Tô Văn Trường - Suy ngẫm về phát biểu của Thủ tướng
Lần đầu tiên một lãnh đạo cấp cao tỏ lòng “mãi mãi ghi nhớ, biết ơn các thế hệ người Việt Nam chúng ta, đồng chí đồng bào đã hy sinh xương máu và cả tính mạng của mình vì chủ quyền của Hoàng Sa […]”, nghĩa là vinh danh những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình để bảo vệ Hoàng Sa trước sự xâm lược của Trung Cộng. Đây là một bước tiến quan trọng, ít ra là trên lời nói, trong chiều hướng hòa hợp hòa giải dân tộc. Tuy thế, cũng cần tỉnh táo mà thấy rằng lãnh đạo Việt Nam thường không thiếu những lời tốt đẹp. Điều mà người dân chờ đợi là những hành động thực tiễn thể hiện lòng biết ơn đó, để hòa hợp hòa giải không phải là lời nói suông. - Bauxite Việt Nam
Suy ngẫm từ Thông điệp đầu năm đến phát biểu mới đây ở
đảo Lý Sơn của Thủ tướng, chúng ta nhìn lại bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ
trước đã dồn đất nước ta vào cảnh đau lòng, gây nên những thương đau và
tổn thất khủng khiếp trong nội bộ cộng đồng dân tộc ta. Phải từ góc
nhìn cả dân tộc ta đã trở thành nạn nhân như thế trong cục diện quốc tế
ngày ấy, để nhận thức sâu sắc những thách thức mới của cục diện quốc tế
hôm nay đang đe doạ đất nước. Tất cả để gìn giữ, phát huy hoà giải và
đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh bất khả kháng của tổ quốc Việt Nam vô
vàn yêu quý của chúng ta trong thế giới hôm nay.
Nhiều người am hiểu, theo dõi thời cuộc rất quan tâm đến lời phát
biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp “khánh thành công trình nối
cáp điện cho đảo Lý Sơn” ngày 28/9 vừa qua.
“Hôm nay, chúng ta cùng nhau có mặt tại đây, trên huyện đảo Lý
Sơn, một huyện đảo tiền tiêu trên Biển Đông của Tổ quốc, một lần nữa,
chúng ta khẳng định rằng Tổ quốc ta, dân tộc ta, Đảng, Nhà nước ta mãi
mãi ghi nhớ, biết ơn các thế hệ người Việt Nam chúng ta, đồng chí, đồng
bào chúng ta đã anh dũng hy sinh xương máu và cả tính mạng của mình vì
sự nghiệp độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia. Chúng ta mãi mãi ghi nhớ, biết ơn các thế hệ người Việt
Nam chúng ta, đồng chí đồng bào đã hy sinh xương máu và cả tính mạng của
mình vì chủ quyền của Hoàng Sa, của Trường Sa, vì chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của Tổ quốc. Đội hùng binh Hoàng Sa-Bắc Hải-Trường Sa sống
mãi với Tổ quốc ta, dân tộc Việt Nam chúng ta”.
Quan điểm thừa nhận sự hy sinh, đóng góp của người dân bảo vệ chủ
quyền độc lập của tổ quốc (kể cả người lính dưới chế độ Việt Nam Cộng
Hòa hy sinh bảo vệ Hoàng Sa 1974) đã được nhiều người nêu ra từ lâu rồi
nhưng đây là lần đầu tiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công khai phát biểu
rất đáng ghi nhận trong thể chế chính trị hiện nay ở Việt Nam.
Ngày nay, những xu thế của sự phát triển cần có sự hòa giải, hòa hợp
dân tộc. Thời gian thống nhất đất nước đã trôi qua rất lâu rồi. Cất lời
hòa giải đến nay đã muộn. Nhưng muộn còn hơn không.
Đòi hỏi của sự hòa giải hòa hợp dân tộc
Việt Nam đã trải qua những cuộc chiến thảm khốc vào loại nhất nhì thế
giới. Cuộc chiến đã đi vào từng gia đình, từng làng xóm, từng ngõ phố.
Gia đình nào cũng có người theo phe bên này, bên kia. Sau chiến tranh,
nhu cầu hòa giải, gắn kết là nhu cầu lớn. Kéo dài sự chia rẽ chỉ làm
người dân mệt mỏi. Kéo dài sự chia rẽ chỉ làm phân tán lòng dân. Sự hàn
gắn đã diễn ra trong xã hội, trong các gia đình từ lâu rồi. Tiếp tục sự
phân biệt sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với đa số dân chúng. Nó chỉ làm làm
giảm lòng tin, và suy yếu khối đoàn kết toàn dân.
Sinh thời, ông Võ Văn Kiệt đặc biệt trăn trở, day dứt với câu hỏi
phải làm cái gì, làm như thế nào, khi nào để người Việt Nam ở trong cũng
như ngoài nước cùng dòng giống “con rồng, cháu tiên” được đoàn kết, hòa
hợp dân tộc để phát triển đất nước. Ông thấu hiểu nỗi đau, mất mát của
chiến tranh, biết bao chiến sỹ, đồng bào phải hy sinh để đất nước có
ngày thống nhất. Chiến tranh đã cướp mất của ông bốn người thân yêu
nhất, vợ và hai người con nhỏ bị bom không tìm được thi thể, còn người
con trai liệt sĩ, hy sinh trên chiến trường, bản thân ông cũng trải qua
biết bao bao gian khổ, và không ít lần hiểm nguy vì bom đạn của quân
thù.
Có thể nói gia đình ông Sáu Dân là một trong những gia đình chịu nỗi
đau mất mát nhiều nhất bởi chiến tranh nên ông luôn trân trọng giá trị
của hòa bình, tự do và độc lập. Trái tim đầy xúc động, nhân ái của ông,
không chỉ rung lên những đau thương, tổn thất to lớn không gì bù đắp nổi
của đồng bào, chiến sỹ của ta mà còn biết cảm thông, chia sẻ cả mất mát
của người dân bên kia chiến tuyến. Ông hiểu rõ những vết thương trên cơ
thể của đất nước, những di chứng để lại trong tâm hồn của không ít đồng
bào cả hai bên chiến tuyến. Biết nén thù nhà, đặt sự nghiệp phát triển
của đất nước lên trên tất cả, ông thường trăn trở, suy nghĩ, về làn ranh
ngăn cách giữa người Việt Nam ở hai bên bờ cuộc chiến, sau hàng chục
năm vẫn còn đó. Mặc dù biết rằng một số đồng chí của mình có thể chưa
cảm thông, chia sẻ nhưng ông Sáu vẫn mạnh dạn viết lên những lời tâm
huyết tự đáy lòng mình về kết quả cuộc chiến tranh khốc liệt hai mươi
năm là “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng
triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương
chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì tiếp tục làm cho nó thêm rỉ
máu”.
Đòi hỏi của dân chủ, dân quyền
Hãy bỏ qua cách phán xét dựa vào thành phần, dựa vào tư tưởng, dựa
vào chính kiến. Dù thế nào họ là người Việt Nam và họ đã có cống hiến
cho đất nước này, dân tộc này. Trong những giai đoạn khó khăn của đất
nước. đứng trước những hiểm nguy ngàn cân treo sợi tóc, mà Việt Nam đã
vượt qua được. Đó là do chúng ta đã thu được lòng dân. Đã thực hiện
được: Tất cả đóng góp, cống hiến đều được thừa nhận, bất chấp chính
kiến. Cần mở rộng dân chủ để có được lòng tin.
Đòi hỏi của nhìn nhận lại những mối xung đột, bạn thành thù, thù thành bạn.Chúng
ta đã trải qua chiến tranh kéo dài. Chúng ta đã có nhiều kẻ thù. Những
nỗi đau rồi cũng mờ đi theo thời gian. Những xung đột rồi cũng được cởi
bỏ. Những kẻ thù rồi cũng thành bạn bè. Mục đích cuối cùng là để phát
triển. Cùng tồn tại để phát triển. Hiểu nhau để phát triển. Khi đã xóa
đi hận thù với kẻ thù để thành bạn, vậy lẽ nào giữa người Việt Nam với
nhau lại khó hòa hợp. Cần tiến thêm một bước để tạo sự gắn kết dân tộc,
và tạo lòng tin trong toàn dân.
Nhà báo Kim Hạnh, Huy Đức và cộng sự đã tổ chức quyên góp thành lập
quỹ mua ngôi nhà cho bà quả phụ Ngụy Văn Thà, sĩ quan chỉ huy hải đội
Nam Việt Nam đã hi sinh trong trận bảo vệ không cân sức đảo Hoàng Sa
chống Trung Quốc năm 1974 (và hạm đội 7 của Hoa Kỳ ở ngay trên Biển Đông không hề ứng cứu)
chứng tỏ nhân dân ta đã không bao giờ quên các liệt sĩ dù họ mang màu
cờ sắc áo nào đi nữa trong lịch sử đầy biến động của dân tộc ta.
Việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tỏ lòng tri ân tất cả các chiến sĩ đã
hy sinh quên mình bảo vệ biển đảo của chúng ta là việc nên làm, vì sao
chậm trễ, là vì nhiều lý do mà chúng ta đều biết. Tuy nhiên, xét hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay, ta chưa thể có chính sách giống nhau
giữa các chiến sĩ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Việt Nam Cộng
Hòa, tiền tử tuất có thể giống nhau, nhưng giấy chứng nhận có thể khác
nhau. Giả dụ: Với các chiến sĩ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “Tổ
quốc ghi công” và với các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa: “Vinh danh”, còn ở
dưới là tên người đã hi sinh trong trận chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa (và
Trường Sa, đối với một số người, chủ yếu là binh sĩ của Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam). Nên có một tượng đài chung cho tất cả các thế hệ
đã bảo vệ biển đảo của chúng ta (Hoàng Sa và Trường Sa), ở đây là “Tổ
quốc ghi công”.
Ở thành cổ Quảng trị có một tượng đài chung cho binh sĩ cả hai miền,
nhưng vì cuộc chiến ở đó dữ dội đến mức không thể phân biệt được ai với
ai nữa, xác chết chồng chất, lẫn lộn với nhau, người Bắc và Nam Việt Nam
cùng chết một chỗ! Người dân rất đau lòng, khi nghe nói là người ta đã
cho đục hết các dòng chữ vinh danh các chiến sĩ ta đã hi sinh cho tổ
quốc trong trận chiến chống quân xâm lược Trung Quốc tấn công chúng ta
năm 1979, trong khi phía Trung Quốc vẫn kỷ niệm cho lính của họ ở ngay
biên giới với chúng ta. Lịch sử rất công bằng, sẽ không bao giờ quên
những kẻ hèn với giặc, ác và vô ơn với dân.
Đòi hỏi nhìn nhận những đóng góp cho đất nước, dân tộc cho dù họ là ai.
Chúng ta đã từng quá đề cao những chủ nghĩa, những quan điểm cao siêu.
Đất nước, dân tộc đã từng không phải là ưu tiên cao nhất. Nhưng, điều
đầu tiên Hồ Chí Minh dạy thiếu niên nhi đồng là “Yêu tổ quốc, yêu đồng
bào”. Đó là điều mà qua kinh nghiệm lịch sử, chúng ta càng ngày càng
thấy thấm thía. Bỏ qua tất cả những xung đột từ đâu đó mang lại. Bỏ qua
tất cả những xung đột do lịch sử để lại. Thừa nhận tất cả những công sức
của đồng bào ta, của các thế hệ trước. Ta sẽ có được lòng tin và sức
mạnh. Và đó mới là điều có ý nghĩa hơn tất cả những điều tưởng như cao
siêu từ đâu đó mang tới.
Trên hết, đó là đòi hỏi của sự phát triển đất nước. Nếu có được những
điều trên, sẽ thu được lòng tin. Lòng tin là cái mà chúng ta đang cần
nhất để phát triển. Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
Cần có phản biện xã hội để đảm bảo sự đúng đắn về chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã điều chỉnh
nhận thức về công tác dân vận là phải lấy ý kiến của dân trước khi ra
quyết định về những chủ trương có liên quan đến quyền lợi chính đáng của
người dân. Do đó, phải thực hiện 4 điều là “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Đại hội Đảng lần thứ IX đã tiếp tục nhắc lại việc phải
thực hiện bốn điều đó. Thế nhưng, trong thực tế, dường như chỉ mới thực
hiện việc “dân làm” mà không thực hiện ba việc kia!?
Khi đang viết bài này, tôi nhận được thông tin từ ngày 30/9, hầu hết
các đường phố và nhà dân ở Hà Nội đã treo cờ Tổ quốc vì Phường gõ cửa
từng nhà, nói rằng Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu treo cờ từ
30-9 đến 10-10 nhân kỷ niệm ngày giải phóng Thủ đô 10-10. Tại sao một
ngày kỷ niệm của Hà Nội lại có thể yêu cầu treo cờ lâu thế, lâu hơn bất
cứ dịp quốc lễ quan trọng nào, để rồi kéo luôn quốc khánh Trung Quốc
(1/10) vào đó? Và lãnh đạo Hà Nội có thấy rằng rất phản cảm khi thủ đô
treo cờ vào ngày quốc khánh của Trung Quốc, kẻ đang xâm lấn nước ta
không?
Tôi đọc loạt bài viết của ông Nguyễn Trung về đổi mới Đảng Cộng sản
Việt Nam để phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, ngẫm suy gần 40 năm độc
lập thống nhất rồi, bây giờ phải đủ tỉnh táo để xót thương thân phận
dân tộc mình, từ nỗi đau bị dìm vào cuộc nội chiến hôm qua, để hôm nay
tìm đường vượt lên quá khứ, chỉ có thế mới đủ sức đương đầu với mọi
thách thức trong hiện tại cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nếu Thủ tướng có thực hiện những điều đã phát biểu thì cũng chẳng
phải là quá sớm, và nếu có ai đó không hài lòng, cản trở thì bao giờ
cũng không hài lòng, đợi họ là không tưởng và rất bất lợi, tất nhiên,
khi đó lượng đã chính thức biến thành chất rồi, quá trình chuyển hóa,
tiến lên cùng thời đại dù có nhiều trắc trở, trả giá nhưng không thể đảo
ngược.
Thay cho lời kết
Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và những lần công
khai phát biểu trên diễn đàn Quốc hội và quốc tế về quan điểm bảo vệ chủ
quyền, biển đảo của tổ quốc rất hợp lòng người nhưng người dân vẫn mong
chờ các lời nói biến thành hành động cụ thể.
Tôi vẫn nhớ trong buổi làm việc riêng chiều tối ngày 5/6/2014 tại Văn
phòng Chính phủ, Thủ tướng đã kể phải tự tay tra từ điển để tìm hiểu ý
nghĩa của hai từ “viển vông” để nói về tình hữu nghị! Ông cũng tâm sự dự
kiến sẽ phát biểu khi khánh thành công trình nối điện cho đảo Lý Sơn về
sự ghi nhớ công lao của đồng bào chiến sĩ hy sinh bảo vệ chủ quyền biển
đảo ở Hoàng Sa-Trường Sa dù là người của chế độ Việt Nam cộng hòa và
Chính phủ sẽ có chính sách đối với họ, v.v.
Dù biết rằng thể chế chính trị ở Việt Nam rất phức tạp, nhưng người dân luôn ủng hộ và đánh giá cao lời nói, đi đôi với việc làm của những vị lãnh đạo biết nhìn lại mình và vượt lên chính mình vì quyền lợi của đất nước, của dân tộc.
Tô Văn Trường
Tác giả gửi BVN.
Tác giả gửi BVN.
(Bauxitevn)
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với hòa giải – hòa hợp dân tộc
Hòa giải – hòa hợp dân tộc luôn là vấn đề cấp
bách, nóng bỏng của đất nước, đến nay sau gần 40 năm hòa bình thống
nhất chưa có dấu hiệu cải thiện!
Nhân Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần
thứ 8 vừa bế mạc, tôi đệ đạt cùng ông Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân
cùng các vị trong Đoàn chủ tịch, với chức năng - nhiệm vụ xây dựng
khối Đại đoàn kết toàn dân tộc của Mặt trận, trong nhiệm kỳ mới bằng
thái độ cầu thị, chân thành Mặt trận đại diện tiếng nói đồng
bào trong nước xây dựng Chương trình hành động với bước đi,
cách làm cụ thể, thiết thực hướng đến đồng bào định cư ở nước ngoài
hóa giải hận thù, hàn gắn vết thương đau trong lòng người, cùng cảm
thông, chia sẻ những mất mát, đau thương của đồng bào! Trên cơ sở
đó, khơi dậy mạnh mẽ tình yêu và trách nhiệm đối với quê hương đất
nước của đồng bào, phát huy tiềm năng, trí tuệ cùng đồng bào trong
nước đồng tâm hiệp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc!
Tôi đọc bài phát biểu của GS Tương Lai tại
đại hội Mặt trận vừa rồi; tháng 9/2013 tôi đọc bài phát biểu của ông
tại Hội nghị Ủy ban TƯ MT TQ VN lần thứ 6 tại Hà Nội. Hai bài phát
biểu cách một năm, thời gian một năm với người cao tuổi đâu ít và
với tình cảnh đất nước “dầu sôi lửa bỏng” một năm cũng đâu phải
ngắn. Có lẽ vì thế bài phát biểu sau của ông không kềm chế được sự
nôn nóng, quyết liệt!
Không nôn nóng, quyết liệt sao được, khi đất
nước ngày càng tụt hậu và lún sâu vào con đường hầm khủng hoảng toàn
diện; lòng người phân ly; những điều dị thường diển ra nhan nhản
khắp nơi; ngoài nước uy tín quốc tế của Việt Nam giảm sút, giặc Tàu
tham tàn đang tác oai tác quái… GS Tương Lai không che giấu nỗi u
uất khi buông tiếng than “Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy?!”
và dẫn lời ông Nguyễn Minh Nhị ở An Giang trong bài viết với cái tít
rớm lệ “Nước non mình đến nỗi nầy sao?!”.
Ai cũng biết thực trạng đất nước như hôm nay
có một nguyên nhân cốt tủy. Đó là, do không phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc, bao nhiêu nguồn lực, hiền tài của đất
nước không được trọng dụng. Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1989
tổng kết bài học đầu tiên “Lấy dân làm gốc”, đến nay sau 25
năm người cộng sản Việt Nam cần nhìn thẳng, nói thật đã làm gì thể
hiện quan điểm đó trong tư tưởng và hành động của mình?! Chẳng làm
gì cả! Lời nói và việc làm là một khoảng cách rất xa, hiện thực kinh
tế - xã hội bi thảm của đất nước và sự phân ly sâu sắc trong lòng
người như nói trên là minh chứng không thể chối cãi! Thế nhưng, Ban
lãnh đạo cấp cao của đất nước vẫn bình chân như vại, cố thủ trong
thành trì giáo điều, bảo thủ… ! Người ta tự hỏi trong tương lai dân
tộc nầy, đất nước nầy sẽ đi về đâu?!
Nói về sứ mệnh phản biện của Mặt trận
Tổ quốc, GS Tương Lai quyết liệt: “… phải thực thi chức năng phản
biện nếu Mặt trận không cam chịu là thứ cây kiểng vô duyên được
nuôi trồng bằng tiền thuế của dân”. Trong bài phát biểu chào
mừng khai mạc Đại hội ngày 26/9, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn
mạnh, ông mong muốn Mặt trận là người phản biện sắc sảo, chân
tình để giúp Đảng và chánh quyền tự điều chỉnh.
Nói đến chức năng - nhiệm vụ Mặt trận Tổ
quốc, người ta nói nhiều về phản biện, giám sát nhưng nói là
một chuyện, làm là một chuyện khác. Tôi có đọc bài viết của một cán
bộ làm công tác dân vận – Mặt trận nhiều năm, bài viết có đoạn đại
ý: Mặt trận (và các đoàn thể quần chúng) nằm trong hệ thống chánh
trị thống nhất do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, ăn
lương chánh quyền, hoạt động theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và
yêu cầu của chánh quyền, nên “ăn cơm chúa phải múa tối ngày” và tôi
nghe có ai đó nói rất đúng: “không ai có thể lấy đá tự ghè chân
mình”. Chừng nào Mặt trận còn ăn lương chánh quyền, còn đội “vòng
kim cô” của Đảng, thì mãi mãi vẫn như hiện nay, không bao giờ có thể
phản biện, giám sát đúng nghĩa. Trong năm qua, tính từ sự kiện sửa
đổi Hiến pháp năm 2013, có biết bao ý kiến phản biện trên các diển
đàn, hay thư ngỏ, kiến nghị… đầy tâm huyết của đồng bào các giới
trong và ngoài nước gởi đến Ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận
có được tiếp thu, lắng nghe?
Tôi nghĩ, để phát huy dân chủ trong đời sống
xã hội, phát huy vai trò, vị thế Mặt trận Tổ quốc trong tình hình
mới của đất nước, Đảng phải chấp nhận một cơ chế dành cho Mặt
trận Tổ quốc có vai trò độc lập trong đời sống xã hội, xác định đó
là tổ chức xã hội của dân – hay nói cách khác là tổ chức xã hội
dân sự, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật nhà nước, quan hệ
bình đẳng với tổ chức đảng và chánh quyền. Nếu không vậy,
Mặt trận Tổ quốc vẫn là cây kiểng vô duyên của chế độ như Gs
Tương Lai nói mà thôi,/-
Đặng Kiên Trung
Tác giả gởi cho viet-studies ngày
1-10-14
(Viet-studies)
Quan hệ Việt-Mỹ sẽ có bước đột phá sau chuyến thăm của ông Phạm Bình Minh?
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry gặp Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tại Bandar Seri Begawan, Brunei, ngày 2/7/2013. |
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh ngày
1/10 và 2/10 thăm chính thức Hoa Kỳ để ‘tham vấn toàn diện về các vấn
đề song phương và khu vực trong khuôn khổ mối quan hệ Đối tác Toàn
diện giữa hai nước’, đáp lời mời của Ngoại trưởng John Kerry.
Ba trọng tâm dự kiến nằm cao trong nghị trình làm việc giữa Ngoại
trưởng hai nước cựu thù lần này bao gồm vấn đề Biển Đông, tiến trình đàm
phán Hiệp định Tự do Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP do Hoa Kỳ
dẫn đầu, và khả năng Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận võ khí sát thương cho Việt
Nam.
Một cố vấn cao cấp thuộc Trung tâm Nghiên cứu của Mỹ về Chiến lược Quốc tế (CSIS) nhận định quan hệ Việt-Mỹ sẽ có bước đột phá sau chuyến công du của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh.
Có thể trông đợi điều gì từ cuộc gặp của giới chức ngoại giao hàng đầu của hai nước Việt-Mỹ? Mời quý vị cùng tìm hiểu qua cuộc trao đổi với ông Earnest Bower từ trụ sở CSIS ở thủ đô Washington DC, nơi Ngoại trưởng Phạm Bình Minh hôm nay có bài phát biểu về tình hình Việt Nam hiện tại và mối quan hệ Đối tác Toàn diện Việt-Mỹ.
VOA: Phát biểu tại Hội Châu Á ở New York hôm 24/9, Ngoại trưởng Việt Nam đã tái khẳng định chính sách quốc phòng ‘3 không’: không tham gia liên minh quân sự hay là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, và không dựa vào nước này để chống nước kia. Ông có bình luận gì về điều này?
Ông Bower: Phát biểu của ông Minh nhất quán với chính sách ngoại giao và an ninh quốc gia của Việt Nam dựa trên tiêu chí cân bằng. Dù vậy, chính sách ‘3 không’ này vẫn tạo ra nhiều cơ hội cho Washington, có thể đưa chúng ta tiến về hướng bình thường hóa quan hệ giữa quân đội hai nước. Hoa Kỳ sẽ cảm thấy dễ dàng khi làm việc với chính sách ‘3 không’ mà Ngoại trưởng Việt Nam nêu lên đó.
VOA: Theo ông, chính sách này có phù hợp với tình hình hiện nay giữa các hành động lấn lướt của Trung Quốc ở Biển Đông, với vị thế nhỏ bé của Việt Nam bên cạnh Trung Quốc hay không? Nhiều người cho rằng trong tình thế này, Việt Nam nên liên minh với một nước hùng mạnh như Mỹ để đối phó với Trung Quốc. Ý kiến ông thế nào?
Ảnh bên:Ông Earnest Bower, cố vấn cao cấp thuộc Trung tâm Nghiên cứu của Mỹ về Chiến lược Quốc tế
Ông Bower: Chính sách này rất phù hợp. Tôi không tưởng tượng là Việt Nam sẽ bước vào một mối liên minh mới nào và tôi cũng không cho là Mỹ đang tìm kiếm quan hệ đồng minh với Việt Nam. Hai nước Việt-Mỹ đang tiến tới một mối quan hệ Đối tác Chiến lược. Việt Nam không muốn bị chiếm ưu thế hay bị ràng buộc bởi một đối tác nào. Mỹ cũng không kỳ vọng điều đó, chúng tôi không muốn đặt căn cứ ở Việt Nam. Hoa Kỳ không muốn và cũng không cần một liên minh quân sự với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi cần bình thường hóa quan hệ quân sự với Việt Nam và giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền cùng với các nước Châu Á khác.
VOA: Quan hệ Việt-Mỹ đã bình thường hóa gần 20 năm và đôi bên thiết lập quan hệ Đối tác Toàn diện từ năm ngoái. Theo ông, hai nước phải mất bao lâu nữa để xây dựng quan hệ Đối tác Chiến lược? Có trở ngại gì trước mắt không, và nếu có, làm thế nào có thể khắc phục?
Ông Bower: Theo tôi, quan hệ Đối tác Chiến lược Việt-Mỹ trên thực tế đang dần hiện diện. Năm sau, hai nước kỷ niệm 20 năm ngày bình thường hóa quan hệ và đôi bên đang thảo luận về Đối tác Chiến lược. Vấn đề duy nhất cản trở hai nước nâng cấp từ Đối tác Toàn diện lên thành Đối tác Chiến lược chính là các di sản chính trị ở Việt Nam, tức những tiếng nói bảo thủ trong chính phủ Việt Nam hay trong Bộ Chính trị, những người lo ngại không muốn xích lại gần hơn trong quan hệ với Mỹ. Những người này thường thuộc thế hệ cao tuổi. Theo tôi, giới lãnh đạo trẻ tuổi của Việt Nam sẽ nhìn thấy nhiều giá trị từ một mối quan hệ vững mạnh hơn với Mỹ. Một trở ngại khác về phía Mỹ là giới lập pháp Hoa Kỳ vẫn quan ngại về thành tích nhân quyền và quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam. Đôi bên đang thảo luận để tháo gỡ các vấn đề này để hiểu biết và tin cậy nhau hơn. Theo tôi, mối quan hệ Đối tác Chiến lược Việt-Mỹ là điều chúng ta có thể trông thấy trong vòng vài năm tới.
VOA: Ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam đối với Mỹ? Việt Nam có vị trí thế nào trong chính sách của Mỹ ‘Xoay trục về Châu Á’?
Ông Bower: Với Mỹ, Việt Nam là một trong những nước có vai trò chiến lược trong Đông Nam Á, cân bằng các lợi ích kinh tế-an ninh, muốn tăng cường sức mạnh cho khu vực, hiểu rõ cấu trúc kinh tế-an ninh đang trỗi dậy của khu vực. Vì vậy, Việt Nam trở thành một trong những đối tác đặc biệt quan trọng đối với Mỹ và cũng là đối tác chính ở lục địa Đông Nam Á cũng như sẽ là yếu tố chính của liên kết từ Đông sang Tây, từ Bắc tới Nam trong cộng đồng Châu Á. Vì vậy, với Mỹ, Việt Nam là một đối tác hết sức quan trọng.
VOA: Theo ông, hai nước Việt, Mỹ làm thế nào có thể kiềm chế sự lấn lướt của Trung Quốc dành chủ quyền trên Biển Đông?
\
Ông Bower: Hoa Kỳ quyết thuyết phục Trung Quốc rằng giải pháp
cho tranh chấp Biển Đông phải thông qua luật pháp quốc tế và thương
thảo với các bên đối tác chứ không phải bằng võ lực hay ỷ mạnh hiếp
yếu. Nếu Trung Quốc khẳng định chủ quyền dựa trên sức mạnh quân sự và
kinh tế thì sẽ tạo ra một sự mất cân bằng lớn ở Châu Á, dẫn tới các
tình huống an ninh bất ổn ở Châu Á-Thái Bình Dương trong thế kỷ 21 này.
Cho nên, Mỹ sẽ không bước qua một bên đứng nhìn mọi sự xảy ra như thế
và Việt Nam cũng đang áp dụng phương cách dựa trên luật lệ quốc tế
trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.
VOA: Hoa Kỳ có thể làm gì một cách cụ thể và hữu hiệu hơn để giúp bảo vệ an ninh hàng hải ở Biển Đông?
Ông Bower: Hiện nay, Mỹ đang làm rất tốt, một mặt chúng tôi phải củng cố nội lực ASEAN, khuyến khích Đông Nam Á có chung tiếng nói về vấn đề Biển Đông và việc này hiện đã khá hơn cách đây 4 năm, dù chưa đạt một tiếng nói thống nhất mạnh mẽ nhưng đang tiến gần đến điều đó. Theo tôi, Mỹ cũng cần chuẩn thuận thông qua Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển. Điều này sẽ giúp tăng cường uy tín của Mỹ về vấn đề này. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng nên phát huy công tác ngoại giao, tiếp tục thúc đẩy giải pháp ôn hòa cho Biển Đông tại các thượng đỉnh khu vực để dần dần thuyết phục Bắc Kinh rằng họ phải cùng các nước láng giềng làm ra luật và tôn trọng luật, chứ không thể tự mình vẽ ra luật.
VOA: Có thể kỳ vọng gì từ cuộc gặp tuần này giữa Ngoại trưởng hai nước Việt-Mỹ?
Ông Bower: Ngoại trưởng Việt Nam có thể kỳ vọng Ngoại trưởng Mỹ nói với ông rằng Washington định hoàn tất đàm phán TPP ngay sau cuộc bầu cử giữa kỳ của Quốc hội Mỹ vào tháng 11. Về vấn đề Biển Đông, tôi cho rằng ông Kerry sẽ nói với ông Minh là Tổng thống Mỹ sẽ đề cao vấn đề an ninh hàng hải và cam kết của Mỹ về giải pháp ôn hòa theo luật quốc tế tại 3 thượng đỉnh ở Châu Á vào tháng 11 tới đây. Còn việc nới lỏng lệnh cấm vận võ khí cho Việt Nam, theo tôi, Ngoại trưởng Mỹ sẽ nói với Ngoại trưởng Việt Nam là Mỹ muốn tháo gỡ chế tài này nhưng để làm được điều đó phải có sự phối hợp của cả hai phía, rằng Hoa Kỳ cần sự hợp tác của phía Việt Nam trong lĩnh vực cải thiện nhân quyền. Theo tôi, chuyến thăm lần này của ông Minh không dẫn tới kết quả ngay là Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận võ khí, nhưng kết quả nằm ở chỗ đôi bên sẽ cùng nhìn về những gì cần phải làm để lệnh cấm này được tháo gỡ, hy vọng là vào năm tới.
VOA: Sau chuyến thăm này, liệu chúng ta có thể trông đợi một bước đột phá cho quan hệ Việt-Mỹ trong tương lai gần?
Ông Bower: Tôi nghĩ vậy. Bước kế tiếp sẽ là việc dỡ bỏ lệnh cấm vận võ khí cho Việt Nam, rồi đôi bên tiến tới đặt các viên đá nền móng cho một mối quan hệ Đối tác Chiến lược. Tôi cho rằng Tổng thống Obama sẽ sang thăm Việt Nam vào năm 2015 nhân dịp đi dự các thượng đỉnh khu vực ở Philippines và Malaysia. Và nếu điều đó xảy ra, đây sẽ là thời khắc quan trọng cho quan hệ Việt-Mỹ. Nhưng xin nhắc lại, tôi không cho là hai nước sẽ tiến tới quan hệ đồng minh quân sự trong tương lai.
VOA: Xin chân thành cảm ơn ông Earnest Bower, cố vấn cao cấp
thuộc Trung tâm Nghiên cứu của Mỹ về Chiến lược Quốc tế, đã dành cho
chúng tôi cuộc trao đổi này.
Trà Mi
Hội nhập và áp lực cải cách
Đăng bởi Trung Lập vào Thứ Năm, ngày 02 tháng 10 năm 2014
Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (ảnh minh họa) |
Nhà nước Việt Nam thể hiện mong muốn hội nhập thế giới đặc biệt trên
phương diện kinh tế. Nhưng cùng với hội nhập là nhu cầu và cũng là áp
lực về cải cách rất lớn.
Hội nhập kinh tế đưa tới cho Việt Nam nhiều bạn bè bên cạnh lợi ích trao đổi thương mại. Khi người bạn phương Bắc trở chứng mà cao điểm là sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, Việt Nam lại càng cần có nhiều đồng minh, những người có thể giúp đỡ Việt Nam hoặc hỗ trợ lẫn nhau.
Phải chăng càng hội nhập sâu với thế giới, người Việt Nam tự tạo cho mình cơ hội cải cách để đi về phía ánh sáng dân chủ. Trong dịp trả lời chúng tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Hà Nội nhận định:
“ Việc Việt Nam đi về phía ánh sáng thì ngày càng rõ và nhất là trước áp lực của thế lực phía Bắc rõ ràng Việt Nam cần phải cởi mở cần có nhiều đồng minh để có thể giữ được độc lập, biên cương biển đảo. Đó cũng là sự đòi hỏi và tôi cho rằng đòi hỏi đó phù hợp với xu thế phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân.”
Hội nhập kinh tế đưa tới cho Việt Nam nhiều bạn bè bên cạnh lợi ích trao đổi thương mại. Khi người bạn phương Bắc trở chứng mà cao điểm là sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, Việt Nam lại càng cần có nhiều đồng minh, những người có thể giúp đỡ Việt Nam hoặc hỗ trợ lẫn nhau.
Phải chăng càng hội nhập sâu với thế giới, người Việt Nam tự tạo cho mình cơ hội cải cách để đi về phía ánh sáng dân chủ. Trong dịp trả lời chúng tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Hà Nội nhận định:
“ Việc Việt Nam đi về phía ánh sáng thì ngày càng rõ và nhất là trước áp lực của thế lực phía Bắc rõ ràng Việt Nam cần phải cởi mở cần có nhiều đồng minh để có thể giữ được độc lập, biên cương biển đảo. Đó cũng là sự đòi hỏi và tôi cho rằng đòi hỏi đó phù hợp với xu thế phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân.”
Kể từ khi mở cửa đầu thập niên 1990 cho đến cuối 2013 Việt Nam đã trải
qua một chặng đường dài hội nhập khu vực và thế giới. Quan trọng nhất là
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2006, ngoài ra Việt Nam đã
ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) với Nhật Bản, với
Chile. Là thành viên ASEAN Việt Nam đã ký kết và thực hiện 06 FTAs là
Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN và các FTA giữa ASEAN và Trung
Quốc hoặc ASEAN với Hàn Quốc, với Ấn Độ, với Australia và New Zealand.
Hiện nay Việt Nam đang đàm phán TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương gồm 12 nước trong đó quan trọng nhất là Hoa Kỳ. Bên cạnh đó Việt
Nam còn đầy mạnh đàm phán FTA với EU cũng như một số FTA khác.
Trong tất cả các FTA đều có những luật chơi chung theo chuẩn mực thế giới về an toàn thực phẩm, bảo hộ sở hữu trí tuệ hay luật pháp minh bạch và nhiều điều kiện khác. Riêng đối với Hoa Kỳ và EU các hiệp định thương mại tự do còn ràng buộc vấn đề nhân quyền. Vấn đề tự do nghiệp đoàn, bảo vệ người lao động và nhiều điều kiện khác vốn dĩ bình thường ở các chế độ dân chủ pháp trị nhưng lại là sự khác biệt đầy khó khăn với nhà nước cộng sản Việt Nam.
Trong phúc trình về TPP phổ biến ngày 18/9/2014 của Uỷ ban Chuẩn chi Hạ Viện Hoa Kỳ, bên cạnh các vấn đề về tự do lập hội và quyền của người lao động, dân biểu Sander Levan tác giả bản phúc trình còn có một tiểu mục liên quan đến nhân quyền nói chung, xin tạm dịch: “Thỏa thuận thương mại tự do như TPP sẽ thiết lập quan hệ kinh tế mật thiết giữa các quốc gia thành viên. Đa số thành viên Quốc hội và công chúng Hoa Kỳ không mong muốn việc thiết lập những quan hệ như thế với những quốc gia mà ở đó người dân bị khước từ các quyền con người cơ bản.”
Ông Lê Văn Triết, nguyên bộ trưởng Thương mại những năm 1991-1997, người đặt những viên gạch đầu tiên cho chiến lược đàm phán Việt Nam gia nhập WTO cho rằng, xu hướng thời đại buộc Việt Nam phải cải cách, đặc biệt trong tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP với Hoa Kỳ và 10 nước còn lại.
“Nếu không có đàm phán thì cũng phải sửa đổi để càng ngày càng phù hợp với dòng chảy chung của xã hội loài người. Cho nên bây giờ tiếp tục đàm phán để đi vào toàn cầu hóa cùng với các nước thì việc sửa luật là nhất thiết phải làm, không có đàm phán thì Việt Nam cũng có dự kiến một số luật phải sửa.
Áp lực và nhu cầu cải cách đang đến với Việt Nam hết sức lớn lao. TS Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương được Báo SGGP trích lời hôm 25/9/2014 nói rằng, để chuẩn bị cho chiến lược hội nhập và toàn cầu hóa, về phần Chính phủ cần có một tầm nhìn thời đại gắn với cuộc chơi mới nhằm tiến hành cải cách thể chế, giúp tiết giảm chi phí tối thiểu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp. Theo lời TS Võ Trí Thành: “Cải cách cũng gắn với tiến trình làm cho các luật lệ Việt Nam tương thích với thế giới và phải thực thi một cách nghiêm túc. Điều quan trọng, Chính phủ phải từng bước hoàn thiện để hướng tới đến một chính phủ thân thiện.”
Trong tất cả các FTA đều có những luật chơi chung theo chuẩn mực thế giới về an toàn thực phẩm, bảo hộ sở hữu trí tuệ hay luật pháp minh bạch và nhiều điều kiện khác. Riêng đối với Hoa Kỳ và EU các hiệp định thương mại tự do còn ràng buộc vấn đề nhân quyền. Vấn đề tự do nghiệp đoàn, bảo vệ người lao động và nhiều điều kiện khác vốn dĩ bình thường ở các chế độ dân chủ pháp trị nhưng lại là sự khác biệt đầy khó khăn với nhà nước cộng sản Việt Nam.
Trong phúc trình về TPP phổ biến ngày 18/9/2014 của Uỷ ban Chuẩn chi Hạ Viện Hoa Kỳ, bên cạnh các vấn đề về tự do lập hội và quyền của người lao động, dân biểu Sander Levan tác giả bản phúc trình còn có một tiểu mục liên quan đến nhân quyền nói chung, xin tạm dịch: “Thỏa thuận thương mại tự do như TPP sẽ thiết lập quan hệ kinh tế mật thiết giữa các quốc gia thành viên. Đa số thành viên Quốc hội và công chúng Hoa Kỳ không mong muốn việc thiết lập những quan hệ như thế với những quốc gia mà ở đó người dân bị khước từ các quyền con người cơ bản.”
Ông Lê Văn Triết, nguyên bộ trưởng Thương mại những năm 1991-1997, người đặt những viên gạch đầu tiên cho chiến lược đàm phán Việt Nam gia nhập WTO cho rằng, xu hướng thời đại buộc Việt Nam phải cải cách, đặc biệt trong tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP với Hoa Kỳ và 10 nước còn lại.
“Nếu không có đàm phán thì cũng phải sửa đổi để càng ngày càng phù hợp với dòng chảy chung của xã hội loài người. Cho nên bây giờ tiếp tục đàm phán để đi vào toàn cầu hóa cùng với các nước thì việc sửa luật là nhất thiết phải làm, không có đàm phán thì Việt Nam cũng có dự kiến một số luật phải sửa.
Áp lực và nhu cầu cải cách đang đến với Việt Nam hết sức lớn lao. TS Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương được Báo SGGP trích lời hôm 25/9/2014 nói rằng, để chuẩn bị cho chiến lược hội nhập và toàn cầu hóa, về phần Chính phủ cần có một tầm nhìn thời đại gắn với cuộc chơi mới nhằm tiến hành cải cách thể chế, giúp tiết giảm chi phí tối thiểu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp. Theo lời TS Võ Trí Thành: “Cải cách cũng gắn với tiến trình làm cho các luật lệ Việt Nam tương thích với thế giới và phải thực thi một cách nghiêm túc. Điều quan trọng, Chính phủ phải từng bước hoàn thiện để hướng tới đến một chính phủ thân thiện.”
Theo Vietnam Net, TS Nguyễn Đình Lương, nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ nhận định là người Mỹ đang cố đưa vào TPP một khung pháp lý thông thoáng gắn với nền tảng xã hội dân chủ như để vận hành một Đặc khu kinh tế xuyên lục địa. Mỹ mong muốn TPP trở thành một hình thức Hiệp định mẫu của thế kỷ 21. Theo ông Lương, để tham gia TPP Việt Nam phải đổi mới thể chế kinh tế, phải hiện đại hóa, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với những yêu cầu mới này.
Theo các chuyên gia thói quen của Việt Nam là cố gắng xin lộ trình, xin thời hạn bảo lưu càng lâu càng tốt. Nhưng Hoa Kỳ đưa ra điều kiện trừng phạt nếu thành viên TPP vi phạm các điều kiện cam kết. Do vậy theo ông Nguyễn Đình Lương, trước khi TPP thành hiện thực những việc Việt nam cần làm ngay là “dọn rác”, xóa bỏ tư duy kiểu cũ và nhập cuộc với tư duy kinh tế toàn cầu hóa, kinh tế thị trường.
Tuân thủ các điều kiện trong TPP hiệp định mẫu của thế kỷ 21, Việt Nam phải có một “chính phủ thân thiện” như cách nói của TS Võ Trí Thành. Nhưng nhiều người cho rằng một chính phủ thân thiện chỉ có thể có được trong thể chế dân chủ. Hội nhập kèm theo áp lực cải cách là vì vậy.
Nam Nguyên
(RFA)
Đoan Trang - "Mùa thu Hương Cảng" chưa thể đến Việt Nam
“Mùa thu Hương Cảng” đang làm náo nức tinh thần rất nhiều
người trong cộng đồng Facebook ở Việt Nam, đặc biệt là những blogger ủng hộ dân
chủ. Một số người đặt vấn đề: “Bao giờ đến Việt Nam?”, “Đến lúc thay đổi rồi,
ĐCSVN, nếu không sẽ là quá muộn”, “Đứng dậy đi, Việt Nam”, v.v.
Chúng ta đều hiểu tâm trạng đó của nhau, nhưng xin đừng
quên một thực tế là phong trào Occupy Central đã có gần hai năm (từ tháng
1/2013 đến tháng 9/2014) chuẩn bị ráo riết cho đấu tranh bất bạo động; hơn 2500
người ủng hộ và tham gia bỏ phiếu trong ba phiên thảo luận lớn (vào các ngày
9/6/2013, 9/3 và 6/5/2014); cùng sự đoàn kết, phối hợp của hàng chục hội đoàn
xã hội dân sự ở Hong Kong.
Những người sáng lập và tổ chức Occupy Central đều tỏ ra
cực kỳ bài bản và hiểu biết về đấu tranh bất bạo động. Ví dụ như GS. Luật Benny
Tai (ĐH Thành thị Hong Kong), sáng lập viên, đã viết bài phân tích về 6 chiến
lược mà Bắc Kinh sẽ sử dụng để đối phó với phong trào đòi dân chủ ở Hong Kong
(tháng 8/2014). Ngay từ tháng 10 năm ngoái, để đối phó với nạn hacker từ đại lục,
một tổ chức truyền thông độc lập là Hong-Kong In-Media đã tổ chức diễn đàn huy
động các chuyên gia IT của cả đặc khu xây dựng một nhóm kỹ thuật hỗ trợ cho các
tổ chức dân sự và cá nhân các nhà hoạt động.
Tin tức về Occupy Central được cập nhật nhanh chóng trên
tất cả các phương tiện truyền thông xã hội (Youtube, Facebook, Twitter,
Instagram, v.v.) bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh. Các bài viết quan trọng (như
bài của GS. Benny Tai nói trên) đều có bản dịch tiếng Anh gần như ngay lập tức.
Cùng với bài viết là hình ảnh, video, tranh cổ động, khẩu hiệu, biểu ngữ, v.v.
dồn dập đến mức độ có muốn dịch sang tiếng Việt để cập nhật cho bà con blogger
mình cũng thấy hoa mắt! Có thể nói, những nhà hoạt động Hong Kong đã phủ sóng
toàn thế giới về cuộc đấu tranh của họ.
Tất cả cho thấy rằng, đấu tranh dân chủ đòi hỏi kỹ năng tổ
chức, sự sáng tạo, hoạt động “nghiên cứu và phát triển” rất kỹ càng.
Còn ở Việt Nam hiện giờ, có lẽ những người đang theo dõi,
nghiên cứu sát sao phong trào Occupy Central không là ai khác ngoài… lực lượng
an ninh. Tôi cũng tin rằng cho dù kết quả của Occupy Central có như thế nào,
sau sự biến “Mùa thu Hương Cảng” này, an ninh, tuyên giáo… sẽ càng cảnh giác
cao độ và xiết chặt kiểm soát giới trẻ Việt Nam hơn nữa, đặc biệt là đối với
sinh viên.
Nhưng cũng không sao, phải không các bạn trẻ? Tất cả
chúng ta sẽ cùng học.
Đoan Trang
(Blog Đoan Trang)
Lê Mai - “Hai ông anh” và Việt Nam: Từ lịch sử đến hiện thực (Phần IV)
Ý
định của các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam là hạn chế chiến tranh ở miền
Nam, không để lan ra miền Bắc và thắng đối phương ngay tại miền Nam.
Phương châm chiến lược là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, nhưng
cố gắng tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một thời
gian tương đối ngắn. Và cũng hết sức tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của
các nước trên thế giới, đặc biệt là “hai ông anh” Liên Xô và Trung Quốc.
Xem ra, chiến lược ấy đã tỏ ra có hiệu quả.
Và Hà Nội cũng giữ tuyệt mật ý định của mình. Phát biểu tại hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 1.1968) chuẩn bị cho tổng tấn công Mậu Thân, Lê Duẩn nói: “Anh em ta không hiểu đâu. Không ai biết chuyện này, không ngờ đâu. Ta không dám bàn với ai cả, bí mật lắm…Hôm nay bàn trong Trung ương, lần này rất bí mật…vì nếu lộ ra ngoài thì nguy hiểm. Cái này phải nắm thời cơ, lộ ra nguy hiểm lắm”. “Anh em ta” – dĩ nhiên là nói tới các nước XHCN mà trước hết là “hai ông anh”.
Cuộc tấn công Mậu Thân 68 của Bắc Việt Nam đã đưa đến nhiều hệ quả chính trị, quân sự khác nhau. Cuối tháng 3.1968, Johnson tuyên bố không có ý định tái tranh cử Tổng thống Mỹ.
Vào mùa thu năm 1968 ấy, xẩy ra một sự kiện động trời: Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc.
Sáng sớm ngày 21.8, trên bầu trời Praha xuất hiện một máy bay dân dụng Liên Xô. Lấy cớ máy móc bị trục trặc, phi công xin hạ cánh khẩn cấp, nhưng khi cửa máy bay vừa mở ra thì chỉ thấy toàn lính dù Liên Xô được trang bị đẩy đủ nhảy xuống và lập tức chiếm ngay sân bay.
Tiếp đó, sư đoàn nhảy đủ với những máy bay vận tải hạng nặng chở xe tăng, thiết giáp cứ một phút lại một chiếc tiếp đất. Quân đội Liên Xô lập tức tiến vào trung tâm thành phố, bao vây, khống chế các mục tiêu quan trọng như Ban chấp hành Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, ga xe lửa, nhà bưu điện, đài phát thanh…Một lực lượng vũ trang khác đã tiến hành phong tỏa biên giới Tiệp Khắc.
Với 17 sư đoàn quân Liên Xô, 6 sư đoàn một số nước Đông Âu, hai ngàn xe tăng, 800 máy bay, tổng cộng 25 vạn quân ồ ạt tràn sang, chỉ trong một ngày đã chiếm đóng lãnh thổ Tiệp Khắc.
Mưu kế của “ông anh Cả” làm “ông anh Hai” khá e sợ. Rõ ràng, Liên Xô đang thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mình ở châu Âu. Bàn về sự kiện này, Kissinger nói với Mao:
- Theo tôi, Liên Xô muốn kiểm soát châu Âu. Nếu họ cứ rắp tâm làm như vậy, thì buộc chúng tôi phải nói chuyện với họ trên chiến trường. Liên Xô định đưa lục quân của họ đến đâu, Tiệp Khắc ư, hay đến nơi mà chúng ta hoàn toàn không có chuẩn bị, đó là điều nguy hiểm lớn nhất.
Mao:
- Nếu cứ xét theo cách làm của họ ở Tiệp Khắc thì rất khó đoán định. Họ thi hành quỷ kế đối với Tiệp Khắc, dùng máy bay dân dụng để chuyển quân.
Kissinger:
- Bằng cách đó kiểm soát sân bay Praha.
Mao:
- Sau đó, quân đội di chuyển đến đâu, người ta cứ tưởng là hành khách đi máy bay chứ có ai biết là quân đội đâu. Họ đã kiểm soát sân bay Praha như vậy. Quân đội của họ đóng ở đâu là kiểm soát tình hình ở đó.
Nhiều nước lên tiếng phản đối Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc. Tổng thống Titô của Nam Tư, Xêauxescu của Rumani và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đều đã kịch liệt lên án hành động của Liên Xô là “chà đạp lên tự do và độc lập của nước khác”.
Trong khi đó, Brêgiơnép tiếp tục tung ra học thuyết “chủ quyền hạn chế”, “chuyên chính quốc tế, “đại gia đình XHCN”…Liên Xô vẫn luôn thể hiện vai trò người đứng đầu – “ông anh Cả” của mình.
Quay trở lại Việt Nam. Sau đợt hai của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, khi không còn hy vọng gì vào một chiến thắng quân sự nữa, Lê Đức Thọ được Hồ Chí Minh gọi ra Bắc để đi Pari làm cố vấn đặc biệt cho phái đoàn VNDCCH tại cuộc hòa đàm Pari.
Việc VNDCCH chấp nhận đàm phán với Hoa Kỳ cho thấy ảnh hưởng của Trung Quốc ở Bắc Việt Nam đã giảm đi rõ rệt. “Hai ông anh”, do xuất phát từ lợi ích của mình, “ông anh Cả” ủng hộ, “ông anh Hai” phản đối kịch liệt cuộc hòa đàm Pari. Trung Quốc nói rằng, chưa phải lúc Việt Nam ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh: “Chúng ta đã quá vội đi đến nhân nhượng”. Thậm chí, khi các cuộc hội đàm đã bắt đầu ở Paris, Bắc Kinh vẫn phủ nhận các cuộc hội đàm này. Báo chí Trung Quốc đều bỏ qua những tin về nó và lớn tiếng phê phán Pháp đã bố trí tổ chức các cuộc hội đàm.
Bắc Kinh còn tiến hành các biện pháp khác nhằm phá hoại một giải pháp có thể đạt được cho cuộc chiến tranh Đông Dương.
Trung Quốc có hai cách gây sức ép đối với Bắc Việt Nam. Thứ nhất, họ có thể cắt cung cấp gạo và bột mì, nhưng Hà Nội có ít nhất ba tuần dự trữ gạo và Liên Xô có thể cung cấp gạo bằng đường biển. Thứ hai, họ có thể rút các lực lượng công binh, đường sắt của họ khỏi Bắc Việt Nam, nhưng việc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc có thể làm những lực lượng này không còn có vai trò quan trọng nữa.
Trung Quốc cũng tiến hành các hoạt động khiêu khích đối với các tàu Liên Xô ghé các cảng của Trung Quốc trên đường đến Bắc Việt Nam; giữ lại trên lãnh thổ của mình khoảng tám trăm toa xe lửa chở vũ khí và trang thiết bị quân sự và khoảng bảy đoàn tàu hoả đặc biệt chở tổ hợp phòng không cho Bắc Việt Nam.
Mối bất hoà giữa “hai ông anh” đã nhanh chóng phát triển thành một cuộc cạnh tranh quân sự vào cuối những năm 60, và cả hai nước đều đã có một loạt những cuộc va chạm dọc đường biên giới Xô – Trung mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh trên đảo Trân Bảo. Từ tháng 10.1964 đến tháng 4.1965 đã xảy ra 36 vụ xâm phạm biên giới Liên Xô liên quan tới 150 công dân Trung Quốc. Số vụ xâm phạm như vậy đã tăng lên nhanh chóng và tới tháng 5.1969 đã lên tới 164 vụ. Cả hai nước đều như đang nằm trên bờ vực thẳm của một cuộc xung đột quân sự diện rộng mà không có một cơ hội hoà giải nào.
Ngay một cuộc gọi qua đường dây nóng của Thủ tướng Liên Xô Côxưghin cho Mao Trạch Đông cũng không thành công. Cô báo vụ viên Trung Quốc không nối máy tới Mao, cũng không nối máy tới Chu Ân Lai, lại còn mạt sát Thủ tướng Liên Xô là “một tên xét lại, không có tư cách nói chuyện với Chủ tịch Mao Trạch Đông, lãnh tụ vĩ đại của chúng tôi”. Và “Thủ tướng của chúng tôi rất bận, không có thì giờ để mà nghe ông nói lôi thôi, mà có rỗi chăng nữa cũng không muốn nghe ông lằng nhằng”.
Phản ứng cuồng tín, thô lỗ của cô báo vụ viên Trung Quốc suýt nữa dẫn tới tai hoạ lớn.
“Hai ông anh” đều không nhiệt tình với hành động quân sự trên chiến trường hỗ trợ cho các nỗ lực ngoại giao của Hà Nội. Liên Xô đặc biệt thất vọng về cuộc tiến công Quảng Trị của Bắc Việt Nam xảy ra ngay trước khi có cuộc họp thượng đỉnh Xô – Mỹ ở Mátxcơva.
Dù sao, Hà Nội vẫn giữ được vị thế độc lập của mình.
(còn tiếp)
Và Hà Nội cũng giữ tuyệt mật ý định của mình. Phát biểu tại hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 1.1968) chuẩn bị cho tổng tấn công Mậu Thân, Lê Duẩn nói: “Anh em ta không hiểu đâu. Không ai biết chuyện này, không ngờ đâu. Ta không dám bàn với ai cả, bí mật lắm…Hôm nay bàn trong Trung ương, lần này rất bí mật…vì nếu lộ ra ngoài thì nguy hiểm. Cái này phải nắm thời cơ, lộ ra nguy hiểm lắm”. “Anh em ta” – dĩ nhiên là nói tới các nước XHCN mà trước hết là “hai ông anh”.
Cuộc tấn công Mậu Thân 68 của Bắc Việt Nam đã đưa đến nhiều hệ quả chính trị, quân sự khác nhau. Cuối tháng 3.1968, Johnson tuyên bố không có ý định tái tranh cử Tổng thống Mỹ.
Vào mùa thu năm 1968 ấy, xẩy ra một sự kiện động trời: Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc.
Sáng sớm ngày 21.8, trên bầu trời Praha xuất hiện một máy bay dân dụng Liên Xô. Lấy cớ máy móc bị trục trặc, phi công xin hạ cánh khẩn cấp, nhưng khi cửa máy bay vừa mở ra thì chỉ thấy toàn lính dù Liên Xô được trang bị đẩy đủ nhảy xuống và lập tức chiếm ngay sân bay.
Tiếp đó, sư đoàn nhảy đủ với những máy bay vận tải hạng nặng chở xe tăng, thiết giáp cứ một phút lại một chiếc tiếp đất. Quân đội Liên Xô lập tức tiến vào trung tâm thành phố, bao vây, khống chế các mục tiêu quan trọng như Ban chấp hành Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, ga xe lửa, nhà bưu điện, đài phát thanh…Một lực lượng vũ trang khác đã tiến hành phong tỏa biên giới Tiệp Khắc.
Với 17 sư đoàn quân Liên Xô, 6 sư đoàn một số nước Đông Âu, hai ngàn xe tăng, 800 máy bay, tổng cộng 25 vạn quân ồ ạt tràn sang, chỉ trong một ngày đã chiếm đóng lãnh thổ Tiệp Khắc.
Mưu kế của “ông anh Cả” làm “ông anh Hai” khá e sợ. Rõ ràng, Liên Xô đang thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mình ở châu Âu. Bàn về sự kiện này, Kissinger nói với Mao:
- Theo tôi, Liên Xô muốn kiểm soát châu Âu. Nếu họ cứ rắp tâm làm như vậy, thì buộc chúng tôi phải nói chuyện với họ trên chiến trường. Liên Xô định đưa lục quân của họ đến đâu, Tiệp Khắc ư, hay đến nơi mà chúng ta hoàn toàn không có chuẩn bị, đó là điều nguy hiểm lớn nhất.
Mao:
- Nếu cứ xét theo cách làm của họ ở Tiệp Khắc thì rất khó đoán định. Họ thi hành quỷ kế đối với Tiệp Khắc, dùng máy bay dân dụng để chuyển quân.
Kissinger:
- Bằng cách đó kiểm soát sân bay Praha.
Mao:
- Sau đó, quân đội di chuyển đến đâu, người ta cứ tưởng là hành khách đi máy bay chứ có ai biết là quân đội đâu. Họ đã kiểm soát sân bay Praha như vậy. Quân đội của họ đóng ở đâu là kiểm soát tình hình ở đó.
Nhiều nước lên tiếng phản đối Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc. Tổng thống Titô của Nam Tư, Xêauxescu của Rumani và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đều đã kịch liệt lên án hành động của Liên Xô là “chà đạp lên tự do và độc lập của nước khác”.
Trong khi đó, Brêgiơnép tiếp tục tung ra học thuyết “chủ quyền hạn chế”, “chuyên chính quốc tế, “đại gia đình XHCN”…Liên Xô vẫn luôn thể hiện vai trò người đứng đầu – “ông anh Cả” của mình.
Quay trở lại Việt Nam. Sau đợt hai của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, khi không còn hy vọng gì vào một chiến thắng quân sự nữa, Lê Đức Thọ được Hồ Chí Minh gọi ra Bắc để đi Pari làm cố vấn đặc biệt cho phái đoàn VNDCCH tại cuộc hòa đàm Pari.
Việc VNDCCH chấp nhận đàm phán với Hoa Kỳ cho thấy ảnh hưởng của Trung Quốc ở Bắc Việt Nam đã giảm đi rõ rệt. “Hai ông anh”, do xuất phát từ lợi ích của mình, “ông anh Cả” ủng hộ, “ông anh Hai” phản đối kịch liệt cuộc hòa đàm Pari. Trung Quốc nói rằng, chưa phải lúc Việt Nam ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh: “Chúng ta đã quá vội đi đến nhân nhượng”. Thậm chí, khi các cuộc hội đàm đã bắt đầu ở Paris, Bắc Kinh vẫn phủ nhận các cuộc hội đàm này. Báo chí Trung Quốc đều bỏ qua những tin về nó và lớn tiếng phê phán Pháp đã bố trí tổ chức các cuộc hội đàm.
Bắc Kinh còn tiến hành các biện pháp khác nhằm phá hoại một giải pháp có thể đạt được cho cuộc chiến tranh Đông Dương.
Trung Quốc có hai cách gây sức ép đối với Bắc Việt Nam. Thứ nhất, họ có thể cắt cung cấp gạo và bột mì, nhưng Hà Nội có ít nhất ba tuần dự trữ gạo và Liên Xô có thể cung cấp gạo bằng đường biển. Thứ hai, họ có thể rút các lực lượng công binh, đường sắt của họ khỏi Bắc Việt Nam, nhưng việc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc có thể làm những lực lượng này không còn có vai trò quan trọng nữa.
Trung Quốc cũng tiến hành các hoạt động khiêu khích đối với các tàu Liên Xô ghé các cảng của Trung Quốc trên đường đến Bắc Việt Nam; giữ lại trên lãnh thổ của mình khoảng tám trăm toa xe lửa chở vũ khí và trang thiết bị quân sự và khoảng bảy đoàn tàu hoả đặc biệt chở tổ hợp phòng không cho Bắc Việt Nam.
Mối bất hoà giữa “hai ông anh” đã nhanh chóng phát triển thành một cuộc cạnh tranh quân sự vào cuối những năm 60, và cả hai nước đều đã có một loạt những cuộc va chạm dọc đường biên giới Xô – Trung mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh trên đảo Trân Bảo. Từ tháng 10.1964 đến tháng 4.1965 đã xảy ra 36 vụ xâm phạm biên giới Liên Xô liên quan tới 150 công dân Trung Quốc. Số vụ xâm phạm như vậy đã tăng lên nhanh chóng và tới tháng 5.1969 đã lên tới 164 vụ. Cả hai nước đều như đang nằm trên bờ vực thẳm của một cuộc xung đột quân sự diện rộng mà không có một cơ hội hoà giải nào.
Ngay một cuộc gọi qua đường dây nóng của Thủ tướng Liên Xô Côxưghin cho Mao Trạch Đông cũng không thành công. Cô báo vụ viên Trung Quốc không nối máy tới Mao, cũng không nối máy tới Chu Ân Lai, lại còn mạt sát Thủ tướng Liên Xô là “một tên xét lại, không có tư cách nói chuyện với Chủ tịch Mao Trạch Đông, lãnh tụ vĩ đại của chúng tôi”. Và “Thủ tướng của chúng tôi rất bận, không có thì giờ để mà nghe ông nói lôi thôi, mà có rỗi chăng nữa cũng không muốn nghe ông lằng nhằng”.
Phản ứng cuồng tín, thô lỗ của cô báo vụ viên Trung Quốc suýt nữa dẫn tới tai hoạ lớn.
“Hai ông anh” đều không nhiệt tình với hành động quân sự trên chiến trường hỗ trợ cho các nỗ lực ngoại giao của Hà Nội. Liên Xô đặc biệt thất vọng về cuộc tiến công Quảng Trị của Bắc Việt Nam xảy ra ngay trước khi có cuộc họp thượng đỉnh Xô – Mỹ ở Mátxcơva.
Dù sao, Hà Nội vẫn giữ được vị thế độc lập của mình.
(còn tiếp)
Lê Mai
(Blog Lê Mai)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét