anh em côi cút đến năm 1970 thì chú ấy phải nhập ngũ đi Nam ra trận. Năm 1976, chú ấy được xuất ngũ về quê chuẩn bị lập gia đình thì giữa năm 1979 lại bị tổng động viên nhập ngũ trở lại đánh Tàu trên Biên Giới. Ngày 12/7/1984, trong một trận tử chiến với giặc Tàu xâm lược để giành lại các cao điểm đã bị giặc Tàu chiếm đóng, chú ấy đã hi sinh cùng với hàng mấy trăm cán bộ chiến sĩ của sư đoàn 356 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang nhưng chưa tìm thấy xác. Từ đó tới nay đã ngót 30 năm, người em trai kém 2 tuổi và bà mẹ già của chú ấy đã nhiều lần lên Hà Giang tìm xác, kể cả nhiều lần gọi hồn nhưng đến nay vẫn chưa tìm được.

Nhân 35 năm ngày 17/2/1979, tôi xin trân trọng gửi bài viết này tới quý vị độc giả như một nén tâm nhang kính viếng hương hồn những người anh hùng đã ngã xuống nơi Biên Cương trong cuộc chiến tranh chống giặc Tàu 1979-1989 để bảo vệ Tổ Quốc thiêng liêng trước kẻ thù xâm lăng truyền kiếp của dân tộc!

Mẹ già thao thức Vị Xuyên!
(Viết theo lời người em họ)

Đào khắp Đồi Xanh, Nậm Ngặt(1)
Đã non ba chục năm rồi
Tát cạn suối khe lên hỏi
Mà chưa thấy xác anh tôi!

Mẹ đã gọi hồn nhiều nơi
“Anh về” chỉ khóc không nói
Hay giặc cắt cổ anh rồi
Vứt đầu bên kia Biên Giới?

Nậm Ngặt có người sống sót
Kể rằng buổi sáng có anh
Nhưng chiều hi sinh nhiều quá
Không còn ai để điểm danh!

Hay là anh qua Đồi Xanh
Yểm trợ cho đơn vị khác
Rồi giặc xả đạn vào anh
Lăn xuống bờ khe lạc xác?

Hay anh sang bên Khe Cụt
Bị giặc bắt làm tù binh
Tra khảo mà anh không nói
Giặc đem ra suối tử hình?

Rồi chúng vứt luôn xác anh
Xuống dòng nước khe Thanh Thuỷ
Quạ tha, chồn gặm, chim giành
Tan cả đầu lâu thân thể?

Hay là anh sang cao điểm
772 diệt giặc Tàu
Trúng đạn trên đồi xối xả
Xác vùi tận dưới hào sâu?(2)

Mà đâu chỉ có mình anh
Hàng mấy trăm người cả thảy
Vào ngày 12 tháng Bảy
Xương rơi thịt nát tan tành!

Bởi đâu mà ra nông nỗi?
Nói đi! Hay anh sợ người?
Sẽ bắt anh vào ngục tối
Như xưa còn sống anh ơi!

Hay anh khiếp quân cộng sản?
Cải cách đã bắn oan cha!(3)
Bắt nội đi tù cải tạo
Để chia quả thực ngôi nhà…

Bây giờ quân Tàu cộng sản
Tràn sang giết hại dân ta
Vậy mà “cụ” Hồ ca ngợi
“Thắm tình hữu nghị Việt Hoa!”

Hay “cụ” cùng phe Tàu cộng
Cải cách mượn chúng giết dân(4)
Rồi nghe Tàu gây nội chiến
Giết người theo kiểu Mậu Thân?

Ngày trước mỗi lần ra mộ
Viếng cha anh vẫn nguyện cầu
Ước gì không còn cộng sản
Giết người như Pốt, như Mao…

Thì nay chính tay cộng sản
Giết anh xác lạc vùng biên
Em tìm nhiều năm chưa được
Mẹ già thao thức Vị Xuyên!

Có thiêng, anh về với mẹ
Năm nay đã chẵn trăm rồi
Chưa “gặp anh” nên chưa thể
Xuống cùng cha đó, anh ơi!

Hà Nội, 15/2/2014
Đặng Huy Văn



TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1). Khắc khoải Vị Xuyên: Không thể lãng quên | Báo Người Lao Động ...
(2). KHẮC KHOẢI VỊ XUYÊN: Đón anh trở về | Báo Người Lao Động ...
(3). Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt
(4). Hồ sơ tội ác cuộc Cải Cách Ruộng Đất (1949-1956) | VINH DANH ...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét