Chúng tôi xin trân trọng giời thiệu với bạn đọc cuốn Chế độ dân chủ: nhà
nước và xã hội do Nhà xuất bản Hệ thống Giáo dục của Cộng hòa Liên bang
Nga xuất bản năm 1995, sau khi Liên Xô sụp đổ.
Đây là tài liệu học tập (sách giáo khoa) dùng cho các trường phổ thông,
cho cả thầy giáo, học sinh và phụ huynh. Cuốn sách đã được viết như một
thử nghiệm đầu tiên trong việc soạn sách giáo khoa về dân chủ. Tại sao
lại phải dạy về dân chủ? Theo các tác giả: Vì tự do có thể là khát vọng
bẩm sinh, nhưng thực hành dân chủ thì phải học mới biết. Tại sao bây giờ
mới được thử nghiệm dạy dân chủ ở Nga? Theo các tác giả: Vì từ xưa đến
nay (thập kỷ 90 của thế kỷ trước) người Nga chưa hiểu thật rõ ràng thế
nào là dân chủ theo cái nghĩa phổ quát của nhân loại và chưa bao giờ Nền
dân chủ được lên ngôi ở Nga.
Bạn có thể học được từ cuốn sách này những điều hết sức cơ bản: Thế nào
là dân chủ? Xã hội và các giá trị dân chủ, xã hội dân sự, các hình thức
tổ chức Chính quyền và Nhà nước, văn hóa chính trị và văn hóa quyền lực…
Cuốn sách được trình bày rất mạch lạc và dễ hiểu, kèm theo những minh
họa sinh động và hấp dẫn.
Chúng ta đang hội nhập vào thế giới hiện đâi phong phú, đa dạng nhưng
đầy bất trắc. Muốn hợp tác để phát triển và tránh được những hiểm nguy
thì phải hiểu được người ta, chấp nhận sự khác biệt với mình, thông qua
văn hóa, đặc biệt là văn hóa chính trị. Đó là lý do vì sao Nhà xuất bản
Tri Thức giới thiệu với độc giả tài liệu học tập này.
Một trong những mục tiêu của nền giáo dục tiên tiến là giáo dục cho thế
hệ trẻ ý thức công dân không những chỉ với đất nước mình mà với cả toàn
cầu. Vì vậy, chúng tôi cũng cin lưu ý bạn đọc Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền của Liên Hiệp Quốc trong phần phụ lục ở cuối cuốn sách.
Xin bạn đọc chú ý: các thuật ngữ “Xã hội chủ nghĩa”, “Cộng sản chủ
nghĩa”, “Đảng cộng sản”, “Chế độ cộng sản”… được dùng trong cuốn sách
này là chỉ một thể chế xã hội chủ nghĩa cụ thể theo mô hình Xô viết cũ
(đã sụp đổ vì chứa nhiều bất cập nội tại) và các Đảng Cộng sản Liên Xô
và Đông Âu cũ (đã tự giải thể từ những năm 90 thế kỷ trước).
NXB TRI THỨC
LỜI GIỚI THIỆU
Các bạn đang cầm trong tay cuốn sách giáo khoa với nhan đề: Chế độ dân
chủ: nhà nước và xã hội. “Thế thì sao?” – câu hỏi lập tức xuất hiện. Tại
sao cuốn sách này lại được nhiều người quan tâm? Không chỉ các học
sinh, không chỉ các bậc phụ huynh. Tại sao nó lại nằm ở tâm điểm của
nhận thức xã hội trong giai đoạn hiện nay? Câu trả lời cực kì đơn giản:
khát. Chúng ta đang nói rất nhiều về dân chủ. Nhưng dân chủ là gì? Chúng
tôi sẽ không kể đâu vì đây là một câu chuyện chứa đầy bí mật. Nói cách
khác, các bạn đang cầm trên tay cuốn sách giáo khoa, mà chức năng của nó
là giải ết một loạt nhiệm vụ không hoàn toàn bình thường trong lĩnh vực
văn hoá.
Nhiệm vụ thứ nhất – hình thành nhận thức pháp lí. Nhận thức pháp lí là
gì? Đấy… có thể là sự xuất hiện ở trẻ em nhận thức về việc bảo vệ về mặt
pháp lí trong thế giới đầy mâu thuẫn này của chúng ta. Đấy… có thể là
giúp trẻ em biết đưa ra các giải pháp đúng đắn và có trách nhiệm trong
những trường hợp không hề đơn giản về mặt luật pháp. Đấy… có thể là giúp
trẻ em tìm được chỗ dựa, trong khi tìm kiếm đường đi trong cái thế giới
tuyệt với nhưng cũng đầy khốc liệt này của chúng ta. Vì những lí do như
thế mà cuốn sách giáo về nhận thức pháp lí xuất hiện, sự xuất hiện của
nó đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nền giáo dục của chúng ta.
Nhiệm vụ thứ hai của cuốn sách giáo khoa – văn hoá pháp lí của học sinh,
giáo viên và phụ huynh. Không phải vô tình khi chúng tôi nói đến ba
ngôi: học sinh, giáo viên và phụ huynh. Vì cả ba, mà trước hết giáo viên
rồi đến phụ huynh và học sinh đều cần học dân chủ. Tất cả chúng ta đều
thiếu kiến thức về dân chủ, đồng thời hệ thống giáo dục ở nước Nga cũng
có thiếu sót trầm trọng trong lĩnh vực này.
Một cuốn sách viết một cách rõ ràng, dễ hiểu, với văn phong hài hước sẽ
giúp các cháu học sinh đồng nhất mình với các nhân vật được trình bày.
Mà nhân vật ở đây chính là Quốc hội, các nhà hoạt động nhà nước và cả
Tổng thống nữa. Các cháu học sinh, trong một loạt tình huống, những tình
huống như trò chơi theo nghĩa đen của từ này, sẽ dễ dàng cảm nhận được
thế giới dân chủ và tự mình hoà nhập vào thế giới đó. Như vậy là, trên
tay bạn không phải là cuốn sách giáo khoa với những lời lẽ khô khan,
theo luật: đọc - học thuộc - kể lại, mà là một cuốn sách giáo khoa khác
hẳn, ở đây có một luật khác: cảm nhận được - trải qua. Từ quy luật học
thuộc chuyển sang quy luật trải nghiệm. Từ nguyên tắc học thuộc lòng
sang nguyên tắc trải nghiệm các tình huống của cuộc sống, đấy là con
đường mà cuốn sách giáo khoa về dân chủ này đang mở ra trước mắt bạn.
Chúng tôi không thích tung ra những lời có cánh. Nhưng tình huống đôi
khi lại thúc đẩy chúng ta phải làm như thế, đấy là khi làm quen với
những cuốn sách mới, viết về văn hoá dân chủ của con người. Cuốn “Những
cuộc phiêu lưu của một con người nhỏ bé” do Andrey Usatrev chấp bút mới
được xuất bản gần đây đã giúp cho các bé sáu bảy tuồi, thông qua những
câu chuyện cồ tích và các trò chơi, làm quen với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền. Cuốn sách giáo khoa này là bước tiếp theo. Đằng sau những bước
đi này là một chiến lược mà hệ thống giáo dục công lập của nước Nga đang
đi theo. Từ “công lập” được nhắc tới ở đây cũng không phải là vô tình.
Vì giáo dục ngoài công lập và giáo dục gia đình cũng như cái mà trước
đây vẫn gọi là giáo dục công lập, tất cả đều là một hệ thống và đã thay
đổi một cách triệt để nhất. Cuốn sách giáo khoa này cần thiết cho cả hệ
thống giáo dục của nước Nga và nó là sự tiếp tục điều mà Andrey Usatrev,
một trong những nhà văn tuyệt vời nhất của chúng ta, đã gợi lên. Nhưng ở
đây chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ và những vấn đề khác. Những
nhiệm vụ và những vấn đề này giúp chúng ta nhận thức được giai đoạn
lịch sử mà nước Nga đang trải qua. A. M. Pantrenko, một nhà sử học nổi
tiếng, từng nói: “Các cuộc cách mạng ở các nước châu Âu gần gũi với
chúng ta, dù đấy là cách mạng Anh hay cách mạng Pháp thì cũng thế, đều
đi theo sơ đồ: ‘đảo chính - nội chiến – chuyên chính - phục hồi’ (sau
đó, giống như tiếng vọng của âm thanh, sẽ có những vụ bùng nổ xã hội mới
với sức công phá nhỏ hơn). Ở nước Nga, sự phục hồi chưa xảy ra và sẽ
không xảy ra, dù người kế vị ngai vàng, đại công tước Vladimir
Kirillovik và những người ủng hộ ông có nói gì đi nữa. Dĩ nhiên là các
tên gọi cũ đã quay trở lại, lá cờ ba màu cũng đã tung bay trên đầu người
dân Nga, Nhà thờ đã lấy lại được tinh thần, các Sa hoàng được tung hô,
kể cả những những người chẳng đáng được tung hô, nhưng đây chỉ là những
biện pháp nửa vời. Ngai vàng không phải đang để trống, ngai vàng đã bị
xoá bỏ rồi”. Tiếp tục đoạn trích dẫn trên, có thể nói: ngai vàng bị bãi
bỏ để không diễn ra giai đoạn phục hồi, để không xảy ra quá trình giật
lùi, để chúng ta không rơi trở lại nền văn hoá toàn trị. Cuốn sách giáo
khoa mà bạn đang có trong tay sẽ giúp chúng ta đi từ nền Văn hoá của cái
Có ích sang nền Văn hoá của Phẩm giá. Cuốn sách giáo khoa này sẽ giúp
đặt lên ngai vàng của nước Nga không phảl là một ông vua, không phải là
một Sa hoàng mà là nền dân chủ. Nền dân chủ mà tất cả chúng ta đều phải
học, nền dân chủ mà chúng ta hi vọng rằng con cháu chúng ta sẽ được sống
trong đó.
Trân trọng.
A. G. Asmolov, viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm giáo dục Nga, trưởng phòng
thí nghiệm tâm lí lịch sử văn hoá Viện tâm lí học trực thuộc Viện hàn
lâm giáo dục Nga.
Iu. Kh. Shamilov, Chủ tịch Viện các hệ thống giáo dục.
Thưa các bạn độc giả!
Nước Nga đang trải qua một giai đoạn quan trọng trong quá trình phát
triển của mình. Chúng ta đang mở ra một kỉ nguyên mới của lịch sử của Tổ
quốc- kỉ nguyên dân chủ. Lần đầu tiên người dân Nga có cơ hội gây ảnh
hưởng đến đời sống của đất nước và xã hội, cũng như có thể tác động đến
chính sách của chính phủ. Vì vậy, cuốn sách của chúng tôi được lấy tên
là Chế độ dân chủ: nhà nước và xã hội.
Tất cả chúng ta đều phải học qua trường học dân chủ: kể cả người vừa
bước vào đời cũng như người đã trải qua nhiều kinh nghiệm sống, vì khát
vọng tự do có thể là bẩm sinh, nhưng thực hành dân chủ thì phải học mới
biết.
Khi viết tác phẩm này, chúng tôi cố gắng sử dụng thật nhiều kinh nghiệm
quốc tế mà mình đã thu thập được. Các nguyên tắc dân chủ đã phát triển
thành công trong hàng loạt nước. Các nước như Mĩ, Anh, Pháp, Canada và
nhiều nước khác cho ta nhiều hình mẫu tốt về dân chủ, cũng như giúp ta
tránh những khiếm khuyết có thể xảy ra. Trong vài chục năm gần đây, dân
chủ đã trở thành hiện tượng toàn cầu, nó được củng cố trên khắp các châu
lục và đã giành chiến thắng trong nhiều nước Đông Âu, Á, Phi và Mĩ
Latin.
Mong rằng cuốn sách bạn đang cầm trong tay sẽ là một nấc thang trên
đường đưa bạn trở thành một con người tự do và tự chủ, giúp bạn tham gia
vào công cuộc xây dựng nước Nga dân chủ của chúng ta.
Cuốn sách này do các chuyên gia Nga và Canada chấp bút và là thử nghiệm
đầu tiên trong việc soạn sách giáo khoa về dân chủ. Có thể bạn sẽ không
tìm được câu trả lời cho tất cả những câu hỏi mà cuộc sống đang đặt ra
hôm nay, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng những lời phê bình, nhận xét,
góp ý của bạn sẽ giúp chúng tôi hoàn thiện tác phẩm trong tương lai.
Chương 1
Thế nào là dân chủ?
Dân chủ (demos - nhân dân, kratos - chính quyền) một từ có gốc từ tiếng
Hy Lạp, có nghĩa là chính quyền của nhân dân hay sự cai trị của nhân
dân. Trong hàng ngàn năm, những bộ óc ưu tú nhất của loài người đã cố
gắng tìm hiểu lịch sử phát triển của xã hội, đã tạo ra các hệ thống
triết học, đã vẽ ra hình ảnh của xã hội lí tưởng, trong đó, mỗi người có
thể cải thiện cuộc sống của mình, cũng như của đồng bào mình.
Chúng ta vẫn thường nghe nói và sử dụng từ “dân chủ”: “hình thức cai trị
dân chủ”, “người dân chủ”, “quan điểm dân chủ”... Chúng ta đã đưa vào
các khái niệm này những nội dung gì? Tại sao chúng ta lại hay sử dụng từ
này như vậy?
Ta có thể thấy ngay rằng khái niệm “dân chủ”, tuy đơn giản và thường
được sử dụng lại hàm chứa trong nó một số khó khăn cả về phương diện
triết học cũng như phương diện thực tế. Vì vậy chúng tôi đặt ra mục tiêu
cùng với các bạn tìm hiểu xem “dân chủ” là gì.
Đã có nhiều cuốn sách giải thích ý nghĩa khái niệm “dân chủ”. Các cuộc
thảo luận và tranh luận xung quanh lí thuyết dân chủ chưa bao giờ ngưng
suốt thời gian tồn tại của xã hội loài người. Ước mơ vĩnh hằng của con
người là xây dựng một xã hội công bằng, dựa trên lí tính, theo cách hiểu
của họ, đã sản sinh ra biết bao con người có lòng nhân ái vĩ đại cũng
như những tên bạo chúa khát máu, những cuộc cải cách táo bạo cũng như
các cuộc chiến tranh tàn khốc, đã sản sinh ra những lí thuyết làm mê
hoặc trí tưởng tượng của hàng triệu người và các chế độ toàn trị. Loài
người đã nghĩ ra hàng chục luận cứ ủng hộ và cũng bằng ấy luận cứ chống
lại thiết chế dân chủ. Những người chống đối việc tham gia của đông đảo
quần chúng nhân dân vào các lĩnh vực quản lí thường nói như sau: “Chả lẽ
mọi người ngồi trong ô tô đều tham gia lái ư: người thì cầm vô lăng, kẻ
lên ga, kẻ nhấn phanh, kẻ bóp còi hay sao... giao cho một người có hiểu
biết cầm lái, còn những người khác đóng vai hành khách lại chẳng tốt
hơn hay sao?”
Những kẻ độc tài cũng như nhiều lãnh tụ đã giữ chặt tay lái để đưa hành
khách đến cuộc đời “mới, tốt đẹp hơn”. Những người không đồng ý và những
người nghi ngờ vào sự đúng đắn của con đường thường bị vất ra khỏi xe
để làm bài học cho những kẻ khác.
1. Quan niệm của chúng ta về dân chủ
Dân chủ là gì? Trong rất nhiều định nghĩa, ta sẽ lấy định nghĩa nào làm cơ sở?
Xin bạn hãy suy nghĩ thêm về các định nghĩa và ý kiến trái ngược nhau về
vấn đề dân chủ, hãy tôn trọng các tác giả của chúng và cố gắng lí giải
xem vì sao nhà kinh tế học, triết gia và nhà hoạt động xã hội người Anh,
J. S. Mill, lại quan ngại một nền tự do vô giới hạn khi cho rằng đấy là
“nền độc tài của số đông”, còn Democritus, một triết gia Hi Lạp cổ đại,
thì lại cho rằng thà sống “nghèo trong một nước dân chủ còn hơn cái gọi
là cuộc đời hạnh phúc trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nô lệ”.
Các nhà chính trị học ngày nay thường định nghĩa dân chủ là hình thức tổ
chức chính trị của xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân như là nguồn
gốc của quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân trong việc tham gia giải
quyết những vấn đề của quốc gia và trao cho các công dân một loạt quyền
và quyền tự do thực sự. N. V. Gogol, trong Những linh hồn chết, đã viết
về đặc điểm của người Nga như sau: “Nói chung, chúng ta chưa sẵn sàng
cho các cuộc hội nghị mang tính đại diện. Tất cả các cuộc họp của chúng
ta, từ những cuộc gặp gỡ trong làng cho đến các cuộc hội nghị khoa học
đủ mọi loại, nếu không có một người đủ sức kiểm soát mọi việc đứng đầu,
thường rất lộn xộn”. Cựu tổng thống Mĩ, R. Reagan, thì cho rằng dân chủ
không chỉ là biện pháp cai trị mà còn là biện pháp giới hạn quyền lực
của chính phủ, để nó không ngăn cản sự phát triển những giá trị quan
trọng nhất mà con người nhận được từ gia đình và nhà trường.
Abraham Lincoln (luật sư, nhà hoạt động chính trị, năm 1860 được bầu làm
Tổng thống Hoa Kì) thì cho rằng dân chủ là chính quyền của dân, do dân
và vì dân. Bạn có thể sử dụng các cuốn từ điển và bách khoa toàn thư để
tìm một định nghĩa khác, phù hợp với mình hơn...
Bạn sẽ ngạc nhiên là tại sao lại có nhiều định nghĩa, nhiều khi trái
ngược nhau đến thế. Xin cứ bình tĩnh, bởi vì theo lời của triết gia
người Anh, ông Karl Popper, thì chúng ta chọn dân chủ không phải vì nó
có nhiều đức tính tốt mà chỉ là để tránh chế độ độc tài mà thôi.
Nhà sử học, nhà văn, nhà hoạt động xã hội người Pháp, ông Alexis de
Tocqueville, ngay từ năm 1835, đã nhận thấy rằng những khuyết điểm và
yếu kém của nền dân chủ rất dễ bị phát hiện và chứng minh được bằng các
sự kiện rõ ràng (khó ra quyết định, thảo luận kéo dài...), trong khi các
ưu điểm của nó lại khó nhận thấy hơn. Khuyết điểm thì lộ rõ ngay, còn
ưu điểm thì phải sau một thời gian mới thấy được...
Tại sao dân chủ lại có sức lôi cuốn như thế? Trước khi trả lời câu hỏi
này, xin hãy cùng suy nghĩ: chả lẽ tất cả mọi người đều muốn cai trị,
đều muốn nắm quyền ư? Dĩ nhiên là không. Nhưng ý tưởng cho rằng phải tự
mình quyết định điều gì là tốt, điều gì là xấu và chính sách là cái có
ảnh hưởng tới tất cả mọi người phải được soạn thảo trên cơ sở đồng thuận
là một tư tưởng có sức hấp dẫn cực kì mạnh mẽ. Như vậy, điều quan trọng
đối với mỗi người chúng ta không phải là bản thân sự tham gia, mà là
quyền được tham gia vào đời sống của đất nước, của tập thể, của gia
đình, v.v...
Nói một cách khác, đặc điểm quan trọng nhất, bản chất của dân chủ là
quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân con người. “…công nhận phẩm
giá vốn có của mọi thành viên gia đình nhân loại, công nhận các quyền
bình đẳng và bất khả phân của họ là cơ sở của tự do, công bằng và hoà
bình trên toàn thế giới...”, lời nói đầu của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền viết như thế .
Như vậy là, dân chủ đòi hỏi quyền bình đẳng của tất cả các công dân,
không phụ thuộc vào màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, thành phần
xuất thân, tài sản, đẳng cấp, niềm tin, v.v... Nhưng phải hiểu bình đẳng
theo nghĩa rộng: bình đẳng về cơ hội, bình đẳng trước pháp luật và bình
đẳng trong việc chọn người đại diện. Nhưng điều đó không có nghĩa là
mọi người phải sống như nhau, phải đọc cùng một loại sách, phải có thu
nhập như nhau.
Nói đến dân chủ, trước hết, chúng ta hiểu rằng đấy là quyền của con
người trong việc tham gia quản lí nhà nước thông qua các cơ chế khác
nhau, quyền làm một thành viên bình đẳng trong một tập thể nào đó, quyền
có điều kiện thể hiện quan điểm của mình và được lắng nghe.
Điều đó có nghĩa là chúng ta lựa chọn dân chủ trên cơ sở niềm tin vào sự
bình đẳng của mọi công dân. Một mặt, đấy là niềm tin vào quyền tự do
của mỗi người và mặt khác tin rằng tự do của người này không được trở
thành cản trở đối với tự do của những người khác. Karl Popper minh hoạ
điều đó trong thí dụ sau. Toà án xét xử vụ một tên lưu manh đánh người
hàng xóm. “Tôi là công dân tự do”, tên lưu manh tự bào chữa, “tôi có
quyền vung nắm đấm về mọi hướng chứ”. Quan toà đã khéo léo đáp: “Chuyển
động của nắm đấm của anh bị giới hạn bởi mũi của người hàng xóm”. Nói
cách khác, bạn được tự do hành động khi mà hành động đó không gây phương
hại cho người khác, những người cũng có những quyền tự do như bạn.
Quyền bình đẳng tham gia vào việc bầu chọn các nhà lãnh đạo, cũng dựa
trên cơ sở như thế. Trong chế độ dân chủ, mỗi người đều có một lá phiếu
và các lá phiếu có giá trị ngang nhau. Trên thực tế, lí tưởng về tự do
và bình đẳng dĩ nhiên cũng có một số khiếm khuyết. Không cần phải tiến
hành những cuộc nghiên cứu phức tạp cũng thấy rằng ngay tại những nước
có nền dân chủ phát triển, không phải tất cả các công dân đều bình đẳng
trong việc sử dụng quyền tự do của mình. Thí dụ, cựu tổng thống Mĩ, Bill
Clinton, đã định bãi bỏ điều luật, theo đó, để được tham gia bầu cử,
người ta phải trải qua kiểm tra xem đã thoát nạn mù chữ hay chưa.
Cần phải hiểu rằng dân chủ không phải bắt đầu khi nhân dân được công
nhận là nguồn gốc của quyền lực trên lời nói, mà phải là khi xây dựng
được một hệ thống đảm bảo công dân được thực sự tham gia và kiểm soát
được quyền lực. Dân chủ sẽ thắng lợi hoàn toàn khi tất cả các công dân
thực sự tham gia và hoàn toàn bình đẳng trong việc giải quyết các công
việc của quốc gia. Nhưng đây là mô hình lí tưởng. Trên thực tế, còn
nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp mà xã hội hiện chưa giải quyết được.
Đến giữa thế kỉ XX đã hình thành ba quan điểm chính về vấn đề dân chủ như sau:
1. Từ quan điểm nguồn gốc của quyền lực (dân chủ là chính quyền của dân)
2. Từ quan điểm mục đích (dân chủ là chính quyền hành động nhân danh và vì lợi ích của nhân dân)
3. Và cuối cùng, từ quan điểm các thủ tục thành lập chính phủ.
Quan điểm thứ ba là quan điểm được nhiều người chia sẻ nhất hiện nay.
Trên thực tế, điều đó có nghĩa là các cuộc bầu cử được coi là có vai trò
quan trọng nhất, vì chính tại các cuộc bầu cử mà hai đặc trưng chủ yếu
của dân chủ là, thứ nhất, các chính khách sẽ cạnh tranh với nhau để
giành cho được càng nhiều phiếu càng tốt và thứ hai, trong thời gian bầu
cử, nhân dân có thể gây ảnh hưởng đến chính sách trong tương lai bằng
cách ủng hộ ứng cử viên đáp ứng được các quyền lợi cơ bản của họ.
Như vậy, dân chủ có tính hấp dẫn trước hết là vì nó đáp ứng được nhu cầu
tự thể hiện của con người, nó là động lực cho sáng kiến và tự do sáng
tạo.
Quyền con người trong xã hội dân chủ phải được đảm bảo. Thí dụ, Hiến
pháp nước Mĩ, mười tu chính đầu tiên, gọi là Bill of Rights, đảm bảo cho
công dân các quyền như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín
ngưỡng, v.v... Tất cả các khái niệm về quyền công dân trong đó được xây
dựng trên cơ sở giả thiết rằng nhà nước và chính phủ tồn tại là để phục
vụ nhân dân. Con người có quyền là vì anh ta là người chứ không phải vì
nguồn gốc xuất thân, dân tộc, giới tính, v..v... Mọi công dân đều có một
số quyền xác định, bất khả phân, mà không một chính phủ nào có quyền
tước đoạt hay hạn chế.
Nhưng công dân trong một xã hội dân chủ không chỉ cố gắng thỏa mãn các
quyền và lợi ích của mình, mà còn chịu trách nhiệm với cuộc sống của
mình và ở một mức độ nào đó trách nhiêm với đời sống của những người
khác nữa. Dựa vào nhân dân mà cai trị nhân dân có nghĩa là công dân của
xã hội dân chủ không chỉ sử dụng các phúc lợi của xã hội mà còn chịu
trách nhiệm với xã hội mà anh ta đang sống, nghĩa là anh ta chia sẻ các
khó khăn của xã hội (bằng những hình thức sẽ được xem xét trong những
chương sau).
Theo nghĩa này, mỗi người đều là thiêng liêng và đều cần được bảo vệ.
Immanual Kant, cha đẻ của nền triết học cổ điển Đức, từng nhấn mạnh:
“Con người, cá nhân luôn luôn và trong tất cả mọi việc đều là mục đích,
không bao giờ là phương tiện. Kể cả phương tiện để đạt mục đích”. Ngay
cả nếu đấy là mục đích cao cả và vĩ đại.
Nhưng trong lịch sử loài người, ta lại thường thấy những lời tuyên bố về
quyền và tự do công dân vang lên như những lời kêu gọi, những khẩu hiệu
và không được tôn trọng trong thực tế cuộc sống.
Tự do và bình đẳng sẽ trở thành những lời nói rỗng tuyếch nếu con người
không được bảo vệ về mặt pháp lí và xã hội. Thí dụ điển hình trong
trường hợp này là nước Nga sau Cách mạng năm 1917. Quyền con người ở
nước Nga được ghi trong hiến pháp các năm 1936 và 1977, nhưng trên thực
tế, chế độ toàn trị đã được thành lập với các đặc trưng cơ bản sau đây:
1. Nhà nước hoá đảng cầm quyền. Đảng cộng sản độc chiếm quyền lực, tiếm
đoạt các chức năng của nhà nước, kiểm soát toàn bộ đời sống của xã hội
nói chung và cá nhân nói riêng. Trong những năm 1917-1918, sự kháng cự
của các tổ chức đối lập với những người cộng sản như Menshevik, dân
chủ-xã hội và các đảng phái khác bị đập tan. Tháng Giêng năm 1918 người
ta đã trắng trợn giải tán Quốc hội.
Một cơ chế mà trong đó nhân dân bị đẩy khỏi ra quyền lực đã được hình
thành, các thể chế dân chủ chỉ còn đóng vai trò “bình phong” che đậy cho
chế độ toàn trị. Ngay từ năm 1921, A. A. Sols, Chủ tịch Ủy ban kiểm tra
trung ương của Đảng cộng sản Nga (Bolshevik), đã nhấn mạnh rằng: “Nắm
quyền lực lâu trong thời đại chuyên chính vô sản đã tạo ra hiện tượng
tha hoá... Đấy là nguyên nhân của tệ quan liêu, nguyên nhân của thói
kiêu ngạo đối với những đảng viên thường và quần chúng ngoài đảng, đấy
là nguyên nhân của thói lạm dụng quyền lực nhằm mục đích tranh giành
quyền lợi vật chất cho bản thân mình. Đã hình thành đẳng cấp cộng sản”.
2. Thiết lập bộ máy đàn áp. Các biện pháp đàn áp khác nhau như Ủy ban
khẩn cấp toàn Nga, Bộ nội vụ, toà án quân sự, trại tập trung được sử
dụng. Các trại lao động và các cuộc huy động bắt buộc cũng được sử dụng
như là các biện pháp nhằm nắm giữ và củng cố quyền lực.
3. Khống chế toàn diện thông tin, tiến hành thường xuyên công việc tuyên
truyền. Một trong các nghị định đầu tiên của chính quyền Bolshevik là
nghị định đóng cửa phần lớn các tờ báo đối lập và thành lập chế độ kiểm
duyệt. Sau này đã hình thành độc quyền của nhà nước trong việc xuất bản
sách báo.
Trong xã hội dần dần hình thành khuôn mẫu, trong đó con người bị chia
thành địch ta rõ ràng. Xin hãy đọc đoạn trích từ tác phẩm Lí thuyết của
nền văn hoá vô sản của N. I. Bukharin , một trong các lãnh tụ của phong
trào cộng sản: “Giai cấp vô sản cầm quyền... có các kẻ thù sau: 1. tầng
lớp ăn bám (bọn địa chủ cũ, bọn tư sản-doanh nhân tham gia vào quá trình
sản xuất); tư sản thương nghiệp, bọn đầu cơ, ngân hàng, thị trường
chứng khoán; 2. giới quí tộc hành chính xuất thân từ các tầng lớp nói
trên (các quan chức thư lại, tướng lĩnh, tăng lữ); 3. các doanh nhân tư
bản, giám đốc các tổ hợp (trùm thế giới công nghiệp, các kĩ sư có liên
hệ với giới tư bản, các nhà phát minh, v.v...); 4. tầng lớp thư lại có
tay nghề cả trong lĩnh vực hành chính, quân sự và nhà thờ; 5. giới trí
thức trong lĩnh vực kĩ thuật và trí thức nói chung (kĩ sư, kĩ thuật
viên, bác sĩ, giáo sư, luật sư, phóng viên, đa số giáo chức); 6. tầng
lớp sĩ quan; 7. phú nông; 8. tư sản bậc trung và tiểu tư sản thành thị;
9. giới tu hành...”. Như vậy là trừ, bần cố nông, còn tất cả các tầng
lớp dân cư khác đều bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản. Về thực chất,
đây chính là “chương trình” hủy diệt cuộc sống, hủy diệt chính nhân dân
Nga... Cái chính sách được tiến hành ở nước Nga trong suốt hơn 70 năm ấy
lại được che đậy bằng những khẩu hiệu về sự thống nhất giữa đảng với
dân.
Hạt nhân lãnh đạo của mọi phong trào toàn trị là đảng tòan trị với hệ
thống cấp bậc, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung
ương một cách nghiêm ngặt.
Cơ sở của các quan điểm tòan trị là tư tưởng cải tạo xã hội bằng bạo
lực. Nói riêng về chủ nghĩa tòan trị xã hội chủ nghĩa thì đại diện của
tất cả các trường phái xã hội chủ nghĩa đều lựa chọn chủ nghĩa xã hội
cách mạng và nhà nước.
Đặc điểm cơ bản nhất của tất cả các hệ tư tưởng toàn trị là đàn áp tự
do. Chủ nghĩa cá nhân tự do đặt cơ sở trên sự tôn trọng cá nhân con
người, trên cơ sở trách nhiệm cá nhân, bị chế độ toàn trị đem đối lập
với chế độ tập thể của đám đông (quần chúng), phi cá tính hoá, trách
nhiệm tập thể (tội lỗi tập thể), quyền lợi giai cấp (chủ nghĩa
Bolshevik), quyền lợi của tập đoàn (chủ nghĩa phát xít) hay quyền lợi
dân tộc (chủ nghĩa xã hội quốc gia).
Trong chế độ toàn trị, kinh nghiệm cá nhân bị phủ nhận, quá khứ lịch sử
bị xuyên tạc, các hình thức tổ chức đời sống và đạo đức cổ truyền bị phủ
nhận. Chức năng cơ bản của hệ tư tưởng toàn trị là tìm mọi cách lôi kéo
quần chúng vào cuộc đấu tranh với cái cũ và thuyết phục họ về tính đúng
đắn của các quan hệ mới, bào chữa cho chính sách toàn trị.
Quốc doanh hoá (nhà nước hoá) tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã
diễn ra một cách từ từ và khi nhà nước đã đặt được sự kiểm soát đối với
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì ta có thể nói chế độ toàn
trị ở quốc gia đó đã “chín muồi”.
Như vậy nghĩa là, lịch sử các chế độ toàn trị chứng tỏ rằng tuyên bố về
các quyền và tự do cá nhân, thậm chí ghi điều đó vào hiến pháp cũng chưa
đủ. Cần phải thiết lập được xã hội công dân và nhà nước pháp quyền là
những thể chế thực thi chức năng kiểm soát đối với chính quyền, ngăn
chặn, không để cho nó biến thành chế độ toàn trị. Đối với những nước
khác nhau, hình thức của xã hội công dân và nhà nước pháp quyền có thể
khác nhau rất xa (chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này trong những chương
sau).
2. Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là gì? Theo chúng tôi, nhà nước pháp quyền là quy
phạm pháp luật nhằm thực thi chủ quyền của nhân dân trong khuôn khổ tổ
chức nhà nước. Nghĩa là tất cả quyền lực đều nằm trong tay nhà nước.
Nhưng quyền lực đó được đặt trên cơ sở và thực thi theo những quy phạm
pháp lí đã được ghi thành luật và được nhân dân thừa nhận.
Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là gì? Nó có thể tồn tại trong những điều kiện như thế nào?
Trước hết, đấy là tinh thần thượng tôn pháp luật. Nhà nước, tất cả các
cơ quan nhà nước, tất cả các tập thể và từng cá nhân, không phụ thuộc
vào thành phần xuất thân và địa vị mà người đó nắm giữ, đều phải tuân
thủ pháp luật. Quyền được pháp luật bảo vệ như nhau là cơ sở của mọi xã
hội công bằng và dân chủ. Chuyên gia người Mĩ về quyền hiến định, John
Frank, nhấn mạnh rằng, nhà nước phải đối xử công bằng đối với mọi công
dân. Trong quan hệ pháp luật thì ngay cả những người đứng đầu nhà nước
cũng bình đẳng như một bà nội trợ mà thôi, người đứng đầu nhà nước sẽ
phải từ chức nếu vi phạm pháp luật.
Đáng tiếc là, trong lịch sử Liên Xô, đã có quá nhiều trường hợp quan chức lợi dụng pháp luật cho những mục đích cá nhân.
Thứ hai, có hệ thống kiểm tra và giám sát hữu hiệu việc tuân thủ pháp
luật. Các tòa án và trọng tài độc lập..v..v... phải tiến hành kiểm tra
việc thực thi pháp luật. Do lịch sử và truyền thống, cũng như đặc trưng
dân tộc mà việc thành lập cũng như hoạt động của các cơ quan này ở những
nước khác nhau được tiến hành theo những cách khác nhau. Ngoài ra, dư
luận xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn.
Trong các nhà nước dân chủ, công dân thường tuân thủ pháp luật vì họ
nhận thức được rằng chính họ, dù gián tiếp, đã tham gia vào quá trình
lập pháp. Nhưng tự thân nguyên tắc pháp trị chưa phải là bảo đảm của dân
chủ. Pháp trị có thể trở thành cái đối lập với chính nó, nghĩa là thành
tình trạng vô luật pháp. Pháp trị chỉ thực sự tồn tại khi nó được thi
hành trên thực tế, nghĩa là hữu hiệu.
Và cuối cùng, tuy nhiều người cho đây không phải là điều kiện bắt buộc,
là tam quyền phân lập, là tách chính quyền thành ba nhánh: lập pháp,
hành pháp và tư pháp (ta sẽ xem xét phần này trong chương IV)
Như vậy, dân chủ là tập hợp các tư tưởng và nguyên tắc đảm bảo cho quyền
tự do, nó cũng bao gồm một tập hợp các tiêu chuẩn và thủ tục thực tế
được hình thành trong suốt thời gian tồn tại của nó. Như thế nghĩa là,
dân chủ là quyền tự do đã giành được quy chế pháp lí và các nguyên tắc
dân chủ có thể được sử dụng:
1. Trong hệ thống các quan hệ nhà nước;
2. Trong việc thành lập và hoạt động của các tổ chức khác nhau (từ gia
đình, trường học cho đến các phong trào và đảng phái chính trị).
3. Dân chủ có thể được coi là các giá trị xã hội và chính trị dưới hình thức các quyền con người.
Dĩ nhiên là, có thể tranh luận lĩnh vực nào trong ba lĩnh vực nói trên
đóng vai trò quyết định. Điều đó phụ thuộc vào một loạt tác nhân, có
biểu hiện khác nhau trong những nước khác nhau, phụ thuộc vào lịch sử,
truyền thống, giá trị văn hoá, thế giới quan của con người. Nhưng khi và
chỉ khi các nguyên tắc dân chủ trở thành chủ đạo trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trở thành thành tố quan trọng nhất của các giá
trị văn hoá thì mới có thể nói rằng dân chủ đã chiến thắng.
Khó khăn là ở chỗ, không chỉ cách tiếp cận dân chủ mà cách tiếp cận độc
tài hoặc sự kết hợp cả hai cách tiếp cận đó có thể được sử dụng trong
mỗi lĩnh vực trên. Điều này tồn tại trong mỗi người chúng ta. Đôi khi có
thể đạt được kết quả nhanh chóng và thấy được bằng con đường độc tài.
Cho nên chúng ta thường thấy các nhà “dân chủ” tại công sở nhưng “độc
tài” trong gia đình và ngược lại. Ngay mỗi chúng ta cũng đôi khi cũng
nghĩ rằng, bắt một người nào đó làm một việc gì đó thì nhanh hơn là
giảng giải, thuyết phục anh ta cần phải làm như thế.
Bây giờ ta sẽ cùng xem xét tại sao ở một số nước nguyên tắc dân chủ
giành được thế thượng phong, trong khi một số nước khác người ta lại
thích hành xử theo lối độc tài.
Quá trình phát triển của xã hội là một quá trình phức tạp và có nhiều
biến động. Nhưng, mặc dù đa dạng như thế, mặc dù có những đan xen phức
tạp như thế giữa dân chủ và độc tài, trong các thể chế nhà nước vẫn có
những xu hướng chung mà chúng ta sẽ phân tích dưới đây. Trong thực tiễn
khoa học thế giới đã có rất nhiều lí thuyết (phương pháp luận) được đem
ra sử dụng để nghiên cứu xã hội loài người.
Ở nước ta, đến tận thời gian gần đây quan điểm giai cấp trong việc phân
tích các tiến trình lịch sử vẫn thường được đem ra áp dụng. Sự phát
triển của xã hội được giải thích như là sự thay thế một hình thái kinh
tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác và đấy là kết quả
của những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế. Cuộc đấu tranh của các giai
cấp đối kháng được coi là động cơ của tiến bộ xã hội. Người ta thường
nhấn mạnh rằng các quy luật kinh tế tạo ra bộ máy nhà nước, luật pháp,
giá trị đạo đức; gọi chung là thượng tầng kiến trúc với những hình thức,
cơ cấu và phương thức hoạt động khác nhau. Sự phát triển của xã hội
được coi là quá trình chuyển tiếp từ công xã nguyên thủy sang chiếm nô,
phong kiến, tư bản rồi xã hội chủ nghĩa. Tương tự như vậy, dân chủ cũng
chia ra thành dân chủ thời tiền quốc gia, dân chủ của giai cấp chủ nô,
dân chủ của giai cấp phong kiến, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Các bạn hẳn biết rõ những quan điểm đó, các bạn đã sử dụng nó khi
thảo luận về Roma cổ đại, hoặc khi thảo luận về nền Đệ tứ cộng hoà Pháp
hay khi nói về sự phát triển của nước Nga chúng ta. Nhưng có một câu
hỏi: Tại sao trong cùng một thời gian, cùng một giai đoạn phong kiến mà ở
Anh diễn ra quá trình mở rộng dân chủ, bên cạnh Viện quí tộc có Viện
thứ dân, mà ở Nga lại diễn ra quá trình ngược lại, những nguồn gốc cuối
cùng của quyền lực của nhân dân bị hủy bỏ, một bộ máy nhà nước hoàn toàn
lệ thuộc và chỉ lệ thuộc vào nhà vua được thiết lập?
Có thể đặt ra nhiều câu hỏi, dẫn ra nhiều thí dụ, mà nếu chỉ sử dụng
quan điểm hình thái kinh tế hay quan điểm giai cấp sẽ không thể tìm ra
câu trả lời. Phải làm sao đây?
Có thể là, trong khi phân tích sự phát triển của một khu vực hay một xã
hội, chúng ta phải tính đến những hình thức khác của đời sống xã hội của
con người chứ không chỉ sự phát triển kinh tế. Đấy là: tôn giáo, chính
trị, văn hoá và nghệ thuật, sự tương tác với tự nhiên, các truyền thống
tâm linh..v.v...
Nhờ thế, chúng ta có nhiều lựa chọn hơn: thứ nhất, ta có thể nghiên cứu
sâu hơn các đặc điểm trong quá trình phát triển của một dân tộc hay một
nhà nước nào đó; thứ hai, có thể tìm ra những điểm chung, khái quát hoá
và xác định những xu hướng chung trong những giai đoạn phát triển khác
nhau.
Theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay, vấn đề dân chủ là vấn đề mang
tính toàn cầu. Vì vậy cần phải tiếp cận vấn đề trên bình diện toàn cầu.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, các chế độ toàn trị
đôi khi tự đối lập mình với cộng đồng thế giới, đã trở thành vấn đề vượt
ra khỏi các biên giới quốc gia. Trên thực tế, nếu một kẻ độc tài khát
máu đứng đầu một bộ lạc được trang bị cung tên tẩm thuốc độc, trong
trường hợp xấu nhất cũng chỉ có thể tiêu diệt được các bộ lạc lân cận mà
thôi. Nhưng nếu chế độ toàn trị có vũ khí nhiệt hạch và sẵn sàng đốt
cháy nửa hành tinh nhân danh “tương lai tươi sáng” thì sao?
Cũng cần nhớ rằng, ngày càng có nhiều người nhận thức được ưu thế của
các giá trị toàn nhân loại, chính vì vậy, ta mới nói đến quyền con
người, quyền trẻ em, dù người đó đang sống ở bất kì đâu.
Con người của những nền văn hoá khác nhau, các dân tộc khác nhau, các
tôn giáo khác nhau, có thể đạt được sự hoà hợp trong đa dạng của các
hình thức biểu hiện của đời sống hay không? Chính điều đó sẽ quyết định
tương lai của nền văn minh nhân loại và cuộc sống tốt đẹp hơn của mỗi
chúng ta.
3. Lịch sử của nền dân chủ
Chúng ta hãy cùng làm một cuộc du ngọan ngắn ngủi vào những thời kì lịch
sử xa xôi để xem nền dân chủ đã xuất hiện và tồn tại dưới những dạng
thức như thế nào.
Lần đầu tiên, dân chủ như một hình thức cai trị xuất hiện trong các
thành bang (polis) Hi Lạp cổ đại. Đấy là các thành phố không lớn và chỉ
đàn ông mới được coi là công dân tự do. Yếu tố quan trọng nhất trong chế
độ gọi là “dân chủ trực tiếp” là tất cả các công dân đều có thể tham
gia giải quyết những vấn đề quan trọng của thành phố và đưa những giải
pháp (luật) đó vào cuộc sống. Các công dân tự do thường tụ tập trên
quảng trường để thảo luận và thông qua quyết định về một vấn đề nào đó.
Dân chủ trực tiếp từng tồn tại ở các nước khác nữa, thí dụ như ở nước
Nga xưa. Tại Nga, chính quyền nhân dân ra đời trước khi nền cai trị của
các công quốc được thiết lập. Biên niên sử cho chúng ta biết rằng trước
khi chính quyền công quốc được thiết lập, các cuộc hội nghị nhân dân “đã
là truyền thống lâu đời trong các đô thị, chứng tỏ nhân dân đã tham gia
vào quản lí và có thể tạo cho họ lòng dũng cảm mà trong các quốc gia
độc tài không có”. Nghĩa là người Slav, tuy phục tùng các công vương,
nhưng vẫn giữ được một số quyền tự do và thường tham gia vào các hội
nghị khi có các công việc quan trọng hay khi quốc gia lâm nguy.
Cũng phải công nhận rằng, nói chung, ở Nga, các cuộc hội nghị không được
tổ chức định kì mà khi cần thì có thể họp một tuần mấy lần, mà cũng có
khi cả năm không họp lần nào. Người ta thường tổ chức họp trong các
trường hợp khẩn cấp: thất bại quân sự, kẻ thù xâm lược hoặc khi nhân dân
bất mãn với chính quyền. Các vấn đề khác thường được công vương cùng
với các đại diện là “các quân nhân, quan lại, thân binh cũng như các
trưởng lão, những người nhờ tuổi tác, trí tuệ và lòng trung thực, xứng
đáng là đại diện trong các công việc chung”.
Novgorod và Pskov có thể được coi là những thành phố điển hình của cách
thức cai trị thông qua các hội nghị nhân dân như thế. Các hội nghị trong
những thành phố này thực hiện chức năng lập pháp, bao gồm công nhận các
công vương; thực hiện cả các công việc quản lí hành chính, bầu những
người đại diện cho công vương ở các địa phương, bầu các tổng giám mục
địa phận, cử các chỉ huy quân đội, duyệt các phương án xây dựng thành
phố; thực hiện các chức năng của tòa án, xem xét các kiến nghị…
Cùng với thời gian, dân chủ trực tiếp ngày càng ít được sử dụng. Thay
vào đó là chế độ dân chủ đại diện, đấy là nói tại những nước tránh được
chế độ độc tài.
Dân chủ đại diện – hình thức cai trị, trong đó, công dân lựa chọn các
nhà chức trách để quyết định các chính sách, ban hành luật pháp và đưa
các chính sách đó vào đời sống. Nghĩa là chúng ta giao cho các công dân
được chúng ta bầu lên một số quyền hạn và trách nhiệm thông qua các
quyết định.
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường gặp cả hình thức dân chủ trực
tiếp lẫn dân chủ đại diện. Thí dụ, lớp các bạn cùng làm ra được một số
tiền. Các bạn bàn xem nên mua gì: đa số ủng hộ mua bóng và lưới để chơi
bóng chuyền (Các bạn đã sử dụng nguyên tắc dân chủ trực tiếp). Sau đó
các bạn sẽ giao cho một người đại diện đi ra cửa hàng chọn, trả tiền và
mang hiện vật về nhà. Đấy là các bạn đã giao quyền cho người đó. Có thể
nói, trong trường hợp này các bạn đã sử dụng hình thức dân chủ đại diện.
Để có thể ra quyết định, chính phủ phải dựa vào một số quy tắc nhất
định. Nói cách khác, cần phải có hiến pháp, bộ luật chủ yếu của nhà
nước, xác định thể chế, cơ cấu của chính quyền và các quy tắc về việc ra
quyết định.
Đa số các quốc gia hiện nay có hiến pháp; tại những nơi chưa có hiến
pháp, việc quản lí xã hội được thực hiện dựa trên tập quán, truyền thống
hay các quy định tôn giáo. Về nguyên tắc, hiến pháp có hiệu lực trong
một thời gian dài và ít khi thay đổi, trừ trường hợp có chiến tranh hoặc
có sự thay đổi đột ngột trong đường lối chính trị của đất nước. Thí dụ
Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Đức, Ý và Nhật được thông qua sau thất
bại của các nước này trong Chiến tranh Thế giới II. Hiến pháp của Mĩ đã
có hiệu lực hơn 200 năm qua. Hiến pháp của Nga được thông qua vào năm
1993.
Anh là trường hợp đặc biệt, nước này không có văn kiện dưới hình thức
hiến pháp, việc quản lí ở đây được thực hiện trên cơ sở các truyền thống
xa xưa và các đạo luật riêng rẽ, mà về tổng thể, có hiệu lực không khác
gì một văn kiện chính thức.
Hình thức chuyển giao quyền lực cũng là một đặc điểm quan trọng của chế
độ dân chủ. Dưới chính thể quân chủ, quyền lực thường được chuyển giao
theo kiểu cha truyền con nối hoặc là do kết quả của một cuộc đảo chính
cung đình. Tại các nước Mĩ Latin hiện nay, các cuộc đảo chính quân sự là
hình thức chuyển giao quyền lực phổ biến. Trong xã hội dân chủ, nhờ các
cuộc bầu cử mà quyền lực được chuyển giao một cách hòa bình.
Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về thể chế nhà nước. Thay thế cho các nước
cộng hòa Hi Lạp cổ đại là các các nước cộng hòa quí tộc hay tập đoàn
thống trị.
Tầng lớp quí tộc là gì? Tầng lớp quí tộc thường được hiểu là tầng lớp
quí phái đặc quyền đặc lợi. Tương tự như quí tộc, tập đoàn thống trị là
chính quyền của thiểu số không có liên hệ với nhau bằng huyết thống, họ
thường sử dụng quyền lực cho những mục đích ích kỉ của mình và tước đoạt
quyền lực của quần chúng.
Khác với các nước dân chủ cộng hòa, tầng lớp quí tộc thời cổ đại chỉ đưa
đại diện của giai cấp mình vào các cơ quan cai trị mà thôi. Chính trong
giai đoạn này đã hình thành chế độ nhà nước và pháp luật, thay thế cho
tập quán, điều tiết mọi khía cạnh của đời sống.
Như vậy là, nhà nước đã thay thế cho tổ chức bộ lạc huyết thống, pháp
luật thay thế cho tập quán. Nhà nước đã xuất hiện một cách tự nhiên, từ
trong lòng của xã hội và phát triển, cùng với quá trình tiến hóa của xã
hội, ngày càng có thêm nhiều đặc điểm mới. Pháp luật, một phần không thể
tách rời của nhà nước, cũng có xu hướng tương tự, cũng thay đổi cùng
với sự thay đổi của các tiến trình kinh tế, chính trị và văn hóa của xã
hội.
Quá trình hình thành các quốc gia trên thế giới dường như diễn ra theo
hai kịch bản sau đây. Một mặt, các điều kiện tự nhiên tương tự nhau ở
phương Đông đã đưa tới sự hình thành các quốc gia trên lưu vực của các
con sông lớn, như sông Nile, Lưỡng Hà, sông Hằng, Hoàng Hà, v.v... Châu
thổ phì nhiêu của các con sông này chỉ có thể được khai thác nhờ các cố
gắng chung của cả cộng động, vì từng làng xã riêng biệt không thể đủ sức
xây dựng hệ thống đê điều, tưới tiêu, đập nước..v..v... Hình thức sở
hữu nhà nước và sở hữu công xã đã dần dần hình thành từ đấy. Nhà nước
xuất hiện và đóng vai trò như lực lượng phối hợp các nỗ lực chung trong
quá trình sản xuất và chống lại các bộ lạc du mục. Đấy chính là điều
kiện tạo ra chính thể chuyên chế, có nghĩa là chính thể quân chủ với
quyền lực vô giới hạn. Tất cả quyền lực, không bị giới hạn bởi luật
pháp, đều nằm trong tay nhà vua, cha truyền con nối (Pharaoh, Sa
hoàng...). Nhà vua thế tập cai trị bằng bộ máy quan liêu-quân phiệt,
được hình thành từ những người thuộc hoàng tộc, từ tầng lớp quí tộc và
giới sĩ quan, tức là những tầng lớp có nhiều đặc quyền đặc lợi. Bản thân
nhà vua được coi là thần thánh ngay từ khi còn sống và cả sau khi đã
chết. Chế độ chuyên chế có ảnh hưởng đến cả thế giới quan của người dân.
Con người cảm thấy mình là một với tự nhiên, cuộc sống diễn ra một cách
đều đặn, không có gì thay đổi. Nghi lễ và truyền thống có ý nghĩa rất
lớn. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo, nhận thức của con người nhuốm màu phi
lí, hướng vào thế giới bên kia, hiện thực bị coi là tạm thời, chóng qua.
Khác với phương Đông, ở châu Âu gần như không có sở hữu nhà nước. Quan
hệ tiền hàng đóng vai trò quan trọng hơn nhiều, quá trình tan rã công xã
diễn ra nhanh chóng. Quan hệ thị trường buộc người ta phải sử dụng áp
lực kinh tế thay cho áp lực phi kinh tế của chế độ nô lệ hay nông nô. Sở
hữu tư nhân cũng có ảnh hưởng rất lớn. Kết quả là, trong cơ cấu chính
trị và pháp chế của nền văn minh Âu châu, các nguyên tắc dân chủ chứ
không phải nguyên tắc độc tài thường được sử dụng. Việc truyền bá các
tiêu chuẩn pháp luật La Mã dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng có
ảnh hưởng to lớn.
Pháp luật của nước Cộng hoà La Mã, ở một mức độ nào đó, đã trở thành nền
tảng của các nhà nước pháp quyền, chính nước cộng hoà này còn là thí dụ
về sự kết hợp giữa quyền lực của người đứng đầu chính phủ (Consul) và
các cơ quan đại diện. Cơ quan quan trọng nhất là Thượng viện. Về hình
thức, Thượng viện là cơ quan tư vấn, nhưng trên thực tế, Thượng viện phụ
trách các vấn đề về tài chính, tôn giáo, đối ngoại và cai trị các tỉnh.
Theo luật pháp của Cộng hòa La Mã, quyền lập pháp thuộc về các hội nghị
toàn dân. Nhưng các hội nghị này lại không có quyền đưa ra các dự thảo
mà chỉ xem xét các dự luật đã được Thượng viện thông qua. Người đứng đầu
chính phủ, các viên kiểm duyệt và các viên chức khác, do dân bầu, thực
hiện công tác quản lí hàng ngày. Vì các chức vụ đều không được trả
lương, nên thường do các tầng lớp hữu sản nắm giữ.
Hệ thống này, sau khi đã được cải tiến, chính là hình mẫu của chế độ phân quyền trong các nhà nước dân chủ pháp quyền sau này.
Việc phát triển của Thiên chúa giáo, một tôn giáo hướng người ta đến các
tiêu chuẩn đạo đức cụ thể, gần gũi với con người, cũng có ảnh hưởng rất
lớn. Ngay từ thời cổ đại, con người ở đây đã coi mình là thước đo của
mọi sự, mọi vật, là chủ nhân ông của thiên nhiên. Ước mơ trở thành người
tự do đã thấm dần vào máu thịt của người Âu Châu. Friedrich von Hayek,
nhà kinh tế và hoạt động chính trị người Áo, giải thưởng Nobel về kinh
tế, đã từng nhấn mạnh rằng, không được lẫn lộn giữa chủ nghĩa cá nhân,
nền tảng của các giá trị phương Tây, với thói ích kỉ và tính tự phụ. Đặc
điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa cá nhân là sự tôn trọng đối với cá nhân
con người, là tinh thần bao dung.
Dĩ nhiên là không nên coi lịch sử nền văn minh phương Tây là một cuộc
hành trình thẳng tiến về phía trước. Đã có những bước thụt lùi và những
giai đoạn phát triển vượt bậc. Nhưng từng bước một, các quốc gia thuộc
nền văn minh phương Tây đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm về dân
chủ.
Nước Nga nằm ở điểm tiếp xúc giữa hai nền văn minh. Về mặt lịch sử, nước
Nga liên kết mật thiết với phương Tây, nhưng các đặc điểm và truyền
thống phương Đông cũng tạo nhiều ảnh hưởng đối với sự phát triển của
Nga. Ách cai trị của người Tacta-Mongol đã để lại những dấu ấn nhất
định. Kết quả là, những đặc trưng của phương Tây và phương Đông đan xen
vào nhau một cách tài tình trong lịch sử nước Nga. Một mặt, Nga đã trải
qua những giai đoạn phát triển tương tự như các nước Tây Âu. Chế độ đẳng
cấp và đẳng cấp đại diện ở Nga thế kỉ XV - XVI cũng giống như tại các
nước châu Âu khác. Nghị viện ở Anh, ở Pháp, ở Hà Lan, ở Đức, ở Ba Lan và
ở Nga, dù có những khác biệt là do những điều kiện phát triển chính trị
và kinh tế, tôn giáo cụ thể ở mỗi nước, vẫn có rất nhiều điểm chung.
Nhưng tiến trình phát triển các thiết chế đại diện của Nga đã bị cắt đứt
vào giữa thế kỉ XVII, chế độ quân chủ đại diện đã biến thành chế độ
chuyên chế. Kết quả là, ở Nga đã hình thành một bộ máy quan liêu quân sự
và hệ thống quản lí nhà nước với những đặc điểm của chế độ chuyên chế.
Tính chất khép kín của đời sống kinh tế và chính trị kiểu công xã cho ta thấy truyền thống phương Đông.
Xét theo quan điểm này, lịch sử Nga chứa đầy mâu thuẫn. Có thể đấy chính
là một trong những nguyên nhân của những khó khăn mà nước ta đang gặp
phải trong giai đoạn chuyển tiếp sang chế độ dân chủ hiện nay.