Bất động sản: Đáy hay chưa?
“Thị trường bất động sản đã chạm đáy chưa?” lâu nay vẫn là
một câu hỏi được thị trường quan tâm. Trong chuyên mục “Góc nhìn của
tôi” kỳ này, VnEconomy đã phỏng vấn 13 nhà quản lý, chuyên gia và lãnh
đạo doanh nghiệp bất động sản về chủ đề nêu trên.
Hơn một nửa “ý kiến khác”
Theo kết quả khảo sát, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng và bà
Nguyễn Hoài An, Quản lý cấp cao Phòng Nghiên cứu thị trường CBRE, phản
hồi cho rằng thị trường bất động sản “đã chạm đáy”.
Cùng quan điểm “chạm đáy”, nhưng lạc quan hơn, 3 ý kiến (ông Nguyễn
Dũng Minh, ông Baek Young Keun và ông Yip Siew Yong) phản hồi cho rằng
thị trường bất động sản “đã chạm đáy và đang phục hồi”.
Những ý kiến lạc quan nhất, dễ thấy là đến từ 3 đại diện của doanh
nghiệp đang đầu tư những dự án bất động sản “tỷ đô” như Gamuda, Tây Hồ
Tây và Ecopark.
Như vậy, có 5 ý kiến – chiếm trên 38% tổng số phản hồi, cho rằng giá
bất động sản “đã chạm đáy”, và “đã chạm đáy và đang phục hồi”.
Trong khi đó, chỉ có hai ý kiến của ông Alan Phan và ông Nguyễn Văn Đực cho rằng thị trường bất động sản “chưa chạm đáy”.
Đáng chú ý, có tới 6 ý kiến (ông Phạm Sỹ Liêm, ông Đặng Hùng Võ, ông
Nguyễn Hữu Cường, ông Phạm Thanh Hưng, ông Trần Như Trung và ông Phạm
Thế Điệp) phản hồi không chọn phương án “đã chạm đáy” hay “chưa chạm
đáy”, mà chọn phương án “ý kiến khác” vì nhiều lý do.
Theo quan điểm của ông Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên
và Môi trường, ông không dùng khái niệm đáy, mà chỉ biết là thị trường
bất động sản chưa hết khó khăn, tồn kho còn nhiều.
Còn theo ông Nguyễn Hữu Cường – Chủ tịch Câu lạc bộ Bất động sản Hà
Nội và ông Phạm Thanh Hưng – Phó tổng giám đốc Cengroup, việc nhận định
thị trường bất động sản đã chạm đáy hay chưa còn tùy thuộc vào từng phân
khúc, chứ không thể có kết luận chung cho cả thị trường.
Quan trọng là giá
Theo TS. Alan Phan, khi nói về diễn biến trên thị trường, bao giờ giá
giảm hết cỡ rồi quay đầu tăng trở lại thì mới gọi là đáy. Còn hiện nay
nhìn chung giá vẫn chưa phù hợp với khả năng của người mua. Chỉ trừ một
vài phân khúc là phù hợp, nhưng chỉ chiếm khoảng 10 – 15%. Còn lại 80%
thị trường vẫn chưa chạm đáy.
“Quan trọng là giá cả bất động sản hiện nay vẫn chưa phù hợp với khả
năng chi trả của đại bộ phận người dân. Do đó, khó có thể nói thị trường
xuống đáy khi mà giá nhà tại Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với các nước
trong khu vực”, TS. Alan Phan nói.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Hữu Cường, không thể lấy đáy của các
thống kê của tài chính, chứng khoán để áp lên bất động sản được, bởi
biên độ lên xuống cũng như đặc thù về chỉ số chứng khoán và giá cả của
bất động sản là hoàn toàn khác nhau. Các sản phẩm bất động sản ngay cả
gần nhau thì cũng có giá khác nhau, còn nếu là phân khúc khác nhau thì
giá lại càng khác nhau. Do vậy, không có cơ sở để nói giá bất động sản
đã xuống đáy hay xuyên thủng đáy.
“Với một người bình thường, khi mua bất động sản thì ưu tiên số một
của người ta là vị trí có thuận lợi với nơi làm việc, học hành của con
cái hay không. Nhưng khi người ta có việc cần bán gấp thì rẻ bao nhiêu
người ta cũng bán. Do đó, không thể đem ra làm đại diện để nói giá xuống
đáy được”, ông Cường nói.
Bên cạnh đó, mức gía trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào hoàn
cảnh mua và bán. Kể cả những người bán bất động sản đi cũng đều có xu
hướng mua những sản phẩm lớn hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn. Theo chuyên gia
này, đó là một quy luật không bao giờ thay đổi.
Trong khi đó, theo ông Phạm Thanh Hưng, những tháng đầu năm 2014 thị
trường đang có chuyển biến tích cực hơn, dù chưa hoàn toàn là khởi sắc.
Thị trường vẫn đang trong giai đoạn quá độ nhưng giao dịch đã bắt đầu
tăng, dần lôi kéo một phần nhà đầu tư quay trở lại thị trường sau 2 -3
năm vắng bóng.
Tuy nhiên, hầu hết những nhà đầu tư hiện nay hầu hết là đầu tư dài
hạn, không kiểu lướt sóng như trước đây. Theo khảo sát của doanh nghiệp
này, hiện có một tỷ trọng đáng kể người mua căn hộ tại các dự án là để
cho thuê dài hạn.
“Các nhà đầu tư bao giờ cũng quan tâm tới quy mô đầu tư của mình như
thế nào. Nếu đầu tư vào bất động sản thì trước hết phải quan tâm khả
năng khai thác nội sinh của bất động sản đó. Trong thời điểm hiện nay,
bất động sản vẫn chưa đạt đến mong muốn so với lãi suất tiết kiệm, tức
là giá trị nội sinh của bất động sản chưa đạt tới ngưỡng trung bình mà
một thị trường phát triển ổn định cần phải có”, ông Hưng nhìn nhận.
Theo VnEconomy
Biệt thự, nhà liền kề bỏ hoang phải chấp nhận… chết!
Biệt thự, nhà liền kề bỏ hoang phải chấp nhận chết vì người
bán rất đông, người mua không có, nhà nước không thể đứng ra tịch thu
hay mua lại
Tại phiên họp sáng 10/3 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự án Luật
Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn
cho biết, đã hai khóa làm trong Quốc hội, vẫn thấy các dự án biệt thự,
nhà phân lô chung cư nằm dọc đường đi đến sân bay Nội Bài “không có
người sống ở”.
Trước thông tin này, ông Nguyễn Văn Đực – Phó chủ tịch Hiệp hội Bất
động sản TP. HCM, Phó giám đốc Công ty địa ốc Đất Lành cho biết, khó
khẳng định bất động sản chết từ khi nào vì có dự án sống, có dự án chết,
không phải tất cả các dự án đều chết hết, nhất là những dự án nằm ở
phân khúc nhà giá thấp, diện tích nhỏ không bao giờ chết và lúc nào cũng
bán được hàng, doanh số bán cũng trên 60-70% thậm chí 90%.
Ông Đực cho biết, các dự án chết là dự án chung cư giá quá cao, vượt
sức mua hoặc có vị trí quá xa khu trung tâm và diện tích lớn nên thị
trường không chấp nhận.
Và các dự án biệt thự, nhà phân lô, nhà liền kề do tính đầu cơ cao
nên hàng vài ngàn căn hộ phân lô, bán nền nhưng số khách hàng có nhu cầu
mua thực để ở không quá 5%.
“Nhơn Trạch đón đầu dự án cầu vượt TP. HCM qua Đồng Nai, đón đầu sân
bay Long Thành… nhưng dân cư không có cơ sở để phát triển nên những khu
đô thị và khu không có người ở”, ông Đực nói.
Ông Nguyễn Văn Đực lấy ví dụ, ở TP. HCM có một số khu tại quận 2,
hoặc Nhơn Trạch, cả thành phố xây dựng đến hàng ngàn ha nhưng chưa đủ
thu hút dân đến ở và trở thành một thành phố ma.
Ông Nguyễn Văn Đực khẳng định rằng, những dự án mang tính chất đầu
cơ, mua đi bán lại, đi tắt đón đầu chờ thời từ năm 2008-2009 đã xuất
hiện tình trạng đóng băng và tình trạng “không có ở người sống ở” những
dự án đó sẽ kéo dài rất lâu.
Giải pháp cho tình trạng này, theo ông Nguyễn Văn Đực, các dự án biệt
thự, nhà liền kề, phân lô phải chấp nhận chết vì người bán rất đông,
người mua không có, thậm chí có những khu biệt thự giờ đã để chăn thả
trâu bò, cho người vô gia cư ở vì chính người chủ cũng không ngó ngàng,
quản lý.
“Tức là dân bất động sản chết, những dự án này chấp nhận chết vì
không không thể vực dậy trong bối cảnh nền kinh tế của cả nước còn rất
khó khăn như hiện nay”, ông nói.
Trong khi Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn cho biết, xét cho cùng
đất nào cũng là của dân, mồ hôi của dân vậy mà đất ở đó không ở được,
không bán được, không làm gì được, quá lãng phí và ông mong muốn “Luật
phải làm sao khắc phục được bất cập này” thì ông Nguyễn Văn Đực lại quả
quyết, các dự án bất động sản là nhà biệt thự, nhà phân lô, chung cư đã
được gọi tên là một xác chết thì không thể làm gì để cứu vãn được, chỉ
có thể cứu khi nó đang bị bệnh.
“Đây là sự thiệt hại lớn cho xã hội, cho nền kinh tế. Hàng trăm ngàn
tỷ thậm chí hàng triệu tỷ đã nằm ở đây, cả sức sống của nền kinh tế quốc
gia chôn vùi ở đây. Đây là lỗi lầm rất lớn của chính sách quốc gia và
của những người đầu cơ gồm doanh nghiệp, tư nhân chúng ta không cảnh báo
được trước tình hình này nên nhà nhà, người người đua làm chung cư
không tưởng để bỏ hoang”, ông Đực nói.
Ông Nguyễn Văn Đực phân tích, việc cứu phân khúc thị trường bất động
sản này không thể thực hiện được vì nhà nước không thể đứng ra tịch thu
vì tịch thu xong cũng không để làm gì còn nếu bỏ tiền ra mua sẽ không có
tiền để mua, mua rồi cũng không biết để làm gì. Nhiều người đã đưa tài
sản này vào ngân hàng khiến nguy cơ nợ xấu trong lĩnh vực này gia tăng.
Theo Đất Việt
Việt Nam Học và Vựơt Nga, Mỹ!
Đã hứa hẹn với ngừơi Cô–một nhà báo, nhà quản lý ở Hà nội–rằng sẽ
viết bài cho báo của Cô đã lâu song chưa thấy hứng khởi…đầu năm con Ngựa
này tự nhiên có quá nhiều chuyện cần chia xẻ
(câu chuyện “Cánh Chim Hà Đông” là một câu chuyện đáng nói nhưng sẽ để dành trong một bài sau)…còn trong lúc này hãy thử ngẫm nghĩ một vài chuyện nhỏ (hay chuyện lớn) tùy bạn nghĩ nhé…
Chuyện đầu tiên, câu chuyện giáo dục. Tuần trước, thấy báo chí đăng tin Chính phủ
“đề nghị” các trừong Đại học
“đặt tên lại theo chuẩn quốc tế”.
Trước hết hãy nói rỏ, đấy là ý kiến của tân Phó Thủ tướng. Tuy nhiên,
Thủ tướng là ngừơi đứng đầu chính phủ, và Phó thủ tướng nhân danh Thủ
tướng đặt vấn đề ấy, bởi thế bảo “Chính phủ” cũng không ngoa chút nào.
Khổ nổi, đã là Chính phủ (Executive branch) thì phải “chỉ đạo” hay “chỉ
thị” chứ sao lại “đề nghị”? Nếu là chuyện chưa rỏ đúng sai thì còn “đề
nghị”, chứ chuyện (đặt tên sai, dịch tên sai) thì cả nước, cả thế giới
đều biết rồi. Đã là “đề nghị” thì người ta có thể làm, có thể không làm.
Thế nếu các trường, Bộ giáo dục đều làm ngơ cả thì Chính phủ đứng ngó
à? Chuyện nhỏ hở các bạn?
Này nhé, trong các quyết định của ngành giáo dục năm qua có một quyết
định quan trọng, có ảnh hưởng nhiều mặt đến công tác quản lý và chất
lựơng của ngành giáo dục (vốn bị mang tiếng xấu khá nhiều) đã đựơc đưa
ra bởi các quan chức của Bộ một cách dũng cảm và triệt để với thay đổi
có tính gốc rễ (radical) đó là quyết định cho phép thu hình trong phòng
thi sau sự cố
“Đồi Ngô”. Quyết định ấy (chưa từng thấy ở
các nước phát triển) và có thể gây khó khăn, lúng túng cho hàng vạn
giáo viên coi thi…nhưng dường như quyết định ấy đã xóa tan tất cả hoài
nghi về tiêu cực (ít lắm cũng là trong phòng thi quốc gia). Trong khi
tiêu cực khác từ “chạy trường, chạy lớp, chạy điểm” vẫn còn nhiều và
mong rằng ngành giáo dục tiếp tục có những quyết định “thay đổi tận gốc
rễ” (disruptive, radical) như thế.
Trở lại với chuyện
“đặt tên và dịch chữ”. Chao ôi, cái chuyện
“university nằm trong university”
ấy thì có lẽ học sinh lớp 12 chuẩn bị thi vào đại học khi nhìn quanh
các trừơng ở Hà nội và TP Hồ chí Minh rồi nhìn sang các trường
Singapore, Hong Kong, Hàn quốc, Nhật bản thì đã thấy rồi chứ chờ đâu cấp
cao nhất của hệ thống hành chính quốc gia?
Chuyện đáng nói là khi “đổi tên” trường
Đại học Kinh tế Quốc dân thuộc Đại học Quốc gia Hà nội thành College of Business Administration và University of Ha-noi chẳng hạn thì có người lại nhầm tưởng DH Kinh tế Quốc dân bị
“hạ cấp” trở thành “Cao đẳng”
(một sự nhầm lẫn tai hại)! Vấn đề đáng nói (và đáng làm) hơn là “Cao
đẳng” Kinh tế Quốc dân lúc ấy dạy những gì? Thông thường, College chỉ
dạy những môn chuyên ngành (Tài chính và Kế toán ở Kinh tế Quốc dân đối
lại với Xây dựng và Giao thông ở Bách khoa hoặc Vật lý và Hóa học ở Khoa
học Tự nhiên). Vậy nếu làm đúng căn cơ và bài bản mà hầu hết hệ thống
giáo dục tiên tiến đang làm thì từ rày sinh viên các năm đầu, năm nhì sẽ
đến học các môn phần cơ sở ở Khoa học tự nhiên hoặc Khoa học Nhân văn
trứơc khi vào chuyên ngành ở Bách khoa hay KTQD. Việc sắp xếp lại tận
gốc rễ như thế hẳn sẽ là
“đề tài cấp Nhà nứoc” chứ
không phải chuyện của các trường nữa. Hy vọng tân Phó Thủ tứong (nhân
danh Chính phủ) sẽ xắn tay áo lên làm chứ không chỉ “đề nghị” mà thôi.
Đấy là chuyện lớn chứ?
Giờ hãy sang trang đến một câu chuyện nhức nhối khác ở Việt nam là
chuyện giao thông nhé. Chẳng ai không biết ông Bộ trưởng đã
“tả xung, hữu đột” quanh năm nhưng tai nạn giao thông và số ngừoi chết vẫn cứ tăng…bởi thế ông buột miệng tuyên bố một câu bất hủ
“tất cả đều đúng cả thế mà tai nạn nghiêm trọng vẫn xảy ra”??
Vấn nạn giao thông, vấn đề
“mãi lộ” ở Việt nam là câu chuyện nhức nhối, đôi khi mang tính
“nhân,
quả” (vi phạm giao thông nhiều nên sinh hiện tựong cảnh sát moi tiền;
lơ là tuần tra làm tăng thêm nhiều tai nạn nghiêm trọng) đấy là chưa kể rất nhiều nhấn tố khác nữa
(chẳng hạn đừơng sá, cầu cống, biển báo). Bởi thế hãy thử bóc tách từng khía cạnh và thử tìm xem có giải pháp nào mang tính
“căn cơ, triệt để, gốc rễ” và có thể giải quyết phần nào vấn đề?
Trước hết hãy nhìn thử vào giao thông ở hai xã hội ít nhiều
“quen thuộc” với Việt nam đó là Nga và Mỹ. Ở Mỹ, trong suốt ba thập niên đầu của thế kỹ 20 kể từ khi dân chúng bắt đầu có dịp
“trải nghiệm” hình thức giao thông tiện lợi và tự do nhất đó là ôtô
(chẳng khác gì xe máy ở Việt nam trong khoảng 50 năm trở lại đây) thì số ngừoi chết vì tai nạn giao thông trên đường phố hầu như tăng dần mỗi năm
(dân số tăng, số ngừơi sắm xe tăng, kinh nghiệm lái xe ít, đừơng sá chưa đủ)
nên cũng dễ hiểu. Điều đáng nói là sau khi “cán mốc” cao nhất 300 ngừoi
chết vì TNGT cho mỗi triệu dân vào 1937 thì bắt đầu có xu hướng giảm
(nhưng chưa giảm hẳn). Sụt giảm đáng kể phải mất gần bốn mươi năm sau
vào 1975, 1976 với 200 ngừoi chết vì TNGT cho mỗi triệu dân. Đến nay
(2012) con số đó chỉ khoảng 100 ngừơi chết mỗi triệu dân.
Thử nhìn sang Nga. Với dân số chưa bằng phân nữa của Mỹ, số
xe ôtô chưa đến một phần tư (và số kilômét di chuyễn lại càng ít nữa
nhưng đáng tiếc Nga không có số liệu) nhưng số người chết vì TNGT cũng
xấp xỉ Mỹ. Hay nói cách khác, ở Nga số ngừơi chết vì TNGT cho
mỗi triệu ôtô cao gần 5 lần ở Mỹ! Điều này thì cũng không khó kiểm chứng
khi nhìn vào các tuyên bố thừa nhận điều tệ hại đó của lãnh đạo Nga
(như Mendelev và Putin về vấn đề này) hoặc xem các “máy ghi hình hành
trình” (dashcam videos) của lái xe Nga. Thú thật, một ngừơi sống ở Mỹ
khi xem các video này sẽ có cảm tưởng về hành vi các lái xe Nga còn tệ
hại hơn Mỹ 50, 70 năm về trước! Có lẽ vì dân Nga thiếu kỹ năng lái xe,
luật lệ lẫn tôn trông luật pháp . Chuyện nhỏ hở bạn?
Nhân nói về chuyện dashcam, thậm chí rất nhiều người ở Mỹ tự hỏi “tại
sao ngừoi Nga phải dùng máy ghi hình hành trình” nhiều như vậy? Thì ra,
đó là biện pháp tự vệ hữu hiệu để chống lại các tình huống tiêu cực (từ
Cảnh sát ăn hối lộ đến lái xe xấu tính hoặc làm bằng chứng trước tòa).
Trong hoàn cảnh “công chức lưong tiền khó khăn” ngừơi Nga đã phải tự vệ
như thế đấy! Thử hỏi, nếu một vạn Cảnh sát Nga đựoc trang bị “máy ghi
hình trên nón” (helmet cam, body cam) thì có lẽ triệu dân Nga không phải
sắm máy ghi hình linh tinh như thế nhỉ?
Đấy là điều mà Cảnh sát tại nhiều thành phố ở Mỹ đang yêu cầu, “đề
nghị” cư dân thành phố trang bị cho họ (thông qua các phiên họp duyệt
xét ngân sách của Hội đồng thành phố). Nếu ai có theo dõi thời sự quốc
tế hẳn không quên tai nạn hi hữu với chiếc máy bay Asiana 214 ở San
Francisco năm ngoái. Máy bay ấy va vào đừơng băng, gãy đuôi, nhưng may
thay chỉ có 2 học sinh Trung quốc bị văng ra khỏi máy bay chết ngay. Một
nữ học sinh thứ ba sống sót từ va chạm ban đầu nhưng không may đã bị xe
Cứu hỏa cán chết (trong lúc phun nước chữa cháy máy bay). Trong bối
cảnh hỗn loạn của tai nạn máy bay, thật khó lòng (nếu không muốn nói là
không thể) truy tìm nguyên nhân cái chết của cô học sinh này nếu cảnh
sát cứu hỏa San Francisco không mang “máy ghi hình cá nhân trên nón”.
Việc này ban đầu mang tính tự phát của cảnh sát như một hình thức tự bảo
vệ cho họ trong khi làm nhiệm vụ (vì họ không có gì phải che giấu)
nhưng nay đã trở thành “yêu cầu” (demand) tại rất nhiều đơn vị cảnh sát
khác trên nhiều thành phố.
Làm thế nào Việt nam có thể “học tập và vuợt” Nga, Mỹ? Thử
tưởng tượng tất cả Cảnh sat giao thông ở TP Hồ chí Minh và Hà Nội
“được” trang bị máy ghi hình trên nón? Chi phí mỗi máy hiện nay rất thấp
(chỉ khoảng VND 2 triệu) và 40 giờ ghi hình cho mỗi máy (càng rẻ hơn).
Tại sao phải 40 giờ ghi hình? Để sau mỗi ngày, từng đơn vị cảnh
sát có thể “up” video 8 giờ làm việc lên internet cho mọi công dân kiểm
tra (cảnh sát giao thông làm việc “thanh thiên, bach nhật” thì chẳng có
gì phải che giấu nhỉ) và lưu lại đó một tuần lễ truớc khi lấy xuống,
lặp lại.
Một nghìn CSGT tại thành phố HCM với trang bị đó chỉ khoảng
vài tỉ đồng VN, một chi phí quá nhỏ đối với ngân sách thành phố lớn mà
có thể “tận diệt”, “tuyệt diệt” đựoc vấn nạn tham nhũng trên tất cả
đừơng phố của thành phố quan trọng và lớn nhất nước? Cũng nên công bằng với “các anh” giao thông. Nếu làm triệt để như thế thì cũng phải “triệt để đảm bảo đời sống” các anh.
Vậy nhìn sang xem Cảnh sát Mỹ sống như thế nào nhé. Cảnh sát
giao thông Mỹ làm việc nghiêm túc thế nào hy vọng những người có dịp đến
Mỹ đã rỏ. Với “tổng sản phẩm quốc gia” theo đầu ngừơi mỗi năm khoảng
US$ 50,000 (một tỉ bạc Việt nam), bạn có ngạc nhiên biết rằng lương Cảnh
sát ở Mỹ chỉ khoảng $35,000-70,000 mỗi năm, tùy theo thành phố và giá
cả sinh hoạt ở địa phưong. Nói cách khác, lương Cảnh sát Mỹ
khoảng 70% đến 150% tổng sản phẩm xã hội bình quân (trong khi lương kỹ
sư là 100-200% con số đó). Vậy nếu tổng sản phẩm xã hội theo đầu người ở
TP/HCM là $5000 hay VND 100 triệu thì lương “đảm bảo đời sống” khoảng
từ 70 triệu đến 150 triệu năm hay là 6-12 triệu mỗi tháng? Đựoc biết mỗi
kỹ sư hoặc cử nhân ở TP/HCM chỉ “ao ước mức lương đáng sống” khoảng 20
triệu mỗi tháng. Vậy Cảnh sát với 12 triệu đồng mỗi tháng là đã “công
bằng” chưa?
Bạn cho ý kiến nhé: Bạn có sẳn sàng đồng tình với UBND thành
phố HCM và thủ đô Hà Nội nếu họ muốn “tận diệt” vấn nạn mãi lộ, tham
nhũng trên đường phố (và không ai nghi ngờ rằng sẽ có chuyển biến với
tai nạn giao thông dù rằng giảm thiểu tử vong đòi hỏi nhiều biện pháp
khác trong nhiều năm nữa) với chưong trình mang máy ghi hình cá nhân
(helmet cam, body cam) và “up” băng ghi hình để “dân biết, dân bàn, dân
kiểm tra”? Việc này nếu cần sẽ đi đôi với việc điều tiết quỹ phạt vi phạm giao thông để đảm bảo cuộc sống xứng đáng cho các anh?
Kỳ tới: những vấn đề quản lý xã hội khác, so sánh giữa xã hội đã phát triển và đang phát triển để tìm ra bài học chung.
TÁC GIẢ VĨNH THỨC, CALIFORNIA
Ai nắm thị phần bia lớn nhất thế giới ?
Gần 50% thị phần bia thế giới đang nằm trong tay các "ông lớn"
Anheuser-Busch InBev, SABMiller, Heineken International, Carlsberg
Group, China Resource Snow Breweries Ltd, trong đó, có tới hai công ty
của Bỉ.
Nhiều bằng chứng khoa học đã chứng minh rằng bia đã xuất hiện từ 6.000
năm trước công nguyên (TCN) và có thể đã được biết đến ở Châu Âu khoảng
3.000 năm TCN theo hình thức tự ủ trong gia đình.
Sau cách mạng công nghiệp bắt đầu từ Anh (cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ
19), việc sản xuất bia được chuyển từ thủ công sang công nghiệp, việc
sản xuất nhỏ lẻ không còn đáng kể vào cuối thế kỷ 19.
Sự phát triển của phù kế và nhiệt kế đã thay đổi việc làm bia, các công
cụ đó cho phép người làm bia có thể kiểm soát nhiều hơn quá trình làm
bia, thu được nhiều kết quả hơn.
Ngày nay, ngành công nghiệp sản xuất bia là một nền kinh doanh toàn
cầu, bao gồm một số công ty đa quốc gia chiếm ưu thế trên thị trường và
hàng ngàn các nhà sản xuất nhỏ với quy mô địa phương hoặc vùng.
Dưới đây là danh sách 5 công ty bia đa quốc gia đang chiếm phần lớn thị phần bia trên toàn thế giới.
1. Anheuser-Busch InBev
Trụ sở chính tại Bỉ.
Sản xuất 352,9 triệu hectoliter mỗi năm (1hectoliter = 100 lít).
Chiếm 18,1% lượng bia sản xuất trên thế giới.
Anheuser-Busch InBev, viết tắt là AB InBev, là công ty sản xuất và phân
phối bia lớn nhất thế giới hiện nay. Công ty này hiện sở hữu 200 thương
hiệu bia nổi tiếng toàn thế giới như, Budweiser, Beck, Skol, Bud Light,
Alexander Keith,…
Eberhard Anheuser, một nhân viên bán hàng xà phòng ở Đức, đã mua nhà
máy bia Bavarian ở trung tâm thành phố St Louis khi nó đang gặp khó khăn
trong vào năm 1860.
Khi con gái của Anheuser kết hôn Adolphus Busch vào năm 1861, cái tên
viết tắt Anheuser-Busch cũng ra đời từ đó. Aldolphus Busch là nhà sản
xuất bia đầu tiên của Mỹ sử dụng công nghệ thanh trùng vào sản xuất bia
và dùng đường sắt để mở rộng khả năng phân phối các sản phẩm
Anheuser-Busch.
Vào cuối năm 1800, Busch đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của mình thông
qua các chương trình quà tặng và khuyến mãi như mở chai trúng thưởng,
tặng cái bật bia, bưu thiếp,… thông qua hệ thống phân phối tại các quán
bar trên khắp nước Mỹ.
Khá nhiều trong số những quà tặng kèm này đã được sưu tầm và giữ gìn cho đến tận ngày nay.
Trong một thời gian dài các thức uống có cồn bị cấm, doanh số của
Anheuser-Busch đã giảm đáng kể và phải “sống sót” thông qua một số sản
phẩm tương tự như nước ngọt và kem.
Năm 2008, sau nhiều đàm phán, InBev (một liên doanh giữa Interbrew Bỉ
và Ambev Brazil) đã mua Anheuser-Busch với giá gần 52 tỷ USD, chính thức
đưa Anheuser-Busch InBev trở thành nhà sản xuất bia lớn nhất thế giới.
Sau khi mua lại, Anheuser Busch đã đi theo hướng chuyển dịch cơ cấu,
cắt giảm chi phí và vấp phải rất nhiều chỉ trích khi cắt giảm lợi ích
của người lao động trong khi lợi nhuận vẫn không hề tăng lên.
2. SABMiller
Có trụ sở tại Vương quốc Anh.
Sản xuất 190 triệu hectoliter mỗi năm.
Chiếm 9,7% lượng bia sản xuất bia trên thế giới.
SABMiller là một công ty đa quốc gia sản xuất bia và nước giải khát có trụ sở tại London, Anh quốc.
Vào năm 1886, vàng đã được phát hiện gần Johannesburg gây ra một cơn
sốt vàng và kéo theo một lượng lớn lao động nước ngoài đến khai thác.
Năm 1895, SAB được thành nhà máy Castle Brewery nhằm cung cấp bia cho
những người thợ mỏ và thợ thăm dò của Johannesburg ở Nam Phi.
Mãi cho đến năm 1956 khi nhà máy bia Castle mua lại liên doanh Ohlssons
và Chandlers Union Breweries, để hợp nhất thành nhà máy bia Breweries
Nam Phi.
Năm 2002, SAB mua Công ty bia Miller có trụ sở tại Bắc Mỹ từ Tập đoàn
Altria và cũng từ thời điểm đó tên Công ty bia SABMiller ra đời và duy
trì đến tận ngày nay.
SABMiller là một công ty đa quốc gia đang hoạt động tại 75 quốc gia
trên toàn thế giới. Danh mục đầu tư của SABMiller bao gồm hơn 150 thương
hiệu, đồ uống như Carling Black Label, Milwaukee’s Best, Castle,
Grolsch,...
SAB cũng là một trong những đối tác đóng chai lớn nhất của Coca-Cola
trên thế giới. Công ty này cam kết "thực hành xanh" vì cả lợi ích của
lợi nhuận lẫn trách nhiệm xã hội.
Họ sử dụng chai nhẹ, có chứa ít hơn 30% thủy tinh, được thiết kế để
giảm thiểu chất thải và năng lượng trong quá trình sản xuất.
3. Heineken International
Có trụ sở tại Bỉ.
Sản xuất 171,7 triệu hectoliter mỗi năm.
Chiếm 8,8% lượng bia sản xuất bia trên thế giới.
Heineken International là một công ty sản xuất bia Hà Lan thành lập vào
năm 1864 bởi Gerard Adriaan Heineken. Gerard Adriaan đã mua một nhà máy
bia được gọi là De Hooiberg (Haystack) và bắt đầu sản xuất các loại bia
nhẹ.
Trong những năm đầu, bia của Heineken đã giành được nhiều giải thưởng
lớn và đến năm 1874, Heineken đã mở nhà máy thứ hai tại Rotterdam. Tính
đến năm 2014, Heineken International đang sở hữu hơn 190 nhà máy bia tại
hơn 70 quốc gia.
Nhà máy bia đầu tiên tại Amsterdam được bảo tồn như một bảo tàng mang tên “The Heineken Experience”.
Heineken đã được biết đến trong nhiều năm qua như một doanh nghiệp gia
đình. Con trai của Gerard Adriaan là Henry Pierre Heineken đã quản lý
công ty từ 1917 - 1940.
Sau khi Henry Pierre nghỉ hưu, người cháu trai là Alfred Henry Heineken
bắt đầu làm việc cho công ty. Alfred Henry Heineken (hay còn gọi là
Freddy), đã bị bắt cóc vào năm 1983 và phải bỏ ra một khoản tiền chuộc
khoảng 21 triệu USD.
Freddy là người có công rất lớn trong việc mở rộng toàn cầu của Heineken.
Năm 1978 Heinkeken sáp nhập với đối thủ cạnh tranh lớn nhất là Amstel,
đó cũng là giao dịch lớn nhất của giao dịch Heinkenen trước khi việc sáp
nhập tại Scotland và Newcastle được tiến hành vào năm 2007.
Thỏa thuận này càng củng cố vị thế một trong số năm nhà sản xuất bia hàng đầu thế giới của Heineken.
Heineken International hiện bán hơn 170 loại bia và không ít trong số
đó thường được nhắc như là loại bia hảo hạng nhất hiện nay.
4. Carlsberg Group
Có trụ sở tại Đan Mạch.
Sản xuất 120,4 triệu hectoliter mỗi năm.
Chiếm 6,2% lượng bia sản xuất bia trên thế giới.
Carlsberg là một công ty sản xuất bia của Đan Mạch được thành lập vào
năm 1847 bởi JC Jacobsen. Jacobsen là một doanh nhân, nhà từ thiện và
một nhà sưu tập nghệ thuật hội họa.
Ông đã tìm cách đưa sản xuất bia trở thành một hoạt động công nghiệp
dựa trên nguyên tắc khoa học âm thanh. Ông thành lập phòng thí nghiệm
Carlsberg nhằm nghiên cứu kiến thức sinh hóa, đặc biệt trong lĩnh vực
khoa học protein.
Carlsberg Group đã sáp nhập với Orkla ASA (Na Uy) vào năm 2001, trở
thành một trong những nhà máy bia lớn nhất thế giới. Ngoài thương hiệu
bia Carlsberg, Carlsberg Group còn có thêm nhãn hiệu Tuborg ( từ năm
1970), Kronenberg và hàng trăm nhãn hiệu bia địa phương khác. Trong đó,
có khoảng 40% thị phần của Nga.
Câu khẩu hiệu "Có thể là loại bia tốt nhất trên thế giới" đã được
Carlsberg duy trì từ năm 1973 đến năm 2011, khi nó được thay thế bằng
"Đáng thưởng một Carlsberg".
5. China Resource Snow Breweries Ltd
Có trụ sở tại Trung Quốc.
Sản xuất 106, 2 triệu hectoliter mỗi năm.
Chiếm 5,4% lượng bia sản xuất bia trên thế giới.
China Resource Snow Breweries Ltd (thường được gọi đơn giản như CR
Snow)là một liên doanh giữa SABMiller và China Resources Enterprise (tập
đoàn chuyên bán lẻ, nước giải khát, chế biến thực phẩm, phân phối, dệt
may bất động sản hàng đầu Trung Quốc). China Resource Snow Breweries Ltd
cũng là công ty sản xuất bia lớn nhất ở Trung Quốc.
China Resources Enterprise hiện sở hữu 51% cổ phần của CR Snow và 49%
còn lại thuộc sở hữu của SABMiller (công ty sản xuất bia và nước giải
khát đa quốc gia có trụ sở tại London, Anh quốc).
Thương hiệu chính của các nhà máy bia CR Snow là bia Snow gần đây đã
trở thành một trong những loại bia bán chạy nhất trên thế giới và gần
như độc chiếm thị trường Trung Quốc.
Từ năm 1993 đến năm 2014, CR Snow có hơn 80 nhà máy bia, trở thành
thương hiệu bia phát triển nhanh nhất ở Trung Quốc và là công ty bia lớn
thứ năm trên thế giới.
Theo Therichest