Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Chuyện những chiếc cầu chưa gãy - Các ngành nhân văn của Việt Nam sẽ đi về đâu? -"Xét lại lịch sử” như vậy để làm gì?

Các ngành nhân văn của Việt Nam sẽ đi về đâu?

Nếu chỉ dùng một từ để mô tả tình trạng của các ngành nhân văn tại Việt Nam trong năm 2011 thì có lẽ không có từ nào thích hợp hơn là từ “báo động”. Phải chăng xu thế hiện nay cho thấy các ngành nhân văn đã quá lỗi thời và không còn cần thiết cho thế kỷ 21 này nữa? 
 
Tại Việt Nam, chúng ta thường gộp chung “các ngành xã hội – nhân văn”, hoặc thậm chí chỉ là “các ngành xã hội”, như thể “xã hội” và “nhân văn” chỉ là một. Nhưng thực ra, sự khác biệt giữa các ngành xã hội và nhân văn là khá rõ ràng, và số phận của chúng tại Việt Nam cũng đang rất khác nhau. Cũng thuộc về khối ngành “xã hội và nhân văn” nhưng hiện nay các ngành Kinh tế, Luật, và Tâm lý học – những ngành xã hội – đang rất được ưa chuộng. Trong khi đó các ngành nhân văn, những ngành truyền thống được đào tạo tại hầu hết các trường đại học lâu đời như Văn học, Ngôn ngữ học, Triết học, Sử học, Nhân học, Chính trị học, hoặc một vài ngành có liên hệ khác1 lại lâm vào tình trạng khủng hoảng và không có người học.


Một cuộc khủng hoảng

Sự sụt giảm của các ngành nhân văn ở Việt Nam đã được bộc lộ trong những năm gần đây. Ở các trường trung học phổ thông, ban xã hội-nhân văn2 là ban được ít học sinh chọn nhất, đến nỗi rất nhiều trường không thể tổ chức lớp học cho ban này vì số học sinh đăng ký không đủ dù chỉ một lớp. Trong các kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, năm nào cũng có những bài Văn ngô nghê, ngớ ngẩn đến nực cười của các cô tú, cậu cử tương lai được đưa lên báo chí. Nhưng sự kiện hàng ngàn điểm không (0) cho bài thi môn Sử trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cũng như việc hàng loạt các trường phải đóng cửa một số ngành nhân văn3 như Ngoại ngữ, Đông phương, Việt Nam học, Văn hóa học, cho thấy tình trạng của các ngành nhân văn ở Việt Nam thực sự đã ở mức báo động.

Tình trạng báo động nói trên tất nhiên không chỉ xảy ra ở Việt Nam, và cũng không hoàn toàn bất ngờ. Tương lai ảm đạm này thực ra đã được báo trước từ thập niên cuối của thế kỷ trước. Trong bài phát biểu nổi tiếng năm 1998 có tựa đề là “Giáo dục nhân văn cho thế kỷ 21”, W. R. Connor, trước tình hình suy giảm của các ngành nhân văn ở Mỹ vào thời gian ấy, vị Giám đốc đương nhiệm của Trung tâm Nhân văn quốc gia thuộc Hiệp hội giáo dục khai phóng Hoa Kỳ, đã phải thốt lên rằng nếu không ai chịu làm gì để thay đổi tình hình thì khối ngành nhân văn có thể sẽ “tuyệt chủng” hoàn toàn trong vòng một thế hệ nữa.

Ngành nhân văn trong thế kỷ 21

Vào thời điểm sắp bước sang thế kỷ 21, Connor đã từng đưa ra nhận định rằng vai trò của các ngành nhân văn trong thế kỷ 21 không những không giảm đi mà càng được khẳng định mạnh mẽ hơn. Bởi vì trong một xã hội với quá nhiều đổi thay và biến động như ngày nay, những kỹ năng mà các ngành nhân văn giúp phát triển ở người học – khả năng hiểu các lập luận, cảnh giác với sự ngụy biện, tư duy logic, kỹ năng diễn đạt và thuyết phục, hiểu biết về con người và xã hội, kỹ năng giải quyết vấn đề, phán đoán và ra quyết định – lại càng quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết và gần một thập niên sau lời phát biểu của Connor, vị Hiệu trưởng đương nhiệm của Đại học Harvard là Derok Bok đã tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của các ngành nhân văn trong thế kỷ này trong một phát biểu vào năm 2007. Theo ông, những tiến bộ của khoa học đã giúp con người dễ dàng kéo dài hoặc hủy diệt, biến đổi sự sống bằng những biện pháp nhân tạo, đến nỗi sự sống của con người dường như cũng cần được định nghĩa lại. Trong bối cảnh như vậy, Derok Bok cho rằng những câu hỏi cốt lõi của ngành nhân văn như các giá trị, ý nghĩa của cuộc sống, các vấn đề về đạo đức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vậy, thay vì đẩy các ngành nhân văn ra bên lề, các trường đại học cần phải tạo điều kiện cho các ngành nhân văn phát triển, sao cho chúng ta không bị choáng ngợp bởi sự phát triển vũ bão của công nghệ, mà bắt công nghệ phải phục vụ chúng ta một cách nhân văn hơn.

Đánh mất chính mình


Nếu các ngành nhân văn có tầm quan trọng lớn lao như vậy, thì phải giải thích như thế nào cho sự sụt giảm trên phạm vi toàn cầu của các ngành nhân văn hiện nay? Trong bài phát biểu năm 1998, Connor đã lý giải điều này bằng một phán xét vô cùng khe khắt: sự sụt giảm này là do các ngành nhân văn đã tự đánh mất chính mình!

Để hiểu các ngành nhân văn đã đánh mất chính mình như thế nào, cần quay ngược về với giai đoạn khởi thủy và lần theo những phát triển của nó cho đến ngày nay.

Khôi phục các ngành nhân văn như thế nào? Cách làm ở mỗi nơi có lẽ sẽ khác nhau tùy theo hoàn cảnh và điều kiện ở nơi đó, nhưng định hướng thì đã được Connor chỉ ra từ cách đây hơn một thập niên: Hãy kiên trì với mục tiêu khởi thủy của giáo dục khai phóng, đó là cung cấp cho người học những kỹ năng của một con người tự do, tức kỹ năng tự giải phóng (the skills of freedom). Đồng thời, hãy gắn chặt nội dung đào tạo với thực tế của cuộc sống, để giải quyết những vấn đề của ngày hôm nay, chứ không phải là của một thời vàng son, xa xôi nào khác.
Theo Connor, các ngành nhân văn như ta biết hiên nay có nguồn gốc từ những môn học đầu tiên của nền giáo dục khai phóng (liberal education) được bắt đầu tại thành Athens nhằm phục vụ cho nền dân chủ sơ khai của xã hội Hy Lạp thời ấy, với một mục tiêu duy nhất là tạo ra những con người biết suy nghĩ độc lập, có tư duy phản biện, và có những kỹ năng cần thiết để có thể tham gia vào xã hội với tư cách là một chủ thể tự do. Nói cách khác, mục tiêu duy nhất của các ngành nhân văn chính là để “giải phóng” con người ra khỏi những trói buộc của tinh thần nô lệ và phụ thuộc – nô lệ cho những tư duy do người khác áp đặt, và nô lệ cho những cách tiếp cận vấn đề theo thói quen và lối mòn.


Để tạo ra những “người tự do”, nền giáo dục khai phóng của Hy Lạp ở thế kỷ thứ 5 nhấn mạnh các kỹ năng tư duy, lập luận, giải quyết vấn đề, và đặc biệt là các kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói (kỹ năng diễn thuyết). Các môn học của giáo dục khai phóng ở buổi đầu chỉ gồm có 3 môn: ngữ pháp (grammar), tu từ (rhetorics), và biện chứng (dialectic) – tất cả đều là những môn có liên quan đến các kỹ năng ngôn ngữ, trong đó ngôn ngữ được quan niệm như là một công cụ tối quan trọng của tư duy, đồng thời là phương tiện để biểu đạt ý tưởng của cá nhân đến những người khác trong xã hội.

Với những mục tiêu như vậy, các ngành nhân văn không nhằm chuẩn bị cho người học đi vào một ngành nghề cụ thể nào. Làm như vậy là trái với tinh thần “khai phóng”. Khác với đào tạo nghề nghiệp mà mục đích chính là truyền lại cho người học những quan điểm và cách tiếp cận đã được thiết lập bởi các bậc thầy trong nghề, các ngành nhân văn nhắm đến việc cung cấp cho người học những năng lực tổng quát mà bất cứ người học nào cũng cần khi tham gia vào các hoạt động xã hội trong mọi tình huống và mọi ngành nghề. Những năng lực ấy bao gồm khả năng độc lập tư duy, phán đoán sắc bén, ra quyết định hợp lý và giải quyết vấn đề có hiệu quả, cũng như kỹ năng diễn đạt và giao tiếp thành công với người khác.

Cần nhấn mạnh thêm rằng những năng lực nói trên hết sức quan trọng cho sự phát triển của một xã hội dân chủ đang hình thành như Hy Lạp lúc ấy. Với những kỹ năng mang tính tổng quát do các ngành nhân văn trang bị như vậy, một người được xem là “có học” cũng đồng nghĩa với việc người ấy là một con người tự do, có thể tự mình tư duy và đưa ra những quyết định phù hợp cho mình trong bất kỳ một tình huống hoặc một bối cảnh nào. Điều này rõ ràng là rất cần thiết cho xã hội của hiện nay chúng ta.

Tiếc thay, những đặc điểm mang tính “khai phóng” ban đầu đã bị nhạt phai nhanh chóng cùng với sự phát triển về uy thế và số lượng của các ngành nhân văn trong giới hàn lâm sau đó. Các tác phẩm kinh điển của các nhà tư tưởng lớn qua các thời đại đã được đưa vào giảng dạy và phân tích, với mục đích ban đầu là nhằm phát triển kỹ năng tư duy và ngôn ngữ của người học. Nhưng dần dà, mục tiêu của các ngành nhân văn không còn là để giải phóng con người nữa, mà trở nên thực dụng và được sử dụng vào những mục đích cá nhân. Và, thật oái oăm, thay vì biến những con người nô lệ thành những người tự do, thì lúc này hay lúc khác chính các ngành nhân văn lại muốn biến người học từ những người tự do thành những người nô lệ. Nô lệ cho cách nghĩ, cách nói và cách hiểu của các nhà tư tưởng lớn mà các tác phẩm đã được đưa lên thành kinh điển để dạy trong các nhà trường mà ở đó người học chỉ có quyền ngưỡng mộ và nhất nhất làm theo các bậc thầy.

Trong một xã hội với quá nhiều đổi thay và biến động như ngày nay, những kỹ năng mà các ngành nhân văn giúp phát triển ở người học – khả năng hiểu các lập luận, cảnh giác với sự ngụy biện, tư duy logic, kỹ năng diễn đạt và thuyết phục, hiểu biết về con người và xã hội, kỹ năng giải quyết vấn đề, phán đoán và ra quyết định – lại càng quan trọng và cần thiết
Và cứ thế, qua thời gian, nội dung học tập của các ngành nhân văn không còn gắn liền với xã hội nữa. Người đi học cũng không còn mục tiêu đạt được những kỹ năng thiết yếu cho việc tham gia vào một xã hội dân chủ, mà chỉ để được lọt vào giới thượng lưu, có học, trong đó việc học được xem như một công cụ thăng tiến về mặt xã hội hoặc nhằm đạt được những lợi ích về kinh tế của thời ấy.


Tất nhiên, một nền giáo dục như vậy cũng đem lại những lợi ích trước mắt cho người học - chẳng hạn, để được lọt vào giới thượng lưu - nhưng nó rất xa với ý nghĩa nguyên thủy của giáo dục khai phóng. Và điều quan trọng hơn là nó hoàn toàn không bền vững, vì những kiến thức nó cung cấp cho người học sẽ trở nên hoàn toàn vô ích mỗi khi xã hội có những thay đổi, biến động, khi những giá trị cũ đã bị đào thải.

Phải chăng đây chính là lý do của sự suy giảm đến báo động của các ngành nhân văn tại Việt Nam trong những năm gần đây, mà đỉnh điểm là năm 2011 vừa qua? Khi các ngành nhân văn – các môn học như Văn, Triết, Sử – không còn là những môn giúp rèn luyện khả năng tư duy phê phán, sáng tạo, lập luận chặt chẽ, diễn đạt thuyết phục, mà trở thành những môn biến học sinh thành các con vẹt, như quan niệm phổ biến hiện nay về các thí sinh dự thi khối C trong kỳ thi đại học?

Khôi phục các ngành nhân văn để cứu vãn tương lai

Thật là một nghịch lý khi các nhà tuyển dụng và toàn xã hội thì cứ mãi kêu ca về việc sinh viên ra trường không có năng lực tư duy và kỹ năng giao tiếp – cả bằng tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, lẫn tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế rất cần thiết cho nền kinh tế toàn cầu ngày nay, thì các ngành nhân văn – vốn là những ngành giúp rèn luyện năng lực tư duy, khả năng ngôn ngữ, kể cả ngoại ngữ, và kỹ năng giao tiếp tốt nhất – lại liên tục suy giảm đến nỗi một vị trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ của một trường đại học lớn trong nước phải đưa ra lời cảnh báo về tình trạng “báo động đỏ”.

Mục tiêu duy nhất của các ngành nhân văn chính là để “giải phóng” con người ra khỏi những trói buộc của tinh thần nô lệ và phụ thuộc – nô lệ cho những tư duy do người khác áp đặt, và nô lệ cho những cách tiếp cận vấn đề theo thói quen và lối mòn.
Và cùng với tình trạng báo động ấy là hàng loạt những vấn đề trong xã hội hiện nay đang khiến cho sự phát triển về kinh tế đã chẳng hề làm chất lượng cuộc sống tăng lên mà thậm chí có thể còn kém đi. Hàng ngày ta đều nghe những chuyện về hành xử tàn nhẫn giữa con người với nhau, và những tai họa do ai đó thiếu lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm với đồng loại, với những tai họa bất ngờ như đứt cáp thang máy, xe máy, xe hơi tự phát nổ hoặc cháy giữa đường. Dường như chúng ta đang trở thành một loại nô lệ mới, không có tư duy, cắm đầu làm theo đám đông, không còn chút khả năng phê phán, và đang dần đánh mất khả năng tự quyết định vận mạng của mình, khi lúc nào cũng phải nơm nớp lo sợ không biết khi nào xe gắn máy của mình bị bốc cháy trên đường.

Rõ ràng là chúng ta phải khôi phục lại các ngành nhân văn để cứu vãn tương lai của chính mình và thế hệ con cháu. Không thể chịu bó tay nhìn những ngành nhân văn – ngành học về con người – đi dần đến “diệt chủng”. Việc cứu vãn này là một điều không dễ, đặc biệt đối với Việt Nam hiện nay, nhưng vẫn phải làm, và vẫn có thể làm nếu ta có đủ quyết tâm và sự kiên trì.

Vũ Thị Phương Anh
  ---------------------------
1. http://www.humanitiesroundtable.org/forum/topics/what-are-the-humanities-for?page=1&commentId=2871265%3AComment%3A8625&x=1#2871265Comment8625
2.http://vietbao.vn/Tuyen-sinh/Hoc-chuong-trinh-trung-hoc-pho-thong-phan-ban-ra-sao/40147498/294/
3. http://www.tienphong.vn/Khoa-Giao/Giao-Duc/554517/Hang-loat-nganh-hoc-phai-dong-cua-tpp.html 
  (Tia sáng) 

NHÀ BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN NGÔ HÀO BỊ CƯỠNG BỨC LAO ĐỘNG TRONG TRẠI GIAM

PV.PNNQ | Ngày 9/3/2014
http://vnwhr.net/wp-content/uploads/2014/03/images.jpg
Bà Nguyễn Thị Kim Lan, vợ của tù nhân lương tâm Ngô Hào =>

Ngày 23 tháng 12 vừa qua, phiên tòa phúc thẩm diễn ra tại tỉnh Phú Yên đã xử y án đối với nhà bất đồng chính kiến Ngô Hào, điều này có nghĩa là ông Ngô Hào phải thụ lãnh15 năm tù giam và 5 năm quản chế vì tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân.
Hiện nay, ông Ngô Hào đang bị giam giữ tại trại giam Xuân Phước tỉnh Phú Yên trong tình trạng sức khỏe yếu kém.
Ngày 8/3 vừa qua, vợ ông là cô Nguyễn Thị Kim Lan đến trại giam Xuân Phước để thăm nuôi nhưng bị cơ quan quản lý trại giam gây khó dể. Ngoài bà ra, những thành viên khác trong gia đình không được chấp nhận đến viếng thăm dù gia đình đã nhiều lần lên tiếng phản đối. Theo lời tường thuật của anh Ngô Minh Tâm, con trai của ông Ngô Hào về tình trạng của cha mình, anh nói:
“Sức khỏe của ba tôi hiện nay rất xấu, khi tham dự phiên tòa ông phải ngồi trên ghế để trả lời chứ không thể đứng được. Kể từ khi gặp ba trên tòa, từ đó đến nay, tôi không còn được gặp mặt ông nữa, trại giam không chấp nhận cho tôi vào thăm ông, mẹ tôi nói hiện nay ba tôi rất yếu, những lần gặp trước, tinh thần ba tôi khá vững vàng, nhưng không hiểu sao, lần này tinh thần của ba tôi bị khủng hoảng nghiêm trọng”.
“Mẹ tôi đến thăm ba nhưng bị cán bộ quản lý rất chặt chẽ, ba tôi không dám nói gì khi có công an đứng xung quanh, ông rất lo sợ và tinh thần rất xấu”.
Mặc dù tình hình sức khỏe của ông Ngô Hào ngày càng xấu đi, nhưng trại giam vẫn áp dụng các biện pháp cưỡng bức lao động đối với ông, hiện nay trại giam bắt ông đi phát rừng trên một diện tích rất lớn. Ở độ tuổi ngoài 60, trong tình trạng bị áp lực về tinh thần và thể chất, tính mạng của nhà bất đồng chính kiến Ngô Hào đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Tưởng cũng cần nhắc lại, ông Ngô Hào là một cựu quân nhân quân lực Việt Nam Cộng hòa, năm 1977, ông bị chính quyền Việt Nam tống giam vì tội tổ chức đảng Liên minh Việt Nam. Năm 1997, ông được thả để chữa bệnh, sau khi ra tù, ông tổ chức rải truyền đơn, đấu tranh đòi tự do tôn giáo, giúp các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo gởi danh sách lên Cơ quan Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, và thực hiện các hoạt động nhằm kêu gọi chính quyền Hà Nội cải cách hệ thống chính trị.
Ông Ngô Hào là một trong số ít các cựu quân nhân quân lực Việt Nam Cộng hòa tiếp tục tham gia đấu tranh cho Tự do – Dân chủ – Nhân quyền tại Việt Nam. Bản lĩnh và sự kiên cường của ông qua các hoạt động liên tục và dài hạn rất xứng đáng để thể hệ trẻ đang tranh đấu học hỏi và dấn thân.
 

Chuyện những chiếc cầu chưa gãy


Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng sau khi mất có lẻ bài hát nổi tiếng nhất của ông sẽ khó làm người ta quên, với cái tựa cực “hot”, dù đi đâu ở đâu mỗi lần nhớ tới Huế thì nhớ tới ca khúc này: Chuyện một chiếc cầu đã gãy.
Chiếc cầu đã gãy ấy là cầu Trường Tiền, sáu vài mười hai nhịp, và dưới ngòi bút của người nhạc sĩ tài hoa chiếc cầu như một giấc mơ nằm trong trí nhớ chẳng những của người Huế mà còn nằm cả trong lòng những ai từng biết về Huế.
Một ngày vào thuở xa xưa trên đất thần kinh
Người bỏ công lao xây chiếc cầu xinh
Cầu đưa lối cho dân nối liền cuộc đời
Khắp cố đô dân lành an vui ca thành điệu Nam Bình
Ngày ngày cầu đã đưa em qua nhóm chợ khuya
Cầu đã đưa anh qua xới ruộng nâu
Giờ êm ái quen nghe tiếng hò Ngự Bình
Nước dưới cầu nước vẫn trong xanh như lòng người dân lành…
Cầu Trường Tiền do Gustave Eiffel thiết kế và xây dựng từ năm 1897. Cầu bị đánh gãy hai lần, lần thứ nhất vào ngày 20 tháng 12 năm 1946 khi chiến tranh Việt Pháp xảy ra Việt Minh đặt mìn giật sập mất hai nhịp. Tới năm 1968 trong chiến dịch tổng công kích Mậu Thân bộ đội miền Bắc một lần nữa lại giật sập 2 vài.
Ngoài hai lần bị chính người bản xứ đánh gãy ấy, chiếc cầu được dựng nên do tài năng lừng lẫy Eiffel chưa từng có vết tích gì sai sót do thi công. Hơn một trăm năm qua nó vẫn đứng vững và ngạo nghễ thách đố với thời gian.
Ngược lại với những người anh em của nó, những chiếc cầu khác từ thô sơ tới hoành tráng tại đất nước này đang gồng mình vừa chịu đựng sự hư hỏng lại vừa chịu tiếng ta thán khắp nơi. Từ khắp ba miền đất nước cho tới vùng núi non hiểm trở của vùng cao bắc bộ. Có chiếc không chỉ gãy mà còn sụp đổ hoàn toàn, chỏng chơ mấy sợi giây oan nghiệt như muốn kêu nài của những linh hồn oan ức. Tại Lai Châu, chiếc cầu treo Chu Va 6 lật nhào khiến 45 người trong một đám tang rơi xuống suối mà bên dưới là đá tảng lởm chởm, đã giết chết 8 người và số người may mắn còn lại không ai tránh khỏi thương tích.
Nguyên nhân? Một con ốc neo không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nên bị vỡ ra. Thay vì đúc bằng thép nung nó lại được làm bằng một hợp chất gì đó mà bao nhiêu ban bệ đang chúi mũi vào phân tích vẫn chưa tìm ra nó là thứ gì.
Chu Va 6 là cái tang oan khốc cho người H’mong và ngay sau đó một quan chức cho rằng lý do sập cầu vì người H’mong có thói quen đi rất nhanh trong lễ tang. Cứ cho như vậy đi.
Cầu Chu Va 6 nhỏ và cheo leo trên vùng núi nên quan bảo sao cũng được, nhưng bước xuống đồng bằng thì không chừng quan lại có ý kiến khác tùy từng trường hợp cụ thể, chẳng hạn cầu to, hoành tráng thậm chí biết phun lửa nữa thì sao?
Đấy là cầu Rồng, niềm tự hào vô bờ của ông Nguyễn Bá Thanh. Sau một vài lần phun lửa thì rồng đang lâm bệnh. Bác sĩ cầu chẩn đoán và tiêm chủng cho rồng những mũi keo che vết lở lói trên thân rồng và các bác sĩ cầu ấy nói như đinh đóng cột: da rồng sẽ lành và vết thương sẽ khỏi.
Ai tin thì tin còn tôi thì không.
Nhìn một đống xi-lanh cùng hàng ngàn vết keo nham nhở trên thân hình của con rồng ấy tôi tự hỏi trên thế giới này có nơi nào như thế hay không? Một công trình hàng ngàn tỷ lại chắp vá không khác Chu Va 6 khi chưa bị sập cho thấy tắc trách của nhà thầu cộng với ngu muội của chính quyền địa phương và sự lơ là của Bộ Giao thông vận tải. Hàng trăm chiếc cầu trên toàn quốc đang sống tạm bợ chờ ngày được chích thuốc như cầu Rồng, vì nhiều quá chắc chắn người dân sẽ quen với những ống xi-lanh ấy cho dù ban đầu họ cũng mắt tròn mắt dẹt lằm.
Quan chức Đà Nẵng cho báo chí biết: đối với các vết nứt xuất hiện trong thời gian qua đều nằm trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, đơn vị kiểm định lưu ý tiếp tục theo dõi quan trắc đối với một số vết nứt bê tông và mối liên kết giữa các kết cấu dầm thép-dầm bê tông cốt thép, giữa dầm-vòm bê tông cốt thép để có biện pháp xử lý hợp lý, kịp thời.
Như vậy là đúng quy trình.
Kinh phí xây chiếc cầu này gần 1,5 nghìn tỷ đồng, được thiết kế bởi Ammann & Whitney Consulting Engineers với tập đoàn Louis Berger. Việc xây dựng được Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 đảm nhận.
Nếu Eiffel giao cho Tổng công ty này thi công thì số phận cầu Trường Tiền cũng sẽ không hơn gì. Huế may mắn hơn Đà Nẵng.
Cũng tại quê hương ông Nguyễn Bá Thanh một cây cầu khác đang bị vật ra khám sức khỏe vì có những triệu chứng bất thường của chứng bệnh ghẻ như Tổng bí thư từng cảnh báo trước đây. Đó là cầu Thuận Phước do UBND thành phố Đà Nẵng làm chủ đầu tư với kinh phí 1.000 tỷ, và bây giờ cả mặt đường trên chiếc cầu ngàn tỷ này đã lở loét nghiêm trọng chỉ sau 5 năm đưa vào xử dụng.
Theo báo chí thì mặt cầu Thuận Phước của Đà Nẵng được giải thích sớm hư hỏng do công nghệ mới giống như cầu Thăng Long Hà Nội.
Khác với rồng nằm Đà Nẵng, rồng bay của Hà Nội do rẻ tiền hơn nên sự chú ý của dư luận ít hơn mặc dù sự hư hỏng của nó không hề thua kém bất cứ cây cầu nào của Việt Nam. Cũng tróc lở, ổ gà, đùn mặt và nhất là không ai chịu trách nhiệm.
Một cây cầu nữa của Hà Nội đang có hội chứng như cẩu Rồng Đà Nẵng: nứt đúng quy trình.
Đó là cây cầu Vĩnh Tuy đang được chẩn đoán vì có hiện tượng nứt gãy dưới chân cầu. Từ khi bắt dầu thụ thai đến khi được sinh ra và sau vài năm quằn mình chịu đựng, cái giá của nó tính luôn cả trượt giá đã lên tới 5.500 tỷ đồng.
5 ngàn 500 tỷ nhưng nó vẫn nứt, vẫn cùng chứng với cầu Rồng Đà Nẵng và dĩ nhiên người ta cũng đang đem hàng ngàn ống xi-lanh keo nhựa đến để chích cho nó.
Nhìn những ống xi-lanh ấy lại liên tưởng đến những góc phố tăm tối chứa đầy ống tiêm của dân giang hồ thải ra. Nếu những ống kim tiêm ấy làm cho dân nghiện mê man thì không lẻ các ống tiêm cho cầu cũng làm cho xi măng cốt thép mê man mà nghe theo nó để đừng gãy xuống?
Những ống xi-lanh gây mê cho cầu suy cho cùng cũng chỉ là một phương tiện. Sá gì chuyện nhỏ của những chiếc cầu khi cả nước đang lên đồng vì hàng trăm chuyện khác sau khi được gây mê một cách từ từ gần tám mươi năm qua?
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng nếu còn sống cũng bó tay đối với những chiếc cầu chưa gãy này. Không lẽ ông lại sáng tác thêm một phiên bản thứ hai mang tên: Chuyện những chiếc cầu chưa gãy?

"Xét lại lịch sử” như vậy để làm gì?

...cc : Hèn chi, hỏi như vậy cho nên Bọn Trẻ nó 0% môn sử là phải phải – Xét để thấy ai “tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai vong bản, cam tâm bán nước cho Đế quốc Mỹ , quay lại đàn áp bóc lột Nhân Dân ta , vay nợ máu của Nhân Dân ta…”- Cách mạng (CS) chửi bọn “Ngụy quân Ngụy quyền VNCH đấy nhé.- Không xét làm sao bọn Trẻ nó thấy để “căm thù” ĐQ Mỹ cứ manh tâm chiếm dần dà Đất nước ta và còn tính kế đô hộ lâu dài hòng làm biến mất Quốc Gia VIỆT NAM.
Còn “xuyên tạc, bóp méo” Lịch sử, ha! ha!…ai, thằng nào con nào (học Cách mạng dạy) làm ???
http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/22574402-xet-lai-lich-su-nhu-vay-de-lam-gi.html
Nhandan
Xét lại lịch sử để rút ra bài học cho hiện tại, đó là một trong những biểu hiện của sự trưởng thành của ý thức dân tộc trong khi tự đánh giá về mình, để qua đó phát huy các giá trị tích cực, khắc phục các hạn chế.
Nhưng xét lại lịch sử để đề cao một số nhân vật, triều đại vốn không được khẳng định với ý nghĩa tích cực, thậm chí khơi dậy một số xu hướng tinh thần trong quá khứ để phủ nhận hiện tại là hiện tượng cần phải xem xét, bởi nếu không sẽ đưa tới sự ngộ nhận…
Hơn 60 năm về trước, trên khu đất cạnh đền Bà Kiệu (Hà Nội) có đặt tấm bia liên quan tới A. de Rhodes (Ðắc Lộ) – nhà truyền giáo người Pháp, đã được một số người xác định là “có công chế tác chữ Quốc ngữ”. Về sau, tấm bia không còn và cũng không thấy ai nhắc tới. Vậy mà năm trước, tấm bia cùng “công ơn” của A. de Rhodes đã trở lại. Có người còn yêu cầu phải tạc tượng, đặt tên đường mang tên A. de Rhodes. Thậm chí có người coi tấm bia thất lạc là “do tư tưởng hẹp hòi không phù hợp với đạo đức của dân ta”, và “vào thập niên 80 trên vị trí này đã dựng tượng đài Cảm tử cho Tổ Quốc quyết sinh và người ta cũng quên luôn nhà bia đó”! Một số tác giả đã cố chứng minh, khẳng định “công lao” A. de Rhodes, nhưng hầu như không ai nhắc tới vai trò của những người đi trước ông này. Thí dụ, dù là tham khảo thì vẫn nên lưu ý mục từ A. de Rhodes trên Wikipedia cho biết vào năm 1961, trên nguyệt san MISSI của các linh mục dòng Tên người Pháp từng viết: “Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Ðắc Lộ khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai dòng Tên người Bồ Ðào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự la-tinh rồi”, và A. de Rhodes cũng đã thừa nhận: “Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế… Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi”. Nghĩa là trước A. de Rhodes đã có người phương Tây hiểu và nói được tiếng Việt.
Các nhà nghiên cứu có thể còn bàn thảo về việc chữ Quốc ngữ hình thành thế nào, phát triển ra sao,… nhưng dù vậy khó có thể bác bỏ điều nhà báo Phan Quang đã viết trong bài Quá trình hình thành chữ quốc ngữ: “Tuyệt đại bộ phận các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Việt Nam từ trước tới nay không ai quy công đầu cho một tác giả đơn nhất mà đều khẳng định chữ quốc ngữ là sáng tạo tập thể, mỗi người góp phần một ít; những vị đi trước mở đường, những người kế tiếp hoàn thiện, nâng cao. Hình thành chữ quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện nó cũng là một quá trình chỉ có thể tạm ngừng chứ không kết thúc, vì nó là một cơ thể sống đang phát triển”.
Thời gian gần đây việc “đánh giá lại” một số người vốn không được đề cao trong lịch sử đang được một số tác giả quan tâm như kết quả của “nhận thức mới”!? Ðề cập việc đánh giá một triều đại chỉ trong hơn thế kỷ từng xảy ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân, một nhà sử học đã cho rằng “chưa thỏa đáng, chưa khách quan” vì đó là “thời kỳ mà nền sử học Mác-xít đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi”. Ðánh giá như thế, phải chăng ông đã quên các câu nói lưu truyền hằng trăm năm nay về việc “mãi quốc, khi dân”, “Vạn niên là Vạn niên nào”,… mà các câu nói đó đâu phải là kết quả nghiên cứu của nền sử học “đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức”? Hơn nữa nói như vậy, chẳng lẽ mấy năm trước, một số nhà nghiên cứu chỉ dựa vào một cuốn sách không có tác giả, không rõ niên đại để khẳng định lai lịch một ngôi đền ở Hà Nội, hay một nhà sử học lên vô tuyến truyền hình nói như đinh đóng cột rằng: “Trần Hưng Ðạo là một trong tứ bất tử của văn hóa truyền thống Việt Nam”(!) cũng là kết quả nghiên cứu của nền sử học “đang hình thành”? Nhưng có lẽ nổi trội trong xu hướng “xét lại lịch sử” là việc một vài người sử dụng thủ pháp hiện đại hóa quá khứ để làm sống lại vấn đề “khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh”, rồi khẳng định “vấn đề lãnh thổ, khôi phục lãnh thổ quốc gia, tức vấn đề độc lập, được coi như là một bộ phận cần thiết nhưng không phải là cứu cánh của chương trình dài hạn rộng lớn, cơ bản hơn nhiều”! Và lập tức có tác giả hùa theo, như năm 2010, PGS, TS PVC nói: “Tôi từng phát biểu ngay trong lễ trao giải Phan Chu Trinh: “Khẩu hiệu của chúng ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”; phương châm ấy thua xa các cụ ngày xưa đã chủ trương là “khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh”. Dân sinh là vấn đề cuối cùng, tuy rất quan trọng nhưng vẫn phải đặt khai dân trí, trấn dân khí lên hàng đầu, rồi hậu dân sinh sẽ đến như hệ quả tự nhiên. Còn dân giàu đâu phải là giá trị tự thân, nước mạnh cũng không phải là giá trị tự thân. Nếu lấy tiêu chí đó làm đầu thì ta suốt đời thua thiệt, chạy đuổi nước khác cũng không lại. Mà mạnh thì mạnh đến đâu, phải bằng Mỹ, Nhật, Pháp hay Trung Quốc? Mà mạnh làm gì? Không những thế, ta lại đặt những ba tiêu chí: công bằng, dân chủ, văn minh trên một mặt bằng xã hội là bất khả thi. Chúng ta cần phải tìm những giá trị cao nhất, nhưng giá trị ấy là gì, ở đâu?… Ðã đến lúc cần sắp xếp lại hệ giá trị, dân giàu nước mạnh là những phương tiện, nhưng không phải là mục đích”!
Ý kiến trên đây không phải là kết quả của suy nghĩ chín chắn, thấu đáo. “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là hệ thống yếu tố được xác định là mục tiêu mà nước Việt Nam hiện tại cần vươn tới, còn “khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh” là các biện pháp Phan Châu Trinh đề ra ở đầu thế kỷ 20 với hy vọng qua đó có thể chấn hưng dân tộc. Với phương pháp khoa học và nhãn quan tỉnh táo, không ai so sánh mục tiêu cụ thể mà một xã hội xác định cần phấn đấu đạt tới với các biện pháp có tính cách là giả định của một xu hướng tinh thần. Là hệ thống yếu tố nên mục tiêu có tính đồng bộ, toàn diện, không xác định mục tiêu nào phải đạt trước, mục tiêu nào sẽ đạt sau. Còn biện pháp của Phan Châu Trinh, vì chữ “hậu” của nó, mới đặt vấn đề việc gì làm trước, việc gì làm sau. Không phân biệt sự khác nhau nên vị PGS, TS đã đi xa hơn người khởi xướng, từ đó phủ nhận các mục tiêu mà cả dân tộc Việt Nam đang phấn đấu vươn tới. Nên PGS, TS mới không muốn “nước mạnh, dân giàu”, vì theo ông “mạnh làm gì?”, và ông coi “dân sinh là vấn đề cuối cùng… sẽ đến như hệ quả tự nhiên” của “dân trí, dân khí”! Nói cách khác, ông không quan tâm tới việc đồng bào có cơm ăn, áo mặc, được học hành hay không, ông coi có “dân trí, dân khí” là sẽ có tất cả! Thử hỏi với tinh thần duy thức luận duy tâm chủ quan như vậy, ông PGS, TS muốn đưa đất nước này đi đến đâu. Phải chăng theo ông Nhà nước không cần phải triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo, không cần phải hỗ trợ kinh tế cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,… chỉ cần “khai dân trí, trấn dân khí” là có cuộc sống ấm no?! Lịch sử nhân loại cho thấy từ xưa đến nay chưa có một đất nước, dân tộc nào bị cướp đoạt chủ quyền, bị nước ngoài đô hộ, lại có thể tự phát triển, giành lại độc lập qua việc “khai dân trí, trấn dân khí”. Các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân đô hộ chỉ có thể phát triển sau khi tự mình đấu tranh giành độc lập hay được trao trả độc lập vào lúc chủ nghĩa thực dân đã không thể đương đầu với phong trào giải phóng dân tộc. Từ lịch sử của đất nước có thể nói “dân trí, dân khí” có vai trò rất quan trọng, và ngày nay, trước rất nhiều thách thức, trước sự tha hóa một số giá trị văn hóa, cần phải tiếp tục nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, nhưng không thể vì thế mà xao nhãng chăm lo phát triển đời sống mọi mặt của toàn xã hội. Mặt khác, trong một thế giới đã có rất nhiều thay đổi, việc Nhà nước chủ động kết hợp đồng bộ những biện pháp cụ thể để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, hợp tác với các quốc gia, dân tộc khác cùng phát triển,… không chỉ là kết quả của quá trình tự ý thức, mà còn là một biểu thị cụ thể cho tư cách làm chủ một đất nước độc lập, có chủ quyền.
Xem xét lại quá khứ, đánh giá lại quá khứ là nhu cầu chính đáng của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc, vì đó là một trong các yếu tố giúp con người và cộng đồng có suy nghĩ, hành động đúng đắn hơn trong hiện tại, tương lai. Tuy nhiên, việc một số người nhân danh “nhận thức mới” nhưng bỏ qua quan điểm lịch sử – cụ thể để đánh giá một số cá nhân và triều đại đã đưa tới sự hồ nghi về động cơ, mục đích thật sự của sự xem xét? Bởi không ngẫu nhiên gần đây, một blogger đã công bố entry Khi nghề xuyên tạc lịch sử lên ngôi để cảnh báo. Ðánh giá nghiêm túc về hiện tượng này là thái độ đối với quá khứ – thái độ khách quan, khoa học và công bằng.
CẨM KHÊ

Vì sao Phan Châu Trinh phó thác "đại sự" cho Phan Khôi?

Phan Châu Trinh
Năm 1922, đối với nhóm Ngũ Long, có hai sự kiện quan trọng xẩy ra: Phan Châu Trinh gửi thư ngỏ cho Nguyễn Ái Quốc và ông gặp Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tại Pháp. Hai sự kiện này chứng tỏ Phan Châu Trinh sửa soạn về nước, đoạn tuyệt với Nguyễn Tất Thành, và tìm sự đồng thuận của những người chủ trương ôn hoà như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh. Về tới Sàigòn năm 1925, Phan Châu Trinh gửi gấm "đại sự" cho Phan Khôi.

Năm 1922 là năm bản lề, đánh dấu ngõ quặt của nhóm Ngũ Long: Bắt đầu về nước tranh đấu. Người đầu tiên là Nguyễn An Ninh. Về bối cảnh chung, 1922 có một số sự kiện xẩy ra:

- Hội chợ đấu xảo được tổ chức ở Marseille.

- Đầu năm 1922, Phan Châu Trinh xuống Marseille để làm việc tại hội chợ. Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, đại diện các nhà văn nhà báo Bắc Kỳ sang dự đấu xảo.

- Tháng 2/1922, Phan Châu Trinh gửi thư ngỏ cho Nguyễn Ái Quốc.

- Tháng 5/ 1922, Phan Châu Trinh gặp gỡ các nhà trí thức sang Pháp dự hội chợ.

- Tháng 6/1922, Vua Khải Định tới Pháp. Một phong trào bài kích nhà vua nổi lên với Thất điều thư của Phan Châu Trinh (kể bảy tội của vua Khải Định) với các bài báo và vở kịch Dragon de bambou (Rồng Tre) (1) ký tên Nguyễn Ái Quốc.

Nhóm Ngũ Long đả kích vua Khải Định là lẽ tất nhiên, tuy lời lẽ có hơi quá đáng vì sự thực thì nhà vua cũng không còn quyền hành gì cả. Nhưng có hai sự kiện đáng chú ý hơn là việc:

1- Phan Châu Trinh viết bức thư ngỏ gửi Nguyễn Ái Quốc đề ngày 18/2/1922.

2- Phan Châu Trinh gặp gỡ Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.

I- Lá thư ngỏ của Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quốc

Trước hết, tại sao Phan Châu Trinh lại gửi cho Nguyễn Ái Quốc, mà không gửi cho Nguyễn Tất Thành? Dù ông thừa biết Nguyễn Tất Thành không phải là tác giả những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc.

Lý do nằm trong nội dung lá thư: Phan Châu Trinh viết chung cho các tác giả ký tên Nguyễn Ái Quốc và có đoạn viết riêng cho Tất Thành, người chính thức nhận tên Nguyễn Ái Quốc.

Khi nhắn các tác giả viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, ông viết:
"Thực trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu nay, bọn mình ở bên này có đăng báo chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng kết quả chẳng được là bao. Cái khát vọng bình đẳng, tự do, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu [Montesquieu], ông Lư Thoa [Rousseau] khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên đất An Nam mình" (Theo bản dịch của Hoàng Xuân Hãn, in trong cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925 của Thu Trang, Đông Nam Á 1983 trang 135-140).

Trong một đoạn khác, ông viết:

"Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan [Văn Trường] đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp ngọa ngọa chiêu hiền, đãi thời đột nội [ngồi ngoài đợi thời] của anh và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho, thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận tý nào cả, bởi vì suy ra thì tôi đã thấy rằng: Tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan."

Tuy Tây Hồ dùng chữ anh, nhưng lời nhắn vẫn hướng về cả ba người trẻ Ninh, Truyền và Thành (hai ông Phan cùng thế hệ), ông trách họ dám coi ông là hủ nho, thủ cựu, và hướng về Tất Thành, còn có ý mỉa mai: Tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan."

Rồi ông tiếp tục mắng mỏ lối viết báo tiếng Tây: "Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì, quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ quốc ngữ, cầm tờ báo mà đọc nổi".

Và ông kiên quyết trở về với chủ trương của mình: "Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghiã, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân, đồng bào thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác gì công dã tràng".

Để nhắn riêng Nguyễn Tất Thành, ông nhấn mạnh những điểm sau đây:
"Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghiã của ông Mã Khắc Tư [Karl Marx] ông Lý Ninh [Lénine] nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ". Rồi ông kể lại việc cả Karl Marx lẫn Lénine đều có một thời bị đuổi ra nước ngoài, nhưng sau đó họ đều tìm cách trở về nước để tranh đấu và ông kết luận: "Cứ xem hai ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự cho mình, như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy thì anh nghe tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào."

Rồi ông nói về những hình phạt dành cho đường lối bạo động: "Ông Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, Ông Phan Đình Phùng bị đào mả ném xuống sông, ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ Khoa Huân bị đầy biệt xứ và nhiều không kể xiết sự đầu rơi máu chảy".

Cuối cùng ông khuyên Tất Thành nên về nước để "mưu đồ đại sự".

Lá thư ngỏ này, chắc Phan Châu Trinh đã đưa cho Nguyễn Văn Vĩnh một bản để dịch sang tiếng Pháp vì chúng tôi thấy bản tiếng Pháp và bản dịch ra quốc ngữ (từ bản tiếng Pháp) trong tập tài liệu tựa đề Kỷ niệm 115 ngày sinh ông Nguyễn Văn Vĩnh, do gia đình ấn hành năm 1997. Bản dịch được trích dẫn trên đây là bản dịch của Hoàng Xuân Hãn do Thu Trang tìm thấy trong hồ sơ mật thám, và theo Hoàng Xuân Hãn thì đây cũng chỉ là một bản chép lại.

Lá thư này rất quan trọng, vì nó xác định những điểm khác biệt tư tưởng trong nhóm Ngũ Long do chính ngòi bút của Phan Châu Trinh viết ra:

1- Phan Châu Trinh không đồng ý với đường lối tranh đấu của nhóm Tây học: theo ông, việc viết các bài báo tiếng Pháp đả kích thực dân trên báo Pháp là vô ích. Tư tưởng của Rousseau và Montesquieu không thể đến được với dân Việt Nam.

2- Ông xác định một lần nữa phương pháp tranh đấu của ông: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

3- Ông chống lại cách mạng bạo động và kêu gọi về nước tranh đấu bất bạo động.

Xin nhắc lại: Con đường đấu tranh chung của nhóm Ngũ Long là đuổi Pháp, giành độc lập và dân chủ hoá đất nước. Nhưng họ khác nhau ở cách thực hiện các mục đích này:

- Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền, chủ trương dùng ngòi bút (tiếng Pháp) để đấu tranh trên đất Pháp (và sau này trên đất Việt), vạch tội ác của chính quyền thực dân, đánh động người Pháp dân chủ, để họ bãi bỏ chế độ thuộc địa.

- Phan Châu Trinh viết nhiều kiến nghị cho toàn quyền Albert Sarraut, yêu cầu thay đổi chính sách cai trị.

- Nguyễn Tất Thành chủ trương cách mạng bạo động theo con đường cộng sản.

Trong ba điểm chính mà Phan Châu Trinh nêu ra trong lá thư ngỏ gửi Nguyễn Ái Quốc, chỉ có điểm thứ nhất là hoàn toàn khác biệt với đường lối của nhóm Tây học: Họ chủ trương vạch tội ác của thực dân trên báo, tìm sự hưởng ứng của người Pháp dân chủ, để nước Pháp bãi bỏ chế độ thực dân; nhưng Phan Châu Trinh lại cho rằng cách ấy vô ích. Ngược lại Phan Văn Trường cho rằng việc Phan Châu Trinh viết thư yêu cầu toàn quyền và chính quyền thực dân thay đổi chính sách là vô ích.

Còn hai điểm sau, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh và về nước tranh đấu bất bạo động của Phan, đều được sự hưởng ứng của Trường, Ninh và Truyền. Có thể bốn người đã bàn bạc với nhau để thành lập kế hoạch "Ngũ Long tề khởi". Duy Nguyễn Tất Thành hành động khác.

Phan Châu Trinh công bố thư ngỏ tháng 2/1922. Nguyễn An Ninh là người về nước đầu tiên, mùa thu 1922. Ra báo La cloche fêlée ngày 10/12/23. Phan Văn Trường về tới Sàigòn ngày 21/1/1924. Năm 1924, Ninh sang Pháp ở lại khoảng một năm và đón Phan Châu Trinh về nước tháng 6/1925. Năm 1927, Ninh lại sang Pháp, lo liệu mua vé tàu cho gia đình Nguyễn Thế Truyền về nước.

Vậy chương trình "Ngũ Long tề khởi" mà Phan Châu Trinh đề xướng, đã được nhóm Tây học thực hiện. Dĩ nhiên là họ không làm theo cách của Tây Hồ mà làm theo cách của họ: Đem tư tưởng tự do dân chủ của Pháp về truyền bá tại Việt Nam và chống thực dân bằng báo tiếng Pháp trên đất Việt. Nguyễn An Ninh là người "theo sát" nguyện ước về nước tranh đấu trong lòng dân tộc của Phan Châu Trinh. Nguyễn Thế Truyền khi bỏ báo Le Paria để làm báo Việt Nam Hồn, có thể đã nghe lời Phan Châu Trinh.

Các sự kiện này được Hồ Hữu Tường ghi lại trong hồi ký, như sau:

"Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại, thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề khởi". Tại quê nhà, bầu không khí thực dân và phong kiến còn quá nặng, Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường lối là "cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng Pháp" (organe de propagande des idées françaises).(...) Còn hai cụ Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp sức mà tiến lên gây một phong trào dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra thì có, mà tụ lại thì chưa. Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng sang năm 1926, cụ Tây Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường đứng mũi chịu sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án tù, sang Paris chịu vào khám.Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc, theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.

Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà thành lập Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt nam, rồi Phục Quốc... " (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 24-25).

II - Phan Châu Trinh gặp Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tại Pháp năm 1922

Hội chợ đấu xảo ở Marseille là cơ hội để Phan Châu Trinh hành động. Ông xuống Marseille đầu năm 1922, để làm việc và cũng để tiếp xúc với những người Việt sang Pháp dự đấu xảo. Quan trọng nhất là những buổi gặp gỡ giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh. Qua những tài liệu được biết, thì ít nhất có hai lần: một lần ở Marseille và một lần tại Paris.

1- Theo một mật báo gửi về sở An Ninh Marseille ngày 11/5/1922, có cuộc gặp gỡ giữa ba người: Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Trong cuộc họp này, Phan Châu Trinh ngỏ ý muốn lật đổ Nam triều, lập Quốc hội An Nam với các dân biểu để cai trị cùng với chính phủ Pháp. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh khuyên không nên, vì người trí thức và người dân vẫn còn gắn bó với nền quân chủ. Vả lại vua nước Nam không giống như vua Louis 14 hay 16 của Pháp đã áp bức làm khổ dân; và người dân An Nam cũng chưa đủ trình độ để sử dụng quyền Quốc hội. Phải chờ. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh nói sẽ suy nghĩ xem có thể đóng góp gì cho chương trình hành động của Phan Châu Trinh. (Theo Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925, Đông Nam Á 1983, trang 160).

2- Một buổi họp mặt khác, được ông Lê Thanh Cảnh ghi lại trong tập Ký ức về trường Quốc học (có lẽ đây là nội san của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Quốc Học), và in lại trong tập tài liệu tựa đề Kỷ niệm 115 ngày sinh ông Nguyễn Văn Vĩnh, do gia đình ấn hành năm 1997, tập III, trang 21. Rất tiếc người biên tập không ghi rõ nguồn tham khảo: nội san số mấy, năm tháng nào v.v... Tuy nhiên, nếu dựa vào mấy chữ "câu chuyện năm mươi năm trước" mà tác giả ghi trong "Lời người viết", thì có thể đoán bài này được viết vào khoảng 1970-1975 ở trong Nam, vì tác giả dùng hai chữ "anh Quốc" rất tự nhiên.

Dưới tựa đề "Thử đi tìm một lập trường tranh đấu cho dân tộc Việt nam", trước hết ông Lê Thanh Cảnh thuật lại bối cảnh cuộc họp mặt: Nhân dịp phái đoàn Nam triều đi dự cuộc triển lãm do Pháp Quốc Sử Địa tổ chức tại Ba Lê "Ô. Trần Đức nói khẽ vào tai tôi, bảo hai anh em chúng mình mời bốn cụ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Ngọc Thiện, Cao Văn Sến đến chiều hôm ấy dùng cơm tại khách sạn Montparnasse. Chúng tôi nhân mời thêm cụ Phan Tây Hồ, anh Quốc, vợ chồng Trần Hữu Thường và ông Hồ Đắc Ứng".

Đáng chú ý nhất là đoạn tác giả ghi lại cuộc tranh luận giữa năm nhân vật: Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Chúng tôi trích lại những đoạn chính, lướt qua ý kiến Phan Châu Trinh (giống như những điều ông đã viết trong thư gửi NAQ) mà chú trọng vào ý kiến những người khác:
"Cụ Tây Hồ bắt đầu nói: Tôi đã gặp Nguyễn Ái Quốc từ 10 năm trước đây mà tôi thấy anh chủ trương cách mệnh triệt để quá táo bạo nên tôi không thể theo anh được, và anh cũng không chấp nhận đường lối của tôi. (...)

Anh Quốc tiếp lời: Mấy hôm nay anh Cảnh qua đây có tiếp xúc nhiều với tôi và có nói cho tôi một câu ước mơ của cụ Trần [Cao] Vân: Nếu cuộc khởi nghiã của vua Duy Tân thành công thì sau này việc đầu tiên của chúng ta sẽ làm là viết chữ Việt Nam không phải chữ "Tuất" một bên, mà phải viết chữ Việt là Phủ Việt, "Rìu Búa", mới kiện toàn được sự nghiệp cách mệnh. Sở dĩ tôi chủ trương cách mệnh triệt để là xưa nay muốn giành độc lập cho tổ quốc và dân tộc thì không thể nào ngã tay xin ai được mà phải dùng sức mạnh như cụ Trần Cao Vân đã nói là phải dùng BÚA RÌU.

Ô. Nguyễn Văn Vĩnh cướp lời ngay, đã bênh vực chủ trương của mình và cũng để giác ngộ anh Quốc - Tôi đã từng đứng trong hàng ngũ Đông Kinh Nghiã Thục cùng các bậc tiền bối và rất đau đớn thấy hàng ngũ lần lượt tan rã và hầu hết phần tử ưu tú chiến sĩ quốc gia bị tiêu diệt: Hết phong trào Đông Kinh Nghiã Thục, đến chiến khu Yên Thế của Đề Thám ở Bắc, rồi đến vụ xin thuế ở miền Trung... (...) Bao nhiêu chiến sĩ đều gục ngã hoặc còn vất vưởng sống ở Côn Đảo, Thái Nguyên, Lao Bảo hay Banmêthuột. Bạo động như anh Quốc nói là thậm nguy! (...) Sở dĩ tôi theo lập trường TRỰC TRỊ (administration directe) là kinh nghiệm cho tôi thấy Nam Kỳ trực trị tiến bộ quá xa hơn Trung Bắc. Mà Bắc Kỳ nhờ chế độ mập mờ, nửa Bảo Hộ nửa Trực Trị (không công khai) mà còn hơn Trung Kỳ quá xa. (...). Cứ trực trị cái đã rồi sau khi được khai hoá theo đà tiến bộ thì tức khắc dân chúng tự có sức mạnh mà trồi đầu lên. Nói Trực trị tôi chẳng khi nào chịu giao nước Nam cho Tây đâu. Quá khứ đường lối tranh đấu của tôi, cuộc đời thiếu thốn của tôi đã hùng hồn bảo đảm cho lời nói của tôi hôm nay.

Ô. Phạm Quỳnh tiếp: Có lẽ ngay trong tiệc này tôi đã thấy có rất nhiều lập trường tranh đấu chống lại chủ thuyết mà tôi hoài bão: "QUÂN CHỦ LẬP HIẾN". Nói đến quân chủ thì phần đông tỏ vẻ lo sợ chế độ chuyên chế. Nhưng xin đồng bào trương mắt nhìn hai nước Anh và Nhật. Với nền Quân chủ họ đã văn minh tột mức và dân chủ còn hơn các nền dân chủ cộng hoà khác nhiều lắm. (...) Vua chỉ là người đứng lên "thừa hành" bản hiến pháp mà chính nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định (...)"

Sau lời Phạm Quỳnh biện hộ cho chế độ quân chủ lập hiến, đến lời Cao Văn Sến biện hộ cho việc dùng văn minh Tây phương để tiến hành dân chủ; và nhìn nhận rằng ở Nam Kỳ đồng bào tiến bộ hơn nên thực dân không dám ăn hiếp như ở Trung và Bắc. Ông Lê Thanh Cảnh viết tiếp:

"Tôi khẩn khoản xin quý cụ là bậc tiền bối nên thảo luận ngay một kế hoạch hay hệ thống nào để làm việc cho có hiệu quả về sau.

Anh Quốc nóng nẩy bảo ngay: Thì xin Chú nói ngay ý kiến của Chú ra.

Tôi tiếp lời: Cũng như anh đã trả lời cho cụ Phan mấy hôm trước đây, tôi muốn nghe ngóng tất cả để sau này áp dụng một chủ nghiã thực tiễn, lấy Văn hóa Việt Nam làm gốc. Có thế mới hợp với tính tình dân tộc Việt Nam: Hành động gì bây giờ là thất bại ngay, mà cũng như cụ Phan Tây Hồ đã trịnh trọng cảnh cáo hai anh em chúng tôi mấy kỳ gặp gỡ trước đây, mà tôi rất bái phục: "Vô bạo động, bạo động tắc tử, vô vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu. Dư hữu nhất ngôn dĩ cáo ngộ đồng bào. Viết: Bất như "Học".

Anh Quốc quát to tiếng: "Nầy cụ Tây Hồ, nếu Cụ qua làm Toàn Quyền Đông Dương thay mặt thực dân cũng chỉ nói như thế thôi. Bó tay mà chịu lầm than sao? Không được!

Tôi sợ anh Quốc đi quá trớn, đứng lên thưa, ôn hoà: Tôi xin anh suy nghĩ thêm về lời khuyên của Cụ Tây Hồ. Nếu chúng ta khôn khéo thì "bất chiến tự nhiên thành".

Anh Quốc lại quát lớn: "Lại thêm chú này nữa kìa!"

Tôi được dịp kịch liệt bác bỏ luận điệu anh Quốc và bênh vực chủ thuyết của cụ Tây Hồ".

Lời lẽ trong cuộc tranh luận này được ông Cảnh ghi lại theo trí nhớ, có thể không đúng nguyên văn, nhưng phản ảnh được không khí buổi họp và xác định một số thông tin sau đây:

- Chủ trương trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh dựa trên sự quan sát tình hình dân trí trong Nam cao hơn Bắc và Trung. Việc này được chứng minh qua tình hình báo chí mở rộng tại Nam Kỳ và những phong trào chống Pháp rất mạnh trên báo ở trong Nam do Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, rồi nhóm Trốt kít... viết.

- Nguyễn Tất Thành phản đối Phan Châu Trinh bằng lời lẽ nặng nề, khác hẳn cung cách "chú cháu" ngày trước, nhưng lại không có phản ứng gì đối với quan điểm của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Cao Văn Sến.

- Để bảo vệ quan niệm bạo lực cách mạng, Nguyễn Tất Thành đưa ra biểu tượng Búa Rìu, của đảng cộng sản, nhưng lại giải thích bằng Hán tự và dùng ý nghiã Búa Rìu của Trần Cao Vân. Sau này Trần Huy Liệu cũng đề cao vai trò Trần Cao Vân nhưng bị Phan Khôi phản bác, Phan Khôi cho rằng Thái Phiên mới là người chủ chốt trong vụ vua Duy Tân, Trần Cao Vân chỉ là "nửa là nhà nho gàn, nửa là thầy bói kiêm thầy pháp". (Trong bài Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong cuộc biến ở Huế năm 1916, Sông Hương số 7, năm 1936).

Những sự kiện này, mới xem qua, gần như không đáng lưu ý, nhưng sự thực nó có tầm quan trọng: Việc đề cao Trần Cao Vân là để nâng cao biểu tượng Búa rìu của đảng cộng sản, gắn liền Búa Rìu với hình ảnh cách mạng của vua Duy Tân. Và có lẽ Phan Khôi đã thấy chủ đích ấy, ông thấy nó trái ngược với sự thật lịch sử nên ông phản bác lại bằng loạt bài trên báo Sông Hương năm 1936.

Hai buổi họp mặt ở Marseille và Paris năm 1922, chứng tỏ Phan Châu Trinh sửa soạn con đường về nước, ông muốn chia sẻ quan điểm đấu tranh của mình và tìm sự hợp tác của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.

Lá thư của Phan Châu Trinh và sự phản bác kịch liệt Tây Hồ của Tất Thành ở Montparnasse, chứng tỏ sự đoạn tuyệt giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành, từ 1922.

Nguyễn Tất Thành, người (ban đầu) Phan thân nhất, coi như cháu, lại cùng chung một nền giáo dục nho học như ông, có thể Phan đã hy vọng Tất Thành sẽ "nối nghiệp", nhưng Tất Thành lại theo con đường trái ngược: chủ trương bạo động cách mạng và không về nước theo kế hoạnh "Ngũ Long tề khởi" do ông đề xướng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước tìm người thừa kế. Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Tây Hồ không chọn Nguyễn An Ninh? Mặc dù, Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng nổi tiếng từ thời niên thiếu mà thành tích chống Pháp đã trở thành huyền thoại: "Thi đậu bằng Brevet Elémentaire [tương đương với Trung học phổ thông], nhà ái quốc đi làm báo tiếng Pháp, do người Pháp điều khiển. Trong thời gian làm báo, dù chỉ là một cộng sự viên tầm thường, lượm tin chó cán, nhưng Ninh đã nổi tiếng rồi, vì sự bất khuất, hay đập lộn với người Pháp, hay chưởi người Pháp. Chính trong thời gian nầy, trong nước xẩy ra nhiều chuyện bạo động, nào Phan Xích Long khởi nghiã, Trần Cao Vân rước vua Duy Tân rời kinh thành Huế, Lương Ngọc Quyến bạo động ở Thái Nguyên. Dù những phong trào ấy bị thất bại, song gieo vào lòng người dân thời đó một mầm mống sâu đậm trong cõi lòng, trong số đó có nhà ái quốc thanh niên Nguyễn An Ninh" (Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 10) (2).

Nhưng Nguyễn An Ninh Tây quá, sôi động quá. Phan Châu Trinh muốn một người nho học, điềm tĩnh, gần gụi với tư tưởng của ông hơn, và ông đã tìm thấy trong nhà nho Phan Khôi.

III. Đám tang Phan Châu Trinh - Sự xuất hiện của Phan Khôi

Phan Châu Trinh chủ trương "Ngũ Long tề khởi" từ năm 1922, nhưng đến tháng 6/1925, ông mới về được nước, và đến tháng 3/1926, ông mất.

"Cụ Phan Châu Trinh về Sàigòn một lượt với Ninh, đương ở nhà Ninh tại Quán Tre, kẻ thăm, người viếng rần rần rộ rộ" (Lê Văn Thử, Hội kín Nguyễn An Ninh, trang 25).

Nguyễn An Ninh bị bắt hôm trước (đêm 20/3/1926) thì hôm sau Phan Châu Trinh mất (24/3/1926). Phương Lan Bùi Thế Mỹ thuật lại như sau:

"Chính Đặng Văn Ký, theo sự uỷ thác của Ninh, vào tù, lo săn sóc bịnh tình cụ Phan Châu Trinh. Khi cụ Phan bịnh nặng, Ký cùng với các bạn đem dời cụ Phan lên nhà cụ Nguyễn An Cư; chú ruột của Ninh trị bịnh rồi cụ Phan mất tại đấy. Đặng Văn Ký hợp với Huỳnh Đình Điển, Phan Khôi đem cụ Phan về khách sạn Bá Huê Lầu, đường Pellerin giờ là Pasteur do Huỳnh Đình Điển là chủ nhơn khách sạn, thành lập ủy ban làm quốc táng, Phan Khôi đảm nhận viết lời hiệu triệu quốc dân. Đặng Văn Ký nhóm Jeune Annam lo liên lạc tìm đất chôn". (Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 130). Bùi Thế Mỹ viết nhầm một chi tiết: Ninh uỷ thác cụ Phan cho Đặng Văn Ký từ trước, trước khi vào tù. Vì khi Ninh vào tù thì cụ Phan mất.

"Lễ quốc táng của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh được tổ chức châu đáo vĩ đại. Quàn xác gần một tuần, tại Bá Huê Lầu của Huỳnh Đình Điển, người chen chúc vô dâng hương nhà chí sĩ không biết bao nhiêu mà đếm. Nườm nượp ra vô cả ngày lẫn đêm. Ngày đưa đám thiên hạ trùng trùng điệp điệp từ bốn phương xa gần tụ họp tới. Sấp hàng từ đầu cầu Mống, cái cầu ở tận trên đường Thống Nhất. Câu đối, tràng hoa tiễn đưa vô số kể." (Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 164).

Sự thành công trong việc tổ chức đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh là do nhiều yếu tố hợp lại, chúng tôi sẽ bàn đến trong một dịp khác. Ở đây chỉ xin nhắc đến sự đóng góp của một người, ở hậu trường, đã nổi trội, có "công" hơn: Nhiều dấu hiệu cho thấy từ khi về nước, Phan Châu Trinh đã tìm Phan Khôi để gửi gấm "đại sự".
Về việc này, Nguyễn Q. Thắng viết: "...năm 1925 khi về nước, Phan Châu Trinh đã cho vời Phan Khôi vào Sàigòn để viết một quyển sách về đời hoạt động và sách lược cứu nước của Tây Hồ. Phan Khôi đã viết xong bản thảo có tên "Phan Châu Trinh" nhưng bị phủ toàn quyền Đông Dương cấm in. Bản thảo đã thất lạc (theo "mật báo về tác phẩm Phan Châu Trinh của Phan Khôi" của sở mật thám Nam Kỳ, gởi thống đốc Nam Kỳ ký ngày 1/6/1926). Sách "Phan Châu Trinh" dày 94 trang đánh máy, do nhà in Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh xuất bản nhưng không phát hành được." (Nguyễn Q. Thắng, Phong Trào Duy Tân, những khuôn mặt tiêu biểu, trang 478).

Vậy Phan Khôi là ai? Năm 1925, Phan Khôi chưa phải là một tên tuổi nổi trội trong giới báo chí tranh đấu như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường. Nhưng Phan Khôi đã bắt đầu sự nghiệp làm báo với hai nhà báo lừng danh Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, những người mà Phan Châu Trinh tìm gặp năm 1922 ở Pháp.

Phan Khôi được Phan Châu Trinh giao cho việc viết lại lịch sử đời mình.

Từ trọng trách ấy, Phan Khôi đảm nhiệm viết lờiHiệu triệu quốc dân trong đám tang Phan Châu Trinh.
Thụy Khuê
 
(RFI)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét