Hiệp định Biên giới Việt-Trung có những khuất tất gì?
Hàng loạt những cột mốc lịch sử
quốc giới Việt – Trung có từ hàng trăm năm nay đã bị chính quyền
Trung Quốc tất bật tháo gỡ đưa vào các bảo tàng lịch sử địa phương
mà họ gọi là chiến dịch “bài trừ các mốc biên giới cũ”.
Mốc số 17 (đoạn Vân Nam-Hà Khẩu)
Cột mốc “Đại Nam Quốc Giới” tại Phòng Thành, Quảng Tây
Khuân vác dời cột mốc quốc giới Viêt Nam- Trung Quôc đem về bảo tàng
Tìm hiểu các mô hình mốc giới được cắm trên đường biên giới Việt – Trung theo các công ước Pháp – Thanh 1887 và 1895:
Những ngày vừa qua, trên một số trang blog và báo chí, có đăng tải một số hình ảnh và phụ chú theo đó phía Trung Quốc đang có phong trào đào lấy các cột mốc biên giới cắm theo công ước Pháp Thanh 1887 để đưa vào viện bảo tàng. Đây là một việc làm khuất tất vì các cột mốc này là các di vật lịch sử, thuộc chủ quyền của hai nước Việt Nam và Trung Quốc (ngoại trừ một số mốc kép cắm dọc theo sông Ka Long ở vùng giáp ranh Móng Cái). Phía Trung Quốc không thể đơn phương tự tiện lấy các mốc này làm của riêng.
Tuy nhiên, không thể loại trừ trường hợp Hiệp ước phân định biên giới mà hai bên Việt-Trung ký năm 1999 đã làm thay đổi đường biên giới lịch sử, khiến những cột mốc này nằm sâu vào trong lãnh thổ Trung Quốc. Nếu các mốc này đã nằm sâu trong lãnh thổ của TQ thì họ có thể có quyền làm các việc này.
[...]
Trong bài viết nhỏ này người viết mô tả sơ lược về hình thể và nội dung của các cột một được cắm theo công ước 1887. Từ đó, mọi người có thể quan sát các tấm hình các mốc bị đào lên (được đăng trên BBC hay blog Phạm Viết Đào), để có thể đoán cột mốc ấy ở đâu, vùng nào, từ đó suy luận đường biên giới ở các nơi đó phía VN có bị thiệt hại hay không.
Đường biên giới giữa hai nước Việt-Trung đã được phân định rõ rệt theo hai công ước: 1/ Công ước phân định biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ (Convention relative à la délimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin) do ông Constans ký tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887 và 2/ Công ước bổ túc do ông Gérard cũng ký tại Bắc Kinh ngày 20 tháng 6 năm 1995.
Người Pháp thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký kết với nhà Thanh (Trung Hoa) các kết ước này chiếu theo tinh thần điều 1 của Hiệp ước bảo hộ (Traité Protectorat): “L’Annam reconnaît et accepte le Protectorat de la France. La France représentera l’Annam dans toutes ses relations extérieures. Nước An Nam nhìn nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ đại diện cho An Nam trong mọi liên hệ với các nước khác”.
Theo “Convention sur le Droit des Traité de Vienne – Công ước về Luật của các kết ước ký tại Vienne (thủ-đô Áo-Quốc) ngày 29 tháng 5 năm 1969 – (Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties): một nước có thể ngưng thi hành một kết ước đã ký cũng như có thể hủy bỏ toàn bộ nội dung các kết ước nầy do tính bất bình đẳng của nó (trường hợp các kết ước ký dưới thời một nước bị bảo hộ). Tuy nhiên, Ðiều 11 của Công ước Vienne có nội dung:
“Boundary regimes: A succession of States does not as such affect: (a) a boundary established by a treaty; or (b) obligations and rights established by a treaty and relating to the regime of a boundary.”
“Thể lệ về biên giới: Một sự kế tục của Quốc Gia không đặt lại vấn đề về: a) biên giới xác định do một hiệp ước và b) nghĩa vụ và quyền lợi xác định do một hiệp ước có liên hệ với một thể lệ về biên giới.”
Ðiều nầy cho thấy, trên quan điểm công pháp quốc tế, các kết ước về biên giới Việt-Trung ký giữa Pháp và nhà Thanh năm 1887 và 1895 vẫn còn giá trị pháp lý, nếu hai bên Việt-Trung không có các kết ước khác thay thế. Mặt khác, ngoài một số địa phương đã bị Pháp nhượng cho Trung Hoa để được quyền lợi về kinh tế, đường biên giới này thể hiện thực tế lịch sử giữa hai nước Việt-Trung từ nhiều ngàn năm qua.
Nhà nước CSVN đã ký lại Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền với Trung Quốc vào tháng 12 năm 1999 vì nhiều lý do: “Do lời văn công ước 1887 mô tả đơn giản, không rõ ràng, do nội dung không phù hợp với thực địa, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện… nhiều khu vực chưa được phân giới cắm mốc hoặc cắm mốc quá thưa. Ngoài ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến tranh và thời gian…”
Những lý do này đưa ra thì phù hợp với thực tế. Nhưng việc có cần phân định lại biên giới hay không và phân định trên căn bản nào thì còn nhiều điều cần bàn luận (nhưng không phải là chủ đề viết ở bài này).
Việc phân định lại biên giới năm 1999 làm vô hiệu hóa hiệu lực các kết ước lịch sử 1887 và 1895 về biên giới.
Nhưng theo điều I của hiệp ước 1999: “Hai Bên ký kết lấy các Công ước lịch sử về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ sở, căn cứ vào các nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận cũng như các thỏa thuận đạt được trong quá trình đàm phán về vấn đề biên giới Việt – Trung, đã giải quyết một cách công bằng, hợp lý vấn đề biên giới và xác định lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước.”
Các công ước lịch sử liên quan đến biên giới hai nước chỉ gồm có hai công ước 1887 và 1895. Theo nội dung điều I, đường biên giới 1999 như thế sẽ trùng hợp với đường biên giới 1887 ở những đoạn (hay điểm) mà nó thể hiện rõ ràng. Dĩ nhiên ngoại trừ những đoạn (hay điểm), mặc dầu thể hiện rõ ràng trên thực địa, nhưng đã được dời đổi theo các “thỏa thuận đạt được trong quá trình đàm phán” giữa hai bên Việt-Trung.
Các mốc giới được cắm theo các công ước Pháp-Thanh có nhiều mô hình khác nhau. Tùy theo (a) vùng biên giới, (b) thời kỳ cắm mốc, hay (c) đoạn biên giới mà hình thức các mốc giới hoàn toàn khác nhau.
(a) Vùng biên giới:
Có ba vùng biên giới: vùng tiếp giáp các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Ở thời kỳ phân định và cắm mốc 1885-1897, vùng tự trị Choang tỉnh Quảng Tây chưa thành lập. Phủ Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông.
- Vùng biên giới thuộc tỉnh Quảng Đông: bắt đầu từ biển (Trúc Sơn-Trà Cổ) cho đến Bắc Cương Ải.
- Vùng biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây: từ Bắc Cương Ải cho đến “Nham Động Hà Ca” là giao điểm hai vùng biên giới Quảng Tây và Vân Nam.
- Vùng biên giới thuộc tỉnh Vân Nam: từ Nham Động Hà Ca cho đến sông Cữu Long. Theo tinh thần của công ước Gérard 1895 thì Lào thuộc về Việt Nam.
(b) Thời kỳ phân giới: Có hai thời kỳ:1/ phân định và 2/ phân giới và cắm mốc:
- Thời kỳ phân định: Bắt đầu buổi họp phân định biên giới lần đầu tiên tại Đồng Đăng ngày 12 tháng 1 năm 1886 và chấm dứt ở ngày ký công ước 26-6-1887.
- Thời kỳ phân giới và cắm mốc: chia làm 5 thời kỳ. 1/ thời kỳ do ông Chiniac de Labastide (1889-1890) làm chủ tịch ủy ban Pháp, phân định vùng biên giới Quảng Đông. 2/ Thời kỳ do ông Frandin (1890-1891) làm chủ tịch, phân định vùng Quảng Tây. 3/ Thời kỳ do ông Servière (1892-1893) tiếp tục công trình của Frandin. 4/ Thời kỳ do Galliéni (1893-1894) làm chủ tịch, kết thúc phân giới, cắm mốc và công nhận công trình của các ủy ban trước (vùng Lưỡng Quảng). 5/ Thời kỳ do Pennequin (1895-1897) làm chủ tịch, phân giới, cắm mốc vùng Vân Nam và kết thúc công trình phân giới toàn bộ, qua việc trao đổi giác thư (nghị định thư) công nhận đường biên giới ngày 2 tháng 10 năm 1897.
Các cột mốc cắm ở các thời kỳ 1, 2 đều là cột mốc tạm vì lý do các viên chức phụ trách (De Labastide, Frandin…) thì không có thẩm quyền. Các kết quả cắm mốc phải đưa về Bắc Kinh để Tổng Lý Nha Môn (tương đương bộ ngoại giao) và Đặc sứ toàn quyền Pháp phê duyệt. Các công trình của ông Frandin sau này được công nhận bởi ông Galliéni, do đó các biên bản mô tả vị trí các cột mốc do ê-kíp Frandin phụ trách thì có giá trị và hiệu lực pháp lý. Các thời kỳ sau (thời Galliéni và Pennequin), người phụ trách có toàn quyền quyết định mà không cần phải đưa về Bắc Kinh nữa.
(c) Các đoạn biên giới:
- Vùng biên giới tỉnh Quảng Ðông chia làm hai đoạn. Đoạn 1 từ biển cho đến hợp lưu sông Ka Long, đoạn này trung tuyến dòng sông là đường biên giới. Gồm có 20 cột mốc, mỗi bên có 10 cột mốc (mốc kép) được cắm dọc theo hai bờ sông, được đánh số từ 1 đến 10, theo thứ tự từ đông sang tây, do ủy ban Chiniac de Labastide thực hiện năm 1890.
Đoạn 2 từ có 23 cột mốc được cắm, theo thứ tự từ đông sang tây.
Mô hình cột mốc vùng Quảng Đông, cắm bên phía bờ Việt Nam:
Trên mốc có ghi chú: Frontière Sino-Annamite, 1890, Đại Nam (chữ Hán)
Cột mốc cắm phía bờ Trung Quốc:
Trên mốc ghi: Hàng giữa ghi: Đại Thanh Quốc Khâm Châu Giới. Hàng phải: Quang Tự Thập Lục Niên Nhị Nguyệt Lập (làm năm Quang Tự thứ 16, tháng hai). Hàng trái: Tri Châu Sự Lý Thọ Đổng Thư (do tri châu Lý Thọ Đổng viết).
- Vùng biên giới tỉnh Quảng Tây được chia làm hai đoạn. Ðoạn 1 từ Bình Nhi, trên sông Kì Cùng, cho đến biên giới Quảng Ðông có 67 cột mốc, cắm từ Tây sang Ðông. Ðoạn thứ 2 từ Bình Nhi đến biên giới Vân Nam có 140 cột mốc, cắm từ Ðông sang Tây.
Sơ đồ mô hình mốc giới vùng Quảng Tây do ủy ban Frandin thực hiện:
Ký tên trên sơ đồ mốc giới là đại úy Didelot ngày 30 tháng 3 năm 1891 tại Bình Nhi. Nội dung mốc được ghi theo hình sau:
Trên mốc có ghi: hàng trên chữ Pháp Frontière Sino-Annamite (Biên giới Trung-Việt). Hàng dưới chữ hán: An Nam Quốc Biên Giới. Năm 1891.
Hình dưới đây là mô hình một loại cột mốc khác cắm trên vùng Quảng Tây.
Hình này chụp từ cuốn “Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si” của Commandant Famin. Trên mốc có ghi: Trung Quốc Quảng Tây Giới.
- Vùng biên giới tỉnh Vân Nam: Trên vùng biên giới Vân Nam thì được phân chia ra làm năm đoạn .
Vùng hữu ngạn sông Hồng, là đoạn thứ 5, được phân định lại theo công ước Gérard năm 1895. Theo công ước nầy, phần thượng Lào thuộc về Việt Nam. Từ Sông Hồng đến sông Ðà (Rivière Noire) thì không cắm mốc. Từ sông Ðà đến biên giới Lào có 4 cột mốc được cắm theo thứ tự từ Ðông sang Tây. Cột thứ 1 ở mệng núi Phúc Ngỏa, cột thứ 2 ở miệng núi Chỉ Sưởng, cột thứ 3 giáp Mường Sa và Mường Bun, cột thứ 4 ở cửa trại Sông Mặc Ô. Vùng nầy đã được ông Auguste Pavie, trong lúc nhận công tác nghiên cứu vùng thượng Lào để chuẩn bị cho một Quốc Gia trái độn (Etat tampon), thì đã vẽ họa đồ. Vùng tả ngạn sông Hồng thì được chia làm bốn tiểu đoạn. Ðoạn thứ nhứt, từ hợp lưu của sông Hồng với sông Lũng Pô qua sông Nậm Thi, biên-giới là dòng sông thì không cắm mốc. Ðoạn 1 đến sông Kosso (Qua Sách) thì có 21 cột mốc. Ðoạn hai từ sông Qua Sách đến Cao Mã Bạch có 19 cột mốc được cắm. Ðoạn 3 và 4 từ Cao Mã Bạch đến biên giới Quảng Tây gồm có 24 cột mốc được cắm. Như thế tổng cộng gồm có: Từ sông Hồng đến biển có 314 cột mốc. Từ sông Hồng đến biên giới Lào có 4 cột mốc. Tức là có 318 cột mốc tất cả.
Mô hình cột mốc vùng Vân Nam:
Trên mốc có ghi: Hàng trên số mốc, hàng kế Chine-Annam, hai hàng (viết dọc) ở dưới bằng chữ Hán, hàng phải: Đại Pháp Quốc Việt Nam; hàng trái Đại Thanh Quốc Vân Nam.
Các cột mốc được làm bằng xi măng, vôi, gạch, đá… tùy theo có sẵn ở địa phương. Ngoài ra còn có một số mốc thiên nhiên làm bằng những tảng đá lớn, trên đỉnh núi hay đèo.
Kết luận:
Quan sát các cột mốc đăng trên BBC:
Hình thứ nhất mốc có đề chữ Hán: Đại Nam. Theo ghi chú trên BBC thì mốc này ở Đông Hưng (Quảng Tây). Thực ra mốc này là mốc kép, cắm dọc theo sông Ka Long, phía bờ Việt Nam, thuộc đoạn biên giới Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây) giáp ranh với Đông Hưng. Phía Trung Quốc cho người đào như thế cho thấy vùng đất này thuộc về họ, mặc dầu theo công ước 1887 là trên đất Việt Nam (nếu cột mốc còn ở đúng vị trí cũ).
Hình thứ 4, chụp cột mốc số 17. Theo nội dung và hình dáng thì cột mốc thuộc vùng biên giới Vân Nam như không biết đoạn nào vì có đến 3 cột mốc cùng mang số 17 sau đây:
Ðoạn thứ 1: Từ hợp lưu sông Long Bác (Lũng Pô) (龍賻) với sông Hồng (紅河) đến sông Qua Sách (戈索河)
Cột số 17: ở giữa đèo, trên đường từ Nhai Đầu (崖頭) đến Ðường Tử Biên (塘子邊).
Ðoạn biên-giới thứ 2: Từ Qua Sách Hà (戈 索 河 ) đến Cao Mã Bạch (膏 馬 白 ) thuộc Bắc Kỳ và Tân Nhai (新 崖) thuộc Vân Nam.
Cột số 17: đường từ Thạch Duẫn (石筍) đến Tie-Tchang.
Các đoạn biên giới thứ 3 và thứ 4: Từ Tân Nham 新 岩 (Trung Hoa) và Cao Mã Bạch 高 馬 白 (Việt Nam) đến biên giới Quảng-Tây廣 西.
Cột số 17: trên đèo, trên con đường nối Long Qua Ca 龍 戈 卡 (Trung-Hoa) với Long Cô 龍 姑 (Việt Nam).
Trong nhất thời ta không thể xác định cột mốc trong hình thuộc về đoạn biên giới nào, nhưng điều chắc chắn là mốc này, theo công ước 1887, thì nằm trên biên giới và thuộc chủ quyền của hai nước.
Những ngày vừa qua, trên một số trang blog và báo chí, có đăng tải một số hình ảnh và phụ chú theo đó phía Trung Quốc đang có phong trào đào lấy các cột mốc biên giới cắm theo công ước Pháp Thanh 1887 để đưa vào viện bảo tàng. Đây là một việc làm khuất tất vì các cột mốc này là các di vật lịch sử, thuộc chủ quyền của hai nước Việt Nam và Trung Quốc (ngoại trừ một số mốc kép cắm dọc theo sông Ka Long ở vùng giáp ranh Móng Cái). Phía Trung Quốc không thể đơn phương tự tiện lấy các mốc này làm của riêng.
Tuy nhiên, không thể loại trừ trường hợp Hiệp ước phân định biên giới mà hai bên Việt-Trung ký năm 1999 đã làm thay đổi đường biên giới lịch sử, khiến những cột mốc này nằm sâu vào trong lãnh thổ Trung Quốc. Nếu các mốc này đã nằm sâu trong lãnh thổ của TQ thì họ có thể có quyền làm các việc này.
[...]
Trong bài viết nhỏ này người viết mô tả sơ lược về hình thể và nội dung của các cột một được cắm theo công ước 1887. Từ đó, mọi người có thể quan sát các tấm hình các mốc bị đào lên (được đăng trên BBC hay blog Phạm Viết Đào), để có thể đoán cột mốc ấy ở đâu, vùng nào, từ đó suy luận đường biên giới ở các nơi đó phía VN có bị thiệt hại hay không.
Đường biên giới giữa hai nước Việt-Trung đã được phân định rõ rệt theo hai công ước: 1/ Công ước phân định biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ (Convention relative à la délimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin) do ông Constans ký tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887 và 2/ Công ước bổ túc do ông Gérard cũng ký tại Bắc Kinh ngày 20 tháng 6 năm 1995.
Người Pháp thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký kết với nhà Thanh (Trung Hoa) các kết ước này chiếu theo tinh thần điều 1 của Hiệp ước bảo hộ (Traité Protectorat): “L’Annam reconnaît et accepte le Protectorat de la France. La France représentera l’Annam dans toutes ses relations extérieures. Nước An Nam nhìn nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ đại diện cho An Nam trong mọi liên hệ với các nước khác”.
Theo “Convention sur le Droit des Traité de Vienne – Công ước về Luật của các kết ước ký tại Vienne (thủ-đô Áo-Quốc) ngày 29 tháng 5 năm 1969 – (Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties): một nước có thể ngưng thi hành một kết ước đã ký cũng như có thể hủy bỏ toàn bộ nội dung các kết ước nầy do tính bất bình đẳng của nó (trường hợp các kết ước ký dưới thời một nước bị bảo hộ). Tuy nhiên, Ðiều 11 của Công ước Vienne có nội dung:
“Boundary regimes: A succession of States does not as such affect: (a) a boundary established by a treaty; or (b) obligations and rights established by a treaty and relating to the regime of a boundary.”
“Thể lệ về biên giới: Một sự kế tục của Quốc Gia không đặt lại vấn đề về: a) biên giới xác định do một hiệp ước và b) nghĩa vụ và quyền lợi xác định do một hiệp ước có liên hệ với một thể lệ về biên giới.”
Ðiều nầy cho thấy, trên quan điểm công pháp quốc tế, các kết ước về biên giới Việt-Trung ký giữa Pháp và nhà Thanh năm 1887 và 1895 vẫn còn giá trị pháp lý, nếu hai bên Việt-Trung không có các kết ước khác thay thế. Mặt khác, ngoài một số địa phương đã bị Pháp nhượng cho Trung Hoa để được quyền lợi về kinh tế, đường biên giới này thể hiện thực tế lịch sử giữa hai nước Việt-Trung từ nhiều ngàn năm qua.
Nhà nước CSVN đã ký lại Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền với Trung Quốc vào tháng 12 năm 1999 vì nhiều lý do: “Do lời văn công ước 1887 mô tả đơn giản, không rõ ràng, do nội dung không phù hợp với thực địa, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện… nhiều khu vực chưa được phân giới cắm mốc hoặc cắm mốc quá thưa. Ngoài ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến tranh và thời gian…”
Những lý do này đưa ra thì phù hợp với thực tế. Nhưng việc có cần phân định lại biên giới hay không và phân định trên căn bản nào thì còn nhiều điều cần bàn luận (nhưng không phải là chủ đề viết ở bài này).
Việc phân định lại biên giới năm 1999 làm vô hiệu hóa hiệu lực các kết ước lịch sử 1887 và 1895 về biên giới.
Nhưng theo điều I của hiệp ước 1999: “Hai Bên ký kết lấy các Công ước lịch sử về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ sở, căn cứ vào các nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận cũng như các thỏa thuận đạt được trong quá trình đàm phán về vấn đề biên giới Việt – Trung, đã giải quyết một cách công bằng, hợp lý vấn đề biên giới và xác định lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước.”
Các công ước lịch sử liên quan đến biên giới hai nước chỉ gồm có hai công ước 1887 và 1895. Theo nội dung điều I, đường biên giới 1999 như thế sẽ trùng hợp với đường biên giới 1887 ở những đoạn (hay điểm) mà nó thể hiện rõ ràng. Dĩ nhiên ngoại trừ những đoạn (hay điểm), mặc dầu thể hiện rõ ràng trên thực địa, nhưng đã được dời đổi theo các “thỏa thuận đạt được trong quá trình đàm phán” giữa hai bên Việt-Trung.
Các mốc giới được cắm theo các công ước Pháp-Thanh có nhiều mô hình khác nhau. Tùy theo (a) vùng biên giới, (b) thời kỳ cắm mốc, hay (c) đoạn biên giới mà hình thức các mốc giới hoàn toàn khác nhau.
(a) Vùng biên giới:
Có ba vùng biên giới: vùng tiếp giáp các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Ở thời kỳ phân định và cắm mốc 1885-1897, vùng tự trị Choang tỉnh Quảng Tây chưa thành lập. Phủ Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông.
- Vùng biên giới thuộc tỉnh Quảng Đông: bắt đầu từ biển (Trúc Sơn-Trà Cổ) cho đến Bắc Cương Ải.
- Vùng biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây: từ Bắc Cương Ải cho đến “Nham Động Hà Ca” là giao điểm hai vùng biên giới Quảng Tây và Vân Nam.
- Vùng biên giới thuộc tỉnh Vân Nam: từ Nham Động Hà Ca cho đến sông Cữu Long. Theo tinh thần của công ước Gérard 1895 thì Lào thuộc về Việt Nam.
(b) Thời kỳ phân giới: Có hai thời kỳ:1/ phân định và 2/ phân giới và cắm mốc:
- Thời kỳ phân định: Bắt đầu buổi họp phân định biên giới lần đầu tiên tại Đồng Đăng ngày 12 tháng 1 năm 1886 và chấm dứt ở ngày ký công ước 26-6-1887.
- Thời kỳ phân giới và cắm mốc: chia làm 5 thời kỳ. 1/ thời kỳ do ông Chiniac de Labastide (1889-1890) làm chủ tịch ủy ban Pháp, phân định vùng biên giới Quảng Đông. 2/ Thời kỳ do ông Frandin (1890-1891) làm chủ tịch, phân định vùng Quảng Tây. 3/ Thời kỳ do ông Servière (1892-1893) tiếp tục công trình của Frandin. 4/ Thời kỳ do Galliéni (1893-1894) làm chủ tịch, kết thúc phân giới, cắm mốc và công nhận công trình của các ủy ban trước (vùng Lưỡng Quảng). 5/ Thời kỳ do Pennequin (1895-1897) làm chủ tịch, phân giới, cắm mốc vùng Vân Nam và kết thúc công trình phân giới toàn bộ, qua việc trao đổi giác thư (nghị định thư) công nhận đường biên giới ngày 2 tháng 10 năm 1897.
Các cột mốc cắm ở các thời kỳ 1, 2 đều là cột mốc tạm vì lý do các viên chức phụ trách (De Labastide, Frandin…) thì không có thẩm quyền. Các kết quả cắm mốc phải đưa về Bắc Kinh để Tổng Lý Nha Môn (tương đương bộ ngoại giao) và Đặc sứ toàn quyền Pháp phê duyệt. Các công trình của ông Frandin sau này được công nhận bởi ông Galliéni, do đó các biên bản mô tả vị trí các cột mốc do ê-kíp Frandin phụ trách thì có giá trị và hiệu lực pháp lý. Các thời kỳ sau (thời Galliéni và Pennequin), người phụ trách có toàn quyền quyết định mà không cần phải đưa về Bắc Kinh nữa.
(c) Các đoạn biên giới:
- Vùng biên giới tỉnh Quảng Ðông chia làm hai đoạn. Đoạn 1 từ biển cho đến hợp lưu sông Ka Long, đoạn này trung tuyến dòng sông là đường biên giới. Gồm có 20 cột mốc, mỗi bên có 10 cột mốc (mốc kép) được cắm dọc theo hai bờ sông, được đánh số từ 1 đến 10, theo thứ tự từ đông sang tây, do ủy ban Chiniac de Labastide thực hiện năm 1890.
Đoạn 2 từ có 23 cột mốc được cắm, theo thứ tự từ đông sang tây.
Mô hình cột mốc vùng Quảng Đông, cắm bên phía bờ Việt Nam:
Trên mốc có ghi chú: Frontière Sino-Annamite, 1890, Đại Nam (chữ Hán)
Cột mốc cắm phía bờ Trung Quốc:
Trên mốc ghi: Hàng giữa ghi: Đại Thanh Quốc Khâm Châu Giới. Hàng phải: Quang Tự Thập Lục Niên Nhị Nguyệt Lập (làm năm Quang Tự thứ 16, tháng hai). Hàng trái: Tri Châu Sự Lý Thọ Đổng Thư (do tri châu Lý Thọ Đổng viết).
- Vùng biên giới tỉnh Quảng Tây được chia làm hai đoạn. Ðoạn 1 từ Bình Nhi, trên sông Kì Cùng, cho đến biên giới Quảng Ðông có 67 cột mốc, cắm từ Tây sang Ðông. Ðoạn thứ 2 từ Bình Nhi đến biên giới Vân Nam có 140 cột mốc, cắm từ Ðông sang Tây.
Sơ đồ mô hình mốc giới vùng Quảng Tây do ủy ban Frandin thực hiện:
Ký tên trên sơ đồ mốc giới là đại úy Didelot ngày 30 tháng 3 năm 1891 tại Bình Nhi. Nội dung mốc được ghi theo hình sau:
Trên mốc có ghi: hàng trên chữ Pháp Frontière Sino-Annamite (Biên giới Trung-Việt). Hàng dưới chữ hán: An Nam Quốc Biên Giới. Năm 1891.
Hình dưới đây là mô hình một loại cột mốc khác cắm trên vùng Quảng Tây.
Hình này chụp từ cuốn “Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si” của Commandant Famin. Trên mốc có ghi: Trung Quốc Quảng Tây Giới.
- Vùng biên giới tỉnh Vân Nam: Trên vùng biên giới Vân Nam thì được phân chia ra làm năm đoạn .
Vùng hữu ngạn sông Hồng, là đoạn thứ 5, được phân định lại theo công ước Gérard năm 1895. Theo công ước nầy, phần thượng Lào thuộc về Việt Nam. Từ Sông Hồng đến sông Ðà (Rivière Noire) thì không cắm mốc. Từ sông Ðà đến biên giới Lào có 4 cột mốc được cắm theo thứ tự từ Ðông sang Tây. Cột thứ 1 ở mệng núi Phúc Ngỏa, cột thứ 2 ở miệng núi Chỉ Sưởng, cột thứ 3 giáp Mường Sa và Mường Bun, cột thứ 4 ở cửa trại Sông Mặc Ô. Vùng nầy đã được ông Auguste Pavie, trong lúc nhận công tác nghiên cứu vùng thượng Lào để chuẩn bị cho một Quốc Gia trái độn (Etat tampon), thì đã vẽ họa đồ. Vùng tả ngạn sông Hồng thì được chia làm bốn tiểu đoạn. Ðoạn thứ nhứt, từ hợp lưu của sông Hồng với sông Lũng Pô qua sông Nậm Thi, biên-giới là dòng sông thì không cắm mốc. Ðoạn 1 đến sông Kosso (Qua Sách) thì có 21 cột mốc. Ðoạn hai từ sông Qua Sách đến Cao Mã Bạch có 19 cột mốc được cắm. Ðoạn 3 và 4 từ Cao Mã Bạch đến biên giới Quảng Tây gồm có 24 cột mốc được cắm. Như thế tổng cộng gồm có: Từ sông Hồng đến biển có 314 cột mốc. Từ sông Hồng đến biên giới Lào có 4 cột mốc. Tức là có 318 cột mốc tất cả.
Mô hình cột mốc vùng Vân Nam:
Trên mốc có ghi: Hàng trên số mốc, hàng kế Chine-Annam, hai hàng (viết dọc) ở dưới bằng chữ Hán, hàng phải: Đại Pháp Quốc Việt Nam; hàng trái Đại Thanh Quốc Vân Nam.
Các cột mốc được làm bằng xi măng, vôi, gạch, đá… tùy theo có sẵn ở địa phương. Ngoài ra còn có một số mốc thiên nhiên làm bằng những tảng đá lớn, trên đỉnh núi hay đèo.
Kết luận:
Quan sát các cột mốc đăng trên BBC:
Hình thứ nhất mốc có đề chữ Hán: Đại Nam. Theo ghi chú trên BBC thì mốc này ở Đông Hưng (Quảng Tây). Thực ra mốc này là mốc kép, cắm dọc theo sông Ka Long, phía bờ Việt Nam, thuộc đoạn biên giới Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây) giáp ranh với Đông Hưng. Phía Trung Quốc cho người đào như thế cho thấy vùng đất này thuộc về họ, mặc dầu theo công ước 1887 là trên đất Việt Nam (nếu cột mốc còn ở đúng vị trí cũ).
Hình thứ 4, chụp cột mốc số 17. Theo nội dung và hình dáng thì cột mốc thuộc vùng biên giới Vân Nam như không biết đoạn nào vì có đến 3 cột mốc cùng mang số 17 sau đây:
Ðoạn thứ 1: Từ hợp lưu sông Long Bác (Lũng Pô) (龍賻) với sông Hồng (紅河) đến sông Qua Sách (戈索河)
Cột số 17: ở giữa đèo, trên đường từ Nhai Đầu (崖頭) đến Ðường Tử Biên (塘子邊).
Ðoạn biên-giới thứ 2: Từ Qua Sách Hà (戈 索 河 ) đến Cao Mã Bạch (膏 馬 白 ) thuộc Bắc Kỳ và Tân Nhai (新 崖) thuộc Vân Nam.
Cột số 17: đường từ Thạch Duẫn (石筍) đến Tie-Tchang.
Các đoạn biên giới thứ 3 và thứ 4: Từ Tân Nham 新 岩 (Trung Hoa) và Cao Mã Bạch 高 馬 白 (Việt Nam) đến biên giới Quảng-Tây廣 西.
Cột số 17: trên đèo, trên con đường nối Long Qua Ca 龍 戈 卡 (Trung-Hoa) với Long Cô 龍 姑 (Việt Nam).
Trong nhất thời ta không thể xác định cột mốc trong hình thuộc về đoạn biên giới nào, nhưng điều chắc chắn là mốc này, theo công ước 1887, thì nằm trên biên giới và thuộc chủ quyền của hai nước.
Hình thứ 5: mốc có ghi Đại Thanh Quốc Khâm Châu Giới. Mốc này là mốc kép, cắm dọc theo sông Ka Long, cắm ở phía bờ Trung Quốc.
Tài liệu tham khảo: Tập tài liệu “Biên Giới Việt-Trung 1885-2000 Lịch sử thành hình và những tranh chấp” NXB Dũng Châu, in năm 2005, của Nhân-Tuấn Ngô Quốc Dũng.
———————-
1. Như các vùng tổng Tụ Long (Hà Giang, diện tích 700km², có nhiều mỏ kim loại quí), Đèo Lương (hay Luông) (Cao Bằng, diện tích khoảng 300km²), các xã thuộc hai tổng Kiến Duyên và Bát Trang (thuộc Hải Ninh), vùng mũi Bạch Long (phía bắc Móng Cái…)
2. “Việt-Trung và Đường biên giới pháp lý, công bằng và hữu nghị”, nguồn http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/, tác giả TS Nguyễn Hồng Thao.
(BauxiteVietnam)
TS Alan Phan - Kền kền lợi dụng giá BĐS đang xuống?
Luôn có dòng đầu tư “cá mập”, “kền kền” lợi dụng giá BĐS đang xuống,
nhiều nhà đầu tư trong nước đang kẹt tiền sẽ bán lại dự án để tháo
chạy.
Chuyên gia kinh tế TS Alan Phan nêu quan điểm trước thực tế các dòng vốn
của các doanh nghiệp nước ngoài đổ vào lĩnh vực bất động sản ngày càng
nhiều trong đó nhiều nhà đầu tư đã mua lại các dự án bất động sản của
các doanh nghiệp trong nước.
Kền kền nhặt xác chết bất động sản
PV: - Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong nửa đầu năm nay đã có 10% trong tổng số 5,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tương đương 570 triệu USD được giải ngân đã đổ vào lĩnh vực bất động sản trong đó có các dự án nhà ở thương mại, trung tâm thương mại, resort… dẫn đến hàng loạt các dự án BĐS đã được chuyển nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ông tiềm năng của những phân khúc đó hiện nay ở Việt Nam như thế nào? Thực tế kinh tế khó, du lịch giảm; nhà ở thương mại giá cao không có người mua nhưng các doanh nghiệp nước ngoài vẫn mua lại những “xác chết” này để làm gì, thưa ông? Theo ông, những hoạt động này có cho thấy bất động sản đang có tín hiệu phục hồi, ấm lên hay vẫn tiếp tục bất động?
TS Alan Phan: - Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nước ngoài từ Singapore, Hông Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản… đã bắt đầu mua lại các dự án bất động sản của các doanh nghiệp trong nước đang ở thế kẹt. Luôn luôn có dòng đầu tư “cá mập”, “kền kền” lợi dụng giá bất động sản đang xuống, nhiều nhà đầu tư trong nước đang kẹt tiền sẽ bán lại dự án để tháo chạy.
Nếu họ mua được những dự án đã đầu tư 100 đồng, giờ mua lại 50 đồng thì có thể lời nhiều vì nếu trụ được vài ba năm may ra giá sẽ lên đến 70-80% trong khi họ không mất công xin dự án, đầu tư xây dựng… vì tất cả đã có sẵn, có thể chỉ cần hoàn thành phân đoạn chót.
Chuyện này xảy ra rất bình thường, chẳng hạn ở Thái Lan sau khủng khoảng kinh tế năm 1997-1999 đã làm sập hệ thống bất động sản của Thái Lan. Theo kinh nghiệm Thái Lan, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẵn tiền đã nhảy vào và chỉ phải chịu đựng khoảng 3-5 năm khi kinh tế hồi phục dần dần, họ bán ra và kiếm được nhiều lời.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào việc mua lại bất động sản của doanh nghiệp Việt Nam còn vì mặt bằng lãi suất nước ngoài tương đối rẻ nên dòng tiền đầu tư cũng dối dào.
Theo tôi, hiện nay, kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào 3 yếu tố chính là kiều hối, FDI, ODA. Trong đó, kiều hối tương đối ổn định vì người Việt ở nước ngoài dù không tăng số lượng nhưng mỗi năm vẫn chuyển về nước khoảng 10-12 tỷ USD chính thức, thậm chí có thể nhiều hơn trong các kênh không chính thức. Nó là phần quan trọng giúp GDP tương đối vững vàng.
Về đầu tư nước ngoài (FDI) phía Chính phủ đang ưu đãi rất tốt trong vấn đề đất đai, giấy phép, thuế… Trong những ngành cần nhiều nhân công rẻ hoặc để đón đầu Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương (TPP), các dự án FDI sẽ gia tăng. Ngoài ra, thời gian gần đây, khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cũng tương đối ổn định.
Tuy nhiên, ở khía cạnh đối ngược, nền kinh tế nội địa đang suy giảm, doanh nghiệp nội “vất vưởng”, hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng gặp khó. Thành ra triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn là 50-50 khi doanh nghiệp nước ngoài mua lại những “xác chết” bất động sản. Đây là một đánh cược, ai có máu phiêu lưu thì nhảy vào.
Kền kền nhặt xác chết bất động sản
PV: - Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong nửa đầu năm nay đã có 10% trong tổng số 5,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tương đương 570 triệu USD được giải ngân đã đổ vào lĩnh vực bất động sản trong đó có các dự án nhà ở thương mại, trung tâm thương mại, resort… dẫn đến hàng loạt các dự án BĐS đã được chuyển nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ông tiềm năng của những phân khúc đó hiện nay ở Việt Nam như thế nào? Thực tế kinh tế khó, du lịch giảm; nhà ở thương mại giá cao không có người mua nhưng các doanh nghiệp nước ngoài vẫn mua lại những “xác chết” này để làm gì, thưa ông? Theo ông, những hoạt động này có cho thấy bất động sản đang có tín hiệu phục hồi, ấm lên hay vẫn tiếp tục bất động?
TS Alan Phan: - Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nước ngoài từ Singapore, Hông Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản… đã bắt đầu mua lại các dự án bất động sản của các doanh nghiệp trong nước đang ở thế kẹt. Luôn luôn có dòng đầu tư “cá mập”, “kền kền” lợi dụng giá bất động sản đang xuống, nhiều nhà đầu tư trong nước đang kẹt tiền sẽ bán lại dự án để tháo chạy.
Nếu họ mua được những dự án đã đầu tư 100 đồng, giờ mua lại 50 đồng thì có thể lời nhiều vì nếu trụ được vài ba năm may ra giá sẽ lên đến 70-80% trong khi họ không mất công xin dự án, đầu tư xây dựng… vì tất cả đã có sẵn, có thể chỉ cần hoàn thành phân đoạn chót.
Chuyện này xảy ra rất bình thường, chẳng hạn ở Thái Lan sau khủng khoảng kinh tế năm 1997-1999 đã làm sập hệ thống bất động sản của Thái Lan. Theo kinh nghiệm Thái Lan, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẵn tiền đã nhảy vào và chỉ phải chịu đựng khoảng 3-5 năm khi kinh tế hồi phục dần dần, họ bán ra và kiếm được nhiều lời.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào việc mua lại bất động sản của doanh nghiệp Việt Nam còn vì mặt bằng lãi suất nước ngoài tương đối rẻ nên dòng tiền đầu tư cũng dối dào.
Theo tôi, hiện nay, kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào 3 yếu tố chính là kiều hối, FDI, ODA. Trong đó, kiều hối tương đối ổn định vì người Việt ở nước ngoài dù không tăng số lượng nhưng mỗi năm vẫn chuyển về nước khoảng 10-12 tỷ USD chính thức, thậm chí có thể nhiều hơn trong các kênh không chính thức. Nó là phần quan trọng giúp GDP tương đối vững vàng.
Về đầu tư nước ngoài (FDI) phía Chính phủ đang ưu đãi rất tốt trong vấn đề đất đai, giấy phép, thuế… Trong những ngành cần nhiều nhân công rẻ hoặc để đón đầu Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương (TPP), các dự án FDI sẽ gia tăng. Ngoài ra, thời gian gần đây, khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cũng tương đối ổn định.
Tuy nhiên, ở khía cạnh đối ngược, nền kinh tế nội địa đang suy giảm, doanh nghiệp nội “vất vưởng”, hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng gặp khó. Thành ra triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn là 50-50 khi doanh nghiệp nước ngoài mua lại những “xác chết” bất động sản. Đây là một đánh cược, ai có máu phiêu lưu thì nhảy vào.
Chuyên gia kinh tế - TS Alan Phan |
Kinh tế nếu nhờ kiều hối, FDI, ODA… ổn định thì bất động sản có thể hồi
phục sau 3-5 năm, nếu không kiếm được 100% cũng thì các nhà đầu tư “kền
kền” này cũng kiếm trung bình mỗi năm 20%. Vì vậy, để khẳng định bất
động sản phục hồi, ấm lên hay vẫn tiếp tục bất động, chúng ta phải chờ
đợi vì tùy thuộc nhiều vào nền kinh tế vĩ mô đi lên, bình bình hay đi
xuống.
PV: - Thông thường khi đầu tư vào những dự án như vậy, các nhà đầu tư sẽ xử lý tái cơ cấu như thế nào? Thời gian vừa qua đã ghi nhận hiện tượng xin chuyển đất xây trung tâm thương mại thành đất phân lô bán nền, liệu kịch bản này có xảy ra hay không thưa ông? Nếu như vậy các doanh nghiệp bất động sản trong nước sẽ gặp khó khăn hay không?
TS Alan Phan: - Thường các nhà đầu tư không ào ạt làm ngay mà họ vừa làm vừa chờ đợi. Việc triển khai nhanh hay chậm phụ thuộc vào nguồn tài chính của họ nhiều hay ít.
Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài rất khôn ngoan và đầy kinh nghiệm, không có chuyện họ bỏ cục tiền lớn vào mà sẽ làm từ từ, nếu tiến triển tốt sẽ đẩy thêm cho đến khi dự án hoàn tất và bán ra nếu thị trường tốt. Còn nếu thị trường yếu kém quá, vẫn trì trệ thì họ sẽ vẫn găm găm tiền, chậm chạp vì họ không có ràng buộc phải hoàn thành trong bao nhiêu năm.
Việc các doanh nghiệp nước ngoài có xin chuyển đất xây trung tâm thương mại thành đất phân lô bán nền hay không vấn đề là tùy định giá của mỗi người, tùy phân khúc.
Có những định giá ở Việt Nam đôi khi là quá đà vì nghĩ đây là khu “đất vàng”. Đối với người nước ngoài họ có những quan tâm và mục tiêu khác mình không biết được. Mỗi nhà đầu tư có cái nhìn riêng, đánh giá riêng và quyết định lớn nhất là vấn đề giá họ mua có được “hời” hay không. Nếu không mua được giá hời tốt, so với rủi ro, thì đầu tư bên Âu Mỹ ổn định sao phải mang tiền qua Việt Nam?
Nhìn chung, mấy trăm triệu đầu tư bất động sản Việt Nam vừa nhận thực sự không nghĩa lý gì. Trong 12 tháng vừa rồi đã có tổng cộng gần 7 tỷ USD của Trung Quốc đổ vào mua bất động sản Mỹ, chưa tính FDI đến từ những nước khác.
Về việc các doanh nghiệp bất động sản trong nước lợi hay hại cũng tùy từng doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào có tài chính vững vàng thì họ có thể bám trụ, còn doanh nghiệp nào chuyên đi vay tiền, thì lãi trả ngân hàng cũng đủ phá sản. Cho nên, vấn đề doanh nghiệp có gặp khó khăn hay không sẽ tùy tài chính mỗi doanh nghiệp, tùy tầm nhìn và tùy may mắn.
Những dự án có những điều kiện phát triển tốt có thể bán được ngay sẽ may mắn hơn còn những chỗ không được từ người tiêu dùng ưa chuộng sẽ khó khăn hơn. Nói chung sẽ tùy thị trường, tùy năng lực của từng doanh nghiệp nên không thể nói chung chung được.
Chưa chắc người dân mua được nhà giá rẻ
PV: - Được biết, các doanh nghiệp nước ngoài mua lại các dự án bất động sản nhà ở thương mại của doanh nghiệp trong nước với giá rẻ, như vậy có thể đặt kỳ vọng về việc giá bất động sản trong thời gian tới sẽ giảm theo và người dân mua nhà sẽ được hưởng lợi hay vẫn mất thuế đóng về ngân sách sau đó ưu đãi quá nhiều cho doanh nghiệp nước ngoài, thưa ông? Nếu không phải người dân liệu ai có thể được hưởng lợi từ việc này?
TS Alan Phan: - Doanh nghiệp nước ngoài sẽ coi tình hình ra sao mới đưa ra giá bán phù hợp nhất và có lợi nhất cho họ. Vì vậy, người mua không nên có những mong đợi quá đáng. Ai cũng muốn thu lợi tối đa, người ngoài hay người Việt. Nếu tình hình FDI, kiều hối tăng và kinh tế tốt đẹp, không có khủng hoảng Biển Đông, nợ công, sức khỏe ngân hàng tốt… nhà đầu tư sẽ giữ giá bán cho lời nhiều không hạ giá lắm.
PV: - Thông thường khi đầu tư vào những dự án như vậy, các nhà đầu tư sẽ xử lý tái cơ cấu như thế nào? Thời gian vừa qua đã ghi nhận hiện tượng xin chuyển đất xây trung tâm thương mại thành đất phân lô bán nền, liệu kịch bản này có xảy ra hay không thưa ông? Nếu như vậy các doanh nghiệp bất động sản trong nước sẽ gặp khó khăn hay không?
TS Alan Phan: - Thường các nhà đầu tư không ào ạt làm ngay mà họ vừa làm vừa chờ đợi. Việc triển khai nhanh hay chậm phụ thuộc vào nguồn tài chính của họ nhiều hay ít.
Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài rất khôn ngoan và đầy kinh nghiệm, không có chuyện họ bỏ cục tiền lớn vào mà sẽ làm từ từ, nếu tiến triển tốt sẽ đẩy thêm cho đến khi dự án hoàn tất và bán ra nếu thị trường tốt. Còn nếu thị trường yếu kém quá, vẫn trì trệ thì họ sẽ vẫn găm găm tiền, chậm chạp vì họ không có ràng buộc phải hoàn thành trong bao nhiêu năm.
Việc các doanh nghiệp nước ngoài có xin chuyển đất xây trung tâm thương mại thành đất phân lô bán nền hay không vấn đề là tùy định giá của mỗi người, tùy phân khúc.
Có những định giá ở Việt Nam đôi khi là quá đà vì nghĩ đây là khu “đất vàng”. Đối với người nước ngoài họ có những quan tâm và mục tiêu khác mình không biết được. Mỗi nhà đầu tư có cái nhìn riêng, đánh giá riêng và quyết định lớn nhất là vấn đề giá họ mua có được “hời” hay không. Nếu không mua được giá hời tốt, so với rủi ro, thì đầu tư bên Âu Mỹ ổn định sao phải mang tiền qua Việt Nam?
Nhìn chung, mấy trăm triệu đầu tư bất động sản Việt Nam vừa nhận thực sự không nghĩa lý gì. Trong 12 tháng vừa rồi đã có tổng cộng gần 7 tỷ USD của Trung Quốc đổ vào mua bất động sản Mỹ, chưa tính FDI đến từ những nước khác.
Về việc các doanh nghiệp bất động sản trong nước lợi hay hại cũng tùy từng doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào có tài chính vững vàng thì họ có thể bám trụ, còn doanh nghiệp nào chuyên đi vay tiền, thì lãi trả ngân hàng cũng đủ phá sản. Cho nên, vấn đề doanh nghiệp có gặp khó khăn hay không sẽ tùy tài chính mỗi doanh nghiệp, tùy tầm nhìn và tùy may mắn.
Những dự án có những điều kiện phát triển tốt có thể bán được ngay sẽ may mắn hơn còn những chỗ không được từ người tiêu dùng ưa chuộng sẽ khó khăn hơn. Nói chung sẽ tùy thị trường, tùy năng lực của từng doanh nghiệp nên không thể nói chung chung được.
Chưa chắc người dân mua được nhà giá rẻ
PV: - Được biết, các doanh nghiệp nước ngoài mua lại các dự án bất động sản nhà ở thương mại của doanh nghiệp trong nước với giá rẻ, như vậy có thể đặt kỳ vọng về việc giá bất động sản trong thời gian tới sẽ giảm theo và người dân mua nhà sẽ được hưởng lợi hay vẫn mất thuế đóng về ngân sách sau đó ưu đãi quá nhiều cho doanh nghiệp nước ngoài, thưa ông? Nếu không phải người dân liệu ai có thể được hưởng lợi từ việc này?
TS Alan Phan: - Doanh nghiệp nước ngoài sẽ coi tình hình ra sao mới đưa ra giá bán phù hợp nhất và có lợi nhất cho họ. Vì vậy, người mua không nên có những mong đợi quá đáng. Ai cũng muốn thu lợi tối đa, người ngoài hay người Việt. Nếu tình hình FDI, kiều hối tăng và kinh tế tốt đẹp, không có khủng hoảng Biển Đông, nợ công, sức khỏe ngân hàng tốt… nhà đầu tư sẽ giữ giá bán cho lời nhiều không hạ giá lắm.
Luôn có dòng đầu tư “cá mập”, “kền kền” lợi dụng giá BĐS đang xuống, nhiều nhà đầu tư trong nước đang kẹt tiền sẽ bán lại dự án để tháo chạy. |
Tuy nhiên nếu họ kẹt hàng thì họ cũng sẵn sàng giảm giá vì họ có đủ room
khi giá vốn thấp. Hiện giờ ngay những doanh nghiệp lớn trong nước có
tiền cũng đang đi thâu tóm những dự án dang dở. Nếu họ muốn kiếm lời
nhiều, sẽ bám trụ để bán giá cao còn không họ bán ít lời. Giá cả còn tùy
thuộc thị trường có chấp nhận mức giá đó hay không. Dù sao, cũng tốt
chung cho thị trường vì tạo thanh khoản.
Ngoài ra, ảnh hưởng có tới được người dân hay không thì chỉ có thể khẳng định là nó sẽ gián tiếp như việc thuê nhân công, thuê nhà thầu phụ… tức là sẽ có ảnh hưởng nhất định nào đó nhưng không nhiều. Ngân sách cho các địa phương cũng sẽ tăng chút đỉnh nhờ các đấu tư này.
PV: - Có ý kiến lo ngại về việc nước ngoài chiếm bất động sản ở những vị trí quan trọng điều mà nhiều nước đã lên tiếng về Trung Quốc, theo ông trường hợp của Việt Nam có loại trừ hay không?
TS Alan Phan: - Thuần túy về kinh tế, anh nào có sẵn tiền sẽ mua, theo giá thị trường. Capital flight từ Trung Quốc và vị trí lân cận khiến đầu tư vào lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc dẫn đầu trong số các nước tham gia vào thị trường bất động sản Việt Nam.
Tuy nhiên tại Trung Quốc bong bóng bất động sản cũng lớn theo quy mô khủng khiếp vì Trung Quốc có tiền nhiều nên hoang phí hơn Việt Nam nhiều. Bong bóng nào vỡ cũng gây ảnh hưởng và khi bong bóng lớn, ảnh hưởng kinh tế mạnh hơn nhiều. Còn Việt Nam bong bóng có nổ thì thế giới cũng không ảnh hưởng gì. Nếu bong bóng bất động sản Trung Quốc nổ, nợ địa phương, nợ doanh nghiệp, nợ công bùng nổ ra cả các nền kinh tế thế giới.
PV: - Ông có thể dự đoán kịch bản cho thị trường bất động sản thời gian tới?
TS Alan Phan: - Dù có sự mua bán lại giữa các doanh nghiệp bất động sản nhưng cũng phải 3-5 năm để thị trường Việt Nam phục hồi. Với Trung Quốc tiến trình thể mất 5-10 năm.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Nguyên Thảo (thực hiện)
Ngoài ra, ảnh hưởng có tới được người dân hay không thì chỉ có thể khẳng định là nó sẽ gián tiếp như việc thuê nhân công, thuê nhà thầu phụ… tức là sẽ có ảnh hưởng nhất định nào đó nhưng không nhiều. Ngân sách cho các địa phương cũng sẽ tăng chút đỉnh nhờ các đấu tư này.
PV: - Có ý kiến lo ngại về việc nước ngoài chiếm bất động sản ở những vị trí quan trọng điều mà nhiều nước đã lên tiếng về Trung Quốc, theo ông trường hợp của Việt Nam có loại trừ hay không?
TS Alan Phan: - Thuần túy về kinh tế, anh nào có sẵn tiền sẽ mua, theo giá thị trường. Capital flight từ Trung Quốc và vị trí lân cận khiến đầu tư vào lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc dẫn đầu trong số các nước tham gia vào thị trường bất động sản Việt Nam.
Tuy nhiên tại Trung Quốc bong bóng bất động sản cũng lớn theo quy mô khủng khiếp vì Trung Quốc có tiền nhiều nên hoang phí hơn Việt Nam nhiều. Bong bóng nào vỡ cũng gây ảnh hưởng và khi bong bóng lớn, ảnh hưởng kinh tế mạnh hơn nhiều. Còn Việt Nam bong bóng có nổ thì thế giới cũng không ảnh hưởng gì. Nếu bong bóng bất động sản Trung Quốc nổ, nợ địa phương, nợ doanh nghiệp, nợ công bùng nổ ra cả các nền kinh tế thế giới.
PV: - Ông có thể dự đoán kịch bản cho thị trường bất động sản thời gian tới?
TS Alan Phan: - Dù có sự mua bán lại giữa các doanh nghiệp bất động sản nhưng cũng phải 3-5 năm để thị trường Việt Nam phục hồi. Với Trung Quốc tiến trình thể mất 5-10 năm.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Nguyên Thảo (thực hiện)
( Đất Việt )
Nguyễn Quốc Khải - Không trả tự do cho Tù Nhân Lương Tâm, không có TPP và võ khí sát thương
(VNTB) Chiến dịch Đòi Tự Do Cho Tù Nhân Lương Tâm do BPSOS phát động
đã đạt được nhiều kết quả cụ thể trong vòng đúng một năm kể từ ngày khởi
đầu.
Còn quá nhiều Tù Nhân Lương Tâm
Trước hết chúng ta nói đến chương trình đỡ đầu Tù Nhân Lương Tâm. Hiện nay trên thế giới có 30 Tù Nhân Lương Tâm được các dân biểu Hoa Kỳ đỡ đầu. Trong số đó có 13 Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam, kể cả ba trường hợp mới nhất là Tù Nhân Lương Tâm Võ Minh Trí tức Nhạc Sĩ Việt Khang được DB Michael McCaul (Cộng Hòa, Texas) đỡ đầu và hai Tù Nhân Lương Tâm khác là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương được DB Chris Van Hollen (Dân Chủ, Maryland) đỡ đầu cùng một lúc vào tháng Bẩy vừa qua.
Mười Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam còn lại gồm TS. Cù Huy Hà Vũ (David Price), Đỗ Thị Minh Hạnh (Chris Van Hollen), Nguyễn Tiến Trung (Alan Lowenthal), Mục Sư Nguyễn Công Chính (Alan Lowenthal), Mục Sư Dương Kim Khải (Ted Poe), Linh Mục Nguyễn Văn Lý (Christopher Smith), Trần Huỳnh Duy Thức (Zoe Lofgren), Nguyễn Văn Lía (Zoe Lofgren), Tạ Phong Tần (Sheila Jackson Lee), và Ls. Lê Quốc Quân (Loretta Sanchez). Trong số mười người vừa kể, có ba Tù Nhân Lương Tâm đã được trả tự do vô điều kiện là TS Cù Huy Hà Vũ, Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, và KS Nguyễn Tiến Trung.
Còn quá nhiều Tù Nhân Lương Tâm
Trước hết chúng ta nói đến chương trình đỡ đầu Tù Nhân Lương Tâm. Hiện nay trên thế giới có 30 Tù Nhân Lương Tâm được các dân biểu Hoa Kỳ đỡ đầu. Trong số đó có 13 Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam, kể cả ba trường hợp mới nhất là Tù Nhân Lương Tâm Võ Minh Trí tức Nhạc Sĩ Việt Khang được DB Michael McCaul (Cộng Hòa, Texas) đỡ đầu và hai Tù Nhân Lương Tâm khác là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương được DB Chris Van Hollen (Dân Chủ, Maryland) đỡ đầu cùng một lúc vào tháng Bẩy vừa qua.
Mười Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam còn lại gồm TS. Cù Huy Hà Vũ (David Price), Đỗ Thị Minh Hạnh (Chris Van Hollen), Nguyễn Tiến Trung (Alan Lowenthal), Mục Sư Nguyễn Công Chính (Alan Lowenthal), Mục Sư Dương Kim Khải (Ted Poe), Linh Mục Nguyễn Văn Lý (Christopher Smith), Trần Huỳnh Duy Thức (Zoe Lofgren), Nguyễn Văn Lía (Zoe Lofgren), Tạ Phong Tần (Sheila Jackson Lee), và Ls. Lê Quốc Quân (Loretta Sanchez). Trong số mười người vừa kể, có ba Tù Nhân Lương Tâm đã được trả tự do vô điều kiện là TS Cù Huy Hà Vũ, Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, và KS Nguyễn Tiến Trung.
Hình (Nguyễn Quốc Khải): Sau khi ra khỏi tù và sang đến Mỹ, TS Cù Huy Hà Vũ viếng thăm DB David Price (Dân Chủ, North Carolina), người đã bảo trợ ông từ khi còn là người Tù Lương Tâm tại Việt Nam. Từ trái: TS Nguyễn Đình Thắng (BPSOS/CAMSA), LS Gia Hartman (BPSOS), cô Elise Xuân Phương (BPSOS), DB David Price, LS Nguyễn Thị Dương Hà, TS Cù Huy Hà Vũ và ô. Nguyễn Quốc Khải (BPSOS/CAMSA). |
Tại Việt Nam có khoảng 200 Tù Nhân Lương Tâm. Đây là những người vì
lương tâm mà tranh đấu một cách ôn hòa cho quyền làm người của những
người khác, chống lại bất công trong xã hội mà những nạn nhân điển hình
là những dân oan mất nhà mất đất, những nạn nhân của nạn buôn người,
những công nhân bị bóc lột lao động, những người bị tước đoạt những
quyền tự do căn bản. Họ bị tù đầy vì bị CSVN khép vào tội hình sự theo
các Điều Khoản 88, 79, và 279 của Luật Hình Sự. Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn
Hoàng Quốc Hùng, và Đoàn Huy Chương là những trường hợp điển hình. Cà
ba người này bị chế độ CSVN kết án tổng cộng 23 năm tù vì tranh đấu cho
quyền lợi của người lao động và dân oan bị cưỡng chiếm nhà đất.
Trong thời gian tới Chương Trình Đỡ Đầu Tù Nhân Lương Tâm và BPSOS sẽ đặc biệt tranh đấu đòi trả tự do cho sáu Tù Nhân Lương Tâm sau đây: Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày, Trần Vũ Anh Bình, Hồ Thị Bích Khương, Paulus Lê Văn Sơn, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, và Đoàn Huy Chương.
Quốc hội chiếm ưu thế
Để tạo sức ép đòi CSVN trả tự do cho tất cả các Tù Nhân Lương Tâm, Chiến dịch Đòi Tự Do Cho Tù Nhân Lương Tâm liên tục vận động với Quốc Hội Hoa Kỳ để yêu cầu các nhà lập pháp Hoa Kỳ đặt điều kiện về nhân quyền, đặc biệt là quyền lao dộng, khi cứu xét cho Việt Nam tham dự vào Thương Ước Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership).
Qua sự vận động ráo riết của Liên Minh Cho Một Việt Nam Tự Do và Dân Chủ (Coalition for Free and Democratic Vietnam – viết tắt là CFDV) , trong đó có BPSOS và CAMSA, cho đến nay đã có 255 dân biểu lên tiếng chính thức phản đối cho Việt Nam vào TPP. Đa số nêu lý do chính là Việt Nam vi phạm quyền lao động. Một nhóm gồm 36 dân biểu không chấp nhận Việt Nam tham gia vào thương ước này vì Việt Nam cạnh tranh bất công trong ngành dệt may. Ngoài ra còn có 39 dân biểu khác không lên tiếng chính thức và không nêu đích danh Việt Nam nhưng chống TPP. Con số 255 dân biểu chính thức chống TPP đã vượt xa một nửa con số 435 thành viên của Hạ Viện. Nếu không kể 36 dân biểu chống TPP vì ngành dệt, chúng ta vẫn còn 119 phiếu chống, nghĩa là vẫn quá bán. Do đó Việt Nam không thể vào được TPP dù Tổng Thống Obama đồng ý. Một khi hầu hết các dân biểu Dân Chủ đều chống TPP cho Việt Nam, ông Tổng Thống Dân Chủ cũng khó có thể làm trái ý được.
Cuộc vận động Quốc Hội Hoa Kỳ của CFDV vẫn tiếp tục.
Điều kiện tiên quyết
Việt Nam từng thương thuyết với Hoa Kỳ cho Việt Nam một thời gian 5 năm để sửa đổi luật Lao Động cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, nhất là về quyền hội họp, quyền lập hội, và quyền thành lập công đoàn độc lập. Việt Nam cũng từng đề nghị cho các công đoàn ở cấp địa phương được tự trị, nhưng vẫn trực thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN), một tổ chức của Đảng CSVN. Hai đề nghị này không có giá trị. Chúng chỉ cho thấy rằng CSVN vẫn không từ bỏ chủ mưu muốn kìm kẹp công nhân. Vào năm 2008, CSVN cũng đã từng đưa ra những ý kiến tương tự, nhưng đã bị Hoa Kỳ bác bỏ, khi họ muốn xin Hoa Kỳ cho hưởng Quy Chế Ưu Đãi Phổ Quát (Generalized System of Preferences) về thuế quan, để có thể xuất khẩu khoảng 5.000 sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ miễn thuế. Từ 2008 đến nay đã 6 năm, Luật Lao Động Việt Nam vẫn không thay đổi. TLĐLĐVN vẫn chứng tỏ là một tổ chức của Đảng CSVN, không đem lại một lợi ích thiết thực cho công nhân cả.
Vấn đề cải thiện tình trạng nhân quyền một cách cụ thể cũng là một điều kiện tiên quyết để Hoa Kỳ xóa bỏ cấm vận võ khí đối với Việt Nam - một điều mà CSVN rất mong muốn trước sự xâm lăng trắng trợn của Trung Quốc. Tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội Ted Osius chủ trương bán võ khí sát thương cho Việt Nam. Tuy nhiên, ông đã nhắc nhở rằng lệnh cấm vận này sẽ không được dỡ bỏ nếu Việt Nam không có những tiến triển đáng kể về nhân quyền.
CSVN sửa đổi luật Lao Động và trả tự do cho các Tù Nhân Lương Tâm, đặc biệt là hai nhà bênh vực quyền lao động Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương, là phương cách nhanh chóng nhất để giải quyết vấn đề TPP. Trong trường hợp này CSVN cũng sẽ có thể đạt được Hoa Kỳ thỏa thuận bán võ khí sát thương và quan hệ giữa hai nước sẽ tốt đẹp hơn, có lợi cho cả đôi bên.
Không trả tự do cho Tù Nhân Lương Tâm, không có TPP và võ khí sát thương
Hai dân biểu chủ xướng chương trình đỡ đầu cho Tù Nhân Lương Tâm là các ông Frank Wolf (Cộng Hòa, Virginia) và James McGovern (Dân Chủ, Massachusetts). Cả hai vị này là đồng chủ tịch của Ủy Hội Nhân Quyền Tom Lantos của Hạ Viện Hoa Kỳ. Những nhà lập pháp Hoa Kỳ khác đã ủng hộ mạnh mẽ chương trình đỡ đầu Tù Nhân Lương Tâm Tù Nhân Lương Tâm là DB Ed Royce (Cộng Hòa, California), TNS Ben Cardin (Dân Chủ, Maryland), DB David Price (Dân Chủ, North Carolina), DB Alan Lowenthal (Dân Chủ, California), DB Chris Smith (Cộng Hòa, New Jersey), DB Sheila Jackson Lee (Dân Chủ, Texas).
Từ 2008 đến cuối năm 2013, BPSOS đã vận động được một ngân khoản 168 ngàn Mỹ kim và đã chuyển tất cả số tiền này đến 46 nhà tranh đấu nhân quyền bị tù đầy hoặc lâm nạn tại Việt Nam.
Song song với chương trình đỡ đầu Tù Nhân Lương Tâm, Quốc Hội Hoa Kỳ còn yểm trợ chiến dịch chống tra tấn do BPSOS phát động từ 2010. Mục tiêu là bảo vệ các tù nhân, đặc biệt là Tù Nhân Lương Tâm. Việt Nam đã ký Công Ước LHQ về Chống Tra Tấn (U.N. Convention Against Toture viết tắt là CAT) vào cuối năm 2013. Tuy nhiên, Chiến Dịch Chống Tra Tấn vẫn tiếp tục để bảo đảm rằng CSVN nghiêm chỉnh thi hành CAT. Theo những tin tức chúng tôi nhận được từ thân nhân của một số tù nhân lương tâm, những người này không còn bị tra tấn thể xác hay đánh đập nữa. Nếu ai có bằng chứng về việc CSVN còn tiếp tục tra tấn tù nhân lương tâm, xin vui lòng thông báo cho báo chí, các tổ chức nhân quyền, và BPSOS.
Về phía người Việt hải ngoại, chúng ta có chương trình kết nghĩa và bảo trợ các Tù Nhân Lương Tâm. Theo đó người Việt ở nước ngoài yểm trợ tinh thần và vật chất một Tù Nhân Lương Tâm ở trong nước qua gia đình của Tù Nhân Lương Tâm để họ có phương tiện chăm sóc và tranh đấu đòi tự do cho Tù Nhân Lương Tâm. Người kết nghĩa cũng có thể trợ giúp Tù Nhân Lương Tâm một cách gián tiếp qua Quỹ Tù Nhân Lương Tâm của BPSOS. Chương trình kết nghĩa và bảo trợ này của người Việt ở nước ngoài tỏ ra rất có hiệu quả vì mang đến gia đình Người Tù Lương Tâm những yểm trợ thiết thực.
Nguyễn Quốc Khải
Trong thời gian tới Chương Trình Đỡ Đầu Tù Nhân Lương Tâm và BPSOS sẽ đặc biệt tranh đấu đòi trả tự do cho sáu Tù Nhân Lương Tâm sau đây: Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày, Trần Vũ Anh Bình, Hồ Thị Bích Khương, Paulus Lê Văn Sơn, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, và Đoàn Huy Chương.
Quốc hội chiếm ưu thế
Để tạo sức ép đòi CSVN trả tự do cho tất cả các Tù Nhân Lương Tâm, Chiến dịch Đòi Tự Do Cho Tù Nhân Lương Tâm liên tục vận động với Quốc Hội Hoa Kỳ để yêu cầu các nhà lập pháp Hoa Kỳ đặt điều kiện về nhân quyền, đặc biệt là quyền lao dộng, khi cứu xét cho Việt Nam tham dự vào Thương Ước Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership).
Qua sự vận động ráo riết của Liên Minh Cho Một Việt Nam Tự Do và Dân Chủ (Coalition for Free and Democratic Vietnam – viết tắt là CFDV) , trong đó có BPSOS và CAMSA, cho đến nay đã có 255 dân biểu lên tiếng chính thức phản đối cho Việt Nam vào TPP. Đa số nêu lý do chính là Việt Nam vi phạm quyền lao động. Một nhóm gồm 36 dân biểu không chấp nhận Việt Nam tham gia vào thương ước này vì Việt Nam cạnh tranh bất công trong ngành dệt may. Ngoài ra còn có 39 dân biểu khác không lên tiếng chính thức và không nêu đích danh Việt Nam nhưng chống TPP. Con số 255 dân biểu chính thức chống TPP đã vượt xa một nửa con số 435 thành viên của Hạ Viện. Nếu không kể 36 dân biểu chống TPP vì ngành dệt, chúng ta vẫn còn 119 phiếu chống, nghĩa là vẫn quá bán. Do đó Việt Nam không thể vào được TPP dù Tổng Thống Obama đồng ý. Một khi hầu hết các dân biểu Dân Chủ đều chống TPP cho Việt Nam, ông Tổng Thống Dân Chủ cũng khó có thể làm trái ý được.
Cuộc vận động Quốc Hội Hoa Kỳ của CFDV vẫn tiếp tục.
Điều kiện tiên quyết
Việt Nam từng thương thuyết với Hoa Kỳ cho Việt Nam một thời gian 5 năm để sửa đổi luật Lao Động cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, nhất là về quyền hội họp, quyền lập hội, và quyền thành lập công đoàn độc lập. Việt Nam cũng từng đề nghị cho các công đoàn ở cấp địa phương được tự trị, nhưng vẫn trực thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN), một tổ chức của Đảng CSVN. Hai đề nghị này không có giá trị. Chúng chỉ cho thấy rằng CSVN vẫn không từ bỏ chủ mưu muốn kìm kẹp công nhân. Vào năm 2008, CSVN cũng đã từng đưa ra những ý kiến tương tự, nhưng đã bị Hoa Kỳ bác bỏ, khi họ muốn xin Hoa Kỳ cho hưởng Quy Chế Ưu Đãi Phổ Quát (Generalized System of Preferences) về thuế quan, để có thể xuất khẩu khoảng 5.000 sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ miễn thuế. Từ 2008 đến nay đã 6 năm, Luật Lao Động Việt Nam vẫn không thay đổi. TLĐLĐVN vẫn chứng tỏ là một tổ chức của Đảng CSVN, không đem lại một lợi ích thiết thực cho công nhân cả.
Vấn đề cải thiện tình trạng nhân quyền một cách cụ thể cũng là một điều kiện tiên quyết để Hoa Kỳ xóa bỏ cấm vận võ khí đối với Việt Nam - một điều mà CSVN rất mong muốn trước sự xâm lăng trắng trợn của Trung Quốc. Tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội Ted Osius chủ trương bán võ khí sát thương cho Việt Nam. Tuy nhiên, ông đã nhắc nhở rằng lệnh cấm vận này sẽ không được dỡ bỏ nếu Việt Nam không có những tiến triển đáng kể về nhân quyền.
CSVN sửa đổi luật Lao Động và trả tự do cho các Tù Nhân Lương Tâm, đặc biệt là hai nhà bênh vực quyền lao động Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương, là phương cách nhanh chóng nhất để giải quyết vấn đề TPP. Trong trường hợp này CSVN cũng sẽ có thể đạt được Hoa Kỳ thỏa thuận bán võ khí sát thương và quan hệ giữa hai nước sẽ tốt đẹp hơn, có lợi cho cả đôi bên.
Không trả tự do cho Tù Nhân Lương Tâm, không có TPP và võ khí sát thương
Hai dân biểu chủ xướng chương trình đỡ đầu cho Tù Nhân Lương Tâm là các ông Frank Wolf (Cộng Hòa, Virginia) và James McGovern (Dân Chủ, Massachusetts). Cả hai vị này là đồng chủ tịch của Ủy Hội Nhân Quyền Tom Lantos của Hạ Viện Hoa Kỳ. Những nhà lập pháp Hoa Kỳ khác đã ủng hộ mạnh mẽ chương trình đỡ đầu Tù Nhân Lương Tâm Tù Nhân Lương Tâm là DB Ed Royce (Cộng Hòa, California), TNS Ben Cardin (Dân Chủ, Maryland), DB David Price (Dân Chủ, North Carolina), DB Alan Lowenthal (Dân Chủ, California), DB Chris Smith (Cộng Hòa, New Jersey), DB Sheila Jackson Lee (Dân Chủ, Texas).
Từ 2008 đến cuối năm 2013, BPSOS đã vận động được một ngân khoản 168 ngàn Mỹ kim và đã chuyển tất cả số tiền này đến 46 nhà tranh đấu nhân quyền bị tù đầy hoặc lâm nạn tại Việt Nam.
Song song với chương trình đỡ đầu Tù Nhân Lương Tâm, Quốc Hội Hoa Kỳ còn yểm trợ chiến dịch chống tra tấn do BPSOS phát động từ 2010. Mục tiêu là bảo vệ các tù nhân, đặc biệt là Tù Nhân Lương Tâm. Việt Nam đã ký Công Ước LHQ về Chống Tra Tấn (U.N. Convention Against Toture viết tắt là CAT) vào cuối năm 2013. Tuy nhiên, Chiến Dịch Chống Tra Tấn vẫn tiếp tục để bảo đảm rằng CSVN nghiêm chỉnh thi hành CAT. Theo những tin tức chúng tôi nhận được từ thân nhân của một số tù nhân lương tâm, những người này không còn bị tra tấn thể xác hay đánh đập nữa. Nếu ai có bằng chứng về việc CSVN còn tiếp tục tra tấn tù nhân lương tâm, xin vui lòng thông báo cho báo chí, các tổ chức nhân quyền, và BPSOS.
Về phía người Việt hải ngoại, chúng ta có chương trình kết nghĩa và bảo trợ các Tù Nhân Lương Tâm. Theo đó người Việt ở nước ngoài yểm trợ tinh thần và vật chất một Tù Nhân Lương Tâm ở trong nước qua gia đình của Tù Nhân Lương Tâm để họ có phương tiện chăm sóc và tranh đấu đòi tự do cho Tù Nhân Lương Tâm. Người kết nghĩa cũng có thể trợ giúp Tù Nhân Lương Tâm một cách gián tiếp qua Quỹ Tù Nhân Lương Tâm của BPSOS. Chương trình kết nghĩa và bảo trợ này của người Việt ở nước ngoài tỏ ra rất có hiệu quả vì mang đến gia đình Người Tù Lương Tâm những yểm trợ thiết thực.
Nguyễn Quốc Khải
( Việt Nam Thời Báo )
Huỳnh Văn Sơn - Người Việt đang rất xấu
Trong vài năm trở lại đây số lượng người VN đi du lịch nước ngoài mỗi
năm một tăng nhanh, nhất là những 'mùa' du lịch như hè, Giáng sinh -
tết Tây, tết ta... Và cũng từ đây, trong mắt của người nước ngoài, nhiều
hình ảnh không hay của người VN đã xuất hiện và ngày càng rõ nét.
Một thói xấu thường thấy: tiểu tiện nơi công cộng - Ảnh: Diệp Đức Minh |
Điều này không những tạo nên sự trăn trở của những người bản xứ - nơi mà
người Việt đến tham quan mà còn trở thành mối bận lòng của nhiều người
có trách nhiệm với văn hóa Việt hôm nay.
“Xin mời ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu”
Hè năm ngoái, khi đi du lịch Thái Lan, vào một nhà hàng ăn buffet, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy cái biển ghi chữ tiếng Việt: “Xin mời ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Nếu ăn không hết sẽ phạt từ 200 baht đến 500 baht. Xin cảm ơn!”.
Chuyện ăn uống này đã thành câu chuyện buồn của khách du lịch Việt không chỉ ở Thái Lan mà còn cả ở Singapore. Tại Singapore, biển ghi bằng tiếng Việt (và chỉ có duy nhất tiếng Việt): “Lấy vừa đủ ăn”. Quả thật, phải vào tận nơi mới biết tại sao người ta phải trưng những cái biển đấy. Nhà hàng đông khách, ai ai cũng xếp hàng đợi đến lượt mình lấy đồ ăn. Bỗng dưng một cặp đôi người Việt từ đâu ùa tới chen ngang. Những người xung quanh chỉ biết lắc đầu cười. Hai người này lấy những năm, sáu con hàu, trong khi người phục vụ bàn đang tách từng con hàu một cho khách. Vào một nhà hàng khác thì lại gặp một anh người Việt ăn tham, bê mấy đĩa đồ ăn đầy bự về bàn, cứ như kiểu không lấy thì sợ ai “hốt” hết, ăn không hết rồi bỏ bê luôn.
Có thể nhìn nhận đây đã trở thành một thói quen xấu của người VN. Một thói xấu gần như khó sửa. Người Việt bất chấp cái bụng của mình có thể ăn được bao nhiêu, mà ăn bằng “mắt”, lấy cho sướng tay, kể cả những món ăn lạ, không hợp khẩu vị, và để trên bàn ngồi ngắm nhìn như thành tích, rồi bỏ đi, trong ánh mắt vừa khó chịu vừa kinh ngạc của những người xung quanh. Lý giải cho điều này thật nhiều chuyện phải bàn. Thói quen? Sự nhận thức lệch pha về khả năng ước lượng? Hay sự sang trọng tức thời? Hoặc một yếu tố nào khác?
Những tiếng xấu về ứng xử thiếu văn hóa của người VN ngày càng lan truyền mạnh mẽ. Sự thụt lùi về văn hóa đang trở thành một nạn lớn đối với thế hệ trẻ của đất nước. Đầu tiên chỉ là sự thiếu tôn trọng cá nhân nhưng sau đó sẽ thành sự thiếu tôn trọng, phân biệt đối xử cho quốc thể
“Đi vệ sinh nhớ dội nước”
“Xin mời ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu”
Hè năm ngoái, khi đi du lịch Thái Lan, vào một nhà hàng ăn buffet, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy cái biển ghi chữ tiếng Việt: “Xin mời ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Nếu ăn không hết sẽ phạt từ 200 baht đến 500 baht. Xin cảm ơn!”.
Chuyện ăn uống này đã thành câu chuyện buồn của khách du lịch Việt không chỉ ở Thái Lan mà còn cả ở Singapore. Tại Singapore, biển ghi bằng tiếng Việt (và chỉ có duy nhất tiếng Việt): “Lấy vừa đủ ăn”. Quả thật, phải vào tận nơi mới biết tại sao người ta phải trưng những cái biển đấy. Nhà hàng đông khách, ai ai cũng xếp hàng đợi đến lượt mình lấy đồ ăn. Bỗng dưng một cặp đôi người Việt từ đâu ùa tới chen ngang. Những người xung quanh chỉ biết lắc đầu cười. Hai người này lấy những năm, sáu con hàu, trong khi người phục vụ bàn đang tách từng con hàu một cho khách. Vào một nhà hàng khác thì lại gặp một anh người Việt ăn tham, bê mấy đĩa đồ ăn đầy bự về bàn, cứ như kiểu không lấy thì sợ ai “hốt” hết, ăn không hết rồi bỏ bê luôn.
Có thể nhìn nhận đây đã trở thành một thói quen xấu của người VN. Một thói xấu gần như khó sửa. Người Việt bất chấp cái bụng của mình có thể ăn được bao nhiêu, mà ăn bằng “mắt”, lấy cho sướng tay, kể cả những món ăn lạ, không hợp khẩu vị, và để trên bàn ngồi ngắm nhìn như thành tích, rồi bỏ đi, trong ánh mắt vừa khó chịu vừa kinh ngạc của những người xung quanh. Lý giải cho điều này thật nhiều chuyện phải bàn. Thói quen? Sự nhận thức lệch pha về khả năng ước lượng? Hay sự sang trọng tức thời? Hoặc một yếu tố nào khác?
Những tiếng xấu về ứng xử thiếu văn hóa của người VN ngày càng lan truyền mạnh mẽ. Sự thụt lùi về văn hóa đang trở thành một nạn lớn đối với thế hệ trẻ của đất nước. Đầu tiên chỉ là sự thiếu tôn trọng cá nhân nhưng sau đó sẽ thành sự thiếu tôn trọng, phân biệt đối xử cho quốc thể
“Đi vệ sinh nhớ dội nước”
Thêm một lần choáng nữa ở nhà vệ sinh khi tôi bắt gặp cái biển to tướng,
đánh máy bằng tiếng Việt hẳn hoi “đi vệ sinh nhớ dội nước” được gắn
trên một nhà hàng đồi cát trên đất Thái. Vẫn đáng chú ý là chỉ có mỗi
tiếng Việt mà không có ngôn ngữ khác.
Chuyện đi vệ sinh cũng là chuyện tế nhị, và với du khách người Việt thì phải luôn có sự nhắc nhở “giữ vệ sinh chung”, như nhắc trẻ mẫu giáo, nhưng cũng chỉ là “nước đổ lá khoai”. Họ cứ thẳng tiến “vào”, và đi “ra” tự nhiên, để người đến sau phải nhăn mặt bởi những gì người đi trước để lại. Đã có những chuyện cười ra nước mắt ở châu Âu, du khách Việt bị nhốt trong toilet, bởi muốn cửa mở ra thì phải có động tác giật nước xả.
Còn chuyện xả rác bừa bãi thì nhiều vô kể. Hay gặp nhất là ở sân bay. Có lần tôi đang ở sân bay Đài Loan, vì thời tiết xấu nên bị hoãn chuyến bay lại 2 giờ. Sân bay đông người không đủ chỗ ngồi, rất nhiều người nước ngoài phải đứng. Thế mà một đoàn người Việt, toàn những người trẻ 8X, 9X lôi báo ra trải dưới sàn ngồi, lôi bài ra đánh reo hò ầm ĩ. Đến khi đứng dậy thì báo mỗi chỗ một mảnh, mặc đấy cho nhân viên sân bay dọn dẹp. Đúng hôm ấy, chủ đề tôi chia sẻ lại là: bản sắc văn hóa và mối quan hệ với hành vi ứng xử.
Bài nói làm tôi ngậm ngùi lâu không hẳn chỉ vì sự cảm xúc quá lên khi trình bày về văn hóa người Việt mà đó là những gì thuộc về lòng tự trọng.
“Sorry, turn back please”
Tôi ít khi nói về những gì mình trải qua nếu mình có điều kiện hơn những cá nhân khác dù chỉ là một nhóm. Nhưng kinh nghiệm học tập tại Singapore từ những năm sau đại học khoảng 1999 - 2000 đến những cơ hội tập huấn về tư vấn ở một vài quốc gia như: Philippines, Malaysia hay xa hơn là Đan Mạch thì chuyện ứng xử đặc thù của người Việt vẫn là sự trăn trở tất bật trong suy nghĩ mỗi khi tình cờ gặp đồng hương xa xứ. Vừa mừng, vừa lo vì không biết mình có phải nhạy cảm quá đáng... Hay chuẩn bị gặp một tình huống đặc biệt nào đó trong cuộc sống từ người đồng hương ấy.
Chuyện đi vệ sinh cũng là chuyện tế nhị, và với du khách người Việt thì phải luôn có sự nhắc nhở “giữ vệ sinh chung”, như nhắc trẻ mẫu giáo, nhưng cũng chỉ là “nước đổ lá khoai”. Họ cứ thẳng tiến “vào”, và đi “ra” tự nhiên, để người đến sau phải nhăn mặt bởi những gì người đi trước để lại. Đã có những chuyện cười ra nước mắt ở châu Âu, du khách Việt bị nhốt trong toilet, bởi muốn cửa mở ra thì phải có động tác giật nước xả.
Còn chuyện xả rác bừa bãi thì nhiều vô kể. Hay gặp nhất là ở sân bay. Có lần tôi đang ở sân bay Đài Loan, vì thời tiết xấu nên bị hoãn chuyến bay lại 2 giờ. Sân bay đông người không đủ chỗ ngồi, rất nhiều người nước ngoài phải đứng. Thế mà một đoàn người Việt, toàn những người trẻ 8X, 9X lôi báo ra trải dưới sàn ngồi, lôi bài ra đánh reo hò ầm ĩ. Đến khi đứng dậy thì báo mỗi chỗ một mảnh, mặc đấy cho nhân viên sân bay dọn dẹp. Đúng hôm ấy, chủ đề tôi chia sẻ lại là: bản sắc văn hóa và mối quan hệ với hành vi ứng xử.
Bài nói làm tôi ngậm ngùi lâu không hẳn chỉ vì sự cảm xúc quá lên khi trình bày về văn hóa người Việt mà đó là những gì thuộc về lòng tự trọng.
“Sorry, turn back please”
Tôi ít khi nói về những gì mình trải qua nếu mình có điều kiện hơn những cá nhân khác dù chỉ là một nhóm. Nhưng kinh nghiệm học tập tại Singapore từ những năm sau đại học khoảng 1999 - 2000 đến những cơ hội tập huấn về tư vấn ở một vài quốc gia như: Philippines, Malaysia hay xa hơn là Đan Mạch thì chuyện ứng xử đặc thù của người Việt vẫn là sự trăn trở tất bật trong suy nghĩ mỗi khi tình cờ gặp đồng hương xa xứ. Vừa mừng, vừa lo vì không biết mình có phải nhạy cảm quá đáng... Hay chuẩn bị gặp một tình huống đặc biệt nào đó trong cuộc sống từ người đồng hương ấy.
Dép trong nhà vệ sinh công cộng cũng bị lấy cắp |
Có lần tôi lang thang ở Singapore và tình cờ gặp một sinh viên rất trẻ
được một giải thưởng công nghệ. Vốn đang nghiên cứu về nghệ thuật nói
trước công chúng, tôi sẵn sàng nhận lời mời để tham gia buổi nhận thưởng
của bạn ấy cách trung tâm TP 3 km. Cùng lên chuyến xe taxi do một tài
xế người gốc Malaysia lái. Anh ta từ chối thẳng thắn, không chịu chở cả
tôi và cậu sinh viên ấy khi hai lần đề nghị cài dây an toàn nhưng chàng
trai cứ giả vờ không nghe thấy. Tôi hỏi cậu ta không nghe rõ à. Cậu bảo:
Nghe chứ, nhưng bên mình có cần cài đâu. Đi có chút xíu cài chi cho
mệt. Không chở thì đi xe khác...
Có lần tôi lang thang ở Disneyland từ sáng sớm đến khuya chỉ để làm một thao tác khá đơn giản. Vốn khi học sau đại học ngành quản trị hành vi trong tổ chức, tôi muốn xem xét hành vi giám sát thương mại ở các khu vui chơi. Chọn Disneyland làm điểm đến, tôi kiên nhẫn chờ đợi, quan sát.
Mọi sự cứ lặng lẽ trôi nếu như không có cảnh nao lòng và buốt dạ. Một du khách bị tống cổ ra khỏi vị trí cuối cùng khi chuẩn bị được dạo chơi để hàn huyên cùng chị hằng. Người phụ trách giám sát trưng ra bằng chứng là một hình ảnh. Ban đầu, vị khách ấy đứng sau khoảng 8 người khách Tây và 4 trẻ em trong nước (có lẽ là người Hồng Kông hay Trung Quốc). Nhưng hình ảnh ghi nhận từ camera cho thấy anh ta đã len lỏi hai lần để tiến hơn 12 bậc để được lên sớm. Hành vi ấy được thực hiện bằng cách khều người phía trước để ra hiệu tìm người quen, nhưng rồi khi đến vị trí mới, anh ấy lại “sorry” để tiếp tục thực hiện. Và người cuối cùng tìm được cũng không phải người quen.
“Sorry, turn back please”. Câu hỏi “Anh đến từ VN?” cất lên bởi giọng lơ lớ của cô nhân viên giám sát làm tôi điếng người. Cái đau như vọng từ tiềm thức về hành vi công cộng bị xem thường hay sự xem thường chính mình của người Việt? (Còn tiếp)
Và một chuyện xấu nữa có thể kể đến là việc đi mua sắm. Người Việt đi du lịch và mua sắm nhưng gần như không có nhiều kiến thức về hàng hóa. Do đó khi mua sắm, nhiều người đã trở thành “trưởng giả học làm sang”, mua sắm vô tội vạ, đua nhau mua theo kiểu “anh có gì ả có đó”, khi mua, lấy hàng chọn hàng vứt bừa bãi lộn xộn, bới tung cả lô hàng... chưa kể chuyện “rình” để ăn cắp vặt.
Tháng 6.2013, một bức ảnh chụp biển cảnh cáo hành vi ăn cắp vặt có in tiếng Việt (dưới là dòng chữ dịch sang tiếng Nhật) gây xôn xao. Tấm biển cảnh cáo có nội dung: “Ăn cắp vặt là phạm tội. Nếu ăn cắp vặt thì bị phạt tù dưới 10 năm. Ngay khi phát hiện ăn cắp vặt thì chúng tôi sẽ thông báo cho cảnh sát ngay lập tức”.
Có lần tôi lang thang ở Disneyland từ sáng sớm đến khuya chỉ để làm một thao tác khá đơn giản. Vốn khi học sau đại học ngành quản trị hành vi trong tổ chức, tôi muốn xem xét hành vi giám sát thương mại ở các khu vui chơi. Chọn Disneyland làm điểm đến, tôi kiên nhẫn chờ đợi, quan sát.
Mọi sự cứ lặng lẽ trôi nếu như không có cảnh nao lòng và buốt dạ. Một du khách bị tống cổ ra khỏi vị trí cuối cùng khi chuẩn bị được dạo chơi để hàn huyên cùng chị hằng. Người phụ trách giám sát trưng ra bằng chứng là một hình ảnh. Ban đầu, vị khách ấy đứng sau khoảng 8 người khách Tây và 4 trẻ em trong nước (có lẽ là người Hồng Kông hay Trung Quốc). Nhưng hình ảnh ghi nhận từ camera cho thấy anh ta đã len lỏi hai lần để tiến hơn 12 bậc để được lên sớm. Hành vi ấy được thực hiện bằng cách khều người phía trước để ra hiệu tìm người quen, nhưng rồi khi đến vị trí mới, anh ấy lại “sorry” để tiếp tục thực hiện. Và người cuối cùng tìm được cũng không phải người quen.
“Sorry, turn back please”. Câu hỏi “Anh đến từ VN?” cất lên bởi giọng lơ lớ của cô nhân viên giám sát làm tôi điếng người. Cái đau như vọng từ tiềm thức về hành vi công cộng bị xem thường hay sự xem thường chính mình của người Việt? (Còn tiếp)
Và một chuyện xấu nữa có thể kể đến là việc đi mua sắm. Người Việt đi du lịch và mua sắm nhưng gần như không có nhiều kiến thức về hàng hóa. Do đó khi mua sắm, nhiều người đã trở thành “trưởng giả học làm sang”, mua sắm vô tội vạ, đua nhau mua theo kiểu “anh có gì ả có đó”, khi mua, lấy hàng chọn hàng vứt bừa bãi lộn xộn, bới tung cả lô hàng... chưa kể chuyện “rình” để ăn cắp vặt.
Tháng 6.2013, một bức ảnh chụp biển cảnh cáo hành vi ăn cắp vặt có in tiếng Việt (dưới là dòng chữ dịch sang tiếng Nhật) gây xôn xao. Tấm biển cảnh cáo có nội dung: “Ăn cắp vặt là phạm tội. Nếu ăn cắp vặt thì bị phạt tù dưới 10 năm. Ngay khi phát hiện ăn cắp vặt thì chúng tôi sẽ thông báo cho cảnh sát ngay lập tức”.
Tiếng xấu ngày càng lan truyền mạnh mẽ
Tất nhiên không thể đánh đồng tất cả người VN đều mang những "tật" trên, nhưng đó cũng là một bộ phận không nhỏ. Và trong mắt không ít người ngoại quốc, nhiều trường hợp khách du lịch VN đã trở thành "con sâu làm rầu nồi canh". Những tiếng xấu về ứng xử thiếu văn hóa của người VN ngày càng lan truyền mạnh mẽ. Sự thụt lùi về văn hóa đang trở thành một tệ nạn lớn đối với thế hệ trẻ của đất nước. Đầu tiên chỉ là sự thiếu tôn trọng cá nhân nhưng sau đó sẽ thành sự thiếu tôn trọng, phân biệt đối xử cho quốc thể. Thử hỏi, với những tiếng xấu về văn hóa đó, làm sao thế hệ trẻ có đủ tự tin để hòa nhập và phát triển đất nước?
Tính cách có một phần yếu tố di truyền, song một phần lớn khác là do ảnh hưởng của sự giáo dục (trong gia đình, nhà trường) và môi trường xã hội tác động đến. Do đó, tính cách ấy không thể bất biến được. Muốn thay đổi tính cách, con người cần phải đặt trong môi trường nhất định. Nếu như trong một cộng đồng, một xã hội được thắt chặt kỷ cương, đạo đức xã hội, pháp luật nghiêm minh, người thực thi pháp luật không nể nang bất cứ ai, tạo ra xã hội thực sự dân chủ, minh bạch thông tin thì những thói xấu như tham ăn, háo danh, sĩ diện, tùy tiện... sẽ khó có đất mà tồn tại.
Ngoài ra, xã hội cần có sự tuyên truyền mạnh mẽ về việc chống lại các thói quen xấu đã, đang và có xu hướng được hình thành. Bản thân mỗi cha mẹ cần là một tấm gương sáng để con cái noi theo. Nhà trường cần chú trọng khâu rèn luyện đạo đức, nếp sống, thói quen cho trẻ. Bên cạnh dạy kiến thức, nhà trường và gia đình cần dạy dỗ nhiều hơn về văn hóa giao tiếp và ứng xử. Có như vậy mới góp phần đưa văn hóa VN trở thành một điểm sáng trong mắt bạn bè thế giới. PGS-TS Huỳnh Văn Sơn
(Phó chủ tịch Hội Tâm lý học xã hội VN)
Tất nhiên không thể đánh đồng tất cả người VN đều mang những "tật" trên, nhưng đó cũng là một bộ phận không nhỏ. Và trong mắt không ít người ngoại quốc, nhiều trường hợp khách du lịch VN đã trở thành "con sâu làm rầu nồi canh". Những tiếng xấu về ứng xử thiếu văn hóa của người VN ngày càng lan truyền mạnh mẽ. Sự thụt lùi về văn hóa đang trở thành một tệ nạn lớn đối với thế hệ trẻ của đất nước. Đầu tiên chỉ là sự thiếu tôn trọng cá nhân nhưng sau đó sẽ thành sự thiếu tôn trọng, phân biệt đối xử cho quốc thể. Thử hỏi, với những tiếng xấu về văn hóa đó, làm sao thế hệ trẻ có đủ tự tin để hòa nhập và phát triển đất nước?
Tính cách có một phần yếu tố di truyền, song một phần lớn khác là do ảnh hưởng của sự giáo dục (trong gia đình, nhà trường) và môi trường xã hội tác động đến. Do đó, tính cách ấy không thể bất biến được. Muốn thay đổi tính cách, con người cần phải đặt trong môi trường nhất định. Nếu như trong một cộng đồng, một xã hội được thắt chặt kỷ cương, đạo đức xã hội, pháp luật nghiêm minh, người thực thi pháp luật không nể nang bất cứ ai, tạo ra xã hội thực sự dân chủ, minh bạch thông tin thì những thói xấu như tham ăn, háo danh, sĩ diện, tùy tiện... sẽ khó có đất mà tồn tại.
Ngoài ra, xã hội cần có sự tuyên truyền mạnh mẽ về việc chống lại các thói quen xấu đã, đang và có xu hướng được hình thành. Bản thân mỗi cha mẹ cần là một tấm gương sáng để con cái noi theo. Nhà trường cần chú trọng khâu rèn luyện đạo đức, nếp sống, thói quen cho trẻ. Bên cạnh dạy kiến thức, nhà trường và gia đình cần dạy dỗ nhiều hơn về văn hóa giao tiếp và ứng xử. Có như vậy mới góp phần đưa văn hóa VN trở thành một điểm sáng trong mắt bạn bè thế giới. PGS-TS Huỳnh Văn Sơn
(Phó chủ tịch Hội Tâm lý học xã hội VN)
( Thanh Niên )
Liệu Bắc Kinh có thực thi dân chủ ở Hồng Kông?
Năm 2007,
Bắc Kinh hứa với người dân Hồng Kông rằng cuộc bầu cử phổ thông đầu
phiếu cho vị trí Trưởng Đặc khu sẽ được diễn ra vào năm 2017, và phương
pháp tương tự sẽ áp dụng cho toàn bộ cơ quan lập pháp vào năm 2020. Năm
ngoái, phong trào ủng hộ dân chủ bắt đầu chiến dịch đấu tranh buộc Bắc
Kinh phải thực hiện lời hứa trên.
Nhưng tư
thế của các nhà chức trách Trung Quốc đã trở nên cứng rắn hơn kể từ năm
2007. Các quan chức [Trung Quốc] đưa ra yêu cầu rằng các ứng cử viên vào
chức vụ này phải ‘yêu Trung Quốc, yêu Hồng Kông’. Bắc Kinh cũng sẽ đề
ramột ủy ban đề cử để hoàn tất công việc “đề cử tổ chức, triển khai thực
hiện ý chí số đông’. Một số ý kiến cho rằng Bắc Kinh đề ra hướng này
nhằm cố ý tạo cơ hội để đưa một số thành phần ưu tú ủng hộ Bắc Kinh vào
nắm các số ghế trong ủy ban đề cử, sau đó sẽ kiểm soát danh sách các ứng
cử viên cho chức vụ Trưởng Đặc khu trong cuộc bầu cử. Việc yêu cầu các
ứng cử viên phải ‘yêu Trung Quốc, yêu Hồng Kông’ sẽ trở thành cơ sở đầu
tiên trong quá trình sàng lọc chính trị.
Sự không thành thật của chính quyền Trung Quốc đã làm cho phong trào ủng hộ dân chủ mất kiên nhẫn. Tình hình đang ngày càng trở nên đối đầu khi Bắc Kinh cho thấy họ không có khuynh hướng lùi bước: đề xuất cho sự thỏa hiệp được khởi xướng bởi các nhóm trung dung đã bị Bắc Kinh thẳng thừng từ chối. Đáng chú ý hơn,mặt trận ủng hộ Bắc Kinh đã thành lập nhiều “tổ chức yêu nước” và tham gia vào nhiều cuộc đối đầu trong các cuộc hội thảo chính trị và các cuộc tụ họp. Tình hình chính trịvăn minh tại đây đang bị suy giảm và điều này lại góp phần gây ra sự phân cực chính trị trong xã hội Hồng Kông.
Ngoài ra còn có các yếu tố mang tính cấu trúc có thể được nhìn thấy trên khắp khu vực Đông Á, và các yếu tố bất bình này đang ngày càng tích lũy nhiều thêm. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế với đại lục Trung Quốc đã dẫn đến khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Và đối với phần lớn dân số, đặc biệt là đối với sinh viên trẻ vừa tốt nghiệp đại học, mức lương thực tế của họ cũng đã bị suy giảm rất nhiều trong hơn một thập kỉ qua. Nhiều người trẻ ở Hồng Kông ngày nay không có đủ khả năng mua nhà riêng – và cũng phàn nàn về những khó khăn trong việc lập gia đình và sinh con.
Trong bối cảnh bất bình xã hội ngày càng lan rộng, người dân Hồng Kông cũng lo lắng nghiêm trọng về sự thông đồng giữa các quan chức hàng đầu trong chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Trong quá khứ, đây là một mối quan tâm rất mơ hồ nhưng với các cuộc điều tra liên quan đến cựu giám đốc Donald Tsang và cựu ủy viên độc lập Timothy Tong dính líu đến các vụ tham nhũng, cũng như trường hợp tham nhũng mà tòa án đang xét xử liên quan đến thư ký của cựu giám đốc chính quyền – Rafael Hui và ông trùm bất động sản Hung Kai Properties – thì sự thông đồng đã trở nên rõ ràng hơn.
Người dân ngày càng nhận ra rằng các chính sách đặc biệt dành cho các doanh nghiệp lớn đến từ tiền thuế của họ, đặc biệt là những ai liên quan đến việc bán đất, quản lý quỹ quan phòng, sự thiếu vắng đối với quyền thương lượng tập thể cho công đoàn và sự thiếu cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả siêu thị.
Kể từ khi các cuộc biểu tình quy mô lớn diễn ra vào ngày 1 tháng Bảy năm 2003 phản đối đề xuất Luật Cơ bản Điều 23, các nhà chức trách Trung Quốc đã gia tăng sự can thiệp của họ trong nền chính trị Hồng Kông, dẫn đến một vòng luẩn quẩn: các lãnh đạo Trung Quốc càng lo lắng thì họ càng can thiệp mạnh hơn dẫn đến nhiều sự bất bình [trong dân chúng] hơn, và như vậy chính quyền Trung Quốc lần lượt tin rằng họ phải can thiệp nhiều hơn nữa.
Các chiến dịch giáo dục chống yêu nước trong năm 2012 là một ví dụ điển hình. Cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào cho rằng ‘trái tim của người dân Hồng Kông đã không quay trở lại quê hương [Đại lục]’. Do đó, họ cần phải được giáo dục tốt hơn. Nhưng chương trình giáo dục lòng yêu nước đã bị các bậc phu huynh và học sinh từ chối bởi họ cho rằng như Bắc Kinh muốn áp dụng chính sách tẩy não, và như vậy sẽ đi ngược lại giá trị cốt lõi của cộng đồng ở Hồng Kông.
Ngày 10 tháng Sáu năm 2014, Văn phòng Thông tin của Hội đồng Nhà nước phát hành bài viết về việc thực hiện mô hình “một quốc gia, hai hệ thống’, với ý định hạ thấp kỳ vọng của người dân Hồng Kông về các cuộc cải cách chính trị. Thông điệp cơ bản là bất cứ điều gì Hồng Kông có được đều bắt nguồn từ Bắc Kinh. Văn bản này cũng khẳng định rằng ‘thẩm phán địa phương phải đạt các “yêu cầu chính trị cơ bản” về lòng yêu nước’. Điều này đã làm người dân Hồng Kông bất bình vì sự độc lập của ngành tư pháp là một trong những giá trị cốt lõi quan trọng nhất đối với họ. Văn bản do Văn phòng Thông tin đưa ra đã góp phần dẫn đến cuộc biểu tình rầm rộ (khoảng nửa triệu người) ủng hộ dân chủ ngày 1 tháng Bảy vừa qua.
Có vẻ như Bắc Kinh sẽ không cho phép Hồng Kông được thực sự dân chủ. Nhưng tình trạng bất ổn cũng khó lan rộng: hầu hết mọi người ở Hồng Kông đều có thái độ ôn hòa và coi trọng ổn định và thịnh vượng. Tuy nhiên, chính phủ sẽ mất tính hợp pháp trong mắt người dân và xã hội sẽ tiếp tục phân cực.
Sự không thành thật của chính quyền Trung Quốc đã làm cho phong trào ủng hộ dân chủ mất kiên nhẫn. Tình hình đang ngày càng trở nên đối đầu khi Bắc Kinh cho thấy họ không có khuynh hướng lùi bước: đề xuất cho sự thỏa hiệp được khởi xướng bởi các nhóm trung dung đã bị Bắc Kinh thẳng thừng từ chối. Đáng chú ý hơn,mặt trận ủng hộ Bắc Kinh đã thành lập nhiều “tổ chức yêu nước” và tham gia vào nhiều cuộc đối đầu trong các cuộc hội thảo chính trị và các cuộc tụ họp. Tình hình chính trịvăn minh tại đây đang bị suy giảm và điều này lại góp phần gây ra sự phân cực chính trị trong xã hội Hồng Kông.
Ngoài ra còn có các yếu tố mang tính cấu trúc có thể được nhìn thấy trên khắp khu vực Đông Á, và các yếu tố bất bình này đang ngày càng tích lũy nhiều thêm. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế với đại lục Trung Quốc đã dẫn đến khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Và đối với phần lớn dân số, đặc biệt là đối với sinh viên trẻ vừa tốt nghiệp đại học, mức lương thực tế của họ cũng đã bị suy giảm rất nhiều trong hơn một thập kỉ qua. Nhiều người trẻ ở Hồng Kông ngày nay không có đủ khả năng mua nhà riêng – và cũng phàn nàn về những khó khăn trong việc lập gia đình và sinh con.
Trong bối cảnh bất bình xã hội ngày càng lan rộng, người dân Hồng Kông cũng lo lắng nghiêm trọng về sự thông đồng giữa các quan chức hàng đầu trong chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Trong quá khứ, đây là một mối quan tâm rất mơ hồ nhưng với các cuộc điều tra liên quan đến cựu giám đốc Donald Tsang và cựu ủy viên độc lập Timothy Tong dính líu đến các vụ tham nhũng, cũng như trường hợp tham nhũng mà tòa án đang xét xử liên quan đến thư ký của cựu giám đốc chính quyền – Rafael Hui và ông trùm bất động sản Hung Kai Properties – thì sự thông đồng đã trở nên rõ ràng hơn.
Người dân ngày càng nhận ra rằng các chính sách đặc biệt dành cho các doanh nghiệp lớn đến từ tiền thuế của họ, đặc biệt là những ai liên quan đến việc bán đất, quản lý quỹ quan phòng, sự thiếu vắng đối với quyền thương lượng tập thể cho công đoàn và sự thiếu cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả siêu thị.
Kể từ khi các cuộc biểu tình quy mô lớn diễn ra vào ngày 1 tháng Bảy năm 2003 phản đối đề xuất Luật Cơ bản Điều 23, các nhà chức trách Trung Quốc đã gia tăng sự can thiệp của họ trong nền chính trị Hồng Kông, dẫn đến một vòng luẩn quẩn: các lãnh đạo Trung Quốc càng lo lắng thì họ càng can thiệp mạnh hơn dẫn đến nhiều sự bất bình [trong dân chúng] hơn, và như vậy chính quyền Trung Quốc lần lượt tin rằng họ phải can thiệp nhiều hơn nữa.
Các chiến dịch giáo dục chống yêu nước trong năm 2012 là một ví dụ điển hình. Cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào cho rằng ‘trái tim của người dân Hồng Kông đã không quay trở lại quê hương [Đại lục]’. Do đó, họ cần phải được giáo dục tốt hơn. Nhưng chương trình giáo dục lòng yêu nước đã bị các bậc phu huynh và học sinh từ chối bởi họ cho rằng như Bắc Kinh muốn áp dụng chính sách tẩy não, và như vậy sẽ đi ngược lại giá trị cốt lõi của cộng đồng ở Hồng Kông.
Ngày 10 tháng Sáu năm 2014, Văn phòng Thông tin của Hội đồng Nhà nước phát hành bài viết về việc thực hiện mô hình “một quốc gia, hai hệ thống’, với ý định hạ thấp kỳ vọng của người dân Hồng Kông về các cuộc cải cách chính trị. Thông điệp cơ bản là bất cứ điều gì Hồng Kông có được đều bắt nguồn từ Bắc Kinh. Văn bản này cũng khẳng định rằng ‘thẩm phán địa phương phải đạt các “yêu cầu chính trị cơ bản” về lòng yêu nước’. Điều này đã làm người dân Hồng Kông bất bình vì sự độc lập của ngành tư pháp là một trong những giá trị cốt lõi quan trọng nhất đối với họ. Văn bản do Văn phòng Thông tin đưa ra đã góp phần dẫn đến cuộc biểu tình rầm rộ (khoảng nửa triệu người) ủng hộ dân chủ ngày 1 tháng Bảy vừa qua.
Có vẻ như Bắc Kinh sẽ không cho phép Hồng Kông được thực sự dân chủ. Nhưng tình trạng bất ổn cũng khó lan rộng: hầu hết mọi người ở Hồng Kông đều có thái độ ôn hòa và coi trọng ổn định và thịnh vượng. Tuy nhiên, chính phủ sẽ mất tính hợp pháp trong mắt người dân và xã hội sẽ tiếp tục phân cực.
Đỗ Đăng Khoa chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Joseph Cheng, City University of Hong Kong/EAF
* Joseph Cheng là giáo sư Khoa học Chính trị tại Hong Kong City University.
Joseph Cheng, City University of Hong Kong/EAF
* Joseph Cheng là giáo sư Khoa học Chính trị tại Hong Kong City University.
© 2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Tăng lương tối thiểu: Liệu có thực hiện đúng lộ trình?
Tăng lương 15,1% vào năm 2017 là phương án được Hội đồng Tiền lương
Quốc gia chốt trình Chính phủ. Đây là con số mà theo đại diện giới sử
dụng lao động là cả một sự “nhượng bộ”, bởi hiện nhiều doanh nghiệp (DN)
đang khó khăn. Song, vấn đề đặt ra là trong bối cảnh đó liệu phương án
này có thực hiện đúng lộ trình?
Tăng lương như thế nào để người lao động có thể sống được nhưng vẫn không tạo gánh nặng cho DN là một bài toán nan giải. Nguồn: internet |
Tăng lương = thỏa hiệp + nhượng bộ?
Theo phương án tăng lương tối thiểu vùng năm 2015 được Hội đồng tiền lương quốc gia thống nhất để trình Chính phủ, mức tăng lương tối thiểu vùng được đề xuất tăng vào năm 2015 ở khu vực DN cụ thể như sau: Lương tối thiểu vùng I là 3,1 triệu đồng (tăng 400 ngàn đồng so với năm 2014); vùng 2 là 2,75 triệu đồng (tăng 350 ngàn đồng); vùng 3 là 2,42 triệu đồng (tăng 320 ngàn đồng); vùng 4 là 2,2 triệu đồng (tăng 300 ngàn đồng).
Đánh giá về mức đề xuất trên, ông Mai Đức Chính - Phó Chủ tịch Hội đồng tiền lương Quốc gia, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (LĐLĐ VN) cho biết: Ban đầu Tổng LĐLĐ VN đưa ra mức 3.400.000 đồng/người/tháng cho vùng 1, nhưng sau đó đã căn cứ vào nhiều yếu tố giảm xuống mức 3.200.000 đồng/người/tháng. Song cuối cùng đại diện giới người sử dụng lao động đề xuất là 3.100.000 đồng/người/tháng. Với mức này, lương tối thiểu ở mỗi vùng đều thấp hơn 100.000 đồng so với phương án được Tổng liên đoàn đưa ra.
“Chúng tôi không đồng ý với phương án tăng lương này, phương án này sẽ được Hội đồng Tiền lương quốc gia báo cáo trình Chính phủ quyết định. Do vậy, trong thời gian tới, Tổng Liên đoàn sẽ tiếp tục có đề xuất kiến nghị lên Chính phủ, đề nghị xem xét lại phương án tăng lương tối thiểu theo hướng ít nhất phải đạt 3,2 triệu đồng/người/tháng” – ông Chính nói .
Tuy nhiên đại diện giới sử dụng người lao động lại cho rằng: mức tăng 15,1% so với năm 2014 là sự nhượng bộ lớn của phía đại diện người sử dụng lao động.
Ông Hoàng Văn Dũng - Phó Chủ tịch Hội đồng tiền lương Quốc gia, Phó Chủ tịch thường trực Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: "Quan điểm ban đầu của VCCI là đề xuất mức 11%, nhưng cuối cùng, chúng tôi đã nhượng bộ tới mức 15,1%”.
Hi vọng và chờ
Theo lộ trình tới năm 2017 lương tối thiểu sẽ bảo đảm mức sống tối thiểu. Tuy nhiên đại diện Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết, nếu trong năm 2015 không tăng lương tối thiểu vùng đạt được ở mức 80% thì năm 2017 không thể đạt được ở mức 100%, nghĩa là đạt mục tiêu lương phải đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người lao động. Điều đó cũng có nghĩa, lộ trình tăng tiền lương tối thiểu vùng sẽ phá sản.
Liên quan tới vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội Phạm Minh Huân thừa nhận, với mức tăng 15,1% so với năm 2014 như đề xuất thì cũng chỉ mới đáp ứng được 75% mức sống tối thiểu của người lao động.
Trước thực tế khó khăn như hiện nay, việc tăng lương như thế nào để người lao động có thể sống được nhưng vẫn không tạo gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp đang là một bài toán nan giải, còn nhiều tranh cãi.
Song có một thực tế là chúng ta không thể cứ mãi vin vào lý do kinh tế đang khó khăn nếu tăng lương sẽ gây áp lực cho doanh nghiệp, rồi “sợ” tăng lương đồng nghĩa với thất nghiệp thì rất khó thực hiện được cam kết tăng lương tối thiểu bằng mức sống tối thiểu cho người lao động, nhất là những công nhân không có khoản thu nhập nào khác ngoài lương.
Theo Thứ trưởng Phạm Minh Huân: “Nếu điều kiện thuận lợi thì lộ trình này sẽ thực hiện được. Theo đó, chúng ta phải đẩy tốc độ tăng lương tối thiểu vùng cao hơn trong năm 2016 và 2017. Song nếu tình hình khó khăn thì có thể lùi thời gian, nhưng chắc chỉ 1 năm”.
( Thời Báo Tài Chính Việt Nam )