Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

Bài viết đáng chú ý

Bản góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 của “Con hùm xám đường số 4” ông Đặng Văn Việt

Nhận được bản góp ý do tác giả trực tiếp gửi tới với mong muốn công bố rộng rãi lên trang BVN cho nhiều người cùng biết, chúng tôi hết sức cảm kích trước sự chân thành và ngay thẳng của người dám nói hết những điều từ lâu mình vẫn ấp ủ.
Xin trân trọng đăng lên để bạn đọc gần xa hiểu thấu tâm sự nung nấu của một Lão thành Cách mạng, một vị chỉ huy quân đội lừng danh thời kháng chiến chống Pháp, ngay từ 27 tuổi đã lập những chiến công làm chấn động nước Pháp, khiến chính các đối thủ người Pháp phải kinh phục phong cho ông là “Con hùm xám đường số 4” (le Tigre gris de la RC4) và “Tiểu tướng Napoléon” (mon petit Napoléon).

Bauxite Việt Nam
clip_image002
Ông Đặng Văn Việt

                                                       Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

                                                           Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                                       ************

                                                                         Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2013

                     Kính gửi:

                                             BẢN GÓP Ý SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

                   của Đặng Văn Việt – Người Lính Già U100 – Lão Thành Cách Mạng

Theo yêu cầu của Bí thư chi bộ 3, phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tôi là: Đặng Văn Việt, sinh năm 1920 (U100), 65 năm tuổi Đảng (1948) – Lão thành Cách mạng (1943), qua nhiều cấp ủy - qua chỉ huy nhiều mặt trận (MT/DS 9 – 7 – 4 – 5 – 6 ), đánh hàng trăm trận (thắng 116/120), năm lần bị thương (thương binh /4) – viết 15 đầu sách (3 giải nhất Văn học Nghệ thuật).
Vì tuổi cao, sức yếu, tôi chỉ xin góp một số ý kiến xung quanh một số vấn đề bức xúc mà nhiều người quan tâm.
1) Vấn đề có nên tiếp tục vận dụng quan điểm tư tưởng Mác vào Việt Nam – hay nên chấm dứt.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào cuối thế kỷ 19 đã có tác dụng kích thích phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống sự bóc lột tàn bạo của giai cấp tư sản. Đã tạo những tiền đề cho Cách mạng tháng 10 Nga thành công – tiếp theo sự ra đời của nhà nước Xô viết Nga của Hồng quân Liên Xô, trong Đại chiến thế giới lần thứ Hai, Hồng quân Xô Viết cùng đồng minh đã đánh bại phe phát xít Đức – Ý – Nhật. Tiếp theo sự ra đời của phe XHCN – rồi là Cách mạng Trung Quốc (1949) thành công.
Những sự kiện trên tạo điều kiện và thời cơ cho Cách mạng Tháng 8 (1945) Việt Nam thành công và tiếp theo Việt Nam thắng Pháp – Mỹ trong cuộc chiến tranh 30 năm.
Nói đến Chủ nghĩa Mác là nói đến những quan điểm, tư tưởng của nó. Đó là quan điểm đấu tranh giai cấp, quan điểm thành phần chủ nghĩa (bè cánh, chia sẻ, đặc quyền đặc lợi. Dùng người theo lý lịch, theo lòng tin – hơn là đức tài) – là chuyên chính vô sản (liên minh công nông binh…), là chống tư hữu, chống người bóc lột người (tất cả là quốc doanh, tất cả là hợp tác hóa), là thiểu số phục tùng đa số, là giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo Cách mạng, là xây dựng tiến lên XHCN – lên Cộng sản Chủ nghĩa (CSCN).
Qua gần một thế kỷ, chủ nghĩa Mác đã bộc lộ nhiều nhược điểm, nhiều yếu kém, thiếu thực tế – không thúc đẩy xã hội tiến lên, còn kéo lùi sự tiến hóa của nhân loại.
Do vây mà: Liên Xô, thành trì của Cách mạng bị sụp đổ, và kéo theo cả phe XHCN. Nhiều nước phải tuyên bố từ bỏ Chủ nghĩa Mác (Pháp, Anh, Ý, Mỹ, Nhật…). Nước Đức, quê hương của Mác cũng cáo chung không còn sùng bái Mác nữa – các tượng đài của Mác ở khắp nơi bị hạ bệ. Thực tế cho thấy trên 200 nước trên thế giới không có nước nào là do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ở nước ta, cứ mỗi lần dương cao ngọn cờ đấu tranh giai cấp đều đã bị thất bại.
- Đấu tranh lần 1: Xô viết Nghệ Tĩnh (1930)
- Đấu tranh lần 2: Cải cách ruộng đất (1953 – 1955)
- Đấu tranh lần 3: Cải tạo công thương (1975)
- Đấu tranh lần 4: Đối xử không đúng – Hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi –hàng triệu người chết vì tai nạn biển. Sau ngày giải phòng Miền Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam, vận dụng theo quan điểm Mác, xây dựng Việt Nam tiến lên CNXH (1975 – 1995). Sau 20 năm, cả nước về kinh tế, xã hội, văn hóa sa sút nghiêm trọng. Đảng và Nhà nước phải áp dụng chính sách đổi mới mới tạm phục hồi lại đất nước, cả bộ mặt xã hội được thay đổi.
Nhiều quan điểm, tư tưởng của Mác bị hủy bỏ và được thay bằng quan điểm tư tưởng mới.
- Chống tư hữu, nay cho tư hữu
- Chống làm giàu, nay cho làm giàu
- Chống bóc lột, nay cho bóc lột, mời cả Tư bản nước ngoài vào để cùng bóc lột
- Mở rộng giao lưu với tất cả các nước tư bản
- Cấm làm ngoại thương, nay cho làm ngoại thương.
- Cho mở phòng khám bệnh, bán thuốc, mở trường tư thục
- Hạn chế bớt quốc doanh – xóa các Hợp tác xã
Nhờ đổi mới, đất nước có cơ hội phát triển nhanh – có triển vọng đuổi kịp một số nước. Nhưng một điều đáng tiếc đã gây ra một sức cản cho bước đi của cả dân tộc, đó là:
Về kinh tế, những quan điểm tư tưởng lỗi thời của Mác bị loại bỏ, nhưng về chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn tuyên bố Đảng vẫn kiên trì đường lối Mác – Lê Nin. Tức là vẫn theo những quan điểm về đấu tranh giai cấp – theo chủ nghĩa lý lịch. Hình thức thì dân chủ, thực tế, mọi tự do của con người đều bị hạn chế. Tự do ngôn luận, báo chí, bầu cử, biểu tình – Bộ máy đàn áp được tăng cường (quân đội – công an). Tổ chức Nhà nước có nhiều Bộ, nhiều ngành nhưng trên hết lại là Bộ Chính trị, là Tổ chức có quyền quyết định mọi vấn đề, trên cả Chính phủ, trên cả Quốc hội, cả Tòa án Tối cao. Bộ Chính trị làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Một nhóm người trong Bộ Chính trị chỉ cần sắp xếp để khi nào bỏ phiếu mình cũng nắm được đa số, là nắm được mọi quyền hành.
Vì vậy Bác Hồ đã bị vô hiệu hóa. Bác không muốn làm Cải cách ruộng đất theo lối Trung Quốc, Bác không muốn xử bắn bà Nguyễn Thị Năm (một phụ nữ có công với Cách mạng) nhưng đa số trong Bộ Chính trị không đồng ý, Bác Hồ phải xếp ý kiến của mình sang một bên.
Nhiều vụ tham nhũng lớn theo luật pháp lẽ ra phải xử nặng, Bộ Chính trị bảo: đây là người của Đảng không được đụng đến. Một số đã lợi dụng sự tin cậy, nắm toàn bộ tài sản của đất nước, đã biến hóa tài sản quốc gia thành của riêng. Tệ tham nhũng phát triển tràn lan, không tài nào ngăn chặn được. Ngân quỹ quốc gia thất thoát: 1 - 2 triệu tỷ đồng để vào túi của kẻ có chức quyền.
Thượng bất chính, hạ tắc loạn; kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức con người sa sút nghiêm trọng tạo nên nguy cơ xảy ra sự sụp đổ chế độ.
Ai là người yêu nước, yêu dân, ai là người quan tâm đến vận mệnh của nước nhà, ai là người quan tâm đến sự tồn vong của chế độ, đều phải lên tiếng đề nghị với nhà nước phải từ bỏ Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, một đường lối chính trị đặc quyền đặc lợi cho một “thiểu số” đã đưa đất nước Việt Nam đi từ thất bại này đến thất bại khác.
Hãy trở lại với Bác Hồ, với chủ trương thực hiện đường lối hòa hợp dân tộc, đoàn kết các giai cấp, cả trong và ngoài nước, theo đường lối ấy đã đưa đất nước đi đến thành công, thành công, đại thành công.
Tôi đã viết cuốn 1000 năm Lịch sử quân sự Việt Nam, Dân tộc Việt Nam đã hơn 20 lần bị xâm lược, đã hơn 20 lần đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, có được sự thành công đó là nhờ sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc, không có chỗ nào là do nhờ có đấu tranh giai cấp.
2) Vấn đề một Đảng hay nhiều Đảng
Trên thế giới nhiều nước áp dụng chế độ đa đảng. Một số ít áp dụng chế độ một đảng. Việt Nam ta thời Bác Hồ đã thực hiện chế độ đa đảng. Mỗi chế độ chính trị đều có cái hay cái dở của nó.
Ở Việt Nam ta hiện nay lại đang thi hành chế độc độc đảng: Ta thực hiện được an ninh quốc phòng tốt nhưng về chính trị, bề ngoài ta không nhìn thấy những lộn xộn lớn – nhưng bên trong lòng dân ngao ngán với việc Đảng lãnh đạo với một chế độ độc quyền, lạc hậu, qua hơn 30 năm nay thất bại nhiều lần mà không chịu sửa chữa. Từ độc đảng những sai trái bị bưng bít, không có tiếng nói thứ hai đấu tranh để sửa chữa – báo chí bị kiểm duyệt một chiều chặt chẽ, không đưa ra công luận được những sự thực xấu xa. Bọn tham nhũng dựa vào bè cánh, đặc quyền đặc lợi, phát triển không có cách gì ngăn chặn. Luật kê khai tài sản được công bố, nhưng không ai thực hiện. Uy tín của Đảng bị sa sút nặng trong quần chúng nhân dân – một nguy cơ của sự sụp đổ của chế độ đảng đến gần.
Vấn đề chính cốt lõi là phải có một đường lối chính trị đúng đắn, hợp với lòng dân, hợp với quy luật phát triển của xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết, an ninh quốc phòng ổn định, chính trị ổn định.
Nếu một đảng mà làm tốt được việc trên [làm thật chứ không làm gian trá như lâu nay vẫn làm – BVN] thì tất nhiên nhân dân vẫn ủng hộ chế độ một đảng.
Nếu trái lại, những điều trên không thực hiện được, chế độ không dựa vào dân, vẫn đi vào con đường độc tài, chuyên chính, thì nhân dân yêu cầu phải có nhiều đảng (2 - 3 - …) dễ bề kiềm chế lẫn nhau, thúc đẩy lịch sử dân tộc tiến lên không ngừng.
3) Có nên bỏ điều 4 của Hiến pháp hay không?
Hiến pháp Việt Nam đã qua 4 lần thay đổi, Bản Hiến pháp đầu tiên không có điều 4. Dần dần để khẳng định thể chế chính trị chuyên chính vô sản, Đảng muốn đóng vai trò độc tôn lãnh đạo. Nhà nước Việt Nam có Chính phủ, có Quốc hội, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam muốn là tổ chức cao hơn cả, đứng trên cả Chính phủ, trên cả Quốc hội. Bộ Chính trị của Đảng (gồm 13 -14 người) là tổ chức cao hơn tất cả các Bộ - những vụ tham nhũng lớn hàng trăm ngàn tỷ đồng, những thất thoát lớn của Nhà nước, đúng ra phải đưa ra vành móng ngựa, đưa ra xét xử - nhưng Bộ chính trị bảo là người của “tao”, phải buông tha, thế là tha bổng – thời Bác Hồ có vụ Trần Dụ Châu, tham nhũng của bộ đội có mấy cái áo trấn thủ, Bác Hồ phải răn đe phạt nghiêm, xử bắn, những vụ tham nhũng hiện nay gấp một ngàn vạn lần – không thấy một ai bị bắn. Trong những vụ lớn, mức phạt nặng nhẹ, không do Chánh án toàn án tối cao, mà do Bộ Chính trị quyết định. Kỷ cương, phép nước bị đảo lộn – người dân không thấy đâu là pháp luật, đâu là công lý.
Nếu ở Mỹ, hiện nay, Đảng Dân chủ đang nắm chính quyền lại đưa Hiến pháp ra sửa đổi, thêm điều 4, để tôn vinh vai trò lãnh đạo của Đảng mình, thì nay mai, Đảng Dân chủ đổ, Đảng Cộng hòa lên ngôi lại sửa đổi Hiến pháp lập lại một điều 4 cho Đảng mình lãnh đạo. Nếu dựa theo quy luật đó, không có Đảng lãnh đạo nào lên nắm chính quyền mà lại không muốn thêm một điều 4 để tự tôn vinh, để cưỡi lên đầu lên cổ của các tổ chức khác, kể cả nhân dân.
Nếu như vậy, thì ở Mỹ, cứ 4 năm một lần, nước Mỹ phải sửa đổi một lần Hiến pháp, để có thêm một điều 4 mới. Và nếu cả thế giới đều bắt chước Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì thế giới sẽ không có thế giới đại đồng, mà sẽ có đại loạn.
Về quy luật, không có một nhà nước nào là vĩnh cửu ( Đinh (12) – Lê (29) – Lý (216) – Trần (175) – Nguyễn (143) – Việt minh Cộng sản) sẽ có một lúc nào đó Chính thể Việt minh Cộng sản sẽ đổ [dó là điều chắc chắn – BVN], liệu lúc đó điều 4 có còn tồn tại nữa hay không?
Dưới thời đại Bác Hồ không có điều 4 – Đảng Lao động Việt Nam được nhân dân tin tưởng tuyệt đối – vì sao? Vì đường lối của Bác Hồ hợp với lòng dân – Vì Đảng và dân là một. Đảng được uy tín tuyệt đối trong nhân dân. Ngày nay Đảng Cộng sản sản sinh ra điều 4, phá tan kỷ cương phép nước, phá tan đoàn kết của cộng đồng dân tộc, kinh tế sa sút, văn hóa, đạo đức xã hội bị tha hóa nghiêm trọng, uy tín của Đảng bị xuống cấp chưa từng thấy.
Đại vương Trần Hưng Đạo luôn nhắc nhỏ: Phải lấy dân làm gốc, phải khoan thư sức dân, nhờ vậy các vua đời Trần đã ba lần đánh thắng Nguyên Mông. Bác Hồ, theo gương Trần Hưng Đạo, biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nên đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam đánh thắng hai đế quốc Pháp, Mỹ.
Ngày nay Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo: không lấy dân làm gốc, mà lấy Chủ nghĩa Mác – Lê Nin làm gốc, lấy đấu tranh giai cấp làm gốc, Bộ Chính trị làm gốc. Ngày nào ta còn theo đường lối bè cánh, hẹp hòi, chia rẽ, đặc quyền, đặc lợi, ngày ấy bọn cơ hội càng có đất phát triển – vô hình trung bệnh tham nhũng là con đẻ của chế độ lấy Chủ nghĩa Mác làm gốc – bệnh tham nhũng được đà phát triển, kéo dài là một nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ chế độ vào một ngày không xa.
Những người lãnh đạo phải thấy rõ: điều 4 là một tồn tại không hợp Hiến, không hợp pháp, nó là một yếu tố độc hại đang đưa Đảng Cộng sản tiến nhanh trên con đường sụp đổ – nó là nguồn gốc hủy hoại sự tồn vong của Đảng Cộng sản hiện nay.
Cần có đủ đầu óc thông minh và sáng suốt mới dám chủ động hủy bỏ điều 4. Hủy bỏ việc lấy chủ nghĩa Mác làm gốc, để ngăn chặn cái nhọt ung thư tham nhũng ngay từ gốc nguồn – có vậy mới cứu nguy và duy trì được vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản hiện nay.
4) Việc có cần đổi tên Đảng tên nước hay không?
Tại sao chỉ có hai cái tên: Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đã xảy ra sự tranh cãi liên tục trong mấy năm, mà vẫn chưa có được kết luận – có phải vì cái âm thanh tên này hay hơn tên kia mà đòi hỏi phải đổi thay.
Cái chính là:
Mỗi cái tên đều mang theo nó sự mong muốn tiến tới của các cái tên ấy. Ví dụ nếu lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì là nước Việt Nam có mục đích cuối cùng là lên CNXH – theo mô hình Xô Viết. Thực tế nhà nước XHCN theo mô hình Xô Viết là một điều không tưởng – nước Nga – các nước Đông Âu, đi theo con đường lên CNXH theo mô hình Xô Viết đều đã bị thất bại. Nước Việt Nam ta, sau 1975, đã xây dựng CNXH theo mô hình Xô Viết cũng đã bị thất bại thảm hại – nếu không đổi mới thì đất nước đã bị sụp đổ, tàn lụi.
Hiện nay, thực tế lịch sử đòi hỏi, phải xóa bỏ cái tên không tưởng CNXH thay vào đó bằng cái tên Dân chủ Cộng hòa là hợp với tình hình kinh tế, chính trị thực tế trong Đối Nội và Đối Ngoại của Việt Nam hiện nay và lâu dài.
Còn về cái tên Đảng Cộng sản, nó mang ý nghĩa là Đảng sẽ tiến lên đích cuối cùng là Cộng sản Chủ nghĩa.
Chế độ XHCN đã là không tưởng, thì chế độ Cộng sản lại còn ngoài cái không tưởng – làm gì có cái xã hội: làm tùy năng lực, hưởng theo nhu cầu, nhiều người muốn đổi tên Đảng là Đảng của những người lao động – hay Đảng Lao động Việt Nam là hợp với thực tế trước mắt và lâu dài.
Thay đổi hai cái tên để Đảng tránh phải mang tiếng là Đảng luôn nêu hai cái bánh vẽ để lừa quần chúng – nhân dân – lừa cả thế giới.
Thay đổi cái tên Cộng sản, còn có nghĩa là bỏ một cái tên đã nhắc lại những đau thương mà lịch sử loài người đã phải trải qua. Nói đến hai chữ Cộng sản, làm mọi người nhớ đến Staline, Mao Trạch Đông, hai nhà độc tài cộng sản đã giết hại hàng chục triệu sinh mệnh con người để bảo vệ quyền lực của mình; đến chế độ Polpot diệt chủng ở Campuchia (Polpot mang danh cộng sản, diệt hàng triệu dân Campuchia, sọ dừa và xương chất thành núi); đến Cải cách ruộng đất, đến Cải tạo công thương, đến hàng triệu người phải bỏ nước sau 1975, đến chính sách tôn sùng sự bất công thành một quốc sách, tôn sùng sự dốt nát hơn là sự thông minh sáng tạo. Bỏ hai chữ Cộng sản có lợi về Chính trị cho trong nước, về ngoại giao đối với quốc tế. Không ai muốn lên CSCN với câu kinh thánh nổi tiếng của nhà Chính trị Trần Phú: Trí Phú Địa Hào đào tận gốc trốc tận rễ.
May sao ông Trần Phú không gặp thời, nếu không thì Việt Nam ta đã có một Tần Thủy Hoàng, một ông vua từng ra lệnh chôn sống 2000 nho sĩ và đốt hết sách của Khổng Tử – Mạnh Tử, hay một Staline, một Mao Trạch Đông, một Polpot 100% không hơn không kém. Ông Trần Phú đang được Đảng và Nhà nước tôn vinh như một hảo hán anh hùng dân tộc – được đặt tên đường, tên phố, bệnh viện, trường học, dựng tượng, xây lăng tẩm đồ sộ. Thầy trò Trường Trần Phú (Hà Nội) đang lo lắng học tập và ra trường theo gương ông Trần Phú như thế nào???
5) Việc nên nêu khẩu hiệu
“Trung với nước hiếu với dân” hay “Trung với Đảng hiếu với dân”
Đảng muốn quân đội là một công cụ của Đảng, để bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ Đảng lúc cần thiết – nên một số người nêu quân đội phải:
“Trung với Đảng – Hiếu với dân”. Theo nhiều nước trên thế giới, người ta nêu: quân đội của một quốc gia phải có tính độc lập – phải là một lực lượng vũ trang luôn sẵn sàng cầm súng bảo vệ Tổ quốc khi lâm nguy.
Vì vậy, trên thế giới các tổ chức chính trị đang nắm chính quyền đều nêu khẩu hiệu “quân đội phải trung với nước hiếu với dân” sau đấy mới trung với chế độ hiện hành.
Chế độ nào dù tài giỏi đến mấy cũng chỉ tồn tại một thời gian, chế độ nối tiếp sẽ thay thế – nếu nêu khẩu hiệu: “quân đội phải trung với Đảng sau mới hiếu với dân” thì một khi chế độ ấy đổ vỡ, quân đội sẽ đổ theo. Bao sĩ quan , tướng lĩnh phải giải ngũ, bao vũ khí, khí tài, bị xếp xó, trở thành sắt vụn, đưa ra bán đấu giá (kể cả bom nguyên tử, B52…). Như quân Phát xít: Đức, Ý, Nhật … Chế độ sau không thể một lúc xây dựng nên một quân đội hùng mạnh để bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian chiến tranh Việt Nam (9 năm) Chính phủ Pháp bị đổ đến 8 lần – thế nhưng đạo quân xâm lược vẫn là một thứ quân, đó là quân đội Pháp (với Mỹ cũng vậy…).
Tất nhiên khi thay đổi một chế độ, thì người lãnh đạo chế độ mới phải có những biện pháp để thay đổi, cho quân đội hợp với đường lối chính trị mới của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam có công khai sinh ra QĐNDVN từ đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và xây dựng nó trưởng thành cho đến ngày nay. Mặc dù vậy, khẩu hiệu nêu lên với đạo quân này vẫn phải là: “Trung với nước, hiếu với dân” sau mới nói đến trung với Đảng.
Bác Hồ trong chuyến đến thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây (1946) đã tặng cho học sinh võ bị khóa 1 lá cờ có ghi dòng chữ “Trung với nước, hiếu với dân”. Lá cờ của Bác còn nằm ở nhà bảo tàng Trường Sĩ quan Lục quân hiện nay.
Nước bao giờ cũng là vĩnh cửu, còn Đảng dù có tài giỏi đến mấy cũng chỉ có thời hạn. Chẳng khác gì bố mẹ, sinh ra con bao giờ cũng phải dạy con: lớn lên các con phải biết “trung với nước sau là hiếu với nhà”, không bao giờ bố mẹ lại bảo: lớn lên các con phải “trung với gia đình sau hiếu với Tổ quốc”. Nếu dạy con theo kiểu này, khi đất nước có giặc, các con sẽ ở nhà hết để bảo vệ gia đình và bố mẹ, không có ai cầm súng đánh giặc giữ nước.
6) Vấn đề tam quyền phân lập
Mỗi chế độ khi quản lý đất nước đều phải thông qua pháp luật, việc quản lý pháp luật phải qua ba tổ chức:
- Bộ phận Lập pháp (Quốc hội)
- Bộ phận Hành pháp (Tòa án)
- Bộ phận Tư pháp (Viện kiểm sát – Luật sư)
Ba quyền hành này phải hoàn toàn có tính độc lập riêng của nó, phải được tôn trọng, có vậy việc quản lý đất nước mới có hiệu nghiệm – việc quản lý đất nước mới nghiêm minh.
Luật pháp mỗi khi đã ban hành, mọi người công dân đều bình đẳng trước pháp luật và phải tuân theo pháp luật, không phân biệt thứ bậc trong xã hội.
Ở nhiều nước văn minh, tiên tiến, một số Thủ tướng, kể cả Tổng thống đương chức, hay về hưu, mà phạm pháp, đều bị đưa ra tòa án xét xử.
Ở Việt Nam ta hiện nay, tam quyền phân lập không được thể hiện rõ ràng, minh bạch.
Luật pháp là của chung, ai cũng phải thi hành – thế nhưng một số người có chức, có quyền tự cho mình đứng ngoài pháp luật, còn luật lệ là thuộc của dân đen.
Đảng CSVN muốn mình là thống soái, đã dùng biện pháp tự ghi điều 4 vào Hiến pháp, đặt Đảng CS đứng trên cả Chính phủ, cả Quốc hội, cả nhân dân. Quyền lập pháp đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng, Đảng chỉ đạo xây dựng luật hợp với quy chế xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm hợp với Mác – Lê nin.
Về hành pháp, Đảng cũng tự cho mình đứng trên cả Bộ Tư pháp, trên cả Tòa án tối cao – mọi xét xử lớn đều phải thông qua Bộ Chính trị – có những vụ trọng tội phải xử nặng, nhưng Bộ chính trị bảo là “Người của Đảng, phải buông tha – “Tòa án phải tuân theo – Tòa án bị vô hiệu hóa – công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng.
Còn phần Tư pháp, với tiếng nói yếu ớt của các Viện Kiểm sát, các luật sư, hoạt động tư pháp mang tình hình thức, để cho bề ngoài là nhà nước có vẻ tôn trọng quyền của công dân. Nhân dân đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tôn trọng tam quyền phân lập và phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, để giữ được công bằng xã hội, kỷ cương phép nước của một nhà nước văn minh, một dân tộc văn minh.
Kết
Trên đây, tôi đã lược qua một số vấn đề góp một số ý kiến cá nhân vào thư Kiến nghị của 72 nhân sĩ của cả nước đã gửi lên Quốc hội, lên Hội đồng xét việc sửa đổi Hiến pháp.
Tôi tán thành bản Tuyên bố của hàng ngàn “công dân tự do”, bản Tuyên bố của Hội đồng Giám mục, của Thượng tọa Thích Chí H., đại biểu cho hàng triệu giáo dân và phật tử.
Những thư và kiến nghị đó chứng tỏ toàn dân đang lo lắng đến vận mệnh của đất nước, mong muốn có một Hiến pháp tiến bộ, lâu dài. Đây là một thời cơ để những người lãnh đạo nắm lấy để sửa đổi Hiến pháp, xây dựng một thể chế phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Những ý kiến của tôi đều xuất phát từ lợi ích của dân tộc, của đất nước Việt Nam, nhiều lợi ích bảo vệ sự tồn tại của chế độ hiện hành.
Đại vương Trần Quốc Tuấn, 3 lần đánh thắng Nguyên Mông, Lê Lợi, Nguyễn Trãi sau 10 năm đánh đuổi được giặc Minh, Hồ Chí Minh sau 30 năm đánh đuổi 2 đế quốc lớn: Pháp – Mỹ, giải phóng được đất nước Việt Nam đều nhờ vào lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân – luôn nghĩ đến khoan thư sức dân – không sợ giặc mạnh, chỉ sợ dân không đồng lòng, đỡ thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân…
Hiện Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo không lấy dân làm gốc, mà lấy đấu tranh giai cấp làm gốc, lấy Bộ Chính trị làm gốc, đang đưa đất nước trên con đường tuột dốc: kinh tế, văn hóa, đạo đức xã hội, chính trị sa sút nghiêm trọng – tham nhũng không ngăn chặn được đưa đến nguy cơ sụp đổ chế độ.
Lê Quý Đôn có nêu 5 biểu hiện của một chế độ có nguy cơ mất nước, đó là:
- Trẻ không trọng già
- Trò không trọng thầy
- Binh kiêu tướng thoái
- Tham nhũng tràn lan
- Sĩ phu ngoảnh mặt (Không trọng nhân tài khinh trí thức)
Chế độ hiện hành có gần đầy đủ những biểu hiện trên. Những cấp lãnh đạo, những người có trách nhiệm cần phải thông minh, tỉnh táo, tiếp thu những kiến nghị của các Lão thành cách mạng, các nhân sĩ trí thức, là trí tuệ của dân tộc, để thay đổi đường lối chính trị, xây dựng một thể chế mới, hợp với xu thế phát triển của thời đại, để đưa đất nước ra khỏi một giai đoạn tối tăm của lịch sử, cứu Đảng Cộng sản ra khỏi các vực thẳm trên con đường sụp đổ – tránh sự hốt hoảng bằng thái độ dọa nạt, răn đe khủng bố tầm thường…
Năm 1952, tôi vinh dự được tham gia lớp Chỉnh Đảng đầu tiên của Trung ương Đảng ở cây đa Tân Trào – các học viên hầu hết là các Chủ tịch, Bí thư Tỉnh ủy, Khu ủy, một số là TWUV, một số là Bộ Chính trị, là Bộ trưởng, Thứ trưởng – tôi còn nhớ, có mặt trong đợt đó: Đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Tạo, Trần Công Tường, Lê Lộc… Một số cán bộ chủ chốt của quân đội được dự. Bác Hồ, tuần nào cũng có một lần lên lớp cho Học viên. Một hôm, một học viên xin ý kiến của Bác “Chúng cháu là cán bộ đảng viên, luôn có một lo lắng: làm thế nào là đúng với lập trường, quan điểm Cách mạng – làm thế nào là sai…”
Bác vui vẻ trả lời:
“Hễ mỗi lần, các chú làm việc gì đều phải nghĩ đến: làm việc này có lợi cho dân, cho nước, cho Đảng, thì các chú cứ làm, không sợ sai. Nếu không lợi cho dân, cho nước, cho Đảng, chỉ lợi cho cá nhân, cho một số nhỏ… thì cương quyết không làm”.
Lời dạy của Bác đơn sơ, giản dị, nhưng đầy tính chân lý, tôi đã ghi lòng tạc dạ. Nên suốt 75 năm đi theo Cách mạng, tôi đã không bị phạm vào sai lầm gì lớn.
(Xem lời nhận xét về Việt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng Tư lệnh/Quân đội nhân dân Việt Nam; của Giáo sư Trần Việt Hà – Đại học Kinh tế quốc dân; của một Giáo sư Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương ở phần chú thích).
Từ thời Bí Thư thứ nhất Lê Duẩn (1960), hơn 50 năm nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn nêu kiên trì đường lối Mác – Lê nin, kiên trì đường lối đấu tranh giai cấp, đã đem lại những hậu quả tai hại như đã nói trên. Đường lối ấy chỉ lợi cho một nhóm người, cho tập đoàn thống trị. Tôi đã kể lại một câu chuyện, nhắc lại một lời nhắn nhủ của Bác Hồ, người con thân yêu của dân tộc. Nay Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị của ông, là những người vững vàng nhất về chính trị, ắt phải hiểu hơn ai hết: thế nào là Cách mạng, là quan điểm lập trường Cách mạng.
Trước khi dứt lời tôi muốn nhắc một điều về giáo lý của Đức Phật, đó là “thuyết nhân quả”. Trong khi một nhóm người dựa vào Học thuyết Mác – Lê nin, chiếm các chức quyền, chiếm đoạt tài sản của nhân dân; họ đã một mình lên CNXH, còn lên cả CSCN và để lại đằng sau trên 80 triệu người dân sống thoi thóp, phải vật lộn với bao khó khăn hàng ngày, gánh chịu hậu quả của hàng triệu tỷ đồng thất thoát của Nhà nước đang đổ lên đầu họ. Kéo dài một đường lối sai lầm đã làm khổ cực cho bao nhiêu người khác là một tội ác. Đức Phật dạy: nhân nào thì có quả ấy, quả nào cũng có nhân ấy… ai đã gây ra những sai lầm làm tổn hại cho đất nước, dân tộc, kẻ ấy phải hứng chịu những trừng phạt không tránh khỏi của Trời Phật.
Phải nhanh chóng hối cải, vứt bỏ những bất công, những điều xấu xa độc ác, trút bớt lòng tham, quay lại với cái thiện, mới mong cứu vãn được một phần tội lỗi.
Về giáo lý, Đức Phật khuyên mọi người phải từ bi, bác ái, đùm bọc giúp đỡ nhau – luôn nghĩ đến và làm việc thiện. Còn giáo lý của Mác, là đấu tranh giai cấp: Một đứa trẻ mới lọt lòng, Mác đã dạy: phải nghĩ đến tiêu diệt các giai cấp loài người, để chỉ còn lại trên trái đất này: Công nhân và nông dân. Người theo Chủ nghĩa Mác, không từ bỏ một hành động tội ác nào để làm theo lời dạy của Mác, sẵn sàng sống trong sự bất công, sẵn sàng làm khổ cực người khác một cách không thương tiếc. Rõ ràng là hai giáo lý: một bên là Thiện, một bên là Ác…
Đức Khổng Tử dạy: Nhân chi sơ tính bổn thiện. Thế mà chủ nghĩa Mác đã biến các chú bé ngây thơ Staline, Mao Trạch Đông, Polpot thành những con người thú, hung dữ hơn cả những con thú dữ nơi rừng xanh. Trên thế giới, có nhiều tôn giáo, thời gian tồn tại của một tôn giáo, là thước đo mức tin cậy của nhân loại với tôn giáo ấy, hãy xác minh đâu là một chính đạo hay đâu là một không chính đạo?…
- Đạo Phật tồn tại đến nay trên 2500 năm (đang phát triển)
- Đạo Thiên chúa tồn tại được được 2013 năm
- Đạo Hồi tồn tại được trên 1500 năm
- Đạo Mác tồn tại đến khi Liên Xô sụp đổ được 75 năm.
Về cuối đời, Mác cũng đã tự tuyên bố phủ định một số học thuyết mà ông đã ban bố trong những thời kỳ đầu của tuổi trẻ (như đường lối giai cấp chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân đào mồ chôn giai cấp tư sản,…). Đảng Cộng sản Việt Nam đang làm sống lại những điều mà chính Mác cũng đã không còn công nhận nữa.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn tôn vinh Chủ nghĩa Mác, còn muốn kéo dài tuổi thọ của các cụ… còn muốn cả dân tộc Việt Nam đưa các cụ lên bàn thờ và còn muốn các trường học phải dạy Chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Hãy trả các cụ về với các cụ bà, với châu Âu. Còn ta, ta về về với Bác Hồ, về với ao ta, dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn...
Xin nhắc một lời thơ:
Quan nhất thời dân vạn đại
Ghế quan ai ngồi xin chớ thờ ơ
Thương dân dân lập bàn thờ
Hại dân dân đái ngập mồ thối xương.
Cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm (bố của Nguyễn Khắc Viện) có mấy vần thơ khuyên vua Thành Thái trong việc trị nước:
Tôn tộc đại quy (Tôn trọng gia tộc thì sẽ có sự quy tụ, đoàn kết lớn)
Tôn lộc đại nguy (Tôn sùng bổng lộc – khuyến khích tham nhũng – thì rước lấy nguy hiểm lớn)
Tôn tài đại thịnh (Tôn trọng nhân tài thì đất nước hưng thịnh lớn)
Tôn nịnh đại suy (Tôn sùng gian nịnh thì đất nước rơi vào suy vong lớn)
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đang tôn lộc, tôn nịnh, không tôn tài tôn tộc, thích nghe những lời đường mật, ghét lời trung thực. Tổ tiên đã dạy:
- Phải lấy dân làm gốc
- Tuyệt đối không được lấy Mác – Lê Nin làm gốc.
Đặng Văn Việt
Địa chỉ: 125D Minh Khai, Hà Nội
Phòng 25 gác 4 Tập thể Bộ Xây dựng
ĐT: 0125.25.50.959
Email: vanvietds4@gmail.com
   
Đặng Văn Việt
Người Lính Già (U100)
Anh hùng dân phong
08/5/2013
Chú thích:
- Một số nhận xét về Đặng Văn Việt – của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Tổng Tư lệnh/ Quân đội Nhân dân Việt Nam)
1. Tiếc là Việt không còn ở quân đội
2. Rất tiếc là Việt không có mặt ở Điện Biên Phủ. Nếu có mặt, trận đánh 57 ngày đêm đó, chắc chắn sẽ được rút ngắn (½) về thời gian và giảm thiểu tối đa về thương vong, hao mòn vật chất.
3. Nếu Việt còn ở quân đội, Việt có thể đảm đương tới cương vị Tổng tham mưu trưởng.
4. Việt về tài đức là điều không cần phải bàn đến: sáng tạo về quân sự, vững vàng về chính trị, khả năng văn học dồi dào.
5. Cần phải sớm trả lại danh dự và vị trí Cách mạng cho cụ Đặng Văn Hướng – thân sinh ra Đặng Văn Việt – một thân sĩ dân chủ có nhiều cống hiến quý giá cho dân tộc – cho Cách mạng.
- Của Giáo sư Trần Văn Hà (Đại học Kinh tế quốc dân)
1. Đặng Văn Việt là một tấm gương sáng: chí trung với nước, chí hiếu với dân, không chút vì danh lợi địa vị. Tôi nghĩ rằng Đặng Văn Việt có thể là một mẫu hình của người Việt Nam tiến bộ của Thế kỷ thứ 21 này.
2. Tự hào thay dân tộc Việt Nam có những người con ưu tú như vậy.
- Của một Giáo sư trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương (Học viện Chính trị Quốc gia)
1. Kính chào Đại vương Đường số 4, vị anh hùng Đường số 4 – người Đảng viên kiên cường luôn vì sự nghiệp của dân tộc, của đất nước, của Đảng của Bác Hồ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Đừng xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp sửa đổi

Nguyễn Trung
 Toàn bộ quá trình đưa Dự thảo Hiến pháp sửa đổi ra thảo luận trong cả  nước cho đến nay vẫn thiếu vắng hẳn những cuộc thảo luận công khai, xây dựng theo tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc mọi ý kiến khác nhau của các tầng lớp nhân dân. Thay vào đó là cách làm rất hình thức, phô trương, vô cùng tốn kém.
 Trên mọi phương tiện truyền thông của “lề phải” và trong không biết bao nhiêu cuộc nói chuyện ở cấp cơ sở khắp cả nước, các dư luận viên liên tiếp một chiều các bài nói, bài viết, các phát ngôn.., nội dung cùng một giọng điệu gần giống như được gỡ ra hoặc được “tua” lại từ các băng ghi âm – nghĩa là giáo điều, không lý lẽ, áp đặt, không có sức sống, na ná giống nhau…  
 Tham gia mặt trận độc thoại này của những dư luận viên có không ít cây lý luận của các trường Đảng và cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng… Trong những người này có các vị mang học hàm giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ.., đôi ba người có cả quân hàm đại tá… Không cần phân tích, họ lớn tiếng phê phán những ý kiến khác, những người nói khác với Dự thảo. Không thiếu trường hợp ngôn ngữ của các dư luận viên này thật ra là sự đả kích như mạt sát. Họ thẳng thừng quy kết những người nói khác là “thoái hóa về đạo đức chính trị, tư tưởng”,  xếp những người nói khác như thế vào loại “các thế lực thù địch chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa và chống phá Đảng…”
Để làm chỗ dựa cho những lời phê phán kiểu độc thoại như thế, một số cây lý luận đã viện dẫn lịch sử, đại ý:
Các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu cũ sở dĩ sụp đổ là vì đã phạm phải 3 sai lầm chết người: (1)phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin, (2)xóa vai trò lãnh đạo của Đảng, (3)phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang
Lập luận như thế trong thảo luận xây dựng hiến pháp mới, thật chẳng khác vừa cảnh cáo, vừa hù dọa.
Vậy sự thật là thế nào?
Nói khái quát, sự thật là chủ nghĩa Mác – Lênin, diễn đạt đầy đủ hơn là mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước LXĐÂ cũ, đã bắt đầu khủng hoảng mang tính hệ thống từ những năm 1960. Vào lúc nổ ra phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Balan trong những năm của thập kỷ 1980, tất cả các nước LXĐÂ đã đi vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cao điểm của thời kỳ khủng hoảng này xảy ra vào cuối thập kỷ 1980 và đã dẫn tới sụp đổ của toàn hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa LXĐÂ, trong đó Liên Xô là nước sụp đổ sau cùng (ngày 25-12-1991).
 Nhìn lại, lịch sử khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ thật ra bắt đầu sớm hơn nhiều. Sớm nhất là cuộc nổi dậy của công nhân xây dựng ở Đông Berlin, rồi lan ra toàn Cộng Hòa Dân Chủ Đức tháng 6-1953. Lãnh đạo Cộng Hòa Dân Chủ Đức hồi ấy phải nhờ quân đội Liên Xô đập tan.
 Kế tiếp là cuộc nổi dậy đẫm máu ở Hungari tháng 10-1956, bắt đầu từ phong trào sinh viên chống lại nhà nước stalinist, sau đó là sự tham gia của nhân dân cả nước. Quân đội Liên Xô phải trực tiếp can thiệp, đến tháng 1-1957 mới dập tắt được.
 Mùa xuân Phaha 1968” là cuộc nổi dậy tiếp theo ở Tiệp Khắc, lập ra chính quyền chống lại mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại được 8 tháng (từ tháng 1 đến tháng 8-1968), quân đội khối Varsovie do quân Liên Xô là chủ lực phải kéo vào dẹp bỏ.
 Phong trào Công đoàn đoàn kết” ở Balan (tên đầy đủ: Phong trào Công đoàn Độc lập Tự trị “Đoàn kết”), bắt đầu từ tháng 8-1980. Với mọi bước đi thăng trầm quyết liệt, phong trào này giành được thắng lợi quyết định trong cuộc bầu cử ngày 04-06-1989, kết thúc mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa tại đây. Từ tháng 12-1990 Balan đi vào thể chế dân chủ hiện nay.
 Nguyên nhân sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ không phải là các đảng cộng sản cầm quyền ở những quốc gia này đã phạm phải 3 sai lầm chết người như đã được giảng giải trên mọi diễn đàn “lề phải”. 
 Có thể đánh giá các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước LXĐÂ cũ hồi ấy đã làm tất cả để đối phó với khủng hoảng, nhưng không chống đỡ nổi sự sụp đổ. Đơn giản là họ bị các lực lượng dân chủ của nhân dân nước mình đánh bại; mặc dù vào thời điểm sụp đổ, hiến pháp và điều lệ các đảng cộng sản cầm quyền ở những nước này vẫn còn quyên vẹn. Giả thử các đảng này lúc ấy được ai cố vấn và muốn cố thực hiện “3 sai lầm chết người” này để cứu vãn tình hình – như các cây lý luận của mặt trận dư luận viên biện bạch, chắc cũng không kịp. Đơn giản là hệ thống chế độ chính trị cũ của những nước này cuối cùng đã bị phong trào dân chủ của nhân dân nước họ thay thế nhanh quá, bằng những biện pháp hòa bình.
 Riêng tại Rumani, chế độ độc đảng toàn trị diễn ra khắc nghiệt nhất so với các nước LXĐÂ khác. Tổng bí thư Nicolae Ceausescu sớm theo đuổi đường lối thân phương Tây và Trung Quốc, chống Liên Xô, ngay giữa lúc phe xã hội chủ nghĩa còn đang mạnh. Ông ta cũng là người trực tiếp chỉ huy quân đội. Nhưng tại đây chế độ chính trị của ông ta đã bị thay thế bằng bạo lực, quân đội lại là người trực tiếp kết liễu vợ chồng ông ta.
Nói thêm về Liên Xô
Khói súng của Chiến hạm Rạng Đông chưa tắt, nước Nga của Cách mạng tháng Mười đã sớm rơi vào cuộc nội chiến khắc nghiệt và đẫm máu (1917-1922). Nói khái quát, giữa một bên là cách mạng và một bên là phản cách mạng.
 Chẳng những thế, từ năm 1918 đến năm 1920, trên đất nước Liên Xô còn xảy ra cuộc chiến tranh can thiệp của các nước tư bản, đi đầu là các cường quốc Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật. Những nước này cùng với các lực lượng phản cách mạng ở LX quyết tâm tiêu diệt bằng được nhà nước cộng sản đầu tiên trên thế giới.
 Cuối cùng Liên Xô đã đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp này và dập tắt nội chiến. Chẳng những thế, Liên Xô sau này còn là lực lượng chủ chốt nhất đánh bại phát xít Đức và phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới II, góp phần quyết định tạo ra sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa làm chủ 1/3 địa cầu, sau đó kiềm chế phe đế quốc ngót nửa thế kỷ (xin được dùng khái niệm “phe” theo ngôn ngữ thời ấy – N.T.).
 Đáng lưu ý: Ngày nay, dưới chính thể mới của Liên bang Nga, quân đội Liên bang Nga vẫn kế tục truyền thống hào hùng của Hồng quân Liên Xô, mặc dù quân đội đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc chính biến 1990-1991 xóa bỏ nhà nước xô-viết.
 Hiển nhiên không thể không đặt ra câu hỏi: Tại sao Liên Xô sụp đổ ở lúc đạt đỉnh cao mọi mặt của chính quyền và sức mạnh xô-viết? Sụp đổ không nội chiến, không có lấy một phát súng can thiệp từ bên ngoài? Sụp đổ nhanh tới mức toàn bộ thế giới phương Tây ngỡ ngàng, toàn bộ mạng lưới tình báo phương Tây chết khựng vì bất ngờ! Sụp đổ ở đỉnh cao của một cường quốc và trong nguyên vẹn sự tồn tại của Đảng Cộng Sản Liên Xô và Hồng quân Liên Xô!?…
 Chỉ xin điểm lại một số sự việc có liên quan đến hiến pháp:
 Toàn bộ lịch sử Liên Xô có 4 hiến pháp. Hiến pháp năm 1977 (còn gọi là Hiến pháp Brejnev) là hiến pháp đầu tiên có riêng một điều nói cao hơn rất nhiều so với cả 3 hiến pháp trước đó (các Hiến pháp năm 1918, 1924 và 1936) về ĐCSLX và về chế độ xô-viết – đấy là điều 6. Hiến pháp Brejnev là hiến pháp cuối cùng khi Liên Xô sụp đổ.
 Thời Brejnev là thời kỳ Liên Xô lâm vào đình đốn và trì trệ toàn diện. Để cứu vãn tình hình này, khi được bầu làm Tổng bí thư ĐCSLX, ông Gorbachov đề xướng đổi mới kinh tế và dân chủ hóa hệ thống nhà nước, cũng giống như những công việc đổi mới được đề xướng ở nước ta bây giờ. Nhưng ông ta  thất bại.
 Tuy nhiên không thấy Gorbachov đề ra việc sửa đổi hiến pháp. Hay là ông ta chưa kịp làm việc này?.. Chỉ biết rằng tháng 1-1991 ông ta vẫn còn vận dụng Hiến pháp xô-viết 1977 (Hiến pháp Brejnev) chống lại việc ly khai của nước Cộng hòa Lít-va… Không lâu trước khi thất sủng, Gorbachov muốn đưa ĐCSLX đi theo con đường xã hội dân chủ. Nhưng ông ta chưa kịp làm gì, thì ĐCSLX tan rã. Vì đảng đã bị tổng thống Yeltsin thông qua Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga đặt ra ngoài vòng pháp luật…
 Nhìn thẳng vào sự thật
 Tới đây mọi người có thể thấy: Không có chuyện xẩy ra “3 sai lầm chết người” trong việc sửa đổi hiến pháp tại các nước LXĐÂ với hệ quả dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở những quốc gia này. Thậm chí tại những nước xã hội chủ nghĩa  này không có cả việc sửa đổi hiến pháp trong những thập niên cuối cùng trước khi  sụp đổ.
Cũng không có chuyện các đảng cộng sản cầm quyền ở đấy đã phạm phải 3 sai lầm chết người này trong những nỗ lực cứu vãn tình hình, có lẽ đơn giản vì họ không đủ thời giờ để kịp đề ra và thực hiện 3 sai lầm này. Song có sự thật rành rành là các đảng này đã bị các lực lượng dân chủ trong nhân dân nước mình đánh bại.
Ngoài ra còn có một sự thật nữa rất quan trọng: Vô luận hiến pháp và điều lệ đảng đang có hiệu lực hồi đó ở những nước này được viết như thế nào, quân đội của những nước này đi với nhân dân và chỉ trung thành với tổ quốc. Nhờ vậy đã không xảy ra tắm máu khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị chính thể dân chủ thay thế.
 Vậy phải đi tìm những  nguyên nhân thực đã dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở các nước LXĐÂ, song đấy không phải là mục đích của bài viết này.
Bài này chỉ lưu ý: Dư luận viên không biết lấy ở đâu ra, hay là tự đặt ra những điều không có thật như thế để tác động vào nhân nhân trong bàn thảo về sửa đổi hiến pháp lần này là việc làm với dụng ý sai trái. Làm như thế, chỉ tự bộc lộ cái dở, cái yếu của đội ngũ dư luận viên và chế độ, chỉ là tự phơi bầy cái thấp kém của đảng cầm quyền. Đấy lại càng không thể là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ, củng cố sự tồn tại của chế độ.
 Nếu sự sụp đổ của các nước LXĐÂ có điều gì khác nữa đáng liên hệ với nước ta, phải chăng đó là: Quyền lực dù hà khắc đến đâu, dù được bảo hộ bằng cách nào, nhưng một khi đã mất dân thì mất tất cả.
 Đứng trước những mối nguy và thách thức mất còn đang hiện hữu của đất nước, với tính cách là một lực lượng chính trị lớn nhất và mạnh nhất trong cả nước, tại sao ĐCSVN không coi việc sửa đổi hiến pháp lần này là một cơ hội giương cao ngọn cờ dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc để phát huy sức mạnh cả nước, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước? Một sự nghiệp như thế không đáng để cho ĐCSVN dấn thân cùng với toàn thể dân tộc thực hiện? Lợi ích nào, hay yếu kém nào khiến ĐCSVN không lựa chọn như thế?…
 Có nghĩa vụ và trách nhiệm ràng buộc đối với đất nước cũng như đối với sự tồn vong của chính mình, ĐCSVN phải đặt ra cho mình những câu hỏi nêu trên. Những gì đã và đang diễn ra trong những hoạt động vận động dư luận về sửa đổi hiến pháp hiện nay chỉ cho thấy: Đảng đang tìm mọi cách khư khư nắm giữ quyền lực của mình. Thật ra Đảng đang tự vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình, chẳng thế lực diễn biến hòa bình nào bên ngoài Đảng có thể làm nổi việc này.
 Nếu tự hỏi mình được như thế, ĐCSVN sẽ tự trả lời được cho mình Làm gì? Làm như thế nào?
 Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị của đất nước là mặt yếu nhất của ĐCSVN, yếu đến mức hầu như là Đảng không thể! Cầm quyền đã 38 năm rồi mà vẫn không làm nổi, hoặc không có ý thức để làm!… Thậm chí Đảng đang muốn làm ngược lại!?…
 Điều chắc chắn,  cải cách thể chế chính trị chẳng những là đòi hỏi phát triển của đất nước, mà còn là con đường dẫn Đảng đi với dân tộc, đi với đất nước, sau khi đất nước đã giành được độc lập thống nhất. Đó là con đường tránh được cho đất nước thảm họa nồi da xáo thịt ở phía trước.
 Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị theo hướng dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc, Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển, sẽ không phải hổ thẹn với chính mình, và sẽ chiếm được trái tim của cả thế giới tiến bộ. Đã đến lúc toàn thể dân tộc ta phải vượt lên mọi yếu kém của chính mình, quyết khép lại quá khứ, để cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu đáng sống này!
 Sửa đổi hiến pháp lần này đang mang lại cho đất nước một cơ hội như thế. Đây là cơ hội chiến lược thứ tư cho phép đổi đời đất nước kể từ khi giành được độc lập thống nhất. Vẫn còn thời gian, chỉ cần có cách làm đúng, để có thể xây dựng được một hiến pháp nước ta phải có, làm nền tảng cho nhân dân ta phấn đấu vì tự do hạnh phúc của chính mình và thay đổi được thân phận của đất nước trong thế giới ngày nay.
 3 cơ hội chiến lược trước đó của đất nước ĐCSVN đã để vuột mất./.
Võng Thị, ngày 16-05-2013
N.T.
 

Ngô Minh - Đi theo Tàu là mất nước, mất đảng

tho-ngo-minh_240x180
Ngô Minh
Mấy hôm nay tôi vô cùng bức xúc với việc, ngày 13-5, 32 tàu cá Trung Quốc đã kéo đến vùng biển phía tây nam quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đoàn tàu “đánh cá” của bọn Đại Hán này hoàn toàn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Ấy thế mà Việt Nam không một lời lên tiếng*. Nghĩa là Trung ương đã để mặc lãnh hải cho bọn Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Uất quá, buộc phải lên tiếng.

Trong lịch sử Việt Nam, nước ta bị giặc Tàu đô hộ ngàn năm, nhưng từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn , không có triều đại nào đi theo Tàu, bán đất nước cho Tàu. Nhiều triều đại còn xưng “ĐẾ” ngang với Thiên Triều. Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư-“Đế”, con trời do Sách Trời định , ngang hàng với Đế Tàu, chứ không phải vua do Tàu phong…. Hay như Nguyễn Huệ tự xưng là Hoàng đế Quang Trung.

  Bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc  ôm chân giặc Tàu để mong chúng giúp giành ngôi để làm tôi mọi cho Tàu, bị lịch sử lên án ngàn đời. Lịch sử Việt Nam thời cận đại có ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn, đối nghịch lăm le tiêu diệt lẫn nhau, gây cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn hàng thế kỷ, tuy nhiên có điều là cả ba cùng một ý nguyện tìm cách đòi lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, đòi lại 10 châu thuộc phủ An Tây, Hưng Hóa, là địa phận tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện nay . Ðại Nam Nhất Thống Chí xác nhận rằng 6 châu bị mất vào nhà Thanh gồm : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm. Riêng 4 châu còn lại thì đời đầu Nguyễn thuộc phủ An Tây, đến thời Thiệu Trị trích lấy đất lập Châu Lai, tiền thân của tỉnh Lai Châu, năm Tự Ðức thứ 4 [1851] trích lấy châu Quỳnh Nhai và châu Luân cho lập phủ Ðiện Biên, tiền thân của tỉnh Ðiện Biên ngày nay. Đó mới là người Việt Nam

Đau đớn thay, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nước ta dưới thời CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, với khẩu hiệu “Bốn phương vô sản đều là anh em”, ngây thơ “đi theo” Trung Quốc đã bị mất đất, mất người nhiều lần. Chúng lấm chiếm biên giới lấy mất Mục Nam Quan, lấy mất 2/3 Thác Bản Dốc. Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm ”Bên thắng cuộc”, thì Trung Quốc đã dừng mọi thủ đoạn để lấn chiếm 50.000 m2 Việt Nam dọc biên giới. Năm 1974, giặc Tàu chiếm Quần đảo Hoàng Sa, 1988, chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa của Việt Nam. Các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam là đội quân thiện chiến vừa mới thắng Mỹ, nhưng “lệnh trên” để “giữ tình hữu nghị”, không được bắn trả, chỉ ôm lá cờ chịu chết , chịu mất đảo . Đau đớn thay. Việt Nam chiến tranh 20 năm, trên 5 triệu người cả hai miền Nam-Bắc bi chết, để thực hiện âm mưu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Hiện nay, sâu trong lãnh thổ Việt Nam, hàng ngàn lính Tàu gian manh đã đứng chân trên đất Tây Nguyên với kế hoạch khai thác boxite ký kết giữa Tổng Bí thư 2 đảng. Boxite là thứ rẻ độn, mua đâu cũng có hàng tỷ tấn, tại sao chúng đòi cho bằng được Tây Nguyên? Vì ai chiếm được Tây Nguyên thì kẻ đó chiếm được Đông Dương. Quân tàu cũng đang chiếm cứ 300.000 ha rừng đầu nguồn phía Bắc, do bọn quan tỉnh tham lam bán đất cho chúng. Nếu chiến tranh xẩy ra thì đất ấy là hậu cứ của Tàu.

Ở trên là nói về đất. Bây giờ xin nới về người. Ngoài việc hàng triệu người hy sinh trong “chiến tranh lạnh” để bảo vệ Trung Quốc và “phe XHCN”, 74 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam hy sinh ở Gạc Ma, còn một kiểu “mất người” tàn bạo khác do đi theo Tàu. Đó là thảm họa Cải cách ruộng đất theo mô hình thổ địa cải cách của Mao Trạch Đông , cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ huy trực tiếp của cố vấn Trung Quốc với phương châm: “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Kết quả từ 1953- 1956 đã phá nát hệ thống thiết chế văn hóa nông thôn Việt Nam, làm cho nông thôn tan nát. Theo thông kế chưa đầy đủ, cả nước , Đội CCRĐ đã bắt tù đày đọa 5% nông dân, nghĩa là gần 500.000 người bị bắt tù, bị đấu tố, nhục mạ. Đội CCRĐ đã giết 15 vạn địa chủ, thực ra là những người có tài kinh doanh, biết sử dụng ruộng đất hiệu quả, nên đời sống cao hơn người khác và cả những chí sĩ yêu nước bị ghép vào tội “Quốc dân đảng”, bị quy địa chủ bị bắt tù rồi chết oan trong tù như Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm ở Hà Tĩnh.

Sau CCRĐ là Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam sau năm 1975, cũng là cách làm theo Mao Trạch Đông và Stalin, đã phá nát nền công nghiệp non trẻ của Việt nam, đẩy các chủ doanh nghiệp tài giỏi đến cùng quẫn phải đi bán hàng rong hoặc vượt biên, làm mồi cho cá trên đại đương.

Về văn hóa, chính trị, 2 lần làm theo lệnh Trung Quốc, làm cho hàng ngàn vạn trí thức lớn Việt Nam bị bắt bớ, tù đày, bị quản thúc. Đó là vụ Nhân Văn-Giai phẩm và vụ Chống xét lại. Vụ Nhân Văn Giai phẩm bắt đầu diễn ra đấu tố năm 1958. Hàng trăm văn nghệ sĩ , trí thức lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Văn Cao, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang… và những người liên quan vị bắt tù, bị treo bút hoặc mất việc. Có người như ông Nguyễn Hữu Đang- nhà văn hóa lớn, Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên ngôn Độc lập Quảng Trường Ba Đình 2-9 1945, bị tù ở nhà tù heo hút ở sát biên giới Trung Quốc, dài đến mức ông không biết có một cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc do không quân Mỹ tiến hành. Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) sau này đã có chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, đã nhận định: VỤ NHÂN VĂN–GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH. Ông Thái Kế Toại cho rằng, NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”. Vụ án đã tiệt tiêu một thế hệ văn nghệ vàng của Việt Nam.

 Vụ án Xét lại hiện đại cũng xuất phát từ việc đi theo và làm theo Trung Quốc. Vụ này có hai giai đoạn : giai đoạn đầu , bắt đầu từ đầu những năm 1960, đối tượng đấu tố là các văn nghệ sĩ có các tác phẩm yêu đương, buồn rất người, theo cách của các tác phẩm Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41.v.v.. ở Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2, như : Mở hầm của Nguyễn Dậu, Mùa hoa dẻ của Văn Linh.v.v..Các văn nghệ sĩ và các giáo viên dạy văn cấp 3 bị quy là xét lại phải kiểm điểm. Có người mất việc trong cơ quan nhà nước. Vụ án xét lại lớn thứ hai được gọi là Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo, là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967, với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại. Vụ án bắt đầu từ việc, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchyov TBT Đảng CS Liên Xô đã đọc báo cáo về Tệ sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản (“Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”). Đường lối của Khrushchyov bị Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”. Việt Nam đi theo Mao nên cũng triển khai bắt giam và giết hại “bọn xét lại trong nước”. Ước lượng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. Đây là thế hệ trí thức, cán bộ cấp cao có trình độ nhất Việt Nam thời bấy giờ. Có nhà phân tích cho rằng, vụ án xét lại này cũng là do Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp. Dù phân tích theo hướng nào thì những vụ án như thế cũng là do Trung Quốc chỉ đạo nhằm tiêu diệt giới trí thức hàng đầu Việt Nam.

Trung Quốc là quốc gia do bọn bành trướng Đại Hán thống trị. Chúng không bao giờ là “anh em hòa hảo” với ai mà coi các nước lân bang là miếng mồi để chiếm đất. Chúng đã chiếm Tây Tạng, gây hấn với Mông Cổ, Liên Xô , Ấn Độ, Việt Nam …Theo tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một trong số ít người Việt nam hiểu Trung Quốc nhất, thì chúng không bao giờ có truyền thống văn hóa với Việt Nam, không chung ý thức hệ với Việt Nam (Lãnh đạo Trung Quốc đã từ lâu rời bỏ ý thức hệ Mác-Lê Nin, để trở thành một tập đoàn Hán tộc tham lam, muốn đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa độc hại và chiến tranh, lấn đất, lấn biển). Cho nên đi theo Tàu là chết !

o0o

Chỉ có 2 lần lãnh đạo Việt Nam không nghe theo Trung Quốc và đã giành thắng lợi vang dội : Đó là Chiến dịch Điện biên Phủ ( 1954) và Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và Chiến dịch Hổ chí Minh năm 1975. Trong Chiến dịch Điên Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã không nghe theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Quốc, dù kế hoạch của cố vấn đã được Bộ chỉ huy chiến trường phê duyệt, đã thay đổi cách đánh từ “Đánh nhanh tiến nhanh” của Trung Quốc thành “Đánh chắc, tiến chắc” của Việt Nam . Nên kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra. Kết quả là Võ Nguyên Giáp đã đúng. Việt Nam đã thắng Pháp và thắng cả mưu mô của Trung Quốc. Còn thời đánh Mỹ, TBT Lê Duẩn đã không nghe theo Mao Trạch Đông “Đánh Mỹ đến người Việt nam cuối cùng”, nên đã tổ chức các cuộc tấn công năm 1968, 1972, 1975 và đã giành thắng lợi. Việt Nam đã thắng Mỹ và thắng cả mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc.

Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức hiểu rất rõ bản chất thâm hậu của bọn Tàu. Nhưng đáng buồn thay , một số lãnh đạo Đảng CS Việt Nam lại mơ hồ ( hay giả vờ mơ hồ ?) về người bạn “16 chữ vàng”, “4 tốt “ lừa mị, để hướng đất nước theo chúng. Một số học giả chính trị của Quân Đội nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng, người đã đăng đàn bảo vệ quan điểm “đi theo Trung Quốc” để “bảo vệ cái sổ hưu”. Họ cho rằng: “Trung Quốc có đánh ta, nhưng là ân nhân của nước ta”. Thậm chí họ còn vạch chiến lược huấn luyện tác chiến của Quân đội Việt Nam với đối tượng tác chiến là Quân Mỹ chứ không phải quân Trung Quốc. Tôi cho rằng, đó là nhận định sai lầm, có nguy cơ dẫn đến mất nước và mất cả đảng ( đối với những người cộng sản chân chính). Vì ta đánh Mỹ là bảo vệ Trung Quốc và phe XHCN, không có nợ nần gì chúng. Nếu có chút nợ nần thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam mà Trung Quốc phát động tháng 2- 1979 và cuộc chiến Gạc Ma 1988, hàng chục vạn người Việt Nam dọc biên giới đã bị giết hại, không những xóa sạch nợ nần, mà chúng còn gây nợ máu đối với nhân dân Việt Nam rất lớn. Thế thì làm sao gọi là “ân nhân” hỡi ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú ” bảo vệ cái sổ hưu”?

Cả ngàn năm Bắc thuộc, đất nước ta nghèo, không biết gì thế giới bên ngoài, mà các triều đại tuyệt đối không theo Trung Quốc, không bị Trung Quốc đồng hóa. Ngày nay Việt Nam có thế lực và tiềm năng rất lớn để giữ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước bọn bành trướng Đại Hán, vì chúng ta có Nhân Dân cực kỳ yêu nước, Quân đội nhân dân thiện chiến, có điểm tựa là khối ASAEN với 10 nước liền kề, lại còn có các nước bè bạn khắp năm châu như Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…Nếu chúng ta biết khai thác những lợi thế đó thì bọn Đại Hán không làm gì được ta.

Trung Quốc là nước láng giềng. Chúng ta phải tôn trọng và ứng xử hữu hảo theo luật lệ thế giới. Nước Việt Nam là nước độc lập có chủ quyền, nếu Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông hay biên giới, nhân dân Việt Nam biểu tình phản đối sao lại “bắt tù “ nhân dân ? Phải ngay lập tức triệu đại sứ Trung Quốc tới, trao công hàm, nói với họ rằng, nếu các ông sống hữu hảo, đừng xâm phạm lãnh hải Việt Nam thì nhân dân Việt Nam sẽ không biểu tình chống Trung Quốc. Sao không nói với họ như thế, lại đi đàn áp nhân dân mình ? Nước có chủ quyền gì mà lạ thế !

Có người bảo:” Đi với Trung Quốc thì mất nước, nhưng còn đảng” . “Đi với Mỹ thì mất đảng, nhưng còn nước”. Nên các vị lãnh đạo ĐCS Việt Nam đã chọn con đường đi theo Trung Quốc, vậy còn đất nước và nhân dân thì sao ? Đây là một thực tế rõ ràng, 86 triệu dân Việt Nam ai cũng biết, chứ không phải là luận điệu của “bọn thù địch”. Người viết bài này là một người từng đi đánh Mỹ, vào Đảng nhân dân Cách mạng miền Nam, là nhà văn sống bằng lương tâm và lao động của mình, không bao giờ bị bọn thù địch nào mua chuộc nổi .

Vì thế tôi cầu mong các vị hãy tỉnh trí lại , và khắc sâu vào tâm can : Đi với Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc sẽ mất nước và mất cả đảng !

Ngô Minh

* Sự lên tiếng như ông Lương Thanh Nghị vẫn lên tiếng đã nhàm, rập khuôn và giả tạo, dân không còn coi đó là “sự lên tiếng” nữa. (QC)
(Blog Ngô Minh)

Hai sinh viên Việt chống Trung Quốc bị án tù về tội "chống nhà nước"

Hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha
Hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha


Ngày hôm nay 16/05/2013, trong một phiên tòa vừa kết thúc sau một ngày xét xử, tòa án tỉnh Long An đã kết án sinh viên Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, 6 năm tù và 3 năm quản chế, và sinh viên Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, 8 năm tù, cùng 3 năm quản chế. Hai bị cáo bị buộc tội « tuyên truyền chống Nhà nước ».

Phiên tòa xét xử hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đã được mở ra hôm nay, sau thời gian điều tra kéo dài hơn nửa năm. Chị Nguyễn Phương Uyên, sinh viên trường Đại học công nghiệp thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh và anh Đinh Nguyên Kha, sinh viên Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An, bị bắt vào hồi tháng 10/2012, vì hành động rải truyền đơn với nội dung phản đối Trung Quốc xâm lược biển Đông và lên án nạn tham nhũng và các bất công trong xã hội Việt Nam.

Hình phạt mà tòa án tỉnh Long An đưa ra trong phiên tòa hôm nay đối với hai bị cáo là nằm trong các đề nghị trước đó của Viện kiểm sát trong bản cáo trạng, từ 8 đến 10 năm tù đối với anh Đinh Nguyên Kha và từ 5 đến 7 năm đối với chị Nguyễn Phương Uyên.

AFP cho biết, trong một văn bản không chính thức được những người ủng hộ truyền đi trên mạng internet, thì sinh viên Nguyễn Phương Uyên khẳng định những hành động mà cô đã làm là do « lòng yêu nước » ; Phương Uyên tuyên bố vô tội và yêu cầu tòa án bãi bỏ các cáo buộc trong cáo trạng. Yêu cầu của AFP được tham dự để tường thuật phiên tòa kể trên đã bị chính quyền Việt Nam từ chối.

Vụ án xét xử Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha được giới bloggers tại Việt Nam đặc biệt chú ý. Một số trang mạng « lề trái » theo sát cập nhật các diễn biến phiên tòa. Vẫn theo AFP, luật sư của Nguyễn Phương Uyên cho biết thân chủ của ông và bị cáo Đinh Nguyên Kha khẳng định họ hành động như vậy vì lòng yêu nước, và không muốn rằng những việc làm này bị coi là hành động « tuyên truyền chống nhà nước ».

Theo một số nguồn tin tại chỗ, mặc dù phiên tòa tuyên bố là « công khai », thế nhưng nhiều người vẫn bị ngăn không được vào tham dự. Đã xẩy ra một số vụ công an giữ người đến dự phiên tòa. Trả lời RFI, blogger Huỳnh Công Thuận cho biết 5 người bị giữ tại đồn công an phường 1 (Long An), trong đó có ông, đã được thả sau khi phiên tòa kết thúc, người duy nhất chưa ra là bà Bùi Thị Minh Hằng.

Ông Huỳnh Công Thuận tới tòa từ sớm, vì được biết, theo thông báo, phiên tòa hôm nay xử công khai, nhưng ông không được cho vào, vì không có giấy mời. Trong khi ông đang ngồi uống cafe tại một quán gần đó, thì bị công an tới đưa về đồn.

Blogger Huỳnh Công Thuận : « Họ nói họ ‘‘mời’’ chứ không phải bắt. (…) Đang ngồi bấm điện thoại, thì nó giựt, đẩy lên xe, đứng cho u cái đầu luôn. (…) Vô đó thì hỏi chuyện tào lao, vớ vẩn, không có chuyện gì hết trơn. Riêng chị Bùi Hằng, thì chị bị giữ lâu vì chị mang theo mấy bản "Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền", chị phát, thì nó ghép tội chị phát mấy tờ đó mà không có xin phép (...).

(Về phiên tòa) Gần như thân nhân, người nhà không ai vô được hết. Ba cô bé Uyên cũng không vô được trong tòa án luôn. Mà ở trỏng nó sắp xếp bà con dòng họ… nhưng mà toàn là người lạ hoắc, còn những người ruột, có giấy mời đàng hoàng, ba ruột, cậu ruột của Phương Uyên không được vô, chỉ có mẹ.

Phiên tòa bữa nay mấy anh em nói lại là rất là tốt. Mặc dù bản án kêu cao, nhưng mà bé Phương Uyên, cùng là Đinh Nguyên Kha trả lời rất dõng dạc, rất là tự tin…. Nó nói nhiều câu rất hay. Luật sư cũng có những lời bào chữa rất hay. Nhưng bản án đã để sẵn rồi, chỉ đọc lên cho vui vậy thôi, chứ có gì nữa đâu. »

Theo ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của HRW, « việc xét xử các công dân vì tội phân phát truyền đơn chỉ trích chính quyền là điều kỳ quặc », ông khẳng định Việt Nam cần phải ngừng sử dụng tòa án để kết tội những người bất đồng chính kiến. Theo một số nhà bảo vệ nhân quyền, chỉ riêng từ đầu năm đến nay, đã có 38 blogger và người đấu tranh cho dân chủ bị chính quyền bắt giam.

Về phiên tòa xử hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, mời quý vị theo dõi các nhận định của luật sư Nguyễn Thanh Lương, người bào chữa cho chị Nguyễn Phương Uyên, trong phần Phỏng vấn "Luật sư Nguyễn Thanh Lương : Các bị cáo không phạm tội chống Nhà nước".

Các tin bài liên quan
Sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị đánh trong trại giam
Trấn áp không dập tắt được những tiếng nói yêu nước phản kháng
Việt Nam: Công an xác nhận bắt giữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên vì tội tuyên truyền chống Nhà nước
Trọng Thành (RFI)

 

Luật sư Nguyễn Thanh Lương : Các bị cáo không phạm tội chống Nhà nước

Hai sinh viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên (DR)
Hai sinh viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên (DR)

Phiên tòa xét xử hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha về tội « tuyên truyền chống Nhà nước » vừa mở ra và kết thúc ngay trong ngày hôm nay 16/05/2013. Trên các trang mạng, nhiều tiếng nói lên án các bản án 6 năm và 8 năm tù giam đối với hai sinh viên trẻ. Theo luật sư Nguyễn Thanh Lương, các bị cáo hoàn toàn vô tội : Viện kiểm sát đã thừa nhận hành vi « chống Trung Quốc » không phải là yếu tố để buộc tội, bên cạnh đó, việc tuyên truyền chống Đảng Cộng sản không phải là tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

RFI : Xin chào luật sư Nguyễn Thanh Lương. Xin ông cho biết kết cục của phiên tòa xét xử hai vị Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha và các diễn biến chính.

Luật sư Nguyễn Thanh Lương : Kết cục phiên tòa là em Đinh Nguyên Kha bị tuyên 8 năm tù, 3 năm quản chế, và bên cạnh đó còn phải chấp hành một bản án khác 2 năm tù, tổng hợp hình phạt là 10 năm tù. Đối với em Phương Uyên là 6 năm tù và thời hạn quản chế là 3 năm nữa. Hình phạt đó là được áp dụng theo tội danh điều 88 Bộ Luật hình sự của nước CHXHCN Việt Nam.

Phiên tòa diễn ra, về thời gian, thời lượng, tranh tụng đối đáp thì đầy đủ, tương đối là dân chủ và bảo đảm đúng về tố tụng hơn. Có một vấn đề là không có sự thống nhất giữa ba luật sư (với Hội đồng xét xử)... Tôi, luật sư Hà Huy Sơn và luật sư Miến, thì đề nghị là các em Kha, em Nguyên là không phạm tội vào điều 88 của Bộ Luật hình sự, vì lý do là, các em này có hành vi tuyên truyền chống Trung Quốc, tuyên truyền phỉ báng chống đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam thì không phải là chính thể nước CHXHCN Việt Nam, do đó chúng tôi đề nghị là tuyên bố vô tội, không vi phạm điều 88. Nhưng Viện kiểm sát và Tòa không chấp nhận, nhưng sau cùng Viện kiểm sát có nhìn nhận rằng, rút phần truy tố đối với hành vi « chống Trung Quốc », còn lại vẫn cho là Đảng với Nhà nước là một, nên là vẫn áp dụng điều 88 như tôi vừa nói.

RFI : Đây là một điểm có thể nói là mới mẻ trong vụ án này. Vậy xin ông cho biết rõ thêm.

LS Nguyễn Thanh Lương : Trong tranh luận, các luật sư phản biện là việc « chống Trung Quốc » còn là nghĩa vụ của công dân, thể hiện lòng yêu nước của công dân, cho nên truy tố mà dựa vào các khẩu hiệu « không hay về Trung Quốc » là không phù hợp. Thì Viện kiểm sát sau nhiều lần tranh luận, thì cũng đồng tình, và đính chính rằng truy tố các em không phải vì hành vi khẩu hiệu chống Trung Quốc. Thì đó là về tiếng nói, nhưng mà về cái thủ tục rút quyết định truy tố hay là về (xem xét lại) bản chất, để giảm mức hình phạt, thì tôi thấy cũng không có. Thì ít ra về mặt nhìn nhận với nhau, vấn đề Trung Quốc không phải là hành vi vi phạm. Đó là cái điều mừng, là cái mức thành công nhỏ của các luật sư tại phiên tòa.

Vấn đề mới ở đây là cách nhìn nhận (của luật sư) về chính thể Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thì tôi cho rằng, trong thực tiễn của xã hội Việt Nam, một là có sự sùng bái về Đảng, hai là có sự nhầm lẫn trong vận dụng pháp luật. Cái chính thể của Đảng và chính thể của Nhà nước CHXHCN Việt Nam là khác nhau. Khi xâm phạm tới Đảng mà áp dụng điều 88, thì không đúng tính khoa học pháp lý của luật hiện hành của Việt Nam. Sau cùng ông đại diện của Viện Kiểm sát, căn cứ vào Hiến pháp, xác định Đảng là « lực lượng lãnh đạo », là « đảng cầm quyền », cho nên vi phạm thì xét xử. Nhưng theo tôi, điều 88 Bộ Luật hình sự không có liên quan gì đến Đảng Cộng sản hết. Điều 88 là để bảo vệ về an ninh quốc gia, về chính thể của nước CHXHCN Việt Nam, thành ra phiên tòa có xung đột về quan điểm.

RFI : Xin luật sư cho biết về tình trạng của chị Nguyễn Phương Uyên và anh Đinh Nguyên Kha tại phiên tòa hôm nay.

LS Nguyễn Thanh Lương : Hai em ấy tại phiên tòa thái độ rất bình tĩnh, khai báo rất rõ ràng, mạch lạc, khúc chiết. Nói chung là, các em xác định động cơ là từ lòng yêu nước, nhiệt huyết của thanh niên. Hai em khẳng định rằng không có ý thức chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, còn… chẳng qua là ngoài ý muốn của hai em. Tóm lại, các em cũng nhìn nhận mình cũng có "hành vi vi phạm", nhưng không thừa nhận là mình chống đối Nhà nước, mà chỉ chống đối Đảng, chống đối Trung Quốc.

RFI : Thưa luật sư, cụ thể thì, hai người nhìn nhận mình sai lầm ở chỗ nào và ở mức độ nào ?

LS Nguyễn Thanh Lương : Có nhìn nhận ở mức độ là có "hành vi vi phạm", nhưng mấy em không nhìn nhận là chống Nhà nước. Vi phạm vì ít nhiều các em cũng hiểu là, hành vi phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam thì đó cũng là vi phạm. Nhưng vi phạm đó là vi phạm có mức độ. Thứ hai nữa, các em cũng thừa nhận rằng, do xuất phát từ cái nhìn, thấy xã hội có nhiều tiêu cực, công an thì tham nhũng, đánh người vô tội vạ… Do đó, các em chỉ nhìn thấy khía cạnh mặt trái của xã hội, mà không thấy các cái cơ bản khác. Các em cũng nhìn nhận như vậy. Các em thừa nhận rằng, khi bị giam giữ rồi, các em có thấy các sai trái (của mình) theo quy định hiện hành của pháp luật nhà nước, còn khi thực hiện, thì các em không thấy. Mấy em cho đấy là hành động để tỏ lòng yêu nước, làm cho xã hội được tiến bộ, được tốt hơn.

Riêng tôi nhận xét là mấy em tuổi trẻ nhiệt huyết, nhưng do non nớt về chính trị, chưa có kinh nghiệm, nên mấy em trở thành nạn nhân của một lực lượng X. Mà lực lượng X này, thì chỉ có cơ quan an ninh điều tra mới giải mã được, mới biết được. Nó cũng thuộc về phạm vi của an ninh, của bí mật, tôi không có khả năng để trả lời.

RFI : Vấn đề này có được đề cập đến hay không trong phiên tòa hôm nay, thưa luật sư ?

LS Nguyễn Thanh Lương : Trong phiên tòa, có đề cập thoáng qua và mờ nhạt thôi. Chính quan điểm của cơ quan cho rằng, mấy em này thực hiện theo một « thế lực thù địch » hay một « lực lượng phản động », do đó xác định là hành vi tuyên truyền chống Nhà nước là từ chỗ đó.

RFI : Theo mô tả của luật sư, thì một phần khá lớn của vụ án bị chìm khuất và dường như chưa được làm sáng tỏ, có đúng không, thưa luật sư ?

LS Nguyễn Thanh Lương : Đúng vậy, còn một mảng chìm của vụ án chưa làm sáng tỏ được.

RFI : Vậy, theo luật sư thì trong vụ án này, vấn đề này có thể tiếp tục được làm sáng tỏ thêm không, hay có thể nói là vụ án đã được khép lại, với phần vừa được xét xử ?

LS Nguyễn Thanh Lương : Tôi nghĩ là, nếu các em tích cực kháng cáo, thì vụ án sẽ chưa khép lại. Còn nếu mà hai em không kháng cáo, thì vụ án có thể nói là tạm thời khép lại. Còn vấn đề để giải quyết những quan hệ khác, thì không nằm trong phạm vi bảo vệ của luật sư, luật sư cũng không có thông tin và khả năng trao đổi với phóng viên.

RFI : Thân chủ và luật sư có nghĩ đến bước kháng cáo tiếp theo không ?

LS Nguyễn Thanh Lương : Tôi chưa đánh giá được vấn đề này. Gia đình đương nhiên có nguyện vọng kháng cáo tiếp lên Tòa tối cao ở phía Nam, nhưng mà quyết định vấn đề này là do hai em. Trước đây, trong những lần làm việc tại trại tam giam, cũng như tại tòa, thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng có giới thiệu về quyền kháng cáo, nhưng không biết hai em có lưu ý không, và hai em có vận dụng hay không, thì đúng là chưa biết, còn phải chờ thời gian. Còn luật sư, lúc phiên tòa chưa xử, nên cũng không đặt vấn đề đó.

RFI : Trước khi chia tay, luật sư có điều gì chia sẻ thêm với thính giả ?

LS Nguyễn Thanh Lương : Trong phiên tòa này, có điều đặc biệt là các em nhận tội (trong một số "hành vi vi phạm" có mức độ), nhưng các luật sư bào chữa đều đề nghị tuyên bố vô tội. Hai nữa là, phiên tòa này xuất hiện một vấn đề : Trước đây, như một tiền lệ trong xã hội, khi người ta nói tới Đảng là nói tới Nhà nước, và ngược lại nói tới Nhà nước là nói tới Đảng. Nhưng khi xảy ra một sự việc, chúng tôi nghiên cứu, tìm hiểu để bào chữa, thì tôi xác định rằng giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và chính thể nước CHXHCN Việt Nam là khác nhau. Rất tiếc là các cơ quan họ đã áp dụng và đánh đồng với nhau, thì như vậy là áp dụng cho mấy em một mức phạt quá nặng nề. Tôi lấy làm tiếc về điều này. Cũng mong rằng quý khán thính giả chia sẻ và thông cảm cho những khó khăn trong cái con đường đấu tranh để tiến bộ chung vì lợi ích xã hội là cả một điều gay go trên thực tế.

RFI : Xin cảm ơn luật sư Nguyễn Thanh Lương.

Các tin bài liên quan
Hai sinh viên Việt chống Trung Quốc bị án tù về tội "chống nhà nước" (về phiên tòa sơ thẩm 16/05/2013)
Sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị đánh trong trại giam (phỏng vấn bà Nguyễn Thị Nhung - mẹ Nguyễn Phương Uyên)
Trấn áp không dập tắt được những tiếng nói yêu nước phản kháng
Việt Nam: Công an xác nhận bắt giữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên vì tội tuyên truyền chống Nhà nước 
Trọng Thành (RFI)

Tuyệt vời tuổi trẻ Việt Nam!

160513_phap-luat_xu-an01_dan-viet
Tôi thích nụ cười ngạo nghễ của Võ Thị Thắng, tôi cũng thích sự bình thản trong suốt của Phương Uyên, cả hai đều ở tuổi hai mươi.
Copy of 260262_4745112947715_619128506_n
 Đinh Nguyên Kha 8 năm cộng 2 năm cho tội cố ý gây thương tích trong một vụ án khác chưa chấp hành hình phạt, Nguyễn Phương Uyên 6 năm. Cả hai cùng bị quản thúc thêm 3 năm sau khi mãn hạn tù. Một bản án quá nặng nhưng không lạ, ở cái nơi “dân chủ vạn lần hơn” thường vẫn có những bản án như thế. Bản án  chắc chắn không có răn đe được ai. Nó càng làm chất cao thêm niềm uất hận và càng chứng tỏ khẩu hiệu vì dân do dân thảm hại đến thế nào.
uyen-kha11
   Theo Trương Duy Nhất ( tại đây) và nhiều nguồn tin khác, Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên đều không nhận tội và tự bào chữa đó là hành vi yêu nước. Tuyệt vời tuổi trẻ Việt Nam!
 

Những chuyện bên trong và chưa nói về phiên tòa xử sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha

Riêng lời nói sau cùng của Phương Uyên mới làm cho cả phòng xử án bàng hoàng và không khí chùng xuống. Đứng trước vành móng ngựa của cộng sản để nói lời nói sau cùng thì Phương Uyên dũng cảm tuyến bố: "Việc tôi làm thì tôi chịu xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn". Giữa một rừng công an hùng hổ mà Phương Uyên dám tuyên bố như vậy chứng tỏ bản lĩnh của Phương Uyên như thế nào. Khác xa chuyện an ninh điều tra ép cung nhục hình để đưa ra một Phương Uyên theo ý của an ninh là hành động chỉ để nhận 100 USD và máy chụp hình kỷ thuật số từ phản động hải ngoại...


Kết quả phiên tòa do nhà cầm quyền cộng sản dàn dựng nhằm trả thù 2 sinh viên yêu nước tại Long An ngày 16.5.2013 thì ai cũng đã biết. Chúng tôi lược thuật một số chuyện mà ít người biết đến.
A. Thủ tục tố tụng:
Cũng như bao phiên tòa xét xử người yêu nước khác về điều luật mơ hồ là điều 88 và 79 an ninh tại tòa án và khu vực xung quanh luôn gắt gao: phá sóng điện thoại, ngăn cản người dân tiếp xúc phiên tòa, hạn chế thân nhân của các nạn nhạn tham dự phiên tòa, công an thì nhiều hơn các thành phần khác tham dự phiên tòa nhiều lần. Tuy nhiên phiên tòa ở Long An có một số đáng ghi nhận như sau:
1. Về thủ tục tố tụng nhà cầm quyền ở Long An lần này tỏ ra "dễ chịu" hơn các nơi như ở Sài Gòn, Hà Nội, Bến Tre, An Giang. Luật sư có nhiều thời gian hơn, gia đình gặp được người thân bị giam giữ trước khi ra tòa. Có sự tranh luận sòng phẳng giữa công tố viên buộc tội và luật sư. Lần đầu tiên ở Việt Nam kiểm soát viên chấp nhận đuối lý trước luật sư và rút lại việc truy tố 2 nạn nhận tội "chống Trung Quốc". Dù việc rút lại lời buộc tội chỉ có tính hình thức vì sau đó bản án hình phạt rất nặng nề. Nhưng chúng ta cũng ghi nhận quan điểm chống ngoại xâm ít ra đã đi vào chính trường của Việt nam và đã được chấp nhận.
2. Dù an ninh hạn chế gia đình gởi trang phục cho các sinh viên yêu nước nhưng hình ảnh 2 sinh viên trong trang phục đồng phục học sinh áo sơ mi trắng và quần tây sẫm màu nói lên rằng họ đẹp hơn nhiều. Và quan trọng hơn là minh họa cho lời tố cáo nhà cầm quyền đàn áp sinh viên thì hình ảnh đó hiệu quả hơn nhiều. Chưa đi vào nội dung phiên tòa thì hình ảnh 2 sinh viên tao nhã thanh lịch giữa một rừng công an y hệt như 2 con chiên thơ giữa một bầy sói hung bạo.
3. Vào buổi chiều nhằm phản ứng việc công an bảo vệ và an ninh ngăn chặn những thân nhân khác không vào tham dự phiên tòa thì mẹ Phương Uyên, mẹ và anh của Nguyên Kha không vào tham dự. Chủ tọa phiên tòa công bố họ không tham dự buổi chiều. Nhưng sau hơn nữa giờ họ vào tham dự thì chủ tọa vẫn đồng ý cho họ mà không làm khó dễ gì họ.
4. Diễn biến bên ngoài dù có bắt bớ 1 số người dự tính tham dự phiên tòa nhưng lần này có vẻ như là công an Long An không dám tàn độc như công an Sài Gòn hay ở Hà Nội.
B. Về nội dung bàn chất phiên tòa:
Không hẹn mà gặp cả 3 luật sư bào chữa cho 2 sinh viên yêu nước họ có luận chứng bào chữa rất giống nhau và hợp lý: 2 sinh viên này chỉ yêu nước và chống Trung Quốc xâm lược và chống đảng cộng sản chứ không chống nhà nước CHXHCNVN. Dù trước đó an ninh làm khó dễ các luật sư rất nhiều: chặn các cuộc gọi vào máy của các luật sư, không cho họ có thời gian nhiều tiếp xúc với thân chủ cũng như toàn bộ hồ sơ vụ án. Nhưng rất trùng hợp là các luận cứ của các luật sư rất sắc bén không chỉ kiểm soát viên giữ quyền công tố bị đuối lý mà cả thẩm phán chủ tọa cũng như các hội thẩm nhân dân cũng thua lý và họ tìm cách tránh né các vấn đề và yêu cầu của luật sư đưa ra:
1. Phương Uyên và Kha có thừa nhận hành vi "vi phạm" nhưng chỉ chung chung không nói là vi phạm cái gì. Chống Trung Quốc thì chắc không có điều nào trong cả Bộ Luật Hình sự quy định. Tội chống đảng thì không phải là điều 88 của Bộ luật hình sự hiện nay mà phải là điều khác. Tuy nhiên cộng sản không dám trơ trẻn áp dụng thực chất cái điều này sợ bị dư luận trong và ngoài nước lên án nên họ miễn cưởng "ép" vào điều 88 chống nhà nước.
2. Nhân chứng của vụ án: dù bản cáo trạng và kết luận điều tra có ghi là có 3 nhân chứng nhưng 3 nhân chứng này không có mặt ở phiên tòa tại Long An vào ngày 16.5.2013. Rõ ràng việc thiếu vắng 3 nhân chứng đã chứng tỏ rằng nhà cầm quyền lấn cấn trong việc buộc tội và tiền hậu bất nhất.
3. Vật chứng: quan trọng nhất là vật chứng là các khẩu hiệu buộc tội 2 sinh viên yêu nước. Thế nhưng phiên tòa này không dám trưng ra cái vật chứng này. Đó chính là các khẩu hiệu chống Trung Quốc xâm lược và chống đảng cộng sản. Dù các luật sư yêu cầu nhiều lần nhưng chủ tọa không dám đề cập đến các khẩu hiệu này. Cũng như biên bản yêu cầu giám định nội dung của các khẩu hiệu cũng không có. Điều này chứng tỏ rằng phiên tòa của đảng cộng sản chỉ dùng nó như là một công cụ để trả thù các sinh viên yêu nước qua đó đe dọa nhiều người khác có ý chống đảng.
4. Chống đối tôn giáo: trong cáo trạng để thêm màu sắc buộc tội thì phía an ninh điều tra cố "nắn, ép" cái này vào nhưng ra trước tòa thì không có gì liên quan đến việc chống đối các tôn giáo của 2 sinh viên yêu nước. Việc này lố bịch y như chuyện 2 cái bao cao su trong vụ án của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ.
5. Lời nói sau cùng: Đinh Nguyên Kha cho rằng Kha không có tội, chỉ hành động vì lòng yêu nước. Riêng lời nói sau cùng của Phương Uyên mới làm cho cả phòng xử án bàng hoàng và không khí chùng xuống. Đứng trước vành móng ngựa của cộng sản để nói lời nói sau cùng thì Phương Uyên dũng cảm tuyến bố: "Việc tôi làm thì tôi chịu xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn". Giữa một rừng công an hùng hổ mà Phương Uyên dám tuyên bố như vậy chứng tỏ bản lĩnh của Phương Uyên như thế nào. Khác xa chuyện an ninh điều tra ép cung nhục hình để ra một Phương Uyên theo ý của an ninh là hành động chỉ để nhận 100 USD và máy chụp hình kỷ thuật số từ phản động hải ngoại.
C. Phản ứng của giới am hiểu luật pháp tại Việt Nam về phiên tòa tại Long An ngày 16.5.2013:
1. Luật sư Nguyễn Thanh Lương: "Tôi thấy mình hèn hạ và bất lực khi chỉ đòi cho Phương Uyên được 5 ngày tù mà không làm cho bản án của em nhẹ đi. Phương Uyên bi bắt ngày 14 tháng 10 năm 2012 nhưng đến ngày 19 tháng 10 thì mới công khai. Kết luận điều tra và cả bản cáo trạng "quên" đi 5 ngày dấu nhẹm này. Tôi đã yêu cầu chủ tọa tính án phải từ ngày 14.10.1012 là ngày họ tạm giam em Phương Uyên. Tôi không có biết là 2 em sinh viên có kháng án hay không nhưng hình ảnh của họ ở phiên tòa hôm nay nó đay đáy vào tận giác ngủ của tôi trong nhiều ngày tới".
2. Nhà báo T. D. (yêu cầu dấu tên): "Thì cũng như bao phiên tòa khác các nạn nhân của điều luật X nếu ai mà " ăn năn nhận tội" thì án nhe. Ai mà "cương" thì lãnh án nặng. Thấy Anh Ba Sài Gòn của vụ anh Điếu cày không? án nhẹ hơn so với 2 người khác. Gần đây vụ Lô Thanh Thảo im lìm thì họ kéo xuống 2 năm từ 3 năm rưỡi ban đầu. Đó thấy chửa nhưng đừng ghi tên tôi ra đấy đó nha".
3. Luật sư N. thuộc đoàn Luật sư Thành Phố: "Bị cáo Kha không phải khủng bố, nếu khủng bố thì án khác cơ!"
4. Thẩm phán H. của tòa án tỉnh Đồng Nai: "Tôi không theo dõi phiên tòa, nhưng thẩm quyền xét xử phải là của Tòa án thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải là Tòa án tỉnh Long An vì nơi diễn ra các hành vi vi phạm pháp luật là tại thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải ở tỉnh Long An".
5. Một phóng viên dấu tên của báo Pháp Luật: "Thực chất thì mấy ông tòa án không đủ tư cách và nhân cách để xét xử mấy sinh viên này".
Hải Huỳnh
(DLB)

Nguyễn Phương Uyên: ‘Tôi là một sinh viên yêu nước’

(AFP) – Việt Nam bỏ tù hai nhà hoạt động trẻ tuổi hôm thứ Năm vừa qua với cáo buộc rải tờ rơi chống chính quyền. Đây là trường hợp đàn áp mới nhất tại nước cộng sản này nhằm dập tắt các tiếng nói yêu nước mà các nhóm nhân quyền đã lần lượt lên tiếng chỉ trích.
Phuong Uyen-Nguyen Kha-2Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, năm nay 21 tuổi, đã bị tòa án Long An đưa ra mức án sáu năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước, trong khi đó sinh viên kỹ thuật Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, đã bị tuyên án tám năm tù giam, luật sư của họ cho biết.
Hai bản án trên kèm thêm ba năm quản thúc tại gia sau khi mãn hạn tù, luật sư Nguyễn Thanh Lương cho biết qua điện thoại từ tòa án trên địa bàn tỉnh Long An.
Phuong Uyen-Nguyen Kha

“Các bản án quá nặng”, ông nói thêm rằng mặc dù hai bạn trẻ có thể đã phạm phải một số lỗi nhỏ nhưng dù sao thì các bản án tù dài hạn trên là không hợp lý.
“Cả hai bạn trẻ nói rằng họ đã làm những điều họ làm vì lòng yêu nước và để làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Họ không bao giờ nghĩ rằng những hành vi trên là tuyên truyền chống nhà nước”, ông nói thêm.
Hai bạn trẻ đã bị buộc tội phân phát truyền đơn chống nhà nước trong đó có nội dung “làm nhục chính quyền” và kêu gọi các cuộc biểu tình chống lại chế độ, theo bản cáo trạng đã được đăng trực tuyến trên các trang mạng.
Những cáo buộc trên có mức án tối đa là 20 năm tù giam, được thường xuyên áp đặt cho những người bất đồng chính kiến tại một nước độc tài như Việt Nam, nơi mà Đảng Cộng sản cầm quyền cấm tất cả các cuộc tranh luận chính trị.
Hàng chục nhà hoạt động đã bị giam giữ kể từ khi nhà nước độc đảng bắt đầu các cuộc đàn áp mới về tự do ngôn luận vào cuối năm 2009.
Theo các tổ chức nhân quyền cho biết thì riêng trong năm nay, ít nhất đã có 38 nhà hoạt động bị kết án tù liên quan đến những hoạt động chống nhà nước – một điều luật được định nghĩa rất mơ hồ trong Bộ Luật Hình sự nước này.
AFP đã gửi đơn để tham dự phiên tòa nhưng đã bị chính quyền Long An từ chối.
Phương Uyên – người có hoàn cảnh khó khăn đã thu hút được nhiều sự ủng hộ từ các nhóm hoạt động ở Việt Nam – đã kêu gọi phiên tòa hủy bỏ cáo buộc chống lại cô trước hội đồng xét xử.
Phuong Uyen-Nguyen Kha“Tôi là một sinh viên yêu nước. Nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì mọi người trẻ sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước”, cô cho biết, theo một nguồn tin không chính thức đăng trên các trang mạng.
Phương Uyên cũng đã gây chú ý trong phiên tòa khi đề cập đến lực lượng an ninh nổi tiếng của Việt Nam, luật sư của cô cho biết. “Cô ấy yêu cầu công an không nên tiếp tục gây khó khăn cho cuộc sống gia đình cô và cho biết cô nhận trách nhiệm về những gì cô đã làm”, ông nói thêm.
Hình ảnh và các bài viết về phiên tòa đã được chia sẻ rộng rãi trên các blog cũng như Facebook. Ít nhất có ba nhà hoạt động khác cố gắng tham gia phiên xét xử đã bị công an bắt giữ.
Các nhà bảo vệ nhân quyền đã kêu gọi Việt Nam ngay lập tức thả hai bị cáo trên.
“Đưa những người phát truyền đơn chỉ trích chính phủ ra tòa là một hành động vô lý”, Brad Adams, Giám đốc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền tại châu Á nói.
“Việt Nam nên ngừng sử dụng các phiên tòa chính trị để buộc tội các nhà bất đồng chính kiến”, ông Adams nói thêm trong một tuyên bố.
Việt Nam cấm các phương tiện truyền thông tư nhân, tất cả các tờ báo và kênh truyền hình đều do nhà nước kiểm soát. Theo các tổ chức nhân quyền thì nhiều luật sư, blogger và các nhà hoạt động thường xuyên bị công an bắt giữ tùy tiện và giam giữ trái phép. 
Đặng Khương chuyển ngữ, CTV Phía Trước
© 2013 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
 

Ai cho ông Bình ra đi? Đi đâu?

binh
Ai điều tra Thống đốc Nguyễn Văn Bình “ngay lập tức”? Ai bãi chức Nguyễn Văn Bình? Ai lôi ra ngay được những lùm xùm trong nhóm lợi ích, cả cụm tập đoàn lợi ích tài chính, ngân hàng hiện nay? Trong bài viết mới đây gửi BBC ( tại đây), nhà báo (mới được thoát 4 bức tường) Phạm Chí Dũng đã ‘đề xuất’ như vậy.
Xem ra, tác giả bài báo đã phân tích, lý giải với những nội dung và chi tiết ‘có lý’, đưa ra đề xuất mạnh bạo ấy cũng có vẻ hợp lòng dân, rất được dân ý, dân nguyện. Nhưng, đề xuất mạnh mẽ và rất ‘quyết liệt’ này hơi na ná giống tuyên bố của ông Nguyễn Bá Thanh cách đây không lâu: “… rà vô ngân hàng, hốt liền, bắt nhốt ngay…”. Nói thì dễ, tuyên bố ‘mạnh mồm’ cũng khó gì, nhưng làm được mới là điều đáng nói!
Thưa hai ông Bá Thanh và Phạm Chí Dũng, đó là các ông cứ bộc trực và nóng vội, thấy bất bình là muốn làm ngay, làm liền. Xứ ta lâu nay làm gì có vụ tiêu cực, tham nhũng, vô trách nhiệm nào mà làm được “ngay lập tức“, cứ nói thế, viết thế, đọc thêm tức! Nhưng chuyện này đâu giống mì ăn liền? Khó lắm thay! Trong cơ chế, dưới thể chế này, với cái ‘dàn cầm cân nảy mực ‘ này, nếu cái gì đang tắc, vướng, bất ổn mà làm được liền, thì đâu để thực trạng đến bây giời ông nhà báo Chí Dũng mới thoát nạn đã phải bức xúc lên tiếng một bài chuyên đề đậm đà bản sắc …chống chọi, có ‘tính chién đấu’ cao như vậy?
Trước hết, ai tuyển chọn và giao chức đó cho ông Bình? Ai huấn thị và huấn luyện những biện pháp ngoài lý luận kinh tế cho ông Bình? Ai hàng ngày ‘rà soát, chỉ giáo’ mọi việc làm và cả phán quyết, tuyên bố, trả lời phỏng vấn trên TV của ông Bình? Tác giả đã nói thẳng ông Bình là ‘cánh tay phải’ của Chính phủ. Cái tiếng nhỏ nhí mà rất sắc cạnh sau phong màn mới là nặng ký.
Nếu như theo những bài bản đã tiếp nhận ở đại học, ông Bình có làm thế không? Vậy, mọi việc làm và bài đối phó của ông Bình không thể tự ông Bình, mà ông Bình vẫn là ‘đầu sai’ mà thôi. Một vị Thống đốc lo quản đồng tiền trong ngân khố quốc gia được đào tạo (nghe nói) cũng khá là bài bản, chẳng lẽ khi có chức quyền thì ông Bình ném hết sách vở, đốt cả luận án để làm tùy tiện, bất chấp như thế hay sao? Làm gì, trước hết vì lợi ích của chính ông ta, nhưng phải dưới những ‘cái roi’ chỉ đạo…Kho bạc Nhà nước bị khui rỗng, dân lao đao vì giá cả và rất thiếu tiền, nhưng chắc chắn những vị ‘cầm trịch’ không hề thiếu tièn. Có điều, họ bơm cho ai, bơm đến đâu, bơm xong rút về (hút lại) chỗ nào là cả một đội quân ‘tàng hình’. Đó không đơn thuần là ‘tình cảm’, là thiên vị hay là “do thiếu cân đối”, do “khiếm khuyết tronh điều hành, quản lý” mà là tính toán đầy mưu mô của nhóm lợi ích! Không ai dám nói cáo già bị nhìn thấy hoặc bị đánh khi bắt gà. Còn nếu như nói đến minh bạch – Minh bạch ư? Ai dám minh bạch? Minh bạch cái gì?
Năm xưa, cái vụ lình xình giá-lương-tiền, một nhóm gọi là cải tổ, ‘cấp tiến’ đã tỏ ra hùng hổ mạnh tay, cũng bất chấp các quy luật vận hành, xa thực tế, rồi khi đổ vỡ có vị trong nhóm Phương-Truyến- Quỳnh cũng phải thanh minh: “Trên tôi còn một nhà thơ / Dưới tôi một lũ ngẩn ngơ bất tài”. Nay, biết đâu khi ‘rờ đến’, ông Bình sẽ lý giải cái gốc nguyên nhân: “Trên tôi còn mấy đầu trâu / Dưới tôi lợi ích ruồi bâu cả đàn”, thì sao?
Bùi Văn Bồng
(Blog Bùi Văn Bồng)

Nguyễn Thị Từ Huy - Máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ

Thư của Nguyễn Thị Từ Huy gửi GS. Đàm Thanh Sơn
20111117182426_tuhuy
Nguyễn Thị Từ Huy
Tôi gửi nhà văn Nguyễn Quang Lập đăng mấy bức thư này vào ngày hôm nay, 16/5/2013, ngày xét xử các sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, như một cử chỉ nhỏ để nói với các thanh niên  ấy rằng vẫn luôn có những người nghĩ đến họ.

 Thư thứ nhất

(Gửi lúc 17h54 ngày 7/4/2013) :

 GS. Đàm Thanh Sơn kính mến,

Tôi không đồng ý việc trang Cùng Viết Hiến Pháp đăng lại các bài của tôi.

Kính đề nghị BBT trang CVHP gỡ  tất cả hai bài của tôi xuống!

Trân trọng cảm ơn!

Nguyễn Thị Từ Huy

PS: tôi đã tham gia bản lấy ý kiến của trang CVHP với tất cả thiện ý và sự trọng thị của mình, giờ đây tôi rất hối hận vì đã làm việc đó.
20110819190315_DamThanhSon
Đàm Thanh Sơn
Thư thứ hai

(Gửi lúc 9h42 ngày 8/4/2013

Thư này  trả lời hồi âm của GS. Đàm Thanh Sơn, nhận được vào lúc 00h26 ngày 7/4/2013, trong đó GS có viết : « Tôi rất mong chị cho biết tại sao chị quyết định như vậy. »)

Anh Đàm Thanh Sơn kính mến,

Vấn đề điều 4 là vấn đề căn gốc của Hiến Pháp, nếu không giải quyết nó thì Hiến Pháp chỉ là bánh vẽ, đây không chỉ là quan điểm riêng của tôi, không chỉ là quan điểm của những người muốn xây dựng một xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền, mà đây là vấn đề thực tế. Nếu không giải quyết vấn đề của điều 4 thì tất cả những đề nghị khác mà các anh đặt ra sẽ không thực hiện được, không bao giờ có dân chủ, không bao giờ có pháp luật đúng nghĩa, mà pháp luật chỉ là công cụ để đảm bảo quyền lợi cho một nhóm nhỏ mà thôi.
Những điều này có lẽ các anh đều hiểu cả.

Tôi mượn một ý của nhà thơ Dương Tường để nói rằng: tôi đứng về phe nước mắt.

Nhưng giờ đây phải nói thêm: Máu và Nước Mắt.

Nhân dân chúng ta đang sống trong máu và nước mắt. Hẳn anh cũng biết các chị Trịnh Kim Tiến, Thanh Tuyền, bố họ, chồng họ đã bị giết chết bởi “những người thi hành công vụ” như thế nào. Còn nhiều chị khác phải chịu cảnh như thế mà báo chí

không nói đến. Hẳn các anh cũng biết cả gia đình anh Đoàn Văn Vươn giờ đây thành ra tù tội như thế nào trong khi nhà cửa đất đai mất hết.

Trong bức ảnh tôi gửi kèm cho anh đây, dưới túp lều đó có 4 gia đình đang sinh sống.
DSC01046

Trên khắp VN này có bao nhiêu cảnh như thế. Anh cũng biết các vấn đề biển đảo chủ quyền lãnh thổ, anh cũng biết sự khủng hoảng kinh tế, sự suy thoái của giáo dục, của văn hóa, của đạo đức đang hết sức trầm trọng trong xã hội này. Đó là hậu quả của một thể chế cho phép một nhóm nhỏ đứng lên trên pháp luật và điều khiển pháp luật, đó là hậu quả của một đường lối điều hành xã không hướng tới lợi ích chung, mà chỉ nhằm thỏa mãn lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm. Làm sao có thể hy vọng các điều khoản khác của hiến pháp được thực thi trong một thể chế mà tính toàn trị được hiến định như vậy? Và làm sao có thể có dân chủ, có tự do ngôn luận, tự do công dân?

Lập luận về việc “tôn trọng sự khác biệt về quan điểm” trong trường hợp cụ thể này, theo tôi, chỉ là logic hình thức mà thôi. Còn thực tế, máu và nước mắt của người dân buộc chúng ta phải lựa chọn và chứng tỏ một cách rõ ràng vị thế của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, tinh thần của chúng ta.

Tôi biết CVHP đăng bài của tôi từ lâu, và tôi đồng hành cùng các anh trong hy vọng rằng chúng ta sẽ góp phần làm vơi bớt máu và nước mắt trên xứ sở này. Và nay tôi rút ra vì tôi không muốn máu và nước mắt phải đổ ra nhiều hơn nữa, và vì tôi không muốn đi hàng hai, vì tôi muốn tên tôi chỉ được dùng cho một mục đích thôi: vì sự tiến bộ, công lý và bình đẳng cho mọi người.

Tôi cảm thấy anh thực sự mong muốn có lời giải thích của tôi, vì thế tôi đã viết cho anh rất thật, như vậy đó.
NTTH

 Thư thứ ba

(Gửi lúc 22h05 ngày 6/5/2013

Thư này  trả lời hồi âm của GS. Đàm Thanh Sơn, nhận được vào lúc 10h25 ngày 8/4/2013, trong đó GS  viết : « Tôi nghĩ là tôi có cách tiếp cận vấn đề khác chị »)

GS Đàm Thanh Sơn kính mến,

Anh có theo dõi tin về cuộc dã ngoại ngày 5/5 của những thanh niên muốn tìm hiểu về quyền con người không? Anh có thấy những thiếu nữ vô tội bị đánh máu còn vương trên những khuôn mặt sưng vù không? Anh có thể tìm những tấm ảnh đau đớn đó trên internet.

Liệu chúng ta có thể nhân danh quyền được khác để giữ cho mình sự thanh thản trong khi máu và nước mắt vẫn chảy hàng ngày trên xứ sở này?

Gửi anh nỗi đau chung của chúng ta.

Kính thư!

Nguyễn Thị Từ Huy
(Quê Choa)

Không thể “khoác áo” dân chủ để kích động, gây rối

“… chúng tôi cho rằng “Tuyên bố của công dân tự do” hay “Nhóm kiến nghị 72″ và những kẻ đang rêu rao dân chủ, nhân quyền thực chất là họ đang đánh tráo khái niệm dân chủ và ngụy tạo dân chủ. Đây là hành động “tự diễn biến” gây tác động tiêu cực trong đời sống xã hội.”
Hà Nội mới
Thứ Năm 06:11 16/05/2013
(HNM) – Thời gian gần đây, lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến của toàn dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhiều nhóm người tự xưng danh những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền đã đưa ra những luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; thiết lập chế độ tam quyền phân lập, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, xóa bỏ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai… 
Nhiều tài liệu phản động được những nhóm người này phát tán qua blog và một số trang mạng xã hội đã, đang làm “ô nhiễm” đời sống xã hội. Chúng tôi cho rằng, đây là những thủ đoạn kích động hết sức nguy hiểm nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đằng sau những luận điệu ngụy tạo, đánh tráo khái niệm của các nhóm người tự cho mình là nhà dân chủ, đấu tranh đòi nhân quyền thực chất là gì? Có thể nói trắng ra rằng, điều mà những người này muốn chính là xoay chuyển, sắp đặt lại thể chế chính trị hiện hành theo một khuôn mẫu có lợi cho chính bản thân họ. Và thực tế cho thấy hành động của những con người tự nhận là “công dân tự do” ấy không xuất phát từ tinh thần dân chủ, hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ mà chỉ để thỏa mãn những mục tiêu cá nhân, thậm chí chỉ để đánh bóng tên tuổi.
Nói tới dân chủ, trước hết cần đề cập đến những khái niệm cơ bản nhất. Dân chủ là gì? Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng người Hy Lạp cổ là chủ nhân sáng tạo nền dân chủ và các thiết chế dân chủ xét từ cả phương diện lý luận và thực tiễn. Song căn cứ vào chế độ chính trị, các giá trị văn hóa, truyền thống, tính cách dân tộc, định hướng phát triển… của từng quốc gia, sẽ có cách tiếp cận và những định nghĩa khác nhau về dân chủ. Tựu trung, xét về bản chất, dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng từng cá nhân con người như một thành viên bình đẳng trong xã hội, được lắng nghe và được thể hiện quan điểm, là quyền được tham gia các hoạt động của đời sống chính trị, xã hội của đất nước, tham gia quản lý xã hội và xây dựng các quyết sách thông qua các cơ chế khác nhau trên cơ sở đồng thuận xã hội. Dân chủ là “môi trường”, là động lực cho sự năng động, tính tự chủ và tinh thần sáng tạo của từng cá nhân trong cộng đồng… Vậy, có thể thấy rằng, dân chủ là một giá trị phổ biến, có tính toàn cầu nhưng dân chủ và quyền con người còn là một giá trị lịch sử, gắn với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi khu vực trên thế giới.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam có đặc điểm riêng về lịch sử, văn hóa và trình độ phát triển nên đương nhiên có quan niệm và tiêu chí về dân chủ, nhân quyền của riêng mình. Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được diễn đạt qua hai mệnh đề: “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Dân là chủ nói đến vị thế của nhân dân. Dân làm chủ đề cập đến năng lực và trách nhiệm của nhân dân. Hai mệnh đề này thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của nhân dân. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước do nhân dân làm chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong việc xây dựng nền dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội; xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; xây dựng mặt trận với vai trò liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị xã hội vì mục tiêu chung là sự phát triển của đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị xã hội rộng rãi khác của nhân dân… Đảng là hạt nhân chính trị của toàn xã hội, là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính dân chủ của xã hội. Thực hành dân chủ rộng rãi theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực tế trong tiến trình cách mạng của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội… Đấy chính là những thành tựu dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất mà nhân dân Việt Nam đã giành được. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng cũng có một thực tế là, một thời gian dài đất nước rơi vào hoàn cảnh chiến tranh, cộng với việc áp dụng một cách máy móc mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước XHCN khác đã tạo ra một xã hội trì trệ, chậm phát triển, một bộ máy hành chính cồng kềnh, quan liêu, xa rời nhân dân. Tình trạng mất dân chủ, dân chủ hình thức, vi phạm dân chủ đã xảy ra, địa vị làm chủ của người dân chưa được quan tâm đúng mức… Tuy nhiên, với đường lối đổi mới được thực hiện từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Việt Nam đã từng bước dân chủ hóa mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Đây là một cuộc cách mạng sâu rộng trong toàn xã hội để thực hiện các mục tiêu dân chủ và hiện thực hóa các giá trị dân chủ vào cuộc sống.
Dân chủ chính là điều kiện trực tiếp mang lại tự do cho con người. Việt Nam đang thực hiện tiến trình dân chủ hóa với mục tiêu con người được phát triển toàn diện và thực sự làm chủ xã hội. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều quyết sách bảo đảm thực thi các giá trị dân chủ, các quyền dân chủ tiến bộ vào cuộc sống, làm cho nó trở thành hiện thực trực tiếp và phổ biến trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2001), Đảng ta đã tiếp tục khẳng định: Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm… Xây dựng đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” là ý chí của Đảng cũng là nguyện vọng của nhân dân ta. Đảng, Nhà nước và đại đa số người dân Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu để khát vọng lớn lao ấy trở thành hiện thực. Dân chủ hóa là một tiến trình, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về dân chủ, nhân quyền và cũng xác định rõ ràng rằng phía trước còn nhiều việc phải làm để dân chủ thực sự là động lực phát triển.
Một vấn đề nữa, nhìn từ thực tế các cuộc “cách mạng dân chủ” theo kiểu mẫu của phương Tây đã và đang diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới, chúng ta có thể nhận thấy rằng sau những chiếc “bánh vẽ” đầy màu sắc của “cách mạng nhung”, “cách mạng cam”, “cách mạng hoa nhài”… tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều quốc gia, nơi đã xảy ra các cuộc cách mạng ấy vẫn còn nhiều bất ổn. Suy thoái, xung đột quyền lực, sắc tộc, đảng phái vẫn chưa được giải quyết và cuộc sống của những người xuống đường theo sự mời gọi hấp dẫn của những “sắc màu” ngày càng trở nên khó khăn hơn. Dân chủ với nghèo đói và bất ổn là những khái niệm không thể tương hợp, dân chủ không thể đến với những nơi mà đói nghèo, bất ổn đang ngự trị. Trên thực tế, những cuộc bạo loạn, lật đổ mang tên “cách mạng sắc màu” ấy không phải là những cuộc cách mạng mà chỉ là những cuộc lật đổ để thay chính quyền hiện hữu bằng một chính quyền thân phương Tây hơn mà thôi. Những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cái giá phải trả cho “bánh vẽ dân chủ” tiếp tục đeo bám người dân và để lại hệ lụy thế nào cho đời sống xã hội thì câu trả lời đã quá rõ.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng “Tuyên bố của công dân tự do” hay “nhóm kiến nghị 72″ và những kẻ đang rêu rao dân chủ, nhân quyền thực chất là họ đang đánh tráo khái niệm dân chủ và ngụy tạo dân chủ. Đây là hành động “tự diễn biến” gây tác động tiêu cực trong đời sống xã hội. Những người “khoác áo” dân chủ này không lẽ không biết các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các hoạt động phá hoại với những chiêu bài thâm độc của “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá tiến trình phát triển của dân tộc? Họ biết rất rõ điều đó! Chúng tôi nghĩ rằng họ hiểu hơn ai hết dân chủ thật sự là gì, tiến trình dân chủ hóa gắn với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam đang được thực hiện ra sao. Và chắc chắn họ cũng hiểu rằng sự bất ổn xã hội sẽ gây ra những hệ lụy đau đớn thế nào với một quốc gia, một dân tộc. Vậy vì sao họ lại nhân danh dân chủ để đưa ra những luận điệu sai trái, kích động nhân dân? Câu trả lời đã quá rõ và có lẽ không phải bàn thêm.
Trí Dũng
Nguồn: báo Hà Nội mới

Nguyễn Vạn Phú - Nước đổ ra rồi (2)

Hôm qua tôi có viết về chuyện sunk cost ở dự án khai thác Bauxite Nhân Cơ dưới hình ảnh “nước đổ ra rồi” cho dễ hình dung ( xem Nước đổ ra rồi -1 tại đây). Hôm nay đại diện chủ đầu tư là Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã họp báo với những phát biểu rất điển hình cho một tình huống sunk cost fallacy: “Chúng tôi không dám dừng vì thiệt hại sẽ rất lớn”; “Số tiền mà chúng tôi đã bỏ ra là rất lớn”; “Những thiệt hại mà chúng tôi sẽ phải gánh vác xử lý, khó khăn còn nhiều hơn là tiếp tục dự án”.
Thiệt đáng tiếc cái tâm lý “nước đổ ra rồi” người ngoài dễ thấy còn người trong cuộc với nhiều ràng buộc thì khó nhận ra.
Theo tôi tốt nhất là thuyết phục cho Nhà nước thấy nếu tiếp tục thì càng mất thêm tiền, mới hy vọng sẽ có một quyết định can đảm dừng dự án Nhân Cơ.
Thuyết phục như thế cũng dễ nếu chịu lắng nghe: 1. Tổng mức đầu tư tăng 37,80% thì mọi thông số cũ xem như bỏ, làm lại từ đầu. Nếu cứ cho là khi tổng mức đầu tư chưa tăng thì dự án có lãi chút ít, nay tăng đến gần 40% thì chắc chắn sẽ lỗ.
2. Khi Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng báo cáo với Quốc hội thì IRR của Nhân Cơ là 10,6% nay chỉ còn 7,62% thì lãi ở chỗ nào nữa. (Chúng ta không cần biết IRR là gì, chỉ cần nhớ nếu IRR này thấp hơn mức sinh lời mong muốn thì xem như dự án đổ sông đổ biển – ít nhất IRR cũng phải cao hơn mức lãi vay ngân hàng).
Tổng vốn mà TKV đã rót cho hai dự án bauxite tại Tây Nguyên hiện đã lên tới trên 18.000 tỷ đồng.
3. Cái con số IRR đó được 7,62% là do biến báo nhiều con số khác; ví dụ thuế xuất khẩu nay được miễn còn 0% (đào tài nguyên lên bán mà được miễn thuế thì làm để làm gì nhỉ?); vốn vay thì kê khống lên là vay được của nước ngoài lên trên 2/3 tổng mức đầu tư và lãi suất hạ thấp xuống từ 8% nay chỉ còn 5,45% (vay ở đâu thì không thấy nói). Tất cả những con số nói trên là lấy từ các con số chính thức của TKV. Nếu không biến báo như thế, IRR còn thấp hơn nữa.
Theo tôi bản thân TKV cũng muốn dừng dự án Nhân Cơ nhưng chưa tìm ra lý do chính đáng, lại sợ trách nhiệm nên bản thân họ khó có quyết định dừng. Chỉ có một nơi có thể ra lệnh dừng để giảm bớt thiệt hại: Đó là bên phía Đảng và dựa vào kết luận của Bộ Chính trị ngày 24-4-2009 trong Thông báo số 245- TB/TW ghi rõ: “Riêng Dự án Nhân Cơ, cần rà soát lại toàn bộ các vấn đề có liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện”. Đó là lối thoát trong danh dự duy nhất.
Nguyễn Vạn Phú
(Blog Nguyễn Vạn Phú)

TS Lê Đăng Doanh: Phải quy trách nhiệm cá nhân trong dự án bauxite

TS Lê Đăng Doanh
TS Lê Đăng Doanh
Theo TS Lê Đăng Doanh, quyết định “đâm lao nên phải theo lao” của Vinacomin khi kiên trì tiếp tục làm 2 dự án Bauxite, về mặt kinh tế học là không thể chấp nhận được.
Không thể chấp nhận được!
Thưa TS, sáng nay Vinacomin vừa tổ chức họp báo về những vấn đề liên quan đến hai dự án bauxite ở Tây Nguyên là Tân Rai và Nhân Cơ, theo đó cho hay rằng họ quyết định không dừng lại mà vẫn tiếp tục hai dự án bauxite ở Tây Nguyên. Là một chuyên gia đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo về hiệu quả của các dự án này, ông nghĩ sao về điều này?
Trước các ý kiến đóng góp rất có tinh thần xây dựng, có căn cứ của các nhà khoa học. Vinacomin bây giờ mới tổ chức họp báo với những lí lẽ không đi vào những điều mà các nhà khoa học chỉ ra mà lại đưa ra những lập luận một chiều. Tôi nghĩ cần tổ chức một cuộc đối thoại song phương và hai bên cùng nói về những lập luận mà các nhà khoa học trình bày, như thế mới sáng rõ mọi vấn đề ra được.
Còn nếu Vinacomin lập luận đâm lao phải theo lao, đứng về kinh tế học là không thể chấp nhận được. Bởi vì anh đã thua lỗ mà càng tiếp tục dấn vào thì anh càng thua lỗ chứ có ích lợi gì đâu. Giống như Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đánh trận Điện Biên Phủ, dù rất vất vả để kéo pháo vào rồi, nhưng xem xét tình hình thấy không thể “đánh nhanh thắng nhanh” được như dự định, Đại tướng đã quyết định kéo pháo ra, chuyển sang “đánh chắc thắng chắc”.
Cái trách nhiệm và khôn ngoan của người cầm quân, người lãnh đạo là ở chỗ đó. Đã có sai lầm, đã có thua lỗ thì phải dừng lại và tìm phương án khác. Nếu không sau này có hậu quả thì trách nhiệm không gánh vác hết được.
Phải quy trách nhiệm cá nhân
Sáng nay,  khi khẳng định dự án hiệu quả nên sẽ không dừng lại, đại diện Vinacomin có nói “ Chúng tôi chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước”. Ông bình luận gì về ba chữ “chịu trách nhiệm” đang nói ở đây?
Chỉ nói theo giải thích, tính toán của tập đoàn, thì hai dự án này phải 12-13 năm nữa mới thu hồi vốn. Sau thời gian đó nếu sự việc không diễn ra như vậy thì sao? Kể cả khi thua lỗ nặng, họ chắc gì đã còn ngồi ở đó mà “chịu trách nhiệm”.
Tôi nghĩ  lúc này Vinacomin cần có tinh thần cầu thị, cầu thị ở đây là cần có người đứng ra gánh vác tránh nhiệm, trách nhiệm xem xét và ra quyết định xem có dừng lại hay tiếp tục. Và nếu tiếp tục mà thua lỗ thì người đó phải có trách nhiệm cá nhân trước Quốc hội, trước nhân dân về hiệu quả của đồng vốn đã bỏ ra, bao gồm cả trách nhiệm về mặt tài chính, về mặt hành chính, thậm chí là trách nhiệm hình sự.
Xin cảm ơn TS!
Hồng Anh
(Trí Thức Trẻ)
 

Lần đầu tiên bỏ phiếu tín nhiệm tại VN

Trong kỳ họp Quốc hội (QH) sắp tới, một hoạt động lần đầu tiên được thực hiện là việc bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn.
Vũ Hoàng phỏng vấn ông Lê Văn Cuông, nguyên phó Trưởng đoàn Đại biểu QH tỉnh Thanh Hóa. Theo ông, những người bị bỏ phiếu tín nhiệm thấp thì nên từ chức ngay hoặc Việt Nam cần có chế tài bỏ phiếu ngay trong năm đó, không nên chờ đến năm sau mới lấy phiếu.
ImageHandler.ashx-305.jpg
Các đại biểu quốc hội nhấn nút bỏ phiếu trong một kỳ họp quốc hội.
Photo courtesy of nld.com.vn
Văn hóa từ chức
Vũ Hoàng: Thưa ông Lê Văn Cuông, trước hết cám ơn ông đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn với đài ACTD. Thưa ông, trong kỳ họp QH khai mạc vào 20/5 tới, tại đây sẽ diễn ra hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh, ông có thể giải thích rõ hơn hoạt động này được không ạ?
Ông Lê Văn Cuông: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Quốc hội (QH) bỏ phiếu tín nhiệm những người do Quốc hội bầu và phê chuẩn, thế nhưng quy định này nhiều năm qua chưa được thực thi. Vừa qua, theo Nghị quyết của Trung Ương, Quốc hội đã xúc tiến triển khai các văn bản, quy phạm pháp luật để tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, cụ thể là có 49 chức danh.
Quy định của luật pháp Việt Nam là bỏ phiếu, nhưng Ủy ban thường vụ QH (UBTVQH) cũng như QH thống nhất phân chia thành 2 bước: bước lấy phiếu và bước bỏ phiếu, nghĩa là nếu 2 lần có tín nhiệm thấp thì đưa ra bỏ phiếu. Cho nên vấn đề này gây ra băn khoăn cho dư luận như thế có kéo dài thời gian nhiệm kỳ 5 năm mà hai lần lấy phiếu tỷ lệ thấp thì mới bỏ phiếu năm thứ ba, thì cũng gần hết nhiệm kỳ rồi. Cho nên bây giờ có những ý kiến đề nghị nếu như lấy phiếu lần đầu mà tỷ lệ quá thấp thì cần phải có một cơ chế tự nguyện xin từ chức, còn nếu đối tượng không tự nguyện từ chức thì phải có một chế tài bỏ phiếu ngay trong năm đó, chứ không phải chờ đến năm sau mới lấy phiếu, nếu vậy hiệu lực không cao, thời gian phân tán, kéo dài quá sẽ ảnh hưởng đến mục đích của việc bỏ phiếu.
Vấn đề này cũng là lần đầu tiên QH Việt Nam thực hiện, trước đây chưa có tiền lệ nên mọi việc cũng đang được chuẩn bị rất chu đáo vì nó liên quan đến vai trò cá nhân, danh dự, uy tín và đó cũng là việc nhạy cảm. Chắc chắn thời gian tới, QH sẽ có nhiều việc làm rút kinh nghiệm để cho việc bỏ phiếu sẽ đạt được những kết quả như mong đợi.
Vũ Hoàng: Vâng, như ông vừa nhắc tới chuyện từ chức, vậy ông đánh giá sao về văn hóa từ chức tại Việt Nam, nhất là trong giai đoạn gần đây khi có khá nhiều những cán bộ cấp cao không thực hiện tròn vẹn trách nhiệm của mình?
Ông Lê Văn Cuông: Đối với các nước, việc từ chức diễn ra một cách rất bình thường, nhưng ở Việt Nam chưa có tiền lệ và rất nặng nề bởi mọi người hướng tới sự thăng tiến chứ việc bị từ chức, cách chức hay kỷ luật là một vấn đề khá nặng nề.
Cho nên để làm thay đổi nhận thức, trở thành văn hóa từ chức như một việc làm bình thường thì được xã hội cũng đang quan tâm, chính trên Nghị trường Quốc hội cũng như dư luận cũng mong rằng trong điều kiện Việt Nam hòa nhập với quốc tế, Việt Nam nên xúc tiến xây dựng văn hóa từ chức để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, chứ nếu một người không hoàn thành nhiệm vụ, không có uy tín mà không tự nguyện từ chức, không bị cách chức mà phải chờ đến khi về hưu hoặc hết nhiệm kỳ thì mới luân chuyển hoặc thay đổi vị trí thì sẽ làm sự phát triển của đất nước bị chậm lại, thứ hai, nó cũng tạo ra sức ỳ sẽ làm cho các đối tượng đương chức không quan tâm phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ của mình, trì trệ, bình chân như vại, an bài, đây cũng là vấn đề rất ảnh hưởng đến sự phát triển chung.
Vì thế Việt Nam cũng đang tiến tới xây dựng văn hóa từ chức để khi bản thân không đảm đương được nhiệm vụ hoặc khi dư luận chê trách nhiều hoặc có sai phạm thì nên từ chức để người khác lên đảm nhận vị trí của mình. Văn hóa từ chức của Việt Nam chưa hình thành, vấn đề từ chức nặng nề cho nên đó là bức xúc trong xã hội và chính quy định lấy phiếu và bỏ phiếu của Quốc hội sắp tới sẽ là bước “vạn sự khởi đầu nan” cho nền văn hóa từ chức của các quan chức VN sẽ được hình thành và trở thành điều bình thường như các nước trong tương lai tới.
Hiệu quả tới đâu
Vũ Hoàng: Cám ơn ông, thưa ông vì đây là lần đầu tiên hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm diễn ra, ông đánh giá về mức độ hiệu quả của lần đầu tiên này ra sao?
Ông Lê Văn Cuông: Như tôi nói, Việt Nam chưa có tiền lệ lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm, bây giờ là lần đầu tiên, cho nên sẽ không tránh khỏi những lúng túng hay những vấn đề trong suy nghĩ và việc làm của các cơ quan chức năng cũng như của Đại biểu QH. Cử tri và nhân dân Việt Nam đang mong đợi QH sẽ thể hiện được vai trò của mình, đại diện cho cử tri, có được kết quả lấy phiếu và bỏ phiếu thực sự khách quan, công bằng, thể hiện được sự chuẩn xác trong đánh giá, nhìn nhận về quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng do QH bầu và phê chuẩn.
Tuy nhiên, tình hình hiện nay của Việt Nam rất phức tạp, lợi ích nhóm hình thành và phát triển ngày càng sâu rộng ở nhiều nơi, rồi một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất, sa sút về phẩm chất đạo đức và hạn chế của đại biểu QH về nắm bắt thông tin, cũng như mối quan hệ ngang dọc cũng như sức ép bên ngoài, cho nên dư luận lo lắng về chất lượng lá phiếu.
Như chúng tôi hoạt động trong Nghị trường, chúng tôi cũng thấy rằng mặc dù những khách quan và chủ quan có hạn chế, nhưng các đại biểu QHVN khóa tới sẽ thể hiện được trọng trách của mình thông qua việc lấy phiếu và bỏ phiếu để góp phần xây dựng thiết chế về lâu về dài cho Việt Nam trong việc xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh thật sự tiêu biểu, xứng đáng với lòng mong mỏi của cử tri để nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trọng trách mà QH và nhân dân giao cho, để đưa Việt Nam đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông rất nhiều.
Theo quy định, 49 chức danh thuộc diện lấy phiếu tín nhiệm gồm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước; chủ tịch QH, phó chủ tịch QH, chủ tịch Hội đồng Dân tộc, chủ nhiệm các Ủy ban của QH, các thành viên khác của UBTVQH; Thủ tướng, phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước. Dự kiến vào ngày 13/6, lần đầu tiên QH sẽ chính thức lấy phiếu tín nhiệm, kiểm phiếu và công bố kết quả kiểm phiếu ngay trong ngày.
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-05-16 

Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng: Tiền tiêu như thế thì chết à?

Kết thúc phiên thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội tại cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 14/5, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng không giấu quan ngại: ‘Tình hình tài chính thế này là tôi thấy xấu lắm’.
Tiền đâu mà tạm ứng?
Tại phiên họp chiều 14/5, báo cáo Thẩm tra về giải pháp bảo đảm cân đối ngân sách các cấp năm 2012 Chủ nhiệm Ủy ban tài chính – ngân sách cho biết, ngân sách trung ương tính đến hết năm 2012 còn 5.874,4 tỷ đồng.
Trong đó: nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản chưa giải ngân thuộc kế hoạch năm 2011 của các bộ, ngành và cơ quan Trung ương được chuyển nguồn sang năm 2012 còn lại sau khi đã thực hiện các nhiệm vụ là 1.874,4 tỷ đồng.
Thường trực Ủy ban TCNS có ý kiến đối với số vốn chuyển nguồn theo Báo cáo quyết toán NSNN năm 2011 là 1.874,4 tỷ đồng đã được UBTVQH thống nhất chủ trương cho phép chuyển nguồn và Chính phủ báo cáo phương án phân bổ sử dụng cho 3 nhiệm vụ chi cụ thể: bổ sung 438,1 tỷ đồng để thu hồi chưa giải ngân thuộc kế hoạch  đầu tư xây dựng cơ bản năm 2010 của các bộ, cơ quan trung ương; bổ sung 301,6 tỷ đồng cho Bộ NN và PTNN; bổ sung 419,8 tỷ đồng hoàn trả vốn ứng trước cho Bộ GTVT.
Đa số ý kiến tán thành với đề nghị của Chính phủ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, việc tạm ứng sau đó bố trí vốn để hoàn trả là chưa hợp lý.
Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng: 'Tiền tiêu như thế thì chết à'
Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng: 'Tiền tiêu như thế thì chết à'
Trước câu chuyện hoàn ứng – tạm ứng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng bày tỏ sự phản ứng gay gắt. Ông cho rằng tình trạng tạm ứng dẫn đến nợ xây dựng cơ bản địa phương lên đến gần 100 nghìn tỷ đồng.
Soi vào tập báo cáo về ngân sách, ông sốt ruột, “như vậy là điều hành ngân sách kiểu gì, tiền đâu mà tạm ứng hàng đống gây ra nợ và tạo ra mất cân đối, anh lấy tiền đâu mà ứng, ứng thế mà sập quỹ à. Mình làm ăn phải có của ăn của để, chứ tiêu thế này có mà chết à?”
Nhìn tổng thể, Chủ tịch Quốc hội cho rằng cả báo cáo của Chính phủ, báo cáo thẩm tra dày và dàn trải, thiếu điểm nhấn.
Ông yêu cầu cả báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra đều phải nói rõ các chỉ tiêu nào so với năm ngoái là tốt hơn hay bằng hay chưa đạt và tại sao.
Tất cả đều nằm ở ngân hàng và bất động sản
Theo Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng, lạm phát khoảng 7-8% là được, còn 6,81% cũng là tốt, nhưng là "tốt quá" nên ảnh hưởng đến tăng trưởng.
"Điều hành như vậy là dở, nếu CPI trên 7% thì bây giờ tăng trưởng không thấp thế, cái này là do điều hành", ông quả quyết.
Đặt câu hỏi tại sao tăng trưởng không hợp lý, Chủ tịch cho rằng không phải tất cả mọi chuyện đều nằm ở ngân hàng, mà còn liên quan đến tồn kho, bất động sản…
Trước đó, phó Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân, cho rằng ngân hàng huy động được dòng tiền nhưng không cho vay được vì tình trạng đình trệ của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không đồng tình với quan điểm này, Chủ nhiệm Văn phòng QH Nguyễn Hạnh Phúc lại cho rằng chuyện vay vốn từ ngân hàng khó không chỉ từ phía doanh nghiệp. Thực tế, rất nhiều ngân hàng tuy lúc nào cũng nói sẵn sàng mở cửa, sẵn sàng cho vay, không hề thiếu tiền song để doanh nghiệp tiếp cận được nguồn tiền không dễ.
Nhiều ĐB cũng tán thành cần tập trung nguồn lực gỡ bằng được điểm nghẽn về dòng vốn, như vậy mới hy vọng giải quyết phần nào khó khăn.
Ngoài ra, các ủy viên Thường vụ cũng đề xuất Thống đốc Ngân hàng sớm soạn báo cáo riêng gửi QH về hoạt động điều hành của Ngân hàng Nhà nước.


Các giải pháp điều hành về kinh tế - ngân sách của Chính phủ đề ra từ nay đến cuối năm 2013:
 (1) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phát hiện hành vi gian lận về thuế, hoàn thuế, tích cực chống buôn lậu, chuyển giá, thu hồi nợ đọng thuế, góp phần tăng thu cho NSNN. Cân nhắc thận trọng việc điều chỉnh chính sách thu NSNN, tránh dẫn đến giảm thu quá lớn. Đồng thời, đánh giá lại về cơ cấu thu NSNN, tính hợp lý của chính sách thu hiện hành.
(2) Triệt để tiết kiệm, không ban hành chính sách chế độ mới làm tăng chi NSNN. Rà soát, cắt, giảm những khoản chi NSNN chưa thật cần thiết. Cơ cấu lại chi NSNN hợp lý theo hướng hạn chế hoặc tạm dừng việc mua sắm xe công, các thiết bị đắt tiền chưa cần thiết; chú trọng tinh giảm biên chế; tăng cường xã hội hóa để giảm gánh nặng cho NSNN. Có chế tài mạnh mẽ, gắn trách nhiệm của người quyết định đầu tư, phê duyệt dự án với hiệu quả dự án.
(3) Rà soát lại các khoản nợ đọng, có phương án đề xuất xử lý. Hạn chế tối đa việc ứng vốn đầu tư; đối với các công trình, dự án ứng vốn không hoàn trả trong năm phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
(4) Đề nghị Chính phủ dự báo sát tình hình kinh tế, số thu NSNN và có phương án xử lý trường hợp hụt thu NSNN; nếu cần thiết phải báo cáo Quốc hội điều chỉnh dự toán NSNN theo quy định của Luật NSNN.
(Thẩm tra về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện NSNN năm 2012, triển khai dự toán NSNN năm 2013)
Bích Ngọc
(Đất Việt) 

Người Buôn Gió - Đại Vệ Chí Dị - Một cổ mấy tròng

Nước Vệ nhiều nhà Sản năm thứ 68. Kinh tế suy thoái, khó khăn chồng chất đổ lên đầu người dân. Nhà Sản ngầm quy tội tất cả mọi chuyện do đảng Ích mà ra.
Đảng Ích vốn từ trong lòng nhà Sản mà ra. Khi xưa khó khăn, nhà Sản mở trói cho thiên hạ làm ăn. Đồng thời phủ dụ dân chúng hãy chịu khó cày cuốc, buôn bán kiếm kim ngân mà lo cho bản thân. Đừng nghĩ chuyện quốc gia, đại sự. Từ khi có phủ dụ ấy, người thiên hạ thi nhau kiếm tiền bằng mọi giá. Thước đo nhân cách con người không phải là đạo lý thánh hiền, mà thước đo nhân cách con người được tính bằng tiền bạc. Bởi vậy chuyện kiếm tiền bằng tham nhũng, gian lận, cưỡng đoạt, lừa đảo đều được thiên hạ bỏ qua. Miễn sao có nhiều kim ngân người đó là anh tài.
Ảnh mang tính minh hoạ. Nguồn: internet.
Cơ hội kiếm tiền đến với nhiều người. Thầy thuốc thì ép bệnh nhân trên giường bệnh lấy tiền. Thầy đồ mở lớp học thêm ở nhà thu tiền, ở trường dạy qua loa, ở nhà dạy kỹ càng, học trò muốn giỏi phải đóng tiền học thêm. Công sai đi tuần ráo riết hàng giờ ngoài đường, thấy lỗi gì của dân dù nhỏ cũng không buông tha. Quan lại không có tiền đút lót không duyệt bất cứ thứ gì. Đến bọn văn thư, nha lại cũng cậy mình ở cửa quan sách nhiễu đòi tiền dân. Các con buôn thi nhau nhập hàng độc hại giá rẻ về trà trộn bán cho dân chúng....
Nhưng cơ hội kiếm tiền nhiều nhất và lớn nhất đương nhiên thuộc về tể tướng, bởi ngài coi soát việc kinh tế trong triều. Một lời của ngài, một chữ ký của ngài kẻ khác có được hàng vạn lượng. Những kẻ hám lợi vây quanh tể tướng để nhận chút mưa móc. Lâu ngày chúng đông dần lên. Nghiễm nhiên thành băng đảng, kẻ đứng đầu băng đảng ấy tất là tể tướng.
Người trong thiên hạ gọi cái băng đó là đảng Ích.
Đảng Ích năm thứ 68 thâu tóm mọi tài nguyên, lợi nhuận trong nước. Thế mạnh vô cùng, Vệ Kính Vương lo sợ nhà Sản mất về tay đảng Ích. Ngày đêm Vương toan tính mọi điều để hạn chế sự bành trướng của đảng Ích. Nhưng Vương nghĩ ra mưu kế nào, đảng trưởng X đập tan ngay trong trứng nước.
Sở dĩ kế của Vương không thành do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân do đảng Ích nắm hết ngân khố đã đành. Nguyên nhân nữa là giờ không có đảng Ích thì cái nhà Sản vốn đã bị dân chúng coi khinh làm sao tồn tại được. Đảng Ích quyền hành bao trùm thiên hạ, dù tham nhũng những vẫn coi trọng nhà Sản. Như lý thuyết giữ chùa được ăn oản. Oản thì đảng Ích có được ăn thì mới giữ chùa nhà Sản.
Đảng Ích và nhà Sản gườm nhau thế, nhưng cả hai vẫn ngầm quy ước là quy phục Tề. Bởi có quy phục Tề thì hiện trạng chùa vẫn được giữ, oản vẫn có ăn. Cả Sản và Ích đều tồn tại và có phần.
Nhà Sản mấy lần đã dâng sớ tâu sang Tề, nói rằng đảng Ích lũng đoạn nước Vệ, nếu không diệt thì tất có ngày Ích soán quyền. Lúc ấy liệu Vệ có còn dâng cống nạp mà thuần phục Tề nữa không.?
Đảng Ích cũng đoán được ý trong sớ, nên gia tăng bắt những người trong nước có lòng ghét Tề. Năm nào đảng Ích cũng đưa dăm bảy người Vệ chống Tề ra xử thật nặng.
Tề Vương Tạp Cặn thấy bọn bầy tôi nước Vệ dẫu có dèm nhau, nhưng đối với Tề cả hai đều tỏ lòng trung. Nên chỉ khuyến cáo là đã làm bầy tôi cho Tề thì chớ có bụng làm bạn với nước khác. Cứ nghe khuyến cáo ấy thì chính sự Vệ ổn định, hòa bình, an hòa bốn cõi. Triều đình nhà Sản và đảng Ích sánh ngang tuế nguyệt, đời đời chia nhau hưởng lộc ở nước Vệ.
Bởi thế Tề cho quân sang chiếm đảo Vệ. Nhà Sản không nói gì, đảng Ích cũng chẳng làm gì.
Ở phía Nam nước Vệ, đất Rồng Nằm có đôi học trẻ một trai, một gái tuổi còn đôi chin, vì căm tức quân Tề lộng hành bắn giết ngư dân Vệ ngoại biển, chiếm đoạt tài nguyên của Vệ ngoài biển. Đôi bạn trẻ cắt tay lấy máu viết tờ phản đối hành vì của ngạo ngược của Tề.
Gặp đúng lúc Sản và Ích hục hặc, cả hai muốn lấy lòng thiên triều nhà Tề. Bèn bắt bọn trẻ và kết án tù khổ sai nhiều năm.
Sau đó cả hai đều lập tức dâng sớ sang Tề nhận công, xin chứng nhận lòng trung son sắt với thiên triều.
Tề Bá Vương Tạp Cặn nhận sớ, khen cả hai phe đều là trung nghĩa.
Nước Vệ chính sự lại yên ổn, thanh bình, không có chiến tranh loạn lạc.
Những phường con buôn, quan lại, công sai, văn thư, nha lại, thầy thuốc, thầy đồ... thở phào nhẹ nhõm vì môi trường kiếm ăn không bị xáo trộn. Chúng đua nhau ca ngợi chính sách, đường lối của nhà Sản và đảng Ích đã khéo léo gìn giữ chính sự yên bình. Thay mặt nhân dân, chúng cảm tạ trời đất đã sinh ra nhà Sản, lại còn sinh thêm đảng Ích để giúp rập cơ đồ tiên đế để lại bền như tuế nguyệt.
Khi xưa tiên đế nhà Vệ khởi binh, tuyên cáo tội bọn Phá Lãng Sa và triều đình thực dân đã bóc lột dân Vệ , khiến dân Vệ vào cảnh một cổ hai tròng.
Nhờ vạch tội rõ thế, tiên đế thành công đoạt lấy thiên hạ, dựng nên nhà Vệ đến ngày nay.
Lớp hậu sinh kế tục nghiệp tiên đế đã có những bước ly luận đột phá, đi tắt, đón đầu hợp với thực tiễn thời cuộc để gìn giữ cơ nghiệp. Đó là một cổ hai tròng thì có thể bị lật, chứ một cổ mà ba hay bốn tròng thì dân có sức bằng trời cũng không lật được.
Thật là hậu sinh khả úy.
Người Buôn Gió
(Vietinfo.eu)

Nguyễn Vạn Phú - Việt Nam có báo tư nhân không?

Câu trả lời cho tít bài này là KHÔNG! Các quan chức đã nhiều lần khẳng định tất cả báo chí ở Việt Nam đều thuộc Nhà nước và Chính phủ không có kế hoạch tư nhân hóa báo chí.
Tuy nhiên sự khẳng định này nhiều lúc lại đẩy chúng ta vào thế kẹt, không biết nói sao cho ổn.
Thứ nhất, đó là sự lúng túng. Hiện nay có nhiều tờ báo không biết của ai cho rõ ràng, dứt khoát. Lấy ví dụ tờ VnExpress.net là tờ báo mạng được nhiều người đọc nhất Việt Nam. Ai cũng biết đây là tờ báo do công ty FPT lập ra vào tháng 2-2001. Bản cáo bạch của FPT viết: “Tháng 11-2002, VnExpress.net trở thành tờ báo điện tử đầu tiên của Việt Nam được cấp giấy phép”. Sau đó nhiều trang thông tin đi theo tờ báo này đã lần lượt ra đời như Ngoisao.net, Danduong.net, Sohoa.net… Khổ nỗi FPT là công ty cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bất kỳ ai bỏ ít tiền ra mua cổ phiếu FPT cũng có thể nói tôi đang sở hữu một phần tờ báo VnExpress.net này? Vậy không lẽ đây là tờ báo tư nhân?
Danh chính ngôn thuận mà nói VnExpress.net tự nhận cơ quan chủ quản của mình là Bộ Khoa học Công nghệ! Trong cơ cấu tổ chức của Bộ này cũng ghi VnExpress là một trong những đơn vị thuộc khối sự nghiệp của Bộ. Thế nhưng, báo cáo tài chính năm 2012 của FPT (trang 19) vẫn ghi nhận tập đoàn có các bộ phận chia theo hai lãnh vực kinh doanh chính dưới sự quản lý của Công ty Cổ phần FPT, trong đó, phần nội dung số có liệt kê hệ thống báo điện tử VnExpress, Ngoisao.net… FPT là một công ty niêm yết, công bố thông tin mù mờ kiểu này là không được.
Vậy cuối cùng VnExpress là của ai? Xin nói ngay, theo tôi, nếu VnExpress là tờ báo “cổ phần” đầu tiên lại càng hay.
Thứ hai, đó là sự nhập nhằng. Những trang thông tin điện tử như Vietstock.vn, CafeF.vn đang hoạt động như những tờ báo tài chính chuyên nghiệp thế nhưng lại đang ẩn mình thành các trang thông tin điện tử tổng hợp chứ không phải là báo. CafeF.vn là của Công ty Cổ phần Truyền thông Việt Nam, nơi có hàng loạt “cổng thông tin” như Afamily khét tiếng chuyện tình dục, hay Kênh 14, CafeBiz... Vietstock tự nhận có “cơ quan chủ quản” là công ty cổ phần Tài Việt. Cả hai chủ yếu lấy tin từ các báo khác nhưng thỉnh thoảng vẫn có tin bài riêng, ký Vietstock hay CafeF đàng hoàng, tức vẫn có “phóng viên” đi lấy tin, viết bài như một tờ báo. Một số nơi nhiều lúc phải nhờ các tờ báo khác “hợp thức hóa” tin rồi đăng lên, tức là tin của mình nhưng ở dưới lại ghi “theo…”, thật trái khoáy.
Loại hình này ngày càng nhiều, không thể đếm hết, có thể kể đến Gafin.vn (công ty cổ phần tích hợp dữ liệu NextCom); Vinacorp.vn (Công ty cổ phần Công nghệ Hoàng Minh)… Theo số liệu của tờ Nghề báo, hiện có đến 1.174 trang thông tin điện tử tổng hợp, riêng tại TPHCM có 270 trang như thế được cấp phép. Chính đại diện cơ quan quản lý nhà nước cũng nhận xét các trang này không phải là cơ quan báo chí nhưng hoạt động như một cơ quan báo chí.
Phải thừa nhận một số ít các trang thông tin điện tử là hữu ích nên khuyến khích (CafeF hay Vietstock có tiềm năng trở thành một Yahoo Finance hay Google Finance của Việt Nam) nhưng sự nhập nhằng này có thể đẩy họ vào chỗ hoạt động trái phép vì đã là trang thông tin điện tử tổng hợp thì không được hoạt động báo chí theo luật hiện hành. Ngược lại, đa phần các trang thông tin điện tử chỉ làm công việc sao chép, lấy tin bài của báo chính thống nên đang gây ra biết bao phức tạp, kể cả vấn đề bản quyền, vấn đề chịu trách nhiệm về nội dung đăng tải.
Thứ ba, đó là sự xấu hổ. Nếu nói Việt Nam không có báo chí tư nhân thì câu hỏi đặt ra là “báo chí Nhà nước” sao nhiều tờ cứ chăm chăm nói chuyện kích dục lộ liễu đến thế. Cứ thử lấy 10 tin đọc nhiều nhất của các tờ báo vẫn đang được xem là báo Nhà nước, người rộng lượng nhất cũng thấy xấu hổ vì các tít này (ví dụ tờ Người Đưa Tin, cơ quan của Hội Luật gia Việt Nam rút các tít sau: Chồng muốn tôi đề nghị tư thế 'yêu'; Sợ mất trinh nên muốn 'yêu cửa sau'; Thường xuyên ngoại tình, tôi biến mình thành ‘gái’; Ngày càng đẹp hơn và chậm mãn kinh nhờ mùi đàn ông (truy cập lúc 15g ngày 30-4). Loại báo này ngày càng nhiều, tít ngày càng bạo, hình ảnh ngày càng thiếu vải… Trang Phunutoday, một chuyên trang của Người Đưa Tin càng bạo liệt hơn với nhiều tít bài không tiện trích dẫn ở đây.
Người ta có thể đặt câu hỏi vì sao Hội Luật Gia lại cho ra đời các tờ báo này làm gì, phục vụ gì cho nghề nghiệp của họ? Vấn đề tôn chỉ mục đích được hiểu như thế nào trong trường hợp này? Loại hình lá cải này ngày càng nhiều, đang dẫn nhau xuống đáy.
Thứ tư, đó là sự khó giải thích. Nói làm sao khi ra sạp báo, thấy hàng loạt tờ báo mang măng-sét tiếng nước ngoài như Women’s Health, Her World, Esquire, Elle, Cosmopolitan, Harper’s Bazaar… Chúng không phải là báo tiếng nước ngoài được nhập khẩu vào Việt Nam đâu. Chúng là báo tiếng Việt, có “cơ quan chủ quản” đàng hoàng. Nhưng không lẽ Nhà nước rảnh đến nỗi đi xuất bản hay mua bản quyền để xuất bản các tờ báo giải trí này. Gọi chúng là báo chí Nhà nước thì phi lý quá. Chúng tôi không phản bác loại hình báo giải trí này bởi chúng có những chức năng nhất định đối với một giới độc giả nào đó nhưng phải gọi chúng là gì cho danh chính ngôn thuận là điều chúng tôi muốn đặt ra.
Cuối cùng là sự lấn sân. Trước đây các tập đoàn, tổng công ty nhà nước dù có được ra báo thì cũng chỉ làm những ấn phẩm mang tính nội bộ mang tính quảng bá là chính. Thế nhưng đã có nơi cho ra đời tờ báo hoàn chỉnh.
Luật Báo chí hiện nay quy định “Báo chí… là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội…”, không thấy nói doanh nghiệp có quyền ra báo, dù đó là doanh nghiệp nhà nước.
Thiết nghĩ doanh nghiệp cũng có thể ra báo nhưng lúc đó phải sửa Luật và phải xem đây là một lãnh vực đầu tư khác ngành nghề chính, hoạt động tách biệt, chỉ liên hệ với nhau qua đồng vốn đầu tư. Không thể xem báo của một tập đoàn kinh tế là công cụ tuyên truyền cho tập đoàn. Bởi lúc đó có thể sẽ nảy sinh những mâu thuẫn như dùng báo để vận động chính sách, phê bình chính sách, dùng báo để cạnh tranh với đối thủ một cách bất chính.
Xin khẳng định lại, rằng ngoài các trang tin lá cải đáng lên án, các nơi chuyên sao chép đáng đóng cửa, các tờ báo đủ hình thức sở hữu như trên đem lại sự phong phú cho làng báo chứ không phải là điều đáng chê trách. Vấn đề là tìm cho thể loại này một cái tên chung. Tư nhân thì chắc chắn chưa được vì nhiều lý do, Nhà nước thì không ổn như đã nói, vậy tại sao không gọi chúng là báo chí phi chính phủ hay báo chí dân lập chẳng hạn? Trong ngành giáo dục, hình thức dân lập là một bước đệm để chuyển từ hình thức công lập sang tư thục. Với lãnh vực báo chí cũng thế, nên gọi chúng bằng một cái tên miêu tả chính xác tình trạng của chúng để đánh dấu một bước phát triển của làng báo và để tránh sự nhập nhèm dễ bị lợi dụng lại khó cho giới quản lý.
Nói báo chí Nhà nước làm mọi người dễ liên tưởng đến việc lấy ngân sách nhà nước để bao cấp trong khi thực tế hầu hết báo chí hiện nay không sử dụng ngân sách nhà nước, các loại báo kể trên càng không hề. Nhưng một tên gọi chính xác sẽ giúp xóa tan suy nghĩ này, lại giúp các tờ báo chính thống hiện đang nhận kinh phí từ ngân sách nhà nước xác định rõ lại vai trò của họ. Việc quản lý báo chí sẽ dễ dàng hơn nếu phân loại báo chí rõ ràng hơn, lúc đó việc đóng cửa các tờ báo vi phạm thuần phong mỹ tục cũng dễ dàng hơn. Các báo gọi đúng tên cũng sẽ giúp chịu trách nhiệm tốt hơn những gì được đăng tải; mọi sai sót nếu có sẽ bị kiện ra tòa và lúc đó bên nguyên bên bị sẽ ở trong tư thế cân bằng và bình đẳng hơn.
   
Việt Nam có báo tư nhân không?
Box: Khi báo chí đánh mất vai trò
    Những người làm báo lâu năm thường nói, mỗi khi có sự việc gì xảy ra, trước sau gì cũng có nguồn tin muốn tiết lộ, chủ yếu do xung đột lợi ích. Đây là đặc điểm mà người làm báo thường tận dụng để săn tin, nhất là loại tin bài chống tiêu cực, phanh phui các vụ tham nhũng. Nhưng giờ đây, các nguồn tin trước đây của báo chí dường như không còn muốn sử dụng báo chí như một kênh để đưa thông tin đến công luận nữa. Có thể sau các vụ như PMU 18, báo chí đã thận trọng hơn, đã biết kiểm chứng thông tin trước khi đăng tải. Cũng có thể các nhà báo ngại trước những phiền phức khi bị điều tra nguồn tin mà ví dụ gần đây nhất là việc Bộ Công an muốn sửa Luật Báo chí để buộc báo chí tiết lộ nguồn tin. Nhưng rõ nhất là các nguồn tin, bất kể là ai, với động cơ nào, đã thấy sử dụng các phương tiện khác như mạng xã hội chẳng hạn sẽ đơn giản hơn cho họ rất nhiều, vừa nhanh chóng vừa an toàn cho nguồn tin. Thậm chí đã có những trang web ra đời để chuyên lo việc đó. Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, đây là một xu hướng không thể phủ nhận.

    Chính đặc điểm này làm báo chí đánh mất vai trò là người đưa tin đến công luận. Các cơ quan Nhà nước lại chưa thấy được xu hướng này nên vẫn còn suy nghĩ theo kiểu độc quyền thông tin, cung cấp thông tin nhỏ giọt cho báo chí, thậm chí hạn chế thông tin đưa ra mà không hiểu rằng thông tin sẽ tìm cách đến với công luận, bỏ qua báo chí. Trên con đường không chính thống này, tin tức không qua phối kiểm, tin tức sai lệch, tin tức giả có khả năng lây lan; nhưng chỉ cần một vài tin đúng là đủ để người dân chọn con đường tiếp cận thông tin không qua báo chí; lúc đó họ sẽ xem báo chí chỉ còn lại vai trò giải trí mà thôi.

    Đứng trước một thực tế như vậy, báo chí đang tự điều chỉnh bằng nhiều cách để vẫn còn thu hút bạn đọc, nhất là trong bối cảnh khó khăn về kinh tế. Con đường dễ thấy nhất “lá cải hóa” báo chí, câu khách bằng các chiêu thức rẻ tiền đã nói ở trên.

    Với các tờ báo đứng đắn hơn, quan điểm về thế nào là tin cũng đang thay đổi, việc xử lý tin thay đổi theo. Chuyện một ngôi sao ca nhạc mất đồng hồ trở thành tin; chuyện một cặp ngồi tâm sự bị cướp lột mất quần cũng được xử lý thành tin; chuyện một bà và một ông cá độ nhau để xem bà có dám cắn chỗ quý của ông cũng thành tin! Có những nhân vật được báo chí khai thác đến cạn kiệt, đến nỗi cô ta mặc thử áo cũng thành tin. Những điều tra phóng sự làm nên thanh danh các tờ báo ngày càng thiếu vắng, quanh đi quẩn lại cũng chỉ còn phóng viên giả danh đi mát-xa hay đi vào động mại dâm.

    Cũng từ đó xuất hiện xu hướng khai thác tin từ các mạng xã hội, các trang cá nhân, các diễn đàn chuyên biệt. Thay vì chuyện trên báo được bàn tán sôi nổi trên Facebook, nay ngược lại, chuyện nóng trên Facebook lại biến thành tin bài đăng báo. Các diễn viên biết tận dụng xu hướng này để biến báo chí thành công cụ “PR” cho họ một cách lộ liễu và không mất tiền. Xu hướng “xì-căng-đan” hóa này đang đẩy người đọc xa rời báo chí bởi loại thông tin đó họ cũng có thể tiếp cận nhiều hơn, đầy đủ hơn trên các mạng xã hội.

Ghi chú: Cũng nội dung này nhưng được sắp xếp lại cách khác thành một bài mang tựa đề “Làng báo trước nguy cơ biến dạng” đã đăng trên TBKTSG số tuần này.
(Blog Nguyễn Vạn Phú)

Tín hiệu mới từ thành phần nhân sự Bộ Chính Trị?

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt tại RFA. RFA photo
GS Đoàn Viết Hoạt
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản VN khóa XI bế mạc hôm 11/5 vừa qua, với kết quả có 2 tân ủy viên Bộ Chính Trị. Hòa Ái phỏng vấn Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một nhà hoạt động chính trị, đấu tranh cho tự do-dân chủ- nhân quyền VN về sự kiện này.
Hai nhân vật mới
Hòa Ái: Xin chào Giáo sư (GS) Đoàn Viết Hoạt. Trước tiên, xin GS cho biết nhận xét chung của GS về Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng Cộng Sản vừa được tổ chức trong tháng 5 này?
GS. Đoàn Viết Hoạt: Nhận xét chung của chúng tôi là chắc chắn sẽ có nhiều cái mới. Tuy nhiên chúng ta không thể thấy rõ được cho đến khi có những cụ thể. Đặc biệt những nhân vật mới vào Bộ Chính Trị xem họ sẽ đóng vai trò gì trong chính quyền sau hội nghị. Và thứ hai nữa là chúng ta phải chờ cho đến khi Quốc Hội chính thức họp lại và bản Hiến pháp mới đã được sửa đổi sẽ được thông qua với nội dung như thế nào thì chúng ta mới biết rõ được. Tôi nghĩ rằng là giai đoạn tới đây phải là giai đoạn cải cách về chính trị.
Hòa Ái: Hội nghị bế mạc với kết quả có 2 tân ủy viên Bộ Chính Trị là Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và Phó Chủ tịch Quốc Hội- bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Về ông Nguyễn Thiện Nhân được cho là đặc biệt vì ông ấy là người đã từng du học và tốt nghiệp ở Hoa Kỳ. Dư luận cho rằng việc ông Nguyễn Thiện Nhân được đưa vào danh sách ủy viên Bộ Chính Trị là nằm trong kế hoạch sắp xếp cho vị trí thủ tướng VN, sẽ thay thế Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhận xét của GS như thế nào ạ?
GS. Đoàn Viết Hoạt: Chúng tôi có theo dõi nhân vật Nguyễn Thiện Nhân thì là người theo xu hướng cải cách và tất nhiên có lẽ dễ thân với Mỹ hơn những nhân vật khác trong Bộ Chính Trị cũng đã từng học ở Mỹ. Có thể đây là một nhân vật học ở Mỹ cao nhất và được lên cao nhất trong hệ thống chính trị hiện nay. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới đây, tôi không thấy ông Nguyễn Thiện Nhân có thể làm Thủ tướng được. Theo nhận xét của tôi thì giai đoạn tới là giai đoạn chuyển tiếp mà ông Nguyễn Tấn Dũng chắc chắn còn phải làm một số việc để dọn đường cho những nhân vật mới trong thời kỳ đại hội tới đây.
Tôi nghĩ phải tới đại hội lần tới thì chúng ta mới thấy thật sự có những cải cách rõ ràng và mới, thì lúc đó những người mới có thể lên làm Thủ tướng được. Từ đây đến đó ông Nguyễn Thiện Nhân có lẽ cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng để giúp cho tiến trình cải cách chính trị được suông sẻ và phải đi theo hướng mới, mà theo tôi nghĩ là phải nhích gần với Mỹ và dân chủ hóa, chấp nhận tự do trong xã hội. Xu hướng này thì chúng ta sẽ thấy các nhân vật mới đóng góp rất nhiều vào chuyện đó.
Hòa Ái: Còn về nhân vật thứ hai là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, theo GS vai trò của bà Ngân như thế nào trong guồng máy lãnh đạo của Đảng Cộng Sản VN hiện nay với tư cách là ủy viên Bộ Chính Trị?
GS. Đoàn Viết Hoạt: Chúng tôi cũng theo dõi lịch sử của bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Đây là lần đầu tiên chúng ta thấy đưa 1 người miền Nam mà [là giới] nữ vào Bộ Chính Trị. Tất nhiên bà Nguyễn Thị Kim Ngân như chúng tôi theo dõi thì đõ là người của ông Võ Văn Kiệt khi ông ta còn uy tín trong chính quyền, đã cố gắng đưa bà ấy lên dần. Và mới nhất, gần nhất, trước khi bà ấy làm việc ở Quốc Hội thì bà ấy là Bộ trưởng [Bộ] Thương binh-Xã hội. Và với cương vị này, chắc chắn bà ấy tiếp xúc, tiếp cận với rất nhiều các cựu chiến binh cũng như những người về hưu.
Tôi nghĩ rằng là ông Nguyễn Tấn Dũng muốn 1 người có thể đi gần với những thành phần đó. Bởi thành phần này hiện nay rất là bất mãn, bực bội về ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản hiện nay cũng như trong chính quyền. Họ bực bội vì họ cho rằng là Ban lãnh đạo đã đi ngược lại với những nguyện vọng của họ khi họ còn tham gia vào Đảng Cộng Sản.
Thứ hai nữa là chúng ta thấy hiện nay các nữ Thủ tướng ở Thái Lan rồi Hàn Quốc, bây giờ VN muốn thân cận với Mỹ thì chắc chắn phải thân cận với những nước này và phải tìm cách liên kết 1 cách dễ dàng hơn và mạnh mẽ hơn. Có lẽ vai trò của bà Ngân có thể giúp cho vấn đề tiếp cận những vị lãnh đạo của các nước đó. Và tôi nghĩ rằng nếu chúng ta nhìn thì [hãy chờ để] xem sự sắp xếp vai trò của bà trong chính phủ mới như thế nào, nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ đó là hướng mà ban cải cách trong Bộ Chính Trị muốn đi tới.
Sẽ cải cách tới đâu?
Hòa Ái: Thưa GS, câu hỏi sau cùng là theo như nhận định của GS chia sẻ lúc nãy đến giờ thì trong kỳ họp lần tới, bản dự thảo Hiến pháp sẽ được công bố thay đổi và giai đoạn chuyển tiếp như GS nhận định thì sẽ được diễn ra nhanh chóng hay không, cũng như có mang lại kết quả làm hài lòng hơn cho người dân hay không?
GS. Đoàn Viết Hoạt: Vâng, nói về giai đoạn chuyển tiếp thì chúng ta còn khoảng 3 năm cho đến đại hội tới. Tôi nghĩ rằng đại hội tới mà Đảng Cộng Sản muốn có bứt phá, còn có được vai trò và còn sự lãnh đạo đất nước có uy tín thì đại hội tới chắc chắn họ phải chấp nhận dân chủ thôi, một cách chính thức, đó là suy nghĩ của tôi.
Thứ hai, do đó nhóm cải cách trong Bộ Chính trị hay trong Ban lãnh đạo hiện nay, kể cả trong Trung ương Đảng, muốn tạo ra một giai đoạn, có thể 2-3 năm đó để mở rộng hơn cho tự do của xã hội và của những người bất đồng ý kiến với ban lãnh đạo hiện nay, trong dân chúng cũng như trong trí thức, đặc biệt là trong thanh niên, trong giới trẻ.
Tôi nghĩ họ phải cởi mở qua 1 bản Hiến pháp tạm thời. Tôi cho đây là 1 bản Hiến pháp trung chuyển thôi. Bản Hiến pháp sửa đổi này đúng ra đã có 1 bản Hiến pháp mới rồi vì bản Hiến pháp 1992 đã sửa đến lần thứ ba cho đến nay rồi.
Nhưng vì họ chưa thể chuẩn bị tất cả các điều kiện, kể cả điều kiện nhân sự trong nội bộ cho đến điều kiện ngoài xã hội để chuyển 1 cách ôn hòa mà không gây rối loạn, có lẽ tất cả những sửa chửa hiện nay là để đóng vai trò đó thôi. Do đó chúng ta sẽ thấy có 1 số phần mà chúng ta chưa đồng ý được. Những nhà dân chủ thực sự thì chưa đồng ý được như điều 4-Hiến pháp chẳng hạn. Nó không thể tồn tại trong 1 bản Hiến pháp dân chủ được.
Nó vẫn tồn tại nhưng có thể sẽ có 1 số điều chỉnh nào đó để nó mở đường. Rồi việc lập Tòa án Hiến pháp chẳng hạn. Điều này rất tốt. Nó sẽ mở đường mạnh mẽ. Và cuối cùng là những nhân sự mới, nếu những nhân sự đó và phe cải cách mạnh lên thì mới có thể đẩy tới trong 3 năm tới được. Tôi nghĩ rằng là chúng ta phải nhìn việc sửa đổi Hiến pháp trong bối cảnh như thế. Đó vẫn là trung chuyển mà thôi. Và phong trào đòi dân chủ trong xã hội phải đẩy mạnh lên. Và phải lợi dụng tình hình này để thúc đẩy đại hội tới, Đảng Cộng Sản phải chấp nhận dân chủ, pháp trị.

Hòa Ái: Cảm ơn thời gian của GS dành cho đài ACTD.
(RFA) 
 

Đừng giữ một giấc mơ đã chết, hãy tập trung vào hiện tại

GS. Trần Hữu Dũng: Cái post này đã được GS London tu chỉnh nhiều lần (đa số các bài mà các blog khác đăng lại là những phiên bản trước khi sửa đổi), đây là phiên bản tối hậu (ông ta nói với tôi như thế!)
Photo: Trên Biển tới Lý Sơn, cách đây 2 tuần...

Cơ Việt Nam trên biển tới Lý Sơn, Ngày 28. Tháng 4, 2013
Cách đây chưa đầy một tuần tôi có viết một bài cho rằng mặc dù sự đàn áp vẫn tồn tại, song mức độ hiện diện của nó đang ngày càng suy giảm. Thế nhưng cũng trong bài đó tôi có viết: “Vẫn còn đấy và vẫn bẩn thỉu như mỗi khi nó ra tay” và “Mặc dù việc dự đoán chính trị trong các chế độ độc đoán thường là liều lĩnh, người ta vẫn có thể cảm nhận được rằng sự thay đổi chính trị thực sự có thể diễn ra trong vòng 5 năm tới.” Cuối cùng, tôi cho rằng: Ít nhất, với cuộc tranh luận chính trị đang diễn ra ngày càng công khai, diễn biến chính trị ở Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới.” Thế thì:
Hôm này chúng ta mới biết Đinh Nguyên Kha bị kết án 8 năm tù giam, 3 năm quản chế và Nguyễn Phương Uyên bị kết án 6 năm tù giam, 3 năm quản chế. Đây là một phiên tòa rất tranh cãi trong và ngoài nước. Và kết quả cững có thể được xem là một bược lùi của Việt Nam trên đường đi lên một xã hội tiên tiến.
Tôi cũng phải chân thành xin lỗi nhiều người nếu những bình luận ban đầu của mình sáng hôm này có bao hàm ý kiến là việc bắt giữ ai đó vì những ý tưởng của họ là chính đáng. Và nhìn từ một góc độ nào đó (chẳng hạn nhân quyền của hai công dân này) tôi đã tình cờ chọn một ngày rất lạ để nêu rõ quan điểm của tôi là, nếu muốn khuyến khích cải cách chính trị sâu rộng ở Việt Nam thì không nên tập trung vào viêc “cờ này cờ kia”…Và từ hôm này sẽ cố gắng không revise liên tục blog mình. Tôi đã chưa bao giờ có blog và sẽ cố gắng trích bài.
Cho người đọc biết, việc viết một blog về cờ Viêt Nam xuất phát từ việc tôi thành lập blog của mình. Nhiều người muốn làm bạn với tôi có nhiều chính kiên khác nhau về Việt Nam. Trong đó có nhiều người đặt cờ vàng và người khác cờ đỏ. Thế thì nhận xét của tôi là người ta mất rất nhiều công sức thông qua việc này.
Tôi xin giải thích lý do ở dưới. Và cuối cùng sẽ trở về trường hợp của Uyên và Kha và ý nghĩa của sự kiện hôm này từ góc nhìn của tôi….
Tôi thấy khó hiểu khi một số người ủng hộ cải cách ở Việt Nam nhưng lại muốn vẫy lá cờ của Việt Nam Cộng Hoà. Cho dù tôi có thể hiểu được vài người ở hải ngoại vẫn giữ cách nhìn cũ và những mối quan hệ cũ với chế độ (mà lá cờ được coi là biểu trưng).

Một điều rất có lợi về việc lập blog này là sự hiểu biết rất hạn chế của mình sẽ được cải thiện qua việc vấp ngã và lại đứng lên. Chẳng hạn tôi mới được một bạn đọc nhắc là lần đầu tiên cờ vàng được sử dụng năm 1890, từ đó đến năm 1975, khi nó không còn được sử dụng nữa. Người miền Nam xem cờ vàng là cờ quốc gia. Chế độ Việt Nam Cộng hòa chỉ là một chính thể trong nhiều chính thể sử dụng cờ vàng. Nhiều khi, người miền Nam tôn trọng cờ vàng không phải vì chế độ VNCH, mà vì nó là cờ quốc gia cho một thời gian nhất định. Và theo một bạn, nhiều người ủng hộ cờ vàng không có nghĩa là họ ủng hộ sự trở lại của chế độ VNCH. Bạn này đề nghị: “Vấn đề là, những người ủng hộ cờ vàng không phải muốn khôi phục chế độ Việt Nam Cộng hòa. Đây là luận điểm mà đảng và nhà nước đang sử dụng để buộc tội 2 sinh viên yêu nước.”  Quan điểm này có đúng không tùy ý của người đọc.
Thế thì tôi vẫn rất ngại ủng hộ (thậm chí làm bạn trên mạng) những ai muốn dùng lá cờ này, vì điều đó (theo tôi được biết, nhiều khi) bao hàm ý muốn trở về một thời đã xa và một chế độ thất bại vì nhiều lý do. Quan trọng hơn, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng hầu hết những quá trình hoặc phong trào cải cách chính trị kinh tế thành công, đều có yếu tố con người ở trong và ngoài bộ máy. Tiếp tục dùng lá cờ cũ này để chống Đảng Cộng sản thì sẽ chẳng có ai bận tâm nghe họ nói gì. Hiện nay Việt Nam cần một Gorbachev hơn là một Ngô Đình Diệm…như một bạn đọc đã chia sẻ cần có những nhân vật các loại khác nữa (…và sau đó tôi đề nghị nền nên có một Obama thay vì một Putin…).
Thời kỳ của bạo lực cách mạng đã kết thúc từ lâu. Hãy tìm một con đường mới. Hãy phát triển một đầu óc không bị hạn chế vì quá khứ. Tôi hoàn toàn chấp nhận những ai không đồng ý với quan điểm của tôi. Xin lỗi những ai vẫn giữ một giấc mơ đã chết, ai đang bị đàn áp vì chính kiến của mình, va ai khác nếu ông Tây này chưa nắm vững vấn đề cờ Việt Nam xưa và nay. Tôi chỉ có nhận xét là nếu nói về so sánh lịch sử thì hành vi “vẫy lá cờ quá khứ” (wave the old flag) chỉ có tác động mang tính khích lệ.
Bất kỳ ai quan tâm đến sự thay đổi tích cực ở Việt Nam nên cố gắng tiếp cận vấn đề một cách xây dựng nhất. Nhai đi nhai lại quá khứ hoặc khua những biểu tượng quá vãng của một chế độ đã chết từ lâu chắc chắn không phải là một con đường hứa hẹn tương lai xán lạn. Lá cờ hiện tại của Việt Nam là đẹp và đơn giản. Hãy dành thời gian lo về những vấn đề khác có ích, được không ạ?
Xin nhấn mạnh, việc tôi có ý kiến như trên hoàn toàn không bao hàm ý định chính đáng hóa những vi phạm quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam hay bất cứ nơi nào trên thế giới. Lý luận của tôi ổn, nhưng tôi nhận ra rằng đây là một chủ đề hết sức nhạy cảm trong bối cảnh nhân quyền của hai người trẻ đang bị vi phạm nghiêm trong. Tôi chân thành thể hiện sự ủng hộ của mình đối với quá trình mở rộng tự do ngôn luận thực sự ở Viêt Nam, càng sớm càng tốt. Cảm ơn những bạn đã bình luận, nêu những vấn đề này…. xem chi tiết đây. Trong những ngày tới chắc chắn chúng ta sẽ có nhiều thông tin hơn và tranh cãi này sẽ kêo dài. Thật ra là khi mình viết blog hôm nay tôi chưa đủ trình độ về vấn đề cơ Viêt Nam.
Thế thì cuối cùng tại sao đặt dấu hỏi ở cuối? Có thể là vì tôi cảm nhận chủ đề này là phức tạp và vì tôi không có tất cả câu trả lời cho Viêt Nam đương đại. Tuy vậy, và dù thông cảm sự không may khi hai nạn nhân trẻ tuổi trong một cuộc tranh cãi hình như là không hoà tan được đã bị hình phạt nạng, tôi vẫn duy trì quan điểm rằng việc vẫy cờ Việt Nam Cộng Hòa có lẽ không phải là con đường hứa hẹn nhất cho một Việt Nam mới. Dĩ nhiên, có thể tôi sai. Nếu đúng hay sai lịch sử sẽ trả lời. Tôi cừng với nhiều người khác thấy hành vi của nhà nước như thấy này là không phư hợp nữa.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy cũng có lúc mà chuyện buồn thành một nguồn cảm hứng. Hy vọng tiếng nói của người Việt Nam cả trong lẫn ngoài bộ mấy sẽ tiêp tục cất lên nhiều hơn trong thời gian tới, cho phép đất nước thoát khỏi tình trạng đáng tiếc hiện nay càng sớm càng tốt.
16-5-13
Jonathan London
(Jonathan London Blog)

Nợ xấu : quan tài chôn sống sinh hoạt kinh tế Việt Nam?

Những biện pháp giải quyết đưa ra từ chính quyền và các chuyên gia đều đúng, nhưng phải quyết tâmvà thành tâm thực hiện. Nếu chỉ để che lấp hình thức một mụn  nhọt ung thư, nợ xấu Việt Nam sẽ là áo quan chôn sống sinh hoạt kinh tế của đất nước.
Trước sự đe dọa của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam hiện nay đang được dư luận thế giới chú ý, không phải vì sức mạnh quân sự mà là khả năng tồn tại để không bị nuốt chửng. Nhiều chuyên gia và định chế kinh tế tài chánh trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều nhận xét thẳng thắng không lấy gì làm lạc quan cho tương lai kinh tế Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam khủng hoảng trầm trọng
Trong phiên họp ngày 14/5/2013 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch quốc hội, cho biết sinh hoạt kinh tế tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, số doanh nghiệp đang trong tình trạng lỗ có thể cao hơn.
Những chỉ số thống kê đưa ra trong phiên họp này cho thấy trong quý I năm 2013, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam so với cùng kỳ năm 2012 ở mức 4,89%. Mức này tuy có cao hơn mức 4,75% của quý I năm 2012, nhưng thấp hơn rất nhiều so với các quý I năm 2011 và quý I năm 2010 (5,53% và 5,84%).
Trong khi đó, mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp quý I năm 2013 chỉ đạt 4,93% (đây là tỷ lệ thấp nhất trong các quý I của giai đoạn 2010-2013 ; năm 2012 tỷ lệ này là 5,9%) và tăng trưởng "dư nợ tín dụng" (credit outstanding balance hay "nợ vay chưa trả") ba tháng đầu năm chỉ đạt 0,03%. Trong sinh hoạt kinh tế, nếu chỉ số tăng trưởng dư nợ tín dụng và sản xuất công nghiệp đều thấpđiều này chứng tỏ các doanh nghiệp hấp thụ vốn rất yếu và sản xuất kinh tế đình trệ. Tình trạng tăng trưởng tín dụng yếu kém này là do các ngân hàng siết chặt cho vay và chưa có biện pháp giải quyết những món nợ xấu.
Ông Bùi Quang Vinh, bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư  cho biết "nếu những khó khăn nêu trên không được xử lý thì khả năng GDP đạt 5,5% như Quốc hội đề ra cho năm 2013 là rất khó khăn".
Gần đây, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) đã giảm dự đoán tỷ lệ phát triển năm 2014 xuống còn 5,2%. Có thể con số 5% là một tỷ lệ tăng trưởng lý tưởng đối với những quốc gia giàu mạnh phát triển, nhưng với một quốc gia trong giai đoạn phát triển như Việt Nam chỉ số này là quá thấp và có thể đưa đất nước tới khủng hoảng, vì một lý do giản dị là tỷ lệ lạm phát hiện nay cao hơn con số này. Năm 2012, tỷ lệ lạm phát do nhà nước đưa ra là 7,5%, như vậy tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam trong năm qua là âm > -2% (nhắc lại, năm 2011 tỷ lệ lạm phát là 20%).
Theo giới quan sát viên kinh tế quốc tế, chủ trương xây dựng một "nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa"của Việt Nam có từ năm 1986 đã quá lỗi thời. Sách lược dựa vào các doanh nghiệp quốc doanh làm đầu cầu phát triển kinh tế đang đưa đất nước tớitrì trệ, mà nguyên do đầu tiên là hệ thống ngân hàng ngập chìm trong nợ xấu và không đủ khả năng cung cấp cho doanh nghiệp nguồn vốn cần thiết để ra khỏi khó khăn.
Theo thống kê của Ủy ban Kinh tế, trong quý I năm 2013, đã có 15.300 doanh nghiệp ngừng hoạt đông và giải thể, tăng 14,6% so với quý I năm 2012. Trong thời điểm hai năm từ 2011 đến hết 2012, đã có hơn 100.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể. Trong khi đó, số doanh nghiệp mới thành lập là 15.700, giảm 6,8% về số lượng và lượng vốn cũng thấp hơn 16% so với cùng kỳ năm trước.Bên cạnh đó có đến 65% doanh nghiệp báo lỗ và không đủ khả năng phục hồi kinh tế. Trong thực tế,số doanh nghiệp báo lỗ có thể còn cao hơn con số này.
Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn chủ yếu là kém về thị trường và vốn. Về vốn, trong bốn tháng đầu năm 2013, dư nợ tín dụng (nợ cho vay chưa trả) chỉ tăng 1,41% nhưng dư nợ hụy động (vốn nhận từ các quỹ tiết kiệm) tăng 5%, điều này cho thấy hệ thống ngân hàng đang nắm giữ một lượng tiền lớn nhưng không cho doanh nghiệp vay. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam đang bị cạnh tranh gay gắt bởi các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan.
Nhắc lại, vào giữa thập niên 2000, chính quyền của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cho thành lập một quỹ đầu tư với một tổng trị giá khoảng 124 tỷ USD để thành lập một hệ thống đại công ty, kiểu chaebol của Nam Hàn hay zaibatsu của Nhật Bản, nhằm hiện đại hóa khu vực kinh tế quốc doanh làm đầu tàu kéo nên kinh tế Việt Nam đi lên. Theo những tiết lộ ở cấp cao trong chính quyền, Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng đã nắm trong tay ít nhất 20 tập đoàn kinh tế quốc doanh lớn hhất nước. Thay vì dùng số tiền đó rót vào sinh hoạt kinh tế, nghĩa là cho các doanh nghiệp vay, hệ thống ngân hàng đã lạm dụng quyền thế và cấu kết với những tập đoàn gian tham cho vay cẩu thả để đầu tư vào thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán với kết quả là tất cả đều bị lỗ lã và chôn vùi các ngân hàng dưới hàng núi nợ, nợ xấu và nợ khó đòi, không có khả năng xử lý. Các công ty thuộc sở hữu của Nhà nước đã làm thất thoát hàng chục tỷ USD tín dụng và làm mất khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổng số nợ xấu hiện nay được ước tính khoảng 7,8 tỷ USD, tức 6% của 130 tỷ USD tổng dư nợ. Nhưng theo thẩm định của các chuyên gia và định chế kinh tế tài chánh quốc tế, tổng số nợ xấu của Việt Nam cao hơn ước tính của Ngân hàng Nhà nước ít nhất gấp ba lần, khoảng 23 tỷ USD mới đúng, tức 18% của tổng dư nợ hay 23% GDP.
Hiện nay Việt Nam có khoảng 1.309 doanh nghiệp nhà nước, với tổng tài sản gần 1.800.000 tỷ VND (82 tỷ USD), vốn chủ sở hữu là 700.000 tỷ VND (33,5 tỷ USD), trong đó có hơn 100 doanh nghiệp nhà nước lớn, với tổng số tài sản gần 40% tổng sản phẩm quốc nội GDP, đã vay một số vốn tổng cộng là 64 tỷ USD, bằng một nửa tổng số nợ chưa trả (dư nợ). Nhiều doanh nghiệp trong số này đã bỏ tiền vào đầu tư những ngành không liên quan đến chức năng chính của mình, như bất động sản. Khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu.
Theo Chỉ số về tình trạng tham nhũng năm 2012, do tổ chức Minh bạch Quốc tế đưa ra, Việt Nam tụt xuống vị trí 123 trên tổng số 176 nước, so với vị trí 112 hồi năm 2011. Việt Nam là một vài quốc gia hiếm hoi trên thế giới có nhiều viên chức cáo cấp trong chính quyền trở nên giàu có lớn, hàng trăm triệu phú đô la và gần mười tỷ phú đô la. Trong khi đó, Chỉ số mức cạnh tranh toàn cầu mới nhất, do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra, Việt Nam tụt 10 bậc, xuống vị trị thứ 75.
Chống nợ xấu bằng cách nào ?
Theo đánh giá, dự báo của các tổ chức quốc tế, các chuyên gia kinh tế (JP Morgan Chase, HSBC, Fitch Ratings...), nợ xấu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cao nếu chính quyền không có kế hoạch cụ thể nhằm giải quyết kịp thời, triệt để vấn đề này.
Ngày 03/05/2013, chính quyền cộng sản Việt Nam cho biết Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam sẽ cho ra đời một cộng ty xử lý nợ xấu mang tên Công ty quản lý tài sản (VAMC-Vietnam Asset Management Company) với số vốn ban đầu là 24 triệu USD (bằng 3% mức nợ xấu theo ước tính của nhà nước tính hay 1% theo ước tính của các chuyên gia quốc tế), một số tiền quá nhỏ để có thể tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng. Khả năng hoạt động của VAMC dựa theo kinh nghiệm của những công ty quản lý tài sản của Nam Hàn và Thái Lan những năm trước đó.
Ông Nguyễn Văn Bình, thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết công ty này có thể giải quyết vấn đề cho 50% tổ chức tín dụng (ngân hàng). Sau đó, tùy vào tình hình, VAMC sẽ mở rộng quy mô nợ và tài sản thế chấp để đạt mục tiêu đưa nợ xấu của các tổ chức tín dụng về mức an toàn. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi được đặt ra : VAMC sẽ làm gì với tổng số nợ xấu mua lại (trị giá hơn 97% số vốn tự có) hay chỉ làm nhiệm vụ chuyển nợ (trái phiếu đặc biệt) từ nơi này sang nơi khác ? Ai sẽ chi trả cho VAMC ?
Cho dù chính quyền Việt Nam có đưa ra những biện pháp chỉ đạo giải quyết nợ xấu thế nào đi nữa, các quan sát viên kinh tế vẫn cho rằng Việt Nam còn quá chậm chạp trong việc giải quyết nợ xấu ngân hàng. Nhiểu người còn nghi ngờ nhiều khoản nợ xấu đã được làm đẹp bằng những khoản vay mới để trả những món nợ cũ quá hạn và nhờ tăng trưởng tín dụng ảo cuối năm tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm, nhưngchỉ là giảm số liệu chứ không phải là bản chất. Chỉ khi ngân hàng thực sự sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xóa nợ, thì nợ xấu mới thực sự được xóa khỏi bảng cân đối của ngân hàng, khi đó giá trị nợ xấu mới giảm, nhưng không ngân hàng nào thực sự dám làm... vì nguồn vốn tự có không đủ và cũng không đủ điều kiện để vay thêm.
Trên nguyên tắc, trách nhiệm xử lý nợ xấu đầu tiên thuộc về ngân hàng, nguồn để xử lý nợ xấu chỉ có thể là khoản trích lập dự phòng rủi ro, tài sản đảm bảo và cuối cùng là vốn tự có. Tuy nhiên, theo một quan điểm khác thì nguồn tài lực để xử lý nợ xấu trước hết phải là công quỹ quốc gia (nếu không có đủ thì chính phủ phải đi vay quốc tế), trước khi tính đến chuyện quy kết, trừng phạt những tổ chức, cá nhân cụ thể đã gây ra hậu quả tệ hại cho nền kinh tế.
Nhưng tác nhân và cũng là nạn nhân chính của nợ xấu vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chính quyền phải tăng cường vai trò điều tiết, quản lý, điều hành với mục tiêu chủ yếu là ổn định kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính quyền phải tranh thủ sự ủng hộ của các định chế tài chính và tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu, như tham vấn kinh nghiệm của các định chế tài chính lớn (IMF, WB...) trong quá trình cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, đồng thời tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức này.
Các ngân hàng nước ngoài cũng có vai trò trong việc giúp Việt Nam dọn dẹp nợ xấu ngân hàng. Đây là một thử thách quan trọng vì các ngân hàng Việt Nam không không muốn người nước ngoài xem xét sổ sách và lật tung mọi thứ lên.
Chống nợ xấu là một công tác lâu dài, phải mất ít nhất từ 4 đến 5 năm mới có thể giải quyết được số nợ xấu, nhưng với điều kiện là tốc độ tăng trưởng kinh tế phải ở mức từ 8 đến 10%/năm và tỷ lệ lạm phát phải dưới 5%.
Những biện pháp giải quyết đưa ra từ chính quyền và các chuyên gia đều đúng, nhưng phải quyết tâmvà thành tâm thực hiện. Nếu chỉ để che lấp hình thức một mụn  nhọt ung thư, nợ xấu Việt Nam sẽ là áo quan chôn sống sinh hoạt kinh tế của đất nước.
Nguyễn Văn Huy
(Thông luận)