Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

Tin thứ Bảy, 05-01-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Thêm bản đồ cổ khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa (TN).  - Một độc giả sáng nay gửi tới một số thông tin liên quan với cựu TBT báo Cựu chiến binh VN và tờ lịch năm nay không có quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ VN. Chưa có điều kiện kiểm chứng thông tin này, chúng tôi tạm đăng lên một trang phụ để qua đó nhờ độc giả giúp làm rõ: Về tờ lịch Năm 2013 của Hội Cựu chiến binh VN.   - Thơ tình người lính biển (DT).  - Cứu tàu bị gãy trục trên biển (DV).
- TN: Trung Quốc tập trận phi pháp ở Hoàng Sa, nhưng “người phát ngôn” ta thì đã bị bịt loa. - Trung Quốc tập trận hàng loạt ở Biển Đông, Hoa Đông (DT).   - Trung Quốc tập trận ở Tam Sa (VOA). Hiện có khoảng 1.000 cư dân Trung Quốc sinh sống tại Tam Sa nhưng có ít nhất 6.000 binh sĩ đồn trú sau khi nơi này được nâng cấp lên thành phố hành chính cấp huyện”. 
Trung Quốc-Biển Đông: Những mưu toan không thể che giấu bằng lời (TQ).  - Biển Đông : Trung Quốc tiếp tục tung tín hiệu hù dọa láng giềng (RFI). - Trung Quốc điều tàu Liễu Châu ra biển Đông (PLTP). - Lo ngại Bắc Kinh phô trương cuộc chạy đua vũ khí (TTXVN). - Lộ sát thủ cả ngày lẫn đêm của Hải quân Trung Quốc (PN Today). - Trung Quốc lại “gây bão” ở Biển Đông (VnMedia). - Sau Trung Quốc, đến lượt Đài Loan phản đối Luật Biển của Việt Nam (RFI).
H1<= Tứ lựu đạn” – Thanh, Vịnh “nổ” Bình, Bình. – “Búa Liềm” không làm nên thầy tu (DLB).  Vậy là 4 ông Tứ Lựu Đạn này còn có tên: Thanh, Vịnh nổ Bình Bình. – Hoang Lan Moc Chau: MẤY LỜI CHẤT VẤN TƯỚNG NGUYỄN CHÍ VỊNH: Biểu tình chống TQ mà ‘gây bất ổn’ à ? Tổ cha nó!  –  Trùm Chăn: Biểu tình chống TQ mà ‘gây bất ổn’ à ? Tổ cha nó! (DĐCN).
- Đoàn Hưng Quốc: Tướng Nguyễn Chí Vịnh nên tìm học tư tưởng của Mao và Đặng (BoxitVN). – TS Nguyễn Ngọc Chu: Cảnh giác với tương đồng ý thức hệ.
- Chiến lược chống quân xâm lược Bắc Kinh của đảng và nhà nước (DLB).  – Nguyễn Hưng Quốc: Chủ nghĩa đầu hàng (VOA’s blog). Trung Quốc ức hiếp họ đến mấy, họ vẫn cứ nhịn. Trung Quốc chửi: họ nhịn. Trung Quốc đánh: họ nhịn … ”.
- Biểu tình chống Trung Quốc tại sao lại không nên? (RFA). Lúc này người dân hiểu ra rằng chính sách nối liền hai Đảng Cộng Sản đã khiến Việt Nam mạnh tay đàn áp biểu tình”. Không nên, vì sẽ ảnh hưởng đến tình bạn “16 chữ vàng” và “bốn tốt”!

- HẺM BUÔN CHUYỆN (KỲ 52): Đồng chí “còn đảng, còn mình” (Nhật Tuấn).
Nhật – Hàn muốn san bằng bất đồng về quá khứ và tranh chấp lãnh thổ (RFI). - Nhật Bản, Nam Triều Tiên ra sức giảm thiểu căng thẳng (VOA).
Học giả Trung Quốc tố Mỹ bao vây trên biển (ĐV).
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN KÊU GỌI THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI (TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 9) (BoxitVN).
- Tô Văn Trường: HIẾN PHÁP DÂN CHỦ LÀ TẤT YẾU  CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (Bùi Văn Bồng). – Kịch liệt phản đối việc bỏ điều 4 Hiến pháp (DLB).  - Góp ý bản soạn thảo Hiến pháp Cộng hòa Việt Nam:  Đề nghị  hoãn ngay việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp 1992 (Phạm Văn Điệp). “Góp ý này đã gửi vào trang Góp ý online của Quốc hội, nhưng đã không được hiển thị“. Tác giả bài viết này cũng đã công phu soạn thảo một bản Dự thảo Hiến pháp.
- Nguyễn Hoàng Hải, Berlin- CHLB Đức: Góp ý sửa đổi hiến pháp 1992: Đừng bỏ qua lời dân dã (DV). “Sợ nhất chính là số người góp ý không đủ đại diện cho các tầng lớp nhân dân”. Từ “dân dã” trên tựa bài nghe không ổn.   - Quy định một số quyền dân chủ trực tiếp (TP). - Hiến pháp sửa đổi: Tiếp tục khẳng định quyền con người (Infonet).
- Góp ý sửa hiến pháp – Mừng hụt (DLB). “Cả hai cảnh mừng hụt đều có một nguyên nhân từ ‘lòng tham…’, tham ăn của người bố lũ trẻ, tham quyền cố vị của đảng cộng sản từ xưa vốn tự coi mình như cha mẹ của người dân. Điểm khác: lũ trẻ con bị mừng hụt vì ngây thơ, vì đói nhưng chúng không bị lừa. Còn nhiều người dân Việt Nam trong đó có những người mà trên đầu đã hai thứ tóc thì không phải ngây thơ mà là vì gặp phải một ‘kẻ lừa dối siêu hạng’.”
- Ai được lợi khi đối thoại với ĐCS? (Chuacuuthe).
- Phạm Văn Hạng: CẦU MONG KHÔNG LÀ HUYỄN MỘNG (Huỳnh Ngọc Chênh).
- Việt Nam : Luật sư Lê Quốc Quân tuyệt thực trong tù (RFI). – Luật sư Lê Quốc Quân tuyệt thực phản đối việc bắt giữ (VOA). – LS Lê Quốc Quân tuyệt thực trong tù (RFA).  – Giới hoạt động nhân quyền quốc tế lên tiếng về vụ bắt giữ luật sư Lê Quốc Quân (VOA). Họ không được bắt giam những tiếng nói cổ súy nhân quyền mà ngược lại phải tạo điều kiện cho những tiếng nói ấy được cất lên và được lắng nghe tại Việt Nam”.  - Giáo Xứ Đồng Lam Thắp Nến Cầu Nguyện Cho Gia Đình Luật Sư Giuse Lê Quốc Quân (TNCG).  – ĐỪNG LÀM TỔN THƯƠNG, MÉO MÓ VÀ TAN NÁT NHỮNG TÂM HỒN TRẺ THƠ (Hai Lúa).
- Khôi nguyên Phạm Minh Hoàng nói về giải Hellman/Hammett (Chuacuuthe).
- Bùi Hằng và chị Nhung, mẹ em Phương Uyên NỘP ĐƠN TỐ CÁO VÀ KHIẾU NẠI TẠI THANH TRA BỘ CÔNG AN (Bùi Hằng).
Thực chất của cái gọi là “Trà đàm dân chủ” (QĐND).
1- Truy tố ông Đoàn Văn Vươn tội giết người (Khám phá). “Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hải Phòng vừa kết luận anh em ông Đoàn Văn Vươn phạm tội ‘giết người – chống người thi hành công vụ’ với khung hình phạt từ từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. – Công bố quyết định truy tố bị can trong vụ Tiên Lãng (TTXVN).  - Anh em ông Vươn đối mặt mức án phạt cao (TN). – Vụ cưỡng chế thu hồi đất tại Tiên Lãng (Hải Phòng): Ông Vươn có thể đối mặt với mức án tử hình (DV).
- TÔI ĐỨNG VỀ PHÍA ANH ĐOÀN VĂN VƯƠN (Ngô Minh). “Khởi tố kết tội, rồi xét xử tội phạm là để làm cho xã hội trong sạch, con người sống tốt đẹp với nhau hơn. Đó là mục tiêu của nền Pháp Luật Văn Minh. Muốn như thế, những người đi điều tra tội phạm, những người ngồi phiên tòa xử an phải biểu dương những người dám đứng lên chống lại bọn xấu, đặc biệt là bọn quan xấu trong bộ máy nhà nước – Chứ không thể truy tố , xử án theo định kiến, làm tăng mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, hiện nay vốn đã rất nặng nề”. – Minh Diện: KENG ĐI, KENG ĐI ! (Bùi Văn Bồng).
Viện Kiểm Sát trả lại kết luận điều tra vụ Tiên Lãng (RFA).  - Vụ cưỡng chế tại Tiên Lãng, Hải Phòng: Viện Kiểm sát công bố quyết định truy tố các bị can (SGGP).
Hôm nay là tròn 1 năm nổ ra vụ án Đoàn Văn Vươn, thu hút sự quan tâm chưa từng thấy của công luận. Mời độc giả tham khảo toàn bộ các bài viết liên quan từ đầu cho tới khi có kết luận của thủ tướng, được lưu trên mục Đoàn Văn Vươn (Việt sử ký).
- Gi – nét Việt nam đây rồi anh Bá Thanh ơi ! (Lê Hiền Đức). “Tiếng kêu cứu của một người nông dân suốt 30 năm đi kêu oan và đã được đoàn công tác liên ngành của chính phủ kết luận giải oan từ 13 năm nay. Nhưng chính quyền cấp sở tại vẩn không thi hành dù có lệnh của chính phủ chỉ đạo giải quyết đơn nộp 2886 lá đơn vẫn không giải quyết dứt điểm”. Chuyện không phải xảy ra  ở quê hương anh Bá Thanh mà là quê hương của chủ tịch nước Tư Ếch Sờ.
- Tờ Tiền Phong khen ông Nguyễn Bá Thanh (BBC). – Xã tắc và ‘lửa’ Nguyễn Bá Thanh? (BBC). – ‘Tôi tin rằng sẽ có chuyển biến’ (BBC).   – Nguyễn Bá Thanh: Chân dung một lãnh đạo “khổ” nhất và “sướng” nhất (GDVN).  – Minh Diện: NGUYỄN BÁ THANH HÃY GIỮ LẤY “CÁI TÔI” ẤN TƯỢNG (Bùi Văn Bồng). – Chia tay cụ Bá (Trương Duy Nhất). - Ông Bá Thanh đã làm tôi “tỉnh” (DV). - Nhiều kỳ vọng vào tân Trưởng ban Nội chính T.Ư Nguyễn Bá Thanh (DV). - Ban Nội chính T.Ư tham gia ý kiến kỷ luật nhân sự cấp cao (TN). - Phải có thực quyền ”xử lý một số vụ việc, vụ án” (PLTP). Đây sẽ là vấn đề sinh tử cho cái ghế và cho cuộc chỉnh đốn đây. Vì đơn giản là nếu ông Thanh dám moi ra điều tra, xử án lại chỉ cần một Vinashin thôi, như ông Chủ tịch nước đã từng đánh tiếng, và có kết quả bắt được “sâu” bự, là sẽ đi vào lịch sử rồi.
Bộ trưởng Vương Đình Huệ và sự mất ngủ… (LĐ). Bài viết nhắc đến những phát ngôn ấn tượng của ông, nhưng chắc là tránh riêng phát ngôn kỳ lạ về báo chí. Nghe một nguồn tin ông này được cơ cấu để rồi sẽ lên thủ tướng. Có vẻ hợp lý! Vậy là sẽ chấm dứt một thời kỳ ghế này được mặc định giành cho các “anh Hai miền Tây”. - Ban Kinh tế Trung ương: Góp sức thẩm định các chính sách kinh tế (PLTP).
Thu hồi về ngân sách 29.860 tỉ đồng (LĐ). - Truy tố bốn cán bộ cấp giấy đỏ sai (PLTP). - Phá rừng ở đảo Phú Quốc: Khởi tố thêm vợ phó bí thư xã Cửa Cạn (PLTP). - Truy tố một trưởng thi hành án dân sự huyện (PLTP).  - Bác sĩ bị tố nói sai về thuốc nội (TP).
- Quá giỏi! Sau khi ĐBQH Trần Trọng Dực nêu chuyện chạy chức, Sở Nội vụ Hà Nội cho kiểm tra và phát hiện Hà Nội có mỗi một người chạy chức (ĐV). Việc kiểm tra thông tin chạy công chức không dưới 100 triệu đồng đã kết thúc, bà con đừng thắc mắc nữa nhé. – Vi phạm trong thi tuyển công chức ở Hà Nội: Cái gốc là lương quá thấp (?) (TP). Nói như lãnh đạo Sở Nội vụ thì: tôi đi ăn trộm là do tôi nghèo? Rất nhiều người tham nhũng chẳng nghèo chút nào, đi mà hỏi “đồng chí X” sẽ rõ ngay.
- Có nên truy tìm bằng chứng “chạy việc”? (TVN). “Người dân cũng tỏ thái độ bức xúc trước việc các cơ quan chức năng lại tỏ ra ngạc nhiên, không biết đến hiện tượng ‘chạy việc’ bằng tiền mà theo họ là rất phổ biến và ai cũng biết”. Ai cũng biết, chỉ những thằng cần biết thì giả vờ không biết. - Lương quá thấp nên phải nhận chạy công chức? (PN Today).
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Phải để cán bộ sống được bằng tiền lương (TP). Phải đau đớn nói liều một điều là nếu trả lương thỏa đáng cho toàn bộ hệ thống chính quyền, đoàn thể, hưu trí … ở nước này thì chế độ này … sụp đổ, vì nó … không có đủ tiền.
17.300 người làm gì mà không phát hiện tham nhũng ? (TN). - Quà biếu quan (Petrotimes). - Nghiêm cấm tặng sếp quà Tết (VNN). - Xấu đều hơn tốt lỏi (ANTĐ).
Cán bộ bắt dân ‘cưa đôi’ tiền hỗ trợ nghèo? (VNN).
Hai mẩu chuyện đẹp về CSGT (PLTP). Chứ không phải chuyện “người đẹp” CSGT ra hướng dẫn chỉ đường, một chiêu nặng về hình thức, không thiết thực vì lâu nay đã có đèn giao thông rồi, đâu cần “hướng dẫn”. Còn nếu làm nhiệm vụ y như các nam CSGT thì lại là chuyện khác. Thêm có anh Thăng diễn màn “đi thăm”, hết VNN chiều qua, sáng nay lại có VTV đưa tin rất hài.
Nhiều chính sách không phù hợp thực tiễn (TN).
Xã phường chưa thu phí Quỹ bảo trì đường bộ (SGGP).
Vụ gây rối tại Cty KS Bình Thuận có dấu hiệu vi phạm hình sự (LĐ).
- Kinh hoàng! Một cái tin làm nức lòng cả nước mà hình như bị bỏ sót, được độc giả méc: Phó Thủ tướng chỉ đạo kẹp chì cho lồng gà chính chủ (PN Today) và bình luận: “Đọc tiêu đề tưởng chuyện đùa, hóa ra chuyện thật. Phó Thủ Tướng bận rộn chỉ đạo những việc quan trọng như thế này, nên giáo dục văn hóa y tế có be bét thì cũng chẳng có chi lạ”. Nói cho ngay thì chiêu này PTT Nhân học lại của TT Dũng thôi, nhưng nghe chừng đã bị báo “chơi xỏ”, đưa lên giật tít hoàng tráng quá.
- Tài xế vô cảm:”Chết theo luật chỉ bồi thường 30 triệu thôi” (PN Today). Phải gọi luật này là luật khuyến khích giết người.
- Thu phí Quỹ bảo trì đường bộ ba ngày đầu đạt khoảng 44,6 tỷ đồng (ND). Nhớ cho dân biết các khoản thu này được chi ra sao.
- “Tiết kiệm” 11 tỉ đồng nhờ… “xén” giờ thực hành lái xe (NLĐ). Nhưng 9.300 học viên học ở trung tâm dạy lái xe này, sau khi thành tài xế, có thể đã gây ra nhiều tai nạn, cướp đi nhiều mạng người, có thể nhiều người tốn tiền nằm bệnh viện, nhiều phương tiện điều khiển giao thông bị hư hại… “Tiết kiệm” được 11 tỉ đồng cho mấy ông, nhưng bao nhiêu tiền tỉ của người dân bị bị mất đi?
Sẽ hủy hợp đồng xây dựng 4.200 căn hộ tái định cư Thủ Thiêm (TN). - Dự án “treo” là trách nhiệm của quận, huyện (TN). - Hứa giúp trúng thầu để chiếm đoạt tiền (TN). - Truy tố nguyên Chi cục trưởng Thi hành án huyện (TN).
Hà Nội: mới đạt 7% việc giao đất dịch vụ cho dân (SGTT).
2<- “Đắp chiếu” thiết bị y tế vì… quá hiện đại (LĐ/ Sống Mới).
- Thư giãn cuối tuần: TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI (Tễu).
- Ngoại tệ vẫn đang chảy sang “xã hội không tốt đẹp” (Đào Tuấn).
- Độc quyền vàng đi ngược kinh tế thị trường (RFA). Cả trong quá khứ và hiện tại, trên thế giới chưa một ngân hàng trung ương nào có chính sách chỉ duy trì một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng. Việc quản lý này đã lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh”.  - Tập trung thanh tra ngân hàng, thị trường vàng (TP).
- Tai nạn chìm tàu tại Quảng Bình: các cơ quan chức năng đã làm tròn nhiệm vụ? (Chuacuuthe). – 22 người mất tích: Nỗi đau đêm biển động (Khám phá).  – Hãy tương trợ giúp đỡ đồng bào thôn Cồn Sẻ qua cơn hoạn nạn (Người Ba Đồn).
- NĐ94: Được đóng thuế nấu rượu, cấm quảng cáo (ĐV).
- Vụ án vườn mít: Điều tra viên ẩu, xử lý ai? (GDVN).
- Những hình ảnh mới công bố về lính Mỹ ở Việt Nam năm 1965 (Reds.vn).
- Trung Quốc đẩy mạnh ảnh hưởng bằng kinh tế tại Cam Bốt (RFI).
- Xem TQ đua nhau chống tham nhũng (VNN).   – Nhà giàu Trung Quốc đua nhau tuồn tiền mặt ra nước ngoài (Sống Mới).
- Trung Quốc: Một tạp chí trên mạng có khuynh hướng tự do bị đóng cửa (RFI). “Theo bảng xếp hạng về tự do báo chí của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, năm 2011-2012, Trung Quốc đứng hạng thứ 174 trên tổng số 179 quốc gia”. - Báo Trung Quốc “Hiên Viên Hoàng Đế” bị đóng cửa (RFA).
- Trung Quốc và hậu quả bi kịch của chính sách một con: Câu chuyện những đứa trẻ bị mất tích (Petrotimes). - Google bỏ chức năng cảnh báo người dùng Trung Quốc về kiểm duyệt (GDVN).
3
- Ảnh lãnh đạo Trung Quốc cũng chuộng kỹ xảo photoshop (Sống Mới). Ảnh của các chính trị gia Trung Quốc bị cho là sản phẩm của photoshop =>
- Chủ tịch Google sắp thăm Triều Tiên (ANTĐ).  – Mỹ không ủng hộ Google thăm Bắc Hàn (BBC). – Washington phê phán việc lãnh đạo Google tới Bắc Triều Tiên (RFI).
- Việt Nam Kỷ niệm 54 năm Quốc khánh CH Cu-ba (ND).

- Đừng ác với dân! (Quê Choa). “… quí vị làm vậy chẳng đe nẹt được ai mà càng làm cho dân nổi khùng thêm. Giả dụ quí vị có đe nẹt được dân thì trời cũng không tha. Kẻ nào ác với dân tất trời không tha tội, xưa nay đều vậy cả. Quí vị  có xây đình thờ miếu mão, có cúng tế trừ yểm thế nào trời cũng chẳng tha đâu”. – Bài ca quân đội quốc gia (Hồ Chí Minh) (Thông Luận). “Nhắm vào dân bắn, bắn đi,/  Kể chi nhân nghĩa kể chi giống nòi?/  Quân đội quốc gia ta ơi!/  Chúng ta cùng giống cùng nòi Việt Nam./ … Trong tay đã sẵn súng rồi,/  Quyết quay bắn lũ tay sai mới đành”.
- Nguyễn Viện – Chào năm mới (DĐTK). “Có thể vì chúng tôi vẫn coi cái man dã là bình thường/ Cái chà đạp là công nhiên/ Sự bắt bớ là thông lệ/ Hoặc chúng tôi là thánh/ Hoặc chúng tôi là những con giun/ Có một cô gái ở thành phố tôi đang sống cũng vừa bị làm nhục trong cơ quan công quyền/ Cô bị lột quần áo và chọc vào cửa mình bởi một nhóm nhân viên công lực/Gần như công khai với máy quay phim, chụp hình…”. – Nguyễn Đình Ấm: ĐÃ ĐẾN LÚC BÃI BỎ NGHỊ ĐỊNH 38 (Huỳnh Ngọc Chênh).
- Trần Khải Thanh Thủy: Vài mẩu chuyện về Lê Quốc Quân (ĐCV). – Nam Hà – Câu Chuyện Cuối Năm (Dân Luận).
- Khi công an đề nghị dân cùng bắt cướp (RFA). Thiếu tướng Phan Anh Minh, Phó giám đốc Công an TP.HCM: “sẽ thưởng ngay 5 triệu đồng cho những ai bắt được cướp”. Người dân:  Năm triệu đồng không có giá trị gì đối với mạng sống con người ta. Ra tay nghĩa hiệp bị đâm chết thì lúc đó ai đền cho họ, ai lo cho họ?”
- Phóng viên TQ phản đối kiểm duyệt (BBC). “Nếu như truyền thông phải mất đi tính khả tín và sức ảnh hưởng, thì làm thế nào để đảng cầm quyền có thể để tiếng nói của mình đến được với nhân dân, hoặc để thuyết phục được nhân dân?”
KINH TẾ
- Nợ xấu – Từ nhận thức đến giải pháp (SGĐT). - Những “độc chiêu” xử lý nợ xấu (TP).
- Việt Nam muốn thu hút 14 tỷ đôla năm 2013 (BBC). – Đã thu về 430 triệu đô la từ đầu tư ra nước ngoài (TBKTSG). - Lúng túng trong quản lý doanh nghiệp FDI (TN).
HSBC đánh giá Việt Nam: Tụt hạng cạnh tranh nhân lực giá rẻ (TP).
- Kiều hối năm 2012 ước chỉ đạt 9,5 tỉ đô la Mỹ (TBKTSG).
- 14,85 tỷ USD bị đổ vào nhập khẩu hàng tiêu dùng cần hạn chế (Sống Mới).  – Việt Nam nhập 4,47 tỷ đô-la điện thoại di động? (Nguyễn Vạn Phú).
- Vụ tranh chấp bảo lãnh SeABank – VVF: Sẽ giải quyết dứt điểm trong tháng 1/2013 (CafeF). - Năm 2013, ngân hàng TPHCM cân nhắc giảm tiếp lãi suất cho vay  (Gafin). - Tín dụng 2013: Vẫn cần nhiều lực đẩy (TBNH/ Vietstock). - TP.HCM chưa có hiện tượng lách trần lãi suất (PLTP). - Máy ATM liệu có bị bỏ quên như cột điện thoại thẻ? (VNN).
- Chứng khoán VN tăng mạnh (BBC).  - Chứng khoán tăng 7 phiên liên tục (SGGP). - Các khái niệm căn bản về chứng khoán (VietFin).
4<- Doanh nghiệp địa ốc “chơi bài ngửa” (VnEconomy).  – Hàng loạt dự án BĐS Hà Nội và TP HCM tiếp tục giảm giá nhưng vẫn ế (Sống Mới).  – Bán tháo nhà đất trả nợ, lấy tiền tiêu Tết (VEF).
1/3 số doanh nghiệp nông thôn phá sản (DV).
- Tăng cường giám sát chất lượng nông sản nhập khẩu qua biên giới (ND).
- Xuất khẩu gạo : Thái Lan mất vị trí số một, Việt Nam vẫn đứng thứ hai (RFI).
Tôm Việt Nam có nguy cơ bị áp thêm một lần thuế tại Mỹ (TN). - Chung sức chống vụ kiện trợ giá tôm (PLTP).
Ngành đường gặp khó (TN).
- ‘Trung Nguyên không ngại Starbucks’ (BBC).
- Du lịch có khả quan như báo cáo ?: Kỳ 2: Mập mờ con số (TN).
“Đừng để EVN đề xuất việc tăng giá điện” (Khám phá).
TP.HCM: Rau, củ, quả giảm giá mạnh (TN). - Đặc sản sạch vào thị trường lớn (TT).
500 nghìn tỉ đồng cho hệ thống chợ ở Hà Nội (PT).
“Bạn” Đồng của dế (LĐ).
Khủng hoảng sáng tạo công nghệ hay khủng hoảng tài chính? (VietFin).
- Thị trường xe hơi : Mỹ cười, châu Âu khóc (RFI). – Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn ở mức 7,8% (VOA).
- Ngân hàng lâu đời nhất Thụy Sỹ đóng cửa sau án phạt của Mỹ (BBC/ DT).

- Xuất khẩu gạo với dự báo xám (RFA). “…năm 2012 Thái Lan mua lúa của dân trữ 2013 phải xuất ra, mình còn đụng với Ấn Độ nữa cho nên 2013 này giá lúa rất thảm thiết, ông chính phủ không hỗ trợ cho nông dân không biết làm sao đây”.
VĂN HÓA-THỂ THAO
- 260. NÀNG MAI HOA TUYẾT QUỲNH – SỰ THẬT VÀ HUYỀN THOẠI (Việt sử ký). – 261. VỤ THẢM ÁN TRẦN NGUYÊN HÃN.
- Tuân thủ tính chân xác khi bảo tồn di tích Cố đô Huế (TTXVN).
- Thượng sơn nghe truyền thuyết vua lửa, kiếm thần (ĐV).
Gia đình cố nhà văn Nguyễn Văn Xuân hiến tặng tư liệu cổ (TN).
40.000 cổ vật trên con tàu đắm (TN).
Hà Nội: Phố đi bộ mất dần bản sắc (PLTP).
Hậu hiện đại khởi động cách mạng văn học Việt Nam (Inrasara).
- Cà phê Tùng Đà Lạt (Hữu Nguyên).
- 3 bài thơ của Thái Kế Toại (Nguyễn Thông).
-  Thơ đến từ đâu: văn bản và dư luận   (PBVH)
5- Phạm Duy và bạn thơ: Kỳ 6: Yêu nhau kiếp nào (TN).
- Nhạc sĩ của ‘Nhớ về Hà Nội’ đang cấp cứu (TP). Với vợ, nghệ sĩ sân khấu Diễn Lan =>
Khán giả nghèo – thèm và tiếc các chương trình ca nhạc cao cấp (DV). Thôi thì không có tiền, cứ chịu khó thưởng thức các chương trình ca nhạc cấp phường cũng được. Gầy đây, khắp Hà Nội có thứ ca nhạc này. Dựng lên cái sạp trên vỉa hè như gánh hát gia đình ngày xưa, mấy thanh niên phường khóm nhảy lên khoe giọng sau nhiều chuyến luyện tập trong các quán karaoke … Người ghé xem ngồi trên xe máy, đứng lố nhố dưới lòng đường cản trở giao thông, nhưng yên tâm không bị phạt, vì đang thưởng thức sản phẩm tuyên truyền kiểu Xô viết Nghệ Tĩnh 30′-31′ của đảng mà. Ông Thảo nếu cứ phát triển những màn rẻ tiền kiểu này thì còn bị dính biệt danh “Nguyễn Phế Thải”.
Nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc: Có nhạc sĩ như thợ mộc đứng đường! (LĐ).
47 tỉ đồng tác quyền âm nhạc trong năm 2012 (TP).
- Đồng Nai: Ngày 17-01, khánh thành Thiền viện Trúc Lâm Chân Pháp (chùa Phúc Lâm).
Bà chúa tuồng Đàm Liên: Mê bóng đá, xem phim Hàn và… sống với tuồng (Petrotimes).
Năm 2012: thu 47 tỉ đồng phí tác quyền âm nhạc (TT).
- NGHIÊN CỨU VĂN HỌC Ở LIÊN XÔ TRONG THỜI ĐẠI THỐNG TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA MARX – LENIN (1930 – 1980) (Phạm Viết Đào).
- Bài đọc cuối tuần: Ngưu tầm ngưu mã tầm mã!!! (phiên bản mới) (Người lót gạch). Chúng tôi không muốn khuyến khích những màn cãi cọ không hay chút nào theo kiểu này, nhất là lại giữa những người trí thức, nhưng thấy nó cứ tiếp diễn không dứt, lại được tác giả gửi đến cùng lúc với rất nhiều địa chỉ khác, thấy phải điểm và góp ý người trong cuộc rất nên ngừng.
- Thiếu nữ tuyệt đẹp qua tranh vẽ của Xie Chuyu (Ngô Minh).
- Khám phá Paris rất khác trong lộ trình Victor Hugo (ĐV).
- Hollywood : các bộ phim “nóng” nhất năm 2013 (RFI).
- Phòng ăn đẹp nhất thế giới? (BBC).
Chữa cháy bằng… xăng (PLTP). - VFF chia rẽ vì ghế HLV trưởng ĐTVN (TP).

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Việt Nam nhiều tiến sĩ, ít công trình nghiên cứu (VNE).
Không để liên thông biến tướng (DT). - “Trảm” liên thông sẽ tăng chất lượng đầu ra? (LĐ). - SV cao đẳng bật lại quy định của Bộ (VNN). - Đường vòng vào đại học không hẹp (VNN).
Cho phép cá nhân lập tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục (Petrotimes).
- Trường chuẩn tiểu học: phải có 95% học sinh vượt loại dốt (Sống Mới).
Vụ Trường mầm non Hoa Sen “cắt xén” phần ăn của trẻ: Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy vào cuộc (TN).
Thay đổi cách dạy, học văn (TN).
Học sinh Việt Nam giành 2 HCB Vật lý thế giới (HNM).
- Bộ trưởng Đinh La Thăng cho là Tăng thời lượng học ATGT nhưng không tạo thêm áp lực cho học sinh (GTVT).
Chỉ có cơm rau rừng, muối trắng (TT).
Nợ lương giáo viên vùng sâu (TN).
Phú Yên: Hơn 70% trường học chưa có y tế học đường (SKĐS).
Thành lập Trường Điện ảnh Quốc tế Sài Gòn (DT).
6<- Bốn năm không nói, bé trai bỗng dưng đọc báo vanh vách (ĐV).
“Cõng” chữ qua dốc Mạ ơi… (CAND).
Giả danh Bộ Giáo dục vào trường bán sách lậu (VNM)
Bài học từ vụ học sinh ‘múa kiếm chết người’ (PLVN/TP).
Bộ cấm thi sắc đẹp, Hoa khôi các trường bức xúc (IONE).
- Một nhóm nghiên cứu Tây Ban Nha công bố vắc xin mới ngăn chặn Sida (RFI).
- Nhật phát minh đuôi kỳ diệu cho con người  (Khám phá).
- Tìm thấy nước trong một cục đá Sao Hỏa 2 tỉ năm tuổi (VOA).
- Phát hiện hóa thạch vi khuẩn lâu đời hơn ôxy (Khám phá).

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Cứu tàu cá với 7 ngư dân trôi dạt trên biển (TP). - Bão số 1: Hơn 800 tàu ở Trường Sa trong tầm nguy hiểm (TP).
Dân mất tiền tỷ vì tin lời “ngọt nhạt” (DV).
Tăng giá viện phí là… thành tựu y tế (DV). - Nhiều người dân phải… hoãn ốm (DV). - Bệnh nhân và người thân co ro trong mùa đông ở bệnh viện (NĐT). - Rét đậm làm gia tăng số người nhập viện (DV). - Bé 6 tháng tuổi bỏng do sưởi ấm bằng chậu than (DV).
9Em ngã chị nâng (SGTT). - Bé 6 tháng bỏng nặng vì mẹ dùng than sưởi ấm (Khám phá). - Xót xa nữ sinh lớp 4 bị con trai cô giáo xâm hại (GDVN). - Nhói lòng cháu bé bị u gan ác tính  (NLĐ). =>
Không có phao trên tàu: Phạt tới 40 triệu đồng (DV).
Vì sao ‘xe dù, bến cóc’ cứ tồn tại hết năm này qua năm khác? (Petrotimes). - TP.HCM: Khan hiếm vé xe khách thương hiệu (DV).
- VỤ VỠ NỢ HÀNG CHỤC TỈ ĐỒNG Ở ĐÀ NẴNG: Nạn nhân bao vây nhà chủ hụi (PLTP).
Điểm mặt thực phẩm Trung Quốc gây “sốc” (KP). - Công nghệ biến thịt lợn thành thịt bò ở Việt Nam (NĐT).
Chặt phá rừng phòng hộ (TN). – Lâm Đồng: Hàng trăm cây thông rừng phòng hộ bị “hạ độc” (ND).
Đặc sản gà Sách đỏ giá bạc triệu trông thế nào? (DV). - Đằng sau chuyện ‘ép voi đẻ được 400 triệu’ (VNN).
Trường đại học luật nước Mỹ thăm báo Người đưa tin (NĐT).
- Phụ nữ nước Anh đua nhau sinh con (VOA).
- Phát hiện hơn 10 ngàn vây cá mập tại HK (BBC). – Dân chúng phẫn nộ vì phơi vây cá mập trên mái nhà (NĐT).
- Khan hiếm tài nguyên, mối lo thường trực (ND).

- Lằn ranh sinh – tử – Kỳ 3: Chuyến bay định mệnh (TT).
QUỐC TẾ
- “Ông Putin – chính khách có ảnh hưởng nhất thế giới” (TTXVN). Đó là theo Foreign Policy, còn theo tạp chí Forbes thì ông Putin xếp thứ 3, sau người đứng đầu là ông Obama, và bà Angela Merkel: The World’s Most Powerful People List.
- Diễn viên Pháp Depardieu nhập tịch Nga (BBC). – Thư cảm ơn ông Putin của tài tử Pháp Depardieu bị chế giễu (RFI). – Putin lợi dung vụ Gérard Depardieu để chế nhạo Pháp (RFI). – Cựu minh tinh Pháp Brigitte Bardot dọa xin quốc tịch Nga để cứu hai con voi (RFI).
- Syria: Lực lượng nổi dậy tìm cách chiếm giữ các sân bay ở miền Bắc (Reuters/ báo ĐN).  – Syria: Xe cài bom nổ trong thủ đô, giết chết ít nhất 9 người. (VOA). – Patriot của Hà Lan sẽ tới Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 7/1 (GDVN). - Nga “chìa tay” với phe đối lập Syria (TN). - Syria: Đánh bom đẫm máu tại thủ đô (LĐ).
Iran “đóng cửa” thủ đô vì ô nhiễm (TT).
Tuần hành rầm rộ trong Dải Gaza (VOA).
- Miến Điện biện minh cho chiến dịch tấn công quân nổi dậy Kachin (RFI). – Miến Điện tổ chức diễn binh mừng Lễ Độc Lập (VOA).
Xả súng điên loạn ở Philippines, 10 người chết (TN). - Nhậu say rồi bắn chết 7 người, trong đó có 2 bé gái (TTXVN).
7<- Quốc hội Hoa Kỳ khai mạc kỳ họp đầu tiên khóa 113 (RFI). – Ông Boehner được bầu lại vào chức Chủ tịch Hạ viện Mỹ (VOA).  - Kỷ lục mới về số lượng nữ nghị sĩ trong Quốc hội Mỹ(Infonet).  – Quốc hội Mỹ biểu quyết ngân khoản cứu trợ nạn nhân bão Sandy (VOA). – Giới chức FED không đồng thuận về biện pháp khích lệ nền kinh tế Mỹ (VOA). - Khoảnh khắc Obama nhận được tin về vụ thảm sát trường học (GDVN). - Mỹ nới nhẹ thủ tục về định cư (Petrotimes).
- Tổng thống Mỹ, Afghanistan sẽ bàn về tương lai Afghanistan (VOA).
- ND: Vê-nê-xu-ê-la xác nhận các cuộc tiếp xúc với Mỹ để phân hóa nội bộ nước Mỹ? – Hugo Chavez bị ‘viêm phổi nghiêm trọng’ (BBC). – Tổng thống Venezuela bị nhiễm trùng phổi nặng (VOA). - Ông Chavez bị biến chứng nghiêm trọng (TN). - Venezuela có thể phải tổ chức lại bầu cử tổng thống (LĐ).
Nhật, Hàn nỗ lực hàn gắn quan hệ (TN). - Nước Nhật vẫn tiếp tục điện hạt nhân? (VNN).
- Ấn Độ truy tố 5 nghi phạm trong vụ hãm hiếp tập thể (VOA).   – Đề xuất ‘thiến’ tội phạm hiếp dâm gây bão ở Ấn Độ (VNE). – Chính trị gia bị lột quần áo vì làm nhục phụ nữ (Infonet).  – Sóng biểu tình ở Ấn Độ và vấn đề xã hội (VietFin). - Giọt nước tràn ly (LĐ).
Thiếu nữ Pakistan bị Taliban bắn xuất viện ở Anh (VOA).

* VTV1:+ Chào buổi sáng – 04/01/2013;  + Tài chính kinh doanh sáng – 04/01/2013; + Tài chính kinh doanh trưa – 04/01/2013; + Thời sự 12h – 04/01/2013; + Điểm hẹn văn hóa – 04/01/2013; + Nhịp đập 360 độ Thể thao – 04/01/2013; + 360 độ thể thao – 04/01/2013; + Ai thông minh hơn học sinh lớp 5; + Khoảnh khắc thường ngày – 04/01/2013; + Cuộc sống thường ngày – 04/01/2013.

 1529. Thắng mình trước đã!

Đồng Phụng Việt

Thắng mình trước đã!

04-01-2013
Vừa có hai sự kiện, cùng liên quan đến cuốn “Bên thắng cuộc” làm mình chú ý: (1) Tờ Pháp luật TP.HCM đăng “Cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của Nguyễn Đức Hiển. Và (2) Liên Ủy ban chống Cộng sản, tay sai và chống tuyên vận Cộng sản ở Mỹ gửi thư mời họp để bàn bạc về chuyện tổ chức biểu tình chống tờ Người Việt phát hành cuốn sách này.
Sự kiện (1) mình biết qua trang web Ba Sàm. Sự kiện (2) mình biết qua email của một người bạn, kèm câu hỏi: Ông nghĩ sao?..
Thay vì trả lời riêng bạn qua email, mình viết vài dòng trên facebook để có thể chia sẻ với cả bạn và các bạn khác vài điều mà mình nghĩ…

1.
Hồi nhỏ, ở nhà mình có vài cuốn album để cất ảnh. Mấy cuốn album này do trường Võ bị Quốc gia ở Đà Lạt dùng làm quà. Nếu mình nhớ không lầm thì cuốn nào trên góc trái, phía trên cùng, cũng in chìm hình một sinh viên sĩ quan, kèm dòng chữ “Tự thắng – Chỉ huy”. Lúc đó, xem – nhớ nhưng thật tình, mình không hiểu tại sao trường Võ bị Quốc gia (một nơi danh giá, đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho quân đội miền Nam Việt Nam trước tháng 4 năm 1975, vốn là chỗ không dễ vào, nếu vào và ra được thì vừa là sĩ quan, vừa có văn bằng cử nhân khoa học – một thời đã từng là mơ ước của mình), lại chọn “Tự thắng – Chỉ huy” làm slogan.
Lớn lên thì mình hiểu tại sao trường Võ bị Quốc gia lại chọn “Tự thắng – Chỉ huy” làm slogan. Không tự thắng chính mình thì làm người tử tế còn khó, nói gì đến chuyện chỉ huy!
2.
Khi sinh ra mình là công dân Việt Nam Cộng hòa nhưng lúc lớn lên, mình trở thành công dân Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng tại vậy mà mình có nhiều người thân, người quen bị gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Sau ngày “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phần lớn “ngụy quân, ngụy quyền” mất sạch mọi thứ: nhà cửa, tài sản, tương lai, một số người mất cả sinh mạng. Gia đình mình cũng thế.
Nếu ai hỏi mình: có oán Cộng sản không? Mình sẽ trả lời rằng: Có! Song đối tượng của sự oán hận đó đã khác nhiều so với trước.
Lúc đầu, mình ghét tất cả những người từ ngoài Bắc vào. Rồi oán hờn thu hẹp, mình chỉ còn căm giận cán bộ, đảng viên, bộ đội, công an. Sự căm giận này bây giờ không còn. Chính xác hơn, sự căm giận này vẫn còn nhưng nó hướng vào chủ nghĩa cộng sản và sự tồn tại của thể chế chính trị là con đẻ của nó trên xứ sở này.
Sở dĩ nhận thức của mình thay đổi liên tục như thế là nhờ sách vở, tài liệu và thực tế cuộc sống. Hồi đọc “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, mình choáng váng vì hóa ra người dân miền Bắc còn khổ hơn người dân miền Nam. Mình dùng hai chữ “khổ hơn” vì ít ra, người dân miền Nam đã từng có lúc được sống “cho ra hồn người”, trước khi cùng khốn khổ, khốn nạn như nhau. Sau này, hỏi thăm một số người lớn tuổi đã từng sống ở miền Bắc trước tháng 4 năm 1975, họ bảo, thật ra, “Những thiên đường mù” chỉ khắc họa một phần sự thật, chưa lột tả được toàn bộ môi trường xã hội miền Bắc trước tháng 4 năm 1975… Tương tự, sự căm giận bộ đội giảm dần khi cuộc chiến ở Campuchia biến một mớ bạn bè mình thành bộ đội, thương binh, có đứa trở thành liệt sĩ. Còn một thực tế khác, chẳng riêng mình mà ai cũng thấy, đó là, đa số những người đóng góp tuổi trẻ, sức lực, máu xương, thân nhân cho việc tạo lập ra chính quyền này cũng chẳng sung sướng gì hơn. Đến giờ, đâu có ít gia đình liệt sĩ, thương binh, có công cũng đã mất sạch mọi thứ. Xét cho đến cùng, tất cả đều là nạn nhân. Ngay cả cán bộ, đảng viên cũng là nạn nhân, họ cắn răng chịu đựng đủ thứ bất toàn của hệ thống, ngửa tay nhận đồng lương chết đói và để tồn tại phải tìm đủ cách để “ăn”, vừa phải chuốc sự khinh bỉ của người bị “ăn”, vừa phải chấp nhận cho các đồng liêu khác “ăn” lại. Một kiểu “ăn lẫn nhau”, một thứ bi kịch kéo dài từ đời cha sang đời con và có thể còn tiếp tục kéo dài sang đời cháu. Họ có muốn như vậy không? Mình nghĩ là không nhưng họ chẳng có lựa chọn nào khác.
Lý do mình tóm tắt quá trình định hình và chuyển đổi nhận thức của mình, vì mình tin nó tương đồng với quá trình định hình và chuyển đổi nhận thức của nhiều người khác, trong số hàng chục triệu dân miền Nam Việt Nam trước và sau tháng 4 năm 1975. Mình chỉ là một trong hàng chục triệu số phận na ná như thế do thời cuộc tạo ra. Dù muốn hay không, hàng chục triệu số phận này đã và sẽ là một phần của lịch sử.
Bài “Cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của Nguyễn Đức Hiển không những không đếm xỉa gì đến phần này của lịch sử mà còn bóp méo nó, nên có thể vì vậy mà bị nhiều người chửi.
Theo mình, nhìn, nghe, đọc, hỏi, nghĩ là điều cần thiết mà ai cũng nên làm. Mình tin, do đặc điểm nghề nghiệp, một nhà báo cần làm những điều này gấp nhiều lần những người bình thường, đặc biệt là khi máy tính, Internet đã trở thành phương tiện đại chúng. Tiếc là bạn Hiển ít nhìn, ít nghe, ít đọc, ít nghĩ, chỉ quen bông phèng, chớt nhả, nhận được vài lời khen, lại tưởng mình hơn người, thành ra làm điều quá phận.
Vì bạn Hiển bảo: “Bóp méo sự thật lịch sử dù với bất cứ lý do gì thì đều là tệ hại” nên mình cung cấp cho bạn hai chuyện mà bạn có thể xác minh ngay và sắp tới, mong bạn cho mình biết thêm suy nghĩ của bạn về bản chất cuộc chiến, mà bạn muốn biện minh rằng chính đáng:
- Chuyện thứ nhất là vụ ném lựu đạn vào buổi lửa trại, tổ chức cho các Hướng đạo sinh, thành viên Gia đình Phật tử và học sinh các trường trung học ở Quy Nhơn, tại sân vận động Quy Nhơn (nay là thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định), vào đêm 9 tháng 1 năm 1972, để giết tỉnh trưởng Nguyễn Văn Chức nhưng ông Chức không chết, chỉ có vài chục người là giáo viên, học sinh chết, bị thương. Người tổ chức vụ ném lựu đạn này là bà Huỳnh Thị Ngọc đã được Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang” hồi Quốc khánh năm 1995, báo Quân đội Nhân dân có bài ca ngợi (tựa là “Giả điên trong tù”, đưa lên Internet hôm 16 tháng 7 năm 2007). Sau khi đọc “Giả điên trong tù”, bạn có thể tìm gặp những người dân Quy Nhơn, nay trong độ tuổi khoảng 60, để hỏi thăm và nghe thêm về bản chất – kết quả thật sự của một “chiến công”, trong cuộc chiến được bảo là chính nghĩa đó.
- Chuyện thứ hai là vụ pháo kích vào Trường Tiểu học Cộng đồng ở thị trấn Cai Lậy, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), ngày 9 tháng 3 năm 1974, khiến 32 học sinh chết tại chỗ và 55 học sinh khác bị thương. Những người dân Cai Lậy, Tiền Giang, nay trong độ tuổi khoảng 55, cũng có thể kể để bạn biết thêm về “chiến công” tệ hại này.
Những “chiến công” kiểu như vậy đã được lập trên xác rất nhiều thường dân, trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em ở miền Nam (mình muốn nhấn mạnh yếu tố này). Khi thân nhân của các nạn nhân vẫn còn, làm sao có thể bảo với họ rằng, cuộc chiến do miền Bắc khởi xướng, mục tiêu chính là thiết lập “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á” lại là cần thiết và chính đáng. Người ta chỉ mới thôi tự hào về sự tự nguyện đảm nhận vai trò “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á” chừng 20 năm nay thôi bạn Hiển à!
Bạn Hiển,
Làm báo ở Cộng hòa XHCN Việt Nam quả thật là rất khó nhưng nếu bạn không muốn, chẳng ai có thể bắt bạn làm bồi. Ngay cả khi chấp nhận làm bồi thì ít nhất cũng có hai loại bồi. Một loại hiểu và xấu hổ vì chuyện làm bồi nên chỉ dùng bút danh. Loại còn lại
vừa hám lợi, vừa chuộng hư danh tới mức mụ mẫm, nên sẵn sàng vỗ ngực, xưng tên. Nguyễn Đức Hiển, bạn thuộc loại nào vậy?
Nếu thật sự bạn vẫn muốn nuốt thêm một hoặc nhiều lần nữa những luận điệu cũ rích mà Đảng đã nhai đi, nhai lại, ụa ra, cho các loại bồi nuốt vào, rồi phun phe phè suốt mấy chục năm qua, muốn hãnh diện vì bạn vẫn còn thích làm gia súc, vẫn tự nguyện giữ bản năng tiêu hóa, “kiên quyết” không thèm tiến hóa như thế thì nó là quyền của bạn, song đừng mửa mớ luận điệu ấy ra, nó khiến nhiều người cảm thấy phiền bởi sự “kiên quyết” ấy!
3.
Giống nhiều người, mình cũng ráng kiếm một bản “Bên thắng cuộc” nhưng thú thật là mình chỉ mới lướt qua. Mình đọc chưa kỹ, do còn chờ phần sau.
Đọc chưa kỹ nhưng mình tin “Bên thắng cuộc” có khiếm khuyết, thiếu sót, thậm chí có cả những điểm chưa chính xác. Đó là điều đương nhiên, không thể tránh khỏi đối với những cuốn sách thuộc loại như “Bên thắng cuộc”. Do vậy, phân tích hay – dở, góp ý đúng – sai, đưa ra đề nghị này – khác, để cả tác giả lẫn người đọc cùng xem xét – ngẫm nghĩ thêm là điều cần thiết.
Với mình, dẫu cho còn khiếm khuyết, thiếu sót, thậm chí có cả những điểm chưa chính xác thì “Bên thắng cuộc” vẫn là một cuốn sách cần đọc, vì loại sách này giúp người đọc có một cái nhìn bao quát về chính trường – xã hội Việt Nam sau tháng 4 năm 1975. Khi đã có thể nhìn một cách bao quát, hiểu rõ hơn về những chuyện vốn chỉ nghe nói loáng thoáng, từng người có thể ngẫm nghĩ – tìm kiếm thêm thông tin để tự lý giải tại sao xã hội chúng ta đang sống lại như thế này? Mình tin “Bên thắng cuộc” còn có tác dụng như một gợi ý, kích thích những người khác, đặc biệt là những người trong “cung đình” kể lại, nói thêm về những chuyện họ biết cho mọi người cùng biết. Mình vẫn tin rằng, mọi thay đổi tích cực cho xứ sở và dân tộc này khởi đầu từ từng người. Trước hết là kể những điều mình biết, chia sẻ những điều mình nghĩ với mọi người quanh mình. Chỉ thế thôi. Không cần phải chỉ dẫn hay thuyết phục ai rằng họ nên nghĩ gì, làm gì. Khi đã có thông tin, từng cá nhân sẽ tự đối chiếu chúng với thực tế xã hội và hoàn cảnh, cũng như nhu cầu cá nhân của họ. Tự họ sẽ thấy họ nên làm gì, làm như thế nào. Có lẽ đó mới là giá trị thực của “Bên thắng cuộc” và là đóng góp đáng ghi nhận của Huy Đức.
Điều đáng ngạc nhiên là không chỉ Đảng cầm quyền thù ghét những thứ như “Bên thắng cuộc” mà ngay cả một số người chống Đảng này ở bên ngoài Việt Nam cũng tỏ ra thù ghét nó. Mình đã thử tìm hiểu tại sao và rất ngao ngán khi nhận ra rằng, có những người thù ghét Cộng sản nhưng lối suy nghĩ, cách hành xử của họ y hệt như Cộng sản.
Đọc những bài họ viết, xem những ý kiến họ bày tỏ, những video clip quay chuyện họ làm, nghe họ nói, mình thấy phẫn nộ khi họ nhân danh “chính nghĩa”. Miền Nam Việt Nam mà mình biết không có thứ “chính nghĩa” đó.
Nửa đầu thập niên 1970 là giai đoạn miền Nam Việt Nam đỏ máu và trắng khăn tang. Hết Hạ Lào tới An Lộc, Quảng Trị, Phước Long,… Trong bối cảnh ấy, dân miền Nam vừa nghe “Thề không phản bội quê hương” (của Cục Chính huấn Quân lực Việt Nam Công hòa) với những: “…Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến! Đánh cho cùng dù mình phải chết. Để mai này về sau con cháu ta sống còn…”, vừa hát “Kỷ vật cho em” (thơ Linh Phương, Phạm Duy phổ nhạc): “…Anh trở về trên đội nạng gỗ. Anh trở về bại tướng cụt chân…”, vừa ngâm “Ngày mai đi nhận xác chồng” (thơ Lê Thị Ý, Phạm Duy phổ nhạc thành “Tưởng như còn người yêu”): “…Dài hơi hát khúc thương ca. Thân côi khép kín trong tà áo đen. Chao ơi thèm nụ hôn quen. Ðêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau. Chiếc quan tài phủ cờ màu. Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng…”. Hay đọc “Chiều mệnh danh Tổ quốc” (thơ Nguyễn Tất Nhiên): “…Chiều quân đội nghĩa trang. Chiều mệnh danh tổ quốc. Có muôn ngàn câu kinh. Có muôn ngàn tiếng khóc. Có chuyến xe nhà binh. Đưa ‘Thiên Thần’ xuống đất…”.
Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết cũng có tham nhũng, hối lộ, phe phái và nhiều điều bất toàn khác nhưng đó là chỗ mà những “Thề không phản bội quê hương”,… có thể đứng chung cùng những “Kỷ vật cho em”, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, “Chiều mệnh danh Tổ quốc”,… Nhiều “Thiên Thần” chấp nhận ra trận, rồi đi luôn vào lòng đất để những người còn lại được quyền làm những chuyện có vẻ như rất mâu thuẫn ấy. Đó là điều khiến miền Nam Việt Nam khác xa miền Bắc Việt Nam.
Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết, không có những kẻ “bảo vệ chính nghĩa quốc gia” bằng cách “đụ mẹ”, “đéo bà” người khác chỉ vì họ không nói, không làm điều những kẻ đó muốn nghe, muốn thấy. Cũng không có những kẻ, một tay giương cao quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa, tay còn lại tụt quần, chổng mông vào mặt người khác giữa nơi công cộng để khẳng định quyết tâm… chống Cộng sản.
Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết, tuy chống Cộng nhưng vẫn tiếp nhận “Tiếng gọi công dân” (tên nguyên thủy là “Thanh niên hành khúc”) của Lưu Hữu Phước – một cán bộ Cộng sản cao cấp – làm Quốc ca, sau khi kế thừa chính thể Cộng hòa Tự trị Nam kỳ. Mình nghĩ chỉ chi tiết này thôi có lẽ cũng đủ để biết tinh thần, quan niệm của miền Nam Việt Nam hồi đó ra sao.
Với những gì mới biết về những cá nhân, những nhóm cựu công dân miền Nam Việt Nam, bây giờ đang chống Cộng theo kiểu chống hết mọi thứ, bất kể tình – lý, chỉ để thiên hạ biết mình đang “bảo vệ chính nghĩa quốc gia”, mình tự hỏi, không biết bao giờ thì những ông, những bà này sẽ chống hát Quốc ca Việt Nam Cộng hòa, vì tác giả của bài hát này là một Việt cộng cao cấp? Có nên xem chuyện hát “Tiếng gọi công dân” đã và đang diễn ra ở những nơi có cựu công dân Việt Nam Cộng hòa là một hình thức tuyên vận của Cộng sản và rất cần chống ngay lập tức hay không? Mình tin sẽ không có ai trong số các ông, các bà đó dám cổ súy chuyện này. Nếu không dám và chắc là không dám thì “chính nghĩa” mà qúy vị tạo ra, nhảy múa để “bảo vệ” rõ ràng là chưa (không thể) ổn. Xin qúy vị hãy xem lại lối nghĩ, cách hành xử của qúy vị.
Tuy số lượng của những vị này chẳng đáng là bao trong khối người Việt đang phải sống bên ngoài Việt Nam nhưng mình không thể không nói. Kiểu chống hết mọi thứ chỉ để thiên hạ biết mình đang “bảo vệ chính nghĩa quốc gia” của những vị này, không chỉ làm hoen ố hình ảnh miền Nam Việt Nam ngày xưa. Chúng đang được Đảng CSVN khai thác triệt để nhằm chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên của họ. Đặc biệt là vào lúc này, khi hệ thống đã mục ruỗng, thông tin đa chiều đang làm cho nhận thức cán bộ, đảng viên thay đổi và nhiều người bắt đầu “muốn làm một cái gì đó” thì những bài viết, ý kiến, hành động cực đoan của những vị này trở thành một món quà quý. Chúng đã và đang được sử dụng để minh họa cho những lời răn đe, kêu gọi kiểu như: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”; “Còn Đảng, còn mình”; “Quân đội là của Đảng và phải bảo vệ Đảng”; “Bảo vệ chế độ XHCN là bảo vệ sổ hưu”.
Nguồn: Đồng Phụng Việt

Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Chủ nghĩa đầu hàng

Trong bài “Cái nước mình nó thế”, tôi có dùng chữ “chủ nghĩa đầu hàng”. Đó không phải là chữ của tôi.  Ở Trung Quốc, đặc biệt dưới thời Mao Trạch Đông, người ta rất hay dùng chữ “chủ nghĩa đầu hàng”. “Chủ nghĩa đầu hàng” trở thành chiếc mũ cối được dùng để chụp lên đầu nhau trong các cuộc tranh chấp quyền lực trong nội bộ đảng. Trong Cách mạng văn hóa, Mao Trạch Đông phê phán truyện Thủy Hử là tuyên truyền cho “chủ nghĩa đầu hàng” và chủ nghĩa xét lại. Ở Việt Nam, trong bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” được soạn thảo vào năm 1943, Trường Chinh, lúc ấy là Tổng Bí thư đảng Cộng sản, đã sử dụng chữ ấy khi tố cáo chính sách văn hóa của Pháp là nhằm “tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc mù quáng và hẹp hòi (chauvinisme)”. Sau đó, đặc biệt sau năm 1954, ở miền Bắc, chữ “chủ nghĩa đầu hàng” cũng được một số nhà nghiên cứu sử dụng. Trong số đó, có hai nhà phê bình văn học nổi tiếng: Trần Thanh Mại, với bài  “Thơ văn Phan Thanh Giản chỉ là tiếng thở dài của chủ nghĩa đầu hàng” và Hoài Thanh khi đánh giá nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Ở đây, xin nói một chút về nhận định của Hoài Thanh.

Trong Truyện Kiều, nhân vật được chú ý và gây tranh cãi nhiều nhất, ngoài Thúy Kiều, chắc chắn là Từ Hải. Người khen, khen hết lời. Khen tướng mạo: “Râu hùm, hàm én, mày ngài”. Khen bản lĩnh: “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Khen tài hoa: “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”. Khen tính cách: “Đội trời đạp đất ở đời”. Khen hành động: “Nghênh ngang một cõi biên thùy”. Nhưng người chê, cũng chê hết sức gay gắt. Chê dại gái: “Bốn bể anh hùng còn dại gái / Thập thành con đĩ mắc mưu quan.” Tương truyền vua Tự Đức, khi đọc đến câu “Chọc trời quấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?” đã tức giận ném cuốn sách xuống đất và dọa nếu Nguyễn Du còn sống thì sẽ căng ra đánh ba chục roi vì tội bất kính đối với hoàng đế. Hoài Thanh kể: Hồ Chí Minh có lần nói với Tố Hữu: “Từ Hải là một thằng tồi, nó không chết đứng thì rồi cũng đến chết ngồi, mà đã chết vì đầu hàng thì chết đứng hay chết ngồi đều là chết nhục.” (Hoài Thanh toàn tập, tập 4, nxb Văn Học, Hà Nội, 1999, tr. 856.)

Hoài Thanh rất mê Truyện Kiều, và ở Truyện Kiều, “đặc biệt thích nhân vật Từ Hải”. Tháng 5 năm 1943, trên báo Thanh Nghị, ông viết bài ca ngợi Từ Hải: với nhân vật Từ Hải, văn thơ cổ điển của cha ông chứng tỏ “cái cốt cách tráng kiện, cái khí chất hào hùng”. Năm 1949, thời kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục ca ngợi Từ Hải: “Từ Hải chết không nhắm mắt, Từ Hải chết đứng… Từ Hải chết với lòng ngay thẳng của mình, vì sự hèn nhát của Hồ Tôn Hiến.” Năm 1959, sau hiệp định Geneve, ở miền Bắc, ông lại vẫn khen Từ Hải: “Từ Hải ngay thẳng cả với kẻ thù và đã chết vì sự ngay thẳng, vì thật dạ tin người.” Nhưng sau đó, dưới ảnh hưởng của đảng Cộng sản, đặc biệt của Hồ Chí Minh và Tố Hữu, ông thay đổi hẳn cách đánh giá của mình. Năm 1965, ông lại phê phán Từ Hải: “Từ Hải bị giết, vì dại dột tin người mà bị giết.”

Trong bài “Thêm một lý do để yêu Đảng”, sau khi tóm tắt các chi tiết kể trên, ông tự đánh giá:

“Như thế là từ chỗ nói Từ Hải ‘chết vì ngay thẳng, vì thật dạ tin người’ đến nói ‘vì dại dột tin người’, qua đúng hai mươi năm tham gia cách mạng tôi mới bắt đầu nhìn thấy cái chết này cần phê phán. Rõ ràng là quá chậm. Nhưng tôi vẫn chưa nhìn ra cái chính cần phê phán. Cái chính ấy, tạp chí Văn nghệ Giải phóng tháng 12 năm 1965 đã nói lên trong một bài viết về Truyện Kiều nhân dịp kỷ niệm Nguyễn Du: ‘Thế rồi Từ Hải chết vì phạm sai lầm của chủ nghĩa đầu hàng’.”

Rồi ông nói thêm:

“Trong điều kiện chiến đấu ác liệt ở miền Nam, các đồng chí đã nhanh chóng nhìn ra sự thật; đầu hàng là chết, và đã chết vì đầu hàng thì chết đứng, chết ngồi đều là chết nhục.” (Hoài Thanh toàn tập, tập 2, nxb Văn Học, Hà Nội, 1999, tr. 1414.)

Viết như trên, Hoài Thanh chỉ có dụng ý ca ngợi đảng Cộng sản, kẻ đã làm ông “sáng mắt sáng lòng”. Nhưng cái giá phải trả cho những cái “sáng” ấy là ông phải hy sinh nhiều thứ: thứ nhất là văn học (vì những mục tiêu chính trị); thứ hai là tài năng (khi ông trở thành một kẻ nói leo). Đó là chưa kể chuyện hy sinh nhân cách; nói như Xuân Sách: “Vị nghệ thuật nửa cuộc đời / Nửa đời còn lại vị người bề trên.”

Nhưng ở đây, tôi chỉ muốn nói đến chuyện khác:

Tại sao trước 1975, giới lãnh đạo Cộng sản ghét chủ nghĩa đầu hàng đến như vậy mà bây giờ, từ lời nói đến hành động của họ, ở đâu cũng bàng bạc một thứ chủ nghĩa đầu hàng đến thảm hại như vậy?

Trung Quốc ức hiếp họ đến mấy, họ vẫn cứ nhịn. Trung Quốc chửi: họ nhịn. Trung Quốc đánh: họ nhịn. Tàu Trung Quốc đánh chìm tàu đánh cá Việt Nam, bắt ngư dân Việt Nam, họ cũng không dám gọi tên. Chỉ nói bâng quơ: “tàu lạ”. Tàu Trung Quốc cắt dây cáp thăm dò dầu khí Việt Nam, họ cũng không dám lên tiếng; hơn nữa, còn biện hộ giùm cho Trung Quốc: vì Trung Quốc “vô tình”. Họ phân bua: Không phải họ hèn mà vì họ muốn tránh chiến tranh. Nhưng dưới mắt người dân, qua lời nói cũng như việc làm của họ, vừa đối với dân vừa đối với Trung Quốc, họ thực sự đã đầu hàng và muốn cổ vũ cho một thứ chủ nghĩa đầu hàng trong quần chúng. Để đừng ai hô hào chống lại Trung Quốc cả.

Tôi gặp khá nhiều đảng viên thuộc thành phần trí thức, có người giữ một số chức vụ khá cao, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục, ở miền Bắc. Mỗi lần nhắc đến các hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc và các phản ứng yếu ớt của Việt Nam, hầu như ai cũng đều nói một giọng giống nhau: “Mình là nước nhỏ và yếu mà. Làm gì được?” Người ta xem chuyện thua Trung Quốc là chuyện đương nhiên. Và người ta chịu thua ngay từ đầu.

Bạn tôi có một người quen trước đây từng du học ở Úc. Học cũng chẳng đến đâu. Sau, về nước, không có một mảnh bằng nào cả. Nhưng nhờ bố làm lớn trong Trung ương đảng, anh ta nhảy lên làm giám đốc một công ty ở Hà Nội; sau đó, chuyển sang làm đại diện cho một đại công ty Việt Nam ở Bắc Kinh. Nói chuyện qua điện thoại với bạn tôi, anh ta khoe là suốt ngày đi chơi. Bạn tôi ngạc nhiên: “Mày là trưởng phòng đại diện mà sao rảnh rỗi quá vậy?” Anh ta đáp: “Thì em có biết gì đâu. Toàn bọn Tàu làm cho em cả!”. Bạn tôi lại hỏi: “Mày không sợ Tàu cướp nước mình hả?”. Anh ta cười giòn giã: “Thôi, anh ơi. Bận tâm gì đến chuyện đó. Cứ xem như mình đã mất nước rồi đi! Bọn Tàu bây giờ khác Tàu ngày xưa lắm. Ngay cả khi cướp nước mình, bọn nó cũng chả hành hạ gì dân mình đâu!” Rồi anh ta lại cười. Cười rất giòn giã.

Thoạt nghe chuyện ấy, tôi nghĩ đó chỉ là một chuyện cá biệt. Nhưng sau, nói chuyện với nhiều cán bộ từ Việt Nam sang, tôi mới biết đó là một thái độ hết sức phổ biến. Ngay trong bài giảng về Biển Đông của Đại tá Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, vào giữa tháng 12 vừa qua, cũng toát lên điều đó. Chỉ khác ở cách nói.

Tại sao có một sự thay đổi nhanh chóng và lạ lùng đến như vậy nhỉ?

Không thể không nghĩ đến chuyện Hoài Thanh kể trên. Ông đi từ sự ngưỡng mộ đến sự phê phán đối với Từ Hải, từ việc cho Từ Hải là anh hùng đến việc chê trách Từ Hải là kẻ theo chủ nghĩa đầu hàng, chỉ vì những ảnh hưởng của đảng, cụ thể là của Hồ Chí Minh, qua lời kể của Tố Hữu.

Còn bây giờ, sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa đầu hàng tại Việt Nam hiện nay là do đâu?

Hỏi cho vui vậy thôi.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

260. NÀNG MAI HOA TUYẾT QUỲNH – SỰ THẬT VÀ HUYỀN THOẠI

NHÌN LẠI LỊCH SỬ *

NÀNG MAI HOA TUYẾT QUỲNH  S THẬT VÀ HUYỀN THOẠI

TS. ĐINH CÔNG VĨ
Mấy thế kỷ nay quần thể Hương Sơn “Nam thiên đệ nhất động” đã làm bao người khao khát say mê. Hai tiếng “Tuyết Quỳnh” trong đó đã vang dội trong thơ văn. Nhưng thực sự động Tuyết Quỳnh mới được ông Nguyễn Thanh Lâm, người thôn Yến Vĩ tìm ra mấy năm gần đây. Người ra vào thăm quan cầu cúng bắt đầu đông mà chỉ lấp lánh hào quang thánh thần, chưa ai khảo cứu để hiểu rõ con người thật: Bà chúa động (công chúa Mai Hoa – Tuyết Quỳnh) là ai? Tiểu sử thật thế nào?

Thật ra, từ thuở đầu hai tiếng Tuyết Quỳnh tuyệt diệu ấy chưa gắn với nàng. Tên gốc nàng là Mai Hoa, cái tên đầy vẻ quý phái: “Tên Mai lừng lẫy họ nhà Hoàng” như một nhà thơ từng ca ngợi. Bởi vì nàng là con gái Quốc Vương Tư Tề, cháu nội Hoàng đế Lê Lợi và Quốc mẫu Trịnh Thị Ngọc Lữ. Tên húy Tư Tề là “Lang”, mà nàng là con gái lớn trong hai con gái rốt lòng của ông. Nàng thích ngao du      sơn thủy như công chúa Tiên Dung thời Hùng Vương. Đôi mắt buồn mộng mơ, nước da đen giòn, khuôn mặt tròn càng tăng thêm vẻ duyên dáng trên thân hình thanh thoát như tiên của nàng. Vậy nên thần vị của nàng có dòng chữ: “Đệ nhất Lê Lang Tiên Dung công chúa Mai Hoa, hiệu Diệu Tuyết Quỳnh”.
Mai Hoa ra đời từ trong khói lửa những năm đầu chống giặc Minh gian khổ. Vào giai đoạn cuối cuộc Bình Ngô mở nước, cho tới vài năm đầu hoà bình, khi Bình Định Vương Lê Lợi mới lên ngôi Hoàng Đế, Mai Hoa vẫn theo các anh học tập dưới sự kèm cặp của Nguyễn Trãi, mài mực, phụ giúp thầy soạn thảo binh thư, từ mệnh. Cuộc đời lá ngọc cành vàng đang mở ra cho anh em nàng bao hy vọng, thì oan khuất bất thần dáng xuống: Lê Tư Tề, vị anh hùng chống Minh đầy công đức, uy tín, hoàn toàn xứng đáng được nối ngôi Lê Lợi, lại bị hạ bệ để đưa con người vợ lẽ Lê Lợi là Lê Nguyên Long, tóc còn để chỏm, không có chút công lao nào lên ngai vàng. Thái tông Nguyên Long thấy Tư Tề hơn mình về mọi mặt, sợ sẽ ảnh hưởng đến ngai vị mình nên dựng án để năm 1438 cách tuột anh xuống làm thứ dân. Gia đình Tư Tề có nguy cơ bị mưu hại, từ mùa thu năm Kỷ Mùi (1439) phải bí mật rời khỏi Thăng Long. Từ đấy là cuộc sống lẩn tránh nay đây mai đó của Mai Hoa và toàn gia đình: Đầu tiên về Nam Đàn (Nghệ An), rồi về Nam Điền (Thanh Hoá), cuối cùng về Phù Lưu Tế (nay thuộc huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây). Năm 1442, Lê Thái Tông bị mưu sát, Nguyễn Trãi và dòng họ bị tru di tam tộc, sau đó là những biến loạn cung đình… Lê Tư Tề dặn dò Mai Hoa: “Cha không màng giàu sang lộc hậu, muốn trọn đời ẩn náu trong dân gian để nhà Lê yên bình. Nhưng đến mức này thì phải cứu nhà Lê. Vậy con hãy đi tìm Lê Đàm, cùng anh ruột con thực hiện ý chỉ của cha: “Khả dĩ chiêu quân, trung thần tử quốc”. Vâng lời cha, Mai Hoa bí mật hành hương vào miền Trung tìm Lê Đàm, cùng Đàm và sư Cao Nhuệ (học trò lớn của Nguyễn Trãi, con Cao Sư Đãng, người thợ sơn nổi tiếng) chuẩn bị lực lượng lo bảo vệ cho thân quyến còn sót của Nguyễn Trãi, chọn lọc để gây cơ sở đưa minh quân (như Lê Thánh Tông) lên ngôi. Đầu tiên Mai Hoa hoạt động ở Nông Cống (Thanh Hoá) rồi ra Bắc, lên Côn Sơn.
Côn Sơn, vùng quê văn hoá nối tiếng của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, cũng là nơi từng văng vẳng bên tai Mai Hoa những vần thơ Ức Trai, trọn đời không quên:
“Đỉnh Thâu Ngọc tiên đong tuyết nhũ
Song Mai Hoa điểm quyển Hi Kinh”
Gợi lại cái thuở đầu gặp gỡ Nguyễn Lễ, cháu Nguyễn Trãi khi nàng đến nghe giảng Kinh Dịch, cùng chàng sánh vai lên đỉnh Thâu Ngọc hứng nước suối đun trà cho ông, rồi Nguyễn Lễ say ngắm đoá mai vàng lấp lánh bên song cửa sổ, mơ màng tới đoá mai của chính trái tim mình để viết những vần thơ thầm kín. Nguyễn Trãi thấu hiểu tâm sự của hai người, tính đến chuyện đính ước để hai nhà thêm gần gũi. Song hẹn ước chưa thành thì gia đình Tư Tề gặp nạn, rồi thảm án Lệ Chi Viên làm cho đôi lứa thiếu niên hai phương trời biền biệt, biết bao giờ gặp mặt.
Vậy mà giờ đây cá nước duyên mây: Nguyễn Lễ cũng trong đội quân cận vệ của Lê Đàm. Nông Cống, quê hương Bà Triệu hào hùng là nơi tái ngộ, động Thanh Hư diệu kỳ là chốn hẹn thề. Ở Côn Sơn, những lúc rảnh việc nước, việc công, hai người lại đứng trên đỉnh Kỳ Lân nhìn sang núi Phượng Hoàng tưởng Phượng – Lân núi chồng núi vợ mãi song đôi, nhìn sang Yên Tử mãi mãi ngất trời mây phủ, Kiếp Bạc vĩnh viễn non sông sóng vỗ tung trời, tưởng mối tình của mình cũng dài như non sông đất nước. Nào ngờ kết cục bi thảm: Nguyễn Lễ bị giết ngay sau khi Nguyễn Trãi được ban chiếu minh oan, Lê Đàm cũng kết thúc trang sử bi hùng của đời mình sau khi đã lập nên chiến công hiển hách ở phương Nam, đã bảo vệ và góp phần đưa minh quân lên ngôi báu. Hận vì tình nhà, nợ nước không vẹn, Mai Hoa nhờ sư Cao Nhuệ giúp xuất gia đầu Phật ngay tại Côn Sơn. Cao Nhuệ góp ý: “Nơi này tai mắt bọn gian thần đã để ý, không thể tu lâu dài”, ông cho một tiểu tăng theo hầu, đưa nàng về Phù Lưu Tế thăm gia đình, rồi tiện đường sơn xuyên tầm lạc tìm lên Hương Sơn gần đấy…
Hương Sơn thuở đó còn rất hoang dã, hệ thống đền chùa, miếu tháp chưa được xây dựng quy mô như ngày nay nhưng non non nước nước mây mây cũng đủ thành một bức tranh gấm vóc. Dòng suối Yến với rồng vờn phượng múa, voi, rùa, bếp trời… chầu trực ở bên cạnh cũng tuyệt kỳ như nguồn Đào rót vào Thiên Thai, đủ làm Mai Hoa say mê. Suối Giải Oan trong vắt tiêu tan mọi oán hờn. Hoa mơ như mây trắng đọng thành con đường thơm dẫn tới động Hương đang mở ra như hàm rồng khổng lồ với đủ núi cô, núi cậu, cây vàng, cây bạc long lanh. Và bao nhiêu sự tích bà chúa Ba, Đức chúa Thượng Ngàn… thánh thiện, linh thiêng. Hinh Bồng, Tuyết Sơn… thâm nghiêm, cao cả, cũng đủ làm nàng thấy một vùng thắng địa Phật – Thánh đáng tu hành. Song, bằng tầm mắt sâu rộng, nàng đoán trước: chẳng mấy chốc, các nơi ấy sẽ lẫy lừng khắp trời Nam, đền chùa sẽ mọc lên nhiều người ra vào tấp nập thì còn gì kín đáo. Ta cần tìm nơi thích hợp hơn. Thì kia:
Đường kín gập ghềnh thang đá cuốn
Động tiên thăm thm dấu mình trên.
Thuở đó, đường lên động Tuyết Quỳnh chưa có dấu chân người, chỉ có thiên tạo tạc thành thang núi quanh co, ẩn dưới rừng cây rậm rạp mà thầy trò Mai Hoa là người đầu tiên dọn đường leo lên. Hai người ngây ngất trước cảnh tượng tuyệt vời như câu thơ Nguyễn Du mấy trăm năm sau không hẹn mà đã tả ở Kiều: “Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. Bởi vì từ đỉnh động có một lỗ lớn nứt ra khung trời, ánh sáng từ đó và từ các cửa động khác phản vào đá lấp lánh y như hoa thêu gấm dệt. Một đoá hoa quỳnh trinh trắng khắc tạc trên thành đá, phản ánh đúng hoàn cảnh Mai Hoa lúc ấy.
Đời được như quỳnh tươi phút chốc
Rồi khép bông thơm, lánh sự đời.
Từ đó, Tuyết Quỳnh thành tên Động và sau thành hiệu “Diệu Tuyết Quỳnh” nhà Phật ban cho nàng. Cùng với hoa quỳnh, trong động còn tạc lên bao hình vẽ đầy ý nghĩa như hổ đá, rắn, rùa… Phải chăng nó phản ánh phần nào cuộc đời thầy trò nàng như huyền thoại dân gian là: “Lúc mới đến động, hai thầy trò phát cây thường gặp hổ vàng lớn từ lưng núi nhìn xuống, sau đó được Mai Hoa cảm hoá, thường đến nghe nàng tụng kinh và bảo vệ hai người. Sau 38 năm tu ẩn, Mai Hoa về với Phật vào tuổi 56, ngày 8 – 4 âm lịch. Tiểu tăng thương cảm, tạc đá thành hình người thầy, ôm tượng khóc đến chết, hoá kiếp làm rùa quanh quẩn ở núi, hổ cũng hóa kiếp làm rắn bảo vệ động. Nay trong động thường xuất hiện chú rắn lớn. Pho tượng Phật bà bằng đá trắng tạc đầu hổ thời Lê còn đó. Chúng tôi đến tìm hiểu đều thấy rõ. Các nhà nghiên cứu thử nghĩ xem: Sự thực ấy nói thêm gì về những huyền thoại quanh nàng?
Ngày 12 tháng 6 năm 1995
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.

261. VỤ THẢM ÁN TRẦN NGUYÊN HÃN

NHÌN LẠI LỊCH SỬ *

VỤ THẢM ÁN TRẦN NGUYÊN HÃN

TS. ĐINH CÔNG VĨ
… Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ,
Phong vân vi chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vi quang…
(… Máu chiến đỏ cả nước Xương Giang, Bình Than
Gió mây vì đó mà biến sắc
Mặt trăng mặt trời sầu thảm không ánh sáng…)
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

I. THÀNH XƯƠNG GIANG VÀ TRĂNG NƯỚC SÔNG THƯƠNG
Trong đêm tối càng thấy rõ thành Xương Giang như một cái bóng khổng lồ che kín một góc trời. Bốn vọng gác lớn trên thành, sau nhiều trận hứng đạn đã xiêu vẹo. Phần tường che vọng gác phía ngoài tiếp liền với mặt thành đã để vỡ tan tành. Trong các vọng gác, không còn thấy những ánh đèn lấp lánh, không còn nghe tiếng quân hô đổi gác, tiếng trống báo canh như thường lệ. Những tường thành vuông vắn, cao vót, dày mấy chục mét, mấy cánh cổng gỗ lim bọc sắt dày cộp dưới vọng lâu, sau con hào dày đặc những chông trà, chấn địa lôi, đến lúc này mới thật sự được nghỉ ngơi, mới thôi run lên bần bật dưới hoả pháo công thành của quân Việt. Nhưng đằng sau nó, vẫn là những cặp mắt lo âu, thấp thỏm nhìn ra bên ngoài, không biết mấy trăm quả đồi đất bao quanh thành kia có như hoả diệm sơn bất thần khạc lửa vào mình chăng? Trên chỉ huy sở, ở cái nơi mà phía Việt vẫn gọi là đồi quân Ngô, trong một căn lầu có tường dày bao quanh, vẫn rì rầm tiếng người nói, đặc giọng phương Bắc. Giữa lầu, ở tầng dưới là một chiếc bàn to, lố nhố người ngồi kẻ đứng xung quanh. Hàng bạch lạp giữa bàn cháy lung linh, đủ soi rõ một thân hình hộ pháp, râu quai nón tua tủa đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bọc da hổ. Đó là Đô chỉ huy Lý Nhậm. Nhậm thở dài bảo viên quan hầu đứng bên cạnh đang cúi gằm xuống tờ giấy trắng:
- Ngươi đọc to, đọc rành rọt nữa lên.
Hắn ngẩng nhìn bọn Kim Dận, Cố Phúc, Lưu Thuận, Lưu Tử Phụ ngồi trước mặt nhắc:
- Chư vị hãy lắng nghe, xem bọn Nam man muốn gì.
Viên quan hầu tay cầm tờ giấy run run, cố dằn giọng:
- “Các ngươi nên biết kéo quân ra thành, chúng ta cùng hòa hảo thân tình thì coi các ngươi nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mệnh vợ con mà thôi. Nếu không thì tuỳ ý các ngươi. Trong khoảng sớm tối khắc thấy nhau, đến bây giờ hối cũng không kịp”.
Tri phủ Lưu Tử Phụ tay vân vê sợi râu bạc, vuốt lại cái cổ viền tròn, gật gù, cắt ngang người đọc thư:
- Nói là chúa Lam Sơn viết thư, nhưng nghe giọng văn này, tôi có thể đoán không sai là văn của Nguyễn Trãi tiên sinh. Từ văn đến người bao giờ cũng đầy sức hấp dẫn, thấm đến tận gan ruột.
Đô chỉ huy phó Kim Dận nhấp nháy cặp mắt ốc nhồi to, vỗ kiếm cười lớn, giọng oang oang:
- Chính vì thế mà bậc hùng tài thao lược, người đầu tiên nhảy lên thành Đa Bang ở cái đất đáng sợ này là Đô đốc Thái Phúc cũng phải thực lòng khâm phục, nộp thành, xếp giáp, quy hàng. Chẳng những thế, ông ta còn cưỡi ngựa đến dưới chân thành, kêu gọi chúng ta nữa. Hôm qua, nếu tôi không nhanh tay chặt đầu mấy kẻ dao động thì khối đứa đã vượt thành, chạy ra ngoài rồi.
Tướng Lưu Thuận:
- Nếu chỉ bằng giọng văn thôi, thì dù có sức quyến rũ đến mấy, đâu dễ lung lạc được một người thông minh, cứng rắn như Thái Đô đốc. Tôi chắc rằng họ phải có một cái thực gì đó mới dễ cảm hóa con người. Cứ nhìn cách đối xử nhân hậu, hào hiệp của chúa Lam Sơn ngày nay với Thái Đô đốc thì có thể đoán được phần nào.
Tướng Cổ Phúc:
- Thế là vị chân chúa đầy tài ba ấy đã biết lợi dụng những bất đồng trong nội bộ chúng ta rồi. Lần này thủ thuật lợi dụng của ông ta còn cao tay hơn cả Anh Quốc công (tức Trương Phụ, tướng nhà Minh) ngày trước, người đã biết nhận những bất hòa trong nội bộ người Việt để trước bắt hai vua Hồ, sau bắt hai vua Hậu Trần.
Nếu không có chuyện Trần Ngỗi đa nghi, giết các công thần đầy công lao như các ông Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân sau chiến thắng Bồ Cô lừng lẫy, để cho quốc công lợi dụng thì làm sao chúng ta lại có thể vẫn ngồi ở tòa thành này đến tận ngày nay?
Kim Dận cười to, vẫn cái giọng oang oang:
- Giá bây giờ chúa Lam Sơn cũng đa nghi, ghen tài giết hại công thần khai quốc như Trần Ngỗi thì hẳn chúng ta sẽ đỡ khổ trong cái vùng đất lửa chết tiệt này.
Cố Phúc gật gù ra vẻ thông hiểu:
- Với một con người cực kỳ thông minh như chúa Lam Sơn thì đời nào có chuyện lạ lùng ấy. Sư phụ tôi là Hoàng Thượng thư (tức Hoàng Phúc, tướng nhà Minh) am hiểu nước này hơn ai hết, từng ân cần dặn tôi rằng: “Chúng ta cần tôn người Giao Chỉ làm thầy. Vì họ là những người thông minh, khôn hơn nhiều dân nước khác trong việc giải quyết bất hòa trong nội bộ. Trường hợp nhà Hồ là trường hợp đặc biệt để cho bên ngoài đục nước béo cò. Còn nói chung, cái hiện tượng cao cả, hai ông Quang Khải – Quốc Tuấn dẹp xung khắc vốn có để tắm cho nhau trong lúc nước nhà có quốc loạn mới là phổ biến. Cho nên, chúng ta muốn lợi dụng giống dõi nhà Trần để chống lại nhà Hồ thì sau đó đã được trả lời bằng sự vùng dậy của Trần Ngỗi, Trần Quí Khoáng. Còn như bọn Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu một lòng vì ta, chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Thảm án công thần Đặng – Nguyễn cũng rất thưa thớt trong chiến tranh. Những ai muốn lợi dụng nó phải dè chừng.
Kim Dận:
- Còn sau đó, hết cơn binh lửa thì sao?
Cố Phúc:
- Xin ngài tự nhìn vào đất nước Trung Hoa văn minh của chúng ta mà suy ra.
Nói đến đây, Cố Phúc im lặng, trầm ngâm nghĩ tới những sự kiện của chính bản triều nhà Minh mà mình không dám kể lại trước các đồng liêu: Thành ý bá Lưu Cơ, có tài như Trương Tử Phòng, Gia Cát Lượng đầy công trạng, từng giúp tiên đế (Minh Thái Tổ, Chu Nguyên Chương) đoạt non sông của nhà Nguyên, thế mà sau hòa bình về ở ẩn vẫn bị đầu độc. Chu Lượng Tổ công lao khai quốc to vậy mà vẫn bị tiên đế cách chức, ức phải chết. Tất nhiên sau đấy người ta có tỏ ra thương tiếc, khôi phục thì đã vỡ mật tan thây rồi, chậu nước đổ xuống đất bao giờ vét đầy được như cũ. Các bậc thánh chúa anh minh phần lớn khéo sử dụng người đúng chỗ đúng lúc như vậy đấy!
Đang suy nghĩ, bỗng Cố Phúc giật mình, trở về với thực tại, bởi Lý Nhậm đã đập bàn quắc mắt lớn giọng:
- Đang lúc thập tử nhất sinh mà các vị cứ bàn chuyện đẩu đâu. Tự nhìn vào chúng ta à? Hiện nay, chúng ta chỉ có hai con đường: Một là đi theo vết xe của Thái Đô Đốc, thực hiện đúng những lời dụ trong bức thư vừa đọc, nộp thành đầu hàng. Đi theo vết xe này thì đổ thật, vì trước mắt có thể yên ổn, nhưng rồi cái án với người đầu hàng thật thê thảm sẽ chờ ở quê hương. Hai là đi theo vết xe của Tô Giam đời Tống, chờ viện binh không được, phải thác với thành. Đằng nào cũng chết, thì thà theo vết xe thứ hai này còn vinh hơn.
Kim Dận vỗ gươm nói to:
- Tô Giam vì sợ án chết, sợ uy tín tổn hại mà phải tìm cái chết, cái uy tín cho đẹp hơn, kể cả việc phải hy sinh 5 vạn 8 nghìn nhân mạng ở thành Ung Châu, chỉ làm cho tiếng thơm của Lý Thường Kiệt càng lừng lẫy. Theo tôi, như thế không ổn. Nay còn nước còn tát. Trong muốn chết, chúng ta phải liều thân tìm lấy một sống.
Lưu Tử Phụ:
- Cái sống lúc này mong manh làm sao. Bởi thành này đã bị cô lập rồi. Sau Thái Đô đốc, thì Tiết Tụ, chỉ huy thành Diễn Châu đã nộp thành xin hàng. Thành Điêu Điêu, thành Thị Cầu cũng vậy. Gần đây, Lưu Thanh chỉ huy thành Tam Giang đã dẫn binh về với chúa Lam Sơn. Thành Đông Quan và vài thành còn lại bị vây chặt, không cự nổi. Chúng ta cầm cự chín tháng rồi, lương thực gần cạn, không được ai tiếp thêm. Trong khi đó thì bên ngoài, quân Lam Sơn được tiếp tế vô tận, dân quanh thành giúp họ đắp thêm ụ đất, đào đường hầm vào thành.
Lý Nhậm đưa mắt nhìn Kim Dận, lại nhìn Lưu Tử Phụ nói:
- Hai ông phải thấy cái đáng lo lúc này là lương thực, chứ không phải đường hầm. Vì chúng đào đường hầm thì ta xẻ rãnh, dùng súng thần cơ của họ Hồ (do Hồ Nguyên Trừng, con Hồ Quý Ly chế tạo) bắn cho tan thành.
Lưu Tử Phụ:
- Mối lo của chúng ta lúc này, chủ yếu vẫn là ở các ụ đất. Đời Tam Quốc, Viên Thiệu đánh Quan Độ, trên các ụ đất chỉ cần dùng cung tên mà quân của Tào Tháo cũng đủ thất điên bát đảo nữa là ngày nay, quân Việt sáng tạo ra nhiều loại võ khí mới.
Lý Nhậm:
- Ta cũng có võ khí bắn được.
Lưu Tử Phụ:
- Nhưng súng của chúng từ độ cao bắn xuống, còn ta thì ở thấp bắn lên, không tác dụng bằng. Đáng lo hơn là ngày nay, chúng không những có súng thần cơ, còn chế ra súng Tương Dương, tạo ra xe ngựa bay, xe phá thành(1). Tôi e rằng sau này, từ những ụ đất cao kia, chúng sẽ dùng võ khí mới từ Đông Quan đưa tới, lại điều thêm các tướng giỏi hơn và có uy tín với quân dân hơn bọn Lê Bát, Lê Thụ về, nhất là khi chúng điều Trần Nguyên Hãn về đây thì bọn ta nguy mất.
Lý Nhậm:
- Hãn chỉ là kẻ có tài đánh vào chỗ bất ngờ, lấy thực đánh hư ở vùng Tân Bình – Thuận Hóa, chứ chắc gì đã có tài công thành.
Lưu Tử Phụ:
- Ngài không thấy chính Hãn là người đã hạ thành Đa Căng, đã bao vây, làm khốn đốn Lam thành hay sao? Hãn với Nguyễn Trãi, người viết bức thư vừa rồi là con cô con cậu, đều là cháu quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Tức là đều sinh ra từ gia đình gia giáo, được học tập chu đáo, khác hẳn bọn Lê Sát, Lê Thụ. Truy về nguồn, Hãn là dòng chính gốc của Trần Quang Khải, người làm nên chiến công Chương Dương, Hàm Tử nổi tiếng thời quân Mông đang thống trị cả nước Trung Hoa ta. Ngoài sức khoẻ có thể địch nổi muôn người như bọn Sát, Thụ, Hãn còn là bậc tinh thông thao lược binh thư như Hàn Tín đời Hán Cao Tổ.
Lý Nhâm mỉm cười:
- Thế thì làm sao Hãn với bọn Sát, Thụ có thể ăn ý với nhau được. Dù Chúa Lam Sơn có điều Hãn đến giúp bọn này, vị tất đã làm nên trò trống gì.
Cố Phúc:
- Thưa ngài Đô chỉ huy, tôi tin rằng bọn chúng sẽ làm nên những trò trống rất nguy hại cho ta. Hiểu được tính cách người Giao Chỉ, phải thấy sự không ăn ý của họ sẽ được giải quyết ở chỗ khác, lúc khác, chứ không phải ở đây. Trận thử lửa sắp tới sẽ cho ngài thấy Hãn và Sát, Thụ sẽ gạt đi mọi bất đồng hẹp hòi để đồng tâm giáng cho chúng ta những đòn chí tử. Theo tôi, chúa Lam Sơn sẽ cử Hãn đến đây vì chỉ có Hãn mới giải quyết thành này nhanh nhất khi viện binh của chúng ta chưa kịp kéo sang. Vậy, nhân khi Hãn chưa kịp đến đây, võ khí mới chúng chưa kịp chuyển đến, chúng ta có thể lợi dụng ban đêm, đem quân tiến ra thành, bất ngờ chiếm các ụ đất để tranh địa lợi. Đó là trong muốn chết tìm lấy một sống, như ngài Đô chỉ huy phó đã nói.
Có tiếng bước chân rất gấp từ đài quan sát ở tầng lầu trên xuống. Tướng Phùng Trí xuất hiện trước mặt mọi người trong bộ võ phục gọn gàng, tay cầm ống kính, khuôn mặt chừng ba lăm, bốn mươi tuổi của y thoáng vẻ vui mừng. Y báo cáo:
- Thưa ngài Đô chỉ huy và chư vị, tôi thấy đài quan sát của quân Lam Sơn ở ngọn đồi phía Đông bắc thành đêm nay không phát sáng. Trong các trại quân của họ không nghe thấy tiếng trống cầm canh như thường lệ. Trên các đồi đất thấy vắng bóng người. Có lẽ ở phía họ có sự thay đổi gì đó. Quân tiếp viện sắp đến chăng? Hay họ cho rằng sau thời gian khạc lửa đạn vào thành, sức ta đã tàn nên chủ quan như thế?
Lý Nhậm reo lên:
- Mưu của Cố Phúc và sự quan sát của Phùng Trí ăn khớp đến lạ lùng. Còn gì hơn nữa, nếu ngay đêm nay, ta sẽ chọn những tướng mạnh tinh binh cảm tử, đem quân ra thành thực hiện điều đã định.
Một vùng đồi đất huyền ảo ngang dọc, uốn lượn quanh thành Xương Giang. Trong đêm tối khó phân biệt được đó là những bát úp màu đen khổng lồ hay những pho tượng mặc giáp đen chôn chặt vào lòng đất. Tất cả đều lầm lì, không một tiếng động nào khác, ngoài tiếng sóng vỗ rì rầm của sông Thương từ phía nam vọng lại. Nấp sau khu đồi đất là những lều trại, những chuồng voi, chuồng ngựa, kho vũ khí bày ra la liệt, lồng trong bóng đen, xen bóng đen lù lũ nhấp nhô, điểm thêm vài tia lửa đuốc, vài bóng đèn nhỏ li ti thấp thoáng di động trong đêm. Ở phía Đông bắc khu lều trại ấy, tiếp liền với đài quan sát là chỉ huy sở của quân Lam Sơn. Trong sở chỉ huy rộng rãi, dựng tạm bằng tre nứa, lá gồi, có tường đất dày bao quanh, sau giá vũ khí lớn đầy những đại đao, trường thương, kiếm kích, truỳ đồng, cung tên… là một chiếc giường to bằng gỗ lát, trải da báo trơn mượt. Quan Tư mã Lê Sát đang ngả mình trên đó. Tấm thân lực lưỡng, rắn rỏi của ông hết xoay bên phải lại xoay bên trái, làm chiếc giường vững chãi như thế mà phải kêu răng rắc. Bàn tay to, cứng như thép của ông hết vỗ vào cái trán dô, lại xoa khắp khuôn mặt vuông chữ điền. Cặp mắt đen trắng pha lẫn bên to bên nhỏ của ông nhìn trừng trừng vào bóng đêm, chứng tỏ ông đang suy nghĩ điều gì, chưa ngủ được. Nghĩ về thành Xương Giang chăng? Ông lẩm nhẩm: Với tình thế ngày nay, việc hạ thành là cầm chắc trong tay rồi, có điều còn quá chậm mà lệnh chúa công là phải hạ nó trước khi viện binh của giặc Ngô tiến vào cửa Pha Luỹ (nay là Hữu Nghị Quan). Nhưng mình ta không thể làm ngay một lúc. Thôi thì đêm nay hãy cho quân nghỉ cho lại sức, mai Thái úy Trần Nguyên Hãn kéo quân đến, sẽ phối hợp đánh một trận quyết định…
Nói đến Trần Nguyên Hãn, ông nghĩ: “Không biết con người này, qua những ngày ban đầu gian khổ đã bớt đi cái chất cao kỳ quý tộc do nguồn gốc cành vàng lá ngọc sinh ra hay chưa? Ta lâu nay chỉ quen tiếp xúc với những con người dễ dãi như Lê Thận, Nguyễn Xí, Lê Vấn, Trịnh Khả…, học trong thực tế, trong nhà tù nhiều hơn là trong trường lớp chính quy. Bọn ta có thể uống rượu bằng bát, xé thịt bằng tay với nhau cũng được, lời xưng hô, tiếng nói không hề câu nệ. Còn nay cộng sự với bậc hào hoa thanh lịch này thì không biết sẽ ra sao?” Nghĩ đi nghĩ lại, ông thiếp đi lúc nào không hay…
Bỗng “đoàng, đoàng…”, tiếng địa lôi nổi rung trời chuyển đất, tiếng súng liên hồi, tiếng trống thúc, tiếng ngựa hí, tiếng quân la ó náo động khắp nơi làm ông giật mình choàng dậy. Vừa gặp lúc Thiếu úy Lê Thụ cùng các tướng hiệu bộ thuộc đang hớt hải chạy vào, phi báo giặc Minh đã bất thần phản công chiếm gọn các đồi đất ở phía Đông bắc và đang đánh lan ra các trại quân ta ở dưới đồi. Lê Sát vội khoác áo giáp, cầm đại đao ra trướng, nhảy phắt lên ngựa, cùng Lê Thụ và các bộ tướng phi nhanh về phía có chiến sự. Trước mắt mọi người là một góc trời rừng rực lửa cháy. Lửa của hàng nghìn mũi tên cuốn lửa ở đầu, từ trên đồi vùn vụt phóng như mưa về phía lều trại quân Việt. Lửa của những lều trại bốc cháy ngùn ngụt. Đất đá bắn vung vãi khắp nơi, làm tung tóe những tàn lửa vào người, vào vật xung quanh. Bọn Lý Nhậm còn dùng những khẩu thần cơ vừa chiếm được từ trên đồi bắn loạn xạ về phía quân ta ở dưới đồi, làm cho nhiều nghĩa binh thương vong. Lý Nhậm chỉ tay xuống phía lửa cháy, hạ lệnh:
- Phùng Trí hãy giữ chặt các điểm vừa chiếm được, để ta và Kim Đô chỉ huy phó xuống dưới kia sửa cho chúng một mẻ.
Dứt lời, kẻ trùy đồng, người trường thương cưỡi ngựa, dẫn quần lao xuống đồi, đánh phá mãnh liệt vào các đồn trại quân Việt. Quần tướng hai bên hỗn chiến náo loạn. Trong ánh lửa sáng rực, ai cũng có thể nhìn thấy Lý Nhậm vọt lên trước như một mãnh hổ. Đôi trùy đồng to tướng của y loang loáng che kín khắp mình, đảo bên phải, lộn bên trái, làm hàng trăm quân tướng ta thiệt mạng. Lê Sát vội giục ngựa, múa tít cây đại đao, thét vang:
- Các người hãy tản ra xa, để ta lấy đầu tên giặc dữ.
Võ khí mạnh gặp võ khí mạnh, hổ tướng gặp hổ tướng, càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng hăng, trên trăm hợp vẫn không phân thắng bại. Lê Thụ nóng mắt múa thương xông ra, Kim Dận múa thương chặn lại. Quân hai bên lao vào nhau, hò hét, làm náo động trời đêm. Lý Nhậm đang huy động hết thần lực vào đôi tay hộ pháp, giở hết các ngón đánh hiểm hóc nhất tấn công vào Lê Sát. Bỗng “phựt”, một mũi tên sắt vụt lao tới, nhanh như chớp cắm phập vào bàn tay phải đang cầm trùy của Nhậm, làm hắn giật mình, thúc ngựa nhảy ra ngoài tầm đao của Lê Sát, vứt trùy, ôm tay, nhăn mặt đau đớn, quay lưng giục ngựa chạy lên đồi. Kim Dận gạt thương của Lê Thụ ra chạy theo chủ tướng. Bọn giặc còn lại kẻ bị bắt, đứa bị giết, nhiều đứa bám vó ngựa Nhậm, Dận chạy vội lên đồi. Một tướng trán cao, mắt sáng, dáng người cao to, tay gươm, tay cung, oai phong lẫm liệt trong bộ giáp trắng, cưỡi con bạch câu ào tới như một cơn lốc, theo sau là hàng nghìn kỵ sĩ vùn vụt phóng theo. Lê Sát, Lê Thụ và quân tướng đều vui mừng hò reo:
- Viện binh đã tới, Thái úy Trần Nguyên Hãn đã tới!
Nhìn cung tên trên tay Trần Thái úy và vốn đã khâm phục tài bắn cung trăm phát trăm trúng của ông, ai cũng hiểu đó là người đã bắn bị thương Lý Nhậm. Thái úy vòng tay, cúi đầu chào Lê Sát, Lê Thụ và nói to:
- Xin hai vị hãy thừa thắng, kéo quân xông lên, chiếm lại những đồi đất đã bị mất, không nên bỏ lỡ cơ hội.
Rồi ông phi ngựa dẫn quân vọt lên đồi, bám theo bọn Nhậm, Dận. Lê Sát quay lại phía Lê Thụ:
- Xin quan Thiếu úy hãy chỉ huy các doanh trại, xiết chặt vòng vây quanh thành để tôi dẫn mũi chủ lực tiếp ứng cho Trần Thái úy.
Bị đòn quá đau, bọn Kim Dận, Phùng Trí phải bỏ các đồi đất hộ vệ Lý Nhậm phóng một mạch về thành…
*
Trời bắt đầu sáng. Cưỡi ngựa đứng trên đồi cao, bên cạnh những mái lều còn cháy leo lắt, nhìn vào thành Xương Giang đang nhấp nhô uốn lượn dưới ánh mai hồng, Trần Nguyên Hãn nói với Lê Sát đang cưỡi ngựa đứng sát mình:
- Thưa quan Tư mã, theo báo cáo của các tướng, tôi được biết các vị từng dùng thang mây để trèo lên thành nhưng giặc Ngô dùng đuốc lửa (một thứ pháo thăng thiên) đốt thang. Từ các đồi đất được đắp lên này, các vị bắn hỏa tiễn vào thành có gây cho chúng một số thiệt hại, song thành quá dày mà các đồi đất của ta ở xa nên chưa phát huy hết tác dụng. Các vị có đào đường ngầm xuyên qua hào nước nhưng chúng phát hiện, đào hào chắn ngang, dùng súng bắn vào nên cách đó cũng uổng công, sở dĩ chưa thành công như thế là vì từ trước tới nay các vị chỉ tập trung vào từng cách đánh riêng lẻ: Đã thang mây thì thôi hỏa tiễn, đã hỏa tiễn thì thôi đào đường ngầm… Nay nhân lúc bọn giặc Ngô lương thực gần cạn lại vừa bại trận, ta có thế tập trung mọi cách đánh cùng một lúc: trên không hỏa tiễn, hoả pháo bắn xuống, cho thang mây trèo qua thành, dưới đất theo đường ngầm xông vào. Dồn dập tấn công thì chúng sẽ trở tay không kịp.
Lê Sát gật gù:
- Cao kế của quan Thái úy để ra thật hợp thời.
Trần Nguyên Hãn mỉm cười tự tin, xiết chặt cánh tay Lê Sát. Hai tướng nhìn nhau cười thân ái, dong ngựa xuống đồi, trở về chỉ huy sở.
*
Tiếng hỏa tiễn, hỏa pháo, tiếng súng Tương Dương, súng thần cơ, tiếng chấn địa lôi, tiếng quân reo, ngựa hí rung động đất trời Xương Giang. Khắp nơi trong thành, từ kho vũ khí, nhà chứa lương đến các trại quân đều ngùn ngụt bốc cháy. Tù nhân phá xiềng chặt xích. Quân Việt như từ trời nhảy xuống, từ đất mọc lên, tầng tầng lớp lớp, hò reo bắn phá, chém giết. Dưới pháo đạn của quân Việt, trên đồi quân Ngô, đài chỉ huy của bọn Nhậm, Dận, rùng mình xiêu vẹo, rồi đổ vỡ tan tành, gạch đá bay mù mịt. Lóp ngóp chui ra từ đống xác người, xác nhà, xác vũ khí, bọn tàn tướng giặc Ngô định chạy xuống đồi tìm lối thoát nhưng khắp nơi quanh chân đồi, quân tướng Việt đã xiết chặt vòng vây, rừng vũ khí chĩa lên tua tủa. Những ngọn lửa đỏ lòm từ sườn đồi bốc dần lên, khói đen mù mịt, cay xè. Trần Nguyên Hãn ghìm ngựa trước hàng quân, chỉ gươm lên đồi, thét lớn:
-  Các người hãy treo cờ hàng, chúng ta sẽ thể lòng trời, mở lượng cứu sinh, dập tắt lửa. Nếu không thì ngọc đá cũng thành tro.
Lý Nhậm, Kim Dận và các tướng giặc ho sặc sụa, kẻ bò lê, người chạy bổ lên đỉnh đồi. Trong hơi khói, hơi thuốc súng, hơi người chết cháy nồng nặc, Lý Nhậm nhìn Kim Dận đang giãy giụa chân tay, gục đầu xuống đống hòm xiểng, Lưu Tử Phụ đang quằn quại rên la trong vũng máu, Cố Phúc trút hơi thở cuối cùng với khuôn mặt thanh tú ngoẹo sang bên. Lý Nhậm bèn vấn lại mớ tóc dài bết máu xoã xuống mặt. Một bàn tay chưa bị thương của y nắm chặt chuôi gươm, toan đâm lên cổ. Bỗng thanh gươm rơi xuống, bàn tay buông thõng khi y nhìn thấy một bàn chân đang giãy của Kim Dận đạp phải một chiếc hòm đá. Hòm đồ nghiêng, cửa hòm bật tung. Những thỏi vàng óng ánh tuôn ra, rải đầy mặt đất. Y ngần ngừ với cái ý định tự tử, nhưng tiếng hò reo, tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một gần. Lý Nhậm vội vã cúi xuống nhặt thanh gươm. Cũng vừa lúc Lê Thụ với ngọn thương nhọn hoắt và hàng chục nghĩa binh cảm tử nhảy vọt tới. Nhậm đâm mũi gươm lên cố, máu phụt ra, toàn thân y run rẩy, gục xuống.
Nhìn những thỏi vàng rơi trên đất với những hòm châu báu thu được của giặc Minh, mắt Lê Thụ sáng lên. Ông đề đạt ý kiến với Trần Nguyên Hãn:
-  Thưa quan Thái úy, đây cũng là nhờ công sức ra sinh vào tử của anh em chúng ta mới thu được. Vậy ban chỉ huy chúng ta có thể chia và thưởng cho những binh sĩ dũng cảm nhất một phần. Ngài là tổng chỉ huy ở đây, có quyền quyết định số chiến lợi phẩm này, xin ngài linh họat châm chước cho. Riêng ngài sẽ hưởng nhiều vàng nhất.
Trần Nguyên Hãn lắc đầu:
- Quyết định không chỉ ở tôi mà còn phải theo quân luật. Tôi có quyền quyết định, nhưng quyết định hợp với luật. Vậy thì ở những điều luật ban hành trong quân về chiến lợi phẩm, có điều nào ghi rằng được bao nhiêu của quí, cấp chỉ huy chia hết, nhỏ giọt cho binh sĩ một phần, không đếm xỉa gì đến công quỹ không?
Lê Sát mỉm cười:
- Ông Lê Thụ đề đạt với tổng chỉ huy như thế không phải là hoàn toàn không phân minh. Vì ông đã công bằng nghĩ tới công lao của những người khó nhọc, chứ không chỉ lấy cho riêng mình. Người có công thì được hưởng, thế cũng là chính đáng chứ. Vậy theo tôi, quan Thái úy có thể linh họat làm theo ý kiến ông ta. Từ trước đến giờ, bận lao vào chiến trận, tôi chưa có thời gian đọc được luật nọ luật kia trong quân, chỉ thi hành mọi thứ theo ý muốn của mình. Có dễ dãi như vậy mới động viên kịp thời người khó nhọc chiến đấu, thể hiện câu “phụ tử chi binh”. Và bọn ta là chỉ huy phải tự quyết định, chứ gò bó với những điều nọ luật kia thì khổ lắm.
Trần Nguyên Hãn nghiêm sắc mặt nói:
- Cũng may là nay đang thời chiến, các ngài mới chỉ huy một cánh quân thì tác hại của việc sống không luật còn ít. Giả sử sau này các ngài nắm quyền lớn, quyết định những việc quân quốc trọng đại của một nước thì thật là gay go. Một đất nước có những người có chức to quyền lớn thậm chí cầm đầu cả nước không sống theo luật, không có kỷ cương hoặc chỉ nói luật trên đầu lưỡi sẽ đi tới đâu? Phải chăng chỉ đi tới sự tham nhũng từ nhỏ đến lớn, nhỏ ăn nhỏ, lớn ăn lớn? Hơn nữa, làm việc gì cũng phải nghĩ tới dân. Số vàng bạc châu báu kia, tuy quân ta khó nhọc giành được từ tay giặc nhưng đó lại là của cải do bọn Ngô cướp của dân, đó là xương máu của dân. Thế mà bọn ta, những người quyền cao chức trọng chỉ nghĩ đến chuyện chia nhau che dấu cho nhau, không nghĩ đến dân thì còn thể thống gì nữa?
*
Hết những đêm dài đen tối, thành Xương Giang lại chìm ngập trong ánh trăng vàng lộng lẫy. Dưới ánh vàng có thể nhìn rõ những tường thành còn lỗ chỗ vết đạn. Bốn vọng gác lớn trên thành đã dựng lại vững chắc, bên trong lúc nào cũng lấp lánh ánh đèn. Từ vọng gác đến các mặt thành, từ xa có thể nhìn thấy những đội kỵ binh tuần tiễu, áo giáp sắt, vũ khí sắt của họ phản chiếu dưới ánh trăng, tạo thành những điểm lóng lánh di động trên mặt thành. Cổng thành mở toang, cầu trên hào được hạ xuống. Thái úy Trần Nguyên Hãn và Tư mã Lê Sát từ cổng thành phóng ngựa vượt qua cầu. Bốn chục kỵ binh cận vệ cưỡi ngựa phóng theo. Trần Nguyên Hãn quay lại nói:
- Thôi, cho các ngươi về nghỉ, việc kiểm tra lại vùng đất phía nam thành để chuẩn bị bố phòng theo lệnh Chúa công, chỉ cần mình ta với quan Tư mã cũng đủ.
Một lính kỵ binh đi đầu thưa:
- Bẩm đại nhân, vùng đất ấy hoang dã, chưa mấy ai khai phá, nghe nói có ác thú hại người, đi cô lẻ sẽ nguy hiểm.
Trần Nguyên Hãn cười thân mật:
- Ngươi không tin vào kiếm pháp trời cho ta và thần lực của Lê Tư mã hay sao? Vả lại, còn đêm nay là đêm cuối cùng, ngày mai ta và quan Tư mã mỗi người sẽ đi một nơi theo lệnh Chúa công. Nên đêm nay ta muốn cùng người riêng hưởng một bầu trời đầy trăng trong gió mát, vừa là quan sát đề phòng thủ thành luỹ, chuẩn bị diệt viện binh của giặc Ngô, vừa là du Ngọan và có những việc cơ mật cần bàn.
Đám kỵ binh ngơ ngác nhìn nhau, rồi đành quay ngựa trở vào thành.
Trần Nguyên Hãn, Lê Sát ra roi, giục ngựa tiến thẳng về phía nam, nơi trước mắt hai người nhìn xa như là một vùng trời đất giao hòa vào nhau, vấn lên một màu vàng mờ mờ, ảo ảo. Lê Sát xắn tay áo chẽn, vuốt bờm mượt như nhung của con ngựa ô, ưỡn ngực hít thở làn gió mát, khoan khóai trút bầu tâm sự:
- Trần Thái úy ạ, kể từ buổi Hội thề Lũng Nhai đến nay, trên dưới mười năm trời, đêm nay mới là đêm đầu tiên tôi được thực sự trút bỏ giáp trụ để cùng bậc hào kiệt có phong thái như Chu Du du Ngọan trong cảnh kỳ thú này.
- Giang sơn gấm vóc của chúng ta đâu chẳng có cảnh kỳ thú: Đất Bì Ngũ của Lê Tư Mã cũng như vùng Lập Thạch của tôi vẫn đủ sức làm ngơ ngẩn lòng người đấy mà, cứ gì vùng đất này. Chẳng nhẽ suốt mười năm ấy, chiến đấu gần quê mình, người không có dịp ghé qua hay sao?
- Nhưng thưa Trần Thái úy, đây mới là lần đầu tiên chúng ta du Ngọan sau một chiến thắng có ý nghĩa quyết định. Từ nay trở đi, sau khi dẫm lên xác bọn Nhậm, vó ngựa của chúng ta sẽ có dịp tiến lên vùng vẫy ở cửa ngõ Quảng Tây, Vân Nam để đưa đất nước đến cõi đài xuân toàn vẹn, sạch bóng quân xâm lược Ngô. Lúc đó thì cảnh này sẽ vĩnh viễn do ta làm chủ, đâu còn ngọc quý để cho ngâu vầy như trước đây nằm trong tay bọn Ngô và ngụy quan.
Hai người lỏng cương ngựa, mê mải câu chuyện, không kể gì tới xung quanh. Bỗng con bạch câu chồm hai chân trước lên, hí dài rồi sững lại, con ngựa ô cũng dừng lại sát bờ nước. Trần Nguyên Hãn giật mình nắm chặt dây cương, thúc chân vào mình ngựa, cùng Lê Sát chăm chú nhìn ra xung quanh. Một cảnh trăng nước bao la đập vào mắt. Vầng trăng đầy đặn trên trời thẳm phản chiếu vầng trăng xao động vắt ngang dòng sông, làm tất cả như càng lộng lẫy thêm lên. Một bên là dòng nước như đồ thủy ngân, chứa những làn sóng tung bọt trắng xóa, lau lách che kín hai bờ sông lung linh soi bóng, gió đưa thành tiếng rì rầm vi vút. Một bên là những cồn cát rải rác nhấp nhô, uốn lượn lóng lánh như tráng vàng. Con đường mòn quanh co chạy giữa cát như sợi kim tuyến lung linh khảm bạc.
Hai người nhảy xuống ngựa, đứng lặng giờ lâu, nép mình vào những hàng lau rậm rạp ven sông. Bỗng cả hai con ngựa nhảy chồm lên, hí dài, chạy quanh rồi đổ xô vào nhau. Lau sậy phía sau hai người như cuồn cuộn nổi sóng, tiếng rào rào nghe mỗi lúc một to. Trần Nguyên Hãn, Lê Sát vụt quay lại phía sau, giật mình: Một con trăn khủng khiếp từ đám lau sậy vụt nhô ra. Nó ngóc cái đầu nanh ác cao lên, cái lưỡi chẻ ba nhọn hoắt thò ra như ánh chớp. Nó co mình ngọ nguậy làm đà, rồi vụt một cái, lao thẳng về phía hai người. Trần Nguyên Hãn, Lê Sát rút phát gươm, nhảy vọt về hai phía. Con vật mất mồi, mắt long lên sòng sọc, lộn đầu, uốn mình, định trườn thẳng về phía Lê Sát là phía thuận hơn. Bỗng “phập”, lưỡi gươm dài, sắc, sáng quắc của Trần Nguyên Hãn vụt lao tới, xuyên suốt từ đầu qua mồm vào cổ họng nó. Nhanh như sóc, Lê Sát nhảy tới chém hàng chục nhát lên cổ, lên mình nó. Con vật quằn quại giẫy chết, máu tuôn ra lênh láng, nhưng đuôi nó còn đủ sức quật Lê Sát ngã về một phía. Trần Nguyên Hãn vội đỡ Lê Sát dậy.
Hai người ngồi nghỉ một lúc cho đỡ mệt rồi lên ngựa phi dọc bờ sông, kiểm tra địa hình, địa vật, ghi nhớ nơi nào có thể phục binh, nơi nào có thể lập trại… rồi về.
Trên đường, Trần Nguyên Hãn bỗng cao hứng, đọc mấy câu ca dao:
Sông Thương thương nh hay sao
Phải phòng có thuở nước trào sóng tung
Sông Thương lóng lánh một vùng
Đêm trăng khó thấy hai ng đục trong
Ông trầm ngâm giây lát rồi giãi bày:
-  Cảnh trăng nước đêm nay đẹp quá, khiến vùng đất ác hiểm, có thể dụng võ này cũng trở nên hiền hòa đáng yêu như nàng Hằng Nga chốn cung Quảng Hàn.
Lê Sát hỏi:
-  Nhưng thưa Trần Thái úy, tôi nghe dân gian vẫn truyền tụng nàng Hằng Nga đã ăn trộm thuốc trường sinh uống để bay lên cung trăng, làm cho chàng Hậu Nghệ ở lại phải vò mình đau khổ. Vậy thì đâu phải toàn là hiền hòa đáng yêu?
Trần Nguyên Hãn mỉm cười tinh tế:
-  Con người hiền hòa đẹp đẽ nhường ấy, lại có lúc làm những chuyện như thế mới bất ngờ, mới đáng để chúng ta suy nghĩ chứ. Chuyện đời cũng vậy. Chẳng hạn đứng ở cảnh này trong đêm nay, trừ những cặp mắt chiến lược trong cuộc ra, mấy ai có thể ngờ rằng vùng đất lộng lẫy này chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành mồ chôn của hàng nghìn xác giặc Ngô. Hiện Chúa công đã ra lệnh cho các lộ Bắc Giang, mỗi lộ chuyển đến ba nghìn gánh lương thực tích ở thành này để chuẩn bị cho những chuyện bất ngờ mà những tướng lĩnh giỏi nhất của giặc Ngô cũng không thể lường được. Nói tới chuyện bất ngờ, tôi xin trả lời câu nói của Lê Tư mã lúc nãy, khi người có vẻ quá say sưa với chiến thắng mà quên cảnh giác. Người cho rằng khi đã đưa đất nước đến cõi đài xuân toàn vẹn, sạch bóng bọn giặc Ngô thì cảnh này sẽ vĩnh viễn do ta làm chủ, đâu còn ngọc quý ngâu vầy. Nhưng trên thế gian này còn bao nhiêu cái bên ngoài dự kiến, cái ta tưởng là không có nhưng nó lại cứ có. Bậc trí giả làm sao không phòng xa, nghĩ tới những cái từ lúc nó chưa thành hình? Cũng như con trăn đêm nay. Có ai ngờ giữa cảnh tuyệt vời như thế này, khi chúng ta đang say sưa chiêm ngưỡng thì nó lại bất thần lao ra từ đằng sau. Cũng may là loại rắn này to, dễ nhận ra, ta còn có thể giết chết được nó. Nhưng trên đời còn bao loại rắn, nhiều khi nhỏ hơn, nhưng lại nguy hiểm hơn, luồn lách mai phục ở nhiều nơi, kể cả những nơi tôn nghiêm như điện vàng bệ ngọc, nơi sạch đẹp như vườn hoa, phòng sách… Nguy hiểm nhất là loại rắn của sự đồn đại thị phi, rắn vu khống, ghen tài, báo oán nhỏ nhen…
Lê Sát thở dài:
- Thế hóa ra rắn là ác, cõi đời toàn ác nghiệt dăng ra?
Trần Nguyên Hãn lắc đầu:
- Không hoàn toàn như vậy đâu. Có những loại rắn ác, song cũng có loại bị đời rêu rao, vu cho là rắn độc nhưng sự thực nó lại hiền lành hơn khối người. Lê Tư mã hẳn cũng biết chuyện hai nàng Bạch Xà, Thanh Xà ở Trung Hoa chứ (3). Liệu bậc tiên phong đạo cốt như Pháp Hải về đạo đức có bì kịp hai nàng không? Cuộc đời đâu chỉ toàn ác nghiệt. Như trước mắt chúng ta, đêm trăng này tanh nồng máu trán mà vẫn thấy đẹp. Cái đẹp, cái hiền hòa của nàng Hằng Nga vẫn là chủ yếu. Lê Tư mã không thấy ư, bóng trăng lộng lẫy trên trời và dưới lòng sông kia như đôi mắt thần tiên của nàng đang theo vó ngựa soi sáng dẫn ta trở về với thành Xương Giang, nơi còn chờ đón những chiến thắng mới nữa.
II. HỘI THỀ ĐÔNG QUAN, NHỮNG LỜI THỀ PHẢI THỰC HIỆN
Trống lệnh dồn dập vang lên, báo hiệu Hội thề Đông Quan, buổi hội giữa phái đoàn Việt đứng đầu là Lê Lợi và phái đoàn Minh, đứng đầu là Vương Thông ngày 10 tháng chạp năm Đinh Mùi (1427) đã kết thúc. Trần Nguyên Hãn khôi ngô cự phách trong chiếc áo lụa hồng rực rỡ, cưỡi con bạch câu ngồn ngộn sức lực phóng ra khỏi đàn thề, thở phào nhẹ nhõm. Làn gió mát thổi nhè nhẹ, những hạt mưa phùn lác đác buổi sớm không đáng làm cho ông quan tâm. Ông đang theo đuổi ý nghĩ gì đây? Quan Tư mã Phạm Vấn cưỡi ngựa đi song song, phá vỡ bầu không khí yên lặng:
-  Buổi hội thề này, tên Trần huynh đứng thứ hai, liền sau tên Chúa công. Điều này cũng đủ thấy Chúa công là bậc chân chúa anh minh đã sáng suôt nhìn rõ uy tín lớn của Trần huynh với quân sĩ và trăm họ, thấy công lao đặc biệt của người trong việc bình Ngô khai quốc. Như thế thì vị trí của Trần huynh sau này, thời hòa bình, cũng có thể đoán được. Bá quan văn võ nào có thể sánh kịp. Trần huynh ơi, hòa bình, hòa bình mở ra từ hội thề, làm chúng ta khao khát và tin tưởng!
Trần Nguyên Hãn khẽ nhếch mép cười:
-  Thế hóa ra Phạm huynh đặt quá nhiều hy vọng vào buổi hội thề. Theo ngụ ý của tôi, thề là một chuyện. Vấn đề quan trọng hơn là thực hiện lời thề ra sao. Buổi hội thề sớm nay với giặc Ngô chắc chắn sẽ thực hiện trọn vẹn để chấm dứt chiến tranh hai nước, mở ra nền thái bình. Song chúng ta thực hiện lời thề trong nội bộ của mình không giản đơn. Trong cuộc bình Ngô khai quốc này, chúng ta đã trải qua nhiều hội thề như Hội thề Lũng Nhai, Hội thề Chí Linh. Trong văn thề bằng quốc âm tại núi Chí Linh, tôi còn nhớ những lời thề của Chúa công là: “Minh diệp huyết minh thệ cho hết lòng cùng chư tướng, cho nên thư son quyển sắt cùng nhau nguyện Hoàng Hà như đái, Thái Sơn như lệ; hết lòng cùng chư tướng từ Lệ Thạch, Đinh Lễ cho đến Đinh Bô, ba mươi lăm viên tướng hết lòng hết sức cùng nhau phú quí dự đông “. Những lời thề này đã có sức động viên mọi người đoàn kết chống giặc Ngoại. Người thề ở đây đã khéo léo vận dụng điển tích đời Tây Hán, xuất phát từ lời hứa trịnh trọng của Hán Cao Tổ với các bạn chiến đấu: “Dù sau này có thay đổi như sông Hoàng Hà nhỏ đi thành dải áo, núi Thái Sơn bé lại thành hòn đá thì mười đời sau vua tôi vẫn chung hưởng phú quý“. Nhưng lời hứa hẹn, thề thốt đó được vua Hán thực hiện ra sao? Đấy là hàng loạt cái chết thảm khốc của các công thần khai quốc từ Bành Việt, Kình Bố tới Hàn Tín, rồi Trương Lương phải bỏ đi, Tiêu Hà không trọn vẹn. Phú quý, quyền cao chức trọng rơi vào một bọn công lao, tài đức kém hơn rất nhiều như Giáng hầu Chu Bột, Quán Anh… Cái cảnh “Phú quý mười đời thề thốt hậu. Riêng nhà Giáng, Quán hưởng vinh phong“, phải chăng chỉ rơi vào nhà Tây Hán?
Phạm Vấn thở dài:
- Bọn Giáng, Quán trong thời chiến thua Tam kiệt (Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà) về công lao lẫn chức tước, mà sau hòa bình lại như vậy. Riêng Chu Bột, ở thời bình, có khi làm đến thừa tướng. Quả là bất công.
- So bọn Giáng, Quán với Tam kiệt thì đúng đây là sự bất công, vì không những về công lao mà cả về tài đức, Tam kiệt hơn hắn. Tam kiệt nếu được dùng trọn vẹn có thể có tác dụng trong cả thời chiến lẫn thời bình.
- Mọi trường hợp đều thế chăng?
- Có những trường hợp lại không nhất thiết phải như thế.
- Sao?
- Con người ta phải sống có thủy chung, uống nước nhớ nguồn, không bao giờ quên công lao của người cũ. Cho nên việc phong quan định tước dựa vào quá khứ là rất cần thiết, không triều đại nào có thể bỏ qua được. Nhưng đó mới chỉ là một mặt. Còn nếu chỉ thiên lệch dựa tất cả vào quá khứ, lấy quá khứ ngự trị hiện tại, để hưởng mọi đặc quyền đặc lợi trong hiện tại dù người đó đã hết tác dụng, thì còn gì bất công bằng. Trường hợp này phải nêu gương cách cất nhắc rất linh hoạt của Cao Tông đời Tam Đại. Mới gặp Phó Duyệt, ông đã mạnh dạn cất nhắc Phó lên làm tể tướng, dù trước độ, trong quá khứ Phó không có một chút công lao nào. Lưu Huyền Đức đời Tạm Quốc, đã ba lần đến lều tranh để mời một người cày ruộng ở đạt Nam Dương là Gia Cát Lượng ra làm Quân sư, sau đó làm Thừa tướng trên đứt tất cả Quan Vân Trường, Trương Dực Đức, dù trước đó Gia Cát Lượng không hề có công lao dẹp giặc khăn vàng hay các công lao khó nhọc khác như Quan, Trương. Như thế là vì: Cao Tông cũng như Lưu Huyền Đức đã nhìn thấy ở những người sẽ phò tá mình những tài đức và phong cách đáp ứng với thực tại, chứ không nhất thiết phải sống lâu lên lão làng, ngồi đấy cản trở người khác. Cho nên, tôi cũng như Phạm huynh, chúng ta đã lập được nhiều công trong việc bình Ngô phục quốc, nên được Chúa công tin yêu, cất nhắc, làm một đại biểu trong hội thề này. Song chúng ta phải sống cao cả hơn, không nên dựa vào đấy, đòi hỏi những quyền lợi quá đáng, nhất là lại hưởng quyền lợi hơn người khác khi trăm họ còn đau khổ.
- Thế hóa ra xương máu chúng ta đổ ra uổng phí hay sao? Thanh cao như Gia Cát Lượng, sau khi chiếm được Kinh Châu và Hai Xuyên, mà vẫn cần cái tước Võ Hương hầu thì sao?
- Gia Cát Lượng cần cái tước như thế và cả cái chức Thừa tướng là để chính danh định phận cho có chỗ mà thi hành tài lớn giúp dân giúp nước của mình, chứ không hề có mục đích đoạt cái chức tước nhằm hưởng lợi, tiến tới tham nhũng, ích kỷ, không hề dựa vào chức tước để lộng quyền, nhân danh chống tham quan lại những mà thực chất là bênh vực cho bọn chúng. Ngay cả khi ngồi ở cái chức Thừa tướng ấy rồi ông cũng không hưởng lợi nhiều, thậm chí thua cả những hạ cấp của mình. Cuộc sống thanh bạch với gia tài vẻn vẹn chỉ có tám trăm gốc dâu của ông rõ ràng không đầy đủ bằng bọn đầu cơ trục lợi, buôn gian bán lậu. Cuộc đời phải kết thúc bằng cái chết ở gò Ngũ Trượng của ông đúng là thiệt thòi quá đi chứ, nhưng bản thân ông và hậu thế có ai kêu là xương máu uổng phí đâu. Ở nước ta, Lê Lai, Lý Triện ngã xuống còn được Chúa công biết tới, truy tặng cho bản thân và cho con cháu được nối đời tập ấm, cấp bổng lộc quá đầy đủ. Nhưng đáng tiếc thay, còn hàng vạn người vô danh khác ngã xương không được hưởng một chút lợi lộc nào? Có thấy họ kêu ca là uổng phí đâu? Tôi chỉ thấy những người đang sống, có nhiều quyền lợi trong bọn ta hay kêu la suy bì thôi. Ở nước ta, người ta quen nói và nói quá nhiều về Hãn này, về các ông Sát, ông Ngân, ông Vấn và một số anh hùng hữu danh khác. Còn hàng vạn sinh linh khác phơi xương đổ máu trong chiến tranh, lại quá ít người nhắc tới(4). Cho nên, lúc này tôi không chỉ nghĩ đến tôi, đến chúng ta trong hội thề, tôi lại càng nghĩ đến trăm họ nữa. Trăm họ đã thực hiện trọn vẹn lời thề với Chúa công, ủng hộ và trung thành với Chúa công, để đưa công cuộc bình Ngô đến thắng lợi toàn vẹn. Nhưng còn Chúa công – người anh hùng số một của công cuộc bình Ngô, người cứu vớt trăm họ và cũng là người từng chịu nhiều ân sâu nghĩa nặng của trăm họ, sẽ thực hiện lời thề với trăm họ ra sao, khi bỏ áo vải, khoác áo bào?
- Thực hiện lời thề với cả bọn chúng ta, nhưng công thần khai quốc nữa chứ?
- Tất nhiên. Nhưng đây là bộ phận rắc rối, không đơn thuần đâu, là bộ phận thật khó tả.
Phạm Vấn không nói gì hơn. Hai người lặng lẽ chạy theo dòng suy nghĩ riêng tây của mình. Trong khi đó, hai con ngựa đang từ nước kiệu chuyển sang phi nước đại vào dinh Bồ Đề, nơi Bình Định Vương Lê Lợi cũng sắp tới, hẹn với họ cùng bàn bạc những việc mới, để chuyển đất nước từ thời chiến sang thời bình.
III. ĐỊNH CÔNG PHONG TƯỚC KHÔNG ĐỊNH ĐƯỢC LÒNG NGƯỜI
Sau “Hội thề Đông Quan”, đúng sáng ngày 12 tháng chạp năm Đinh Mùi đại bộ phận quân Minh rút về nước. Ngày 17 tháng đó, Vương Thông cuốn gói theo bọn tay chân. Thế là từ nay:
Mây xám đã tan, kình bặt sóng
Trời Nam muôn thuở vẹn giang san
(Thơ Nguyễn Trãi; Hạ Qui Lam Sơn: “Sóc tẩm dĩ thanh, kình lãng tức. Nam châu vạn cổ cựu giang sơn”).
Về lâu về dài, chưa ai có thể tiên đoán chắc chắn, nhưng trước mắt mọi người lúc này, mùa xuân năm Mậu Thân là một mùa xuân độc lập. Dù trời còn lành lạnh, mưa phùn còn lất phất, nhưng trong những phiên chợ Bồ Đề, trên những đường phố Đông Quan vẫn nườm nượp người qua lại. Trong tiếng pháo mừng xuân, mừng chiến thắng vang lên giòn giã, người ta cảm động đọc cho nhau nghe bài Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, người ta say sưa bình phẩm ngâm nga các bài thơ, bài phú của Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên… mới sáng tác, mà mặt mày rạng rỡ hẳn lên. Ở Sơn Đông, Lập Thạch, hội nấu cơm thi và hát hội xoan tưng bừng chưa từng thấy. Sau hàng chục năm đồng hóa của giặc Minh, nay lại thấy các cô đào xoan tự do mặc áo tứ thân màu nâu tươi, thắt lưng tím hoa sim, bao xanh lá mạ, đầu vấn khăn điều, bỏ đuôi gà, các chàng trai mặc áo cánh trắng, thắt lưng xanh, đầu chít khăn thủ rìu.
Bên cạnh tiếng hát của ông trùm hoặc chàng kép:
Mình niên xuân tiết vừa sang
Chúc các cụ ba làng thượng hạ chu chi
Dân ta mở hội tứ thì phong đăng
Bước vào bái lạy thánh cung
Nhớ ơn Đức mẫu xuân phong đời đời.
Người vùng quê Sơn Đông còn cảm động truyền tụng những câu:
Nhớ ai nhớ một con người
Bán dầu lặn lội phương trời xa xăm
Ly lừng công trạng mười năm
Nước non Lập Thạch đăm đăm ngóng người
Ngóng người, nhưng Trần Nguyên Hãn vẫn chưa thể về quê ngay được vì kết thúc chiến tranh công việc càng bề bộn. Một trong những công việc lúc đó là phải tham dự những lễ tưởng niệm, những lễ định công phong tước do Lê Lợi ra lệnh tổ chức sau khi nhà vua từ điện tranh ở dinh Bồ Đề vào thành Đông Quan rồi lên ngôi.
Tháng hai ngày 12 có lễ tổ chức tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã bỏ mình vì nước từ Hội thề Lũng Nhai, tưởng niệm Lê Lai đổi áo cứu chúa. Trong không khí trang nghiêm đó, Lê Lợi đã long trọng nhắc lại lời thề của mình với con cháu của Lê Lai khi đất nước trở lại hòa bình.
Tháng ba ngày 18, đại hội các tướng lĩnh và các quan lại để định công ban thưởng theo thứ tự cao thấp.
Sau khi nghe Thượng thư bộ lễ Bùi Ư Đài theo lệnh Hoàng đế tuyên dương công trạng, ban phong chức tước, sau khi dự đại yến do Hoàng đế ban, các tướng lĩnh quan lại tạ ơn, lũ lượt ra về. Mũ mãng triều phục màu sắc rực rỡ chen lẫn nhau, tuôn ra ngoài cửa điện Vạn Thọ.
Ngoài cửa diện người lạ tò mò kéo đến xem, người nhà, kẻ hầu đi đón nườm nượp không dứt. Ngựa xe võng lọng, kiệu mấy màu sắc dàn ra la liệt. Ai cũng hồi hộp muốn biết thân nhân, bè bạn của mình chuyến này được phong chức tước gì. Tiếng hỏi han, lời chúc tụng, những lời thông cảm chia vui cũng như chia buồn vang lên ồn ào. Một viên quan bụng to đầu hói, súng sính trong bộ áo võ phục ngũ phẩm mới toanh, đang thì thầm trao đổi với một số đồng liêu và người nhà sau hàng cột vừa mới dựng lên ở bên phải cửa điện, gần sát nơi người ra vào. Tiếng nói của ông ta có khi chìm đi trong tiếng huyên náo xung quanh, nhưng vài người đứng gần nhất vẫn có thể nghe được:
- Cuộc định công phong tước lần này của Hoàng đế cũng công bằng, chính xác đấy chứ.
Một viên quan mắt lé, thân ngũ đoản, mặc triều phục quan văn ngũ phẩm đứng bên cạnh gật gù:
- Chuyện, Thiên tử là con giời thì cái gì mà chẳng công bằng, chính xác.
Một chàng thanh niên vốn là em họ viên quan bụng to đầu hói, người thanh tú hơn, đứng đằng sau anh cất lời:
- Thưa Trịnh huynh (tức Trịnh Bá Hoành, viên quan bụng to đầu hói) và Nguyễn huynh (tức Nguyễn Tông Chi, viên quan mắt lé), cuộc định công phong tước lần này có những mặt công bằng nhưng theo đệ vẫn có những mặt chưa thỏa đáng. Chẳng hạn như bốn vị được phong Huyện Thượng hầu, xếp vào loại võ thần bậc nhất là Lê Vấn, Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, có thể gọi là ngang nhau. Nhưng ai mà không biết hai ông Vấn và Sát được Hoàng đế tin hơn vì quê họ gần với quê hương người hơn, có điều kiện gần gũi hơn và nhất là vì trí tuệ không thể sắc sảo vượt bực như các ông Hãn, Xảo. Đặc biệt, ông Vấn lại có em gái là vợ Hoàng đế, sinh ra Hoàng tử Nguyên Long. Song về mặt uy tín với quân dân ta, nhất là với người vùng Kinh Lộ thì hai ông Vấn, Sát làm sao bì kịp với hai ông Hãn, Xảo. Khắp thiên hạ, ai mà không phục các vị Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo là những bậc tướng tài ra văn vào võ như kiểu Địch Thanh đời Tống, chứ đâu phải chỉ mạnh bạo, hung hãn như bọn Kình Bố, Bành Việt.
Đó là điều chưa thoả đáng thứ nhất. Còn điều chưa thỏa đáng thứ hai là phong chức tước cho Ức Trai tiên sinh. Xét đến công lao về chiến lược trong toàn bộ cuộc kháng chiến đưa công cuộc bình Ngô đến thắng lợi hoàn toàn, ai có thể quên được Bình Ngô sách mà Ức Trai tiên sinh đã dâng lên Hoàng đế hồi ở Lỗi Giang? Những kế sách của tiên sinh như chỉ cần vây chặt Đông Quan trong khi quyết tâm giải phóng Xương Giang… trước để có điều kiện diệt viện binh địch từ Khâu Ôn vào đã có ảnh hưởng rất lớn đến thành bại của công cuộc bình Ngô mở nước… Trong khi không ít những đầu mục tướng lĩnh nước ta muốn trả thù báo oán thì tiên sinh thống nhất với Hoàng đế, giữ vững chủ trương thực lòng hòa hiếu với Trung Hoa, thả bọn Vương Thông, Mã Kỳ về nước. Nhờ vậy, binh lửa mới tắt hẳn, nền thái bình nước ta mới vững vàng muôn thuở. Hoàng đế rất cần đến và từng rất tin cẩn tiên sinh, như người từng sai dựng lầu mấy tầng trong dinh Bồ Đề, hàng ngày người ngự tại tầng lầu trên để theo dõi địch tình ở thành Đông Quan, cho tiên sinh ngồi ở tầng lầu thứ hai để bàn luận quân cơ và thảo những thư từ đi lại. Dù bên cạnh Hoàng đế có nhiều mưu sĩ, nhiều người giỏi viết thư thảo hịch như Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Nhữ Soạn, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Cảnh Thọ… nhưng ai cũng phải công nhận tiên sinh vượt xa nhiều người khác. Là người viết thư thảo hịch giỏi hơn hết mọi thời nên những bức thư của tiên sinh đã góp một phần quan trọng làm cho không ít những thành lũy của giặc Ngô phải quy hàng, nhiều tên Ngô và ngụy quan bị cảm hóa. Vậy mà tiên sinh chỉ được phong Triều liệt đại phu, Nhập nội thành khiển, Thượng thư bộ Lại, kiêm hành khu mật viên sự, tước Quan Phục hầu. Chức tước này tuy quan trọng, khá to đấy, nhưng không những phải ở dưới các ông Sát, Vấn mà còn dưới cả các ông Linh, Hưng…
Trịnh Bá Hoành cau mặt, nhăn cái trán hói, xỉa xói:
- Hiền đệ còn ít tuổi nên chữa thể thấy được rằng các vị Sát, Vấn, Linh, Hưng toàn tâm đi theo Hoàng đế ngay từ buổi đầu cho đến lúc thái bình, không lúc nào đứt quãng. Còn các vị kia như ông Nguyễn Trãi có dự Hội thề Lũng Nhai, nhưng sau hội thề lại biến mất một thời gian, hành tung thật khó hiểu, đáng ngờ, đến hồi Lỗi Giang mới khệ nệ mang Bình Ngô sách vào. Ông Hãn, ông Xảo cũng một duộc như vậy. Theo ta, xét công lao để định công phong tước lần này phải đề cao người họat động liên tục, hành vi không có gì bí ẩn, khó hiểu, có thể thấy ngay là trung thành vô điều kiện với Chúa công. Về các mặt này các ông Trãi, Xảo, Hãn làm sao bì kịp mấy vị kia.
- Thưa Trịnh huynh, theo đệ, khi nhận xét con người mà đa nghi, máy móc quá, không linh họat xét kỹ nội tình thì làm sao công bằng được. Theo nhiều nguồn tin chắc chắn thì thời gian ba vị Trãi, Hãn, Xảo không có mặt ở Lam Sơn đều là lúc các ông ấy họat động trong phong trào chống Ngô đã bị dập tắt ở nhiều nơi. Như ông Trần Nguyên Hãn dưới cái vỏ bề ngoài là một người bán dầu rong từ vùng Tam Đảo đến Ba Vì, đã liên lạc được với một số tù trưởng Mường, Thái, đánh thông được với cơ sở nghĩa quân vùng Đại Từ, Thái Nguyên của cha con Lưu Trung và Lưu Nhân Trú. Ông Nguyễn Trãi giả làm người cầu cúng ở các đền chùa từ nội thành Đông Quan, qua đền Chèm (Từ Liêm) đến chùa Hóa Long gần Tam Giang khẩu và đền Dạ Trạch bên kia sông Hồng, ông đã bắt mối được với nhiều sĩ phu yêu nước như Lý Tử Tấn, Nguyễn Thanh… Ông Phạm Văn Xảo là một thành viên tích cực của phong trào do hai ông Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn khởi xướng. Vậy làm sao có thể nghi ngờ hành tung của ba vị khi xa Lam Sơn, cho rằng đó không phải là họat động liên tục?
-  Hiền đệ là họ Trịnh như ta. Chúng ta phải luôn nhớ rằng mình quê ở Lam Sơn, nơi đã sinh ra đấng thiên tử. Cho nên, chúng ta không nên thiên lệch với phái Đông Quan mà phải có cái nhìn ưu ái với những người Lam Sơn hay lân cận. Với các ông Vấn, Sát… cũng vậy. Ta nghĩ rằng đại hội định công phong tước lần này cần ưu tiên hơn với những người thuộc vùng đất tắm gội của Hoàng đế, nơi phát tích đế nghiệp, từng chịu biết bao gian khó hiểm nguy, đi đầu trong công cuộc bình Ngô khai quốc.
-  Nhưng thưa Trịnh huynh, theo đệ, không nên hẹp hòi chia ra phái Đông Quan hay phái Ái Châu. Việc đuổi Ngô khai quốc đâu chỉ là việc riêng của các công thần người Ái Châu mà là chung cả nước. Nếu chúng ta chưa vượt khỏi những suy luận địa phương hẹp hòi ấy, để có cái nhìn quảng đại ra toàn quốc, thì chỉ dẫn đến những nhận định chủ quan, những phân biệt đối xử, có khi dẫn đến mâu thuẫn, đến kết cục bi thảm. Trong chiến tranh, mọi vùng trong nước từ Kinh Lộ đến Lam Sơn, mọi người từ Kinh đến Trại đều chung lưng sát cánh, gạt bỏ mọi ý nghĩ riêng tây để tập trung chống Ngô. Tại sao trong hòa bình lại không giữ vững truyền thống cao đẹp ấy, lại cứ vẩn lên.
Chàng thanh niên đang biện luận hăng hái, bỗng im bặt. Một bàn tay to lớn đã đặt lên vai chàng. Chàng giật mình quay lại, thấy một vị quan lớn mình rồng mắt hổ, cao to bệ vệ trong bộ triều phục bằng lụa đỏ chói, vội quì xuống, cúi đầu chắp tay:
-  Xin kính chào sư phụ. Nghe nói sư phụ được phong tước Liệt hầu, làm Kim tử Vinh lộc Đại phụ, Tã lâm Hổ vệ tướng quân, được ban cho Trái kim ngư, con rất hân hạnh được đến đây đón mừng và chúc tụng người.
Bọn Trịnh Bá Hoành, Nguyễn Tông Chi cũng đều khúm núm chắp tay, cúi đầu chúc tụng. Trịnh Bá Hoành nhanh miệng:
-  Kính thưa đại nhân, vị cây dây cuốn, cùng trong họ Trịnh, lại có hiền đệ đây được may mắn thụ nghiệp cung kiếm ở người. Cho nên, chúng tôi rất vinh dự được đến đây, đợi từ sáng để kính cẩn chúc mừng người.
Vị quan lớn khiêm nhường:
-  Công lao và tước vị của Khả này đáng là bao mà chư vị phải khó nhọc như vậy.
Chàng thanh niên bẩm:
-  Thưa sư phụ, chắc người cần đến con.
Trịnh Khả gật đầu nói:
-  Có một ông bạn tôi họ Trần giữ chức Phán quan, không rõ ở xứ nào, trong suốt cuộc bình Ngô, ông ta khiêm tốn, không nói rõ tung tích mình nên khó biết. Khi Hoàng Thượng mới khởi binh, ông ta giữ chức Phán địa lý chính, tham dự luận bàn mưu mô. Sau khi đã giết được Liễu Thăng, hạ được thành Đông Quan, việc nước đã vẹn, giữa lúc nhiều nơi nhất là ở các quan lớn, những người từng vin vây rồng, nâng cánh Phượng, đều tranh nhau mong được xét công lao thăng thưởng, duy ông họ Trần giả bệnh ngông cuồng, xin thôi việc về tu. Hoàng Thượng muốn báo đáp công lao mà không được. Nay vào dịp định công phong tước, Hoàng thượng bỗng nhớ tới ông ta, nghe nói ta có quen nên sai dò tìm. Trịnh đồ đệ đây, trước có lúc cùng sách đèn với em ông ta, hẳn có thể giúp ta trong việc này. Nếu không có việc gì quan trọng, thì xin Trịnh huynh cho Trịnh đồ đệ theo ta.
Hai thầy trò đi khuất. Nguyễn Tông Chi nói:
- Đến bây giờ tôi mới biết Trịnh huynh với quan lớn Trịnh Khả có họ hàng với nhau.
Trịnh Bá Hoành cười mỉm:
- Tôi quê ở Lam Sơn, ông ta quê ở Sóc Sơn, huyện Vĩnh Ninh, tuy cùng mang họ Trịnh nhưng không có họ hàng với nhau.
Nguyễn Tông Chi vỗ tay cười phá lên nói:
- Thế mà lại nhận họ, chẳng hóa ra “thấy người sang bắt quàng làm họ”.
Trịnh Bá Hoành nháy mắt cười ranh mãnh:
- Thời buổi này không thế thì sống làm sao được. Bọn chúng ta văn không tài, võ không giỏi, công lao chưa nhiều, muốn vươn lên cương vị quan trọng cũng cần có cách làm thân như vậy chứ.
- Trịnh huynh không thấy rằng chúng ta còn gần với Hoàng đế hơn ông ta sao?
- Dù có gần Hoàng đế, chúng ta vẫn chỉ là những quân hầu, kẻ hạ của người. Muốn vượt lên, ngoài việc ngày đêm ngọt ngào rủ rỉ bên tai Hoàng đế, hết lòng phục vụ người, bọn chúng ta vẫn phải liên kết với các trọng thần của triều đình như thế.
- Tôi e rằng mưu đó của Trịnh huynh khó thực hiện. Cứ xem như thằng em Trịnh huynh, tính nết khác hẳn ông anh. Trịnh Khả lại hợp với nó. Vậy Trịnh huynh làm sao hợp với ông ta. Nếu kết thân không xong thì Trịnh huynh tính sao?
- Chưa chắc thằng em tôi đã hợp với ông ta. Đúng hơn là ông thầy đang cần tới học trò, hơn là ông thầy có hợp với nó hay không. Với một con người phức tạp như Trịnh Khả, sau này chúng ta cần tìm hiểu thêm. Nếu ông ta không lợi cho mình thì phải tính cách khu xử. Các công thần khác cũng vậy. Dù sao thì chúng ta đang ngày càng lợi thế hơn họ, vì ngày càng được Hoàng đế tin yêu hơn.
- Ngoài ông Trịnh Khả ra thì các ông Nguyễn Chích, Lưu Nhân Chú… khó lòng hợp với bọn ta, nhất là ba ông Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi là ương ngạnh nhất, chúng ta càng cần có cách xử lý thích hợp.
- Nguyễn huynh có nắm gì thêm về tình hình ông Trần Nguyên Hãn không? Tôi được biết ông ta mới dâng sớ lên Hoàng đế xin trí sĩ.
- Vậy đức Hoàng đế đã xử trí ra sao?
- Hoàng đế đã triệu ông ta vào bệ kiến ở điện Vạn Thọ.
- Trịnh huynh có thể cho tôi biết chi tiết về sự việc đó?
- Vị Tả tướng quốc họ Trần này vừa chân ướt chân ráo vào điện Vạn Thọ, Hoàng đế đã nghiêm sắc mặt, hỏi thắng: “Vừa rồi trẫm đã xem kỹ tờ sớ xin về trí sĩ của khanh, thấy khanh khéo léo dẫn ra những lý do này khác, nhưng còn một lý do khanh đã giấu trẫm, không dám nói thẳng vào. Đó là những lời khanh từng thổ lộ với người thân tín: “Đức Thái Tổ có tướng mạo như Việt vương Câu Tiễn, có thể cùng sống lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng chung hưởng khi yên vui”. Có phải đó là lý do chính mà khanh muốn về để được như Phạm Lãi du chơi Ngũ Hồ? Chúng ta vốn đều là những võ tướng, không úp mở, cần giải quyết thẳng với nhau điều này”.
Hoàng đế vừa dứt lời, ông ta đã vỗ tay cười rất to, long lanh cặp mắt, nhìn thẳng về phía Người, dõng dạc: “Đây đúng là giọng điệu có ít suýt ra nhiều của mấy tay cận thần của bệ hạ rồi”.
Nguyễn Tông Chi cắt ngang lời Trịnh Bá Hoành:
- Chắc là ông ta ám chỉ bọn mình đây.
Trịnh gật đầu:
- Hẳn là thế, để tôi kể nốt đã. Sau đó, ông ta bỗng hỏi : “Bệ hạ đã đọc kỹ bài Chí Linh sơn phú của Ức Trai tiên sinh chưa? Riêng kẻ hạ thần thì thuộc làu. Hạ thần thích nhất mấy câu dịch tạm là:
Biết thế địch, biết sc mình,
Khi nhượng bộ, khi tăng cường,
Chờ thời cơ đến khi thuận lợi,
Giu oai hùng chẳng để hở hang,
Nằm gia chẳng quản, nếm mật là thường,
Lo rửa thẹn xưa nghìn thuở,
Thu về đất cũ bốn phương,
Tưởng núi này lúc bấy giờ,
Há chẳng phải như đất Cối Kê,
Làm chỗ ẩn náu cho Việt vương đó ư?
Rõ ràng là những câu này đã so sánh bệ hạ với Việt vương Câu Tiễn. Nhưng nó không chỉ so sánh ở tướng mạo mà chủ yếu còn so sánh ở chí kiên nhẫn, biết địch, biết mình, biết thời cơ để phục quốc của bậc minh quân. Hạ thần mê bài phú, đặc biệt là những câu này, thường đọc và so sánh với ý như vậy. Hẳn kẻ xấu bụng nào đó nhân đấy thêu dệt thêm để gây mâu thuẫn vua tôi, đưa hạ thần vào tội khi quân. Khi đọc Bắc sử chắc bệ hạ cũng biết Văn Chủng từng bảo Phạm Lãi rằng: “Vua ta có tướng cổ dài mép quạ” nhưng bệ hạ lại là người “dung nhan tươi đẹp oai hùng, mắt sáng, mồm rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên”. Câu Tiễn làm sao có dung mạo sánh được với người. Không sánh được thì không thể so sánh. Cùng đồng cam cộng khổ với thần, hẳn bệ hạ cũng có thể tin là thần không đời nào làm cái sự so sánh khập khiễng ấy”.
Nghe đến đây, Hoàng đế bật cười, vỗ vai ông ta, hóm hỉnh nói: “Không ngờ giữa vua tôi chúng ta lại có chuyện ngộ nghĩnh, lý thú này”. Nhân vui câu chuyện, Hoàng đế hỏi thêm: “Nhớ lại trước đây, lúc chưa khởi nghĩa, khanh và Ức Trai tiên sinh mới gặp ta lần đầu đã quầy quậy bỏ đi, giữ cũng không được, hẳn có điểm gì hai khanh chưa vừa ý phải không? Nay phải chăng khanh lại muốn tái diễn điều đó?”. Trần Nguyên Hãn cười tủm tỉm nói: “Tâu bệ hạ, đúng vậy, vì lúc đó thấy người xé thịt bằng tay, đưa lên mồm ăn trong ngày giỗ. Nhưng đó là việc chưa tinh đời, nhìn ngọc tưởng đá của thần và tiên sinh. Suy nghĩ cho cùng, thần càng thấy rõ những bậc đế vương anh hùng xưa nay, vì bận tâm quá nhiều vào những việc lớn lao, cao cả nên ít có điều kiện để ý đến những tiểu tiết. Cho nên, có chuyện Hán Cao Tổ đái vào mũ nhà nho, Hán Vũ đế ngồi xổm trên giường tiếp Đại tướng quân Vệ Thanh, làm cho kẻ dưới dễ lầm lẫn, tưởng phượng hoàng là gà ri, cũng mắc phải cái lỗi của người đời trước. Như ở Trung Hoa có người lầm về cái bề ngoài của ông Bùi Độ, hay người nước ta nhận xét sai lệch khi nhìn cái hình thức ông Mạc Đĩnh Chi. Xin bệ hạ rộng lượng tha thứ cho”.
Hoàng đế cười bao dung, nói đùa : “Đáng tiếc trẫm không đủ tài để làm một bài phú như Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi để minh oan”. Trần Nguyễn Hãn nói: “Hạ thần chỉ cầu mong cho cõi đời này có ít người làm phú minh oan, nhưng có nhiều người làm phú ca ngợi vua sáng tôi hiền”.
Hoàng đế vội lái câu chuyện sang vấn đề khác: “Khanh đã đọc kỹ bài Chiếu cầu hin tài do Ức Trai tiên sinh soạn thảo theo lệnh trẫm và bài phú Kê minh của Nguyễn Thiên Túng viết gần đây chưa?”. Trần Nguyên Hãn gật đầu: “Tâu bệ hạ, không những hạ thần đọc kỹ mà còn thuộc nữa”. Hoàng đế hỏi: “Vậy tại sao, trong lúc nước nhà đang cầu hiền tài để xây dựng nền thái bình, người cầu còn khó tìm được, mà khanh là một hiền tài cũ, lại cứ muốn về? Con gà đón mặt trời sắp mọc, còn gáy báo sáng cho muôn nhà, huống hồ con người như ông Lý Tử Cấu lại cứ muốn lánh đời, phỏng có ích gì?” Trần Nguyên Hãn lại gật đầu: “Tâu bệ hạ, đúng là lúc này cần cầu người hiền. Thần rất tán thành việc ông Nguyễn Mộng Tuân tiến cử, để triều đình mời hai ông Vũ Mộng Nguyên, Lý Tử Cấu. Nếu hạ thần là Lý Tử Cấu, chắc chắn hạ thần sẽ bỏ chốn lâm tuyền ra giúp bệ hạ chứ không gàn dở, cố chấp như thế. Hoàng đế trố mắt, hỏi: “Vậy cớ sao, chính bản thân khanh lại cố chấp, cứ một mực đòi về?” Trần Nguyên Hãn hùng hồn đáp: “tâu bệ hạ, bởi thần không phải là ông Vũ Mộng Nguyên, ông Lý Tử Cấu, những đối tượng vô cùng cần thiết của tân triều; thần là võ thần làm đến chức tước quá cao là Trần Nguyên Hãn. Hiện nay, hai ông Nguyên, Cấu nên ra mà Hãn này cần phải về mới phù hợp. Cái thời quản lý vài làng bản, vài châu huyện bằng bộ máy quân quản ở Lam Sơn với một vài tướng lĩnh hào trưởng đã qua rồi. Trước mắt chúng ta, nay là cả một đất nước rộng mênh mông, đất nước có nền văn hiến mấy ngàn năm rực rỡ, đất nước ngoài việc lo bảo vệ, còn phải rất lo về miếng cơm manh áo, lo học hành cho trăm họ nữa, đất nước không chỉ đóng khung hẹp hòi ở bản thân mình, còn phải mở rộng sự giao lưu với các nước lân bang và xa hơn nữa. Vậy chỉ những võ thần như thần nắm quyền, thì làm sao cáng đáng nổi, nếu không cẩn thận lại sinh ra tai hại cho dân cho nước, ắt phải có thêm nhiều người có thực học thực tài như ông Nguyên, ông Cấu ra gánh vác mới hợp”.
- Hoàng đế gay gắt nói: “Nếu thế, khanh bất lực rồi ra? Khanh hẳn muốn như Trương Lương đi theo Hoàng Thạch Công lánh đời vì sợ chết và muốn nhàn hạ cho riêng mình, còn thiên hạ xây dựng, cải cách hay tranh nhau thế nào mặc xác. Nhưng tiếc rằng ở nước ta cái thuật tu tiên ẩn dật ích kỷ kiểu ấy không thịnh hành đâu!” Trần Nguyên Hãn thanh minh, giọng có vẻ xúc cảm động lắm: “Tâu bệ hạ, thần không hề bất lực. Thần chỉ muốn nói là phù hợp hay không phù hợp. Thần không phù hợp với mũ áo xênh xang, nắm quyền nước như thời chiến ở thời bình. Song thần lại phù hợp với hoàn cảnh khác. Đó không phải là hoàn cảnh của Trương Lương mà là hoàn cảnh của người làm giàu tài ba Phạm Lãi. Thần muốn theo gương họ Phạm du Ngọan ở Ngũ Hồ, mà lui về sống đầy đủ, trong sáng ở vùng Tam Đảo, Tam Giang, vừa nếm cá anh vũ ở ngã ba Hạc, vừa học Đào Chu Công Phạm Lãi, giúp trăm họ ở quê mình yên cư lạc nghiệp, làm giàu. Như thế thì những chiến thắng ở Tân Bình, Thuận Hóa, ở Xương Giang mới được phát huy trong hoàn cảnh mới, để thần khỏi thẹn với quá khứ oanh liệt của mình, khỏi trở nên vô ích trong cảnh nhàn cư”.
Hoàng đế lại khuyên, giọng càng trở nên ân cần hơn: “Nhưng trẫm vẫn cứ muốn khanh ở lại hơn. Khanh cần học tập tấm gương của các cựu thần như các ông Lê Vấn, Lê Sát, Lê Trãi… Họ vẫn muốn cống hiến trọn đời mình cho đất nước, cả ở thời bình cũng như thời chiến, khác nào là con ngựa già còm cõi trong tuyết sương vẫn phi đến cùng. Những võ thần như khanh làm đến Tả tướng quốc, ngôi cao cũng như con trẫm làm đến Hữu tướng quốc(5chỉ cần nắm việc chung, còn những gì khó khăn, động đến kiến thức đã có kẻ dưới xốc vác hay tham mưu giúp thì lo gì không đáp ứng với yêu cầu mới?”
Trần Nguyên Hãn lập luận: “Tâu bệ hạ, thần còn nhớ rất rõ là vào năm Đinh Mùi, chính bệ hạ từng hạ lệnh cho tướng sỹ rằng: Nay ta có ba lăm vạn quân, chờ hạ xong thành Đông Quan sẽ cho hai lăm vạn về làm ruộng, chỉ lưu mười vạn quân để phòng ngự đất nước. Nay vào thời thái bình, chúng ta đang thực hiện chế độ ngụ binh ư nông. Chúng ta kêu gọi người dưới về, sao vẫn có những người trên năng lực đã cạn, lại cứ ngồi lì ra hưởng lợi không chịu về để làm gương cho kẻ dưới. Có người nói cống hiến trọn đời là nói thực như trường hợp cao cả của Nguyễn Trãi. Song cũng có người dùng câu ấy chỉ là cách ngụy biện khéo léo cho việc tham quyền cố vị mà thôi. Hơn nữa, có đơn thuần chỉ một số vị làm to hưởng lợi mà thôi. Xung quanh họ còn con giòng cháu giống nối đời tập ấm, còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc vin rồng bám phượng để đòi cơn mưa móc, sinh ra bao nhiêu tệ nạn, làm cho tổ chức triều đình càng thêm cồng kềnh, trăm họ khắp bốn cõi phải đóng góp quá nhiều. Cho nên thần rất xấu hổ, nếu trong tình hình hiện nay mà cứ bám lấy quyền cao chức trọng, khi mình không còn đủ tài làm cho thiên hạ tốt hơn. Các ông Vấn, Sát cũng như thần thôi”.
Hoàng đế mỉm cười: “Thế còn ông Lê Trãi, tuổi tác cũng cao như hai ông Vấn, Sát, sức khoẻ là văn thần nên yếu hơn võ thần?”. Trần Nguyên Hãn mắt sáng lên, giọng càng sôi nổi: “Tâu bệ hạ, tuổi tác, sức lực đúng là vấn đề rất quan trọng. Thường thì bậc phụ lão nên lui về cho bậc tráng niên nối tiếp. Nhưng với bậc thiên tài đức độ đặc biệt như Nguyễn Trãi thì đến lúc này và có lẽ còn lâu nữa, tài hoa đức độ vẫn nở rộ xanh tươi, làm hoa, làm trái cho đời. Nguyễn Trãi chẳng thẹn khi nhìn lại gương ông Lã Vọng đời xua, tuổi già còn làm nên sự nghiệp tám trăm năm nhà Chu. Vậy có về, cũng có ở, miễn là ở phải làm được việc. Nguyễn Trãi ở lại, sẽ không phải là loại người quan liêu mờ mịt, nô lệ vào kiến thức kẻ dưới như bệ hạ vừa nói.
Trong bức thư Hán thừa tướng Gia Cát Lượng gửi cho Đại tư mã nước Ngụy là Tào Chân có nói tới “Phép làm tướng”, thực ra là nói về tài trí người cầm quyền:
Biết lo biết lường
Biết lui biết tới
Biết nhược biết cường
Vng vàng như núi đá
Biến hóa như âm dương
To tát như trời đất
Đầy đủ như kho tàng
Rộng mênh mông như bốn bể
Sáng vằng vặc như Tam Giang
Biết thiên văn khi mưa khi nng,
Thuộc địa lý chỗ hiểm chỗ thường.
Nguyễn Trãi chính là loại người như thế. Trí tuệ thông kim bác cổ, khả năng kinh bang tế thế của Nguyễn Trãi nếu được dùng trong tình hình hiện nay thì thật có phúc lớn cho thiên hạ. Không nên đối xử với Nguyễn Trãi như kiểu vua nhà Hán đối xử với Đông Phương Sóc hay Tư mã Tương Như(6). Cũng không nên chỉ thiên lệch vì muốn giữ gìn uy tín với thiên hạ mà buộc phải đề cao người học vấn. Không nên bề ngoài nói là tôn trọng tri thức mà thực chất là ghen tỵ với tri thức, sợ uy tín của tri thức ảnh hưởng đến cái ghế quyền vị của mình. Với một người thực học, thực tài như Nguyễn Trãi cần phải trao thực quyền để có chỗ thi thố tài năng, giúp bệ hạ đưa đất nước này đến cõi đời Nghiêu Thuấn”.
Trịnh Bá Hoành kể đến đây, Nguyễn Tông Chi xen vào:
- Cái ông Tả tướng quốc này liều lĩnh thật, dám đâm ba chẻ củi như thế. Nếu tôi ở địa vị ông ta thì ngồi mà hưởng lợi chứ tội gì xin về bay nhảy vào việc của người khác cho khổ. Ông ta động đến những người mà Hoàng đế tin yêu, chắc người đã phản ứng lắm phải không?
Trịnh Bá Hoành lắc đầu:
- Hoàng đế chỉ thở dài khẽ bảo ông ta: “Khanh chưa thông cảm hết cho nỗi khổ của bậc đế vương mở nước. Xưa kia Tông Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn đã mắc phải, nay trẫm cũng khó đi ra ngoài vết xe cũ đó. Trẫm biết lắm chứ: Lấy võ công mở nước, chứ làm sao lấy võ công để xây đắp đất nước. Nay là thời kỳ văn trị nên những người như Lê Trãi rất phù hợp. Nhưng nếu đặt Lê Trãi trên nhiều người khác, đặt trí thức lên trên những kẻ ít tri thức mà nhiều quyền thì trẫm sẽ nói thế nào với một triều đình đa số là những võ tướng lập được quá nhiều công trong thời chiến mà nay đang nắm quân quyền trong tay, dù trong họ, số người nắm được trí thức mới quá ít. Nay đang là lúc họ cần tính số trả công. Đấy là chưa kể bao nhiêu người khác có quan hệ thân cận chằng chịt với trẫm. Họ đã vì trẫm ra sinh vào tử, cáng đáng mọi việc mà họ lại chiếm số quá đông. Nên đến nay sinh ra bao nhiêu cái phải ưu đãi, làm trẫm rất khó xử. Nếu ai trong bọn họ cũng có ý nghĩ cao cả như khanh thì trẫm còn nói làm gì. Vả mới hòa bình, bộ máy chiến tranh đông đảo, lại có công, để dần thích ứng với tình hình mới, không thể một lúc thay thế tất cả, ắt phải trọng dụng những người kiệt xuất nhất trong bọn họ, rồi sẽ tinh lọc và bổ sung dần cho thích hợp. Nên trẫm phải cất nhắc những người như khanh hay Lê Sát làm tể tướng, các ông Lê Ngân, Lê Vấn, Trịnh Khả… làm các trọng thần. Dù thừa biết Lê Trãi là người tuyệt vời, trẫm cũng không dám dùng trên bọn họ. Trẫm coi ông là một bông hoa quí nhất, sẽ trân trọng suy nghĩ thêm, nay đặt ở ngôi quan to có mức độ, để triều vua sau sẽ dùng xứng đáng hơn. Còn nếu khanh ở lại, cái ngôi tể tướng định dành cho Lê Sát phải là của khanh chứ, trăm quan văn võ ai dám thắc mắc. Theo trẫm, khanh nên ở lại với ngôi cực phẩm của mình. Trẫm lo rằng khanh về, bổng lộc giảm sút, đời sống sẽ không đảm bảo, thật đáng buồn”.
Trần Nguyên Hãn chắp tay: “Những lời đầy tâm huyết của bệ hạ, thần rất cảm động. Qua đó mới thấy rằng việc cất nhắc, sử dụng con người qua việc định công phong tước thật phức tạp. Định công khó định được lòng người, phải thông cảm với bậc sáng lập vương triều. Thần muốn lưu ý bệ hạ thêm rằng: Không phải tất cả võ tướng trong triều này đều là một bọn như Thạch Thủ Tín, Cao Hoài Đức(7) đời Triệu Khuông Dẫn cả đâu. Trong bọn họ cũng có những người có trí đức vẹn toàn, có sự hiểu biết sâu sắc về chữ “Thời” trong Kinh Dịch. Họ dễ thông cảm với bệ hạ và tán đồng việc đưa Lê Trãi lên đúng vị trí. Cái quan trọng hiện nay là phải cất nhắc đúng chỗ cho người ở và giải quyết đầy đủ cho người về, đừng để cho kẻ về trí sĩ phải sống lầm than như Trần Khánh Dư đời Trần lập đầy công trạng khi chống Nguyên Mông, mà phải sống bằng nghề bán than cơ cực lúc thôi quan tước. Riêng với kẻ hạ thần đã lo xa từ lâu nên khác với mọi người, kẻ hạ thần đã chuẩn bị một cơ ngơi đầy đủ ở vùng quê Lập Thạch. Xin bệ hạ đừng lo”.
Nguyễn Tông Chi cười mỉm, hỏi Trịnh Bá Hoành:
- Liệu ông Hãn còn mách được nước nào hay hơn cho Hoàng đế không? Hẳn ông ta nói đến thế là hết vốn và cũng bí như Hoàng đế mà thôi, ở cái thời buổi phức tạp này có trời cũng chịu.
Trịnh Bá Hoành cười sằng sặc:
- Tất nhiên rồi. Nếu không thì:
Con cò lặn lội bờ sông kia
Lấy đâu đục nước để mà béo quay.
- Sau đó thì sao?
- Sau đó ông Hãn không nhắc lại những chuyện đó nữa.
Ông ta dẫn dụ với Hoàng đế rằng: “Tâu bệ hạ, thần nhớ rằng ở thời chiến trong một bức thư dụ các hào kiệt trong thiên hạ, bệ hạ có trịnh trọng hứa rằng: “Có vị nào muốn giữ tiết tháo cao cả như Tứ hạo(8) trốn tránh công danh, như Tử Phòng cũng nên vì dân ra cứu nạn nước, khi thành công rồi muốn thỏa chí xưa, về ẩn ở nơi rừng núi, ta cũng không ép”. Nay bình Ngô phục quốc đã xong rồi, xin bệ hạ thực hiện lời hứa vàng đá ấy, cho thần về. Chắc thần sẽ xứng đáng với bệ hạ hơn là các bậc hiền giả lánh đời ấy”.
Hoàng đế rơi nước mắt, cầm tay ông ta tiễn ra ngoài cửa khuyết nói: “Khanh đã nói đến mực này thì trẫm còn biết nói gì hơn. Thôi thì nếu khanh về trí sĩ, hàng năm hãy hai lần vào chầu để cho trẫm hỏi ý kiến và thỏa lòng khao khát nhớ nhung”.
Nguyễn Tông Chi nheo cặp mặt lé cười khẩy:
- Cái ông Hãn này thật là lập dị. Sống ở thời buổi này, còn nói những chuyện đạo đức, còn định làm gương cho thiên hạ. Mỡ đã bỏ vào miệng mèo, lại bỏ đi không thèm ăn.
Trịnh Bá Hoành vỗ cái bụng ngồn ngộn mỡ, gật gù cái đầu hói, cười khì khì:
- Ông Hãn đã dở hơi, lại gặp ông Xảo nữa. Tuy ông ta không dại mà về như ông Hãn nhưng ở lại cũng hóa dại.
Làm võ thần mà lúc nào ông ta cũng giữ phong độ thanh lịch của người Đông Kinh. Hòa bình rồi, được Hoàng đế thăng từ Thiếu úy lên Thái úy, phụ trách quốc phòng, kiêm chức Khu mật đại sứ kiêm Thái bảo, sung sướng như thế mà vẫn cứ say sưa công vụ ngày đêm, ông ta không nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi hưởng lợi, kéo bè kéo cánh để giữ ghế và ngoi lên như bao vị quan khác từng chịu khổ nhiều trong chiến tranh, nay đã mệt mỏi, sa sút về tình thần. Hai ông ấy lại gặp ông Nguyễn Trãi làm quan cũng quan trọng đấy chứ, thế mà vẫn cứ thực hiện đúng những lời mình đã viết:
Cơm ăn dù có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Với bộ ba tướng sĩ tượng ấy thì:
Nước trong suốt tận đáy sâu
Cá đâu tìm thấy chất màu uống ăn
Nguyễn Tông Chi bĩu môi, nheo mắt:
- Thảo nào, trước đây chưa rõ tính khí các ông ấy, tôi có bà chị họ làm vợ em ông Xảo, tôi muốn qua mối quan hệ ấy đem lễ vật đến, qua bà chị họ làm trung gian, nhờ ông ta chạy cho đứa con trưởng một chức quan nhỏ mà cũng không xong. Lại cả ông Hãn nữa như Trịnh huynh đã kể, ông ta có giọng nói đầy mỉa mai, không ám chỉ bọn ta thì ám chỉ ai?
Trịnh Bá Hoành hậm hực:
- Nguyễn huynh cũng như tôi từng chầu hầu Hoàng đế, có nhiều dịp tiếp xúc với bộ ba ấy khi họ vào chầu vua, sao không thấy rằng cả ba không ưa gì bọn ta. Cứ nhìn con mắt, nhìn thái độ của họ cũng đoán ra, chứ đâu chỉ lời ngờ vực tuôn ra từ cửa miệng cái ông họ Trần kia.
Nguyễn Tông Chi cau mặt:
- Nếu thế, sao Trịnh huynh không sớm mưu tính sửa đi?
Trịnh Bá Hoành lắc đầu:
- Việc này không dễ dàng thành công ngay một lúc vì Hoàng đế còn yêu tài, tin cậy và vì uy tín ba ông ấy còn quá lớn.
- Trịnh huynh có chắc rồi ba hòn đá tảng ấy sẽ bị đạp đổ trên đường ta đi không?
- Nhất định ăn chắc chứ.
- Vì sao?
- Vì dù hoàng đế có tin yêu bộ ba ấy, nhưng chúng ta được sớm khuya bên người, nói mãi cũng phải chuyển. Chúng ta lại có ông Lê Quốc Khí là cháu Hoàng đế nói giúp thì mấy mà người không tin. Hiện nay trong hòa bình, nội tình phức tạp, công việc bề bộn gấp mấy hồi xưa, làm sức khỏe Hoàng đế càng sa sút, sự sáng suốt cũng bị hạn chế, nên càng dễ lay chuyển. Còn cớ thì mãi cũng phải tìm ra. Có vị công thần nào mà không có chỗ hở?
- Như thế thì ba ông sao có thể mãi yên được.
- Thế hóa ra chỉ có cái ông Phán quan họ Trần kia, tên không rõ, chỗ ở khó dò ra là thoát thôi. Ông ta không có danh, không có lợi nên không có lụy, còn bộ ba kia là lụy.
- Tất nhiên rồi.
- Hẳn lúc đó thì cận thần đầy tín nhiệm của Hoàng đế Lam Sơn sẽ khác nào như chim hồng học thỏa chí bay cao!
- Nhưng tôi còn e thái độ các công thần còn lại như Lê Vấn, Lê Sát, Lê Ngân, Lê Thụ, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng…
- Dù sao những vị đó cũng còn dễ chịu hơn bộ ba kia. Như ý câu thơ tôi vừa đọc lúc nãy; Nước quá trong thì cá khó sống, còn dòng nước của các vị này nhiều ít không trong bằng thì cá dễ sống hơn. Như các ông Sát, Vấn, Ngân, Thụ, ông nào mà không cần vợ lẽ, không muốn xây thêm nhà cửa đẹp đẽ, không cần ăn ngon. Có ông như ông Thụ say sưa với rượu xương bồ, túy lúy suốt ngày. Ông Vấn thì đã bỏ hẳn cái lốt võ biền để thành một tay quí tộc kiểu cách nhất triều, xứng đáng là anh vợ vua. Xưa kia trong chiến tranh gối đất nằm sương, có khi hàng nửa tháng ông ta mới thay quần áo, ghét cáu dồn lại, mà nay một ngày thay mấy bộ. Ông ta lại chú ý nghiên cứu cả cách uống trà, cách chơi phong lan, tìm hiểu để tận hưởng các thứ quí của rừng như gạc hươu, răng hổ, lông nhím, chim trĩ ép phơi khô và của biển như san hô, đồi mồi… Bọn các ông ấy, ăn tiêu bạt mạng, tham vọng như thế, ắt phải cần nhiều tiền. Bọn chúng ta giàu có, tiền nhiều thì lo gì không mua được tất, kể cả các ông ấy.
Nguyễn Tông Chi vỗ tay cười khoan khoái:
- Thế nên, phen này ông Lê Sát lên làm Tể tướng, các ông Thụ, Ngân, Vấn làm trọng thần, thì bọn ta đúng là chuột sa chĩnh gạo.
Trịnh Bá Hoành cười to:
-  Bọn ta gặp các ông ấy, cũng như các ông ấy gặp bọn ta, đều là chuột sa cả thôi.
Nguyễn Tông Chi mỉm cười nói đùa:
-  Thảo nào khi đánh bọn giặc Ngô không mấy người béo tốt mà ngày nay lại có những vị bụng phỡn ra. Trịnh huynh cũng vậy.
Trịnh Bá Hoành cười sằng sặc:
-  Nguyễn huynh thì kém gì. Chỉ ít nữa thôi, cái mắt lé của Nguyễn huynh sẽ khó nhận ra trên khuôn mặt núng nính mỡ.
Hai tên nhìn nhau cười khóai trá, chúng dắt tay nhau ra khỏi hàng cột mới xây bên tả điện, nhảy lên đôi ngựa đen và xám do kẻ hầu vừa dắt tới, phi khỏi đám đông, bụi tung mù mịt.
IV. VỤ ÁN ĐẮM THUYỀN TRÊN SÔNG LÔ
Trần Nguyên Hãn làm sao có thể cho ngựa phóng nhanh hơn giữa rừng cọ bạt ngàn này. Ông còn mê mải ngắm những hàng cọ che kín hai bên đường. Những cây cọ dáng hiên ngang, thân lởm chởm, chắc nịch, vươn vút lên trời xanh, tán lá xoè ra như tàn như quạt đội lấy trời, níu lấy mây, khác nào đoàn dũng tướng trong thần thoại vùng dậy bảo vệ quê hương theo lệnh vua Hùng. Đây là vùng đất tổ, những ngày đẹp trời, trèo lên cây cọ có thể nhìn thấy đỉnh Hi Cương xa thẳm kia, sừng sững úp trong mây, đúng với cái tên “Cửu trùng tiên điện” (Điện giữa chín tầng mây). Nhìn những tàu lá cọ rất rộng, rất dày, có thể che kín cả một chiếc nong lớn, bất giác Trần Nguyên Hãn đọc hai câu ca dao mà dân địa phương vẫn truyền tụng:
Đi đấu nón chẳng đội đầu
Lại đây hai đứa lấy tàu cọ che.
Ông tự nhủ: “Giá có Nguyễn Trãi ở đây cùng ta lấy tàu cọ che thì hay biết mấy. Ông anh họ chắc giờ này bận việc dân việc nước, thì giờ làm thơ hẳn ít hơn, nhưng nếu có ở đây thì hẳn rằng bên cạnh những vần thơ về cây tùng, cây cúc, cây trúc, cây mai hay cây chuối, cây dâm bụt sẽ có thêm những vần thơ về cây cọ”.
Bỗng có tiếng rào rào nổi lên khắp nơi. Trần Nguyên Hãn giật mình quay lại nói với người gia đồng ôm vò rượu, đeo bầu nước, cưỡi ngựa đằng sau:
- Có lẽ mưa. Thầy trò ta đi tìm nơi trú ẩn đi.
- Thưa đức ông, mưa có gì đáng kể đâu, chưa đủ ướt áo người. Mưa thế này lại càng mát mẻ.
Trần Nguyên Hãn ngẩng đầu nhìn lên:
- Ừ nhỉ, những giọt mưa nhè nhẹ đập vào lá cây, chạm khẽ vào thân cọ thôi, mà tất cả như hò reo. Ta nhớ lại ngày xưa: một cơn gió nhẹ thoảng qua mà cả rừng thông hò reo lừng lẫy. Người ta thường nói “mưa rừng cọ, gió rừng thông” có sai đâu. Thuở ấu thơ sống ở Côn Sơn, trong động Thanh Hư của ông nội, ta đã cùng Nguyễn Trãi được chiêm ngưỡng cả một rừng thông bạt ngàn nên bây giờ mới thấm thía.
-  Thưa đức ông – người gia đồng gợi chuyện – thông hùng dũng, cọ hiên ngang thể hiện phẩm chất cao cả của con người, không những đáng thưởng thức về hình thức mà giá trị thực của nó cũng rất cần. Dân vùng này thường lấy thân cọ về làm câu đối mộc thiếp vàng đẹp cực kỳ. Còn lá cọ lợp mái nhà, cuống cọ làm dui mè, lạt buộc tốt vô cùng.
-  Chính vì thế khi về đây, lúc chưa kịp đúc ngói, ta đã nghĩ đến chuyện dùng cọ để dựng lên hàng loạt nhà lớn cho gia nhân tôi tớ ở. Hơn nữa, cũng cần xây thêm nhiều nhà để giúp đỡ những người đi lang bạt về đây cư trú khi chưa kịp lập nghiệp. Cơn binh lửa vừa qua làm cho bao nhiêu người cửa tan nhà nát, nghĩ mà rất thương tâm.
-  Nhưng thưa đức ông, nếu thế thì phải xây dựng quá nhiều nhà, lấy đâu ra vật liệu? Vả lại, cây cọ chủ yếu dùng che mái. Khi xây nhà, còn phải dùng nhiều loại gỗ, gạch đá, đặc biệt còn cần thợ khéo nữa.
-  Vùng quê chúng ta đủ cả. Gần với Tam Đảo ngất trời, trước mắt chúng ta là núi Sáng. Cạnh đó là núi Quăm như một con thằn lằn khổng lồ nằm giữa cánh đồng xã Tử Du quê con. Khai thác đá xây nhà ở đó bao giờ cho hết… Còn gỗ, cứ cho thuyền bè ra ngã ba Hạc gần đây có thể vớt được khối gỗ tạp, gỗ dài bền đẹp. Nếu thiếu nữa, ta lên mạn ngược mà khai thác, “kho trời vô tận biết ngày nào vơi”. Còn thợ thì lo gì. Một vùng đất đã tạo ra tháp Thiên Tôn xanh như màu trời, tháp Bình Sơn đỏ như màu đất, cao mười mấy tầng, một vùng đất từng xây nên chùa Tây Thiên, đắp nên thành đền kiên cố thì lo gì không có thợ giỏi.
- Thưa đức ông, có đủ nhân tài, vật liệu rồi nhưng tạo hóa đâu phải đã công bằng. Vùng quê chúng ta có nơi quá thừa những vật đó, có thể xây nhà tại chỗ. Nhưng có nơi ít hơn hoặc không có, phải vận chuyển từ nơi khác đến. Cái khó là vận chuyển. Đường thủy, đường bộ ở đây không phải chỗ nào cũng bằng phẳng dễ vượt như ở đoạn sông Lô thời Lữ Gia quê ta, xưa có một con chó cũng dễ dàng cắp đầu Lữ Thừa tướng bơi qua. Nhưng còn ối chỗ ghềnh thác, thuyền bè khó vượt. Liệu đức ông có đủ thuyền bè để vận chuyển vật liệu xây nhà khắp nơi không?
- Con yên trí, ta vốn là một võ tướng may mắn cũng được theo đòi cả đánh bộ cũng như đánh thủy. Ta còn nhớ khi vây Đông Đô, Hoàng thượng đã sai ta cùng Lê Bị điều khiển trăm chiến thuyền theo dòng sông Hát suối xuống bên Đông Bộ của vùng sông Lô này. Vả lại, sinh ra, lớn lên, đi lại ở vùng này nhiều nên mọi hiện tượng sông nước Tam Giang từ đây lên mạn ngược ta đều đã tìm hiểu kỹ. Thêm nữa, ta còn được học các thủ thuật đóng thuyền bè nên đến nay, dù thời bình, những hiểu biết ấy còn chưa hết ích lợi. Cùng với việc nung vôi, vận đá, đúc gạch ngói, lấy gỗ, lấy lá cọ xây nhà, ta sẽ vẽ kiểu, sai người đóng nhiều thuyền lớn để chứa được nhiều vật liệu chuyển đi xây nhà cửa khắp vùng Tam Giang này. Chắc rằng, chỉ một thời gian ngắn nữa, ở đây nhà cửa sẽ mọc lên san sát. Vậy nên:
Thuyền bè tấp nập vào ra
Sóng kình phng lặng Thao, Đà hai sông
Lô Giang trong suốt một dòng
Vùng Tam Giang khẩu vẫy vùng thoả thuê.
- Vâng, nhưng thưa đức ông, – người gia đồng chỉ bàn tay thanh tú lên khoảng trống giữa những tàu lá cọ đung đưa trước mặt, hướng về phía núi Tam Đảo xa xa nói – có dấu hiệu không bình thường.
Trần Nguyên Hãn đưa mắt theo tầm tay gia đồng, gật gù:
- Ừ nhỉ, các chỏm Tam Đảo đã mờ đi rồi, mây đen đã phủ kín xung quanh. Ta về thôi.
Ông giục ngựa phóng đi nhanh trong tiếng mưa rào rào, cọ rụng lộp bộp khắp xung quanh. Tiếng gió thổi vù vù làm cả rừng cọ rùng mình uốn lượn, ông nói to:
Tam Đảo đội mũ, nước lũ sẽ về. Dấu hiệu thiên nhiên đặc biệt của vùng này không sai đâu con ạ.
Người gia đồng giục ngựa phóng theo, lẩm bẩm:
- Lời dự đoán của đức ông mấy khi sai, cũng như việc làm của người. Nhưng tại sao mùa này nước lũ đến sớm vậy. Có điềm gì lạ đây?
*
Mùa xuân năm Kỷ Dậu, niên hiệu Thuận Thiên thứ hai (1429), vào một đêm tháng hai, trời khuya lắm rồi, nhưng trong điện Vạn Thọ đèn nến vẫn lung linh tỏa sáng.
Những tiếng rì rầm trao đổi giữa Lê Thái Tổ và viên Phó sứ Nội mật viện Lê Quốc Khí vẫn chưa dứt.
Nhà vua nói:
- Ngày 26 tháng này, trẫm đã ban chỉ dụ cho các đại thần và các quan Hành Khiển, trong đó có câu là: “Thấy các đại thần, các tướng tá, các công chức có ai không tôn trọng pháp luật, nhận hối lộ nhiều hại dân lành, phải đàn hặc ngay”. Nhân đấy, bọn Lê Đức Dư, Trịnh Bá Hoành, Nguyễn Tông Chi… dâng sớ tố cáo quan Tả tướng quốc họ Trần đã về hưu mà còn đóng thuyền lớn, chở gạch đá, xây nhiều nhà để tụ tập bọn vong mạng, hòng nắm lấy vùng Tam Giang làm phản. Việc dâng sớ như thế, vào lúc này, là rất phù hợp với lệnh chỉ trẫm mới ban ra. Song cũng phải điều tra cẩn thận lại xem, liệu Tả tướng quốc có làm như thế không, có phải là phản thực không?
Lê Quốc Khí chỉ hàng chồng sớ tấu đặt trên chiếc bàn sơn son dát hoa vàng trước mặt vua, khúm núm:
- Tâu bệ hạ, nếu không đích thực, tại sao lại có nhiều sớ tố giác như thế này, từ nhiều nơi gửi đến, cùng một lúc.
Nhà vua lật từng tờ ra xem, ra chiều tư lự, Lê Quốc Khí tâu:
- Tâu bệ hạ, đây không chỉ là đồn đại mà có nhiều chứng cớ với những lập luận hợp lý về việc xây nhà, đóng thuyền của Tả tướng quốc. Chỉ là một đại thần về hưu thôi; làm sao hắn lại có nhiều đồ quốc cấm như thế, làm sao lại thu hút nhiều bọn lang bạt kỳ hồ vô nghề nghiệp đến thế, nếu không phải là tích luỹ lực lượng để làm phản?
Một người tinh thông thao lược như hắn, nắm được vùng Tam Giang hiểm yếu, dân giàu vật thịnh, làm phản thì nguy hiểm lắm. Xin bệ hạ cấp tốc khu trừ đi.
Nhà vua mừng rơn vì đã bắt đầu có cớ để diệt kẻ mà ngài thầm ghen từ lâu. Ngài khôn khéo không cần nói mà bọn cận thần lại hiểu nhanh đến thế, lợi dụng tình thế nên không cần dàn dựng vụ án hoặc cố tình dàn dựng thành cớ diệt kẻ đó. Nghĩ vậy nhưng bên ngoài nhà vua vẫn ra vẻ lưu luyến, tỏ rõ là người có tình, có nghĩa, lắc đầu, thở dài:
- Bây giờ trẫm vẫn chưa quên những công lao, chưa quên những năm tháng cùng hắn nằm gai nếm mật, những buổi chia tay cùng hắn ân cần trao đổi. Chẳng nhẽ ngày nay tất cả đều trôi xuống biển, kẻ trọng thần biến thành người đối địch quá nhanh như thế sao?
- Tâu bệ hạ, thần xin được phép mạo muội phân tích thêm về một vài lời đáng để ý của hắn trước khi chia tay bệ hạ, điều mà không mấy người ngờ được. Chẳng hạn, trước khi về hắn đã nói với bệ hạ rằng: “Những chiến thắng ở Tân Bình, Thuận Hóa, ở Xương Giang mới được phát huy trong hoàn cảnh mới”.
Nhà vua nói xen vào, chưa hẳn đã bộc lộ đúng suy nghĩ của mình:
- Thật khó hiểu, lúc đó trẫm lại nghĩ rằng câu nói của hắn có ý nghĩa là: Những chiến công hắn đã lập được trong thời chiến sẽ tiếp tục có ích hơn trong thời kiến quốc hòa bình, có lợi cho nước hơn.
- Tâu bệ hạ, đến nay thì đã rõ. Việc hắn làm nhiều nhà, chế nhiều thuyền chiến… không phải là định tích trữ lực lượng hòng làm những Tân Bình – Thuận Hóa, những Xương Giang trong hoàn cảnh ngày nay để khôi phục nhà Trần hay sao? Gần đây thần được biết hắn làm thơ, có những câu như thế này:
Hu nht giới lân phù thủy thượng
Phi loa phi tịch ký danh bang
Hàm châu đái giáp vũ vân tài
Phún lãng thôn ba hà hải lượng
Ký đảo cuồng lan xut lực phù
(Trên sông nổi lên một vật
Không phải ốc, không phải hến mà là con trai
Trong nó ngậm hạt châu, ngoài nó mặc áo giáp, rõ là người có tài văn võ.
Nó phun sóng, nhả sóng không ai có thể sánh kịp. Nó không quản gì sóng to gió dữ).
Đã sống ở thời bình, làm một viên quan về hưu, làm sao hắn lại có thể nghĩ tới việc mặc áo giáp, làm sóng, có tài văn võ, nếu không phải là khởi binh làm loạn? Hắn lại còn dám viết những vần thơ rất ngạo nghễ, phạm tội khi quân như thế này nữa:
Giang hồ xứ xứ tổng tri danh
Bỉ duật thế cô an cảm kháng
(Tên tuổi nó bốn phương đều biết
Con cò kia thế cô đâu giám chống lại)
Con cò kia là ai, nếu không phải là Hoàng đế đương thời?
Nét mặt Lê Thái Tổ bỗng đỏ gay, cặp mắt long lanh bỗng quắc lên, một bàn tay to tướng nắm chặt đấm xuống, làm rung chuyển chiếc giường vững chãi, bàn tay kia vỗ mạnh vào trán. Lê Quốc Khí giật mình hoảng hốt, quỳ rạp mình xuống, run bần bật, không dám nói thêm.
Nhưng rồi Nhà vua nhanh chóng trở lại điềm tĩnh, vỗ vai Lê Quốc Khí, ôn tồn:
Cho phép khanh đứng dậy nói tiếp:
Lê Quốc Khí được khuyến khích, hết sợ, giọng điệu càng trở nên tha thiết hơn và lần này đã đánh trúng tim bậc minh quân:
- Tâu bệ hạ, cùng trong cốt nhục hoàng tộc, thần rất lo cho người xuân thu ngày một cao, nếu có mệnh hệ gì thì vô cùng nguy hiểm. Quốc vương Tư Tề thì tính thanh niên điên khùng thất thường, Thái tử Nguyên Long thì hãy còn nhỏ dại. Trong khi đó Tả tướng quốc là một đại thần đầy uy tín, tài ba, lại là dòng dõi nhà Trần, phù hợp với bọn Ngô thường kêu gọi khôi phục con cháu nhà Trần, thì chúng ra làm sao ứng phó được?
Lê Thái Tổ chau mày, vỗ trán ra vẻ đắn đo suy nghĩ hồi lâu rồi mới ra quyết định ban đầu có tính thăm dò kẻ dưới:
- Vậy, trẫm sẽ xuống chiếu, ban hành lệnh khẩn, sai cấp tốc bắt ngay Tả tướng quốc về triều hỏi tội?
Lê Quốc Khí cũng ra vẻ suy nghĩ một lúc rồi thong thả nói:
- Tâu bệ hạ, Trần Nguyên Hãn có tài hùng biện. Những chứng cớ về vụ án này dù có đủ nhưng thần e rằng sức thuyết phục còn hạn chế. Thần sợ về đến triều, trước văn võ bá quan, hắn hùng hồn phân tích thì ta sẽ càng mang tiếng. Không những tại quê hương hắn mà ngay tại triều đình cũng vẫn còn không ít những kẻ thực lòng tin phục, nể sợ hắn. Mà để lâu hắn sẽ nguy hại đến quyền lợi vương triều.
- Vậy theo khanh phải làm thế nào?
- Đây là vấn đề trọng đại, là việc sống còn của vương triều, xin bệ hạ ra quyết định. Thần không dám và không đủ quyền.
Lê Thái Tổ lại ra vẻ vò đầu vỗ trán giờ lâu, rồi nói:
- Thôi thế này cũng được. Trẫm cứ xuống chiếu ra lệnh bắt Tả tướng quốc về triều. Còn thực hành việc đó thì tuỳ ý Khâm sai đại thần và bọn khanh.
Lê Quốc Khí mừng rơn, quỳ xuống xum xoe:
- Tâu bệ hạ, bậc thánh chúa anh minh bao giờ cũng biết theo lẽ phải và nhìn thấy sự vật từ lúc nó chưa thành hình là thế.
*
Có tiếng gõ cửa trang rất gấp. Gia tướng Trần Nguyên Tiến trèo lên tường lầu, từ vọng lâu nhìn xuống, thấy rõ viên xã trưởng quen thuộc, một người đàn ông tráng kiện gần năm mươi tuổi, áo the đen khăn lượt, một tay cầm ngọn đuốc lớn, một tay đang gõ cửa trang. Lửa đuốc soi rõ viên Khâm sai đại thần to béo, áo lụa hồng, cân đai bối tử rực rỡ, cưỡi con ngựa ô cao lớn cạnh xã trưởng. Sau lưng hai người là đoàn người lố nhố trông không rõ mặt, nối đuôi nhau chen chúc trong màn đêm. Xã trưởng nói vọng lên với cái giọng ồ ồ hàng ngày mà người trong trang không lạ gì:
- Xin các vị thỉnh đức ông cho phép mở cửa để tiếp thánh chỉ rất khẩn.
Trần Nguyên Tiến xuống tường báo chủ nhân. Được tin, Trần Nguyên Hãn sai bọn gia nhân đổ thêm mỡ vào các phao đèn, thắp thêm nến lớn gắn lên các giá đèn bằng bạc, làm trang trại của ông bỗng sáng rực lên như một đảo lửa giữa biển đêm mênh mông của vùng đất Lập Thạch. Ông mặc triều phục đánh thức vợ con dậy, bảo mặc quần áo chỉnh tề, sai Trần Nguyên Tiến ra mở rộng cánh cửa giữa trang trại để đón Khâm sai đại thần và đoàn thủ túc. Trần Nguyên Tiến cầm dùi trống nói:
- Thưa đức ông, Thánh chỉ của triều đình ban cho Tả tướng quốc, một công việc trọng đại như thế, sao không ban hành giữa ban ngày lại tiên hành vào ban đêm? Con e rằng có sự mờ ám. Xin đức ông cho nổi trống ngũ liên để báo hiệu cho dân toàn vùng này biết, kéo đến đây chứng kiến, nếu cần thì họ cứu trợ trước khi mở cửa trang.
- Không cần làm mất giấc ngủ, làm phiền dân chúng con ạ. Dẫu sao có ông xã trưởng là người đại diện dân làng dẫn đường cho họ vào đây cũng đủ rồi. Vả chăng, dù có ám muội thì ta sợ gì. Con cứ mở cửa trang ra.
Tiếng xích sắt kêu loảng xoảng. Cửa trang mở tung. Trần Nguyên Hãn, vợ con và gia nhân dàn ra hai bên đón tiếp.
Khâm sai đại thần bệ vệ tiến theo ngọn đuốc xã trưởng tung bay phía trước, theo sau là tên tùy tùng dắt ngựa và bọn lực sĩ xá nhân lực lưỡng hàng mấy trăm tên gươm tuốt trần, giáo chĩa ra tua tủa kéo vào đứng chật cả tòa đại đường trước mặt và dàn ra thành mấy vòng ngoài vườn cảnh, xung quanh nhà tiếp khách và phòng ngủ của Tả tướng quốc.
Trần Nguyên Hãn sai đặt hương án, nhanh nhẹn quì xuống. Bọn người nhà tôi tớ đều quì sau. Trần Nguyên Hãn vòng tay trịnh trọng:
- Xin ngài Khâm sai cho chúng tôi được nghe thánh chỉ. Khâm sai gọi tùy tùng dâng thánh chỉ lên, mở ra, dõng dạc đọc lệnh bắt Tả tướng quốc.
Trần Nguyên Hãn bật dậy, giật phắt thánh chỉ từ tay viên Khâm sai, quát:
- Phải để cho ta được tận mắt xác minh kim ấn và chữ viết lệnh của Hoàng thượng.
Vợ con Trần Nguyên Hãn hoảng hốt, có người bật khóc. Trần Nguyên Tiến bậm môi, nắm chặt cây thiết lĩnh; gia đồng rút kiếm. Tiếng đồng sắt kêu loảng xoảng, gươm đao chĩa lên từ phía bọn lực sĩ xá nhân. Xem kỹ thánh chỉ, Trần Nguyên Hãn trao lại cho Khâm sai, quay lại lừ mắt cho Trần Nguyên Tiến và gia đồng bỏ khí giới xuống và nói:
- Rõ ràng đây là kim ấn của chính Hoàng thượng và lệnh bắt hợp pháp của triều đình. Ta sống lâu bên cạnh Người, từng ra vào chấp chính nên biết rất rõ đây là lệnh đích thực. Không biết tại sao thánh chúa thần võ anh minh lại có cái lệnh lạ lùng và đột ngột này? Thôi thì ta là bề tôi, dẫu chết cũng phải tận trung.
Trần Nguyên Tiến bước tới cạnh Trần Nguyên Hãn, khẽ nói:
- Thưa đức ông, ngày xưa Nhạc Phi không nghe lời con đẻ là Nhạc Vân và con nuôi là Trương Hiến để kháng cự lại Tống Cao Tông và Tần Cối, nhận cái chết ở Phong Ba Đình mà đời sau cho là ngu trung chứ đâu phải “tinh trung báo quốc”.
Trần Nguyên Hãn lắc đầu:
- Việc làm của Nhạc Phi đáng tiếc là phải. Vì ông ta chịu chết trong khi giặc Kim vẫn chiếm phía Bắc, chưa dẹp xong. Còn với ta lúc này, công cuộc Bình Ngô đã hoàn thành, dẫu chết, ta cũng không ân hận gì, dân ta khổ nhiều về chiến tranh, ta đâu nỡ chỉ vì cái mạng sống nhỏ nhen của cá nhân mà gây cảnh cốt nhục tương tàn.
Trần Nguyên Tiến mắt nẩy lửa, dàn giọng:
- Con không hiểu nổi, Hoàng thượng của chúng ta là người cực kỳ thông tuệ, đã chỉ đạo công cuộc bình Ngô sáng suốt như mặt trăng mặt trời, chứ đâu hôn ám cả nghe Tần Cối như Tống Cao Tông Triệu Cầu. Tại sao lại có cái lệnh đảo điên như thế này?
Trần Nguyên Hãn phẩy tay, lắc đầu ôn tồn:
- Thôi cứ để họ giải ta về Đông Kinh, gặp Hoàng thượng, ta sẽ phân tích, có khi may ra người sẽ nhìn ra lẽ phải.
Chiếc gông tù được khiêng đến. Quan Khâm sai lạnh lùng:
-  Thưa Tả tướng quốc, thế là mọi thứ đã rõ. Bây giờ thì quân pháp vô thân. Xin ngài bỏ triều phục để nhận hình gông trên đường từ đây vào Đông Kinh…
Trần Nguyên Hãn đưa bàn tay to gân guốc chắc nịch vỗ mạnh vào chiếc áo lụa đỏ trên mình, quắc đôi mắt rực lửa nhìn thẳng vào mặt Khâm sai, rồi đưa mắt về phía bọn lực sĩ xá nhân đứng đầy trước mặt, dằn giọng:
-  Nhìn qua các ngươi ở đây ta cũng biết, có những người từng nằm dưới quyền Tổng chỉ huy của ta thuở tiến vào Tân Bình, Thuận Hóa hay công phá Xương Giang. Liệu các ngươi có thể tin rằng Hãn này mưu phản không, hay đây chỉ là sự đặt điều ghen tức của bọn gian xảo ở triều đình? Những minh chứng về sự mưu phản của ta không minh bạch. Cho nên, ta không đời nào nhận tội, dù vẫn tôn trọng thánh chỉ của Hoàng thượng, để các ngươi giải về Đông Kinh. Ta không muốn đi theo các ngươi với áo quần tù tội mà phải mặc toàn bộ triều phục nhất phẩm đại thần để sau này nếu phải lĩnh một cái chết, thì ta sẽ chết với đầy đủ nghi thức của một đại thần bị oan trái. Ta sẽ chết bằng cái chết đàng hoàng dành cho người tráng sĩ từng xông pha trận mạc với màu áo này – ông chỉ vào chiếc áo mình đang mặc – từng kiêu hùng bay trước toàn quân. Theo ta, các người cứ giải ta đến nơi xét xử của triều đình, nhưng trên đường đi không cần phải gông cùm. Bởi Hãn này không đời nào lại thèm bỏ chạy. Vì nếu Hãn định bỏ chạy thì mấy lần gông cùm của các người mà không bị đập vỡ tan tành. Các người thử nhìn đây!
Nhanh như cắt, Trần Nguyên Hãn giật phắt cây giáo sắt lớn của một tên lực sĩ đứng gần, lên gồng. Đôi tay lực sĩ của ông nổi gân cuồn cuộn, uốn cong cây giáo, vặn thành mấy vòng như cái lò xo, ném bay xuống đất, trước con mắt khâm phục và hốt hoảng của mọi người. Ông dõng dạc nói tiếp:
- Vậy các người đừng coi là ta đây tuổi đã cao, không còn cường tráng như cái buổi tung hoành trước thành Xương Giang. Ngay đến thời khắc này, ta vẫn đủ sức đánh cho các ngươi không còn một mảnh giáp để trở về triều đình. Nhưng ta không đời nào làm thế. Vì ta là quan lớn phải làm gương tuân giữ pháp luật, vì ta còn đầy lòng tin tưởng, nhớ ơn và trung thành với Hoàng thượng, người anh hùng số một của công cuộc bình Ngô. Ta không muốn nước non này một lần nữa lại điêu linh tang tóc.
Viên Khâm sai run bần bật, chắp tay:
- Thưa Tả tướng quốc, nếu mãi mãi không gông cùm, không thay triều phục của ngài thì chúng tôi không hoàn thành nhiệm vụ trên giao, sẽ bị tội lây. Xin ngài thương cho.
Trần Nguyên Hãn ra chiều thông cảm:
- Được, các người sẽ thực hành công việc đó khi dẫn ta đến trước mặt Hoàng thượng và bá quan văn võ. Nhưng trên dòng sông Lô kia, các ngươi phải để ta được ung dung ngắm sông nước quê hương yêu dấu ta lần cuối, trong tư thế người tự do.
Quay lại đằng sau nhìn đám vợ con, các cháu và tôi tớ đang xôn xao kêu khóc, Trần Nguyên Hãn xúc động khuyên nhủ:
- Các người không cần sầu thảm làm gì. Vì có sầu thảm cũng không cứu vãn nổi. Con người ta theo luật hết thịnh mãn đến kỳ suy bỉ, có gì lạ đâu. Song “cùng tắc biến, biến tắc thông” như Kinh Dịch đã nói. Hẳn đến một ngày nào đó nỗi oan nghiệt ngút trời của ta sẽ được phơi bày trước thanh thiên bạch nhật, con cháu của dòng họ Chiêu Minh Vương sẽ được khôi phục, hậu thế sẽ hiểu ra. Cho nên, sau đây dù trong than bụi cát lầm, sẩy đàn tan nghé, các ngươi phải luôn luôn ngẩng cao đầu nhưng tuyệt đối không được nghĩ đến chuyện trả thù. Giờ đây chỉ cần hai gia đồng theo ta, các ngươi không phải bịn rịn theo chân làm gì, để ta được thảnh thơi giúp quan Khâm sai và các thủ túc ông làm tròn nhiệm vụ.
Quay lại, bước đến gần viên Khâm sai đại thần, Trần Nguyên Hãn ôn tồn:
- Ta có thể theo các người. Thuyền bè dành cho ta, hẳn các người đã chuẩn bị đủ rồi chứ?
Viên Khâm sai chắp tay:
- Thưa Tả tướng quốc, đã đầy đủ.
- Nếu thế thì chúng ta đi thôi. Cần đi nhanh lên, nếu không, dân chúng vùng này biết sớm sẽ rất phiền cho các người đấy. Vì họ rất mến ta.
*
Bọn lực sĩ xá nhân ra công chèo lái. Con thuyền được gió, nhẹ nhàng cưỡi sóng, lao ra giữa dòng sông Lô, xuôi về phía nam. Nó để lại sau lưng đền thờ Lữ Gia trầm mặc uy nghi với bến nước đầy những cột buồm, mành ghe, dây lèo, dây thừng chi chít soi lung linh trong đuốc, lửa, đèn, nến nhà chài. Tất cả đang dần dần xa, rồi mất hút vào màn đêm.
Khâm sai đại thần lừ mắt ra hiệu, sai bọn tùy tòng chuẩn bị giường màn ở trong khoang nhà thuyền và trịnh trọng:
- Xin Tả tướng quốc nằm nghỉ cho đỡ mệt.
- Ở cương vị ta, vào thời khắc này, liệu ngài có an lòng mà ngủ được không?
Khâm sai đành lảng sang chuyện khác:
- Thưa Tả tướng quốc, sông nước vùng Tam Giang cũng hiền lành đấy chứ. Một thể nghiệm là suốt đường thủy đi từ kinh đô về đây tôi đã không gặp trở ngại gì.
- Tam Giang gồm ba sông Thao, Đà, Lô. Đoạn ngài vừa nói mới chỉ là một đoạn của sông Lô. Chứ từ đây vượt lên phía trên, sông Lô không chỉ có hiền lành đâu. Như khúc sông ở mạn Tuyên Quang có bốn phiến đá: phiến đôi vợ chồng, phiến mẹ con tiên thiên, hình đá lởm chởm, nước sâu hiểm, tiếng sóng réo nửa dặm còn vang. Bè qua đấy dễ bị cuốn vào các tảng đá ngầm. Còn sông Thao, ai có thể quên được ghềnh Bái Thiên ở Vũ ẻn, nước sôi sục réo ầm ầm. Theo truyền thuyết, ở đây có một con thuồng luồng do nàng Tùng Hoa xinh đẹp mà độc ác biến thành. Những ai có việc qua đấy thường mang theo chim nhạn hay chim câu, qua được ghềnh thì thả chim bay về nhà báo tin mừng. Còn sông Đà có thác Bờ lởm chởm cũng không hiền lành đâu. Cuộc chiến tranh giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh “mưa tuôn gió thổi mịt mù” định kỳ hàng năm không biết bao giờ kết thúc.
- Nhưng thưa Tả tướng quốc, dù sao từ đây trở đi cũng êm dịu hơn.
- Đúng, sông nước từ đây êm dịu hơn, nhất là về mùa này, mùa chúng ta đang ngồi nói chuyện ở đây, lúc sắc nước trong xanh, nên người ta gọi sông Lô là “Thanh Giang”.
Trầm ngâm một lúc như nghĩ ra một điều gì hoặc như linh cảm, Trần Nguyên Hãn đột ngột nhìn chòng chọc vào viên Khâm sai đại thần nói, làm y giật mình đánh thót:
- Sông nước thế, nên nếu con thuyền này không xuôi về Đông Kinh mà ngược lên phương Bắc và nếu chẳng may ta bị chết thì sẽ có cớ cho các tay viết sử khuyển phệ sau này la lên rằng thuyền gặp sóng dữ hay đâm vào ghềnh thác, để nịnh nọt người trên. Nhưng tiếc thay cho họ, thuyền chúng ta lại đang xuôi về kinh đô vào mùa êm dịu này, thì hỏi rằng nếu ta chết, các tay viết sử sau này sẽ có cớ gì hay vì bí nên chúng sẽ dựng lên những chuyện mê tín nhảm nhí để lấp liếm cho những kẻ độc ác có quyền(9).
Khâm sai đại thần mặt đỏ tía tai cúi xuống tránh vội cái nhìn của Trần Nguyên Hãn, tim đập dồn dập, nói nhát gừng từng tiếng:
- Không… không đời nào có chuyện đó… xin Tả tướng quốc… yên tâm… Hoàng thượng đang lo nghĩ… đợi ngài đến… phân xử.
Trần Nguyên Hãn không thèm nói nữa. Ông ngước đôi mắt lên bờ nhìn những hàng cây, những ngọn đồi với làng xóm, mái tranh bắt đầu thấy rõ hơn do trời chuyển dần sang sáng. Mầu xanh biếc, xanh lam và nâu của chúng hòa lẫn với nhau đang chạy lùi về phía sau. Bất giác, lòng nhớ quê hương tràn ngập, ông lại nghĩ đến tình cảnh của mình.
Câu thơ của Nguyễn Trãi: Lòng người quanh nữa nước non quanh mới thấm thía làm sao!
Bỗng có tiếng mái chèo vỗ nước, tiếng người huyên náo phía sau: Một binh thuyền tuần sông, vũ khí chĩa ra tua tủa đang lao lại kèm sát thuyền này. Quan Khâm sai đại thần ra mạn thuyền. Có tiếng trao đổi rì rầm giữa ông ta và một vài người ở thuyền bên kia. Có giọng nói và khuôn mặt, dáng dấp như Nguyễn Tông Chi, Trịnh Bá Hoành… Có hơn hai chục tên thủy thủ lực lưỡng cởi trần đóng khố, tay cầm những chiếc búa và dùi sắt nhọn ở thuyền kia nhảy xuống nước… Khâm sai đại thần trở về chỗ lễ phép chấp tay nói với Trần Nguyên Hãn:
- Xin phép Tả tướng quốc, tôi phải lên bờ có việc rất cần. Lúc nữa sẽ có thuyền đưa theo sau. Mọi việc hầu hạ ngài sẽ có bọn xá nhân trong thuyền.
Dứt lời, quan Khâm sai cùng chục tay chân thân tín nhảy sang thuyền kia, để lại bốn mươi hai lực sĩ xá nhân và hai gia đồng của Trần Nguyên Hãn. Con thuyền tách mũi, bơi vào bờ, rồi biến mất vào những lùm cây um tùm.
Còn thuyền chở Trần Nguyên Hãn tiếp tục căng buồm lao lên trong sóng nước dập dờn. Bỗng có tiếng kêu hốt hoảng của một tên lực sĩ:
- Thuyền thủng:
Nhiều tiếng kêu khác tiếp theo… Thuyền thủng tứ tung. Bọn lực sĩ xá nhân la ó, hè nhau cứu chữa. Nhưng cứu lỗ hà ra lỗ hổng. Càng cứu, nước càng tràn vào. Con thuyền chao đảo, cột buồm nghiêng ngả rồi chìm dần. Bọn lực sĩ xá nhân có những tên không biết bơi hoặc bơi lội kém hốt hoảng kêu gào, vật lộn và đuối sức dần trong sóng gió ào ào xung quanh. Cũng có tên trong số đó bám được vào chỗ cao của cột buồm, hướng vào bờ kêu cứu nhưng trả lời chỉ là đôi bờ vắng tanh, không một bóng người, bóng nhà, lặng câm như đá lạnh mà thôi. Có một số tên bơi thạo hơn cố lần vào bờ…
Còn Trần Nguyên Hãn và hai gia đồng dìu nhau bơi lội, định thoát vào bờ. Bỗng ngầm dưới nước, nhiều bàn tay rắn chắc khoẻ mạnh nắm chặt, định lôi ông xuống đáy sông và lôi hai gia đồng ra xa. Trần Nguyên Hãn và hai người thân của mình giằng xé, co đạp, đấm đá, nhào lên lộn xuống chống đối lại. Một cuộc thuỷ chiến rất dữ dội nổ ra. Người đập vào nhau, văng vào nước làm nước sông bắn tung tóe. Hai gia đồng bị bốn tên giặc nước khỏe mạnh dồn đánh ác liệt, không địch nổi phải bơi chạy, tìm lối thoát ra nơi khác… Còn Trần Nguyên Hãn tuy khoẻ mạnh, giỏi võ, hiểu biết sông nước và thuyền bè nhưng ông có sở trường đánh bộ hơn là đánh thủy. Ông biết chứ không giỏi bơi lội, thân thể lùng nhùng vướng víu trong bộ triều phục, lại phải quần thảo với mười sáu tên thạo nghề sông nước khoẻ mạnh. Nên cuối cùng Trần Nguyên Hãn bị chúng dìm uống no nước rồi lôi lên thuyền cột chặt vào cột buồm để ông mất tích hẳn cùng với con thuyền. Chúng làm cái việc tàn bạo ấy theo lệnh ông chủ, phải chăng vì sợ nhỡ ra xác Tả tướng quốc trôi nổi trên sóng nước sẽ được thuyền khác vớt lên hay dạt vào bờ ở chỗ đông dân thì chuyện lan ra sẽ lắm lôi thôi, hay làm thế vì mưu đồ gì khác?
Trần Nguyên Hãn no nước, say sóng, bị dây dợ lằn ngang lằn dọc buộc đứng vào cột buồm, toàn thân đau nhừ vì đòn. Nhưng vốn là người khoẻ mạnh, ông chỉ lả đi mà chưa chết hẳn. Ông còn cảm thấy sóng nước đang dập dờn xung quanh, liếm dần, liếm dần đến bụng rồi đến cổ, nhấn chìm chiếc áo lụa đỏ, một biểu hiện của công danh phú quý ông đang mặc. Chỉ còn từ cằm trở lên và cuối cùng chỉ còn đôi mắt, vùng trán cao cả và mái tóc hoa râm của ông là được mặt trời mới lên soi tỏ lần cuối. Dưới mái tóc có sợi bạc đi, dưới vầng trán có nếp nhăn đi vì dân vì nước ấy, hẳn cặp mắt của ông, cặp mắt lần cuối cùng không được ai vuốt đó, vẫn mở trừng trừng, để nhìn thấy mặt trời, mặt nước lần cuối với những oan trái ở cõi đời, để nhìn xem hậu thế nói gì về nỗi oan này.
Mặt trời nhô lên hồng hào, phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, tỏa muôn sắc bình minh trên dòng Lô Giang, một dòng nước từng tiềm ẩn trong mình nó xác người, xác thuyền mà bên ngoài vẫn long lanh biêng biếc màu ngọc lưu ly.
Phải chăng chỉ có mặt trời, sông nước kia và may ra có ai thoát được sau cuộc tàn sát thâm hiểm ấy, nếu có thể nói lên và được phép nói, mới có thể nói đầy đủ và chính xác hơn về cái chết bí ẩn của Tả tướng quốc. Tiếng nói ấy chắc chắn sẽ công minh hơn những tiếng nói xuyên tạc hoặc huyền thoại hóa dưới quyền uy của các vương triều từ rất lâu nay.
(1) Xem Lê Quý Đôn. Đại Việt thông sử Đế kỷ đệ nhất thái t thượng: Phạm Cự Luyện, Đoàn Lộ chế ra các thứ vũ khí này.
(2) Theo truyền thuyết địa phương, Lư Gia đòi Triệu bị chặt đ đây. Quân Hán đuổi đến, một con chó đã bơi giật cp đầu ông bơi qua sông để giữ thi hài ông khỏi bị chúng xâm phạm.
(3) Kể về môi tình giữa Bạch T Trinh và Hứa Tiên. Pháp Hải đưa thuc đ Hứa Tiên cho nàng uống hóa rắn và đày nàng vào tháp Lôi Phong.
(4) Tất nhiên cũng có lúc, thấy lừa đôi lâu không được, để xoa dịu lòng công phẫn, những k “dãi thây trăm họ” làm công mình, cũng ra v bandanh hiệu nọ kia, cho khổ chủ một chút quyền lợi cỏn con, sau khi người dân đã đổ bao xương máu (có khi thiệt c gia đình) và bọn làm việcdãi thây đã nắm hết mọi đặc quyn đặc lợi.
(5) Tư Tề, con trưởng LêLợiđược phong m Hữu tướng quốc.
(6) Hán Vũ Đế nhà Tây Hán coi hai người này chỉ như những người làm cho vui cho vua halà kẻ làm thơ làm phú làm hợp lòng vua mà thôi, chứ không phải người có tài làm lớn.
(7) Những vị tướng đời Tng ấy muốn nắm mãi quân quyền  thi bình, sau khi Tng Thái T nm quyn c nước.
(8) Bn ông già ngoài 80 tuổi: Đông Viên Công, Hạ Hoàng Công, Y Lý Công, Giác Lý Công ẩn ở núi Thương Sơn. Hán Cao Tổ mời không ra. Trương Lương dùng mưu mới mời ra để bảo v ngôi cho Thái tử.
(9) Điều tiên nghiệm của Trần Nguyên Hãn phản ánh đúng tình hình sau này: Các sử sách thi phong kiến gán cái chết của ông với sự huyễn hoặc. Như Lê Quí Đôn ở Lê triều thông sử “chư thn truyện” và Phan Huy Chú ở Lịch triều hiến chương loại chínhân vật chí“… đều ghi: ’”Vua sai lực sĩ xá nhân bắt về hỏi. Thuyền đến dưới bến Đông Sơn, ông uất hận khấn trời rằng: “Tôi cùng vua mưu cứu dân. Nay nghĩa lớn đã định, Vua lại muốn giết tôi, Hoàng thiên soi xét cho”. Nói xong bỗng nhiên gió ni lật thuyền, bốn mươi hai lực sĩ xá nhân và ông đều chết đuối cả. Ch có hai gia đồng của ông trôi vào bờ thoát chết!”.
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.