Nguyên văn phát biểu báo chí của TNS John McCain tại Hà Nội ngày 08.08.14
Phát biểu báo chí của TNS John McCain ở Hà Nội ngày 8 tháng 8, 2014
Tôi là Thượng Nghị Sĩ John McCain, và luôn luôn cảm thấy hân hoan mỗi khi trở lại Việt Nam. Có Thượng Nghị Sĩ Sheldon Whitehouse của tiểu bang Rhode Island đi cùng tôi.
Chúng tôi đến Hà Nội vào một thời điểm quan trọng: Sang năm sẽ đánh dấu 20 năm từ ngày bình thường hoá quan hệ giữa chúng ta. Đối với những người trong chúng ta đã góp phần trong tiến trình này, tiến triển mà chúng ta đạt được trong thời gian ấy là đáng ngạc nhiên. Cùng lúc, chúng tôi ghi nhận rằng chúng ta còn có thể làm thêm nhiều hơn biết bao như là những thành phần đối tác, và chúng ta cần một chương trình nghị sự đầy tham vọng khi tiến vào năm tới, đặc biệt là trong bối cảnh của những sự kiện đáng lo gần đây ở Biển Đông. Tóm lại, bây giờ là thời gian cho Việt Nam và Hoa Kỳ cùng nhau thực hiện một bước nhảy vọt chiến lược lớn. Đó là lý do tại sao chúng tôi có mặt ở đây.
Về phần chúng tôi, Hoa Kỳ đã sẵn sàng để đáp ứng thách đố này với suy nghĩ và hành động mới. Chúng tôi đã sẵn sàng để hoàn tất một Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương ở tiêu chuẩn cao, với Việt Nam là một đối tác trọn vẹn. Chúng tôi đã sẵn sàng, trong bối cảnh của TPP, làm việc với Việt Nam để đáp ứng các tiêu chí để được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường. Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự giữa chúng ta và số lần chiến thuyền Hoa Kỳ cặp bến Việt Nam theo như Việt Nam cho phép - không phải bằng cách thiết lập các căn cứ, đó không là điều chúng tôi mưu cầu, mà là thông qua các thỏa thuận để tăng sự tiếp cận, như chúng tôi đang hoàn tất thương thảo với các nước khác trong khu vực. Chúng tôi cũng đã sẵn sàng để tăng cường hỗ trợ an ninh nhằm giúp Việt Nam nâng cao khả năng theo dõi trong lĩnh vực hàng hải và xây dựng năng lực bảo vệ quyền chủ quyền của mình.
Trong mục đích ấy, tôi tin rằng đã đến lúc Hoa Kỳ bắt đầu nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Điều này sẽ không, và không nên, xảy ra toàn bộ cùng một lúc. Thay vào đó, nó nên được giới hạn trước hết trong phạm vi khả năng phòng thủ, chẳng hạn như bảo vệ bờ biển và các hệ thống hàng hải, hoàn toàn thuộc về an ninh đối ngoại.
Chúng ta có thể làm đến bao nhiêu trong lĩnh vực này, cũng giống như trong các mục tiêu thương mại và an ninh tham vọng nhất khác của chúng ta, tuỳ thuộc nhiều vào hành động thêm nữa của Việt Nam về nhân quyền. Chúng tôi đánh giá cao những tiến bộ gần đây Việt Nam đã thực hiện, bao gồm việc ký Công Ước Chống Tra Tấn và đăng ký sinh hoạt cho nhiều nơi thờ phượng.
Đồng thời, các nhà lãnh đạo của Việt Nam thừa nhận còn nhiều việc phải làm, vì một lý do trên hết: Nó là điều tốt cho Việt Nam - cho sự ổn định, thịnh vượng và thành công của Việt Nam. Như Thủ Tướng Chính Phủ cho biết trong lời phát biểu đầu năm của mình, "Dân chủ là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của nhân loại." Chế độ ở Việt Nam, ông nói, "phải làm tốt hơn về dân chủ, và đảng phải giương cao ngọn cờ dân chủ."
Chúng tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ chuyển những lời đáng ghi nhận này thành những hành động mạnh dạn, chẳng hạn như trả tự do cho các tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự, và cuối cùng làm rõ trong pháp luật và chính sách rằng quyền lực nhà nước là hạn chế và các nhân quyền phổ quát -- các tự do phát biểu, lập hội, thờ phượng, xuất bản, và truy cập thông tin -- được bảo vệ cho tất cả công dân.
Trong thế kỷ cạnh tranh này, tất cả các nước phải đối mặt với cùng một câu hỏi: Điều gì khiến chúng ta khác biệt? Những gì chúng ta có để cống hiến? Tôi tin rằng Việt Nam có thể cống hiến một câu trả lời đầy uy lực - mẫu mực về một nhà nước đáp ứng những kỳ vọng gia tăng của người dân về một nền dân chủ, quản trị tốt và pháp quyền, sự thịnh vượng và phát triển xã hội, môi trường trong lành, và sức mạnh dân tộc để bảo vệ độc lập. Đó là một mẫu mực mà sẽ truyền cảm hứng cho những dân tộc khác trong khu vực, bao gồm cả láng giềng của các bạn ở phương bắc, để phải tự hỏi: tại sao chúng ta không thể giống như Việt Nam hơn?
Trong gần hai thập kỷ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã xây dựng được một mối quan hệ vững chãi dựa trên các mục tiêu chung và các lợi ích chung. Chúng tôi hy vọng trong những năm tới chúng ta sẽ có thể xây dựng một quan hệ đối tác chiến lược dựa trên những giá trị chung - vì đó là quan hệ hữu nghị chặt chẽ nhất, vững mạnh nhất và lâu bền nhật mà hai quốc gia có thể có.
Tôi là Thượng Nghị Sĩ John McCain, và luôn luôn cảm thấy hân hoan mỗi khi trở lại Việt Nam. Có Thượng Nghị Sĩ Sheldon Whitehouse của tiểu bang Rhode Island đi cùng tôi.
Chúng tôi đến Hà Nội vào một thời điểm quan trọng: Sang năm sẽ đánh dấu 20 năm từ ngày bình thường hoá quan hệ giữa chúng ta. Đối với những người trong chúng ta đã góp phần trong tiến trình này, tiến triển mà chúng ta đạt được trong thời gian ấy là đáng ngạc nhiên. Cùng lúc, chúng tôi ghi nhận rằng chúng ta còn có thể làm thêm nhiều hơn biết bao như là những thành phần đối tác, và chúng ta cần một chương trình nghị sự đầy tham vọng khi tiến vào năm tới, đặc biệt là trong bối cảnh của những sự kiện đáng lo gần đây ở Biển Đông. Tóm lại, bây giờ là thời gian cho Việt Nam và Hoa Kỳ cùng nhau thực hiện một bước nhảy vọt chiến lược lớn. Đó là lý do tại sao chúng tôi có mặt ở đây.
Về phần chúng tôi, Hoa Kỳ đã sẵn sàng để đáp ứng thách đố này với suy nghĩ và hành động mới. Chúng tôi đã sẵn sàng để hoàn tất một Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương ở tiêu chuẩn cao, với Việt Nam là một đối tác trọn vẹn. Chúng tôi đã sẵn sàng, trong bối cảnh của TPP, làm việc với Việt Nam để đáp ứng các tiêu chí để được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường. Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự giữa chúng ta và số lần chiến thuyền Hoa Kỳ cặp bến Việt Nam theo như Việt Nam cho phép - không phải bằng cách thiết lập các căn cứ, đó không là điều chúng tôi mưu cầu, mà là thông qua các thỏa thuận để tăng sự tiếp cận, như chúng tôi đang hoàn tất thương thảo với các nước khác trong khu vực. Chúng tôi cũng đã sẵn sàng để tăng cường hỗ trợ an ninh nhằm giúp Việt Nam nâng cao khả năng theo dõi trong lĩnh vực hàng hải và xây dựng năng lực bảo vệ quyền chủ quyền của mình.
Trong mục đích ấy, tôi tin rằng đã đến lúc Hoa Kỳ bắt đầu nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Điều này sẽ không, và không nên, xảy ra toàn bộ cùng một lúc. Thay vào đó, nó nên được giới hạn trước hết trong phạm vi khả năng phòng thủ, chẳng hạn như bảo vệ bờ biển và các hệ thống hàng hải, hoàn toàn thuộc về an ninh đối ngoại.
Chúng ta có thể làm đến bao nhiêu trong lĩnh vực này, cũng giống như trong các mục tiêu thương mại và an ninh tham vọng nhất khác của chúng ta, tuỳ thuộc nhiều vào hành động thêm nữa của Việt Nam về nhân quyền. Chúng tôi đánh giá cao những tiến bộ gần đây Việt Nam đã thực hiện, bao gồm việc ký Công Ước Chống Tra Tấn và đăng ký sinh hoạt cho nhiều nơi thờ phượng.
Đồng thời, các nhà lãnh đạo của Việt Nam thừa nhận còn nhiều việc phải làm, vì một lý do trên hết: Nó là điều tốt cho Việt Nam - cho sự ổn định, thịnh vượng và thành công của Việt Nam. Như Thủ Tướng Chính Phủ cho biết trong lời phát biểu đầu năm của mình, "Dân chủ là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của nhân loại." Chế độ ở Việt Nam, ông nói, "phải làm tốt hơn về dân chủ, và đảng phải giương cao ngọn cờ dân chủ."
Chúng tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ chuyển những lời đáng ghi nhận này thành những hành động mạnh dạn, chẳng hạn như trả tự do cho các tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự, và cuối cùng làm rõ trong pháp luật và chính sách rằng quyền lực nhà nước là hạn chế và các nhân quyền phổ quát -- các tự do phát biểu, lập hội, thờ phượng, xuất bản, và truy cập thông tin -- được bảo vệ cho tất cả công dân.
Trong thế kỷ cạnh tranh này, tất cả các nước phải đối mặt với cùng một câu hỏi: Điều gì khiến chúng ta khác biệt? Những gì chúng ta có để cống hiến? Tôi tin rằng Việt Nam có thể cống hiến một câu trả lời đầy uy lực - mẫu mực về một nhà nước đáp ứng những kỳ vọng gia tăng của người dân về một nền dân chủ, quản trị tốt và pháp quyền, sự thịnh vượng và phát triển xã hội, môi trường trong lành, và sức mạnh dân tộc để bảo vệ độc lập. Đó là một mẫu mực mà sẽ truyền cảm hứng cho những dân tộc khác trong khu vực, bao gồm cả láng giềng của các bạn ở phương bắc, để phải tự hỏi: tại sao chúng ta không thể giống như Việt Nam hơn?
Trong gần hai thập kỷ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã xây dựng được một mối quan hệ vững chãi dựa trên các mục tiêu chung và các lợi ích chung. Chúng tôi hy vọng trong những năm tới chúng ta sẽ có thể xây dựng một quan hệ đối tác chiến lược dựa trên những giá trị chung - vì đó là quan hệ hữu nghị chặt chẽ nhất, vững mạnh nhất và lâu bền nhật mà hai quốc gia có thể có.
Bản dich của Mạch Sống
-----
Nguyên bản tiếng Anh:
Washington, D.C. – U.S. Senator John McCain (R-AZ) today delivered the following statement at a press conference in Hanoi, Vietnam:
“I am Senator John McCain, and it is always a pleasure to be back in Vietnam. I am joined by my colleague Senator Sheldon Whitehouse of Rhode Island.
“We have come to Hanoi at an important time: Next year is the 20th anniversary of the normalization of our relations. For those of us involved in that process, the progress we have made in this time has been astounding. At the same time, we recognize that we can do so much more together as partners, and that we need an ambitious agenda as we head into next year, especially in light of troubling recent events in the East Sea. In short, now is the time for Vietnam and the United States to take a giant strategic leap together. That is why we are here.
“For our part, the United States is ready to meet this challenge with new thinking and action. We are ready to conclude a high-standard Trans-Pacific Partnership, with Vietnam as a full partner. We are ready, in the context of TPP, to work with Vietnam to meet the criteria for U.S. recognition as a market economy. We are ready to increase our military cooperation and ship visits as much as Vietnam permits – not by establishing bases, which we do not seek, but through agreements for increased access, as we are concluding with other countries in the region. We are also ready to increase our security assistance to help Vietnam improve its maritime domain awareness and build its capacity to defend its sovereign rights.
“To that end, I believe the time has come for the United States to begin easing our lethal arms embargo on Vietnam. This will not, and should not, happen all at once. Rather, it should be limited at first to those defensive capabilities, such as coast guard and maritime systems, that are purely for external security.
“How much we can do in this regard, as with our other most ambitious trade and security objectives, depends greatly on additional action by Vietnam on human rights. We appreciate the recent progress Vietnam has made, including signing the Convention Against Torture and registering more places of worship.
“At the same time, Vietnam's leaders acknowledge there is more to be done, for one reason above all: It is good for Vietnam – for its stability, prosperity, and success. As the Prime Minister said in his New Year's address, ‘Democracy is the inevitable trend in the development process of humankind.’ The Vietnamese regime, he said, ‘must be much better in terms of democracy, and the party must hold high the banner of democracy.’
“It is our hope that Vietnam will translate these remarkable words into bold actions, such as releasing prisoners of conscience, creating space for civil society, and ultimately by making it clear in law and policy that state power is limited and universal human rights – the freedom to speak, associate, worship, publish, and access information – are protected for all citizens.
“In this competitive century, all countries face the same question: What sets us apart? What do we have to offer? I believe Vietnam can offer a powerful answer – the example of a state that delivers on its peoples' rising expectations for democracy, good governance and rule of law, prosperity and social development, a clean environment, and the national strength to defend its independence. That is an example that would inspire others in this region, including your neighbors to the north, to ask: why can't we be more like Vietnam?
“Over nearly two decades, Vietnam and the United States have built a strong relationship based on common goals and shared interests. We hope in the years to come to be able to build a strategic partnership based on shared values as well – for that is the closest, strongest, and most enduring friendship two nations can have.”
Nguồn: http://www.mccain.senate.gov/public/index.cfm/press-releases?ID=f5fd4b07-3d87-4a9f-a892-03018c779888
(Dân luận)
Nông nghiệp VN hiện nay không thể xuất cho ai ngoài TQ!
(Thị trường)
- Một nền nông nghiệp đầu độc cả dân
tộc một cách hợp pháp thì không có nước nào dám mua sản phẩm của nền
nông nghiệp ấy.
- Chính sách mua rẻ, bán rẻ: Ngấm đòn đau, VN có tỉnh?
- Mua rẻ, bán rẻ: Việt Nam mang sức đi làm cửu vạn
PGS.TS Vũ Trọng Khải, chuyên
gia độc lập về kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, nguyên Hiệu
trưởng trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn II tại
TP.HCM nhận xét.
Hám lợi chụp giật thì chỉ có thể bán cho Trung Quốc!
Theo
Bộ NN&PTNT, 6 tháng đầu năm nay cả nước xuất khẩu được 33 nghìn tấn
chè, với giá trị đạt 51 triệu USD, giảm 13,2% về khối lượng và giảm
10,7% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Việt
Nam là một trong 5 nước sản xuất chè lớn nhất thế giới, tuy nhiên, giá
xuất khẩu lại ở mức thấp nhất thế giới, thậm chí chè Việt Nam còn bị một
số thị trường chê, trả lại hàng. Tình trạng của cây chè cũng giống như
nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam như gạo, sắn, cao su... khi có
một nền thương mại buôn chuyến, có gì bán nấy với giá rẻ.
Vụ việc chế biến chè bẩn tại một số tỉnh phía Bắc năm 2011 khiến ngành chè lao đao |
Đây
không phải là nghịch lý mà là điều đương nhiên bởi một nền nông nghiệp
không được đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm là một nền nông nghiệp
đầu độc cả dân tộc một cách hợp pháp thì không có nước nào dám mua sản
phẩm của nền nông nghiệp ấy. Hàng ngày chúng ta đều buộc phải ăn chất
độc.
Một nền nông nghiệp mà nông dân sản xuất một
cách manh mún và tùy tiện, công nghiệp chế biến nông phẩm lạc hậu, doanh
nghiệp làm ăn chộp giật, chỉ biết lợi ích trước mắt, không tạo dựng
được liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thì tất nhiên điều đó phải
xảy ra.
Còn nhớ 1, 2 năm trước, hàng loạt lô chè
xuất khẩu sang châu Âu bị trả về do có hàm lượng hóa chất vượt quá mức
quy định. Điều đáng nói các hợp chất này vẫn được Việt Nam cho phép sử
dụng nhưng lại cấm bị sử dụng ở các nước châu Âu. Chính vì thế những sản
phẩm như vậy chỉ có thể xuất sang Trung Quốc. Tình trạng này kéo dài
nhiều năm khiến người nông dân và doanh nghiệp cũng trở nên lười thay
đổi, do đó chất lượng và khối lượng nông phẩm không thể đáp ứng được yêu
cầu của thị trường các nước phát triển, buộc phải bán rẻ cho các thị
trường dễ tính như Trung Quốc.
Có người từng hỏi,
Bộ Nông nghiệp có thể đa dạng hóa thị trường để giảm xuất khẩu sang
Trung Quốc được không? Câu trả lời có thể khẳng định là không, Việt Nam
không thể xuất cho ai ngoài Trung Quốc với nền nông nghiệp hiện nay.
Ngành
chè và nông dân Việt đã phải nhận nhiều "quả đắng" khi bị thương lái
Trung Quốc chơi xấu. Đó là đầu những năm 2000, thương lái Trung Quốc đổ
xô thu mua chè vàng nguyên liệu tại Việt Nam với giá quá cao rồi mang về
Trung Quốc sản xuất chè vàng chính hiệu. Lợi nhuận trước mắt đã làm
người trồng chè đổ xô đi hái chè không tuân theo kĩ thuật. Người dân còn
trộn cả các loại chè khác không phải chè Shan Tuyết, bỏ lẫn tạp chất
vào và thương lái Trung Quốc không thu mua.
Một
bài học cay đắng khác là vào năm 2011 thương lái Trung Quốc cố tình thu
gom chè bẩn khiến người dân đã trộn cả trộn phân lân, bột đá, bùn, chất
thải làm ngành chè lao đao.
Đây không phải là hành
vi thương mại bình thường mà là hành vi phá hoại mang tính chất lưu
manh. Không phải tự dưng mà mấy thương lái Trung Quốc sang Việt Nam làm
việc này, nếu không có chính quyền bảo lãnh họ chẳng dám làm.
Trong
khi đó, cơ quan chức năng Việt Nam lại phản ứng quá yếu ớt. Thương lái
Trung Quốc xúi nông dân Việt làm tầm bậy tầm bạ tại sao chính quyền Việt
Nam không trừng trị theo luật pháp? Theo quy định của WTO, từ năm 2011,
doanh nhân nước ngoài có quyền vào Việt Nam mua nông sản nhưng họ phải
lập một pháp nhân có quốc tịch Việt Nam. Thương nhân Trung Quốc không
lập pháp nhân mà họ đưa người len lỏi vào, thuê thương lái Việt Nam làm
trung gian gom mua nên đã gây ra những hậu họa như nói ở trên.
Thương
nhân bình thường không ai làm việc đó. Bởi điều đó không những không
mang lại lợi nhuận mà còn gây bất an cho tính mạng của họ. Tiên trách
kỷ, hậu trách nhân. Nông dân Việt Nam hám lợi, muốn kiếm tiền dù biết đó
là tiền bẩn, tiền bất chính nên thương lái Trung Quốc mới có cơ hội làm
bậy.
Phải có Nông dân lớn và Doanh nghiệp lớn
Nhiều
người bảo nền kinh tế Việt Namn không muốn lệ thuộc quá nhiều vào nền
kinh tế Trung Quốc thì phải xây dựng được thương hiệu. Muốn thế, nền
nông nghệp phải thực hiện GlobalGAP. Khi đó, nông sản Việt Nam không cần
bán cho thị trường Trung Quốc mà có thể bán thẳng cho thị trường EU,
Nhật, Mỹ mang lại giá trị gia tăng cao hơn rất nhiều.
PGS.TS Vũ Trọng Khải |
Muốn
vậy phải xây dựng mối liên kết bền vững giữa nhà nông và nhà doanh
nghiệp, tạo thành chuỗi giá trị ngành hàng từ trang trại đến bàn ăn.
Trong đó, nhà nông phải là người sản xuất hàng hóa lớn nhờ tích tụ ruộng
đất và thực hiện cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Doanh
nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản phải được áp dụng công nghệ cao.
Doanh nghiệp phải đóng vai trò nhạc trưởng trong mối liên kết này, thể
hiện qua việc: cung ứng giống xác nhận cho nông dân theo nhu cầu thị
trường; hướng dẫn nông dân sản xuất theo quy trình GlobalGAP hoặc ít
nhất là VietGAP; có thể cung ứng vật tư hoặc làm trung gian để ngân hàng
cho nông dân vay tiền mua vật tư. Cuối cùng là doanh nghiệp phải mua
hết nông sản cho nông dân và có công nghệ chế biến hiện đại.
Như
vậy doanh nghiệp sẽ có chất lượng và khối lượng nông sản đủ đáp ứng nhu
cầu của thị trường các nước phát triển như EU, Nhật Bản, Mỹ. Khi đó,
doanh nghiệp mới chiếm lĩnh được những thị trường này và dần dần tạo
dựng được thương hiệu của mình.
Mặt khác, Nhà nước
phải có chính sách để khuyến khích phát triển liên kết giữa nhà nông và
doanh nghiệp. Nhà nước phải có khung pháp lý để cho việc mua bán quyền
sử dụng đất đai một cách thuận lợi. Đào tạo miễn phí cho thanh niên nông
dân để họ trở thành những nông dân chuyên nghiệp, những “thanh nông tri
điền” chứ không phải nông dân cha truyền con nối,“lão nông tri điền”.
Nhà
nước có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ
chế biến và bảo quản nông sản bằng việc tài trợ lãi suất khi họ đầu tư
mua sắm các thiết bị công nghệ hiện đại và thực hiện liên kết với nông
dân. Có thể giảm hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vài ba năm
đầu khi họ thực hiện mối liên kết với nông dân ở những vùng sản xuất
hàng hóa theo quy hoạch của Nhà nước. Làm được điều này Việt Nam sẽ có
hàng nông sản chất lượng cao và ổn định.
Chọn mua rẻ, bán rẻ:Việt Nam chủ động phụ thuộc Trung Quốc? |
Thành Luân (ghi)
Xã hội dân sự Trung Quốc: Một tham khảo
Mặc dù xã hội dân sự Trung Quốc có môi trường hoạt động nhiều thách thức
hơn Việt Nam nhưng có lẽ có tới 90-95% các nhận định về xã hội dân sự ở
Trung Quốc đồng thời cũng có thể áp dụng được vào bối cảnh ở Việt Nam.
Về mặt lịch sử, văn hóa, và chính trị, Trung Quốc là quốc gia có truyền
thống gắn bó gần gũi nhất với Việt Nam. Dĩ nhiên, nói như thế không có
nghĩa hai quốc gia tương đồng trên mọi khía cạnh. Trung Quốc là một nước
lớn, xét cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, tuy vậy, sự ảnh hưởng giữa hai
quốc gia không diễn ra theo một chiều đơn nhất, và cả hai đều cùng tham
gia vào một quá trình đồng tiến hóa và thích nghi chung.1 Điều này cũng
đúng với trường hợp chặng đường hình thành và phát triển xã hội dân sự
diễn ra song song tại Trung Quốc và Việt Nam trong mấy thập kỷ gần đây.
Rất nhiều tài liệu liên quan bằng tiếng Trung và tiếng Anh ở Trung Quốc
đã đề cập một bối cảnh mà trong đó các tổ chức và mạng lưới chính thức
cũng như phi chính thức đã và đang gia tăng nhanh chóng, dù rằng khung
pháp lý vẫn chưa kịp hoàn thiện. Trong bối cảnh này, xã hội dân sự tồn
tại trong mối quan hệ nửa phụ thuộc, nửa độc lập với chính quyền nhà
nước, và công dân tham gia sinh hoạt chính trị bằng vô vàn cách thức
sáng tạo khác nhau, thông qua các kênh chính thống và ngoại lai.2 Có lẽ
có tới 90-95% các nhận định về xã hội dân sự ở Trung Quốc đồng thời cũng
có thể áp dụng được vào bối cảnh ở Việt Nam.
Nộ Giang đoạn chảy qua tỉnh Vân Nam |
Tuy thừa nhận những điểm tương đồng trên, song khi so sánh giữa hai quốc
gia, các nhà phân tích vẫn cho rằng xã hội dân sự Trung Quốc có môi
trường hoạt động nhiều thách thức hơn Việt Nam. Việc thi hành luật pháp ở
đây thường diễn ra quyết liệt hơn theo mô hình nhà nước nghiệp đoàn.3
Tất cả các tổ chức xã hội đều phải đăng ký hoạt động với cơ quan nhà
nước cấp trung ương hoặc tỉnh/địa phương, trong đó các “GONGO” (tức các
tổ chức phi chính phủ do nhà nước đứng ra thành lập, chẳng hạn như các
tổ chức quần chúng) thường được đối xử ưu ái hơn. Một tổ chức mới muốn
đăng ký cần được sự hậu thuẫn kép của một bộ phận hành chính chủ quản
đóng vai trò “bà đỡ” và một cơ quan chuyên môn, tuy rằng một số tỉnh như
Quảng Đông hay Thượng Hải mới đây đã áp dụng những quy định mới nhằm
đơn giản hóa quy trình này. Nguyên tắc mỗi khu vực chỉ có một đoàn thể
được phép đại diện cho cử tri tại chính khu vực đó được theo dõi sát
sao, do vậy, các tổ chức phi chính phủ không thể điều hành văn phòng chi
nhánh ở các tỉnh khác với tỉnh nơi họ đăng ký hoạt động. Các nhà tài
trợ cũng chịu sự giám sát ngặt nghèo nên hoạt động quyên góp trở nên khó
khăn hơn: một số tổ chức đã bị đóng cửa hoặc bị dọa đóng cửa vì tiếp
nhận sự hỗ trợ từ những tổ chức không được chào đón ở đây. Các tổ chức
phi chính phủ quốc tế còn hiếm hoi hơn, và phần lớn đều hoạt động mà
không có đăng ký hợp pháp.
Dẫu vậy, vẫn có những yếu tố cho thấy tiềm năng phát triển xã hội dân sự
mạnh mẽ ở Trung Quốc. Nhiều tổ chức phi chính phủ, cơ quan truyền
thông, và viện nghiên cứu hoạt động rất chuyên nghiệp trên quy mô toàn
quốc, hoạt động của họ được hoan nghênh từ những năm 1990 hay lâu hơn
nữa. Hệ thống trường đại học ở Trung Quốc rất vững chắc và không ngừng
nâng cao những hỗ trợ về tài chính cho cả một số trung tâm nghiên cứu xã
hội dân sự nổi tiếng tại các học viện quốc gia lớn. Nền kinh tế ngày
một thịnh vượng cũng giúp nuôi dưỡng sự phát triển của khu vực các tổ
chức tư nhân trong nước, có tiềm năng làm thay đổi hoạt động quyên góp
và làm từ thiện. Xét về khía cạnh này và nhiều khía cạnh khác, xã hội
dân sự Trung Quốc có những kinh nghiệm có mối liên quan mật thiết với xã
hội dân sự ở Việt Nam.
Trường hợp điển hình sau đây về một mạng lưới dân sự ở Trung Quốc có thể
dùng làm minh họa cho những sự kiện tương tự ở Việt Nam.
Sự xuất hiện của Mạng lưới Sông ngòi Trung Quốc
Tháng 8/2003, truyền thông Trung Quốc thông báo một kế hoạch xây dựng 13
con đập trên sông Nộ Giang chảy qua Tây Tạng và tỉnh Vân Nam.
Giới khoa học, học giả, các nhà hoạt động phi chính phủ (NGO), và báo
giới ở cả khu vực nhà nước và tư nhân đều hết sức sửng sốt trước thông
tin này, và họ quyết định hành động. Trong “một chiến dịch vô tiền
khoáng hậu, thu hút sự tham gia của các tổ chức NGO, các nhà khoa học,
quan chức chính phủ, và cả quần chúng”, một mạng lưới hoạt động phi
chính thức nổi lên nhằm tận dụng truyền thông và công luận Trung Quốc để
phản đối ý tưởng xây đập.4 Giới khoa học và NGO công khai đả phá việc
xây dựng những con đập này, và được giới truyền thông nhiệt tình đưa
tin. Họ cũng nhận được sự ủng hộ công khai ở chính quyền trung ương, đặc
biệt là Bộ Môi trường, và họ đã tranh thủ sự ủng hộ này để đối phó với
chính quyền các địa phương cũng như các tập đoàn thủy điện.5 Các nhà
hoạt động vì môi trường tiến hành thu thập chữ ký của trên 10.000 sinh
viên, nhà khoa học, nghệ sĩ, và nhà báo để gửi một kiến nghị công khai:
“Hãy bảo tồn Nộ Giang – con sông sinh thái cuối cùng”.6 Tổ chức Tình
nguyện viên vì thế giới xanh bắt tay vào tổ chức các “salon phóng viên”
định kỳ 2 tuần/lần với khách mời là các diễn giả đến từ các tổ chức NGO
khác và các cơ quan chính phủ.7
Sự tham gia của giới truyền thông đã cho ra đời hàng trăm bài viết đăng
tải trên truyền thông Trung Quốc và quốc tế. Có rất nhiều ý kiến cho
rằng nhờ có sự phối hợp giữa các lá đơn kiến nghị với hoạt động vận động
hành lang trực tiếp và áp lực từ truyền thông mà Thủ tướng Ôn Gia Bảo
phải ra quyết định hoãn dự án vào hồi tháng 4/2004 vì cho rằng dự án này
đã làm dấy lên “những mối lo ngại lớn về xã hội.” Như vậy, sông Nộ
Giang đã được bảo tồn, chí ít là trong thời gian trước mắt.
Tháng 8/2004, tiếp nối thành công bước đầu, bảy tổ chức NGO đã hợp tác
để chính thức hóa Mạng lưới Sông ngòi Trung Quốc (China Rivers Network –
CRN).8 Ý tưởng xây dựng một mạng lưới chính thức khi đó vẫn còn mới mẻ ở
quốc gia này. Mục tiêu của CRN là chủ động giải cứu các con sông chứ
không chỉ thụ động phản ứng trong những trường hợp khẩn cấp.
Trong năm đầu hoạt động, các thành viên CRN đã cho ra đời một series các
báo cáo của giới truyền thông về sông Nộ Giang, một bộ phim tài liệu,
và một website đăng tải các ký sự ảnh cùng nhiều thông tin khác. CRN
vạch ra một chương trình nghiên cứu và phát triển sinh thái cho các cộng
đồng ven sông, trong đó vừa tập trung vào việc bảo tồn sự đa dạng sinh
học lại vừa giúp loại bỏ hay giảm nhẹ chi phí tái định cư. Họ hy vọng sẽ
quyên góp được tiền để tài trợ cho các dự án nghiên cứu độc lập của các
nhà khoa học làm đối trọng với các nghiên cứu của chính phủ, vốn bị cho
rằng không khách quan, và sau đó công bố các kết quả nghiên cứu trên
internet nhằm nâng cao nhận thức của quần chúng về tác hại do những con
đập này gây ra.
Bước lùi chiến thuật
Mặc dù có những mục tiêu đầy tham vọng như vậy, song theo chia sẻ của
một thành viên sáng lập, CRN chưa bao giờ thực sự hoạt động. Trong năm
đầu tiên, họ cũng thực hiện các cuộc họp hằng quý giữa các thành viên,
tổ chức một vài sự kiện cùng một số buổi giảng bài, song tất cả đều
“không mang lại những thành công đáng chú ý.” Khó khăn của họ nằm ở việc
xác định danh nghĩa để hoạt động, bởi họ không thể đăng ký hoạt động
chính thức, không có con dấu hay tài khoản ngân hàng. Các lãnh đạo không
có kinh nghiệm hình thành hay quản lý mạng lưới, và cũng không có đường
hướng chiến lược rõ ràng để vận hành nó. Các vấn đề về quản lý, đặc
biệt là về cơ cấu nhân sự và lãnh đạo, đòi hỏi rất nhiều thời gian và
công sức. CRN hoạt động mà không hề có sự hỗ trợ từ bên ngoài: thay vào
đó, các tổ chức thành viên (một số tổ chức được quốc tế tài trợ) tự đầu
tư nguồn lực vào phát triển mạng lưới. Quyết định “tự lực cánh sinh” này
rất đáng ngưỡng mộ, song nguồn lực mà họ có thể đưa vào khó mà đủ để
duy trì mạng lưới.
Những khó khăn về mặt tổ chức vừa mới xuất hiện thì CRN lại phải đối mặt
với thách thức mới. Bắt đầu từ năm 2005, những người ủng hộ việc xây
đập lên tiếng một cách mạnh mẽ để chỉ trích các nhà hoạt động vì môi
trường, và nói rằng các thành viên CRN đã ấu trĩ khi cản đường sự phát
triển của dân tộc. Những lập luận này còn được sự hậu thuẫn bởi việc
chính phủ xiết chặt chính sách đối với các hoạt động NGO và đưa ra những
cáo buộc rằng CRN bị điều khiển bởi các nhóm lợi ích nước ngoài. Một tổ
chức thành viên từng bị điều tra vì nhận tài trợ từ một tổ chức nước
ngoài. Các tổ chức thành viên khác bị dọa đóng cửa, và cá nhân các lãnh
đạo CRN ở tỉnh Vân Nam phải đối mặt với nguy cơ bị bắt giữ bất kỳ lúc
nào.
Vì những khó khăn về mặt hoạt động và khó khăn trong việc kêu gọi tài
trợ, nên vào tháng 1/2006, các thành viên CRN quyết định chấm dứt hoạt
động chính thức, và quay trở lại với cơ cấu phi chính thức trước kia,
khi mạng lưới hình thành từ năm 2003. Song việc giải tán mạng lưới chính
thức chỉ là một bước lùi về mặt chiến thuật. Các thành viên CRN nhận
thấy rằng những hành động công khai của mình đang ngày càng thu hút sự
chú ý của những người chống đối, nên họ quyết định thực hiện một động
thái chiến lược là lùi về hậu trường. Kể từ năm 2006, các thành viên
mạng lưới vẫn tiếp tục họp mặt khi cần thiết, và cùng chung lưng đấu cật
trong rất nhiều vấn đề liên quan tới việc bảo vệ môi trường và các dòng
sông.
Sau khi quay trở về với cơ cấu hoạt động phi chính thức, các thành viên
mạng lưới lựa chọn một cơ cấu mới linh động hơn, theo đó họ tổ chức theo
mô hình chuyên môn hóa và sự hợp tác được mở rộng ra nhiều lĩnh vực
khác nhau. Một nhà hoạt động chính trong mạng lưới cho biết: “Chúng tôi
đã nỗ lực bằng mọi cách để vận hành nó theo mô hình một mạng lưới chính
thức, song điều đó lại không xảy ra như mong đợi. Rồi chúng tôi nghĩ:
“Chúng ta có thể hoạt động theo bất kỳ phương thức nào! Trước đây chúng
ta cũng từng làm thế rồi cơ mà, đâu nhất thiết phải bó mình trong một
phương thức!”…
Cơ cấu mạng lưới phi chính thức hiện nay được cá nhân các thành viên
đánh giá là có hiệu quả cao. “Mạng lưới vô hình” thì rất linh hoạt, giảm
thiểu rủi ro và sự nhạy cảm về mặt chính trị, và đồng thời cũng cho
phép các thành viên cùng sở hữu và tham gia vào mạng lưới.
Các chiến lược kêu gọisự ủng hộ
Chiến lược kêu gọi sự ủng hộ đầu tiên mà CRN sử dụng là hình thức thư
ngỏ, tức là một bản kiến nghị được đồng thời gửi tới các lãnh đạo chính
quyền và công khai (hoặc rò rỉ) sang các kênh truyền thông và/hoặc trên
internet. Kể từ lần đầu tiên sử dụng trong chiến dịch sông Nộ Giang năm
2003, hình thức kêu gọi công chúng ký tên vào thư kiến nghị đã được sử
dụng trong hầu hết các hoạt động kêu gọi sau này. Vì được gửi tới cả
những người ủng hộ và đối lập, nên thường các lá thư ngỏ này sẽ mang lại
kết quả như mong muốn. Chẳng hạn, tháng 8/2005, 61 tổ chức và 99 nhà
hoạt động cá nhân cùng ký tên vào một thư kiến nghị để kêu gọi việc tiết
lộ công khai bản Đánh giá Tác động Môi trường của Sông Nộ Giang (EIA)
và các kế hoạch phát triển thủy điện lớn khác. Tháng 10 cùng năm, Ủy ban
Trung ương Đảng thay đổi cách dùng từ trong Kế hoạch Năm năm lần thứ 11
từ “chủ động phát triển các dự án thủy điện” thành “phát triển các dự
án thủy điện một cách hợp lý đồng thời bảo vệ môi trường.”9 Tới cuối năm
2007, các công ty xây đập bắt đầu công khai các thông tin EIA trên
website bảo vệ môi trường tỉnh Vân Nam.
Thư ngỏ là một chiến thuật hiệu quả để thu hút sự ủng hộ của các tổ chức
NGO, học thuật, và tổ chức quốc tế hoạt động theo đường lối ôn hòa. Thư
ngỏ cũng được viết nhằm khiến cho lời kêu gọi của CRN mang tính đại
diện cho quan điểm của tất cả các nhà ủng hộ môi trường, bất kể lập
trường chính trị của họ ra sao, từ đó giảm thiểu rủi ro cho mỗi cá nhân
tham gia ký tên.
Thư ngỏ cũng được gửi tới các tập đoàn thủy điện. Việc công kích vào các
tập đoàn khả thi hơn so với việc trực tiếp tìm cách thay đổi hành vi
của chính phủ, vì các nhà hoạt động có thể nói rằng họ đang ủng hộ chính
sách xây dựng “một xã hội hài hòa” của chính phủ, trong khi vẫn có thể
chỉ trích rằng các hành động vi phạm pháp luật của các công ty, thậm chí
là công ty nhà nước, đang gây ra những bất ổn về xã hội. Xét trong
nhiều trường hợp, việc xây đập không phải do các công ty tư nhân – chí
ít là trên danh nghĩa – thực hiện; sự nhập nhằng này cho phép CRN lên
tiếng chỉ trích công khai bởi vì các công ty đó không trực tiếp do nhà
nước sở hữu.
Thành tố chính thứ hai trong hoạt động kêu gọi của CRN liên quan tới
truyền thông trong nước và truyền thông trực tuyến. Những thành viên cốt
cán chịu trách nhiệm phát triển chiến lược truyền thông cho mạng lưới
trước tiên coi chính bản thân họ là những nhà báo, và sau đó là với tư
cách thành viên NGO. Mối quan hệ của các nhà hoạt động với truyền thông
nhà nước giúp họ có được một “vị trí độc đáo” trước giới cầm quyền. Sức
mạnh của truyền thông, theo lời một lãnh đạo một tổ chức phi chính phủ
về môi trường, là “không thể coi thường.”
Truyền thông đôi khi có thể giúp tiếp cận các lãnh đạo chính quyền Trung
Quốc, đặc biệt là khi thông tin được đăng tải nổi bật trên đúng tờ báo,
vào đúng thời điểm. Chẳng hạn, sau khi các thành viên CRN mời một vị
phó giám đốc về hưu của Đài phát thanh Trung ương Trung Quốc tham gia
chuyến đi thực tế tới các khu vực chịu sự ảnh hưởng của các con đập, vị
này đã đăng tải một bài báo trên các tờ nhật báo lớn ở Bắc Kinh và
Thượng Hải, kêu gọi các quan chức chính phủ chú ý hơn tới chính sách xây
đập. Theo tổ chức Tình nguyện viên vì thế giới xanh, bài báo này đã có
tác động lớn tới nhận thức của giới cầm quyền Trung Quốc, lớn hơn nhiều
so với khi nó do một nhà báo bình thường viết.
Truyền thông trực tuyến và blog cũng là một hợp phần không thể thiếu
trong chiến lược kêu gọi. Hầu hết các bài viết đều xuất hiện trên báo in
trước, song sau đó chúng được đăng tải lại trên nhiều website khác
nhau, khiến chúng có đời sống tồn tại lâu hơn, và tiếp cận nhiều người
hơn so với một tờ nhật báo đơn lẻ.
Thứ ba, các thành viên CRN khẳng định rằng, việc xây dựng mối liên hệ
với các cộng đồng ở các khu vực chịu ảnh hưởng của đập là cần thiết, xét
cả về mặt nguyên tắc và trong vai trò là rào chắn trước sự công kích
của những người ủng hộ xây đập. Mối liên hệ với các cộng đồng địa phương
luôn là xương sống trong hoạt động của CRN, mà bắt đầu là những chuyến
thực tế của họ tới sông Nộ Giang giai đoạn năm 2003 – 2004. Tổ chức có
mối liên hệ gần gũi nhất với các cộng đồng địa phương sinh sống ở khu
vực sông Nộ Giang là Lưu vực xanh ở tỉnh Côn Minh. Họ đã tổ chức nhiều
chuyến đi thực tế học hỏi lẫn nhau giữa các cộng đồng cùng chịu ảnh
hưởng của đập, thậm chí còn đưa lãnh đạo các cộng đồng tới Bắc Kinh để
tham gia các hội thảo quốc tế.
Việc lôi kéo sự tham gia của các cộng đồng sở tại là cần thiết để tranh
thủ sự ủng hộ của công luận và tác động tới các chính sách của chính
phủ. Sự liên hệ với các cộng đồng còn giúp chặn đứng những luận điệu của
các thế lực chống đối rằng các nhà hoạt động vì môi trường chỉ là những
người theo chủ nghĩa lý tưởng viển vông, chỉ quan tâm tới việc bảo tồn
danh lam thắng cảnh mà không quan tâm tới mong muốn phát triển của người
dân. Những nỗ lực của các thành viên CRN trong việc dạy chữ và triển
khai các dự án phát triển cho khu vực sông Nộ Giang và Kim Sa còn có thể
được coi là những tuyên ngôn về tình đoàn kết, bên cạnh những lợi ích
hữu hình mà chúng mang lại.
Cơ hội hành động mới
Những thành tích ban đầu của CRN trong việc đẩy lùi các con đập trên
sông Nộ Giang đã mở rộng không gian chính trị cho hoạt động ủng hộ môi
trường, song nó vẫn chưa trở thành một bước đột phá cho xã hội dân sự
như kỳ vọng của một số người. Áp lực từ phía những người ủng hộ xây đập
ngày càng gia tăng khi mà Trung Quốc đang phải đối mặt với cơn khát năng
lượng ngày một bức bách hơn, nhất là đối với những nguồn năng lượng tái
sinh như thủy điện. Khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo hết nhiệm kỳ vào năm 2013,
Hội đồng Nhà nước Trung Quốc lật lại vấn đề xây dựng đập và bật đèn
xanh cho dự án sông Nộ Giang được tiếp tục. Đây là một quyết định không
mong muốn đối với các thành viên của CRN, song nó cũng là hồi chuông
nhắc nhở rằng việc phát triển xã hội dân sự không tuần tự tịnh tiến,
không có người thua kẻ thắng rõ ràng. Dù thành công hay thất bại thì
một sự kiện đơn lẻ không bao giờ là phần kết của câu chuyện, bởi công
cuộc kêu gọi chính sách kéo dài theo nhiều thời kỳ, nhiều chu kỳ khác
nhau. Các nhà hoạt động không chỉ không thể ra quân trận nào là chắc
thắng trận.
Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng đường lối kêu gọi của CRN đã
thúc đẩy môi trường sinh hoạt “dân chủ”.10 Thoạt nghe, có vẻ như đây là
một sự phóng đại. Nhưng nếu nhìn nhận dân chủ không trên cương vị là một
hình thức thể chế, mà là sự nâng cao sự tham gia của dân chúng vào hệ
thống chính trị Trung Quốc hiện thời, thì những nhận xét trên cũng có ý
nghĩa. Rõ ràng, các thành viên của CRN đã khẳng định quyền được tham gia
vào quá trình hoạch định chính sách của nhà nước. Nhờ những thông tin
công khai trên truyền thông, một bộ phận công chúng được nâng cao nhận
thức về các vấn đề môi trường – trong trường hợp này là những con đập.
Các cộng đồng ở những khu vực bị ảnh hưởng cũng có thêm thông tin, và ở
một số trường hợp, họ còn tích cực chủ động tham gia, dù mới chỉ ở mức
hạn chế. Bất chấp những rào cản về chính trị và hạn chế về nguồn lực
cũng như sự tài trợ từ bên ngoài, CRN vẫn duy trì hoạt động kêu gọi của
mình trong một thời gian dài, và đóng góp vào việc thay đổi dần môi
trường chính trị, hướng tới quá trình ra quyết định công khai hơn trong
vấn đề xây đập – vốn là một mối quan tâm chính của phong trào hoạt động
vì môi trường ở Trung Quốc. Trong khía cạnh này và nhiều khía cạnh khác,
kinh nghiệm của CRN đã mang lại những bài học quý giá cho những nhà
hoạt động xã hội dân sự ở các nước láng giềng.
Andrew Wells-Dang
Bùi Thu Trang dịch – Nguồn: tiasang.com.vn
----------------------------------
1 Brantly Womack, Trung Quốc và Việt Nam: Chính trị đối xứng, 2006.
2 Để tìm hiểu thêm thông tin về xã hội dân sự và các tổ chức NGO ở Trung
Quốc, mời xem thêm: Wang Ming, ed. Xã hội dân sự mới nổi ở Trung Quốc,
2011; Peter Ho và RL Edmunds, China’s Embedded Activism, 2008; Lu Yiyi,
Các tổ chức phi chính phủ ở Trung Quốc: sự trỗi dậy của nền tự chủ độc
lập, 2008 (và nhiều nguồn khác).
3 Jonathan Unger, Các hiệp hội và Nhà nước Trung Quốc, 2008.
4 Liang Congjie and Yang Dongping, eds. Niêm giám môi trường Trung Quốc:
Khủng hoảng và bước đột phá trong môi trường Trung Quốc, 2007, trang
63-88; Andrew Wells-Dang, Mạng lưới xã hội dân sự ở Trung Quố và Việt
Nam, 2012, chương 6.
5 Sun Yanfei and Zhao Dingxin, ‘Các chiến dịch môi trường,’ trong
O’Brien K, ed. Phản đối công khai ở Trung Quốc, 2008, trang 144-62.
6 Yan Yan, ‘Quyền lực truyền thông ở Trung Quốc qua phong trào phản đối xây đập,’ Kexue Xinwen [Tin khoa học], 22/10/2009.
7 Yang Guobin and Craig Calhoun, ‘Truyền thông, xã hội dân sự, và sự
trỗi dậy của không gian công luận xanh ở Trung Quốc,’ trong Ho and
Edmonds, eds. Trào lưu hoạt động ở Trung Quốc, 2008, trang 69-88.
8 Bảy thành viên đầu tiên trong mạng lưới bao gồm các tổ chức: Những
người bạn của tự nhiên, Ngôi làng toàn cầu Bắc Kinh, Tình nguyện viên vì
trái đất xanh, Lưu vực xanh, Viện Môi trường và phát triển, Viện giáo
dục Brooks, và Hãng phim Thiên nhiên hoang dã Trung Quốc. Mạng lưới này
có tổng cộng 10 tổ chức tham gia. Để tìm hiểu thông tin về thời gian
xuất hiện của các phong trào hoạt động chống việc xây đập ở Trung Quốc,
mời truy cập http://www.fon.org.cn/content.php?aid=11750.
9 Yang Dongping, ed. Báo cáo thường niên về môi trường và phát triển ở
Trung Quốc (Zhongguo Huanjing Lupishu). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học
xã hội hàn lâm, 2009.
10 Xu Nan, ‘Lịch sử hình thành các tổ chức NGO vì sự nghiệp bảo vệ môi
trường ở Trung Quốc,’ Tuần báo Nam Phương Chu Mạt, 9/10/2009, Andrew
Mertha, Những thủy binh Trung Quốc: Hành động của công dân và sự thay
đổi chính sách, 2008.
Trung Quốc sẽ bỏ Biển Đông để lên Bắc Cực?
Theo tờ “National Interest”, hành động hạ nhiệt căng thẳng ở Biển Đông
của Trung Quốc cho thấy nước này đang nhắm đến vùng Bắc Cực, nơi chiếm
khoảng 13% dầu mỏ và 30% khí đốt tự nhiên của thế giới.
Tàu cứu hộ Xue Long của Trung Quốc tham gia cứu hộ ở Bắc Cực hồi đầu năm 2014. |
Theo tính toán của các nhà khoa học, tới tháng 9/2030, phần lớn các núi
băng ở Bắc Cực đã tan chảy và để lộ ra một nguồn tài nguyên thiên nhiên
vô cùng lớn. Rất nhiều cường quốc trên thế giới đã rục rịch chuẩn bị cho
“giờ G” này và Trung Quốc cũng không muốn bị chậm chân thêm một phút
nào.
Là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc hiện đang phải nhập khẩu khá nhiều năng lượng để duy trì nền kinh tế phát triển nóng và rất tốn nhiêu liệu của mình.
Trong tương lai, Trung Quốc sẽ phải đi ngày một xa hơn để tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay. Điều này giải thích các động thái gần đây của họ tại Biển Đông và sự quan tâm của họ tại khu vực châu Phi.
Nhưng ở Biển Đông, các chiến dịch bắt nạt láng giềng của Trung Quốc đã không thu được nhiều kết quả. Trong khi đó, nếu nước này gây chiến ở Biển Đông, nền kinh tế Trung Quốc sẽ đứng trước nguy cơ sụp đổ trên quy mô lớn bởi gần như toàn bộ trao đổi thương mại của nước này đều đang phải đi qua eo biển Malacca vào Biển Đông trước khi có thể cập cảng của đại lục. Nguy cơ bị một số nước Đông Nam Á bóp nghẹt yết hầu sinh tử ở Biển Đông không phải là viển vông và điều đó buộc Bắc Kinh phải tính toán đến các phương án khác an toàn hơn.
Dựa trên những toan tính của Bắc Kinh, tuyến đường Biển Bắc (The Northern Sea Route - TNSR) đi qua vành đai Bắc Cực sẽ cung cấp cho Trung Quốc một giải pháp đa dạng hóa các tuyến đường thương mại và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó.
Hơn nữa, việc giao thương giữa Trung Quốc và châu Âu bằng tuyến TNSR sẽ nhanh hơn và rẻ hơn. TNSR rút ngắn khoảng cách giữa Rotterdam và Thượng Hải khoảng 3.000 dặm và giúp tiết kiệm hàng nghìn USD chi phí nhiên liệu. Một số tính toán cho thấy tới năm 2020 sẽ có khoảng 5-15% giá trị thương mại của Trung Quốc được vận chuyển qua vùng biển Bắc Cực. Có lẽ chính vì lý do này mà thời gian qua Trung Quốc đã rất tích cực “làm thân” với các quốc gia nằm trên tuyến đường này.
Tuy nhiên, có một điều rất quan trọng là Trung Quốc không phải là một quốc gia có chân trong Hội đồng Bắc Cực. Ở vị trí là một quan sát viên, Trung Quốc đã tránh được các tranh chấp mà Nga đang vấp phải với các quốc gia thành viên của Hội đồng này.
Là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc hiện đang phải nhập khẩu khá nhiều năng lượng để duy trì nền kinh tế phát triển nóng và rất tốn nhiêu liệu của mình.
Trong tương lai, Trung Quốc sẽ phải đi ngày một xa hơn để tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay. Điều này giải thích các động thái gần đây của họ tại Biển Đông và sự quan tâm của họ tại khu vực châu Phi.
Nhưng ở Biển Đông, các chiến dịch bắt nạt láng giềng của Trung Quốc đã không thu được nhiều kết quả. Trong khi đó, nếu nước này gây chiến ở Biển Đông, nền kinh tế Trung Quốc sẽ đứng trước nguy cơ sụp đổ trên quy mô lớn bởi gần như toàn bộ trao đổi thương mại của nước này đều đang phải đi qua eo biển Malacca vào Biển Đông trước khi có thể cập cảng của đại lục. Nguy cơ bị một số nước Đông Nam Á bóp nghẹt yết hầu sinh tử ở Biển Đông không phải là viển vông và điều đó buộc Bắc Kinh phải tính toán đến các phương án khác an toàn hơn.
Dựa trên những toan tính của Bắc Kinh, tuyến đường Biển Bắc (The Northern Sea Route - TNSR) đi qua vành đai Bắc Cực sẽ cung cấp cho Trung Quốc một giải pháp đa dạng hóa các tuyến đường thương mại và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó.
Hơn nữa, việc giao thương giữa Trung Quốc và châu Âu bằng tuyến TNSR sẽ nhanh hơn và rẻ hơn. TNSR rút ngắn khoảng cách giữa Rotterdam và Thượng Hải khoảng 3.000 dặm và giúp tiết kiệm hàng nghìn USD chi phí nhiên liệu. Một số tính toán cho thấy tới năm 2020 sẽ có khoảng 5-15% giá trị thương mại của Trung Quốc được vận chuyển qua vùng biển Bắc Cực. Có lẽ chính vì lý do này mà thời gian qua Trung Quốc đã rất tích cực “làm thân” với các quốc gia nằm trên tuyến đường này.
Tuy nhiên, có một điều rất quan trọng là Trung Quốc không phải là một quốc gia có chân trong Hội đồng Bắc Cực. Ở vị trí là một quan sát viên, Trung Quốc đã tránh được các tranh chấp mà Nga đang vấp phải với các quốc gia thành viên của Hội đồng này.
Tuyến đường vòng qua Biển Bắc sẽ giúp Trung Quốc rút ngắn thời gian giao thương với châu Âu. (Trong ảnh: Nếu đi từ cảng Đại Liên đến Rotterdam (Hà Lan) qua kênh đào Suez sẽ mất 48 ngày nhưng qua đường Biển Bắc chỉ mất 35 ngày) |
Để chuẩn bị cho “giờ G” ở Bắc Cực, hiện Trung Quốc đang lên kế hoạch rót
60 triệu USD mỗi năm cho hoạt động nghiên cứu Bắc Cực tại một Trung tâm
Nghiên cứu đặt ở Thượng Hải. Ngoài ra, mặc dù không phải là quốc gia
thành viên nhưng Trung Quốc cũng đã cam kết sẽ thực hiện nhiệm vụ cứu hộ
ở Bắc Cực. Tuy nhiên, tất cả những nỗ lực này của Trung Quốc đã để lộ
lý do Trung Quốc hiện diện ở Bắc Cực: tài nguyên thiên nhiên và thương
mại. Tăng cường mối quan hệ song phương với các nước thành viên Hội đồng
Bắc Cực là điều rất quan trọng đối với Bắc Kinh.
Thông qua các mối quan hệ song phương kiểu này, Trung Quốc có thể dùng sức mạnh kinh tế của mình để vừa mua chuộc vừa dọa dẫm. Một thỏa thuận thương mại tự do mới với Iceland và một chương trình hỗ trợ trao đổi tiền tệ quy mô hơn 500 triệu USD dành cho các ngân hàng Iceland mới chỉ là sự khởi đầu. Các nước nhỏ này càng phụ thuộc về kinh tế vào Trung Quốc thì họ càng dễ dàng hơn trong việc ủng hộ Bắc Kinh có được một ghế thường trực tại Hội đồng Bắc Cực, ngay cả khi nước đó không phải là một quốc gia có biên giới tại Bắc Cực.
Các sự kiện gần đây trên thế giới cũng diễn biến theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Nga sẽ tiếp tục bị phương Tây cô lập do cuộc khủng hoảng Ukraine. Các công ty Nga, bị các đối tác phương Tây cô lập, sẽ phải quay sang Bắc Kinh để làm ăn và để được hỗ trợ ở Bắc Cực.
Trung Quốc chủ trương tiếp cận trữ lượng dầu mỏ chưa được khai thác trong khu vực, bởi hầu hết các mỏ dầu dọc theo TNSR nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế của Nga. Những xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục khi nhu cầu về năng lượng của Trung Quốc gia tăng.
“Cuộc đua đến Bắc Cực đã được khởi động và phương Tây cần nhận ra tham vọng của Trung Quốc”, tờ The National Interest kết luận.
Lương Minh
Thông qua các mối quan hệ song phương kiểu này, Trung Quốc có thể dùng sức mạnh kinh tế của mình để vừa mua chuộc vừa dọa dẫm. Một thỏa thuận thương mại tự do mới với Iceland và một chương trình hỗ trợ trao đổi tiền tệ quy mô hơn 500 triệu USD dành cho các ngân hàng Iceland mới chỉ là sự khởi đầu. Các nước nhỏ này càng phụ thuộc về kinh tế vào Trung Quốc thì họ càng dễ dàng hơn trong việc ủng hộ Bắc Kinh có được một ghế thường trực tại Hội đồng Bắc Cực, ngay cả khi nước đó không phải là một quốc gia có biên giới tại Bắc Cực.
Các sự kiện gần đây trên thế giới cũng diễn biến theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Nga sẽ tiếp tục bị phương Tây cô lập do cuộc khủng hoảng Ukraine. Các công ty Nga, bị các đối tác phương Tây cô lập, sẽ phải quay sang Bắc Kinh để làm ăn và để được hỗ trợ ở Bắc Cực.
Trung Quốc chủ trương tiếp cận trữ lượng dầu mỏ chưa được khai thác trong khu vực, bởi hầu hết các mỏ dầu dọc theo TNSR nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế của Nga. Những xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục khi nhu cầu về năng lượng của Trung Quốc gia tăng.
“Cuộc đua đến Bắc Cực đã được khởi động và phương Tây cần nhận ra tham vọng của Trung Quốc”, tờ The National Interest kết luận.
Lương Minh
(Infonet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét