Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Giặc đã ùa vào nhà - các bài viết khác đáng chú ý

Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam - Kỳ 1 (Huỳnh Tâm)

“…Theo tôi biết, xung đột vũ trang hiện nay rất nghiêm trọng, các chi tiết cướp biên giới hoàn toàn từ phía Trung Quốc, khói lửa ấy đem đến cho Việt Nam, trái với lòng mong muốn của người dân Trung Quốc và Việt Nam…”
 
 
CS Việt Nam không muốn biết hay đã quên Lão Sơn & Vị Xuyên.
Viên Dung không có ý định đi đường dài vượt sông núi cùng với Hải Âu (海鸥DF-1, Q:14)và Trịnh Hòa (郑和), một nữ phóng viên trẻ của nhật báo Giải Phóng (Trung Hoa). Tháp tùng đoàn binh bổ sung trở lại chiến trường sau khi dưỡng thương tại căn cứ Quân khu Vân Nam. Viên Dung đã từng đi qua vùng biên giới Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang nhưng không có dịp vào sâu Tây Bắc lãnh thổ của quê hương, nhưng hôm nay được ngồi trên toa tàu hỏa để đến địa danh Lão Sơn, Vị Xuyên nhờ may mắn nhờ trên tay có thông hành "K..". Mọi chuyện diễn ra thật bất ngờ vì những tình cờ dồn dập, đưa đẩy tạo ra sự việc không kịp tính toán. Sự hiện diện của Viên Dung ở đây là một tình cờ không có dự tính trước. Viên Dung không hề biết những người lính Trung Quốc sẽ đến quân đoàn nào tại Lão Sơn (Trung Quốc gọi Laoshan) tỉnh Lào Cai, và Vị Xuyên tỉnh Hà Giang, chỉ biết họ phải đến tiền đồn nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Đến nơi được biết CS Trung Quốc đã chiếm cứ và kiểm soát hoàn toàn vùng núi Lão Sơn này vào ngày 2 tháng 4 năm 1984, và đến nay chiến sự vẫn còn tiếp tục.
Vào lúc 6g30 sáng, ngày 10 tháng 1 năm 1987, tàu hỏa khởi hành trên tuyến đường dài 1.571 km, nó bò qua những đèo cao giống hệt con rắn mệt mỏi. Toa tàu lắc lư đều đặn, chạy qua những miền đất hoàn toàn xa lạ, con tàu cứ thế lao tới. Lắm lúc nhìn qua khung cửa,  tôi chẳng thấy phong cảnh nào đẹp hay ít nhất để lại một ấn tượng về thiên nhiên đất nước Trung Hoa, cũng có thể trái tim tôi vô cảm với CS Trung Quốc nên không còn chỗ dành riêng cho cảnh tạo hóa hùng vĩ nơi đây!
Ấy thế, hôm nay lại khác thường. Lỗ tai của tôi hết lãng, nghe rõ hơn và chú ý tỷ mỉ, đồng thời tôi thu âm những lời của bọn lính Trung Quốc vào máy. Bọn họ nói chuyện quá khoác lác không khác nào những tràng đại pháo nổ, tuy nhiên những lời nói ấy xoáy sâu vào tình yêu thiêng liêng của tôi dành riêng cho mẹ Việt Nam. Đôi lúc  lòng rung động muốn ngạt thở khi nghe những lời nói khẳng định con số 42.500 chiến binh Việt Nam tử vong, cũng như vùng đất Lão Sơn, và Vị Xuyên đã bị mất trắng. Họ còn tiết lộ mật mã "MB84", những tên tình báo Hoa Nam trong Bộ Chính Trị CS Việt Nam bán đứng biên giới Việt Nam cho CS Trung Quốc[1].
Tôi tự nhủ:
– Rồi một ngày có dịp sẽ giải mã "MB84", tìm những tên nội gián theo tình báo Hoa Nam phản quốc, còn hôm nay quyết định tập trung để nghe hiểu thêm, biết nhiều, cùng lúc hình dung chiến trường trước khi bước chân đến đó. Những tên lính Trung Quốc tiếp tục khoe khoang về thành tích chiến trường:
– Quý đồng chí có biết không? Trên tay tôi, lựu đạn sẵn sàng tung vào địch, trước đó tôi phải thu mình vào một hốc đá có bụi rậm, bởi buổi sáng hôm ấy đã xem địa hình xung quanh. Thấy đằng sau có một trung đoàn địch đang phục kích ở bên cánh rừng trái, một khoảng cách hẹp không xa có tuyến đường quan trọng dẫn sâu vào biên giới Việt Nam. Ngày hôm sau tôi đưa J 4 (đại đội 4) băng nhanh qua đường đến khu rừng lớn, nơi đây địa thế lập tiền tiêu an toàn. Trong cánh rừng này, cây to bao phủ một màu đen, địch quân không thể nào thấy J4, lúc ấy tôi liên tưởng chắc chắn có quân phục kích. Tôi nhìn xuống đồng hồ, điểm phát sáng chỉ hướng Đông. Sáng sớm hôm sau, bầu trời màu xám dần dần bình minh.
Lần này tôi tự vẽ tọa độ của một vùng núi đồi Lão Sơn, trong không khí buổi sáng sớm với điếu thuốc thơm làm tươi râu. Không khí có hơi ẩm ướt, tôi nhún nhún đôi vai liên tục để loại bỏ mệt mỏi. Nhìn vào chân trời mây kéo hé lộ ánh sáng ban mai. Những con chim trong rừng, bắt đầu hát giai điệu chiến trường, bản làng vẫn chưa thức giấc, cảnh sống còn yên tĩnh, thanh bình trong hạnh phúc. Thực sự sâu kín trong trái tim, tôi muốn giúp họ thực hiện ước mơ đó, chúng tôi đang ở đây để bảo vệ họ, nếu chiến tranh đến với họ".
Tôi suy nghĩ một hồi lâu, đầu gật vài lần rồi hỏi:
– Anh là một người Việt gốc Hoa mới có ý tưởng ấy.
Y không đáp lời nào, ngó xuống Ba lô trầm tư, một người lính Trung Quốc đối diện với Hải Âu DF-1, Q:14, nói:
– Những năm trước vào lúc 5 giờ sáng, đoàn quân của chúng tôi đã vào tận thị trấn Lào Cai Việt Nam, đột nhiên phía trước có những âm thanh lớn hơn cơn bão, một luồn khói của đại pháo nổ làm hiệu xuất lệnh quân sự, mà người ta gọi đây là lệnh tổng tấn công, chúng tôi hối hả bắt đầu tay súng tự vệ, chính thức bắt đầu chiến đấu với Việt Nam!
Mười triệu (10.200.000) khẩu súng Trung Quốc giận dữ, một vùng đất rung chuyển mạnh, những núi đồi đồng rung chuyển cả bầu trời phía Tây Nam. Nòng súng phát ra những tia màu đỏ trắng. Những tiếng súng nổ mạnh mẽ vang động chói tai, ngay cả hơi thở trong tim cũng bị nhồi máu. Nhóm 141 không quân đột ngột xuất hiện, tiếng động cơ vang rền trên không như sấm nổ. Hàng chục máy bay chiến đấu siêu âm trút đạn về hướng phía trước, bắn vào phòng ngự quân biên phòng của địch, lực lượng không quân mạnh mẽ trong việc kiểm soát những vị trí chiến lược, trước khi Bộ binh tiến vào, cùng lúc những quân cảm tử hàng đầu của chúng tôi phát động các cuộc tấn công khốc liệt vào đối phương.
Thình lình một người có vẻ là sĩ quan ngồi đối diện với Hải Âu DF-1, Q:14 lên tiếng:
– Sự khởi đầu của chiến tranh, có sai lầm từ các chỉ huy cơ sở hay trên toàn bộ tuyến đầu tự vệ, họ bố trí các đơn vị không rõ ràng, ngay cả công tác hiện tại, chúng tôi đối mặt với kẻ thù cũng không rõ ràng. Nhiệm vụ của chúng tôi được đề cập đến tại địa điểm A. Nơi đó cho phép chúng tôi được quyền hành động theo khả năng. Không biết lý do nào đưa chúng tôi rơi vào điểm tử huyệt địch đang cố thủ. Trong thực tế, kế hoạch đã thành hình, ấn định cuối tháng 11 năm 1978, các lực lượng của 3 quân khu gồm: Quảng Châu, Côn Minh, Thành Đô chuẩn bị sẵn sàng để chiến đấu theo lệnh, đến ngày 08 tháng 12/1978, lại ban hành thêm chiến lược mở rộng lệnh, rồi ngày 13 tháng 12/1978, ban hành nhập lệnh vào cuối tháng 12.
Đến 3 lần thay đổi kế hoạch cho thấy CPC không nhất quán, từ 9 quân đoàn tham dự, tăng lên 11 quân đoàn, tổng số quân 235.000 binh sĩ, và còn tập kết ở Quảng Tây, Vân Nam trên số quân ra chiến trường, chuẩn bị mở đường cho các lực lượng sẵn sàng đi sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Như vậy phải mất một thời gian chuẩn bị lâu dài, thế mà tình báo của Việt Nam không phát hiện, được biết mật mã "MB84" của Hoa Nam trong Bộ chính trị CSVN đã bán đứng biên giới, mà khi nãy đống chí đã đề cập đến!
– Đúng thế.
– Cảm ơn đồng chí.
Một sĩ quan nói tiếp:
– Ngày 17 tháng 2 năm 1979. Bộ binh gồm 9 quân đoàn, hướng Vân Nam Trung Quốc có đến 5 quân đoàn, như Q:41, Q:42, Q:43, Q:54, Q:55, Bộ tổng tham mưu tư lệnh mặt trận phía Nam Vân Nam, do Đại tướng Dương Đắc Chí(杨得志- Yang Dezhi) chỉ huy, tấn công 3 tỉnh Lai châu, Lào Cai, và Hà Giang của Việt Nam.

Tư lệnh phó, Đại tướng Yang Dezhi (
杨得志) Dương Đắc Chí.
Nguồn: Hoa Chí Cường
Theo kế hoạch đã định: "Thời gian tiến quân hạn chế, tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam cũng có lệnh hạn chế, trước đó quân lực Trung Quốc đã tập trung một lực lượng vượt trội tại biên giới trước khi có lệnh tấn công. Công binh thiết lập cầu nổi và sửa chữa cấp bách, quân tiến đến đâu lập chiến lũy, giao thông hào đến đó, nhiều lớp bao quanh vòng đai chiến lũy bằng cài trái phá, chiến thuật biển người nhanh chóng với tốc độ tiêu diệt càng nhiều càng tốt".
Chỉ 2 tuần lễ sau Trung Quốc tăng viện thêm Quân đoàn 20, và sư đoàn 58. Đồng tham chiến còn có Tham mưu trưởng, Thượng tướng Trương Đình Phát Tư lệnh Không quân Trung Quốc.

Thượng tướng Trương Đình Phát
Trước đó quân đội Trung Quốc đã khẩn cấp xây dựng chiến lũy tại biên giới, đến sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, biển người nhanh chóng tràn vào biên giới Việt Nam. Chín (9) quân đoàn, tiến sâu vào 11 quận, và 6 tỉnh của Việt Nam trong cả hai hướng từ Quảng Tây, Vân Nam đồng tấn công, một phần lực lượng Không quân tham chiến, máy bay tuần tra dọc theo biên giới phía Trung Quốc, ngoài ra còn có tàu chiến của Hải quân bảo vệ các giàn khoan dầu tại Vịnh Bắc Bộ. Ngoài ra Trung Quốc còn sử dụng kế hoạch dự trữ chiến lược, phía sau có Quân đoàn 54, tại mặt trận Đông.
Một sĩ quan khác nói:
– Kế hoạch, đối mặt với kẻ thù bằng chiến thuật biển người quá tàn nhẫn không phù hợp với ngày nay; chỉ một giờ lịch sử tổng quân 11 Sư đoàn, 9 Lữ đoàn theo lệnh cầu hình dòng biển. Tấn công dòng biển đầu tiên có 6 đơn vị cấp Sư đoàn, và 6 Trung đoàn, tấn công dòng thứ hai có 7 đơn vị cấp Lữ đoàn, và 5 Trung đoàn, dòng biển thứ ba có 5 đơn vị cấp Sư đoàn, dự bị triển khai tấn công gần Hà Nội, v.v...
Biển pháo đặt bộ chỉ huy tại Cao Bằng gồm Sư đoàn Pháo 346, Lữ đoàn 246, Lữ đoàn 611, Lữ đoàn 851, và Lữ đoàn 246, hướng về chiến trường Tây Bắc.
Đảng CS Trung Quốc đặt bộ chỉ huy Pháo binh tại Lạng Sơn một Tập đoàn 188, gồm 12 đơn vị Pháo binh, Trung đoàn 141, và Trung đoàn 68, hướng về chiến trường Đông Bắc.
Ngoài ra Quân báo cho rằng: Lập phòng tuyến tại vị trí cao nhất tiện cho chiến thuật phòng thủ, những hang động làm công sự tự nhiên của điểm A nối vào giao thông hào đầu B, tuy gồ ghề nhưng lợi điểm di chuyển, đổi quân trong chiến lũy thuận tiện, lập được nhiều giao thông hào, chiến hào, phần lớn nhờ Công Binh.
Phòng tuyến bộ binh của chúng tôi chiếm được điểm cao, trước tầm mắt đã thấy được phía địch có rất nhiều chiến hào chống xe tăng, chiến hào rào dây thép gai, bãi mìn, cũng như cái bẫy thanh tre phòng thủ đơn sơ. Bề mặt phòng thủ chúng tôi có hỏa lực pháo binh từ xa đến gần, hình thành mạng lưới hỏa lực bộ binh bởi tầm đạn chéo cánh.
Tôi cho rằng phía quân đội Việt Nam có hệ thống phòng thủ chưa hoàn chỉnh, vị trí hỏa lực không đủ mạnh mẽ, nếu chiến tranh kéo dài chiến lũy của Việt Nam không còn giá trị như buổi ban đầu, sự chặt chẽ đó không phải lớp vỏ cứng.
Trước đó một ngày sĩ quan chỉ huy Quân Đoàn I đã quyết định bắt đầu cho lệnh pháo binh tập trung tấn công vào những vị trí của địch, bằng hỏa lực bắn phá mạnh mẽ, những địa điểm của địch được chú ý đầu tiên là bộ chỉ huy, các vị trí pháo binh, khu vực dàn binh, các phương tiện truyền thông, quân xa. v.v...
Vào lúc 5:30 vào ngày 17 Tháng 2 năm 1979, quân đội sẵn sàng đẩy hỏa lực đến mục tiêu, pháo kích kéo dài đủ 30 phút. Sau đó thấy phía trước vị trí quân đội Việt Nam, cháy khắp mọi nơi lửa rực trời, khói cuồn cuộn mang theo hơi nóng. Bộ chỉ huy, vị trí pháo binh, bộ binh và các phương tiện thông tin của địch bị hỏa lực pháo binh đàn áp, phá hủy hoàn toàn phòng tuyến một của Việt Nam.
Nói về Lão Sơn 1984. Trận chiến hội đồng của quân lực Trung Quốc rất khốc liệt đối với  quân dân Việt Nam, tin tức từ chiến trường cho biết nhờ phía Đông có núi cao nhất. Lực lượng bộ binh của chúng tôi tiến xuống đồng bằng cùng lúc phát động cuộc tấn công thần tốc và mạnh mẽ, lúc này đã nắm chắc chiến trường, biên giới phía Nam trong lãnh thổ Việt Nam. Theo báo cáo của Quân đội Nhân Dân (PLA) Trung Quốc, chiến đấu tự vệ đã chiến thắng sớm hơn một ngày trước bình minh. Trong ngày "Pháo cá heo màu xanh lá cây" (Không quân Trung Quốc) từ sân bay miền Nam Trung Quốc cất cánh, một đội máy bay chiến đấu rống tiếng siêu âm, những mũi tên sắc bén trên bầu trời lao tới.
Mỗi ngày hàng trăm phi vụ qua đầu của chúng tôi, tuần tra dọc theo biên giới Trung-Việt Nam. Lực lượng không quân răn đe Việt Nam, không thấy phi vụ nào của Việt Nam lên ứng chiến. Chúng tôi đã tiến sâu vào đất địch, chiếm điểm phòng thủ và khiêu khích địch, chỉ cần ra khỏi giao thông hào 13 bước, là đụng độ với địch. Có thể nói chiến trường nằm bên cạnh nhà tôi.
Hai tuần sau chúng tôi được lệnh chuyển quân mở đường biên giới số 2, nối liền với các làng dân cư thiểu số gần biên giới Quảng Tây. Trên đôi vai của mỗi binh sĩ mang theo các loại vũ khí, đạn dược, trong chiếc ba lô, dụng cụ đun nước, áo mưa, túi gạo, áo quần mùa hè và một đôi giày cao su. Chúng tôi đến vị trí quy định để xây dựng công sự phòng không, chúng tôi sẵn sàng tham gia cuộc chiến, về cơ bản phòng không hợp lực với quân II pháo binh.
Chúng tôi đóng quân ở đây đã vài ngày, bỗng nhận được lệnh của PLA nhắn từ phát sóng của máy điện tín, do Tân Hoa Xã phát :
"Chính quyền và đảng CS Việt Nam đã biết sợ, một lòng thần phục làm bầy tôi, tuân lệnh cảnh báo của PLA. Nay các lực lượng vũ trang anh hùng vẫn triển khai thường lệ, đánh gục các hành vi của nhà nước và nhân dân Việt Nam đã vi phạm lãnh thổ của chúng ta, hãy tấn công tự vệ. Các lực lượng bộ đội biên phòng và cư dân biên giới tiếp nhận lập lại lãnh thổ của Trung Quốc. Nhà nước Việt Nam đã suy giảm chiến tranh và sắc nét của tình hình hiện nay, mối đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh biên giới của chúng ta xem như thắng lợi. Trước đây vì Việt Nam cướp đất của ta, tình hình biên giới không được an ninh, đã đến lúc không thể chịu đựng nổi, buộc Trung Quốc phải tăng cường quân sự chống lại để bảo vệ biên giới ".
Viên sĩ quan nói tiếp:
– Theo học tập chính trị và tình hình trong hai năm qua cho biết, chính quyền Việt Nam thực hiện bành trướng liên tục trong khu vực biên giới, tràn lan trong lãnh thổ của Trung Quốc, hành động khiêu khích vũ trang đưa đến chiến tranh là điều không bình thường. Quan trọng nhất Trung Quốc đã quan hệ hữu nghị với Việt Nam và xem các dân tộc của hai nước cần phải có an ninh hòa bình. Trung Quốc có thái độ kiềm chế và khoan dung, liên tục cảnh báo Việt Nam, để tránh tác động trên một quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, các nhà chức trách Việt Nam với sự hỗ trợ của Liên Xô, và từ đó kiềm chế Trung Quốc, khuyến khích và mong muốn hòa bình như là một dấu hiệu của sự yếu kém, ngày càng dựa vào sự leo thang, sợ hành vi của cuộc tấn công vũ trang trên khu vực biên giới Trung Quốc. Nhà cầm quyền Việt Nam đã tập hợp một số lực lượng vũ trang dọc theo biên giới Trung-Việt. Việt Nam không ngừng vi phạm biên giới, cướp lãnh thổ của Trung Quốc. Việt Nam công khai chôn mìn, xây dựng các công sự trên lãnh thổ của Trung Quốc, bắn, phá, thiêu hủy nhiều ngôi làng, giết binh sĩ và dân thường của chúng ta, cướp lấy đồ đạc, vật chất sản xuất của dân làng, đưa đến nhiều cuộc xô xát đổ máu nghiêm trọng tại biên giới.
Tháng 6 năm 1978 Việt Nam khiêu khích vũ trang đã gây thương tích cho 700 bộ đội Biên phòng, và làm thiệt mạng trên 300 binh sĩ tự vệ biên giới Trung Quốc, chưa kể đến số  thương vong của cư dân biên giới. Chính quyền Việt Nam có hành vi xâm lược tràn lan, và kích động cuộc xung đột quân sự tại biên giới phía Nam của Trung Quốc, mỗi ngày thêm trầm trọng và căng thẳng suy yếu, trong khi ấy xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đang hiện đại hoá không cho phép Việt Nam hỗn láo. Nếu không ngăn chặn sự xâm lăng của Việt Nam sẽ chắc chắn đe dọa đến hòa bình và ổn định của khu vực Đông Nam Á, và thậm chí toàn bộ khu vực châu Á.
Một quân nhân trẻ giọng nói pha tiếng miền Bắc Việt Nam, ngồi đối diện với tôi tiếp lời:
– Phải khách quan mà xét, Việt Nam vi phạm biên giới hay là chính quân đội nhân dân Trung Quốc. Thuở nay đã có người không đánh nhau, trái lại mình vẫn đánh họ ở phía sau lưng. Hiện nay tinh thần chúng tôi vô tổ quốc (Hoa kiều) tuy nhiên nếu bị tấn công, chúng tôi có hành động cấn thiết cầm vũ khí, hoàn toàn chính đáng. Tôi nhất định không làm tù binh để bảo vệ biên giới của cả hai quốc gia Trung-Việt, tôi không thể chấp nhận để chiến tranh bốc cháy cao, và chiến tranh dai dẳng. Suy nghĩ của tôi, kẻ đang thực hiện chiến tranh có nhiều ý đồ riêng. Ví dụ, tại sao chúng ta lại muốn xây dựng đất nước trong lòng lãnh thổ của Việt Nam, trong khi ấy chúng ta cần một môi trường hòa bình quốc tế. Tôi không muốn chiến đấu bởi tôi không có một tấc đất nào ở Việt Nam, và không bao giờ cho phép người khác bừa bãi vi phạm lãnh thổ của họ. Tôi chỉ muốn hòa bình và ổn định tại biên giới Trung Quốc. Trong khi ấy chính phủ nhân dân Trung Quốc làm một việc khó hiểu, cấp giấy phép xâm lược Việt Nam cho những người Hoa kiều, cầm súng trở lại quê hương của họ để chiến đấu, nhà nước nhân dân Trung Quốc còn hứa, sau khi bảo vệ biên giới sẽ thuộc miền đất tự trị của họ. Suy nghĩ sâu xa hơn sau khi chiếm được biên giới tự nhiên thuộc về quốc gia Trung Quốc không phải của người Hoa kiều. Tôi tin rằng vị trí người Hoa kiều không có chỗ đứng trong lòng dân tộc Hán, họ khó tiếp nhận được sự đồng cảm và hỗ trợ tinh thần yêu chuộng hòa bình hay công lý của quốc gia ưu tiên cho người Hoa kiều!
Chính Trung Quốc tạo ra hay nói một cách khác họ buộc Việt Nam phải đứng vào cuộc đấu tranh cách mạng chư hầu, Trung Quốc không thương nghị, không tìm đồng thuận, không hỗ trợ lẫn nhau, và không thiết lập một tình bạn sâu sắc. Theo tôi biết, xung đột vũ trang hiện nay rất nghiêm trọng, các chi tiết cướp biên giới hoàn toàn từ Trung Quốc, khói lửa ấy đem đến cho Việt Nam, trái với lòng mong muốn của người dân Trung Quốc và Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh, có bao giờ những chính quyền Trung Quốc yêu mến hoà bình và duy trì tình hữu nghị với nhân dân Việt Nam.
Hiện nay, chính phủ nhân dân Trung Quốc và đảng CS Việt Nam cả hai đồng long trọng tuyên bố ban giao bình thường, tuy nhiên họ nói một đường, hành động một nẻo bởi tất cả là anh em cộng sản có máu gian hoạt! Có lần Trung Quốc yêu cầu:
– Chính quyền Việt Nam lập tức ngăn chặn cuộc xâm lược vũ trang tại khu vực biên giới Trung Quốc, tất cả các hoạt động khiêu khích và phá hoại phải nhất định đình chỉ, Việt Nam phải thu hồi tất cả binh sĩ vũ trang tại vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bất hợp pháp, hãy tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc và toàn vẹn lãnh thổ. Chính phủ Trung Quốc luôn ủng hộ một giải pháp công bằng và hợp lý để tránh mọi tranh chấp giữa hai nước thông qua đàm phán hòa bình.
Sự long trọng truyên bố của Trung Quốc có nhiều bí ẩn, họ tiếp tục đánh chiếm những địa danh vị trí chiến lược của Việt Nam, và khoanh vùng lập phòng tuyến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc, quý đồng chí có nhận thấy không ?
Mỗi khi đàm phán, người Hán sử dụng ngôn ngữ trịch thượng, khó nghe, đôi khi đượm giọng xảo trá trong văn tự đàm phán hay ngoại giao, như "Từ khi Việt Nam không chân thành trong các cuộc đàm phán trước đây. Bây giờ, chính phủ Trung Quốc đề nghị rằng hai bên một lần nữa nhanh chóng mở lại các cuộc đàm phán cấp độ thích hợp, vị trí tổ chức bất kỳ ở hai bên đồng ý, thảo luận để khôi phục lại hòa bình và yên tĩnh của các khu vực biên giới giữa hai nước, và do đó giải quyết tranh chấp về biên giới và các vấn đề lãnh thổ. Chính phủ Trung Quốc đang chuẩn bị đàm phán cụ thể trên bất kỳ phương pháp tiếp cận xây dựng, bảo đảm hòa bình và an ninh, biên giới".
Thế nhưng, Trung Quốc lại quá nhiều sai phạm, một lần nữa đưa bộ đội vào lãnh thổ Việt Nam chiến đấu chống lại Việt Nam, vào thời điểm này chính chúng ta đang trên đường đi đến cuộc xâm lược biên giới của người khác! Một mặt chính phủ Trung Quốc kêu gọi "Chính quyền Việt Nam sửa chữa lỗi lầm", và còn thòn một câu đe dọa "Việt Nam không nên tiếp tục đi trên con đường sai lầm, kẻo khi trở lại đàm phán quá muộn".
Tôi ngồi bó gối yên lặng, tìm trong suy nghĩ của những người lính đang trên đường ra chiến trường, lạ thay họ đều có những trạng thái không đồng nhất, có kẻ khoác lác về chiến thắng, cũng có kẻ nỗi lòng bi kịch chiến tranh. Tôi thấy Hải Âu DF-1, Q:14, và 郑和…Trịnh Hòa…nháy mắt có vẻ bảo nhau chú ý trao đổi vô tư của bọn lính Trung Quốc.
Riêng tôi đã chuẩn bị máy thu âm từ sớm, việc thu âm không ai phát hiện, bởi vậy tôi có nhiều thời gian suy nghĩ về phương thức ứng phó, nếu có sự kiện đến bất ngờ, phần thu âm chỉ để kiểm tra lại và định chuẩn chiến trường không thể nghe những cái mòm khoác lác để rồi lấy đó làm chuẩn cho điểm nóng chiến trường vốn luôn luôn bí ẩn, và chiến tranh có quá nhiều giả thuyết.
Kẻ thắng người thua không bao giờ công bố sự thật, điều hay nhất là tiếp xúc với binh sĩ tại chiến trường, dù vậy đối với tư liệu có thể tin cậy được 30%, còn những lời nói của binh sĩ Trung Quốc trên toa tàu này, cần gạn lọc lại thật kỷ, tin cậy rất thấp 5%, đôi khi vô giá trị, tuy nhiên không thể bỏ qua những lời nói của họ, vì  đôi khi tin tức có những bất ngờ khác, cho thêm nhận định khái quát trước khi sự kiện diễn ra. Kệ họ cứ nói, tôi tiếp tục âm thầm như thường lệ và quên đi cái nháy mắt của Hải Âu DF-1, Q:14 và 郑和…Trịnh Hòa…
Một gã khác, từ lúc lên tàu hỏa đã ngồi đối diện với tôi, y có gò má cao, nước da hơi xanh xao bạc nhược, hình dạng khắc khoải, khuôn mặt trần ngâm nói:
– Quý đồng chí, hình như chưa tham dự chiến tranh, cũng có thể chỉ mới một lần đầu cho nên nói bừa bãi về chiến trường Việt Nam, và không hiểu lý cớ vì sao có cuộc chiến tranh này, quý đồng chí ngồi ở đây chỉ kể cho nhau nghe vui, thay cho lời tán gẫu, cho nên không hình dung được cuộc chiến này.
Gã phản bác tất cả những lời nói từ sáng nay đến giờ này, đều không có giá trị, lời nói của gã, kéo đầu óc của tôi bừng tĩnh, chú ý từng lời một. Gã nói tiếp :
– Phải nói kế hoạch dựng đứng chiến tranh Việt-Trung do Quân ủy trung ương (CPC) truyền lệnh cho Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), khởi hấn, chủ ý tạo ra chiến dịch "Tự vệ biên giới phía Nam". Tân Hoa Xã được lệnh phát sóng mỗi ngày đưa tin ngắn, loan tải "phía Nam biên giới Quảng Tây, Vân Nam, có các lực lượng quân đội Việt Nam xâm lược, đang tấn công các chốt điểm biên phòng của Trung Quốc v.v...".
Họ kích động nhân dân mỗi ngày, nâng cao thù hận, đẩy nhân dân vào thế cầm súng ra chiến trường, tạo thêm các cuộc gây hấn mới, tại các vùng biên giới Việt Nam, khi hết thuốc chữa Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) mới kéo nhau đi đánh xứ người, gọi là hành động theo ý dân để "Tự vệ tổ quốc", sự đời là thế từ lòng dã tâm biến thành chính nghĩa con người ta thế đấy.
Những cuộc gây hấn nhỏ đến giao tranh tại Kim Bình tỉnh Lai Châu,
Hà Khẩu (河口) Hồng Hà, tỉnh Lào Cai - Nguồn bản đồ: Maps Google.
 

Tĩnh Tây (靖西Jingxi), Bách Sắc tỉnh Cao Bằng,
và Long Châu (龙州Longzhou) Sùng Tả tỉnh Cao Bằng -
Nguồn bản đồ: Maps Google. [2]
Tất cả xảo thuật của Trung Quốc điều được đem ra sử dụng tại chiến trường Việt Nam. Họ đã có ý đồ dùng chiến tranh để mở rộng biên giới. Trung Quốc lấy cớ "Tự vệ biên giới" để đổ quân ào ạt vượt biên giới để gậm nhấm lãnh thổ VIệt Nam. Lúc nào họ cũng loan tải nào là "Một tuần nay các quân phản động Việt Nam vũ trang xâm lược, tình hình biên giới leo thang trở nên tồi tệ hơn v.v...".
 
Cuối cùng những địa danh như Kim Bình (锦屏Jinping), Hà Khẩu (河口), Tĩnh Tây (靖西Jingxi), Long Châu (龙州Longzhou) của Việt Nam, nay đã trở thành lãnh thổ của Trung Quốc. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) phát động cuộc chiến, tung quân vào Việt Nam, tăng cường bộ đội biên phòng, nhân dân Trung Quốc lao vào cuộc chiến. Tờ mờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, Quân ủy trung ương (CPC) ra lệnh xuất phát và bắn pháo lệnh cướp biên giới Việt Nam.
Huỳnh Tâm
[1] Tiết lộ mật mã "MB84" từ tác giả bài viết, từng là Tùy viên quân sự tại Đại sứ quán Nhật ở VN dưới quyền của Đại sứ Tsutsumi Koichi, Đại sứ  Matano Kachigeaka, và Đại sứ Asomura Kuniaki.
[2] Maps google.

Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam - Kỳ 2 (Huỳnh Tâm)

 “…Quý đồng chí có biết không, Tân Hoa Xã đã phổ biến thông điệp kêu gọi toàn dân: "Tích cực bảo vệ biên giới, dùng cường độ tiếng súng uy hiếp địch". Nhưng không ngờ vài Lữ đoàn mới vượt qua biên giới, gặp địa hình phức tạp, cộng với dân quân địa phương cố thủ…”
 
 
 
Chiến trường Lão Sơn hốt xác chiến binh Việt Nam và Trung Quốc
Hai tay vô cớ vịn vào thành ghế, lặng lẽ đứng lên đi đến lan-can cửa toa tàu, đôi mắt hướng về quê hương, hồi tưởng Sài Gòn, Huế và Hà Nội ; nơi đồng dã với lũy tre xanh, cây đa đầu đình. Cả ba miền đất Việt, tôi đã thu vào ống kính, luôn gánh theo bên mình không ngại dặm xa xăm, dù quan san cách trở, nhưng lòng vẫn đậm tình quê hương, đứng trên đất xứ lạ bắc nhịp cầu liên lạc tưởng nhớ Tổ Quốc.
Không ngờ đúng lúc trái tìm xúc động, những cảnh cũ kéo nhau hiện về, quá khứ sống động hồi sinh, tình riêng phận lẻ lại dạt dào. Nào ai có biết người đi xa vẫn rung động và diễn tả trọn vẹn tình tự quê hương. May nhờ bộ nhớ sống động nên tôi một lần nữa lại có dịp thì thầm với đất nước Việt Nam.
Tàu hỏa vùn vụt qua cầu, tôi ngừng suy tư trở về với thực tại, chú ý từ xa thấy một tấm bảng ghi hướng vào thị xã Hợp Phì (合肥) điểm đến đích của hành trình dài 1.571 km. Sau đó chuyển qua hành trình ôtô hơn 252 km, còn xa lắm chúng tôi mới đến chiến trường Lão Sơn. Dọc theo bên đường dây điện thoại quân sự dày đặc. Tiếp theo trên triền núi có những nòng súng phòng không chống máy bay chỉ về hướng Nam. Bầu trời không phận còn xa, đối phương đã phối trí trước chờ địch. Có những tên lính pháo binh lúc nhúc, mặc áo lưới ngụy trang trong hầm trú ẩn, vẫy tay chào con tàu hỏa đi qua. Ở nơi đây cũng lắm sự lạ, mỗi giao lộ, cây cầu đều có lực lượng dân quân vũ trang canh gác, những khe núi cắm cờ đỏ trắng với một chữ thập đỏ, khác nào chuẩn bị nổ súng. Vào địa danh này chưa đầy một phút, lữ khách có thể cảm nhận không khí ngột ngạt, chiến trường chưa đến đã có cảnh giới toàn một màu bi thảm.
Hải Âu 海鸥DF-1, Q:14 gọi :
– Anh NF3.....86 (Viên Dung) nhanh lên vào đây.
Vừa ngồi xuống, Hải Âu nháy mắt, tỏ ý bảo yên lặng để nghe, thực ra tôi không cần nghe vì máy thu âm trong ba lô vẫn tiếp tục, một tên sỉ quan mồm há hốc nói:
– Cuộc chiến Lão Sơn và Giả Âm Sơn vào ngày 2 tháng 4 năm 1984, có tên gọi là "Chiến dịch Lưỡng Sơn", theo thông tin phía địch quân có tên tướng Văn gì đó... tên tướng gì nhỉ quên rồi.
Tôi liền gợi cho y nhớ.
– Có phải Đại Tướng Văn Tiến Dũng không?
– Đúng rồi chính nó. Y nói tiếp:
– Quân đội Việt Nam không có khí thế chiến tranh qui ước, tên Văn Tiến Dũng không thể đem so sánh với Tư lệnh Đại Tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi - 杨得志). Ngài là vị anh hùng thao lược Bắc cương năm 1960 và Nam tiến năm 1979. Cho nên quân ta chiếm được Lưỡng Sơn một cách mau lẹ, và dễ dàng, thử hỏi tên Văn Tiến Dũngớng hèn sĩ yếu làm sao có thể gọi là đối thủ trong cuộc giao chiến tại Lão Sơn, Giả Âm Sơn, Vị Xuyên v.v....
Nói về tương quan lực lượng tham chiến
Việt Nam đưa quân cho tên tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy 3 Sư đoàn chính qui gồm có : Sư đoàn 313, Sư đoàn 316, Sư đoàn 356, một phần nhỏ Địa phương quân và dân binh cùng tham chiến.

Đại Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy trận chiến
Lưỡng Sơn tại biên giới Tây Bắc ngày 2 tháng 4 năm 1984
Nguồn: THX.
Về quân ta (Trung Quốc), trước sự chuẩn bị mở hầu bao chiến dịch Lưỡng Sơn vào ngày 2 tháng 4 năm 1984. Tư lệnh Đại TướngDương Đắc Chí (杨得志-Yang Dezhi)chỉ huy,dưới trướng của Đại Tướng gồm có Quân đoàn 14, Quân đoàn 11, Quân đoàn 1, Tập đoàn 67(集团军67), Tập đoàn 27 (集团军27), Tập đoàn quân 13(集团军13) và Bộ Tư lệnh Hậu Cần. Ngoài ra còn có Quân đoàn 41, Quân đoàn 42, Quân đoàn 43, Quân đoàn 54, Quân đoàn 55,đóng chốt trước miệng 3 tỉnh Lai châu, Lào Cai, và Hà Giang của Việt Nam.
Quân ta chiến thắng hào hùng, kiểm soát được Lão Sơn, Giả Âm Sơn, Vị Xuyên, và tính đến nay quân ta dưới 500 binh sĩ tử vong, quân địch có hơn 4500 tử vong.
Tôi nghe qua, nhận định thấy tên này bất quá chỉ là con chốt quân cờ đen, phát biểu không trung thực, kiến thức quân sự kém cỏi. Tôi tảng lờ, âm thầm tính nhẫm tương quan lực lượng của Việt Nam-Trung Quốc:
– Lực lượng quân chính qui tham chiến của Việt Namvới quân số 3 sư đoàn, tương đương 1 quân đoàn.
Trong khi ấy lực lượng tham chiến của quân Trung Quốc lên đến 62 Sư đoàn, gần gấp đôi quân số, tràn qua biên giới 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 nam 1979. Nay Dương Đắc Chí mới kiểm soát được Lưỡng Sơn. Đại Tướng Văn Tiến Dũng chặn đứng quân Trung Quốc ở tại đây cũng khá lắm, trong thời điểm này Lưỡng Sơn chưa phân thắng bại, trận chiến vẫn tiếp diễn. Quân đội Việt Nam muốn thắng, mỗi Sư đoàn phải phấn đấu tiêu diệt 10 Sư đoàn của quân đội Trung Quốc. Tương quan lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc hoàn toàn không cân xứng, cũng không thể nói đó là một cuộc chiến tranh qui ước.
Trong chiến tranh binh sĩ tử vong nhiều hay ít căn cứ vào chiến thuật. Tôi đoan chắc trên chiến trường Lưỡng Sơn quân đội Việt Nam lấy 1 đổi 30 quân Trung Quốc, bởi địa thế chừng ấy không gian lại có đến 620.000 quân.
Một gã gò má cao, khắc khoải, trầm ngâm nói tiếp:
–  Ngày nay chúng ta là người Hán lại mang nhiều dòng máu với đặc thù riêng, như người anh em hôm qua phát biểu có tính suy tư của dân tộc Liêu, chính trong tôi đã khó ngửi được cái-con đảng nhân dân Trung Quốc từ lâu, họ độc đảng lại vừa độc quyền luôn đứng trên đấu dân, họ tự cho có quyền độc khẩu, tuyên bố lung tung, bừa bải nào là:
– Việt Nam bất chấp lời kêu gọi của chúng tôi (Trung Quốc) và lặp đi, lặp lại nhiều lần gồm cảnh báo từ tháng 8 năm 1978 đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn gửi các lực lượng vũ trang, vi phạm biên giới tại điểm 162 và 705, hành động khiêu khích vũ trang đã giết chết binh sĩ và thường dân trên 300 người tại biên giới của chúng tôi. Tất cả các dân tộc địa phương đề nghị chính phủ nên trừng trị những kẻ xâm lược quân sự tại biên giới như Việt Nam, hãy bắn bỏ bọn này để bảo vệ hòa bình và ổn định biên giới.
Lời tuyên bố của họ, cần phải xoay ngược đầu 180° mới thấy đặc kịt mùi xúi giục thường dân tại biên giới la làng, sau đó đảng CS Trung Quốc lên kế hoạch thực hiện chiến tranh, thế là tam toàn, được lòng dân yêu, bành trướng chiếm được biên giới, bảo đảm được cái ghế lãnh thụ, có phải ăn cướp mới có hòa bình và ổn định biên giới chăng?

Những ký hiệu cao điểm chiến trường Lão Sơn, trên đường đi đến
địa danh này chúng tôi tường thuật chi tiết, cống hiến quý bạn đọc
Nguồn: Hải Âu
DF-1, Q:14.
Tôi nghe gã xấu xí này nói quá bạo phổi hỏi:
– Anh nói thế không sợ người ta cho giải ngũ hay vào nhà lao à?
– Xì..., tôi chờ giải ngũ, e rằng không có, nếu được dịp ở tù chung thân cũng được, còn hơn chết ngoài mặt trận, hay bị tàn phế ra thân ăn mày, tôi vốn dân tộc Nhà Liêu nếu có chết vì 遼朝(Nhà Liêu) cũng hài lòng đó mới gọi anh hùng, còn chết bởi Hán nào an tâm, nay tôi "gặp cơn vạ gió tai bay bất kỷ" hì...hì... [1]
Trong toa tàu hỏa bỗng phấn khởi, một gã thanh niên non choèn choẹt có lẽ tân binh, đứng lên dang đôi tay cao nói:
– Tôi cũng hiểu được một phần nào về nội tình cuộc chiến trong lãnh thổ Việt Nam, chính gia đình tôi đã bị chúng nướng hết 3 người anh em chú-bác, tôi là người thứ 4, có thể đi theo những người anh ấy. Nhà nước luôn kích động trực tiếp lòng người, thúc dục liên quan đến chiến trận, mỗi tin nhắn chỉ dùng 50 hoặc 60 từ, ngụ ý  thường kêu gọi "Chiến binh tay súng bình tĩnh" theo nghĩa đen người chiến sĩ không thể nhìn thấy khói, mùi máu, thậm chí các hướng tấn công trước mặt. Thực chất khi lâm chiến cả 2 đối thủ đồng gờm, thủ chặt chiến tuyến không nhất định kích thước, không phân định chiến bại, không nhìn thấy bất kỳ con đường sống trước mặt. Cho nên những tin kích động lòng yêu Tổ quốc để rồi chết sẽ thành "tử vì đạo" (chết vì đảng) vô duyên.
Có thể nhìn thấy ở đây có nhiều lý do, chiến tranh dựa vào sự lừa gạt, người nào không muốn đặt bên mình những bí mật chiến trường hãy tiết lộ với nhau nghe, không nên báo cáo sai tính trung thực trong lòng bởi chiến trường là nơi không cho chúng ta một ý niệm sống và tin tức từ nhà nước đến với chúng ta không bao giờ đúng sự thực.
Nay mai chúng ta tiếp cận chiến trường có thể nhìn thấy những tuyệt vọng, qua 3 lời hứa hạn chế của lãnh đạo chiến tranh, cam kết rằng "Thời gian hạn chế, hạn chế chiều sâu". Có ai nghĩ rằng nhà nước chơi chữ, sự thực đã xuất lệnh "Quy định không gian hạn chế chiến trường" theo nghĩa đen chiến tranh cho đến khi nào cụ Đặng Tiểu Bình đứng vững trong nội bộ ổ điếm chính trị Bắc Kinh, sau đó bỏ mặc chúng ta, cho một ít hư ảo tử vì đạo "hy sinh vì đảng", dù thương binh sống sót tự lê thân xin ăn cũng mặc v.v...!
Quý đồng chí có biết không, Tân Hoa Xã đã phổ biến thông điệp kêu gọi toàn dân: "Tích cực bảo vệ biên giới, dùng cường độ tiếng súng uy hiếp địch". Nhưng không ngờ vài Lữ đoàn mới vượt qua biên giới, gặp địa hình phức tạp, cộng với dân quân địa phương cố thủ. Những điểm này biến thành nơi phòng ngự kiên cố, trận chiến diễn ra khốc liệt, những Lữ đoàn bị đóng cứng, chôn thân trong nghĩa trang. Tôi không hài lòng với sự viện dẫn, tìm mọi lý do, kích động thù hận chủ nghĩa dân tộc, bởi đảng cộng sản TQ, vì nó là ĐCSTQ.
Gã thanh niên cóâm thanh kỳ lạ, dõng dạc  phát biểu:
– 为了增进“越-中” 友谊, "建议"把中国侵占的黄沙(我西沙) 两广还给越南. 越南自古以来已经就拥有主权并实现了有效管理, 后来被中国武力侵占了!
"Để tăng cường hữu nghị "Việt-Trung" nâng tầmtình bạn, đề nghị "Ôn Vật" trả lại cho Việt Nam Hoàng Sa, và vùng Lưỡng Quảng, (Quảng Đông và Quảng Tây)từ thời xa xưa cổ đại Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình. Sau đó bịT ".

Chúng tôi hình dung trước những bước chân sẽ đến cao điểm Lão Sơn
và Vị Xuyên, hai địa danh chiến trường Việt-Trung vẫn tiếp tục đẫm
máu không phân biệt binh sĩ tử vong!
Nguồn: Hải Âu
DF-1, Q:14.
Bỗng dưng, có kẻ khen người chê lối phát biểu "phản động" của người thanh niên non choèn choẹt, riêng tôi nghi ngờ lỗ tai bệnh hoạn hay xúc động mạnh, lòng hổ thẹn phải gục đầu xuống ba lô. Một hồi lâu tôi mới ngẩng đầu lên, mắt ngó về hướng cửa của con tàu, để suy nghiệm lời báo động của người thanh niên xa lạ, nói về thân phận Việt Nam, lên tiếng tố cáo đảng CSVN để mất nước, chấp nhận làm thân chư hầu.
Tôi bừng tỉnh và cảm nghiệm chính đảng CSVN đã bán dân tộc và Tổ quốc Việt Nam; trí thức hững hờ, nhân dân im lặng, quân đội chỉ bảo vệ đảng CS làm ngơ Tổ quốc. Tổ quốc đã lâm nguy và sắp đến hồi kết thúc, 75 triệu người Việt Nam (1985) tiếp tục chạy theo phương tiện, sống cho cá nhân! Thử hỏi khi đất nước rơi vào ách nô lệ giặc Hán, viễn cảnh đất nước  trong điêu linh, bị trị bởi hai vòng xiềng xích của đảng CS bản xứ và đảng CS Trung Quốc!
Lạ thay trước mặt tôi, có một thanh niên vốn dân tộc Liêu dám bộc bạch những lời kiêng cữ, không sợ hiểm nguy, quả nhiên người thanh niên Liêu truyền nồng ấm tình yêu quê hương Việt vào tim tôi đã khiến tôi bừng tỉnh, đánh thức lương tri ngủ say và mê muội của tôi. Càng nhớ về quê hương, nhớ từng bước chân rảo khắp trên mọi miền đất nước, tôi càng ngẫm nghĩ về 6 tỉnh biên giới của quê hương đã mất. Đây là một phần lãnh thổ chiến lược của Việt Nam đã rơi vào tay Trung Quốc.

Chúng tôi thu thập được 15 địa danh của lãnh thổ Việt Nam bị
Trung Quốc chiếm từ 1956 đến 1999. Căn cứ theo bản đồ hành chánh,
hiện nay Trung Quốc chiếm toàn vùng chiến lược của 6 tỉnh Lai châu,
Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh phía Bắc Việt Nam
Nguồn: Hải Âu
DF-1, Q:14.
Tôi lại gục đầu xuống ba lô muốn khóc, đầu óc liên miên chập chờn, vọng niệm hư giả vẫn không có tiếng ai đáp lại. Một hồi lâu nghe tiếng người thanh niên dân tộc Liêu và gã có gò má cao, khuôn mặt trần ngâm đồng nói:
– Chúng tôi nói thẳng, nói bằng lương tâm, quý ông không hài lòng thì đi chỗ khác hay tránh bọn hủi này, để không mích lòng nhau.
Bốn khẩu súng lục chĩa vào đầu ngươi dân tộc Liêu và gã gò má cao, bốn tay súng đưa thẻ công vụ Quân báo ra và nói :
– Mời quý đồng chí đi theo chúng tôi.
Giọng nói của họ rất khô khan, riêng tôi lẹ làng giúi vào tay người thanh niên dân tộc Liêu, 200 Yuan, đưa tay làm dấu hiệu tặng hai người. Lúc này cả toa tàu yên lặng khác thường, hơi khó hiểu. Trong lòng tự trào một quyết định:
– Khi vào đất Tổ phải làm gì đó cho Quê-hương, từ đây mở rộng giao thiệp với "Hải Âu", bám không rời biên giới Tây-Đông Bắc của Tổ quốc, chính mình phải có một phương thức thực hiện cẩn trọng, đồng giải mã "MB84" tìm cho bằng được trong Bộ chính trị đảng CS Việt Nam có bao nhiêu nhân viên tình báo Hoa Nam. Ít nhất đã đọc qua một lần từ "V" của tình báo Hoa Nam, cho thấy Bộ chính trị đảng CSVN trực thuộc Hoa Nam, bởi thế họ tổ chức bộ máy cai trị đất nước Việt Nam bằng một phiên bản không thể khác CS Trung Quốc!
Trong đầu óc tiếp tục suy nghĩ liên miên, đặt nhiều nghi vấn khác nhau về "MB84" và "V":
– Nếu thế "V" một bộ máy CS Trung Quốc đã làm chủ đất nước Việt Nam, còn "MB84" một tổ chức hoạt động siêu quốc gia, đứng trên chính quyền đảng CS Việt Nam, họ có riêng quân sự, kinh tế, tài chánh, phương tiện sống của nhân dân và quốc gia thuộc về họ.v.v... Thảo nào một tình báo Hoa Nam có qui luật của nó, dù sống hay ở bất cứ nơi nào cũng an toàn dưới bóng CS Trung Quốc. Thế "V" và "MB84" không thể qui tội cho họ phản bội dân tộc và bán đứng Tổ quốc Việt Nam, bởi họ là người Hán đã hoạt động tình báo tại Việt Nam hơn 73 năm qua (1940-2013), chỉ qui tội người Việt Nam quá khờ khạo để cho họ mượn chủ thuyết Cộng Sản biến Việt Nam thành chư hầu, đến nay người Việt vẫn chưa mở mắt ra để soi rọi bóng tôi đi tìm sự thật.
Đây là một sự kiện quá  khủng khiếp, CS Trung Quốc đã vận dụng CS Quốc Tế để cướp quốc gia lân bang. Họ hành động rất tinh vi, hơn cả suy nghĩ của những nhà thông thái. Giờ đây nhân dân Việt Nam vẫn còn say đắm mùi vị CS chăng, hay vẫn ngủ trong truyền thuyết cách mạng tháng 8, bản tuyên ngôn độc lập 1945 của tình báo Hoa Nam và Hiến pháp đẫm máu ôm chân CS Trung Quốc. Chế độ CS che đậy dã tâm lớn bằng những nhân vật biểu tượng như Hồ Tập Chương (Hồ Chí Minh). Người dân hãy bừng tỉnh để đón cơ hội trở mình, cùng nhau tìm phương thức thoát đại họa CS, và mở cửa tiếp nhận trào lưu tiến bộ "Dân Chủ Đa Nguyên", thế kỷ 21 của nhân loại văn minh.
Ngồi trong toa tàu hỏa của Trung Quốc, tiềm thức trong tôi cứ mãi xoay quanh tầm vóc rộng lớn củalịch sử dân tộc Việt, cảm nhận thế hệ nào cũng đắm chìm trong chiến tranh. Đầu óc quay cuồng suy nghĩ không chịu ở yên, bởi  lòng xôn xao không chấp nhận sự gian giảo của đảng CS Trung Quốc đã bày ra trận bố cướp biên giới của Ông-cha đã dầy cong xây dựng đất Tổ Việt! Đến hôm nay tôi mới hình dung hành động của riêng mình, và chuyến đi này cho phép dấn thân hơn.
Có người thúc bên hông, tôi tỉnh lại tâm ý, tự thôi thúc, hứa:
– Nhất định giải mã "MB84" cho bằng được.
Tôi sửa lại thế ngồi, hành trình điền dã còn dài. Tiếp cận chiến trường dù cô độc nhưng lòng tôi vẫn vui và chấp nhận mọi hiểm nguy. Một lần nữa cùi chõ cánh tay của Hải Âu (海鸥DF-1, Q:14) thúc vào bên hông tôi, y nói:
– NF3.....86, có biết một sự kiện khôi hài nhà nước CS Trung Quốc không?
– Hải Âu cứ nói tôi nghe đây.
– Buổi chiều ngày 18 tháng 2 năm 1979, Cục Dự trữ chiến dịch thuộc Quân Ủy trung ương (CPPC), nhận lệnh khẩn cấp, mở cuộc tổng tấn công phía trước biên giới Việt Nam di chuyển bằng quân xa. Họ ngụy trang đầy cây lá, hối hả chuyển quân bắt đầu tấn công, binh sĩ không có thời gian nấu ăn phải lên đường. Quân Ủy trung ương giao cho trung đoàn 55 của Quân khu Quảng Châu chuyên sản xuất và lắp ráp ôtô, nhận trách nhiệm nhà bếp và chuyển thức ăn vào chiến trường. Nhà máy ôtô biến thành kho lương thực của bộ binh, và từ đó chiến binh trên trận địa trường mang dạ dày trống rỗng! Chỉ được ăn vào 8-9 giờ ban đêm. Tôi đã mất hai xuất ăn bởi ôtô chuyển thức ăn quá ít, tôi phải chờ chuyến khác nhưng chờ mãi vô ích. Binh sĩ biết rằng cấp trên ăn chận khẩu phần, họ bắt đầu "ăn cắp cơm giòn" đưa đến tình trạng đồng đội nổ súng rồi ôm nhau chết. Họ chết vì miếng "cơm cháy" chứ không chết bởi địch quân, nhưng họ cũng được vinh danh anh hùng liệt sĩ. Tôi thường gặp trường hợp này, lặng lẽ ghi vào sổ lưu bút về căn tính xấu của người Hán. Họ vốn rất ích kỷ, dù nước ở con mương bên đường, họ vận dụng bắp thịt để giải quyết biên giới sử dụng nước.
Vừa rồi tôi thấy NF3.....86 tặng cho hai đồng chí tên tuổi không biết, một số tiền không phải nhỏ, trong lòng họ có cảm ơn bạn không!
Một hiện thực khác trong cuộc chiến tranh VN-TQ người ta gọi "Tự vệ"
Buổi sáng ngày 19 tháng 2 năm 1979, Quân đội tuy được trang bị nhẹ, thế nhưng trong ba lô của những chiến binh lại có những mặt hàng phi chiến đấu, tất cả đều được xếp chồng lên nhau cùng với vũ khí, đạn dược, chai, túi xách, và nước. Những người lính tự động phân phối một vài mẩu tạc đạn, chất nổ cứng. Tìm hiểu ra mới biết do nhu cầu bồi dưỡng cho nên dùng tạc đạn đánh cá ao hồ v.v... Họ không hiểu nhiệt độ đầu mùa Xuân phía Nam rất cao, ban ngày lên đến 25 độ, cái nóng ấy làm nhiều binh sĩ bất cẩn cho nổ tạc đạn vào người thay vì cho cá. Khí trời Việt Nam rất nóng, họ phải tự động cởi đồng phục, hầu hết chỉ mặc quần đùi, áo sơ mi. Cấp lãnh đạo cho rằng không hợp với phong cách quân đội, tức thì binh sĩ được trang bị bằng vải mưa, cho rằng trang bị nhẹ; thực ra binh sĩ không cần áo mưa, họ chỉ cần ăn no.
Tại chiến trường xảy ra những sự kiện không nên có; cấp chỉ huy nhận lệnh khởi hành 20 đoàn quân xa chuyên chở lương thực, và mạng lưới nước cung cấp chiến trường. Việc làm này cũng đã thấy quá khó khăn, do biên giới phía Nam núi non hiểm trở. Quân ủy (CPC) quá ngu muội, trong đoàn quân xa lương thực lại chèn vào xe tăng, xe bọc thép, pháo binh, đạn dược v.v... nếu địch quân phát hiện xem như "tự vệ" thành "thất thủ". Địch thủ chỉ cần đánh vào lương thực và nước là đương nhiên Họ Đặng kêu trời không thấu! Chiến trường sẽ tan vỡ cuộn thành thép, không khác nào bột màu đỏ tung toé trên vỉa hè. Tôi thường thì thầm hỏi lý do nào Đặng Tiểu Bình đẩy chúng tôi về phía trước tuyệt vọng.
Anh NF3.....86, có biết không, những con đường núi không đủ rộng, nhiều nhánh quân đội di chuyển cùng một lộ trình, luôn bị ùn tắc giao thông, không ai chịu nhường ai. Thế là tranh chấp lẫn nhau trên sườn núi; những tiếng nói ồn ào trộn lẫn lời thô lỗ và giọng điệu của kẻ cướp trong người lính Trung Quốc. Công binh đã mở hành lang thứ hai, xe vẫn ùn tắc ở những nơi quá hẹp giống bị khóa nút miệng chai. Xe Quân y tải xác binh sĩ bị ùn tắc lâu ngày, bọc vải nhựa bao tử thi không bền, không đủ sức chịu đựng thời khí nóng trong-ngoài, có những tiếng xì hơi kinh hãi, sau đó bốc hơi mang theo mùi hôi tanh, khiến cho binh sĩ sợ hãi, nản lòng, chưa ra chiến trường đã hết ý chí chiến đấu!
Theo tôi nhận thấy cuộc chiến năm 1979 quá tàn nhẫn. Tại ngã ba giao điểm gần cửa khẩu Hữu Nghị, thường dân Việt Nam vô tình phải hứng chịu pháo kích của ta, làm chói tai, vạn lần tiếng gầm rú của thuốc súng, khói lửa mang theo bạo lực âm thanh nổ long trời lở đất. Trong lúc chúng tôi được lệnh tham gia cuộc chiến gần cửa khẩu Hữu Nghị, đột nhiên lại nhận được lệnh hỗ trợ giải thoát cho Tập đoàn quân 42 tại hướng Nam, chúng tôi phải mở cửa tấn công tổng hợp. Cấp chỉ huy bảo chúng tôi tiếp tục đột nhập sâu vào biên giới Việt Nam, chiếm được một đầu cấu làm phòng ngự cố thủ, cầu đúc bê tông cốt thép, cây cầu dài hơn 100 mét, có khả năng chịu trọng tải hàng chục tấn.
Phía quân đội Việt Nam muốn phản công ngăn chặn chúng tôi, họ sẵn sàng làm nổ tung cầu, họ đã đặt ở đầu cầu của họ hai tấn thuốc nổ, hơn 300 ngòi nổ lắp đặt điện và điều khiển bán tự động. Binh sĩ Việt Nam đang cố gắng tận dụng lợi thế khi quân đội của chúng tôi mới vượt qua biên giới được một nửa. Chúng tôi sử dụng chiến lược nhanh, thổi đạn pháo qua đầu cầu của địch, không cho đối phương kịp phản ứng, do đó chúng tôi đã giành được chiến thắng, nắm bắt cầu cho quân đoàn 4, quân đoàn 12, trung đoàn trinh sát 374, và trung đội Công binh.
Trong ngày ấy chúng tôi không nhận được sự che chở của pháo binh, chúng tôi dùng chiến thuật biển người, đẩy nhiều lớp tấn công vào những trạm kiểm soát biên giới của Việt. Chỉ mười lăm phút sau chúng tôi dập tắt tất cả sức kháng cự của địch quân và họ phải đầu hàng. Sau đó pháo binh Việt Nam bắn trả nhưng chỉ tạo ra những ổ gà dưới đất, tổn hao vỏ đạn thuốc súng. Nhiệm vụ của chúng tôi là ở lại bám cầu, tay cầm vũ khí bảo vệ hai đầu cầu cho đến ngày rút quân.
Những đơn vị phía trước đã chạm địch và giao tranh quyết liệt, tiếng súng và pháo ở khắp mọi nơi, súng máy, súng trường, âm thanh đạn lạnh, gầm thét trong biển máu, với những tiếng pháo gầm bay trên đầu, không khác nào miệng núi phun lửa suốt ngày đêm, những vỏ đạn rơi xuống đất mỗi lúc chồng chất lên cao.
Trong khu rừng xanh, những ruộng mía, xe tăng quân ta xuất hiện, địch phát hiện phá vỡ điểm khiếm khuyết của xe tăng, đưa đến tình trạng tê liệt tháp pháo, những lỗ đạn lớn trên thân xe. Xa xa bên đường có những chiếc ôtô quân sự hiệu Hoàng Hà JN252, Hongyan CQ261, Dongfanghong DFH665, Diên An SX250 bị cháy, xe tăng T54A, B/55 nhìn thấy không khác rùa chết, đôi khi còn ngửi được mùi cháy khét lẹt từ xác cháy của binh sĩ tử vong.

Đoàn tàu hỏa chở quân xe, vũ khí bị loại ra khỏi chiến trường,
chuyển tải từ ga Hợp Phì về Côn Minh trang bị lại,
chỉ cần nhìn thấy những thứ này cũng biết quân đội Việt Nam đáng gờm.
Ảnh: NF3.....86.
Còn 10 cây số nữa thì tàu hỏa vào ga Hợp Phì(合肥).
Tự dưng nói với lòng, tuy đứng ngoài cuộc chiến Việt Nam-Trung Quốc, không vì thế mà làm ngơ trước sự vô cớ quân Trung Quốc xăm lăng, chiếm lãnh thổ của Việt Nam. Lòng phẫn nộ không thể tha thứ đảng CS Việt Nam bán nước, thôi thúc con người một mình một thân đi qua những con hào chiến lũy của bọn bành trường Bắc Kinh và tiếp cận chiến trường để ghi lại những hình ảnh, thước film lịch sử cho hậu thế.
Người ta đi tìm chân lý, riêng tôi tìm lòng cảm xúc yêu mến quê hương bằng hành động của trái tim, cùng những chiến binh Việt Nam nằm xuống vì bảo vệ Tổ quốc. Họ đã hy sinh cho Tổ quốc chưa hẳn họ đã hy sinh cho đảng CS Việt Nam. Họ đã bị đảng CSVN đánh lừa và lợi dụng. Qua những trag hồi ký nhặt được từ chiến trường, trên lãnh thổ của quê hương mới biết được người chiến sĩ vô danh ấy để lại đôi lời suy tư nhận diện cuộc chiến 1979, và chân dung người chiến sĩ vô danh ước mơ lãnh thổ quê hương vẹn toàn vẫn còn nguyên. Người chiến binh tử sĩ đã đem theo nhiều bí ẩn trong cuộc chiến trên lãnh thổ Tây Bắc-Đông Bắc Việt Nam,  mà anh đã một lần tham chiến vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 và ngày 2 tháng 4 năm 1984. Cuộc chiến biên giới này đến nay vẫn chưa nguôi ngoai khói lửa.
Chắc chắn thế hệ mai sau sẽ đánh giá sự kiện chiến tranh hôm nay, bởi tuổi trẻ năng động, cần điểm đứng trong xã hội dân chủ đa nguyên và nguồn sống thanh bình từ cộng đồng đến tâm hồn.
Huỳnh Tâm
[1] Một người Liêu đọc thơ của Nguyễn Du.

Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam- Kỳ 3 (Huỳnh Tâm)

Thongluan


“…hiểu nổi lòng chiến binh nằm xuống trên đất quê hương, tuy nhiên họ nào có biết, đã tưởng chết là hết, ngờ đâu thời cuộc đưa đẩy mộ phần chiến binh vào đất địch, không còn ước mơ hay chọn lựa nào khác, và nhật ký thay cho nấm mồ vùi sâu, phiêu lạc!…”
Đại họa nghìn năm nô lệ gần kề
Sau khi chào tạm biệt ga tàu hỏa Hợp Phì (合肥站), chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình gian nan hơn. Vì thân thể có lẽ tiêu hao sức lực, nên lòng thật sợ hãi, e rằng không còn can đảm để bước vào chiến lũy. Đầu óc căng thẳng tột độ, suy nghĩ mông lung. Tinh thần quay cuồng muốn điên lên được vì trông thấy trước mắt con mãnh thú Trung Quốc. Tôi  tự hỏi:
– Tại chiến trường trên lãnh thổ quê hương Việt Nam có bao nhiêu chiến sĩ tử vong, thương binh, mất tích, và tù binh hiện ở đâu? Tất cả những con số ấy đến ngày hôm nay đảng CS Việt Nam vẫn không công bố qua văn bản chính thức. Rõ ràng điều này cho thấy đảng CS Việt Nam chơi đen đỏ với Trung Quốc, quịt nợ nhân dân Việt Nam.
Người lính Trung Quốc bị đẩy vào đường cùng trong lòng lo sợ cái chết đang núp bong đâu đây. Báo chí ngoài luồn không phương tiện tiếp cận nên khó hình dung chiến sự và chiến thuật, vả lại chiến trường được bảo phủ bởi những màn che khuất bí ẩn. Vào vùng đất hiểm nguy chỉ để đổi lấy một mẫu tin nhỏ, họ gặp quá nhiều khó khăn. Rất tiếc Cát Thuần không còn ở Trung Quốc cho nên việc tìm ra một tiếp tuyến vô cùng trở ngại. Điều kiện vào được chiến hào của bọn bành trướng Bắc Kinh không đơn giản tí nào, chỉ cần lóe lên một tia sáng nghi ngờ trong đầu của tình báo, phản gián hay quân báo, xem ra phóng viên này sẽ trở thành nạn nhân không hy vọng sống sót. Lần đi này tôi đã vào tận hang hùm, chỉ vì muốn biết có bao nhiêu tấc đất, mãnh da của tổ quốc bị mất. Đến hôm nay tuy chưa ai tổng kết nhưng tôi cảm nhận vùng biên giới rộng lớn của Việt Nam đã bị mất quá nhiều vào tay Trung Quốc.

Trước kia chưa có chiến tranh 1979. Toàn cảnh nong nước núi
rừng Lão Sơn của Việt Nam, một bức tranh gấm vóc tuyệt đẹp
và thanh bình.
Nguồn ảnh: Tân Hoa Xã.
Người dân Việt Nam không thể có thái độ cấm khẩu, lấy mắt làm lòa, bỏ mặc cho đảng CS Việt Nam bán đứng đất nước! Càng không úp mặt vào thái độ ngậm ngùi trước lịch sử, thân nhỏ bé này tại biên giới không khác một bọt bèo trôi nổi. Nhìn vào những tấm gương lớn của những người chiến binh hy sinh, giữ núi rừng biên giới, tôi chấp nhận lấy mạng tử vong cho quê hương đất nước thanh bình.
Chúng tôi hy vọng tìm ra được một số ít bí ẩn, qua cuộc chiến trên lãnh thổ của quê hương. Sự hiện diện của chúng tôi ở đây do chính giòng máu Việt thôi thúc, chấp nhận đi vào tận cùng của đường nguy hiệm. Các cấp lãnh đạo CS Việt Nam tự nhủ cho rằng mình “sinh bất phùng thời”. Họ được sinh ra chỉ để ăn bám xã hội, họ đầu hàng, bán đất nước Việt Nam cho quân Hán. Đất nước lâm nguy, họ sống thụ hưởng, sống trên đầu dân, trốn tránh khi đất nước cần. Đứng trước sự kiện mất nước họ chẳng bao giờ đoái hoài đến Tổ quốc. Mấy mươi thập niên qua đảng CSVN đã mạt sát và hành hạ dân tộc Việt Nam không thương tiếc.
Trở về thực tế chiến trương, quân xa Diên An SX250 chạy đến giao lộ ba hướng, phóng viên Trịnh Hòa (郑和), chuyển lên xe Hoàng Hà JN252 đi về hướng Vị Xuyên, chúng tôi chào nhau, Hải Âu 海鸥DF-1, Q:14, nói:
– Hẹn tái ngộ ở Vị Xuyên hay Lão Sơn.
Trịnh Hòa (郑和) đáp :
– Chậm lắm 10 hôm nữa, em có mặt Lão Sơn, quý anh đến Lão Sơn khi nào về Côn Minh hay Nam Ninh ?
Hải Âu 海鸥DF-1, Q:14, đáp:
– Tôi công tácQ:14, còn anh NF3…..86 chưa biết đi về đâu, nếu cô đến Lão Sơn ghé địa chỉ  của tôi nhé?
Quân xa Diên An SX250 tiếp tục hướng đến Lão Sơn, xe lăn bánh vào con đường gồ ghề, lầy lội, trên mặt đường còn in dày đặc dấu vết xetăng, xe bọc thép, xe pháo binh. Đi chưa được 20 phút đã nghe rất gần từ vùng lân cận có tiếng đại pháo lạnh,nổvang động, thi nhau nổ theo thời gian ấn định của cấp chỉ huy, đôi khi có mảnh bom bay trên đầu chúng tôi với âm thanh lạ. Xe âm thầm cứ thế lao tới, tôi không thể nhìn tình hình xung quanh, bởi từng phút của thời gian suy nghĩ về đêm nay, chỉ còn lại một hơi ấm làm thế nào để ổn định được tâm trí cho ngày mai.

Quân Ủy Trung Quốc (CPC) ra lệnh cho Quân đoàn 67 khai hoả
chiến tranh sáng ngày 2 tháng 4 năm 1984.
Quân bành trướng bắn phá dữ dội vào quân đội biên phòng
tại dãy núi Lão Sơn Việt Nam, đỉnh núi cao ký hiệu C211
có địa hình chiến lược quan trọng nhất của Lão Sơn.

Nguồn: Quân đoàn 67.
Đến 21 giờ đêm, xe đưa chúng tôi đến bộ chỉ huy Q:14 [1], chưa kịp lấy ba lô liền nhận được xuất cơm khuya như mọi người lính khác, riêng Hải Âu 海鸥DF-1, đi trình diện Q:14.
Tôi vừa ăn vừa để mắt quan sát chiến trường qua bóng đèn mờ trong sương mù. Ánh sáng thu hẹp áng chừng 5m, ăn cơm chưa hết đã thấy có một tên lính đến gần nói:
– Tôi được lệnh, mời đồng chí vào hầm trú ẩn của bộ chỉ huy.
Đến nơi mới biết đó là một hang động nhỏ, ẩm ướt nằm trong vách núi, vị trí phòng thủ khá kiên cố. Khu vực này được bố trí cẩn thận, đúng là một bộ chỉ huy triển khai quân sự. Gần đây chắc chắn phải có vị trí trú ẩn của những tên tướng Hán. Hầm trú ẩn xây dựng bằng vật liệu nặng gồm thép và bê tông, chiến hào chằng chịt nhiều hướng giao thông, bao gồm các vị trí đại pháo, súng trường, súng máy, binh sĩ phòng thủ. Người lính Trung Quốc tay ghìm súng hì hục đào chiến hào không khác nào người thợ hầm mỏ, mắt hóp, da thâm.

Chiến trường
Lưỡng Sơn (Lão Sơn-Giả Âm Sơn) thuộc tỉnh Lào Cai,
núi liền núi dẫn đến chiến trường 1509 Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang.
Người ta thường gọi chung
dãy núi Lão Sơn.
Điểm đứng của chúng tôi tại
ký hiệu 227 ở phía trước ký hiệu 146 và 142.
Nguồn: Quân đoàn 67.
Được biết, công sự hầm trú ẩn của binh lính CS Trung Quốc được xây dựng bằng tre, cây rừng, theo lối xà chéo, phần trên lợp phên, phủ lớp đất đá ngụy trang. Cây tre trên đất Việt làm công sự rất thích hợp cho phòng thủ, phía trong hầm còn có kệ tre, giá gác tre. Chúng đan phên tre làm cửa, ngụy trang lối ra vào chiến hào. Chung quanh giao thông hào có kích thước nhỏ đủ cho hai người ngược chiều tránh nhau, cứ cách 10m có hầm trú ẩn cho một tiểu đội chiến đấu, hình dung chung nơi trú ẩn của cấp chỉ huy đều trang bị hỏa lực vũ khí nặng, đội ngũ chiến đấu theo địa hình giao thông hào. Quả nhiên họ phối hợp với môi trường chung quanh tạo thành nơi trú ẩn rất tinh tế, bên ngoài hầm chỉ thấy dấu vết thiên nhiên của cây rừng mọc lên từ sườn núi.

Lãnh thổ Lão Sơn của Việt Nam, chiến tranh đẫm máu,
những ký hiệu điểm cao chữ đỏ nơi quân đội Trung Quốc chiếm cứ,
những chữ đen điểm thấp quân đội Việt Nam cố thủ,
3 Sư đoàn của Việt Nam tại chiến trường Lão Sơn thất thủ
trước 62 Sư đoàn của Trung Quốc.
Ngày nay Lão Sơn thuộc về Trung Quộc lại thêm một lần
nữa dân tộc Việt Nam mất dân, mất đất!

Vũ khí Ground-Base Laser Guns của Trung Quốc
làm đỉnh núi hóa trọc. Nguồn ảnh: Tân Hoa Xã.
Một gã lính hướng dẫn tôi đến vị trí ngả lưng. Đi dọc theo rãnh giao thông hào vào bên trong hầm, tôi thấy trên vách có ghi chú “A”, ký hiệu của một nơi trú ẩn an toàn. Chân đạp phải vỏ đạn đồng vang lên khó chịu. Một vết đèn sáng từ xa báo hiệu có ngưới lính thay ca trực vừa đi đến, toàn thân mang lựu đạn chày.
Một đêm dài không chớp mắt vì đạn pháo khạc chất nổ thâu đêm đến sáng. Mấy ngày trước đã mất ngủ, đôi mắt vàng thâm đen. Sáng nay được thông báo sẽ được tạm trú một nơi cố định hơn, và được biết vị trí tôi tạm trú đêm qua có thể hôm nay địch tấn công, họ còn cho biết: “Khi nghe tiếng còi phải lập tức ẩn mình vào giao thông hào”. Họ đưa cho tôi áo giáp với một Colt 45 để thủ thân.
Tờ mờ sáng ra khỏi chiến hào, thấy xa xa một gốc rừng bên trái đồi núi 142, có vài ngọn lửa đang bốc cháy cao, lẫn âm thanh của đạn vùng lên sáng đỏ, cùng lúc những tiếng súng lẻ tẻ ở dưới chân núi. Từ xa có tiếng còi dài, tôi chuẩn bị xoay chân nhảy xuống hầm, người lính đứng bên nói:
– Đồng chí an tâm, tiếng còi ấy là quân lệnh truyền đến hai địa chỉ pháo A và B ngưng khạc lửa.[2]
Sáng nay chạm mặt tên Thiếu tá, y tự giới thiệu:
– 东页(Trang Đông) công tác F:199.
Cũng có thể gã này là cấp thừa hành của Hải Âu (海鸥DF-1, Q:14). Y nói tiếp:
– Kính mời đồng chíNF3-86, đếnbộ tư lệnh Sư đoàn 199 dùng điểm tâm.
Thấy trên người của y có Hải Âu (海鸥DF-A, F:199) đáp:
– Vâng, Hải Âu (海鸥DF-A, F:199)tôi đa tạ, xin phép đi lấy ba lô.
– Vâng, tự nhiên.
Hối hả xuống giao thông hào lấy ba lô, vừa ngoi đầu lên tôi nói tiếp:
– Đồng chí Hải Âu (海鸥DF-A, F:199), có cảm giác ở đây sương mù nhiều, buổi sáng hơi lạnh nhỉ?
– Đúng một phần thôi, khí hậu ở đây cũng lạ, buổi sáng lạnh, buổi trưa oi bức, buổi tối khó thở, quả nhiên chiến trường Laoshan (Lão Sơn) này có khác, đỉnh núi cao 1422,2 mét trên mực nước biển.
– Thế à, vậy trên toàn chiến trường Laoshan hiện diện có bao nhiêu người phải chịu trải gió dầm sương như thế này?
– Thưa, trước sau có tất cả 7 đợt thay quân chiến đấu, đồng thời có 14 đợt tấn công biển người, nếu nói “trải máu, gió, sương” mới đúng nghĩa của chiến trường này.
Y nói tiếp:
– Tôi xin trình bày ngắn gọn để đồng chí am hiểu quân số ở đây, mở đầu chiến tranh cùng ngày 2/4/1984. Tham chiến gồm có những Quân đoàn 14, Quân đoàn 11. Quân đoàn 1 tiếp viện lần thứ nhất ngày 06 /08/1984. Quân đoàn 67 tiếp viện lần thứ hai ngày 5/11/1985. Quân đoàn 47 tiếp viện lần thứ ba ngày 5 /11/1986. Quân đoàn 27 tiếp viện lần thứ tư ngày 11/5/1987.
Ngoài ra còn có những Quân đoàn khác tham chiến, nhưQuân khu Thành Đô, Quân khu Thẩm Dương, 12 tiểu đoàn trinh sát. Vân Nam gửi Quân đoàn 13 tham chiến ngày2/04/1984. Quân đoàn 40, trung đoàn 122 pháo binh. Bộ phận phục hồi Laoshan tham chiến ngày 30/04/1984, gồmLục quân 41, Quân đoàn 31 và Quân đoàn 32. Tất cả quân dân tuân lệnh Bắc Kinh thu hồi Laoshan.

Thi
ếu tướng Trịnh Quảng Thần (郑广臣 – ZhengguangChen)
Tư lệnh Sư đoàn 199, chỉ huy xung kích đâm vào đỉnh núi 211
nơi đồn trú biên phòng Việt Nam.
Quân đoàn 14 Trung Quốc án ngữ
vị trí chiến lược án ngự đường viện binh phía trước của quân đội Việt Nam

Nguồn: Quân đoàn 14.
Thói thường giao thiệp với người chưa từng quen biết, không nên tin tưởng lời nói của ai. Theo qui luật, một Hải Âu chuyên nghiệp với tính chân thực, dù có nói hết lưỡi cũng còn chất chứa dối trá, có thể lấy được 60% tin tức ; nếu Hải Âu tình báo hay quân báo chỉ lấy được 30 % tin tức, càng không tin lời nào của phản gián. Trái lại, chiến binh tại tiền tuyến lấy được 50% tin tức, khó tin những gì qua lời nói của những cấp tướng hay chỉ huy chiến trường, bởi tất cả bí mật chiến tranh trong người họ, họ còn có tài thêu dệt cuộc chiến trở thành huyền thoại, tuy thất bại trước mắt cũng vẫn nói chiến thắng, lính tử vong mười khai một, và họ có đủ lý do để viện dẫn chạy tội. Tôi hỏi tiếp:
– Vậy phía Việt Nam phản công thế nào, phân thắng-bại ra sao, lúc ấy anh ở đâu ?
– Thưa, tôi có mặt từ ngày đầu cuộc chiến 17/2/1979, khi ấy quân hàm Thiếu úy cho đến nay Thiếu tá. Tôi còn nhớ vào lúc 4:50 PM, ngày 31 tháng 5 năm 1985, quân đội Việt Nam đột nhiên tập trung tấn công bắn phá các vị trí của ta, rõ ràng quân đội Việt Nam tàn bạo kinh khủng, họ dám đối đầu với quân đội Trung Quốc trên thế trận hoàn toàn không cân sức giữa hai bên, dẫn đến kết cục chiến trường Lưỡng Sơn hai bên đồng thảm sát, kết quả Việt Nam thất thủ mất trắng Lưỡng Sơn.
Quân đội Việt Nam lui về cố thủ các điểm J, K, L, M, N, O, P, Q và R, sau đó tập trung pháo kích liên tục 45 phút vào quân đội ta, buộc tình thế trung đoàn 982 thám báo xuống núi, tiểu đoàn 4 tại C211, đưa ra quyết định trải lời bằng pháo.Nhiệm vụ quân đoàn 140, 142 và tiểu đoàn 5 tại đỉnh núi 156, 166 thực hiện phản côngmở rộng tầm cháy đuổi quân Việt Nam ra khỏi Lão Sơn, bởi không có tinh thần chiến đấu.
Tôi thầm suy nghĩ:
– Gã Hải Âu (海鸥DF-A, F:199) nói láo khoét, cho rằng quân đội CS Việt Nam có quá nhiều nhược điểm về vũ khí lẫn tinh thần chiến đấu. Đâu có lý nào. Tâm lý người của chiến binh Việt Nam không có điểm tựa chính đáng chăng hay họ bâng khuâng tự hỏi chiến đấu vì ai? Với tâm trạng ban khoan như vậy khi chiến tranh xảy đến họ ắt phải bại trận. Đảng CS Việt Nam một mực tin tưởng vào người chiến binh trung thành với “Đảng” điều này cho thấy đảng CS Việt Nam phiêu lưu, áp đặt chủ nghĩa xã hội thối nát vào trái tim trong sáng của người dân. Thực tế người dân vì Tổ quốc chứ không vì đảng CS và chính đảng CS Việt Nam đã đi bước đầu phản bội nhân dân, bán biên giới Việt Nam cho CS Trung Quốc từ năm 1956  và cho đến nay vẫn tiếp tục [3].
Tuy nhiên lòng dân vẫn tiên phong đứng trước trách nhiệm bảo vệ đất nước. Cuộc chiến tranh biên giới đủ chứng minh người dân sống bằng hơi thở truyền thống của Ông-Cha tạo ra đất nước Việt. Một điểm son khác khá tiêu biểu cho lòng ái quốc của nhân dân: Vào ngày 17/2/1979 chính người dân đứng lên bảo vệ đất nước, còn những người lính đảng CS đã từng mồm loa mép giải, hò hét khẩu hiệu “bách chiến bách thắng” sao lại đưa tay lên cao đầu hàng trước biển người Trung Quốc và những quân biên phòng bỏ chạy cuốn cờ, binh lính Quân khu 1, 2 và 3 bỏ ngỏ biên giới!
Đến ngày 2/4/1984, các điểm núi cao 169, 164, 211, 255, 111, 146, 145, left6, 405, 344, 145, 167, 156, 139, 151, 172, 153, 109, 149, 168, 136, 255, 147, 262, 148,142, 146, 508, 140, 28, 143, 144, 78, 116, 79, 124,  128, 123, 662-6, 129, 131, 130, 2F, 2P, 277 đồng loạt thất thủ. Cấp lãnh đạo quân sự của đảng CSVN rõ ràng đã bỏ rơi nhiều nơiđồn trú biên phòng. Đã có những người lính vô danh âm thầm hiến kế bảo vệ quê hương, họ bám cứ điểm biên giới với hy vọng thu hồi phần đất của Tổ quốc, dù họ tuyệt vọng nhưng vẫn hiên ngang chiến đấu chống trả không đầu hàng quân Trung Quốc.
Chúng tôi tìm được hơn 326 nhật ký của chiến binh vô danh Việt Nam, trong đống chiến lợi phẩm của Quân đoàn 14, và Quân đoàn 67 Trung Quốc, thì rangười lính vô danh mang theo chiến tích phi thường, im lặng dưới 3 tất đất để bảo vệ núi Lão Sơn thiêng liêng.
Có nhiều chiến binh vô danh để lại nhật ký cũng vô danh, bởi những trang giấy đầu, máu thấm đẩm tên tuổi, chỉ còn lại vài hàng con chữ :
– …. Bình, CANDVT tỉnh Hoàng Liên Sơn,thi hành nhiệm vụ biên phòng tại đồn Núi Đất, nguyên quán xã Trịnh Tường, hướng Bắc giáp xã Nậm Chạc. Anh sinh ra và lớn lên trên dòng sông Hồng, ranh giới tự nhiên chiều dài 8 km, giáp Vân Nam, Trung Quốc.
Nhật ký của anh, dòng chữ nghi nhanh:
Vào ngày 31/5/1985 Quân khu 2 và các Sư đoàn chủ lực chia vị trí chiến đấu, ồ ạt tấn công lên những điểm biên phòng cũ thuộc Lão Sơn, họ sử dụng tất cả vũ khí nặng, như súng phóng lựu M-79, ĐKZ, B41, pháo cối81 ly, Pháo cối QLT-89 của Trung Quốc, Pháo cối tự hành 2S23 bắn đạn cối 120mm, cối 82mm, cối 160mm M1943, pháo cối 105 mm, 152 mm, pháokhông giật DKZ, phóng hoả tiển 122mm, cối M1937, M1943 hay Type-53-82mm. Đạn liên tục bay vào đồn quân Hán, ôi rất tiếc thay, đạn đến mục tiêu quá ít. Nửa giờ sau mình vô tình lân la đến đội pháo, thấy họ có ý khinh miệt, xem thường thằng lính tự vệ địa phương, tình cờ bạn lính cùng đại đội, chung sống đồng xã Trịnh Tường, tên “Lồ Chinh” la lớn: “Quý anh cho thằng Bình thử vài quả xem sao, chứ bắn hoài hết đạn mà không trúng địch”. Mình chỉ vài điểm đề họ nã pháo, quả nhiêu trúng đích, khói đen, lửa đỏ bốc lên cao…
Tôi lật tiếp những trang giấy trắng không thấy chữ nào, có thể anh Bình tử vong vào sáng hôm sau! Tôi xem tiếp một vài nhật ký còn nguyên từ trang đầu đến trang cuối, nghi :
Phùng Hải Vị, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1960, nguyên quán làm thân lính tự vệ quân, xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Hoàng Liên Sơn, chào đời bên dòng suối Lũng Pô, ranh giới tự nhiên với chiều dài đường biên giới khoảng 17 km. Xã nằm trên vùng núi đá có độ cao hơn 1422,2 mét, chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc, người Hán gọi nơi này chiến trường “Cao nguyên”. XãY Tý hướng Tây giáp Vân Nam, Trung Quốc.
Lúc buồn thường ngồi vẽ những đướng nét chỉ để mình hiểu, cho nên người đời tặng biệt hiệu “điên vẽ”, mình thích cối cho nên Trung đội cho thủ B41, nhờ thế ngày 2/4/1984 cũng làm mưa gió trước mặt địch, khiến địch chùn bước tiến lên đồn, địch biết sợ hải và khiếp đảm cối của mình, đến ngày 31 tháng 5 năm 1985, từ nơi đỉnh núi cố thủ đưa cối đánh đồn 211, mình tiêu dit khá nhiều địch, chiến lợi phẩm thu được súng phóng lựu M-79 và đạn, mình có máy khạc lửa mới, tha hồ tung hoành chiến trường, trong ngày lấp được mấy đoạn yết hầu giao thông hào và phá được hai hầm trú ẩn cấp chỉ huy có hoả tiển 122mmchôn dưới đất.
…Bá…. BCHQS Lào Cai, nguyên quán xã Quang Kim, phía Bắc giáp xã Bản Qua và giáp Trung Quốc bởi ranh giới tự nhiên với sông Hồng, theochiều dài biên giới hơn 6 km.
Trưa ngày 31/5/1984 mình được lệnh di chuyển cối vào vị trí tấn công bên kia phòng thủ của địch trên đỉnh núi ký hiệu 211, mình đụng độ với lính Trung Quốc, đội cối không ngần ngại tiến thẳng và lựu đạn thảy về phía trước, phá nhiều giao thông hào, ít nhất 27 địch thủ tử vong.
…Minh… Bộ đội biên phòng Tả Gia Khâu tỉnh Lào Cai, đơn vị không có súng chống tăng, Minh đành làm cảm tử quân, nhanh chóng vượt qua khu hỏa lực của địch, Minh bắn dữ dội mới đến được đồi đơn vị của ta, mượn được khẩu súng B41, thế là tha hồ đưa địch quân vào lòng đất, khóa mồm ít nhất 3 ổ pháo cối của địch, từ đó cánh quân ta phòng thủ trên đỉnh núi 211, làm chủ tình hình hơn 3 ngày, sau đó thất thủ vì hỏa lực của Sư đoàn 67 Trung Quốc ra quân chiến thuật biển người…
Những chiến binh vô danh của Việt Nam đã nằm xuống khắp nẻo, trên đồi núi Lão Sơn, họ hy sinh vì quê hương, bảo vệ Tổ quốc. Trong nhật ký họ không có ước mơ nào nói về sau cuộc chiến để rồi thăng quân hàm, có những nhật ký ghi lại đôi dòng mộc mạc rất đơn giản: “Sau cuộc chiến nếu anh không về em cố gắng nuôi con” hay “Em hãy cho con biết về đời thường của bố nhé“, và “Anh không về em tùy tiện lập gia thất, hy vọng em sẽ tìm được người yêu như anh. Lão Sơn ngày 20/6/1984. Hương của anh“……
Đứng trước đống nhật ký, lòng động giao cảm, tự dẫn đường đi thẩm thấu vào những bất khuất ấy, quả nhiên người chiến binh hoàn hảo hy sinh vì Tổ quốc. Bỗng trong lòng có gió se, vang lên tiếng nhật ký của người chiến binh đâu đây. Lại gặp chính mình quá xao xuyến, một lần nữa kết tâm vì đồng sinh, hiểu nổi lòng chiến binh nằm xuống trên đất quê hương, tuy nhiên họ nào có biết, đã tưởng chết là hết, ngờ đâu thời cuộc đưa đẩy mộ phần chiến binh vào đất địch, không còn ước mơ hay chọn lựa nào khác, và nhật ký thay cho nấm mồ vùi sâu, phiêu lạc!
Tôi trở lại gặp Hải Âu 海鸥DF-1, Q:14. Y cho biết thêm vế chiến trường Lão Sơn:
– Ngày 5/11/1986 quân Trung Quốc đã làm chủ được những điểm núi cao của Việt Nam như A169, B164, C211, D255, E111, F146, G145, H left6, I405, và đẩy lùi địch xuống các điểm núi thấp, như J, K, L, M, N, O, P, Q và R. Tiếp theo chuẩn bịcho dàn vũ khí phóng Ground-Base Laser Guns với tốc độ sáng có khả năng tiêu hủy không để lại vết tích, sẽ khiến cho những hỏa tiển của CS Việt Nam trở thành vô dụng.

Lần đầu tiên quân đội CS Trung Quốc sử dụng vũ khí Ground-Base
Laser Guns tại chiến trường Lưỡng Sơn, bắng phá các núi có ký hiệu

J, K, L, M, N, O, P, Q và R của quân đội Việt Nam cố thủ.
Nguồn: Hoa Nam
Quân đội Trung Quốc dã man, làm sạch chiến trường bằng vũ khí Ground-Base Laser Guns. Tại Lưỡng Sơn,Vị Xuyênnhững đỉnh núi có ký hiệu: 169, 164, 211, 255, 111, 146, 145, left6, 405, 344, 145, 167, 156, 139, 151, 172, 153, 109, 149, 168, 136, 255, 147, 262, 148,142, 146, 508, 140, 28, 143, 144, 78, 116, 79, 124,  128, 123, 662-6, 129, 131, 130, 2F, 2P, 277,J, K, L, M, N, O, P, Q và R. Nơi quân đội CS Việt Nam cố thủ nay biến thành bình địa.

Tại chiến trường Vị Xuyên, quân đội CS Trung Quốc sử dụng vũ khí
Ground-Base Laser Guns Ground-Base, từ núi cao ký hiệu
1200,
câu
xuống các điểm núi thấp ký hiệu: 1509, 468, 772, 233, 226,
nơi bộ đội
Việt Nam cố  thủ. Nguồn: Hoa Nam.
Tại chiến trường Lưỡng Sơn, đảng CS Việt Nam mặc nhiên không phản đối, và trước Liên Hiệp Quốc đã không tố cáo  phía Trung Quốc sử dụng vũ khí Ground-Base Laser Guns. Một điểm rất bất thường là đảng CS Việt Nam không hề công bố trước nhân dân về việc đảng CS Trung Quốc chiếm Lưỡng Sơn trên lãnh thổ  biên giới của Việt Nam.
Bởi thế, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười thay mặt đảng CSVN và nhân dân Việt Nam luôn mồm tuyên bố: “Chúng tôi là anh em một nhà. Anh em trong nhà thì cũng có lúc mâu thuẫn, bất hòa, nhưng về cơ bản vẫn yêu thương nhau…” [4].
Huỳnh Tâm
[1] Tư lệnh Quân đoàn 14, (14兵团,中国人民军队的指挥官)
[2] Quân lệnh ngoài chiến trường của quân đội nhân dân Trung Quốc .
[3] Film tư liệu chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc, mã số lưu trữ “VTTHX1979217″ Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc (CPC), nội dung. Đảng CS Việt Nam xưa vay, nay trả cho CS Trung Quốc, phần đất 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam.
[4] “Chúng tôi là anh em (Việt Nam-Trung Quốc) một nhà”.

TIN LÃNH THỔ

TIN TRÊN BLOG


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Đọc bài viết trên báo Quân đội nhân dân, có tựa đề "Đạo lý và lịch sử về sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội" của một ông trung tướng tên là NGUYỄN THANH TUẤN, tôi xì-trét đến độ không biết phải làm thế nào, đành biên mấy dòng gửi cho Dân Luận.
Điều ngạc nhiên lớn nhất của tôi là ông này đang mang lon trung tướng, thế mà viết lời văn ca ngợi Đảng và Bác thật "ngây ngô và hồn nhiên" như một em bé mẫu giáo:
"...Trước đây, trong chiến đấu, chúng tôi thường nói nôm na: “Đảng là mẹ và chúng con quyết nguyện theo mẹ; Bác Hồ là cha và chúng con nguyện theo cha. Khi Đảng và Bác bảo đi, chúng con đi, bảo đánh chúng con đánh... và bảo thắng, chúng con phải quyết giành chiến thắng”....
cứ cái kiểu "bảo và làm" thế này , Đảng bảo... ị ,chúng con phải quyết tâm cố mà... rặn cho bằng được mấy cục để vui lòng "cha mẹ"!
Có vẻ cảm thấy cái sự đội Đảng lên đầu thờ như cha mẹ của mình chưa đủ làm người đọc ép phê, ông trung tướng tuôn thêm một tràng ca ngợi kèm theo triết lý:
"... Đối với thế hệ chúng tôi và những lớp người đi trước, Đảng, Bác Hồ, nhân dân là cha, là mẹ; Quân đội nhân dân Việt Nam là con của Bác, của Đảng, của dân. Đạo lý người Việt Nam không cho phép ai từ bỏ cha mẹ. Bất kỳ ai đòi quân đội từ bỏ sự trung thành với Đảng, với Bác Hồ là đều trái đạo lý, trái lịch sử."
Thật tội nghiệp quá, trước giờ tôi cứ hình dung một ngài trung tướng là phải lừng lẫy oai phong, uy dũng với kiến thức sâu rộng và tài thao lược kinh bang tế thế. Có đâu lại thỏ thẻ, nỉ non như con chim non thế này.
Bất chợt tôi à lên một tiếng: Phải rồi, nhờ thế ông mới lên được "trung tướng" chứ!
Thưa ngài trung tướng, đạo lý người Việt Nam không cho phép ai từ bỏ cha mẹ, điều đó đúng khi là những đấng sinh thành. Còn cái Đảng ruỗng mục đang toan tính "xây hầm trú ẩn", mặc tình cho đạo lý suy đồi, lịch sử nhiễu nhương kia không đáng. Chuyện ngài chọn ai hay thứ gì làm cha mẹ là quyền của cá nhân ngài, không phải cả dân tộc Việt Nam đều đi bằng đầu gối và đội Đảng lên đầu như vậy. Do vậy ngài đừng lớn giọng mà khuyên người ta là trái đạo lý và lịch sử!
__________________________

Đạo lý và lịch sử về sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội

QĐND - Tôi nhập ngũ vào quân đội khi còn ở tuổi thiếu niên. Nói đúng hơn, khi đó tôi đi theo cách mạng, theo Đảng vì phải chứng kiến bao tội ác dã man của giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai gây ra cho đồng bào ta, trong đó có quê hương và gia đình tôi. Những năm tháng trong quân ngũ, được đồng đội, đơn vị và quân đội rèn luyện, giúp đỡ, tôi đã trưởng thành, trở thành đảng viên của Đảng khi vừa tròn 18 tuổi, trở thành người chỉ huy, cùng đơn vị tham gia giải phóng quê hương, góp phần làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 toàn thắng.
Với tôi, Đảng là cuộc sống, là niềm tin, là lý tưởng phấn đấu để góp phần mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mang lại công bằng, dân chủ, xóa bỏ áp bức, bất công trong xã hội… Bởi vậy, trong chiến đấu, tôi và đồng đội đã gạt bỏ tình cảm riêng tư, hạnh phúc cá nhân, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh góp phần làm nên chiến thắng.
Mãi mãi chúng tôi tự hào về điều đó và luôn tâm niệm rằng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đất nước thống nhất, hòa bình hôm nay, không bao giờ được quên ơn biết bao đồng đội đã ngã xuống, đã đổ bao xương máu. Và trong số họ nhiều người, nếu nay còn sống, sẽ giỏi hơn mình và có thể đóng góp cho Tổ quốc nhiều hơn mình! Biết bao các anh, các chị đã ngã xuống khi còn tuổi thanh xuân, đã hy sinh cho Đảng mà không một đòi hỏi, không một hối tiếc, bởi vì họ đã coi lý tưởng của Đảng là lý tưởng của mình, sự nghiệp của Đảng là sự nghiệp của mình...
Từ những suy nghĩ của riêng mình, suy rộng ra của toàn quân cũng như vậy. Không có Đảng thì không có Quân đội nhân dân Việt Nam, vì quân đội ta do Đảng sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện; không có Đảng và Bác Hồ thì không có quân đội ta. Năm 2014, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta sẽ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944/22-12-2014), 25 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân (22-12-1989/22-12-2014). Trước đây, trong chiến đấu, chúng tôi thường nói nôm na: “Đảng là mẹ và chúng con quyết nguyện theo mẹ; Bác Hồ là cha và chúng con nguyện theo cha. Khi Đảng và Bác bảo đi, chúng con đi, bảo đánh chúng con đánh... và bảo thắng, chúng con phải quyết giành chiến thắng”.
Lịch sử là như vậy, mong rằng một số cá nhân đừng lấy suy nghĩ hôm nay để “đo lường và phán xét” những gì đã qua, mà hãy trân trọng lịch sử. Nếu không như vậy làm sao chúng ta đánh thắng hết tên đế quốc này đến tên đế quốc khác giàu, mạnh hơn ta gấp nhiều lần, để làm nên sự tích thần kỳ, ghi vào lịch sử dân tộc những trang vàng vẻ vang nhất. Tôi chưa có dịp đi nước ngoài nhiều, nhưng khi gặp bạn bè quốc tế, họ luôn bày tỏ sự cảm phục chân thành, bởi ít có dân tộc nào làm được như dân tộc Việt Nam, đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Là người Việt Nam, ai không tự hào về điều đó?
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là thắng lợi của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó quân đội có vai trò quan trọng. Chính vì vậy mà quân đội ta đã viết nên và tô thắm truyền thống "Trung với Đảng, hiếu với dân"; " Trung với nước, hiếu với dân". Có Đảng, quân đội ta mới có sức mạnh, không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên lịch sử.
Thế nhưng gần đây, có những ý kiến, kiến nghị muốn Quân đội nhân dân Việt Nam thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Đã có nhiều ý kiến phê phán, phản bác quan điểm sai trái đó, đã lý giải đầy đủ tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng với quân đội. Tôi không lý giải thêm mà chỉ muốn nói về đạo lý. Đối với thế hệ chúng tôi và những lớp người đi trước, Đảng, Bác Hồ, nhân dân là cha, là mẹ; Quân đội nhân dân Việt Nam là con của Bác, của Đảng, của dân. Đạo lý người Việt Nam không cho phép ai từ bỏ cha mẹ. Bất kỳ ai đòi quân đội từ bỏ sự trung thành với Đảng, với Bác Hồ là đều trái đạo lý, trái lịch sử. Chúng tôi, những người đã trải qua, hoặc đang trong quân ngũ, mang đạo lý của dân tộc, không chấp nhận quan điểm đó.
Đất nước đang đứng trước những vận hội, thời cơ và cả những khó khăn, thách thức. Những chiến sĩ chúng tôi không ngại những thách thức khách quan, vì nếu Đảng ta đoàn kết, thống nhất thì không có trở ngại nào là không thể vượt qua. Điều chúng tôi trăn trở, lo lắng chính là sự "tự diễn biến, tự chuyển hóa", phân hóa chia rẽ trong nội bộ Đảng. Mong rằng, lời dạy của Bác Hồ kính yêu: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công" sẽ được mọi cấp, mọi ngành, mọi người thấm nhuần, chung tay xây dựng. Cần kiên quyết đấu tranh loại bỏ những quan điểm, tư tưởng làm suy yếu Đảng, tách Đảng với quân đội; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống.
Trung tướng NGUYỄN THANH TUẤN
Theo Quân Đội Nhân Dân

Góp ý cho Đảng – Tại sao không nên đưa quy định quân đội trung thành với Đảng vào HP?

trungvoinuocNếu cái gì đã là chân lý, như “mặt trời mọc ở đằng đông” thì chẳng cần phải ghi vào văn bản nào thì nó vẫn cứ mọc ở đằng đông.
Còn nếu cứ cố  “quy định bằng văn bản” rằng  “mặt trời mọc ở đằng tây” hay “trái đất hình vuông” thì trong thực tế mặt trời vẫn cứ mọc ở đằng đông mà trái đất thì vẫn cứ hình tròn.
Cái gì đã là điều tất nhiên thì không cần phải ghi vào văn bản.
Lâu nay mình cứ tưởng quân đội hiển nhiên là phải trung thành với đảng rồi vì đảng thành lập, đảng trang bị vũ khí, trang bị cả lý luận, đảng bổ nhiệm các sỹ quan cấp tướng… nên bao năm nay đảng thấy có cần phải ghi “quân đội trung thành với đảng” vào hiến pháp đâu.
Nhưng đến hôm nay, khi đảng cứ khăng khăng đòi phải ghi điều này vào hiến pháp thì lại làm cho mình nghi ngờ không biết điều này có phải là hiển nhiên không.
Không khéo không phải thế thật!   :(
Vì nếu điều ấy là hiển nhiên thì việc gì phải ghi nó vào hiến pháp? Cũng như chuyện mặt trời mọc ở đằng nào như đề cập ở trên.
Mình nghĩ bao nhiêu năm nay nếu có những người nào cũng đã tin việc quân đội trung thành với đảng là điều hiển nhiên thì nay không ít người trong số họ sẽ đâm ra nghi ngại mà đặt ra câu hỏi liệu có phải thế không? Vì họ sẽ nghĩ nếu chuyện này là hiển nhiên thì việc gì mà phải quy định thành văn bản!
Mặt khác bao nhiêu năm nay không có cái quy định ấy cũng chẳng cháy nhà chết người gì, tự nhiên bây giờ không biết ông nào có tâm địa gì  với đảng không mà lại làm phức tạp hóa vấn đề, bảo phải đưa quy định này vào hiến pháp, không những tạo ra những nghi ngờ đảng không muốn có mà còn khiến người ta suy diễn ra nhiều vấn đề khác, tạo cơ hội cho “các thế lực thù địch” lợi dụng chọc ngoáy.  Tham mưu mà thế thì nó là cái gì.i.ì?  Suy thoái  là ở đây chứ còn tìm đâu nữa!
Cũng như có ông nào đó bao nhiêu năm sống với vợ hòa thuận hạnh phúc chẳng có vấn đề gì, tự nhiên một hôm bắt vợ làm văn bản cam kết phải yêu, phải trung thành với mình thì thiên hạ sẽ nghĩ sao? He he, người ta sẽ suy diễn chắc là ông này có điểm gì đó trục trặc, sợ vợ không yêu nữa nên mới bắt vợ phải làm giấy cam kết như thế! :)
Mà nếu nó đã không yêu mình thật thì một trăm hay một nghìn cái giấy cam kết ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì!
Nếu đảng cũng không muốn người ta suy diễn kiểu như thế thì mình khuyên đảng đừng nghe mấy ông quân sư quạt mo xui dại mà đưa quy định quân đội phải trung thành với đảng vào trong hiến pháp làm gì.

Ông TBT có sợ đến ngày đó không?

KTS. Trần thanh Vân

Tôi may mắn có quen biết Ts Nguyễn Văn Khải và cựu Đại tá an ninh Nguyễn Đăng Quang, đồng thời cũng quen biết hầu hết trong số 9 người đã ký bức thư trước. Đó là những con người đứng đắn, hiểu biết và đã từng được xã hội đãi ngộ, từng là đảng viên trung thành của ĐCSVN ( chứ không phải vì bị thua thiệt, bị ngược đãi, nên bất mãn và có tư tưởng suy thoái muốn phá bĩnh )
Bởi vậy, bức thư của họ là lành mạnh và chân thành. Họ thành tâm muốn nói chuyện thẳng thắn với ông đương kim TBT, để giúp ông tìm ra lối thoát trong tình thế “sắp đến bờ vực thẳm của sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu ở cuối thế kỷ trước”.
Vậy tôi khuyên ông TBT hãy bình tĩnh xếp lịch để tiếp những người công dân chân chính này. Bằng không, khi ông gặp nạn ( tất nhiên sẽ gặp ) thì không ai cứu ông đâu
Còn nếu ông hy vọng ở sự dẫn đường của “Ông Thánh Nguyễn Văn Linh” tình nguyện bán giang sơn cho bè lũ TQ từ năm 1990, thì ông nhầm rồi. Tôi cũng may mắn quen biết và thân thiết với nhiều người ở cõi âm lắm, họ bảo tôi nhắn với ông rằng :
“Bọn CS Trung Quốc cũng không khác gì bọn Phong kiến TQ khi xưa là nó sẽ ưu ái với những kẻ phản bội tổ quốc như ông, cho đến khi nó chiếm được VN ta thì ông và con cháu ông sẽ bị chu di tam tộc ngay. Bởi lẽ nó biết ông bất tài, hèn nhát mà chỉ giỏi phản bội?”.
Ông TBT có sợ đến ngày đó không?
BS: Cái khó cho bác Trọng là không có loại “thư ký” Đại biểu QH dạng Phan Trung Lý như bác Hùng. Không lẽ lại bắt mấy tay ở Văn phòng TBT, Văn phòng TW Đảng trả lời thì … hề quá. Chắc mấy bữa nay thầy trò đang chụm đầu bàn cách.
Còn trò mèo Phan Trung Lý trả lời thì chắc sẽ có tiếp câu chuyện hài cho thiên hạ cười.

Đương đầu với TQ-khó và dễ.

Song Chi. -RFA

Trong số các quốc gia đã từng có đụng độ chiến tranh hoặc hiện đang có tranh chấp về lãnh thổ lãnh hải với TQ, kể cả những quốc gia vì nhiều nguyên nhân sẽ có mâu thuẫn với TQ trong tương lai như Hoa Kỳ, có lẽ VN có nhiều kinh nghiệm cay đắng nhất, và hiểu rõ nhất lòng dạ của nước láng giềng khổng lồ này. Chưa cần tính đến 1000 năm đô hộ xa xưa, chỉ riêng trong thế kỷ XX, TQ đã cho VN nhiều bài học xương máu về “tình hữu nghị đời đời thắm thiết”, và trong thế kỷ XXI, TQ vẫn sẽ là mối đe dọa lớn nhất đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập về chủ quyền của VN.
Hơn ai hết, người VN hiểu rõ một điều: đương đầu với TQ khó hơn tất cả những “cựu thù” trong quá khứ, mà gần đây nhất là Mỹ. Không phải vì TQ mạnh hơn. TQ hiện nay chưa là gì so với Mỹ và còn lâu mới vượt được Mỹ về sức mạnh quân sự, quốc phòng, kể cả kinh nghiệm chiến đấu với các nước khác. Trong cuộc chiến tranh giữa VN với Mỹ trước kia, sự chênh lệch về mọi mặt giữa VN và Hoa Kỳ còn hơn giữa VN và TQ bây giờ nhiều.
Cũng chưa hẳn vì lợi thế lớn nhất của TQ đối với VN, nếu có xảy ra chiến tranh, so với Mỹ trước kia: TQ ở ngay sát VN, núi liền núi, sông liền sông, thổ nhưỡng, văn hóa tương đồng, lại có hai mô hình thể chế chính trị cũng giống nhau. Những người lãnh đạo đảng cộng sản TQ từ bao lâu nay quá hiểu rõ các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản VN, như đi guốc vào trong bụng, hiểu rõ nội tình chính trị cũng như mọi mặt kinh tế, xã hội của VN, hơn thế nữa, họ từng là những người thầy, là cố vấn chỉ đạo đường lối chiến lược cho các ông lãnh đạo VN. Thầy trò, anh em, đồng chí và cũng là kẻ thù truyền kiếp, làm sao không hiểu từng đường đi nước bước của nhau, như đường chỉ trong lòng bàn tay? Điều đó đúng là lợi thế lớn của TQ, và cũng là cái khó cho VN khi phải đương đầu với TQ.
Nhưng cái khó hơn nhiều cho VN là từ bản chất của nhà cầm quyền TQ. Thứ nhất là tham vọng bành trướng, tham vọng về lãnh thổ lãnh hải của TQ là có thật. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay khi TQ đã vượt qua giai đoạn giấu mình chờ thời, đang tràn đầy khao khát muốn vượt qua Mỹ trở thành nước mạnh nhất, giành quyền thống trị toàn cầu, khao khát thực hiện “Giấc mơ Trung Quốc”, “Phục hưng Dân tộc Trung Hoa”-cụm từ được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề cập trong bài “diễn văn nhậm chức” hôm 17. 3 trước Quốc hội và từng nói đến nhiều lần trước đó.
Đối với VN, về mặt lãnh thổ, TQ rộng lớn mênh mông là thế nhưng vẫn sẵn sàng lấn ép từng kilomet vuông đất bằng đủ mọi biện pháp, từ lấn chiếm không trả lại sau những lần giao tranh ở biên giới, giành co qua những hiệp ước, hiệp định biên giới đường bộ…Về mặt lãnh hải thì không chỉ VN mà các nước trong khu vực đều phải đương đầu với tham vọng nuốt trọn biển Đông của TQ.
Thứ hai, nhà cầm quyền TQ từ trước đến nay là bậc thầy trong việc nói một đằng làm một nẻo, sẵn sàng nói ngược, nói lấy được. Mà sự kiện tàu TQ bắn cháy cabin tàu cá ngư dân VN vào ngày 20.3 vừa qua sau đó người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ Hồng Lỗi từ chối xác nhận nhưng lại tự mâu thuẫn khi ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc đã có hành động hợp pháp và thỏa đáng khi nhằm vào tàu cá Việt Nam”, còn “theo Tân Hoa Xã, một sĩ quan hải quân nước này đã công nhận là tàu của TQ có bắn pháo sáng về hướng của tàu đánh cá VN nhưng hai quả này đã tắt ngay khi còn ở trên không. Đối với viên chức này, không hề có việc tàu TQ đã nổ súng vào tàu VN, hay là các chiếc tàu cá VN bị cháy” (bài “TQ gây hấn, chối tội rồi lại gây hấn”, VietnamNet), trong khi những tấm ảnh chụp tàu cá của ngư dân VN bị cháy tan hoang như thế nào đã được đăng đầy trên báo chí VN!
Đây chỉ là một ví dụ mới nhất, và cũng chưa phải là ví dụ điển hình gì cho thói nói ngược của nhà cầm quyền TQ. Luôn luôn tuyên bố TQ trỗi dậy hòa bình, không phương hại gì đến bất cứ quốc gia nào cũng không bao giờ xưng hùng xưng bá nhưng hành động thì thường xuyên ngược lại.
Thật ra, về mặt chính trị, chưa chắc có nhà nước nào tử tế hơn nhà nước nào, trong bất cứ mọi cuộc đấu khẩu, đụng độ nhỏ cho tới chiến tranh thật sự giữa các quốc gia, bên nào cũng giành phần lẽ phải, chính nghĩa về mình và đổ lỗi cho đối phương, nhất là những nước lớn, mạnh thì thường hay lớn giọng lấn át nước nhỏ, yếu. Nhưng vì TQ, cũng giống như VN, không có báo chí truyền thông độc lập, không có các tổ chức phi chính phủ, các đảng phái đối lập để vạch trần sự dối trá, kìm hãm bớt những việc làm sai trái, cái đầu nóng và tham vọng của nhà cầm quyền như ở Mỹ hay các nước phương Tây, nên sự nguy hiểm nằm ở đó.
Trong cuộc chiến tranh VN trước kia, chính sức ép trước hết từ người dân Mỹ, từ báo chí truyền thông của Mỹ, các phong trào phản chiến ngay trên đất Mỹ cộng thêm dư luận quốc tế buộc Mỹ phải tìm cách chấm dứt cuộc chiến, bỏ rơi đồng minh là VNCH. Còn với Bắc Kinh hiện nay, báo chí chính thức luôn luôn phải nói cùng một giọng với nhà cầm quyền, những tiếng nói độc lập, đối lập thì đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước.
Người dân TQ, cũng như người dân VN, đa số hoặc không quan tâm đến chính trị, hoặc vẫn quen nghe, tin theo lời nhà nước. Người dân TQ còn bị tuyên truyền sai về lịch sử, về chủ quyền, bị kích động tinh thần dân tộc nên sẽ bênh vực nhà nước của họ trong mọi sự kiện tranh chấp lãnh thổ lãnh hải với các quốc gia khác. Hiếm có chuyện người dân chửi chính quyền và đứng về phía nước khác, gây sức ép đòi chấm dứt chiến tranh như ở Mỹ. Một phần giáo dục Mỹ và các nước phương Tây ngay từ bé đã dạy cho con người thói quen suy nghĩ độc lập, tinh thần critical thinking, là điều mà giáo dục ở những nước cộng sản độc tài như TQ hay VN không có được.
Bản chất của nhà cầm quyền TQ còn thừa thâm độc, lắm thủ đoạn, sẵn sàng chơi bẩn chơi xấu đủ kiểu, bất chấp những giới hạn tối thiểu của luật pháp quốc tế lẫn lương tri, lương tâm con người. Cao bồi Mỹ cũng chưa chắc đã tốt, cũng thủ đoạn không kém ai nhưng tinh vi, tàn nhẫn, thâm hiểm như TQ trong cuốn “Chết dưới tay TQ” (“Death by China: Confronting the Dragon – A Global Call to Action”) của hai tác giả Peter Navarro and Greg Autry đã vạch ra, thì Mỹ còn phải vái TQ làm sư phụ.
Một quốc gia có những người dám pha chế cả sữa nhiễm “bẩn”, đồ chơi có hại cho sức khỏe của trẻ em, áo ngực có gây chất ung thư cho phụ nữ, gạo giả, trứng giả, đủ loại thực phẩm hàng hóa độc hại… nghĩa là coi sinh mạng con người, sinh mạng đồng bào như cỏ rác thì còn mong gì có lương tâm, lòng nhân ái với dân tộc khác? Là nước láng giềng ở sát một bên TQ, người dân VN từ nhiều năm nay đã phải điêu đứng vì đủ thứ loại hàng hóa độc hại này cũng như những cách phá hoại nền kinh tế mà không một quốc gia nào khác có thể nghĩ ra hoặc dám làm!
Đủ mọi thủ đoạn hắc đạo, nhưng ngoài miệng các thế hệ lãnh đạo TQ luôn luôn tuyên bố hòa bình, chung sống hữu nghị với nước khác, còn với VN thì có hẳn 16 chữ vàng đề cao tình hữu nghị đời đời bền vững giữa hai đảng, hai nhà nước, hai dân tộc!
TQ vốn dĩ có tinh thần Đại Hán bá quyền từ ngàn xưa. Khi đô hộ, khống chế được dân tộc nào thì luôn luôn muốn tiêu diệt bản sắc văn hóa của nước đó, đồng hóa với nước mình, từ VN trước kia cho tới Tây Tạng bây giờ là những ví dụ sinh động. Khác với các nước phương Tây khi đô hộ nước khác, họ đưa văn minh văn hóa phương Tây vào để “khai sáng” cho người bản địa nhưng cũng có ý thức để cho văn hóa các nước bản địa được phát triển, có cho đi và cũng có trao đổi, nhận lại.
TQ, khi làm ăn với nước khác thì chỉ muốn thu hết phần lợi về phần mình, để phần thiệt và cả rác rưới, cặn bã, tàn phá môi trường… cho nước khác, còn khi là “anh em, đồng chí, đồng minh” thì không muốn cho ai ngóc đầu lên hoặc phát triển bằng mình, chỉ muốn kìm hãm nước khác trong sự đói nghèo hoặc trong vòng phụ thuộc sâu sắc với TQ về cả chính trị, kinh tế lẫn văn hóa. Cứ nhìn những mối quan hệ làm ăn của TQ với các nước châu Phi hay mối quan hệ “anh em, đồng chí” giữa TQ và Bắc Hàn, VN hay Campuchia là đủ hiểu.
Chính vì rất nhiều những lý do như vậy mà việc đương đầu với TQ trở nên vô cùng khó khó khăn. TQ chẳng sợ người dân nước họ cũng chẳng sợ gì dư luận hay luật lệ quốc tế. Tất nhiên, hiện nay thì họ chưa dám lộng hành quá mức vì chưa đủ sức chống lại cả thế giới, nhưng việc họ chẳng coi các công ước quốc tế về luật Biển ra gì, hay khăng khăng không chấp nhận đưa các vụ tranh chấp lãnh hải ra quốc tế, kể cả khi Philippines đã kiện họ ra Tòa án quốc tế, là ví dụ.
Tuy nhiên, nhìn lại, trong cái khó lại có cái dễ. Ở thời điểm hiện nay nhiều quốc gia đã bắt đầu nhận ra bộ mặt thật của Bắc Kinh. Các nước láng giềng của TQ ở khu vực Đông Nam Á, Đông Á không một nước nào thật sự thích TQ, là đồng minh của TQ, ngược lại, đều dè chừng TQ. Vòng vây do Mỹ và các nước đồng minh tạo ra cũng đang thắt chặt dần xung quanh TQ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Nếu phải xảy ra xung đột với TQ, VN chắc chắn có lợi thế về dư luận, về sự ủng hộ của quốc tế. Nếu TQ tấn công VN, không phải như thời điểm năm 1979 khi VN bị cô lập, thế giới sẽ đứng về phía VN. Cho dù có thể các nước vẫn phải làm ăn buôn bán với TQ hay cũng chẳng ưa gì nhà cầm quyền VN vốn có “thành tích” tệ hại về nhân quyền, đàn áp tự do, dân chủ. Nhưng vì không ai muốn TQ thắng được nước khác tức là thêm sức mạnh, cũng không ai chấp nhận để TQ muốn làm gì cũng được. Và cuối cùng, trong nội bộ “kẻ khồng lồ” TQ có rất nhiều gót chân Achilles. Bên dưới sự tăng trưởng về kinh tế, sức mạnh quân sự đang gia tăng hàng năm, sức mạnh của cả khối dân tộc hơn 1,3 tỷ người, là quá nhiều vấn đề bất ổn do một mô hình thể chế chính trị không hoàn thiện, chưa kể những mâu thuẫn về sắc tộc.
Mỹ có thể sa lầy hai chục năm vào cuộc chiến tranh VN, tốn kém quá nhiều tiền của, xương máu người lính Mỹ, còn bị cho là thất bại; Mỹ cũng có thể đổ hàng đống tiền vào hai cuộc chiến tranh với Iraq, một cuộc chiến khác ở Afghanistan, và cho đến giờ này người dân Mỹ cũng như thế giới vẫn đang tranh cãi xem liệu thật ra thì Mỹ thua hay thắng, được hay mất gì từ những cuộc chiến này, nhưng nước Mỹ không vì thế mà sụp đổ. Bởi nước Mỹ được xây dựng trên một thể chế khá là hoàn thiện và trên những căn bản bền vững nhất về tự do, dân chủ, nhân quyền.
Còn TQ, một cuộc chiến tranh lâu dài, tốn kém với bất cứ quốc gia nào khác cũng dễ khiến cho những mâu thuẫn nội tại của chính TQ có dịp bùng phát, dẫn đến nguy cơ sụp đổ, quốc gia bị xé ra thành từng mảnh như Liên Xô trước đây. Dù “nóng đầu” đến đâu, các nhà lãnh đạo TQ hẳn cũng nhìn thấy khả năng này.
Không ai mong muốn đương đầu với một cường quốc. Không ai mong muốn chiến tranh. Nhất là với một quốc gia đã chịu quá nhiều tổn thất, thiệt thòi từ những cuộc chiến tranh liên tiếp như VN. Nhưng đôi khi cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Nín nhịn, bạc nhược hết mức như nhà cầm quyền VN bao lâu nay vẫn đâu được TQ để yên. Vì vậy, VN luôn phải chuẩn bị cho mọi tình huống xấu nhất, nếu phải đương đầu với TQ. Nhìn ra những cái khó và dễ. Cái khó nhiều, cái dễ cũng lớn.
Vấn đề còn lại là nhà cầm quyền VN có chịu thay đổi, cải tổ dứt khoát về chính trị để thoát ra khỏi cái bóng của TQ, thoát ra khỏi nỗi sợ vô hình trước TQ và những rào cản tự thân để có thêm nhiều đồng minh từ thế giới tự do dân chủ và sức mạnh đồng thuận to lớn từ nhân dân hay không. Nhưng làm thế nào để cho họ chịu thay đổi, kể cả trong trường hợp họ không đổi, thì việc giành lấy quyền tự quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước lại thuộc về trách nhiệm của gần 90 triệu người dân VN.
songchi’s blog

Khi Kẻ Cướp Xử Những Người Chống Cướp

tuongnangtien – RFA
 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Họ nói rằng tất cả là dành cho các dự án phát triển xã hội, nhưng tôi gọi đó là ăn cắp.”
Trước lễ Noel vừa qua, không mấy ai biết đến Sodeto, một ngôi làng nhỏ ở Tây Ban Nha. Đa số dân làng làm nghề nông; số ít còn lại đi… phụ thợ nề. Trong mấy năm qua, Sodeto là một trong những địa phương bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nặng nhất. Người người thất nghiệp vì nông sản thu hoạch đem bán không được bao nhiêu… tiền; còn những người đi phụ thợ nề thì không ai gọi đi… phụ. Thành ra, nhà nhà thất… vọng thiếu đường tuyệt vọng. Họ không còn cách nào khác hơn là… chơi vé số mới mong thoát được cảnh nghèo (và sắp… đói meo).
Tờ vé số họ mua không phải là loại một đồng; giá của nó tương đương khoảng 25 Mỹ kim và giải độc đắc lên đến chừng 1 tỷ Mỹ kim. Điều đặc biệt về loại vé số này là chỉ xổ mỗi năm một lần vào dịp Noel. Tuy nhiên, không ai có thể lãnh trọn giải độc đắc nếu đã không mua nguyên lốc (gồm nhiều tấm vé có cùng các con số).
Lốc vé số trúng giải vừa qua đã được dân làng Sodeto mua trọn. Thực ra, có nhiều người mua mà chưa trả tiền… liền. Nhân viên đại lý bán vé số cũng thông cảm (cho gia cảnh nhiều nhà đang khó khăn) và dễ dãi cho họ thiếu nợ tiền vé số. Những người bán vé số này phải đi gõ cửa từng nhà trong làng để mời mọc dân làng mua cho hết lốc vé số.
Nhờ được cho thiếu nợ nên nhà nào tối thiểu cũng mua một tấm. Ai “khấm khá” hơn thì mua thêm vài ba tấm. Kết quả là cả làng nhà nào cũng trúng số. Nhà nào mua một tấm thì tiền thưởng khoảng 133 ngàn Mỹ kim. Nhà nào mua nhiều hơn thì cứ thế mà nhân lên.
Cả làng, ai cũng trúng, chỉ có một người không trúng! Ông là dân làng nhưng không phải… dân ở đây. Mấy năm trước, ông tình cờ mê một cô gái của làng Sodeto này đến nỗi đã bỏ quê hương bên… Hy Lạp của mình mà theo vợ về đây. Có phải vì văn hóa xung khắc hay vì không hợp tuổi mà không lâu sau ông phải dọn ra ở riêng trong một cái… chòi ngoài đồng. Có lẽ vì cái chòi ông ở trông giống… cái chòi quá nên mấy người bán vé số không biết đấy là “nhà” của một người đàn ông cô đơn đang sống cô độc. Thành ra, họ đã không ghé qua “nhà” ông để mời mua vé số.
Costis Mitsotakis. Ảnh: ABC News
Những tưởng khi biết cả làng ai cũng trúng số thì thế nào ông cũng phải… kêu trời. Vậy mà ông vẫn vui vẻ cho rằng mình cũng còn… hên! Số là (bỗng dưng) cả làng ai cũng ôm hơn trăm ngàn bạc trong tay nên người ta tìm cách đầu tư. Là nông dân nên nhiều người nghĩ ngay đến chuyện mua… đất. Lâu nay ông có mấy miếng ruộng muốn bán mà không ai (thèm) mua. Giờ thì nhiều người đến hỏi mua nên ruộng của ông đã bán được giá hơn trước kia nhiều.
Có thể ông sẽ (đủ tiền) làm Hy kiều hồi hương và kiếm cái ao nào đấy mà tắm để bù lại những tháng ngày cô đơn tủi nhục ở quê người (vợ). Tên ông là Costis Mitsotakis. (Hồng Nguyên Hoàng. “Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng.” tuần báo Trẻ 14 Feb. 2012).
Ông Costi “vẫn còn hên” vì đang sống ở Tây Ban Nha, nơi mà đất đai không thuộc quyền … sở hữu toàn dân, và nhân dân xứ sở này cũng không có quyền làm chủ tập thể nên mảnh đất (bỗng trở nên cao giá) của nhân vật này đã không bị nhà nước ra lệnh thu hồi.
Ông Đoàn Văn Vươn, một công dân Việt Nam – tiếc thay – đã không có “cái hên” tương tự. Đương sự đã không được trúng số (đã đành) mà còn bỗng chốc trở nên trắng tay, và cả nhà thì đang vướng vào vòng lao lý – theo như tường thuật của BBC, nghe được vào hôm 19 tháng 3 năm 2013:
Tin cho hay phiên sơ thẩm xử ông Đoàn Văn Vươn và người thân tội giết người và chống người thi hành công vụ sẽ diễn ra từ 2/4-5/4... Các bị cáo trong vụ án với tội danh giết người, theo Điểm d, Khoản 1, Điều 93 Bộ Luật Hình sự, ngoài ông Đoàn Văn Vươn có các anh em của ông là Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Quý và Đoàn Văn Vệ. Tội danh giết người có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình. Vợ ông Vươn là Nguyễn Thị Thương, em dâu ông Vươn là Phạm Thị Báu, bị truy tố về tội chống người thi hành công vụ, theo Điểm a, Điểm d, Khoản 2, điều 257 Bộ Luật Hình sự, với khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù.
Cụ Trần Thị Mạp, mẹ ông Đoàn Văn Vươn, đang viết đơn kêu cứu cho các con. Ảnh: nuvuongcongly
Những sự kiện liên quan đến việc gia đình họ Đoàn bị mất trắng đất đai, và san phẳng nhà cửa – sau “một trận đánh đẹp có thể viết thành sách” của đám công an Hải Phòng – chắc chắn mọi người dân Việt đều đã được …đọc. Tuy nhiên, luật lệ của xứ sở này liên quan đến việc quốc hữu hoá tài sản, và thu hồi đất đai (ra sao) thì e không mấy người được tỏ tường – như Huy Đức.
Trong cuốn Bên Thắng Cuộc, ông dành hẳn một chương (“Sở Hữu Toàn Dân”) để làm rõ cái ý niệm (độc đáo) này. Xin được trích dẫn một vài đoạn ngắn (in nghiêng) để toàn thể quốc dân đồng bào có dịp học hỏi, và mở mang kiến thức:
Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao.
Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…
 
 Nhưng Hiến pháp 1980 là Hiến pháp Lê Duẩn… Từ ngày 4 đến ngày 10-9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng “họp hội nghị toàn thể để xem xét bản Dự thảo Hiến pháp”. Trong phiên bế mạc, Tổng Bí thư Lê Duẩn có bài nói chuyện với tựa đề: “Hiến pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”. Sau khi điểm lại những “công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam”, phân tích mối quan hệ giữa “tư tưởng làm chủ tập thể” với chủ nghĩa Marx – Lenin, Tổng Bí thư Lê Duẩn tuyên bố: “Làm chủ tập thể là tinh thần cơ bản, là nội dung nhất quán của Hiến pháp mới… Nhân đây, tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân…
 
Người có vai trò quyết định trong tiến trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là Tổng Bí thư Đỗ Mười thì theo Trưởng Ban Biên tập Hiến pháp 1992 Nguyễn Đình Lộc, “bị hạn chế trong tư tưởng của Lê Duẩn”... Ông lập luận, trước sau gì cũng tới đó nên cứ để vậy. Khi ấy, không ai có đủ dũng cảm đứng lên đòi bỏ sở hữu toàn dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm.
 
Luật Đất đai 1993 vì thế không gây phấn khởi như người dân chờ đợi. Đất đai của cha ông để lại, của chính họ đổ mồ hôi nước mắt khai khẩn hoặc bỏ tiền ra mua, sau khi có Luật còn phải ngồi chờ được Nhà nước làm thủ tục giao đất của mình cho mình. Trừ các giao dịch về đất đi liền với nhà ở, việc chuyển nhượng đất đai, đặc biệt là chuyển nhượng đất đi kèm với chuyển quyền sử dụng thường bị hành chính hóa bằng quyết định Nhà nước thu hồi đất của người bán, giao đất ấy cho người mua rồi người mua còn phải đóng 100% tiền sử dụng đất. Người dân cho rằng họ đã phải trả tiền hai lần để có được tờ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
 
Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số  sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.
 
Làm luật cũng là chính quyền, giải thích luật cũng là chính quyền. Khi đất đai càng mang lại nhiều đặc lợi thì “sở
hữu toàn dân” lại càng trở thành căn cứ để các chính sách giao cho người ban hành nó có thêm nhiều đặc quyền. Chỉ riêng các điều khoản thu hồi, nếu như từng được quy định khá chặt chẽ trong Luật 1993, đã trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn trong Luật 2003…
 
Người dân nhận đền bù theo chính sách “thu hồi” chỉ được trả một khoản tiền tượng trưng, rồi chứng kiến các nhà
doanh nghiệp được chính quyền giao đất để “phát triển kinh tế” bán lại đất ấy với giá cao hơn hàng chục, có khi hàng trăm lần. Cho dù “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, người dân chỉ có các quyền của người sử dụng.
Nhưng, sở dĩ ai cũng gắn bó với nó là bởi: Đất ấy không phải được giao không từ quỹ đất công như những quan chức có đặc quyền, đặc lợi; Đất ấy họ đã phải mua bằng tiền; Đất ấy họ phải tạo lập bằng nước mắt, mồ hôi; Đất ấy là của ông cha để lại. Đó là lý do mà gia đình anh Đoàn Văn Vươn, hôm 5-1-2012, và 160 hộ dân Văn Giang, hôm 24-4-2012, phải chọn hình thức kháng cự bằng cách hết sức rủi ro trước lệnh cưỡng chế thu hồi đất.
 
Ông Đoàn Văn Vươn (trái) và Đoàn Văn Quý (phải). Ảnh: Người Lao Động
Một người cầm viết trẻ tuổi, sinh viên Đỗ Thúy Hường (có lẽ) vì quá sốt ruột về luật đất đai (lằng nhằng) ở xứ sở mình nên đã tóm lại như thế này, cho nó gọn:
Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng “tim đen” của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ “quản lý”... Chỉ bằng một câu viết trên giấy “Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý”… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.
Tá điền của Đảng (kính yêu) thì đã sao mà cứ làm rối tinh lên thế? Muốn biết (sao) xin hãy nghe “một chuyện khó tin nhưng có thật” sau đây, qua lời kể của tác giả Phương Toàn:
 - Thằng bé mười ba tuổi vào nhà bà ngoại với chiếc giỏ đeo toòng teng trên ghi đông xe. Bà già hỏi: - Mày có cái gì đem vô cho tao đó Tèo ?
-Dạ không có gì cho ngoại hết, má con nói đem em con vô nhờ ngoại chôn giùm !
Thì ra má nó nghèo quá không có đất chôn con, nên mới bỏ đứa nhỏ vô cái bị cói, kêu nó đem vô nhờ bà ngoại chôn.”Trong một quốc gia nông nghiệp mà người dân không còn được một hòn đất (để chọi chim) hay một mảnh đất (để vùi thây) nhưng Nhà Nước vẫn cứ nằng nặc đòi “toàn quyền quản lý đất đai” thì kể như là … tự sát! Và vụ tự sát này có thể coi như sẽ mở màn vào từ phiên toà vào đầu tháng Tư sắp tới đây, nếu của chế độ hiện hành (nhất định) ghép những người chống cướp như anh em ông Đoàn Văn Vươn vào tội danh giết người – bất chấp đạo lý và công lý!
tuongnangtien’s blog

Chết dở vì “công nghiệp hóa”

Đau nhói làng quê

Khai phóng ĐBSCL: Bế tắc kế sinh nhai

Khai phóng đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân làm nhiều, hưởng ít

ĐBSCL phải xử lý 600.000 tấn chất thải rắn/năm

KHAI PHÓNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (*)

Chết dở vì “công nghiệp hóa”

Thứ Năm, 28/03/2013 13:57 - Nguoilaodong

ĐBSCL đang phải gánh chịu nhiều hệ lụy bởi tình trạng công nghiệp hóa nửa vời. Cuộc sống người dân ở nhiều nơi không khá hơn, trái lại còn bi đát thêm

Theo báo cáo tổng kết 10 năm (2001-2010) thực hiện Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị, giá trị sản xuất công nghiệp toàn vùng ĐBSCL tăng liên tục trong các năm, đến năm 2010 đạt 156.000 tỉ đồng, làm thay đổi quy mô và chất lượng sản xuất. Công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm được tập trung đầu tư phát triển, góp phần tăng tỉ trọng của ngành 26% trong cơ cấu kinh tế vùng vào năm 2010…
Một người dân ở tỉnh Sóc Trăng tiếc nuối trước thửa đất ruộng của mình bị thu hồi
làm khu công nghiệp nhưng chờ mãi cũng chẳng thấy khu công nghiệp đâu!
Ảnh: DUY NHÂN
Đua nhau mở khu công nghiệp
Tuy nhiên, ĐBSCL đang mắc phải tình trạng quy hoạch khu công nghiệp (KCN) nửa vời. Để “bằng chị, bằng em”, tỉnh nào cũng phá đất lúa, mở KCN. Theo một khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ (VCCI Cần Thơ), ĐBSCL hiện có 20 KCN với tổng diện tích 3.645 ha nhưng mới chỉ cho thuê hơn 810 ha, đạt tỉ lệ hơn 22%.
Các tỉnh, thành ĐBSCL còn thành lập 177 cụm công nghiệp, tổng diện tích 15.457 ha. Trong số này, mới có 15 cụm được các doanh nghiệp thuê hơn 700 ha đất, đạt tỉ lệ chỉ 4,5%. Như vậy, ĐBSCL đang lãng phí đất rất lớn trong các khu, cụm công nghiệp với diện tích lên đến hơn 17.600 ha (hơn 92% diện tích quy hoạch).
Hệ lụy của việc quy hoạch ồ ạt là hàng loạt khu, cụm công nghiệp bỏ hoang. TP Cần Thơ hiện có 8 KCN nhưng chỉ mới có 3 KCN đi vào hoạt động, trong đó duy nhất KCN Thốt Nốt được đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung. KCN Trà Nóc 1 và 2 quy mô gần 300 ha đã lấp đầy, sau 15 năm hoạt động, nay vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, nhiều công ty xả thải thẳng ra sông Hậu, gây ô nhiễm nguồn nước trầm trọng. Không chỉ vậy, người dân sống gần đó hằng ngày phải chịu đựng tiếng ồn và mùi hôi thối từ các nhà máy chế biến. KCN Hưng Phú 2A, Hưng Phú 2B (quận Cái Răng – TP Cần Thơ) “treo” nhiều năm liền khiến dân trong vùng quy hoạch hết sức khổ sở.
Ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế – Xã hội, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, nhìn nhận: “Phải rà soát lại hiệu quả thực sự của các khu, cụm công nghiệp trong vùng. Cần nhìn ở tư duy kinh tế vùng, không phải nhất thiết tỉnh nào cũng có KCN. Chẳng hạn, nếu KCN ở TP Cần Thơ giải quyết việc làm cho lao động ở địa phương lân cận là tỉnh Hậu Giang thì Hậu Giang không cần phát triển KCN, thay vào đó sẽ đầu tư phát triển ngành thủy sản hoặc dệt may…”.
Vỡ mộng đổi đời
Vì cuộc đua mở KCN, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu nói trên mà những năm gần đây, người dân ở nhiều tỉnh, thành ĐBSCL mất đất sản xuất, thiếu việc làm. Một bộ phận khác do không được bồi thường thỏa đáng khi bị thu hồi đất nên phát sinh các vụ khiếu kiện phức tạp, kéo dài nhiều năm.
Ông Trần Văn Nghĩa, ở ấp Ngã 4, xã Thuận Yên, thị xã Hà Tiên – Kiên Giang, cho biết KCN Thuận Yên được đầu tư xây dựng khoảng 8 năm nay và 115 hộ dân buộc phải giải tỏa, di dời để nhường đất cho nhà đầu tư nhưng đến thời điểm này, còn 37 hộ không được cấp nền nhà tái định cư, trong khi khu tái định cư cho các hộ dân rộng 33 ha vẫn chỉ là khu đất trống.
Cũng theo ông Nghĩa, từ năm 2004, khi nghe chính quyền địa phương công bố quy hoạch KCN Thuận Yên, người dân nơi đây rất vui mừng vì nghĩ rằng con em họ sau này sẽ trở thành công nhân trong các nhà máy, xưởng sản xuất với thu nhập ổn định. Tuy nhiên, ngay từ khi thực hiện giải phóng mặt bằng, họ đã gặp rắc rối vì giá đất bồi thường quá thấp. Cụ thể, giá đất nuôi trồng thủy sản chỉ có 8 triệu đồng/công (1.000 m2), đất trồng cây lâu năm 10 triệu đồng/công. Không đồng ý với giá đất rẻ như trấu này, người dân kéo nhau đi khiếu nại và sau đó được nâng lên thêm 2 triệu đồng/công nhưng đến 4-5 năm sau, họ vẫn chưa được nhận tiền. Thời gian này, nhiều hộ phải ở trong nhà dột nát mà không thể sửa sang lại. Trong khi đó, giá nền tái định cư (100 m2) đến 81 triệu đồng, gia đình nào có đủ 7 công đất bị thu hồi mới có thể mua nổi 1 nền tái định cư.
Chỉ tay về phía KCN Thuận Yên, ông Trần Văn Nghĩa nói: “Cả khu đất rộng hơn 100 ha, nếu không bị quy hoạch làm KCN thì bà con cũng có thu nhập ít nhất khoảng 3 tỉ đồng từ nuôi thủy sản quảng canh. Trong khi chờ đợi KCN và khu tái định cư hình thành thì đa số dân nghèo phải sống lây lất trong những căn chòi chật hẹp mà còn bị đuổi lên, đuổi xuống. Khổ lắm!”.
Ông Phạm Văn Nhơn, ở xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự – Đồng Tháp, cho biết vào đầu năm 2004, khi cửa khẩu Thường Phước được nâng cấp lên thành cửa khẩu quốc tế thì bà con nơi đây cũng lâm vào cảnh nợ nần. Trước đây, dân mưu sinh chủ yếu bên vành đai biên giới, làm ăn buôn bán rất phát đạt. Thế nhưng, việc thường xuyên thay đổi quy hoạch đã làm cho nhiều hộ dân mới vừa nhận tiền đền bù xây được căn nhà thì lại bị giải tỏa thêm lần nữa. Cũng vì lý do này mà gia đình ông Nhơn phải ôm nợ đến gần 300 triệu đồng.
Trước sung túc, nay trắng tay
Ông Đặng Hoàng Hùng, người có đất bị thu hồi ở xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự – Đồng Tháp, than vãn: “Không ai có thể ngờ cuộc sống của mình lại thay đổi xấu đến thế. Trước đây, gia đình tôi có cửa hàng bán quần áo, giày dép gần cửa khẩu, làm ăn rất sung túc, còn bây giờ thì chẳng còn gì ngoài căn nhà tạm bợ để có chỗ che mưa, che nắng trong khu tái định cư gần một ngôi chợ bỏ hoang”.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 25-3
Kỳ tới: Cần chiến lược tổng thể
NHÓM PHÓNG VIÊN

Đau nhói làng quê

Khai phóng ĐBSCL: Bế tắc kế sinh nhai

Khai phóng đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân làm nhiều, hưởng ít

ĐBSCL phải xử lý 600.000 tấn chất thải rắn/năm

Hội thảo sửa đổi Hiến pháp tại Câu lạc bộ Kháng chiến

Khi anh đặt điều 4 thì nó chống lại những điều khác. Nó chống lại quyền con người, quyền ăn nói, quyền lập hội vì khi Đảng đã lên trên rồi thì các quyền kia không còn nữa.
Hồ Hiếu

hnhp3613-305.jpg
Buổi hội thảo góp ý sửa đổi Hiến Pháp do Câu Lạc bộ Truyền thống Kháng chiến tổ chức tại nhà Bảo tàng Cách mạng TPHCM hôm 6 tháng 3 năm 2013.
Courtesy boxitvn.net =>

Một buổi hội thảo bàn về sửa đổi Hiến pháp năm 92 do Câu Lạc Bộ Kháng chiến tổ chức đã nổ ra những tranh luận sôi nổi về các câu hỏi mà nhân sĩ trí thức trong buổi hội thảo đưa ra.

Tranh luận gay gắt

Trong buổi hội thảo góp ý sửa đổi Hiến Pháp do Câu Lạc bộ Truyền thống Kháng chiến khối sinh viên của thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tại nhà Bảo tàng Cách mạng thành phố đã có mặt của nhiều nhân sĩ trí thức, lão thành cách mạng cũng như những Đảng viên vẫn đang sinh hoạt đảng và làm việc trong guồng máy chính quyền.
Theo luật sự Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội có mặt tại buổi hội thảo nhận xét thì không khí tranh luận giữa hai phía, một bên nhất quyết giữ vai trò của Đảng trong Hiến pháp còn một bên thì dứt khoát phải bỏ điều 4 vì nó đi ngược lại lợi ích của đất nước, nhân dân, có lúc diễn ra khá gay gắt. Luật sư Thuận cho biết:
“Không khí của cuộc hổi thảo của Câu lạc bộ kháng chiến khối sinh viên  thì những phát biểu của các diễn giả phải nói rằng có nhiều ý kiến có thể nói dùng chữ gay gắt thì cũng không sai, từ những ý kiến ủng hộ Đảng lẫn những ý kiến ủng hộ bản dự thảo thì họ nói rất gay gắt nhất là 4 vấn đề mà họ quan tâm. Chương một, điều hai, điều 4, rồi chương đất đai điều 58, rồi chương 70 nói về dự thảo và chương về Hội đồng Hiến Pháp… nói chung sôi nổi và gay gắt tập trung vào những việc này.”
Khi anh đặt điều 4 thì nó chống lại những điều khác. Nó chống lại quyền con người, quyền ăn nói, quyền lập hội vì khi Đảng đã lên trên rồi thì các quyền kia không còn nữa.
Hồ Hiếu
Tuy nhiên theo một số người cho biết ý kiến của ông Nguyễn Văn Thuyền, nguyên Thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kháng chiến do lớn tuổi không thể tham dự cuộc hội thảo đã gửi bài phát biểu vào và có những câu chữ khiến nhiều người cho rằng gay gắt, đặc biệt với câu hỏi: “Ai là kẻ mưu toan dẹp bỏ điều 4 Hiến pháp?”
Giải thích điều này luật sư Trần Quốc Thuận cho biết:
“Bài phát biểu của ông Nguyễn Văn Thuyền, thì tôi cho rằng hồi trước tới giờ cũng không có gì gay gắt. Tôi vẫn gọi ổng là chú, chú Ba Tôn. Ông này đúng là cả cuộc đời tham gia cách mạng bây giờ thì tuổi cũng xấp xỉ 100 rồi cho nên tình cảm của ông ấy tha thiết gắn bó với cách mạng, gắn bó với Đảng đối với ổng thì nó sâu sắc nó dài. Tôi cho rằng đó là một bài tâm sự hơn là một bài phát biểu cho nên ổng cho rằng chuyện duy trì sửa đổi Đảng thì trong đó có ổng. Những người phát biểu bảo vệ điều 4 hay điều này điều kia thì họ phát biểu giọng gay gắt. Còn chú Ba Tôn ổng phát biểu tôi cho như vậy là không có gì gay gắt. Liều lượng như thế thì không có vấn đề gì. Tụi tôi ở đây nghe cái giọng văn ấy cũng quen rồi, nó cũng bình thường.”

Vai trò thật sự của Hiến pháp

HP19929999-200.jpgBìa sách Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992. Photo courtesy of chinhphu.vn =>
Ông Lê Công Giàu nguyên Phó bí thư Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh cho rằng những ý kiến phản biện hiện nay do những người trong Đảng đưa ra trên truyền thông đại chúng rõ ràng là không thuyết phục và thiếu cơ sở khoa học. Người của Đảng hay cánh tay nối dài của Đảng không thể phản biện lại với ý kiến của người dân. Khi được hỏi về những tranh luận liên quan đến điều 4 và vai trò của Đảng ông Lê Công Giàu cho biết:
“Về cái điều 4 người ta không phải đòi hủy bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng nhưng ý người ta phát biểu rất rõ. Thứ nhất Đảng phải chấp nhận sự cạnh tranh chứ còn như hiện nay thì người ta thấy rằng không thể kiểm soát được quyền lực và không thể có được sự chấp nhận rộng rãi của quần chúng nhân dân. Điều quan trọng là Đảng phải được sự tín nhiệm, sự chấp nhận và ủy nhiệm của nhân dân, đó là một vần đề. Nếu không có cái đó mà có ghi vào Hiến pháp thế nào đi chăng nữa thì tính chính danh rất là khó có.
Điều thứ hai người ta quan tâm nếu ghi Đảng là lực lượng lãnh đạo thì như vậy khi Đảng lãnh đạo Đảng sẽ phải có trách nhiệm đối với sự thành công hay thất bại. Hiện nay cái cơ chế này chưa có. Kỳ này có ghi bổ xung là Đảng sẽ chịu trách nhiệm trước nhân dân nhưng mà cơ chế nào để mà chịu trách nhiệm? Nếu Đảng làm sai thì xử lý ra sao cũng chưa rõ. Theo tôi đó là trách nhiệm của những đồng chí lãnh đạo, của Bộ chính trị của Ban chấp hành Trung ương phải thể chế hóa cái này một cách cụ thể và những thể chế đó nó phải thực thi được trong thực tế.”
Trong buổi hội thảo xuất hiện một nhân vật quan trọng đối với tiền thân của Câu Lạc Bộ Kháng chiến, đó là ông Hồ Hiếu, nguyên Chánh văn phòng ban Dân vận Mặt trận TPHCM người tham gia đầu tiên thành lập Câu lạc bộ này và cũng chính vì nó đã dẫn ông vào con đường ngục tù trong nhiều năm trời. Nhận xét về điều 4 Hiến pháp ông Hồ Hiếu cho biết:
Đảng phải chấp nhận sự cạnh tranh chứ còn như hiện nay thì người ta thấy rằng không thể kiểm soát được quyền lực và không thể có được sự chấp nhận rộng rãi.
Lê Công Giàu
“Đối với điều 4 tôi đề nghị dứt khoát là phải bỏ. Có nghĩa là không nên để cho Đảng độc quyền tự tung tự tác với bốn lý do. Lý do thứ nhất Đảng đã nói theo chủ nghĩa Marx Lenin chấp nhận biện chứng nhưng mà thủ tiêu đối lập. Như vậy sẽ không có đấu tranh thì làm sao phát triển? Những nước Xã hội chủ nghĩa có nước nào phát triển đâu? Lý do thứ hai: Ai cho anh cái quyền đó? Trong lúc chưa trưng cầu ý dân anh tự đặt cái quyền đó và đưa vào Hiến pháp, như vậy là lạm quyền. Thứ ba, khi anh đặt điều 4 thì nó chống lại những điều khác. Nó chống lại quyền con người, quyền ăn nói, quyền lập hội vì khi Đảng đã lên trên rồi thì các quyền kia không còn nữa. Thứ tư cho đến bây giờ cái gọi là xã hội chủ nghĩa thì thực tế là nội dung không rõ ràng. Nó là một sự thí điểm trên toàn xã hội. Một sự thí điểm không phải với một con chuột bạch nhưng đã lấy dân tộc ra làm thì điểm.”
Trong buổi hội thảo còn có các ông luật sư Nguyễn Đăng Liêm, ông Kha Lương Ngãi Phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng. Đặc biệt ông Võ Văn Thôn, nguyên chủ tịch UBND Quận 3, giám đốc sở Tư Pháp thành phố đã mạnh mẽ lên tiếng rằng Đảng không nên lên án, đả kích những góp ý trái chiều.
Phát biểu của ông Võ Văn Thôn đã dấy lên một sự đồng tình lớn trong buổi hội thảo và cho thấy rằng vẫn còn rất nhiều nhân sĩ trí thức quan tâm đến việc sửa đổi Hiến pháp lần này. Họ đang cố hết sức mỉnh để đánh động cho xã hội biết những manh nha muốn dùng Hiến pháp như một thanh gươm để bảo vệ quyền bính hơn là bảo vệ pháp luật đúng như vai trò thật sự của một bản Hiến pháp.

 

Kết quả việc cắt lãi suất của VN sẽ ra sao?

…..Thực tế thì thị trường đang chuyển bại thành liệt, và ngần ấy bài toán về nợ xấu của ngân hàng, công trái của nhà nước, sự mất giá của khu vực địa ốc và nhất là sự hoài nghi của người dân về khả năng cải cách của chính quyền, đang là loại vấn đề có thật. Người ta thấy đảng bị mộng du, nhà nước dưới sự lãnh đạo của đảng thì bơi vào biển lạ mà không có hải đồ, còn kinh tế ở dưới thì tiếp tục ngụp lặn và người dân không có lối thoát…..
…..Tôi nghĩ rằng nó cũng tựa như đẩy một sợi dây mà chẳng tác động theo sự chờ đợi, tức là rơi vào cái bẫy của thanh khoản như giới kinh tế thường nói. Và sợi dây đó sẽ thắt cổ các chủ nợ vì khách nợ sau cùng là một nhà nước không đáng tin…..
Ngan-hang-Sacombank-inside-1-305.jpg
Giao dịch tại một chi nhánh ngân hàng Sacombank ở Hà Nội hôm 26-11-2012. -RFA PHOTO
Hôm Thứ Hai 25, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại quyết định sẽ cắt hàng loạt lãi suất chủ chốt sau khi có tin là chỉ số giá tiêu dùng đã giảm trong Tháng Ba. Đây là lần thứ bảy mà lãi suất được hạ từ khoảng một năm nay để kích thích sản xuất kinh tế. Kết quả sẽ ra sao, Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa của đài Á châu Tự do, qua cuộc trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Điều không bất ngờ

Vũ Hoàng: Xin kính chào tái ngộ ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, kể từ cuối năm 2011, lãi suất tại Việt Nam đã được Ngân hàng Nhà nước liên tục điều chỉnh và lần này là lần thứ bảy mà cả lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay đều giảm để các doanh nghiệp dễ tiếp cận được vốn. Ông nghĩ sao về quyết định này nếu nhìn vào hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam từ một năm nay?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ rằng việc Ngân hàng Nhà nước tại Việt Nam có một Quyết định và hai Thông tư để đồng loạt hạ các loại lãi suất cơ bản từ ngày 26 là điều không bất ngờ. Tín hiệu về lãi suất được nhiều nơi đón bắt từ trước khi nhiều ngân hàng tự ý hạ lãi suất ký thác vào tuần trước và thị trường cổ phiếu tăng giá ngoạn mục từ hai tuần qua. Tức là nhiều người biết rằng Ngân hàng Nhà nước đã chuẩn bị tống ga và việc chỉ số giá tiêu dùng có giảm trong Tháng Ba chỉ khiến người ta yên tâm lao tới mà thôi. Nhưng nhìn vào hoàn cảnh kinh tế Việt Nam, chúng ta chẳng nên lạc quan như nhiều người trong nước đã lầm từ cả năm nay.
Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó, thưa ông. Hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam là gì và vì sao ông nói rằng nhiều người đã lầm từ một năm nay?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kể như từ cuối năm 2011 đến nay, kinh tế Việt Nam gặp trạng thái tôi xin gọi là “co giật liên hồi”, tức là trôi ra khỏi biến động này lại chìm vào biến động khác. Đó là nạn ách tắc tín dụng vì doanh nghiệp vay tiền không được, rồi núi nợ xấu của ngân hàng bỗng tăng rồi hạ một cách khó tin, đến tình trạng tồn kho ế ẩm, bất động sản đóng băng, hàng chục vạn xí nghiệp đóng cửa, đại gia bị bắt, quan chức bị điều tra, v.v… Tất cả đều xảy ra trong bối cảnh vật giá leo thang, lạm phát chập chờn, và tuổi trẻ thất nghiệp sau khi tốt nghiệp.
Nhiều người biết rằng Ngân hàng Nhà nước đã chuẩn bị tống ga và việc chỉ số giá tiêu dùng có giảm trong Tháng Ba chỉ khiến người ta yên tâm lao tới mà thôi.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Khi ấy, nhớ lại nhận xét của giới chức kinh tế ở trong và ngoài chính quyền, ta thấy họ có xác nhận khó khăn rồi đánh giá là kinh tế sắp đụng đáy nên sẽ bật dậy trong vài tháng hay vài quý. Ở trong chính quyền, họ trấn an hay ru ngủ thị trường, là điều chỉ hiểu được với sự độ lượng. Nhưng ở ngoài chính quyền mà lạc quan như vậy thì quả là điều đáng lo về khả năng thẩm định.
Thực tế thì thị trường đang chuyển bại thành liệt, và ngần ấy bài toán về nợ xấu của ngân hàng, công trái của nhà nước, sự mất giá của khu vực địa ốc và nhất là sự hoài nghi của người dân về khả năng cải cách của chính quyền, đang là loại vấn đề có thật. Người ta thấy đảng bị mộng du, nhà nước dưới sự lãnh đạo của đảng thì bơi vào biển lạ mà không có hải đồ, còn kinh tế ở dưới thì tiếp tục ngụp lặn và người dân không có lối thoát.
Vũ Hoàng: Nhưng dường như Ngân hàng Nhà nước của Việt Nam cho là chính sách tiền tệ đã góp phần kiềm chế được lạm phát và biện pháp hạ lãi suất có thể kích thích kinh tế trong sự ổn định. Ông nghĩ sao về cách đánh giá này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ là chỉ có ở Việt Nam sau khi đã bị lạm phát năm 2008 tới mức 24% quy ra toàn năm rồi 18% vào năm 2011, người ta mới hài lòng với lạm phát trên 6% và nghĩ đến việc cắt lãi suất là giải pháp an toàn. Thực tế thì năm nay vật giá vẫn đe dọa và có thể vượt quá 7% mà đà tăng trưởng khó lên tới chỉ tiêu 5,5%. Trong khi đó, các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa, là thành phần tạo ra nhiều việc làm nhất, lại chết như rạ, trong hai năm mà phá sản 10 vạn, bằng phân nửa của tổng số doanh nghiệp bị đóng cửa trong suốt 20 năm qua.
imageNH250.jpg
Tiền cho vay và thế chấp (ảnh minh họa). RFA file.
Trong chuyện giảm lãi suất chúng ta có thể thấy ra hai điều. Ở đầu ra là tín dụng cho doanh nghiệp, rất nhiều cơ sở kinh doanh vẫn không vay được tiền dù lãi suất giảm một điểm bách phân, tức là 1% hay 100 điểm cơ bản. Có nhiều lý do họ không vay được tiền, hay tiếp cận với nguồn vốn như cách nói tại Việt Nam. Một phần là vì ách tắc trong cơ chế, như ngân hàng sợ mất nợ, hụt vốn nên đòi hỏi nhiều điều kiện khó khăn hơn. Phần khác là niềm tin của thị trường chưa có, số tổng cầu không tăng và doanh nghiệp mà vay được tiền thì có khi lại chất hàng vào tồn kho. Tình trạng bấp bênh ấy không thể chỉ giải quyết bằng cách hạ lãi suất.
Vũ Hoàng: Ông nói đến hai điều trong chuyện hạ lãi suất này. Vừa rồi là đầu ra của ngân hàng hay tín dụng cho doanh nghiệp. Còn điều kia là gì thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Điều kia là lãi suất huy động, là tiền lời trả cho các trương chủ ký thác từ một tháng đến một năm, đã giảm từ 8% xuống 7,5% và ký thác tiết kiệm theo hạn kỳ lâu hơn thì do sự thoả thuận giữa ngân hàng và thân chủ, tức là cũng phải trên 8%. Ta thử xét vấn đề này theo khía cạnh “phí tổn thời cơ của tư bản”, là đầu tư đồng tiền dư dôi vào nơi nào thì lợi nhất?
Thứ nhất, từ năm ngoái, người nào có tiền thì đã ồ ạt tháo chạy khỏi thị trường bất động sản vì biết là kẹt vốn và sẽ lỗ. Họ cũng dè dặt với việc đầu cơ qua thị trường chứng khoán, vì chưa có lời. Một số thì nghĩ đến đô la nhưng âu lo về trị giá của đồng bạc xanh trên thị trường ngoại hối vì chính sách hạ lãi suất tới số không và ào ạt bơm tiền của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ. Nhiều người thì nhắm vào vàng nên giá vàng trong nước mới cao hơn giá quốc tế, nhưng lại sợ là vàng có thể sụt, hoặc nhà nước sẽ chiếu cố đến thị trường này và giành lấy độc quyền hoặc trưng thu bất ngờ. Vì thế, về cơ bản, các giải pháp đầu tư ấy vừa thiếu an toàn vừa kém lời.

Cái bẫy của thanh khoản

Vũ Hoàng: Thưa ông, có phải là trong hoàn cảnh đó, những người có tiền chỉ còn một ngả bảo vệ trị giá tài sản của họ là ký thác vào ngân hàng hay chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng vậy và đấy mới là vấn đề khi ta xét về cả hai mặt là có lời và an toàn.
Nói về phần lời thì khi ký thác, người ta có thể được 8% trở lên, là mức lời cực lớn mà cũng là một gánh nặng cho ngân hàng vì nói chung, khi kinh tế chỉ tăng trưởng ở khoảng 5% mà kiếm ra 8% thì ai cũng ham, nhưng làm gì mà lời hơn 8% để trả cho khách? Trong khung cảnh cắt giảm lãi suất đồng loạt của các nước mà lãi suất ký thác lại được tới 8% thì đấy là chuyện hãn hữu, gần như chỉ có ở Việt Nam! Ở xứ khác mà được một hai phân là mừng. Đã vậy, từ kinh nghiệm của Cộng hòa Síp, người ta còn e rằng khi cùng quẫn thì nhà nước lại đánh thuế trên tiền lời tiết kiệm để cứu lấy chuyện khác, như đã có người đề nghị tại Việt Nam.
Nói về sự an toàn thì tất cả chỉ là tương đối. Hệ thống ngân hàng của Việt Nam rất bấp bênh và có quá nhiều rủi ro sụp đổ, nhưng dù sao thì các trương chủ còn có thể rút ký thác ra tiền mặt, ít ra là một phần, chứ không đến nỗi mất cả chì lẫn chài. Họ đành tin vào lợi thế của thanh khoản như vậy vì nhìn quanh chẳng còn giải pháp nào khác. Muốn tẩu tán tư bản và chuyển tiền ra ngoài thì phải là đại gia hoặc có quan hệ lớn với giới chức của đảng và nhà nước.
Vũ Hoàng: Khi kết hợp cả hai mặt an toàn và có lợi của giới có tiền thì người ta thấy thế nào?
Tôi nghĩ rằng nó cũng tựa như đẩy một sợi dây mà chẳng tác động theo sự chờ đợi, tức là rơi vào cái bẫy của thanh khoản như giới kinh tế thường nói.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi trộm nghĩ rằng người ta thấy ra một bi và hài kịch.
Bi kịch là số phận của người có tiền bị kẹt giữa những kênh đầu tư đều bất trắc như nhau và giải pháp ít tệ nhất vẫn là gửi tiền vào ngân hàng mà nơm nớp lo rằng mình giao trứng cho ác.  Hài kịch là cách tính toán trên thị trường công khố phiếu, tức là cho nhà nước Việt Nam vay tiền.
Sau khi quyết định hạ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước được công bố, trị giá trái phiếu tăng vọt và phân lời sụt. Tôi xin giải thích thêm là trị giá trái phiếu và phân lời, tức là tiền lời khi cho vay, chuyển dịch ngược chiều. Khi thấy lạm phát thoái lui và lãi suất ký thác hạ, giới đầu tư muốn cho vay nhiều hơn nên giá trái phiếu mới tăng và phân lời mới giảm. Hôm 25 thì phân lời trái phiếu loại 5 năm giảm tám điểm cơ bản hay 0,08% tới 8,92% là mức thấp nhất kể từ Tháng Hai năm 2009. Vì thấy nhiều người muốn cho nhà nước vay tiền, ta để ý đến gánh nợ của nhà nước, là gánh công trái hay “nợ công” theo cách gọi trong nước.
Vũ Hoàng: Nhưng thưa ông, hình như là gánh nợ của nhà nước cũng đang là vấn đề mà?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Hài kịch ở đây là người ta không biết rằng nhà nước Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp đã mắc nợ đến mức nào. Lý do là chính quyền không công khai hóa các khoản nợ của mình, lẫn trách nhiệm hoàn trái khi bảo lãnh cho các tập đoàn kinh tế của nhà nước hay các địa phương. Nhiều nơi thì chỉ có thể ước tính rằng gánh công trái của Việt Nam lên tới phân nửa Tổng sản lượng, khoảng 72 tỷ đô la, trong đó 60% là vay ngoại quốc.
nha250.jpg
Tòa nhà căn hộ cao cấp ở Hà Nội, ảnh chụp hôm 14-08-2011. RFA photo.
Chưa biết Việt Nam sẽ trang trải nợ nần thế nào nhưng vì bội chi ngân sách thường xuyên ở mức 5% của Tổng sản lượng nên ai cũng có thể suy ra rằng chính nhà nước Việt Nam đang đảo nợ, tức là vay khoản nợ mới để trả nợ cũ và cứ vậy mà tích lũy tiền lời.
Bây giờ, khi lạc quan cho nhà nước vay tiền bằng cách mua vào công khố phiếu với kỳ vọng có lời tám chín phân sau này, nhiều nhà đầu tư hay chủ nợ đang chuốc lấy họa. Họ chẳng biết là nhà nước Việt Nam vay để làm gì, cho ai và làm sao kiếm ra lời để trả nợ sau này khi doanh nghiệp nhà nước thì lỗ lã, các dự án xây dựng hạ tầng thì rệu rã vì bị rút ruột và gây lãng phí triền miên.
Các ngân hàng trung gian hay tổ chức tín dụng làm môi giới thì đã ăn hoa hồng và đứng sang một bên, còn chủ nợ thì gói kén nợ chuyền tay qua người khác mà chẳng biết là bên trong bị ung thối đến cỡ nào, cho tới ngày sẽ nhờ Câu lạc bộ Paris hay London dàn xếp để đòi nợ! Hài kịch là thế, như người ta đã chứng kiến quá nhiều lần tại nhiều xứ khác trên thế giới.
Vũ Hoàng: Tổng kết lại thì ông không mấy lạc quan về biện pháp cắt giảm lãi suất vừa qua?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng nó cũng tựa như đẩy một sợi dây mà chẳng tác động theo sự chờ đợi, tức là rơi vào cái bẫy của thanh khoản như giới kinh tế thường nói. Và sợi dây đó sẽ thắt cổ các chủ nợ vì khách nợ sau cùng là một nhà nước không đáng tin.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi và qua một kỳ khác có lẽ chúng ta sẽ tìm hiểu về Câu lạc bộ Paris và Câu lạc bộ London là nơi có thể dàn xếp chuyện đòi nợ sau này.

Tin, bài liên quan

Tìm mọi cách móc túi dân (Văn Quang)

Thongluan


“…Còn khá nhiều những quy định khác cũng không kém phần “lẩm cẩm” của các ông làm ra luật, đẻ ra lệ. Thí dụ quy định “tay sáu ngón không được lái xe”; dự thảo về luật cư trú, quấy rối tình dục tại nơi làm việc bị phạt tiền từ 50 – 75 triệu đồng…”
Bằng mọi cách, mọi thủ đoạn, một số cơ quan, doanh nghiệp hết đường xoay xở kiếm chác tiền của nhà nước quay ra soi mói, tìm cách móc túi dân. Họ cho rằng đó là cái kho vô tận, khai thác tối đa để giải quyết những khó khăn của cơ quan hoặc doanh nghiệp của mình. Và cách nhanh nhất, hiệu quả nhất khiến anh dân cứ trơ thân cụ ra để họ móc túi là ban hành một nghị định, một thông tư nào đó có tính pháp lý là đám dân đen chỉ việc thi hành. Khi đã thành luật, thành quy định thì anh nào không thi hành sẽ phạm tội “chống đối”, có khi còn là tội “phản động”… những cái tội được đưa vào cái trại được gọi là “trại cải tạo”, tù mọt gông. “Cải tạo” cho những thằng khác sợ phải lòi tiền ra, phải ngậm miệng để trở thành những con cừu ngoan ngoãn nằm xuống cho người ta xén trụi lông.
Tất nhiên ngoài khó khăn ra, họ còn làm giàu trên những đồng tiền xương máu của người dân. Bởi vậy gần đây mới có những “đề xuất” những “kiến nghị” cực kỳ phi lý và ngay cả những quyết định, dự thảo luật đôi khi cũng không nằm ngoài mục đích móc tiền của dân. Có thể đây cũng chỉ là hành động “tung đòn gió” để đo lường phản ứng, nếu xuôi chiều mát mái thì làm tới, không lọt thì rút lại, đâu có mất mát gì.
Nhưng có một thực tế họ cần phải hiểu rằng những ngón đòn gió đó làm người dân hoang mang, sẽ làm mất lòng tin, có khi sợ hãi, đề phòng và dễ dàng biến thành đối nghịch, thù ghét nếu không muốn nói là thù hận đối với những “bộ óc của quỷ”. Nhưng cũng có khi lại là những phát minh, những sáng kiến của những người làm chính sách, họ không cố tình mà chỉ là những người ngồi trên trời vẽ ra chính sách, họ ăn lương cao, chức lớn nhưng hoàn toàn không hiểu gì về đời sống của người dân. Chỉ trong một thời gian rất gần đây, đã có khá nhiều những quyết định, những dự thảo bị phản đối nên phải rút lại.
Một “đề xuất móc túi” điển hình

Bất động sản chết đứng như Từ Hải
với những khu nhà tiền tỉ bỏ hoang
Đó là “kiến nghị” của ông Lê Hoàng Châu, chủ tịch Hiệp hội bất động sản TP Sài Gòn  đã được gửi tới Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đề nghị đánh thuế vào lãi suất tiết kiệm gửi Ngân hàng từ mức gởi 500 triệu đồng trở lên! Ông hy vọng đánh thuế vào tiền lời của dân, họ sẽ chuyển sang đầu tư vào ngành bất động sản đang “chết đứng như Từ Hải” của ông. Ông chủ tịch Hiệp hội bất động sản (BĐS) tung một “đề xuất” nặng mùi “nhóm lợi ích”, nhòm ngó, săm soi những đồng tiền gửi tiết kiệm của người dân.
Người ta tự hỏi, phải chăng BĐS quen hưởng lợi trên sự mất mát to lớn của số đông người dân mà cơ chế tạo ra suốt thời gian dài nên giờ lại mon men muốn hưởng tiếp lần nữa để vượt qua khó khăn?
Đại gia từ bóng tối bước ra

Biệt thự của ông Trầm Bê, một đại gia bước ra từ bóng tối
Hãy thử nhìn lại nguyên nhân sự xuống dốc nhanh chóng của BĐS VN. Ai cũng biết BĐS VN đang trong cơn khủng hoảng nặng. Tuy nhiên, nhiều ngành khác cũng bị khủng hoảng đã nhận được sự cảm thông chia sẻ rất nhiều từ công luận, còn BĐS thì không! Lúc Bộ Xây dựng đưa ra “phương án cứu BĐS”, nhiều ý kiến đã phản đối gay gắt. Cái gì cũng có nguyên do! Việc cứu BĐS bị phản ứng nhiều bởi đây là ngành đã làm mưa làm gió suốt một thời gian dài, đẩy giá thị trường nhà ở các đô thị lên mức cao nhất thế giới. Cũng nhờ lợi nhuận khủng bao năm qua, BĐS đã đẻ ra hàng loạt đại gia từ bóng tối bước ra. Chẳng thiếu gì ông tay trắng, bà tay đen, đang đói rách kinh niên bỗng chốc trở thành tỉ phú, đại gia, ăn chơi lừng lẫy nhờ vào mua bán lòng vòng bất động sản. Chuyện này làm nhức mắt nhiều người nên ai cũng biết và các đại gia lại càng thích thú vì danh tiếng nổi như cồn, nhà sang như cung điện, làm đám cưới cho con như làm “lễ hội”, tốn vài chục tỉ, coi như đồ bỏ. Con trai hầu hết là những công tử, cặp kè toàn chân dài siêu hạng, con gái là những tiểu thư đài các nay đi Mỹ mai đi Nhật, toàn là tổng giám đốc, giám đốc công ty mẹ công ty con, anh nào cũng phát thèm. Bắt chước thú chơi sang của những ông vua dầu hỏa, bữa ăn chơi vài chục ngàn đô là chuyện hàng ngày ở huyện…
Nguồn lợi nhuận khổng lồ của BĐS lấy được từ mất mát lớn lao của biết bao người dân bị thu hồi đất, thu hồi nhà với giá đền bù thấp so với khi bán ra của các dự án BĐS trên mảnh đất của dân. Mức chênh lệch có khi gấp vài chục lần giữa giá đền bù cho dân và giá bán nền của nhà đầu tư! “Cơ chế”-  hay nói thẳng ra là “luật lệ” – hồi đó đã ban cho những nhà đầu tư những dự án, những cơ hội quý hơn vàng suốt thời gian dài mà nhiều ngành khác không có được.
Nhiều ngành đang cần cứu hơn bất động sản
Sự đầu cơ quá nhiều lợi lộc, quay cuồng như ma trận đã dẫn thị trường BĐS vào cửa tử. Nhiều người trở thành đại gia bỗng chốc trở thành con nợ khổng lồ, ôm dự án chịu trận, để lãi mẹ đẻ lãi con.
Làm ăn có thắng có thua là nguyên tắc bất di bất dịch khắp thế giới này. BĐS đã được hưởng lợi từ “cơ chế” quá nhiều, nay gặp khó khăn xin được “cứu” nghe không thuận chút nào! Xét về tình cảm, lý trí lẫn đạo đức đều không lọt lỗ tai! Đó là lý do khiến dư luận có nhiều quan điểm, ý kiến không đồng tình. Bởi nếu “cứu” thì phải dùng tiền ngân sách, tức đồng tiền của dân đóng thuế!
Hơn nữa, nếu vì vai trò quan trọng với nền kinh tế cần phải “cứu”, thì hiện nay có rất nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp sản xuất cần phải “cứu” hơn, phải tiếp sức cấp bách hơn gấp nhiều lần. Chẳng hạn ngành nông nghiệp mà đối tượng chính là nông dân đã đóng góp cho đất nước gần 22 tỷ đô la xuất khẩu trong điều kiện họ vẫn phải “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”; xuất khẩu được nhiều ngoại tệ trong khi nông dân thua lỗ!
BĐS sống hay chết là do chính các ông quyết định. Bán nhà bán đất giá trên trời, lời hàng ngàn tỉ, dân vẫn đói dài, tiền đâu mà mua nhà. Hạ giá xuống đúng như giá trị thật của nó, may ra các ông tự cứu được.
Lấy dân Mỹ ra so sánh là ngớ ngẩn
Chủ tịch BĐS Sài Gòn Lê Hoàng Châu lấy cớ hiệp hội của ông đề nghị cần sửa ngay chính sách lãi suất tiết kiệm thực dương (cao hơn chỉ số lạm phát) và chính sách không đánh thuế trên thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm. Ông còn nhấn mạnh: “Trên thế giới không nước nào có lãi suất tiết kiệm thực dương như Việt Nam”, nên cần phải đánh thuế!
Ông cho rằng các nước khác đã làm như vậy song ông không biết rằng, các nước ấy đã có hệ thống phúc lợi xã hội rất tốt, bảo đảm cuộc sống cho người mất sức lao động, người về hưu và người thất nghiệp, đau ốm! Đời sống của họ vững vàng, đồng tiền không mất giá, không biết nhảy múa, không xáo trộn từng ngày. Còn dân VN mở mắt ra thấy giá cả tăng vùn vụt, thuế phí lu bù. Không thể biết ngày mai no hay đói, thiếu hay đủ. Già yếu, bệnh tật không có tiền để dành thì ai nuôi? Không có tiền nộp cho bệnh viện chỉ có nước nằm ngoài hè đừng hòng ai cứu. Vì vậy nên ở VN tiền gởi ngân hàng đúng như tên gọi là “tiết kiệm”, tức là phòng thân lúc bất trắc, lúc về già, ốm đau. Thế nên so sánh như vậy là ngớ ngẩn.
Ông đã gặp ngay phản ứng quyết liệt từ nhiều nhà nghiên cứu và hàng ngàn ý kiến của người dân lương thiện. Tôi chỉ nêu vài ý kiến gần nhất:
- Mr. An Minh viết: Đừng cào cấu hỡi Hiệp hội Bất động sản Sài Gòn, tại sao khi các ông ăn nên làm ra, các ông không hô hào đóng thuế ngành nghề các ông mạnh vào, giờ thua lỗ tính chuyện gỡ gạc tùm lum.
- Bạn duonghn viết: “Việt Nam có lãi suất tiết kiệm thực dương? Tôi nghĩ ông nhầm lẫn vì những năm gần đây hầu như lãi suất đều nhỏ hơn lạm phát”.
- Bạn Hoang Chuc: hoangchuc@yahoo.com kêu gọi những người quên mất lương tâm:  “Nếu đánh thuế thu nhập tiền gửi tiết kiệm, chắc chẳng còn ai dám gửi tiền vào ngân hàng nữa! Xin các “đại gia” sau khi đã tung ra bao chiêu trò ảo thuật làm cho người dân thất điên bát đảo rồi, no túi rồi thì đừng làm người dân kiệt quệ thêm nữa. Ông Châu có lẽ chẳng bao giờ biết rằng 500 triệu tiền gửi tiết kiệm là mồ hôi xương máu của  người lao động, có khi phải tích lũy từ ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác từ trẻ tới già mới có được. Ôi! chỉ khổ người dân lao động mà thôi! Xin hãy đứng từ vị trí của người lao động mà xem xét vấn đề, hỡi những người có lẽ đang quên mất lương tâm!”
- Bạn thanhbinh quyết định dứt khoát: Nếu bi đánh thuế tôi sẽ rút tiền mua USD vì:
1) Đồng tiền VND mỗi năm một mất giá so với USD.
2) Lạm phát của VN cao hơn lãi suất tiền gởi.
3) Việc đánh thuế là không hợp lý vì như thế tôi đã bị đánh thuế thu nhập 2 lần.
Chưa biết chính phủ và NHNN VN nghĩ sao trước những “đề xuất” khôn lỏi này. Ngành nào cũng chăm chú soi mói cái túi tiền của dân, đúng là một nguy cơ mà người dân phải gánh chịu, chẳng khác nào “thù trong giặc ngoài”, luôn phải ở tư thế phòng thủ kẻo nó móc tới ruột non ruột già, không chừa bất cứ thứ gì.
“Huy động sức dân” hay móc túi dân
Lâu nay người ta thường nghe nói đến một cái tên rất đẹp là “huy động sức dân” mỗi khi  cần phải giải quyết một mục tiêu hay tăng lợi nhuận, Thực ra đó là “chiêu” móc túi dân. Dường như đã thành “căn bệnh” trầm kha, thành một thứ “hội chứng bất trị của thời đại”.
Ở mức độ nào đó thì việc “huy động sức dân” là cần thiết vì nhà nước sống được là do dân nuôi. Nhưng lạm dụng như thời gian qua, thành “hội chứng” thì không bình thường hay phải gọi là đáng báo động!
Ở từng ngành, từng lĩnh vực, từng nghề cụ thể thì chiêu móc túi biến hóa khôn lường tùy lúc tùy thời.
Nhắc đến ngành điện lực người ta liền nghĩ tới căn bệnh “tăng giá” triền miên. Dù danh xưng là công ty song nhờ độc quyền nên ngành điện dễ dàng áp đặt mọi chuyện lên đầu “thượng đế”! Mặc dù không phải lần nào đề nghị tăng giá điện cũng được Bộ Công thương và Chính phủ thông qua song chưa năm nào người sử dụng điện thoát khỏi nạn tăng giá. Có năm ông điện tăng tới 3 lần mà vẫn chưa hài lòng! Điệp khúc “giá điện trong nước vẫn thấp hơn giá một số nước” là chiêu bài để “ông” này móc túi người tiêu dùng.
Tiếp theo là “ông” xăng dầu. “Ông” này chơi cao tay hơn vì có lúc giảm giá, song tựu chung vẫn là “lùi một bước để tiến ba bước”. Giảm 1 ngàn, tăng 3 ngàn.
Hết tăng giá đến thu phí
Đáng sợ nhất là ông giao thông vận tải với khẩu hiệu nổi tiếng: “Đóng phí giao thông đường bộ là yêu nước”! Vì không phải là doanh nghiệp nên “ông” này không tăng giá mà “soi” vào túi tiền của người dân bằng chiêu thu phí.
Ba năm nay “ông” này “đề xuất” ra nhiều loại phí đánh vào phương tiện đi lại của người dân. Chiếc xe máy, xe hơi lâu nay đổ xăng đã phải gánh phí đường bộ 1.000 đồng/lít, nay đề nghị thu thêm “phí duy trì bảo hành đường bộ”, tức phí đè lên phí để rút tiền của người dân. Phương tiện đi lại chẳng khác gì đôi chân, sống chết gì cũng phải đi làm, đưa con đi học nên dù vô cùng ấm ức, người dân cũng phải chịu.
“Chính chủ” của mày đâu rồi?

Những chiếc xe chỉ có vài triệu đồng này
hầu hết đều đã qua nhiều đời chủ,
đến chủ  cửa hàng cũng chẳng biết “chính chủ” đang ở nơi nào
Tiếp đến là “đề xuất” phạt xe không chính chủ. Tức khắc bị dân phản ứng gay gắt, nay đã phải dừng lại. Nhưng hai chữ “chính chủ” trở thành chuyện mỉa mai, khôi hài đầu lưỡi. Cặp vợ chồng vừa cưới, chưa kịp làm hôn  thú, người ta nói đùa là “chúng mày chưa chính chủ”. Hai cô chân dài ngồi đấu láo với nhau lại hỏi “chính chủ của mày đâu rồi”? Chuyện luật lệ nhà nước biến thành chuyện tiếu lâm. Chẳng hiểu đầu óc các nhà làm chính sách, làm luật này “có vần đề” gì đây?
Chiều 11-3, Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng cho biết đã rút bỏ quy định xử phạt xe không chính chủ ra khỏi dự thảo nghị định xử phạt vi phạm giao thông dự định ban hành vào ngày 1-7.
Tuy nhiên, nói chuyện với báo mang VnExpress, ông Nguyễn Văn Tuyên, Cục trưởng Cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt (Bộ Công an) khẳng định, quy định về xử phạt xe không sang tên đổi chủ trong Thông tư 11 đã nêu rất rõ, nên bắt đầu từ ngày 15/4 CSGT vẫn sẽ áp dụng theo quy định. Ông  Tuyên nói: “Hiện tại quan điểm của hai bộ không giống nhau nên quy định này sẽ phải trình Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên quan điểm của Bộ Công an là vẫn sẽ xử phạt nghiêm những xe không sang tên đổi chủ”.
Người dân hiện đang bị “treo lửng lơ” giữa những bất đồng của hai bộ.
Cuộc chiến mũ bảo hiểm đang căng

Mũ bảo hiểm bày bán tràn lan,
người dân chẳng biết hàng nào thật, hàng nào giả
Đến chuyện đội mũ bảo hiểm “dởm” bị phạt 200 ngàn đồng, dự tính áp dụng từ đầu tháng 4 – 2013, lại bị dân la làng. Từ ba bốn năm nay, mũ bảo hiểm (MBH) bán đầy đường, đầy chợ, góc phố, ngã ba… chỗ nào cũng bày bán tràn lan, hàng thật hàng dởm lẫn lộn. Chẳng người dân nào muốn chết vì tai nạn giao thông nên cũng muốn mua loại mũ thật mũ tốt. Nhưng họ không thể phân biệt được mũ nào đúng quy cách, mũ nào chỉ để “che mắt CSGT”. Cũng phải công nhận một sự thật là tình trạng ở VN, người lao động nghèo còn nhiều lắm, mỗi ngày kiếm vài chục ngàn đủ ăn là mừng rồi. Giá nón thật khá đắt, trong một thời gian ngắn, nhà có chừng 5-10 người, chưa thể có đủ tiền mua.
Ấy thế mà cũng có cơ quan đền nghị phạt anh dân đen trước. Dân nháo nhào, các cơ quan lại giải thích túi bụi. Cuối cùng giải pháp đưa ra là “Với mũ bảo hiểm giả, không bảo đảm chất lượng mà người dân khó nhận biết, cơ quan chức năng chỉ tuyên truyền, nhắc nhở.” Dân thoát được một mối lo, tuy nhiên, sáng 14-3, 4 bộ vừa quyết định ngừng ban hành thông tư mà theo đó sẽ phạt người đội MBH “dỏm” thì ngay trong chiều cùng ngày vị quan chức Ủy ban An toàn giao thông quốc gia lại tuyên bố sẽ xử phạt người đội MBH không có đủ 3 lớp. Thật ra MBH giả cũng thừa sức làm mũ có ba lớp.
Chưa biết “cuộc chiến Mũ bảo hiểm” này sẽ đi về đâu.
Trạm thu phí bủa vây

Trạm thu phí DT 745 không có giấy phép vẫn hiên ngang hoạt động
Đặc điểm chung của các “kiến nghị”, “đề xuất” móc tiền của người dân là các ông này viện dẫn nước này nước kia đã làm, họ đều lờ tịt đi hoàn cảnh, điều kiện của các nước khác tốt hơn VN gấp nhiều lần. Tỷ dụ như việc thu phí chồng phí giao thông đường bộ, đường sá thiên hạ tốt hơn, các trạm thu phí không dày đặc bủa vây như ở VN…
Thậm chí hiện nay có cả những trạm thu phí “lụi” tức là trạm thu phí không giấy phép vẫn ngang nhiên hoạt động. Cụ thể trường hợp vửa xảy ra. Sau khi phát hiện trạm thu phí không bảo đảm an toàn tự động và hoạt động không có giấy phép, một doanh nghiệp đã quyết định đưa vụ việc ra tòa án. Chiều 11-3 vừa qua, ông Nguyễn Hoàng Mỹ, Giám đốc Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu Thuận An (11/8 KP.Đông, P.Vĩnh Phú, TX.Thuận An) đã nộp đơn lên Tòa án Thị xã.Thuận An kiện Trạm thu phí Lái Thiêu trên đường ĐT745 (P.Lái Thiêu, TX.Thuận An, Bình Dương) vì thu tiền mà không có giấy phép hoạt động. Theo tố cáo của nhiều người dân, khi sử dụng xe hơi lưu thông từ hướng hầm Thủ Thiêm ra xa lộ Hà Nội, lúc qua trạm thu phí trên xa lộ Hà Nội họ vẫn bị thu phí, mặc dù UBND TP.Sài Gòn quy định không thu phí với những xe này.
Như vậy, có thể thấy rằng, có sự không công bằng giữa người dân và các cơ quan quản lý, doanh nghiệp độc quyền và tổ chức Hiệp hội. Các ông chủ tịch chỉ chăm chú vào “lợi ích nhóm” và những biến tướng vô cùng tinh ma của nó.
Chuyện đáng làm không làm

Xe buýt ở TP Sài Gòn, sao không cho quảng cáo?
Trong khi đó có nguồn lợi lớn thu hàng trăm tỉ đồng mỗi năm thì cù cưa đến nay vẫn chưa làm. Thí dụ việc cho quảng cáo trên xe buýt tại TP Sài Gòn. Người dân đặt câu hỏi: vấn đề này đã được đặt ra lâu lắm rồi nhưng đến nay vẫn chưa có chuyển động nào hết. Các nước người ta đã cho quảng cáo trên xe buýt từ lâu, nhiều tỉnh thành ở VN cũng đã đồng ý cho thực hiện nhưng ở TP.Sài Gòn thì không. Vì sao? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Nếu chỉ vì quản lý không được mà cấm thì năng lực quản lý quá yếu kém.
Mỗi năm TP.Sài Gòn phải trợ giá cho xe buýt hàng trăm tỉ đồng lấy từ ngân sách, là tiền của dân đóng góp. Trong khi đó có nguồn thu cả trăm tỉ đồng từ quảng cáo thì lãnh đạo TP lại từ chối. Thành phố đang thất thu một khoản ngân sách khá lớn. Chỉ có một quyết định cho quảng cáo trên xe buýt hay không mà kéo dài mấy năm nay (mỗi năm mất hơn trăm tỉ đồng). Tại sao vậy? Người dân chờ câu trả lời của các ông lãnh đạo TP.
Xây Nhà hát Giao hưởng trong công viên để làm gì?

Mô hình vị trí xây nhà hát giao hưởng tại công viên 23-9
Trong khi đó, UBND TP Sài Gòn vừa chấp thuận chủ trương xây dựng Nhà hát Giao hưởng – Nhạc, Vũ kịch trong Công viên 23/9 với diện tích 1,2ha, có 2 khán phòng chính, sức chứa 1.700 chỗ, hướng chính nhìn ra phía chợ Bến Thành. Công trình này được giới hạn bởi các đường Tôn Thất Tùng, Lê Lai và Phạm Ngũ Lão, tọa lạc tại trung tâm quận 1, khu vực được mệnh danh là vị trí vàng của TP. Công trình dự trù đưa vào sử dụng vào cuối năm 2015.
Chủ trương này cũng đang bị “ném đá” tơi bời. Bởi lẽ quá dễ hiểu là trong tình hình kinh tế suy thoái, xây dựng nhà hát giao hưởng là quá phí phạm, nhất là Nhà hát lớn Thành Phố mỗi năm cũng chỉ có lèo tèo vài vở diễn, giờ xây thêm cái nhà hát to đùng để ngắm nữa sao? Vả lại thưởng thức nhạc giao hưởng chưa phải là nhu cầu của người dân, ngay cả với những người được gọi là trí thức và hiểu biết âm nhạc. Hơn thế mật độ giao thông khu vực này quá dày đặc rồi. Lại thu hẹp khoảng xanh rất lớn vốn rất ít ỏi của thành phố để xây dựng nhà hát và bãi đậu xe của nhà hát. Đúng là chuyện… ngược đời!
Còn nhiều quy định “lẩm cẩm” đang trong vòng tranh cãi
Thưa bạn, đó chỉ là ba điều bốn chuyện với những “đề xuất” điển hình về máu “tham” của một số ông Chủ tịch tập đoàn cùng một vài quy định lạ đời tại VN. Còn khá nhiều những quy định khác cũng không kém phần “lẩm cẩm” của các ông làm ra luật, đẻ ra lệ. Thí dụ quy định “tay sáu ngón không được lái xe”; dự thảo về luật cư trú, quấy rối tình dục tại nơi làm việc bị phạt tiền từ 50 – 75 triệu đồng. Và những vấn đề gay go, gây nhiều tranh cãi như đề nghị “nổ súng bắn kẻ chống người thi hành công vụ”, còn rất nhiều ý kiến bày tỏ lo ngại xung quanh dự thảo nghị định này; lật tẩy những “trò bẩn” ghê người của showbiz Việt”;bất bình về cảnh người lao động Trung Quốc làm việc chui tại VN…
Bài đã dài, xin để kỳ sau bàn tiếp.
15/3/2013,
Văn Quang