Những cuộc chiến tranh gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc cho thấy
sự theo đuổi liên tục ý đồ bành trướng nước lớn của phương Bắc chưa bao
giờ ngưng nghỉ.
Mặc Lâm tìm hiểu quá trình lấn đất chiếm biển của Trung Quốc qua bài
viết sau đây nhằm làm sáng tỏ hơn một vấn đề đang gây phẫn nộ trong dư
luận Việt Nam sau sự cố tàu Bình Minh 02.
Rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đã đem một lực lượng
hùng hậu tiến vào tấn công Việt Nam. Áp dụng chiến thuật biển người bất
kể tổn thất, quân đội Trung Quốc tiến công trên toàn tuyến biên giới
phía Bắc Việt Nam. Có tổng cộng 9 quân-đoàn và hai sư-đoàn tiến chiếm
các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng liên Sơn, Lai Châu. Quảng Ninh, và Hà
Tuyên.
Đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, chỉ trong vòng 11 ngày ngắn ngủi quân
Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và một số
thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt
để.
Mãi đến ngày ngày 5 tháng 3 năm 1979, do áp lực và sự phản đối của
quốc tế, Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh là dạy cho
Việt Nam một bài học. Đến ngày 18 tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã
hoàn toàn rút khỏi Việt Nam.
Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người
chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có
60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt.
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 tuy ngắn ngủi nhưng tổn thất về người
và tài sản của nhân dân và quân đội Việt Nam phải được gọi đích danh là
nghiêm trọng nếu so với cuộc chiến chống lại miền Nam kết thúc trước đó
4 năm. Sai lầm chiến lược và chiến thuật nào đã đẩy Việt Nam từ một
đồng minh thân thiết trở thành kẻ thù của Bắc phương trong một thời gian
ngắn ngủi? phải chăng dã tâm của Bắc Kinh đã được Hà Nội nhìn thấy
nhưng do chủ quan và tư tưởng hữu nghị đã làm cho lãnh đạo Hà Nội mất
cảnh giác và xem thường khả năng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc?
Thiếu-Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Đại-sứ Việt Nam tại Trung quốc từ năm
1974 cho tới năm 1987 cho biết những nguyên nhân chính khiến Việt Nam
chủ quan với người đồng chí này như sau:
1) Thứ nhất là tình báo của chúng ta quá kém hai nữa là chúng ta quá
tin vào những người lãnh đạo Trung Quốc. Quá tin vào tình hữu nghị Việt
Trung ! Chúng ta cũng sơ hở ở chỗ là trước cuộc chiến tranh 79 thì tôi
biết Trung Quốc đã làm rất nhiều con đường từ nội tỉnh của họ ra biên
giới Việt Nam, thế nhưng mình không ngờ rằng đến năm 79 họ tiến quân
theo những con đường đó sang đánh Việt Nam. Đó là một kinh nghiệm.
2) Thứ hai nữa là mình mất cảnh giác. Tôi nhớ lại bắt đầu thì chúng
ta cũng đã có báo động rồi nhưng đến trước hôm 17 thì Tổng Tham mưu
trưởng của chúng ta lại hạ cấp báo động. Cho nên ngày 17 thì họ đánh
chúng ta và chúng ta không có quân chủ lực ở trên đó, chỉ có dân quân và
bộ đội địa phương thôi.
Sau cuộc chiến 1979 Trung Quốc còn nhiều lần tiến hành cuộc chiến
tranh lấn đất về sau. Từ ngày 2-4 đến 28-4-1984, Trung Quốc đã cho quân
tập trung pháo binh bắn phá khu vực Vị Xuyên. Trong suốt 26 ngày đêm
Trung Quốc đã bắn tổng cộng 30.000 viên đạn pháo cối các loại vào các
điểm cao phòng thủ của Việt Nam và lấn sâu vào lãnh thổ VN khoảng 2km.
Cuộc tập kích bất ngờ cao điểm 1509 thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên
Minh, tình Hà Giang có lẽ là dã man nhất của quân đội Trung Quốc. Bất kể
công pháp quốc tế về tội ác chiến tranh, lính Trung Quốc giết 3.700
bộ-đội Việt-Nam, dùng súng phun lửa đốt xác, đốt luôn cả thương binh còn
sống vùi xuống mồ tập thể, biến cao điểm này thành địa danh Lão Sơn của
họ.
Những khu vực bị Trung Quốc lấn sang biên giới cho tới nay vẫn không
thể đòi lại được, mặc dù nhiều cuộc đàm phán biên giới kéo dài từ năm
1989 tới nay. Các cột mốc di động vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam khiến
toàn bộ Ải Nam Quan và phân nửa thác Bản Giốc biến mất vẫn đang là nỗi
nhức nhối của người Việt.
Đó là trên đất liền, những vết tích vẫn còn lại dọc theo biên giới phía Bắc về cuộc chiến tranh xâm lược 1979.
Trên biển Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 khi hòn đảo
này đã từ rất lâu được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gìn giữ với đầy đủ
chứng từ về chủ quyền lãnh thổ.
Trước đó vào năm 1956 lợi dụng thời gian Pháp rút khỏi Việt Nam và
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chưa ổn định, Bắc Kinh đánh chiếm một phần
Hoàng Sa. Năm 1974, lợi dụng thế muốn rút quân của Mỹ, và sự suy yếu
của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, Bắc Kinh mặc cả với Mỹ trên lưng Việt
Nam để đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa.
Đảo Hoàng Sa là đảo có người ở. Trên đảo lúc ấy có đài khí tượng và một đại đội lính Việt Nam Cộng Hòa đồn trú.
Trận hải chiến xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng. Theo
lời của phó Đề Đốc hải-quân Hồ Văn Kỳ Thoại nguyên Tư-lệnh Hải-quân Vùng
1 Duyên-hải là một trong các chỉ huy tham dự trận đánh với Trung Quốc
cho biết thì thiệt hại của Việt Nam là 58 sĩ-quan và thủy-thủ đã bỏ mình
trên chiến hạm. Trung Quốc đã chính thức chiếm đảo Hoàng Sa từ ngày đó
đến nay.
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết nhận định của ông về sự kiện lịch sử này, ông nói:
- Có thể nói sự kiện Hoàng Sa đặt trong tổng thể cái bối cảnh lúc đó
là một bi kịch của dân tộc mình. Vào thời điểm ấy Mỹ đã có ý định rút
khỏi Việt Nam và họ đã thỏa hiệp với Trung Quốc để lấy cơ hội đó để lấy
Hoàng Sa. Trong khi đó thì giữa người Việt Nam với nhau thì đang kết
thúc một thời kỳ lịch sử và tôi cho rất là bi hùng, đã thực hiện việc
thống nhất quốc gia lãnh thổ.
- Có thể nhìn nhận lại sự kiện đó như một bi kịch và nó để lại một
bài học rất lớn rằng lợi ích quốc gia luôn luôn phải đặt lên hàng đầu.
Những thế lực nước ngoài, đặc biệt là những nước lớn họ luôn luôn lợi
dụng những cơ hội bao giớ cũng dành vị thế thuận lợi cho họ chứ không
bao giờ cho một nước nhỏ nào khác. Còn riêng đối với những người lính
Cộng hòa hay chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thực hiện nghĩa vụ bảo vệ tổ
quốc đó thì việc làm của họ là việc làm có công với đất nước và đáng
đựơc tôn vinh.
Vẫn chưa ngừng ở đó, sáng ngày 14 tháng 3 năm 1988 tàu hải quân Việt
Nam mang số hiệu HQ 604 đang thả neo tại đảo Gạc Ma phát hiện 4 tàu lớn
của Trung Quốc tiến lại gần đảo và cử người vào cắm cờ trên đảo.
Với số đông áp đảo, lính Trung Quốc đã ngang nhiên vào đảo giật cờ
Việt Nam xuống và tấn công bộ-đội hải-quân Việt Nam đang đóng trên đảo
đồng thời tấn công tàu HQ 604. Sau một cuộc giao-tranh ngắn-ngủi tàu 604
của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển.
Trong trận chiến Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam có 3 tàu
bị bắn cháy và chìm, 3 người tử-trận, 11 người bị thương, 70 người bị
mất tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị
bắt, 61 người vẫn mất tích và được xem là đã tử trận.
Sau ngày 14 tháng 3 ấy Việt Nam đã làm gì đối với những anh hùng liệt sĩ đã bỏ mình cho tổ quốc?
Chính phủ Việt Nam sau khi nối lại sợi giây hòa hiếu với Trung Quốc cũng là lúc mọi chi tiết về các cuộc
chiến tranh do Trung Quốc phát động đều bị ngăn cấm không cho báo chí
nhắc tới với giọng văn truy cứu trách nhiệm hay khơi dậy lòng yêu nước
của dân chúng. Nhà báo Tống Văn Công nguyên Tổng biên tập báo Lao Động
nói cảm nghĩ của mình về việc này như sau:
- Cái vụ Gạc Ma Trung Quốc thì khi nó bắn mình nó có quay phim, thế
rồi nó chiếu phim lại cho hải quân chúng nó coi, trong khi đó thì mình
không dám nhắc lại. Lẽ ra cái ngày đó mình phải tổ chức kỹ lưỡng mà thậm
chí mời nó đến dự nữa và đọc diễn văn đàng hoàng sòng phẳng coi như đó
là một cái tội ác không được tái diễn nếu muốn hai bên bảo vệ 16 chữ
vàng và bốn tốt.
Thái độ cả tin vào thiện chí của người láng giềng này hay còn nguyên
nhân nào khác của Hà Nội đã khiến Trung Quốc ngày một lấn sâu hơn vào
lãnh hải Việt Nam, và mới đây nhất là vụ cắt dây cable tàu Bình Minh 2
làm cho người Việt Nam càng thêm phẫn nộ sau những cuộc chiến không cân
sức nhằm lấn chiếm đất đai biển đảo của mình.
Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (kỳ 4)
Đại học quân sự Hoa Kỳ nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung 1979
Trương Tiểu Minh
Air War College
Montgomery, Alabama, Mỹ
Nguyên tác :
Zhang Xiaoming, “China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment”
The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005, trang 851-874
Lời người dịch : Thấm thoát đã hơn 30 năm từ
ngày cuộc chiến Việt-Trung nổ ra năm 1979, và mặc dù cả hai nước đều cho là
mình đã thắng, số lượng tài liệu được Trung Quốc và Việt Nam công bố về cuộc
chiến tranh này vẫn còn rất ít. Bài viết dưới đây của một học-giả gốc người
Trung Quốc (hiện giảng dạy tại trường Cao-Đẳng Không-Chiến (Air War College)
thuộc Bộ Không-Quân Mỹ) được đăng vào năm 2005 trên tờ China Quarterly, một
tạp-chí quốc-tế có uy tín xuất bản tại Anh, là một công trình học thuật đáng chú
ý về cuộc chiến tranh này. Để giữ sự trung thực so với nguyên bản, người dịch
đã cố gắng truyền đạt cách diễn tả của tác giả. Khi đọc bài này, nhiều độc giả
Việt Nam
có thể sẽ cho rằng một số nhận xét của tác giả là rất chủ quan và nhiều vấn đề
là khá nhạy cảm. Tuy nhiên bài viết này, ở mức độ nào đó,
cung cấp nhiều thông
tin đã được kiểm chứng và có giá trị sử liệu. Hy vọng bài viết này cũng tạo nên
một sự thôi thúc để Trung Quốc, và đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cung cấp
thêm nhiều thông tin và bằng chứng để các nhà sử học cũng như thế hệ tương lai
có một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về cuộc chiến tuy ngắn ngủi nhưng đẫm
máu này.
Mục đích của bài báo này là nhằm trình bày về cuộc chiến tranh giữa
Trung Quốc và Việt Nam
vào năm 1979. Bài báo nhắc lại những mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc với
Việt Nam và ảnh hưởng của những mối quan hệ này lên những toan tính chiến tranh
của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự và sự
chuẩn bị của Trung Quốc cho cuộc tấn công. Bài báo cũng chỉ ra cách thức tiến
hành chiến tranh của Bắc Kinh mang màu sắc đặc thù Trung Quốc như thế nào: tính
toán khi nào và sử dụng ra sao sức mạnh quân sự, mục tiêu quan trọng trong
chiến tranh, và cơ sở trong việc nhận định về thắng lợi. Bài báo cũng điểm lại
những hậu quả của cuộc xung đột ở cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, những
bài học đã được rút tỉa dưới con mắt của chính người Trung Quốc.
Đầu năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam, theo cách nói của lãnh đạo
Trung Quốc là để “dạy cho Việt Nam một bài học” nhớ đời. Mặc dầu Bắc Kinh tự
cho là đã thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều tranh
cãi cho rằng cuộc chiến tranh đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì trong
cuộc xung đột này Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết
sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam đã rút ra một bài học từ cuộc
chiến này. Các tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này vẫn được niêm
phong rất cẩn mật do đó các thông tin về cuộc chiến không chỉ chắp vá chủ quan
mà còn đáng ngờ về tính xác thực. Mặc dù đã có một ít tài liệu bằng tiếng Anh,
nhưng phần nhiều chỉ là đồn đoán và không chính xác, lưu truyền không chính
thức ở Hồng Kông và Đài Loan. Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh
có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh
nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979 đã thấy xuất hiện rải rác trong các thư
viện tại Mỹ và có thể truy cập trên Internet. Thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ
quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị.
Dựa trên các tư liệu nghiên cứu của một số học giả hàng đầu, bài viết này
cố gắng trình bày cái nhìn của người Trung Quốc đối với cuộc chiến Việt-Trung
năm 1979. Đầu tiên là thảo luận về các mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và
Việt Nam và ảnh hưởng của các mối quan hệ này trên quyết định tấn công Việt Nam
của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Kế đến là xét lại vai trò
của QGPND bao gồm chiến thuật, chiến lược của Trung Quốc cho cuộc xâm lăng và
những quan điểm riêng của QGPND về vận hành bộ máy quân sự. Cuối cùng là điểm
lại những tác động của cuộc xung đột, trên cả hai lĩnh vực chính trị cũng như
quân sự, và những bài học rút ra bởi chính người Trung Quốc. Bài báo cũng đưa
ra những dẫn chứng về cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh, chỉ ra tính
đặc thù kiểu Trung Quốc trong tác chiến: không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân
sự sau khi tính toán một cách cẩn thận khi nào và sử dụng ra sao; mục tiêu quan
trọng của QGPND là giành và giữ thế chủ động trong tác chiến, và nền tảng cơ
bản mà người Trung Quốc đã dựa vào đó để đánh giá thành công về mặt quân sự, đó
là lợi thế địa chính trị hơn là hiệu suất tác chiến. Mặc dù đã bị người Việt
Nam làm khốn đốn nhưng QGPND đã hoàn thành được mục tiêu chiến lược của Bắc
Kinh, buộc Việt Nam phải chia lửa cho phòng tuyến ở biên giới phía bắc, và buộc
quốc gia này phải giảm phiêu lưu quân sự ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, QGPND
vẫn chưa rút ra được bài học từ cuộc chiến tranh này, đó là truyền thống và
triết lý quân sự của Trung Quốc đã quá lỗi thời, điều này có thể cản trở công
cuộc hiện đại hóa thay đổi bộ mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Yếu tố văn hóa lịch sử
Bắc Kinh và Hà Nội đã từng là đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất vào những năm đầu thập niên 1950. Thế thì tại sao sau
đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành chiến tranh
với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào cuối năm 1978 ? Theo lý lẽ
của Bắc Kinh thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng xưng bá” của Hà Nội ở
khu vực Đông Nam Á; gây hấn ở biên giới với Trung Quốc và xâm phạm vào lãnh thổ
của Trung Quốc; ngược đãi người Hoa ở Việt Nam; đi theo Liên Xô trong lúc nước
này đang muốn mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Các nhà quan sát vào thời điểm đó
và nhiều nghiên cứu sau này cho rằng mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là làm giảm
bớt áp lực quân sự lên Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt
trận thứ hai. Robert Ross (học giả người Mỹ, hiện là giáo-sư ở Boston College -
ND) thì cho rằng việc Trung Quốc sử dụng quân đội chống lại Việt Nam không phải
là phản ứng trước sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Dương, mà là phản-ứng trước
sự về hùa của Việt-Nam với Liên-Xô nhằm bao-vây Trung-Quốc từ Đông Nam Á. Những
nghiên cứu khác lại cho rằng Trung Quốc hành động như thế để làm mất thể diện
của Liên Xô, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của Hà Nội trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội trước chiến
thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) tác-giả cuốn China and the Vietnam
Wars, 1950-1975 -- ND) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là
lời nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc, khi đề cập đến các
mối quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa
quốc tế Mác-Lênin, song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung
Hoa : quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. Các quốc
gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man-di
và phải là những chư-hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm
kiêu-hãnh lịch-sử và độ nhạy-cảm văn-hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến
thái độ của người Việt Nam
đối với Trung Quốc. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Việt Nam đã thích
thú khi vay mượn và bắt chước nền văn minh cũng như thể chế Trung Quốc để làm
nên bản sắc riêng, nhưng họ lại rất sắt đá trong việc bảo tồn di sản văn hóa và
nền độc lập của họ. Họ yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ, khi gặp khó khăn nội bộ,
nhưng khi họ giành được tự do và thống nhất đất nước, thì họ lại quay ra thù
địch với Trung Quốc. Những hình ảnh được khắc ghi trong lòng các lãnh tụ và
nhân dân hai nước về tình hữu nghị giữa hai quốc gia dường như đã đóng một vai
trò đáng kể trong quyết định của Bắc Kinh khi tiến hành cuộc tấn công trừng
phạt chống lại Việt Nam.
Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã là người hậu thuẫn mạnh mẽ của Hà Nội
trên cả hai lĩnh vực quân sự lẫn chính trị. Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam
trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại Pháp và đánh đuổi xâm lược Mỹ. Những
nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng chính sách của Trung Quốc dành cho Hà Nội
trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên là xuất phát từ việc cân nhắc
nhiều mặt từ truyền thống lịch sử đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, thái độ bề trên của Bắc Kinh vẫn thống trị tư tưởng của họ trong
quan hệ với Việt Nam.
Mặc dầu các lãnh tụ Trung Quốc lặp đi lặp lại tuyên bố rằng Việt Nam sẽ được
đối xử “bình-đẳng”, nhưng Trần Kiên (Chen Jian) lại thấy rằng chính những phát
biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ rằng “họ đã nắm được vị-thế để
có thể chi-phối mọi quan-hệ với các nước láng-giềng”. Bắc Kinh luôn nói rằng họ
không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và
quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và
trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã khiến Việt Nam, một quốc
gia rất nhạy cảm với quá khứ đầy rẫy những rắc rối với Trung Hoa, trở nên tức
giận. Mặc dầu có lúc Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “những người đồng-chí anh
em”, nhưng sự thật thì mối ác cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc đã được
Bắc Kinh nhận thức một cách rõ ràng
Một tài liệu của Trung Quốc đề cập đến chiến-tranh 1979 đã ghi lại những
hoạt động được coi là thù nghịch của Việt Nam từ sau năm 1975 đã làm tổn thương
mạnh đến quan niệm bề trên của người Trung Quốc. Bộ Chính-Trị Việt-Nam đã thông
qua một chính sách coi đế-quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài, nhưng lại coi Trung-Quốc
là “kẻ thù nguy-hiểm, trực-tiếp nhất”, và là “kẻ thù tiềm-năng mới” mà Việt Nam
phải chuẩn bị để chiến đấu. Trong một phản ứng với Trung Quốc, Chủ-nhiệm
tổng-cục chính-trị của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam đã nhấn mạnh rằng các lực
lượng vũ trang Việt Nam sẽ phải tiến hành một cuộc tổng tiến công quân Trung
Quốc, chủ động tấn công và phản công đánh đuổi kẻ thù bên trong và thậm chí cả
bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, và biến cả miền biên giới thành mặt trận chống
Tàu. Thái độ coi thường của Việt Nam đối với QGPND và sự cả tin vào sức mạnh
quân sự của mình đã là chất xúc tác thúc đẩy quân đội Trung Quốc tiến hành
chiến tranh. Lực lượng chiến đấu đã được tôi luyện của QĐND Việt Nam đã tham gia
tác chiến hầu như liên tục trong nhiều thập kỷ và đã chiến thắng được hai cường
quốc lớn phương Tây. Trong khi đó các chuyên gia Việt Nam cho rằng
khả năng và tinh thần chiến đấu của QGPND là thấp kém và hạn chế. QĐND Việt Nam rất tự hào với vũ khí của Nga và các trang
thiết bị quân sự thu hồi của Mỹ. Theo các hãng truyền thông của Việt Nam các vũ khí
đó hơn hẳn với bất kỳ trang bị nào của QGPND.
Trong hơn hai mươi năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà
Nội trên 20 tỷ đô-la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi Việt
Nam bắt đầu ép buộc người Hoa ở miền bắc hồi cư và gia tăng bạo lực trên biên
giới với Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc đã cho rằng Hà Nội "vong ơn
bội nghĩa" trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Những người
Trung Quốc đã từng giúp đỡ những người cộng sản Việt Nam trong chiến tranh
chống Pháp và Mỹ đã cảm thấy như bị phản bội và đã hăm hở để “dạy cho Việt Nam
bài học”. Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng và là tổng tham mưu
trưởng QGPND. Họ Đặng đã tỏ ra bực mình với thái độ khiếm nhã của Việt Nam đối với
những giúp đỡ của Trung Quốc đã được sử sách ghi chép từ giữa những năm 1960.
Sự thù nghịch giữa hai nước đã tăng mạnh vào cuối những năm 1970, và ngày càng
trở nên nhạy cảm, thậm chí đã có lúc Việt Nam được Trung Quốc gọi là đồ khốn
nạn (wangbadan) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài. Các nhà lý luận quân sự nói
chung đều nhất trí rằng tình trạng “thù-nghịch ở cả hai phía, giận-dữ và
căm-thù đã hình-thành và ngày càng sôi-sục”. Sự láo xược của Việt Nam thể hiện
qua những va chạm dọc biên giới mỗi ngày một tăng và sự ra đi ồ ạt của Hoa-kiều đã
tác động mạnh lên quyết định dùng vũ lực của các nhà lãnh đạo chính trị và quân
sự.
Động-thái của Trung-Quốc trước cuộc tấn-công
Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn nào cho thấy lúc nào và như thế nào
Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Nayan
Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp-Chí Kinh-Tế Viễn-Đông đã chỉ
đưa ra được vài chi tiết cho rằng cấp lãnh-đạo Trung-Quốc đã ra quyết định “dạy
cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô-ơn và ngạo-mạn” trong một cuộc họp Bộ Chính-Trị
hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên ông ta lại cho rằng trong cuộc
họp đó cấp lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết định tấn công Việt Nam, có
vẻ như họ đã được thuyết phục rằng việc này chỉ để nhằm “làm suy-yếu vị-thế của
Xô-viết trong thế-giới thứ ba”. Các nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả
thiết rằng sự tính toán đến các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa
Việt Nam và Trung Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp, vì khá lâu sau đó
cũng không có một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu
được coi như là một xung đột cục bộ giữa hai nước, chứ không phải là một phần
của chiến-lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu của
thời kỳ hậu Mao, Bắc Kinh áp dụng chính sách lãnh đạo thừa kế. Chính sách lãnh
đạo thừa kế này liên quan đến việc gia hạn năm công tác với chức năng tư vấn
không chính thức cho các lãnh tụ cao cấp và các cấp thấp hơn như các viên chức
chính phủ và sĩ quan quân đội để họ đảm nhận các vấn đề trước khi có quyết định
cuối cùng.
Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân-khu Quảng Châu, kể lại rằng
vào tháng Chín năm 1978 đã có một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu
QGPND bàn về vấn đề “làm sao đối-phó với nạn xâm-chiếm lãnh-thổ của quân-đội
Việt-Nam”. Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này
lúc đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia tăng
giữa hai nước từ năm 1976.
Một đề xuất sơ bộ đề nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một
trung-đoàn bộ-đội địa-phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường
biên giới với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi một báo cáo của tình báo cho
biết cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra, thì đa số người tham gia
đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều phải
gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á. Mọi người đều
khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính-quy của Việt Nam trên
một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc mà không đưa ra bất cứ quyết
định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình hài của một kế hoạch chiến tranh có
thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu
tiên có liên quan đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới
phía bắc của Việt Nam nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của
Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của
Trung Quốc trên trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Họ Đặng đã
lập kế hoạch thăm chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11
năm 1978 nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này đối với chính sách
của Trung Quốc lên Việt Nam.
Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc
sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công
Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền thông đều đăng xã luận và bình
luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh
báo về một sự trả đũa có thể xảy ra.
Ngày 23 tháng 11 năm 1978, Bộ Tổng Tham Mưu Trung Quốc đã triệu tập một
cuộc họp khác. Tại đây một kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ
lưỡng. Sau khi cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định
mở rộng quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào các vị trí
quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới của Vân Nam và
Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt ý chí xâm lược
của Việt Nam. Có một số ý kiến cho rằng các chiến dịch như thế không đủ rộng
lớn vì mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời
Hà Nội. Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối, vì họ cho rằng ban lãnh đạo
Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng
Châu và Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này. Ngoài ra cuộc họp cũng khuyến cáo
về việc chuyển giao một lực-lượng dự-bị chiến-lược QGPND bao gồm 4
quân-đoàn và 1 sư-đoàn lấy từ quân-khu Vũ Hán và Thành Đô để
củng-cố cho mặt-trận Quảng Tây và Vân Nam.
Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Quân-ủy Trung-ương Trung-Quốc đã triệu tập
một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến
tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam.
Ngày kế tiếp là việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành
chiến dịch quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng
Giêng năm 1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt
trong vòng bán kính 50 km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần. Binh-pháp
truyền-thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân nhằm
“Tập-trung biển người để bao-vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu-diệt từng
bộ-phận quân địch bằng những trận đánh hủy-diệt theo phương-thức đánh nhanh rút
gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với
sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một
chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê-kông
cũng đã thể hiện sự giận dữ từ nhiều năm do thái độ vô-ơn của Việt Nam gây
nên.
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12
năm 1978, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu
ban đầu đã suy diễn rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh đã xuất hiện từ Hội
Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm
1978. Thực tế, cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải-cách
kinh-tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách
Mạng Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng về
tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của họ Đặng
trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng
Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng tham mưu trưởng quân đội, trở
thành người ra quyết định về vấn đề Việt Nam.
Trong cuộc họp Quân-ủy Trung-ương vào trước đầu năm Dương lịch, họ Đặng đã
chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả
những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ-tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong,
theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này
Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông
Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy
ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu
Côn Minh. Để đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng đã cử
hai phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển
giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai
quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối hợp hoặc hiệp
đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành
chớp-nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của
chiến dịch.
Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc
đã phản đối việc tấn công Việt Nam,
nhưng các tài liệu đó đã không thống nhất được là những lãnh tụ nào đã phản đối
và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư trưởng của kịch
bản, thì khó có ai dám thách thức được quyết định của ông ta, một con người đầy
uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Kiểm soát được Bộ Tổng Tham Mưu, Đặng đã
có được các phương tiện thuận lợi nhất để thúc cỗ máy chiến tranh của Trung
Quốc vận hành trước khi ban lãnh đạo Trung ương đưa ra một quyết định chính
thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy
trong chỗ riêng tư, trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định,
khi đã có sự tán thành của Bộ Chính-Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất
của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và cán bộ
trung kiên của đảng, đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định tấn công
Việt Nam.
Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ Chính-Trị : liệu Liên Xô có phản-ứng
bằng cách tấn-công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên
hai mặt trận; liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình chăng
? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào ? Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở
ngại đến nghị trình mới của Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế ? Mối lo lớn
nhất là phản ứng của Liên Xô. Theo các phân tích tình-báo của Bộ Tổng Tham Mưu,
Matx-cơ-va có thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng
của Trung Quốc và Việt Nam : một cuộc đột-kích quân-sự lớn bao gồm cả tấn-công
trực-diện vào thủ-đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân-tộc thiểu-số có vũ trang
đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân
Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh
nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, khi mà Liên Xô
chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ các hoạt động quân sự lớn nào
chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là
Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh vào Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn,
và mang tính tự vệ sẽ không kích thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay
một làn sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước
đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về
một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được một số phản đối trong
nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh
tụ Trung Quốc cũng không dám lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho
các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư-thế
sẵn-sàng chiến-đấu trong trường-hợp Liên-Xô tấn-công.
Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định hoãn lại thời điểm tấn công
Việt Nam.
Các nhà phân tích phương Tây đã cho rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo
sợ phản ứng quốc tế. Chuyến công-du nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ
và Nhật đã được thu xếp để “thăm-dò phản-ứng dư-luận”. Tuy nhiên những đồng sự
thân cận của Đặng đã cho rằng ngay cả những sự chống đối của quốc tế, nếu có,
cũng không ngăn cản được ông ta, vì Đặng chưa bao giờ nhân nhượng bất cứ điều
gì một khi ông ta đã quyết. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không
biết lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh
hay không. Binh lính Trung Quốc chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh lâu
dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì sao cuộc
chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là một quốc gia
láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh, Đặng đã cử Dương
Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn (Zhang Zhen), chủ
nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị-sát điều-kiện
chiến-đấu của bộ-đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập
tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng
Quân-ủy Trung-ương đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai.
Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh,
để trình bày ngày 22 tháng Giêng tại tư gia của họ Đặng trước sự hiện diện của
các lãnh tụ chủ chốt của Quân-ủy Trung-ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh
tụ Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung
thời gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ Tổng Tham Mưu lại tổ chức một cuộc
họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được
lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tình hình có thể vượt
ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu Hứa Thế Hữu (Xu
Shiyou) phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay khi quân đội
của ông ta chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là hai thành phố chính của Việt
Nam nằm gần biên giới.
Ngày 11 tháng Hai 1979, hai ngày sau khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi
Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính-Trị mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ
ràng lý do căn bản để đánh Việt Nam, và sau đó mệnh-lệnh phát-động cuộc
tấn-công Việt-Nam vào ngày 17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư-lệnh
quân-khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ
chốt được tham dự lâu trong đó một số lý lẽ được đưa đẩy rằng thời điểm tấn
công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết : vào mùa mưa, thường từ
tháng Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự,
hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những
con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và các lãnh tụ
khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể có một khi quân
đội của họ đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời
gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã được gắn cái tên là “cuộc
phản-công tự-vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và
quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi
diễn biến xảy ra, vẫn ban hành những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này
khác hẳn với phong cách lãnh tụ của Mao).
Gerald Segal (tác giả cuốn Trung Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ
đầu tiên của Trung Quốc, khi tấn công Việt Nam, là nhằm ngăn chặn tham vọng và
ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh
của Trung Quốc, lật-tẩy sự nhu-nhược của Liên-Xô. Nhưng tính toán chính trị sai
lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn,
khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội
thành công. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài
học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành-động
trả-thù”. Từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không
vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở
Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến-lược tác chiến sao
cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt, mà còn phải giới hạn chiến sự
về thời gian lẫn không gian.
Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự Trung Quốc địa phương
là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo
lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một
áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu-diệt sinh-lực địch (yousheng liliang).
Một trong những truyền-thống tác chiến của QGPND là chiến-thuật biển người để
đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường
trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn
320.000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản
chiến-thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) đã trả lời những
yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến-thuật gọi là niudao
shaji (ngưu đao sát kê - dùng dao mổ trâu để cắt tiết con
gà). Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm : tập trung tấn công
vào vị trí quan trọng, nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực
lượng và hỏa-lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch
tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung-kích phải hết sức nhanh chóng
thọc sâu và tấn-công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách
này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt
Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân
địch.
Theo tinh thần và chiến thuật đó, các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã
xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu
diệt các sư-đoàn quân chính-quy của Việt-Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến
tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn
công và Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư-đoàn của quân đội
Việt Nam tại đó, đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián
Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng
Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn, trong khi các cánh quân bạn ở Vân Nam
sẽ giao chiến với sư-đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng-cộng 8 quân-đoàn
QGPND sẽ đồng thời tham-gia tác-chiến, một quân-đoàn được giữ
lại làm lực-lượng trừ-bị.
Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham chiến của không quân. Không quân của
QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung-đoàn và 6 phi-đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho
các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân-ủy Trung-ương ra lệnh
không lực chỉ trợ chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh
các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”,
mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được
coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không
phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân-ủy Trung-ương. Dựa trên những
nguyên tắc này, một chiến-lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu
để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu,
cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao trên không phận biên
giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam tham chiến. Nhân viên kiểm
soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy tác chiến đã được cử đến
sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng Châu và Côn Minh, các chỉ huy
của các đơn vị không quân và một vài đơn vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia
vào nhiệm vụ tấn công chính
Từ cuối tháng 12 năm 1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc
bị cuốn hút vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn-tập. Vì trước đó hầu
hết quân đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời
gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc
chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung nhiều vào những
kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ một vài đơn vị có khả
năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về chiến-thuật hoặc diễn-tập cấp
trung-đoàn hoặc sư-đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo các
binh sĩ của họ có khả năng tác chiến. Việc các đơn vị bộ-đội của QGPND chỉ được
huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại
nhằm vào quân đội Việt Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu
trước khi có cuộc chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc
quan tâm.
Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với
truyền-thống quân sự của mình là sử dụng học-thuyết chính-trị để nâng cao tinh
thần và để cải thiện hiệu năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên-truyền đã được thiết lập
để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần
thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở
phương đông”, tên “côn-đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên-Xô”, đang cố theo đuổi
tham vọng bành-trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước
suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc
“chiến-tranh tự-vệ” chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé, một khi quyền lợi dân
tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam với các
bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm gia tăng chủ-nghĩa
yêu nước và lòng căm thù kẻ địch. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải
thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít học về lý do tại
sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu
đã là anh em, đồng chí.
Chiến-dịch quân-sự
Cuộc tấn
công được gọi là tự vệ của QGPND được tiến hành trong 3 giai đoạn. 1) Giai đoạn
đầu từ 17 đến 25 tháng Hai. Trong thời gian đó quân đội Trung Quốc theo dự tính
sẽ đập tan tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị-xã Cao
Bằng và Lào Cai, các thị-trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng,
cửa ngõ ra vào Lạng Sơn. 2) Giai đoạn hai từ 26 tháng Hai đến 5 tháng Ba là
chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, vùng Tây Bắc Sa Pa, và
Phong Thổ. 3) Giai đoạn cuối là nỗ lực bổ sung để dẹp yên các lực lượng địch
còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu vực biên giới với
Trung Quốc trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng Ba. Các chiến
dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới
kéo dài đến 900 km từ đông sang tây. Trong 30 ngày, quân Trung Quốc đã
tiến hành những trận đánh đẫm máu nhất kể từ chiến tranh Triều Tiên.
Cuộc tấn
công của Trung Quốc đã khiến Hà Nội bất ngờ. Tình-báo Việt Nam dường như thất
bại trong việc giúp ban lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị trước cho cuộc xâm lược của
Trung Quốc. Mặc dầu màn giễu võ dương oai (saber-rattling) của Bắc Kinh đã có
từ trước đó vài tháng, nhưng lãnh đạo Việt Nam cũng không thể tin nổi “một nước
Xã-hội Chủ-nghĩa anh em” lại có thể đi xâm lược mình. Khi một số lượng lớn quân
Trung Quốc đã vượt qua biên giới, thủ-tướng Phạm Văn Đồng và tổng
tham mưu trưởng QĐND Việt Nam Văn Tiến Dũng còn đang ở Phnom Pênh.
Mức độ dàn trải của chiến dịch của QGPND cũng đã đánh lừa được Bộ Tư Lệnh tối
cao của quân đội Việt Nam trong việc nhận dạng các mũi nhọn và mục tiêu thực
của cuộc tấn công. Trong lúc yêu cầu cấp bách Matx-cơ-va thực thi nghĩa vụ theo
hiệp-ước hữu-nghị và hợp-tác mới ký giữa hai nước, phản ứng tức thời của Hà Nội
là “để đáp trả ngay lập tức, sử dụng bất cứ sự kháng cự nào nhằm làm giảm ưu
thế của quân Trung Quốc” Các trận đánh quan trọng đã xảy ra xung quanh các
thị-trấn biên giới như Sóc Giàng, Đồng Hệ, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam
Đường, qua việc tranh giành từng ngọn đồi từng căn hầm. Cả hai bên đều thể hiện
ý chí quyết liệt tiến công và phản công mặc cho thương vong nặng nề. Vào ngày
20 tháng Hai, cố-vấn Liên-Xô đã kết luận rằng lực lượng phòng thủ dân-quân tự
vệ của Việt Nam sẽ không thể ngăn chặn được bước tiến của quân Trung Quốc. Đã
có một khuyến cáo thiết lập cầu hàng-không để chuyên chở ngay lập tức 30 000
quân từ Campuchia về để tăng cường cho tuyến phòng thủ Lạng Sơn và Hà Nội. Theo
tài liệu của Xô Viết các cố-vấn của họ đã có những nỗ lực phi thường để tìm và
thuyết phục các lãnh tụ Việt Nam có những biện pháp đối phó cấp bách với tình
hình. Không hiểu mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội đã có những phản ứng
hết sức chậm chạp đối với những diễn biến nhanh chóng trên chiến trường.
Mặc dầu QGPND
đã chọc thủng phòng tuyến ngay từ đầu nhưng địa hình, đặc biệt là thiếu đường
sá, cộng với sự kháng cự quyết liệt của quân chính-quy, các đơn-vị biên-phòng,
bộ-đội địa-phương Việt Nam, nên quân Trung Quốc đã bị rơi vào thế bị động.
Chính tình trạng này đã bộc lộ những điểm yếu và thiếu khả năng của quân Trung
Quốc trong chỉ huy tác chiến, liên lạc và hậu cần bắt nguồn từ truyền-thống
binh-pháp của QGPND. Trong một vài trường hợp, các chỉ huy mặt trận Trung Quốc
đã thúc giục sự yểm trợ của không quân, khi các giao tranh dưới mặt đất gặp sự
kháng cự quyết liệt của quân đội Việt Nam. Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung
Quốc đã không cho phép, thay vào đó là mệnh lệnh cho hải dựa vào sự hỗ trợ hỏa
lực của pháo-binh. QGPND cùng với những tướng lĩnh của nó được sinh trong một
thể chế truyền-thống, chỉ quen với tiền pháo hậu xung và biển người. Khẩu-hiệu
“Tinh-thần của lưỡi lê” (The spirit of the bayonet) lại tiếp tục được đề
cao. Kết quả cho thấy cuộc chiến-tranh Việt-Trung năm 1979 là một cuộc
chiến tranh đẫm máu và tàn bạo.
Thành công của cuộc chiến tranh trừng phạt của QGPND phụ thuộc vào các
chiến-thuật xâm nhập, tấn công sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai
sư-đoàn đột kích thọc sâu đã không hoàn thành được dự định trong vòng 24
giờ. Địa hình núi non, với những cánh rừng rậm rạp lại không có đường và bị
bộ-đội địa-phương và dân-quân du-kích Việt Nam phục-kích đã khiến cho quân
Trung Quốc gặp khó khăn không ngờ. Vì sự chậm trễ này mà Hứa Thế Hữu (Xu
Shiyou) đã quyết định quay lại lập tức tấn công Cao Bằng, mặc dầu một
quân-đoàn của phó tư lệnh Ngô Trung (Wu Zhong) đã áp sát thành
phố từ phía đông và phía nam. Tuy nhiên, do một cuộc điều tra về lý lịch chính
trị trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đang tiến hành, Vũ đã bị cách chức chỉ huy
vào khoảng thời gian giữa chiến dịch. Qua đường dây nói, ngày 20 tháng 2, 1979,
Hứa đã khẳng định lại việc bổ nhiệm trước đó rằng chiến dịch vẫn sẽ tiếp tục
dưới sự chỉ huy của một cấp phó khác của ông thay vì dưới quyền chỉ huy của họ
Ngô, thậm chí sau đó và quân-đoàn ông ta vẫn chiến đấu theo đường của họ để tới
Cao Bằng từ phía bắc. Ba ngày sau khi đến nơi, Hứa và các sĩ quan tham mưu của
ông ta vẫn không nhận ra rằng chỉ có một số rất ít bộ-đội Việt-Nam đã chiến đấu
để bảo vệ để cơ quan đầu não và chính quyền tỉnh rút lui. Sau đó ông đã ra lệnh
tấn công vào thành phố. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, quân Trung Quốc đã chiếm
được thành phố.
Việc chậm trễ tiếp quản Cao Bằng đã làm đảo lộn kế hoạch ban đầu của QGPND.
Kế hoạch này được thiết kế nhằm tìm kiếm những trận giao chiến nhanh chóng và
quyết định. Quân đội Việt Nam phân tán thành những toán nhỏ và các đơn vị cỡ
trung-đội, ẩn trên núi non, rừng rậm và hang động, và tiếp tục phát động các
cuộc phản công. Sự kháng cự không hề nao núng của bộ-đội và dân-quân Việt Nam buộc Trung
Quốc phải thay đổi chiến-thuật hoạt động của họ bằng cách chia quân thành những
đơn vị cỡ tiểu-đoàn để tham gia vào các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt tại Cao
Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và các khu vực Quảng Hòa. Các chiến-thuật mới bao
gồm khóa đường, lùng sục các ngọn đồi, tìm kiếm những hang động, săm soi mặt
đất và cho nổ các hầm hào. Giao chiến dữ dội liên tục khiến hàng trăm chiến-sĩ
Việt-Nam và dân thường bị giết. Cho đến ngày 06 Tháng Ba, theo các tài liệu
tiếng Việt thu được đã cho thấy, thì dường như sư-đoàn QĐND Việt Nam có nhiệm
vụ bảo vệ Cao Bằng vẫn chưa bị tiêu diệt. Không tính đến việc chưa hoàn toàn
kiểm soát được Cao Bằng, những tổn thất nặng nề của QGPND trong giai đoạn đầu
đã cho thấy rằng chiến dịch gặt hái rất ít thành công.
Bắc Kinh ngày càng trở nên lo lắng về tiến triển của cuộc chiến, nên hối
thúc tư lệnh chiến trường ở Quảng Tây khởi sự càng nhanh càng tốt trận đánh
quyết định vào Lạng Sơn, một cửa ngõ làm lá chắn cho Hà Nội từ phía bắc. Dường
như không hài lòng với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, họ Hứa đã tổ chức lại
kế hoạch tác chiến và kêu gọi binh lính tăng thêm sức chiến đấu trong trận đánh
Lạng Sơn. Sáu sư-đoàn quân Trung Quốc tham gia vào trận đánh quyết
định này, bắt đầu vào ngày 27 tháng hai, được mở màn bằng một trận pháo-kích dữ
dội. Sau các trận chiến ác liệt, quân Trung Quốc lần đầu tiên kiểm soát chắc
chắn được các điểm cao xung quanh và sau đó đánh chiếm phần phía bắc của thành
phố vào ngày 02 Tháng Ba, ngày mà theo lịch trình sẽ ngưng các hoạt động quân
sự. Do bộ máy tuyên-truyền của Hà Nội không thừa nhận thất bại của họ ở Lạng
Sơn, Hứa đã quyết định tiếp tục đánh, thúc quân của ông ta vượt sông Kỳ Cùng,
là ranh giới phân chia thành phố Lạng Sơn thành các huyện phía Bắc và phía Nam,
để đánh chiếm toàn bộ thành-phố, và sau đó phát triển xa về phía nam để đe dọa
Hà Nội. Mặc dù quyết định của Hứa đã được Bắc Kinh thông qua, nhưng nó đã bị
hủy bỏ vào ngày 05 tháng 3, ngay sau khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía
nam của Lạng Sơn, với lý do được tuyên bố là họ đã đạt được các mục tiêu chiến
tranh ban đầu.
Đánh giá cuộc chiến-tranh của Trung-Quốc với Việt-Nam
Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND
đã đề xướng kể từ sau chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là
“trong mỗi trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ
thù”, Bắc Kinh đã triển khai chín quân-đoàn chính-quy cùng với các
đơn-vị đặc-biệt và địa-phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000, tiến hành
cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị
không-quân chiến-đấu đã xuất kích 8.500 phi-vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó
các đơn vị vận-tải và trực-thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không-vận;
Hải-quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu-trục tên lửa và ba
hải-đội tàu trang bị tên lửa và ngư-lôi tấn công nhanh) ra đảo Hoàng Sa (Xisha)
nhằm đối phó với sự can thiệp của hải-quân Liên-Xô nếu có. Ngoài ra, Các tỉnh
Quảng Tây và Vân Nam
còn huy động hàng chục ngàn dân-quân và dân-công để hỗ trợ các chiến dịch quân
sự. Trong thời gian chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm ba thị-xã của Việt
Nam và hơn một chục thành-phố nhỏ và thị-trấn dọc biên giới, họ tuyên bố
đã giết và làm bị thương 57.000 bộ-đội Việt Nam, đánh thiệt-hại
nặng bốn sư-đoàn quân chính-quy và mười trung-đoàn trực
thuộc khác, cùng với việc chiếm một lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng
cuộc chiến chống Việt Nam
1979 đã kết thúc với thắng lợi thuộc về Trung Quốc.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng quân Việt Nam “đã trên
tay” quân Trung Quốc trên chiến trường vì khả năng tác chiến yếu kém của QGPND
và thương vong quá nặng như đã được báo cáo chính thức. Hà Nội cho rằng chỉ có
dân-quân và các lực-lượng địa-phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp
dụng một chiến-thuật phòng thủ nào, nhưng đã tấn công liên tục chống lại quân
xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ chịu mất Lạng Sơn và một số thành-phố khác sau khi
đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Đài Hà Nội vào
thời gian đó đã thông báo rằng Việt Nam đã tiêu-diệt và làm bị
thương 42.000 quân Trung Quốc. Chỉ có một vài tài liệu chính thức của Việt
Nam có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hiệu suất chiến đấu và
thất bại của họ trong cuộc xung đột, trong khi đó các thông tin được đăng tải
bởi các cá nhân trên mạng, khi nói về con số tham gia thực tế và thương vong
nặng nề của quân chính-quy Việt Nam thì trái ngược hoàn toàn. Mặc dù đánh giá
lại cuộc chiến Việt Trung năm 1979 mà chỉ dựa trên nguồn thông tin từ Trung
Quốc là phiến diện, nhưng dầu sao điều này cũng có thể soi sáng một số vấn đề.
Một phương pháp đánh giá cái được cái mất của Trung Quốc là tập trung vào
thương vong. Lúc đầu Bắc Kinh thừa nhận là có 20.000 binh-sĩ Trung-Quốc bị
chết hoặc bị thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. Một xu
hướng mang tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính
khoảng 25.000 QGPND thiệt mạng, trong khi làm nhiệm vụ và 37.000 người
khác bị thương. Gần đây có nguồn từ Trung Quốc đã phân loại thiệt-hại của QGPND
là 6.900 người chết và 15.000 người bị thương, tổng-cộng thương vong
là 21.900 thương vong trong một cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham chiến.
Trong bất cứ trường hợp nào thì thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến
tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính cố hữu
trong chiến-thuật và chiến dịch của QGPND là: sẵn sàng thí quân cho chiến
thắng. Lãnh đạo Trung Quốc xem xét thương vong là một tiêu chí tương đối không
quan trọng, khi đánh giá thành công trong quân sự miễn sao họ tin rằng tình
hình chiến-lược tổng thể nằm trong tầm kiểm soát của họ.
Theo quan điểm của Trung Quốc, cuộc chiến 1979 với Việt Nam là một biện
pháp quân sự có tính toán nhằm trả đũa chính sách thù nghịch với Trung Quốc và
sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như tham-vọng toàn-cầu của Liên
Xô. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học thuyết quân
sự hiện đại và chiến-thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng Trung Quốc đã nhanh
chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ
cho Hà Nội không chỉ vì quy mô của chiến dịch, mà còn ở việc rút lui nhanh
chóng và không bị sa-lầy ở Việt Nam.
Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên-liệu đúng phản-ứng của Liên-Xô
qua việc bất lực và thiếu thiện chí đối với Việt Nam. Sự trông-cậy vào Liên-Xô trong
hiệp-ước hữu-nghị về an-ninh rõ ràng là một bài học chua-xót cho Việt Nam. Điều quan
trọng hơn cả cuộc chiến Việt-Trung 1979 là khởi đầu cho một chính sách của Bắc
Kinh làm “chảy máu” Việt Nam trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội
ra Đông Nam Á. Việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của
Trung Quốc là điều lãnh đạo của Trung Quốc mong mỏi, nhưng họ không tiên liệu
được rằng cuộc triệt thoái đã không diễn ra ngay lập tức mặc cho Trung Quốc tấn
công Việt Nam ở phía bắc. Sau này Trung Quốc vẫn thi hành một lựa chọn
chiến-lược là duy trì áp lực quân sự lên Việt Nam kể cả sự đe dọa liên tục bằng
lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường pháo-binh bắn phá
và những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập kỷ 1980. Một nghiên cứu
đầu thập niên 1990 đã kết luận : “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất
định, khi nó được xem như một chiến-thuật trong chiến-lược chiến tranh tiêu-hao
kéo dài của Trung Quốc”.
Tương tự như thế, cuộc chiến-tranh Việt-Trung năm 1979 đã không để lại hậu
quả đáng kể cho Trung Quốc trên trường quốc tế mặc dù việc sử dụng vũ lực quân
sự chống lại Việt Nam cũng đã dấy lên những nghi ngờ của Indonesia và Malaysia,
những nước luôn cảnh giác với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Sự chiếm
đóng của Việt Nam ở
Campuchia đã đe dọa Thái Lan, khiến làn sóng chống đối Việt Nam của các
nước ASEAN tiếp tục gia tăng. Về mối quan hệ Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt
Việt Nam của Trung Quốc thể hiện thành công phần nào khi khi Washington vừa
công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm
lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc
trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử
dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc
thành “một bức tường ngăn-chặn có giá-trị” chủ-nghĩa bành-trướng Xô-Việt;
Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với
Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô.
Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không bao giờ hiểu hết các động thái
chiến-lược và mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, nhưng lại khăng khăng quan
điểm cho rằng cuộc xâm lược năm 1979 đã trở thành màn mở đầu của một kế hoạch
xâm lược dài hạn của Bắc Kinh vào chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Sau
khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội kêu gọi tổng động viên
toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng thủ trong và
xung quanh Hà Nội. Mặc dù đến cuối tháng 5, quân đội Trung Quốc đã trở lại
trạng thái bình thường, Việt Nam vẫn tiếp tục đề phòng, duy trì số lượng lớn
của quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối diện với Trung Quốc vào thời điểm
mà nền kinh-tế của Việt Nam đang “ở trong một tình-trạng tồi-tệ hơn lúc nào hết
kể từ sau năm 1975”. Kết quả là, Hà Nội phải dồn hết nỗ lực cho hai cuộc
chiến-tranh cùng một lúc, một ở Campuchia và một ở biên giới phía Bắc, dẫn đến
một chi-phí rất lớn của xã hội và kinh-tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của Hà
Nội cần có cho việc hiện đại hóa nền kinh-tế, và, quan trọng hơn, làm giảm tham
vọng về địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam không hề
nhận ra tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục phụ-thuộc vào Liên-bang
Xô-viết cho đến khi nó sụp-đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà người Việt
Nam cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, thì đó là Việt Nam, như một
vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng
xóm to lớn”.
Nhắc đến vấn đề tại sao Trung Quốc phải nóng lòng khi sử dụng một
lực lượng đã được chuẩn bị sẵn để chống lại Việt Nam vào năm 1979, các phân
tích ở đây cũng phù hợp với khẳng định của các nghiên cứu khác là mối
lo ngại về tính toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đã đóng vai trò đặc
biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để thúc đẩy QGPND không chỉ trong trách
nhiệm bảo vệ, mà còn phải tấn công nếu cần. Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng
biên giới có vẻ như là yếu tố kích thích để thúc đẩy Bắc Kinh xem xét đến việc
sử dụng vũ lực chống lại láng giềng phía nam của họ. Hơn thế nữa, cùng với sự
cuồng phát của chủ-nghĩa dân-tộc đầy cảm tính đã hướng tới việc củng cố thêm
tinh-thần Đại-Hán, theo đó cần phải có một sự trừng phạt nào đó với một đồng
minh cũ đã dám phản-bội và quay lưng lại với Trung Quốc. Tâm lý này cũng đóng
một vai trò quan trọng trong việc mang lại một sự đồng thuận rộng rãi giữa các
nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Trung Quốc để hỗ trợ Đặng, kẻ đóng vai
trò trung tâm trong việc đưa ra các quyết định triển khai quân sự chống lại
Việt Nam. Về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, điều luôn luôn làm nảy sinh những
phản ứng thái quá của người Trung Quốc, quan điểm quân sự dường như đã trở
thành yếu tố kiên quyết trong các quyết định để khởi đầu cho mọi thù địch hiện
nay. Hội nghị cán bộ tháng Chín năm 1978, từ việc cung cấp các khuyến cáo cho
ban lãnh đạo trung ương để đối phó với tình hình quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc
và Việt Nam,
đã là điểm khởi đầu cho một hoạt động quân sự lớn. Các phân tích quân sự về
phản ứng có của Liên Xô cũng giúp làm sáng tỏ những lo ngại về rủi ro nếu có.
Tuy nhiên, quân đội đã phải hy sinh chính họ cho tham vọng của ban lãnh đạo
trung ương. Một khi quyết định đã được đưa ra để thực hiện cuộc xâm lăng trừng
phạt Việt Nam,
các tướng lĩnh đã hăm hở thực hiện nhiệm vụ của mình với sự thích thú triển
khai tối đa lực lượng.
Những bài học được rút tỉa
Bất kể thành công về chiến lược của Trung Quốc như thế nào, một số vấn đề
quan trọng vẫn cần được bàn lại. Ví dụ QGPND đã nhận thức thế nào về hiệu năng
chiến đấu của họ ở Việt Nam, bài học nào đã rút ra từ chiến dịch, kinh nghiệm
này đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của QGPND về tương lai của họ đến mức nào. Là một
phần trong truyền-thống của QGPND, tất cả các binh sĩ tham gia vào cuộc xung
đột đã được lệnh phải viết tóm lược kinh nghiệm chiến đấu của họ. Nhìn lại cuộc
chiến, bộ chỉ huy QGPND cũng thấy những mâu thuẫn nội tại. Trong khi tuyên bố
rằng Trung Quốc đã giành chiến thắng, họ cũng phải thừa nhận cái giá quá cao mà
QGPND đã phải trả. Trong quan điểm của bộ chỉ huy QGPND, ở một chừng mực nào đó
cần có đánh giá phần nào khách quan về những yếu kém của QGPND. Tuy nhiên, họ
lại e ngại khuynh hướng đánh giá quá cao khả năng và hiệu năng chiến đấu của
quân đội Việt Nam.
Cùng chiều hướng đó, nên niềm tự hào dân tộc và định kiến văn hóa của họ chắc
chắn sẽ ngăn cản họ đưa ra những kết luận thẳng thắn về kinh nghiệm của QGPND
trong chiến tranh. Những kinh nghiệm đó có thể được tổng hợp thành sáu
chủ đề sau :
1) Một trong những châm ngôn truyền-thống của QGPND là “biết địch biết ta
trăm trận trăm thắng”. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND
quan-tâm rất ít đến binh-pháp và chiến-thuật của QĐND Việt-Nam trước
khi họ tấn công Việt Nam.
Kết quả là, quân đội Trung Quốc đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối
thủ của mình. Có thể từ chỗ lo sợ, vì đã tung hô quá nhiều danh tiếng của quân
đội Việt Nam, nên tài liệu quân đội QGPND đã kết luận rằng lực lượng chính-quy
của kẻ địch thiếu kiên trì trong tiến công và phòng ngự và có rất ít các chiến
dịch hiệp đồng, nhưng lại thừa nhận rằng chiến-thuật kiểu du-kích, công-binh và
dân-quân tự-vệ của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân
quân Trung Quốc giảm thế cân bằng, khi họ lo tìm kiếm những trận đánh quyết
định với quân chính-quy của QĐND Việt Nam trong một cuộc chiến hạn chế. Một sĩ quan
Mỹ khi tổng kết kinh nghiệm của người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã ghi
nhận rằng không thể “để xâm nhập, vòng sườn, hoặc bao vây” vị trí cố thủ của
quân đội Việt Nam “mà không bị thương vong rất nặng”. Chiến-thuật của QGPND,
thúc thật nhiều bộ binh tấn công xáp-lá-cà vào vị trí đối phương bất chấp tử
vong cao, đã giải thích tại sao Trung Quốc dám khẳng định rằng quân đội Việt
Nam không có khả năng trong phòng thủ bảo vệ vị trí của họ.
2) Những khó khăn bất ngờ trong tác chiến đã khiến người Trung Quốc rút
ra bài học thứ hai từ cuộc xung đột liên quan đến tình-báo và
lập kế-hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền-thống đã là
một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của
Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình của miền Bắc Việt Nam của QGPND
thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng
trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội
Trung Quốc là đánh giá sai số lượng lực lượng dân-quân rất lớn trong dự đoán về
sức mạnh quân sự Việt Nam.
Kinh nghiệm của QGPND cho thấy, dân-quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề
nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ hơn vào các quân xâm lược hơn
cả bộ-đội chính-quy QĐND Việt Nam.
Lúc đầu các nhà kế hoạch quân sự của QGPND tin rằng họ đã tập hợp được một lực
lượng vũ trang vượt trội với tỷ lệ 8:1 để tấn công quân Việt Nam. Nhưng chỉ
tính riêng tại khu vực Cao Bằng đã có 40.000 cho đến 50.000 dân-quân khiến tỷ
lệ lực lượng Trung Quốc chỉ còn hơn Việt Nam là 2:1. Trong suốt chiến dịch,
QGPND không bao giờ cho thấy khả năng đè bẹp đối phương bằng mức vượt trội về
quân số. Cuộc chiến tranh này còn cho thấy sự khó khăn như thế nào, khi thực
hiện các chiến dịch quân sự ở nước ngoài nếu dân chúng địa phương được huy động
vào việc kháng cự.
3) Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu
của QGPND vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với
nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng không
quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội
Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến. Trong khi đó ở
Bắc Kinh, sự ràng buộc chính trị và tư duy quân sự lạc hậu đã bác bỏ phương án
yểm trợ tác chiến của không-quân. Các lực lượng mặt đất cũng cho thấy sự thiếu
đồng bộ giữa bộ binh, xe tăng và các đơn vị pháo binh để có thể triển khai việc
phối hợp tác chiến sao cho hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là bộ-binh đã không bao
giờ được huấn luyện kiến thức đầy đủ về phương án tấn công phối hợp với các
đơn-vị xe tăng. Lính bộ binh, những người bị buộc bằng dây thừng vào tháp pháo
xe tăng để khỏi ngã khi hành quân đã bị mắc kẹt khi bị quân địch bắn hạ. Mặt
khác, các đơn vị xe tăng thường phải chiến đấu không có bộ-binh tháp tùng và
thiếu liên lạc trực tiếp giữa hai bên, nên đã phải chịu nhiều thiệt hại và tổn
thất khôn lường. Kinh nghiệm của cuộc chiến tranh 1979 đã dạy cho QGPND bài học
giá trị về kỹ năng phối hợp tác chiến đa binh chủng.
4) Bài học thứ tư là về hiệu năng chỉ huy
và điều khiển mà phần lớn bắt nguồn từ truyền-thống và văn hóa của QGPND. Mối
quan hệ cá nhân giữa sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ, vốn đã được vun trồng trong
quá khứ, vẫn tạo nhiều rắc rối trong hàng ngũ QGPND. Khi mà mối quan hệ giữa
các cá nhân trở nên quan trọng hơn cả điều lệnh thì chẳng ngạc nhiên khi biết
rằng các chỉ huy của Quân Khu Quảng Châu sau này thừa nhận rằng họ cảm thấy khó
chịu, khi chỉ huy quân sĩ được chuyển từ Quân-khu Vũ Hán và Thành Đô đến trong
thời gian phục vụ chiến dịch. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng nghe nhiều cấp
dưới phàn nàn về phong cách chỉ huy của họ Hứa (Hứa Thế Hữu - ND), vì
trước đó ông ta chưa từng chỉ huy họ. QGPND còn gặp khó khăn do nhiều sĩ quan
chưa có kinh nghiệm trận mạc. Mặc dù nhiều sĩ quan có cấp bậc cao hơn và có
thâm niên chiến đấu đã được cử đến để chỉ huy các đơn vị cấp thấp hơn để giúp
đỡ chấp hành mệnh lệnh, nhưng khả năng tác chiến của QGPND vẫn thất bại, vì các
sĩ quan cấp thấp vẫn còn thiếu khả năng quyết đoán độc lập và phối hợp tác
chiến trong những thời điểm quyết định. Tuy nhiên, cuộc chiến 1979 với Việt Nam
đã khai sinh ra một thế hệ mới các cán bộ quân đội Trung Quốc có kinh nghiệm
chiến trường, và nhiều người trong số họ hiện nay đang phục vụ tại các vị trí
cao cấp của QGPND
5) QGPND thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu-cần hiện đại, để hỗ trợ
cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi. Các số
liệu thống kê cho thấy trung bình mỗi ngày tiêu thụ đạn dược và nhiên liệu là
700 tấn cho mỗi loại. Hoạt động hậu-cần là một lĩnh-vực lớn để QGPND
rút ra bài học. Vì không có đầy đủ dự trữ và phương tiện giao thông vận
tải, khiến cả Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải đặt dưới cùng một hệ
thống cung cấp, mà hệ thống đó chẳng bao giờ hoạt động thông suốt và hiệu quả.
Một số lượng đáng kể các nguồn cung cấp bị mất hoặc là do quản lý kém hay bị
Việt Nam
phá hoại. Khi lực lượng của họ tiến sâu hơn vào lãnh thổ Việt Nam, để bảo vệ
mình, các sĩ quan hậu-cần đã phải rất khó khăn để giữ liên lạc không bị trệch
hướng với đại quân. QGPND đã kết luận rằng cần thiết phải tạo ra bộ chỉ huy về
giao-thông vận-tải để đối phó với các vấn đề mà bộ đội của họ đã phải đối mặt
trong chiến dịch. Kinh nghiệm này có vẻ vẫn còn giá trị cho Trung Quốc đến tận
hôm nay khi cựu phó chỉ huy của Đại-học Quốc-phòng QGPND Trung Quốc phát biểu
tại một hội nghị chuyên đề về “kiểm-soát truyền-thông” vào năm 2002.
6) Bài học cuối cùng là làm thế nào để có thể
diễn giải một học-thuyết cũ về chiến-tranh nhân-dân vào các cuộc xung đột diễn
ra bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một trong những nguyên tắc của học-thuyết
chiến-tranh nhân-dân của Trung Quốc là việc huy động dân thường để hỗ trợ cho
chiến tranh. Những kinh nghiệm chiến tranh 1979 đã chỉ ra rằng hầu như không
thể đưa một lực lượng khổng lồ QGPND hoạt động ở nước ngoài mà không có sự ủng
hộ chiến tranh của nhân dân trong nước. Bộ máy tuyên-truyền của Bắc Kinh đã
đánh thức lòng yêu nước của công chúng và lòng tự hào về người lính Trung Quốc.
Biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước đã giúp QGPND nhận được hỗ trợ trực tiếp
cho các hoạt động từ người dân sống tại hai tỉnh biên giới. Tại riêng tỉnh
Quảng Tây, hơn 215.000 cư-dân địa phương đã được huy động để làm người vận
chuyển, nhân viên bảo vệ và khuân vác để hỗ trợ tiền tuyến; và hơn 26.000
dân-quân từ khu vực biên giới đã thực sự tham gia vào các hoạt động chiến đấu
trực tiếp. QGPND vào thời điểm đó chỉ có một hệ thống cung cấp vá víu đòi hỏi
các đơn vị phải tự túc hệ thống cung cấp trên chiến trường theo kiểu “hậu-cần
bán lẻ”. Chính quyền địa phương đã làm mọi việc dễ dàng cho binh lính bằng cách
đơn giản hoá thủ tục, giúp họ nhận được đầy đủ vật chất và thực phẩm tươi trong
thời gian ngắn nhất có thể. Kinh nghiệm này đã thuyết phục bộ chỉ huy QGPND
rằng huy động chính quyền địa phương và dân chúng để hỗ trợ cho một cuộc chiến
tranh vẫn là chìa khóa cho chiến thắng.
Những bài học mà Trung Quốc đã rút tỉa được từ cuộc chiến 1979 với Việt Nam
có thể không được liền lạc, thiếu toàn diện và khó mà khách quan vì QGPND không
đánh giá sự thành công về chiến dịch quân sự của họ trên cơ sở kết quả tác
chiến mà là trên cơ sở các tác động của cuộc xung đột đến tình hình chung. Chịu
ảnh hưởng sâu sắc lời dạy của Mao là chiến tranh về cơ bản là một vụ kinh doanh
chính trị, miễn là Trung Quốc cho là họ đã thành công trong việc đạt được mục
tiêu quân sự và chiến-lược đề ra, còn các vấn đề gây ra từ thất bại của
chiến-thuật chỉ là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại sao các bài học đó đã có
những khác biệt đáng kể so với các nghiên cứu của phương Tây nơi mà nhiều thông
tin tương đối khả tín, mặc dầu đôi khi vẫn thấy xuất hiện đây đó một chút thái
quá do lạm dụng các nguồn tin hạn chế để kết luận về một vấn đề cực kỳ phức
tạp. Các nghiên cứu của QGPND nhìn nhận rằng cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976)
đã tạo bất lợi và hủy hoại những truyền-thống tốt đẹp của QGPND, và kết quả là,
các lực lượng của Trung Quốc thực hành tác chiến tồi tệ trong chiến tranh.
Những bài học rút ra của QGPND đã tập trung nhiều vào cấp độ chiến-thuật của
chiến tranh với sự nhấn mạnh vào chỉ huy và kiểm soát, phối hợp tác chiến giữa
các đơn vị, cơ cấu lực lượng và vũ khí hơn là chiến lược và triết lý mang tính
học thuyết. Trong quá trình đánh giá kinh nghiệm chiến tranh 1979, QGPND có vẻ
như không tìm cách che đậy hoặc bỏ qua thiếu sót về các hạn chế của họ vào thời
điểm đó; tuy nhiên họ đã mắc sai lầm khi không đề cập đến những khiếm khuyết
trong tư duy quân sự và binh-pháp truyền-thống.
Các nghiên cứu của phương Tây đã so sánh những bài học mà QGPND đã rút ra
từ cuộc chiến Việt-Trung 1979 với việc đánh giá lại vào năm 1985 của ban lãnh
đạo Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa đang rình
rập Trung Quốc cộng với những nỗ lực tiếp theo để cải tiến và chuyên nghiệp hóa
QGPND trong suốt những năm 1980. Bài học Việt Nam đối với QGPND và những cuộc
giao tranh vẫn liên tục xảy ra trên biên giới Trung-Việt trong những năm 1980
đã giúp cho cho ban lãnh đạo Trung Quốc phải thực hiện những cuộc chuyển đổi
chiến-lược từ việc nhấn mạnh đến sự chuẩn bị cho chiến tranh tổng hợp đến việc
chuẩn bị cho chiến tranh cục bộ và chiến tranh hạn chế theo xu hướng của thời
gian. Trong quá trình chuyển đổi QGPND thành một lực lượng hiện đại vào những
năm 1980, có rất ít những nỗ lực được thực hiện nhằm sửa chữa thiếu sót về tư
duy quân sự, đó là thái độ luôn luôn coi nhẹ vai trò của của không-quân. Kết
quả là, nếu có điều gì còn chưa trung thực trong việc rút kinh nghiệm của QGPND
thì đó chính là bài học về ưu thế trên không hoặc yểm trợ không-quân. Tài liệu
của QGPND vẫn cho rằng việc hạn chế khả năng của lực lượng không-quân Trung
Quốc là lý do chính khiến không-quân Việt Nam không tham gia vào xung đột.
Nguyên-soái Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) thậm chí còn nhận xét một
cách lố bịch rằng hoạt động giả vờ của không-quân Trung Quốc trong cuộc chiến
chống lại Việt Nam là một “đòn nghi-binh khéo-léo trong tác-chiến không-quân”.
Nhận xét đó rõ ràng cho thấy vẫn còn sai lầm trong giới lãnh đạo Trung Quốc,
khi họ tiếp tục đánh giá chưa cao vai trò quan trọng của không-quân trong chiến
tranh hiện đại.
Tuy nhiên,
tổng kết các kinh nghiệm của QGPND trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã cung
cấp một cái nhìn hữu ích về việc giới lãnh đạo Trung Quốc trong việc tiếp cận
vấn đề chiến tranh và chiến-lược như thế nào. Cái nhìn này cũng phù hợp với
những phát hiện nằm trong các công trình nghiên cứu gần đây. 1) Trước
tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thảo luận và tính toán thời điểm và
như thế nào, khi sử dụng sức mạnh quân sự, nhưng đã không ngần ngại quyết định
khởi chiến, khi họ cho rằng lợi-ích quốc-gia của Trung Quốc đang bị hăm doạ
hoặc lâm nguy. 2) Thứ hai, QGPND thể hiện quyết tâm giành và giữ
thế chủ động tác chiến bằng việc triển khai quân số vượt trội (chiến-thuật biển
người). 3) Thứ ba, ý thức về chiến thắng quân sự của Trung Quốc đặt
nhiều hơn vào việc đánh giá kết quả địa chính trị, khi đem so với phê phán về
hiệu năng tác chiến trên chiến trường. Kể từ sau cuộc chiến 1979 với Việt Nam,
QGPND đã tiến hành sửa đổi sâu rộng trong học thuyết quốc phòng, chỉ huy và
điều khiển, chiến-thuật tác chiến, và cơ cấu lực lượng, trong khi các hoạt động
quân sự thế giới cũng đã chuyển đổi đáng kể từ khi cuộc chiến năm 1979. Ngày
nay, không ai nghĩ rằng các lực lượng vũ trang của Trung Quốc sẽ lặp lại những
gì họ đã làm trong chiến-tranh biên-giới với Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, những
nét đặc thù của người Trung Quốc đã bộc lộ trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam
có thể vẫn còn có giá trị trong các giáo trình của học viện quân sự của Trung
Quốc cũng như đối với những người hằng quan tâm đến phương pháp sử dụng sức
mạnh quân sự của người Trung Quốc, không chỉ trong quá khứ mà cả với hiện tại
và trong tương lai.
Bản dịch của
một cộng tác viên, riêng cho tạp chí Thời Đại Mới.