Phạm Trần - Sao đảng cứ mãi lội ngược dòng?
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) chỉ biết dựa vào Quân đội và Công an để
cai trị độc quyền và độc đảng là một sai lầm chính trị làm suy yếu dân
tộc, kìm hãm phát triển đất nước và gia tăng hiểm họa bị Trung Cộng đè
đầu bóp cổ.
Sau đây là những bằng chứng:
Thứ nhất, trong hầu hết các bài viết chống bỏ Điều 4 Hiến pháp thừa nhận
đảng có quyền “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” không qua bầu
cử tự do và dân chủ trong qúa khứ cũng như hiện tại, từ sau khi Bản dự
thảo Hiến pháp sửa đổi 1992 được đem ra lấy ý kiến toàn dân từ ngày
02/01/2013, đều xuất phát từ hai lực lượng Quân đội và Công an.
Lực lượng thứ ba, Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan có trách nhiệm giữ
vững tư tưởng cán bộ, đảng viên cũng có một số bài viết bảo vệ “quyền
lãnh đạo tuyệt đối và đương nhiên” cho đảng, nhưng giọng điệu băng đảng
ít hơn trong hai phe Quân đội và Công an.
Tại sao có chuyện này?
Bởi vì Quân đội và Công an là hai lực lượng lấy “bảo vệ đảng” và “trung
thành với đảng” trên cả Tổ quốc và nhân dân làm phương châm hành động để
được nuôi ăn đầy đủ và được hưởng nhiều bổng lộc hơn cả nhân dân vừa là
cha mẹ và làm chủ đất nước!
Do đó, việc hiến định Quân đội trong Điều 70 sửa đổi bổ sung cho Điều 45
Hiến pháp 1992 phải bị lên án là sai trái và ngược ngạo, theo đó “Lực
lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản
Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ
nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”
Việc buộc Quân đội phải trung thành và bảo vệ đảng cầm quyền khi thực tế
quân đội là của nước do dân và của dân có nhiệm vụ ưu tiên phải bảo vệ
Tổ quốc và nhân dân là phản bội xương máu của Tổ tiên đã đổ xuống cho Tổ
quốc trường tồn.
Hơn nữa khi viết Điều 70 như thế, những người sọan thảo đã “đồng hoá
đảng với Tổ quốc” và đặt quyền lợi của Tổ Quốc dưới quyền lợi của Đảng
là việc phải bị lên án là ngạo ngược vì đã coi rẻ sinh mạng của các thế
hệ đã “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” và dân tộc sống mãi muôn đời chứ
không phải cho đảng, vì đảng là của một thiểu số.
Ngoài ra Điều 70 còn nhố nhăng quy định quân đội của Việt Nam còn phải “thực hiện nghĩa vụ quốc tế”, nhưng cho ai và vì ai?
Chẳng nhẽ Quân đội được gọi là “lực lượng vũ trang nhân dân” không coi
nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh cho nhân dân là ưu tiên mà
còn bị đảng lôi đi “đánh thuê” cho nước ngoài, hay “xâm lăng” nước khác
để giữ cam kết với một cường quốc, hay một khối nước nào đó có cùng ý
thức hệ như đảng CSVN đã từng thi hành với Nga-Tầu trong hai cuộc chiến
xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa (từ 1960 đến 1975) và Cao Miên năm 1978?
Lẽ ra khi “sửa đổi” thì Hiến pháp sau phải hay hơn, tốt hơn và có lợi
cho dân cho nước hơn Hiến pháp cũ chứ cớ sao lại lạc hậu và sẵn sàng để
quân đội làm “tay sai” cho ngoại bang như thế?
NGƯỢC CHIỀU VÌ QUYỀN VÀ LỢI?
Thứ hai, bằng chứng “gió thổi ngược chiều” để đưa Quân đội vào Hiến
pháp, ngoài việc “chính trị hoá” còn có âm mưu giữ cho cái ghế cai trị
độc quyền của đảng vững mãi. Nó cũng có có mục đích chống lại những đòi
hỏi ngày một gia tăng trong nhân dân muốn chấm dứt độc tài, đa nguyên đa
đảng để nhân dân tự quyết định lấy vận mệnh chính trị của mình qua bầu
cử bằng lá phiếu tự do và dân chủ.
Hãy đọc lại Ðiều 45 của Hiến pháp 1992 xem Quân đội phải trung thành với
ai:“Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành
quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước.”
Trước đó, trong Điều 51 Hiến pháp 1980 cũng minh thị: “Các lực lượng vũ
trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
những thành quả của cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự
do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng
nước nhà.”
Ðiều 8 trong Hiến pháp 1959 cũng không thấy bóng dáng Đảng đâu hết: “Lực
lượng vũ trang của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là của nhân dân, có
nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh
thổ toàn vẹn và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ tự do, hạnh phúc và sự
nghiệp lao động hoà bình của nhân dân.”
Trong khi ấy, Hiến pháp năm 1946 viết rất đơn giản nhưng ai đọc cũng
hiểu nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc là của dân và do dân như quy định trong hai
Điều 4 và 5 của Chương II nói về Nghĩa vụ và Quyền lợi Công dân:
Điều thứ 4
Mỗi công dân Việt Nam phải:
- Bảo vệ Tổ quốc
- Tôn trọng Hiến pháp
- Tuân theo pháp luật.
Điều thứ 5
Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính.
Như vậy xuyên qua 4 Hiến pháp, từ 1946 đến 1992, Quân đội khi nào cũng
phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết vậy hà cớ gì Ban soạn thảo
lại quy định Quân đội phải coi Đảng hơn cả Quốc gia và Dân tộc trong
Hiến pháp sửa đổi 2013?
Phải chăng vì đảng đã dành cho Bộ Quốc phòng nhiều đặc quyền và đặc lợi
kinh tế như đang được quản lý hơn 110 Doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực
quan trọng như cơ khí, hóa chất; nông, lâm và hải sản; điện, điện tử,
viễn thông v.v…cho nên nếu không trung thành thì sẽ bị mất khối lượng
tài sản khổng lồ này, hoặc ngược lại vì được lợi nên nhất định Quân đội
phải trung thành với đảng để giúp đỡ nhau?
Nhưng mọi nguồn lợi kinh tế ở Việt Nam đều do đảng nắm giữ và chia phần
cho phe nhóm để bảo vệ nhau nên các Doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng có
làm ra tiền thì cũng chỉ để bảo vệ “ lợi ích nhóm” là chính. Trên 5
triệu binh sỹ, cả chính quy và trừ trị, có được hưởng đồng nào không thì
chưa có thống kê chi tiêu nào được công khai nên khó mà biết hàng tỷ
bạc thu vào đã chui vào túi ai?
Chỉ biết Tập đòan viễn thông Việttel lớn nhất của Quân đội, có 30,000
công nhân, tương dương quân số 1 Quân đoàn do một Trung tướng làm Tổng
Giám đốc và hai Thiếu tướng Phó Giám đốc.
Sau đó đến các Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12); Tổng
Công ty 15 (Binh đoàn 15); Tổng Công ty Đông Bắc; Tổng Công ty Tân Cảng
Sài Gòn;Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (VNH).
Dưới các Tổng Công ty là Công ty ở cấp Sư đoàn do các Tổng Giám đốc,
tương đương cấp Tư lệnh trông coi. Các đơn vị Hải quân và Cảnh sát biển
chiếm ưu thế.
CÔNG AN THÌ SAO?
Thứ ba, đối với lực lượng Công an thì được quy định trong Điều 72 (sửa
đổi, bổ sung Điều 47 Hiến pháp 1992): “Công an nhân dân Việt Nam cách
mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng
cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.”
Nếu đem so với Điều 47 (Hiến pháp 1992) thì lực lượng Công an không còn
phải bảo đảm “các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân” nữa!
Hãy đọc lại điều này: “Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng
cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của
công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm.”
Như vậy là thế nào? Những người soạn thảo lại “hiến định hoá” cả việc
tước bỏ các quyền bẩm sinh của người dân được “tự do” và “dân chủ” thì
có độc tài, lạc hậu không ?
Nhưng Công an đối với đảng như thế nào?
Báo cáo của “Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung Ương tổ chức kiểm điểm,
tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết TW4 (Khóa XI) viết: “Tuyệt đại
bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Công an có lập trường tư tưởng vững
vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân, có
lối sống trong sạch, giản dị, chấp hành nghiêm kỷ luật, có tinh thần
trách nhiệm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tận tụy với công việc, nêu
cao ý chí tấn công tội phạm, tinh thần phục vụ nhân dân, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó….sẵn sàng hy sinh
để bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân…” (Tài
liệu Công an, 29/8/2012).
Thế là “hòa cả làng” rồi nhá!
Cả Quân đội và Công an, hai lực lượng “xương sống” giữ cho đảng không
tan để một mình cầm quyền mãn đời đã “trung thành tuyệt đối với Đảng,
Nhà nước” trên cả Tổ quốc và Nhân dân thì đảng chắc ăn như bắp còn gì
nữa, phải không?
Lực lượng Công an đã coi dân như rơm rác hay như kẻ thù tại các cuộc
biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông,
còn cả gan ngăn dân không cho tưởng niệm các liệt sỹ của hai miền
Nam-Bắc Việt Nam đã hy sinh bảo vệ lãnh thổ ở Hoàng Sa và Trường Sa, nay
lại đẩy dân xuống hạng chót của thang bậc được bảo vệ thì Hiến pháp
viết ra cho ai thi hành?
NHỮNG CON VẸT MỎ CÙN
Khi lực lượng Công an được phép “đặt đảng lên đầu dân” như như Bản dự
thảo Hiến pháp sửa đổi đã viết thì một số “quan chức lý luận” của Công
An còn chạy đua với bên Quân đội lên tiếng bảo vệ quyền lãnh đạo của
đảng bằng mọi gía, vì theo họ, đó là “đòi hỏi khách quan tất yếu của
cách mạng Việt Nam”.
Một trong những người này là Đại tá, Phó Giáo sư Nguyễn Bình Ban, quyền
Viện trưởng Viện Lịch sử Công an. Ông Ban viết rằng: “Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, chống xâm lược thống nhất
đất nước, vai trò lãnh đạo của Đảng ta đã được cả dân tộc thừa nhận và
tuân theo.”
Nói như thế là “nhận khống”. Không có điều gọi là “cả dân tộc” đã “thừa
nhận và tuân theo” đảng CSVN. Có chăng là chỉ có một bộ phận người dân
đi theo đảng CSVN hay bị kẹt lại vùng quân đội Cộng sản kiểm soát trong
chiến tranh như ở miền bắc vỹ tuyến 17 đã phải sống và làm theo chế độ
Cộng sản vì họ không có lựa chọn nào khác.
Còn lại lối 25 triệu người sống trong chế độ Việt Nam Cộng hòa từ phía
nam Vỹ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu có thừa nhận đảng CSVN bao giờ đâu?
Ông Nguyễn Bình Ban còn hô hào: “Chúng ta kiên quyết bác bỏ những luận
điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch (TLTĐ) và cơ hội, xét
lại phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng hoặc chỉ thừa nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc, đòi Đảng trả lại quyền
lực cho nhân dân khi kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Thực chất là đòi hạ bệ, tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,
chống lại xu thế phát triển của cách mạng Việt Nam là tiến lên Chủ nghĩa
Xã hội (CNXH)… Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN, Đảng
cũng mắc một số sai lầm, khuyết điểm cả về nhận thức lý luận và tổ chức
thực tiễn. Song, khuyết điểm này không phải bắt nguồn từ sự độc quyền
lãnh đạo của Đảng mà có nguyên nhân căn bản là Đảng chậm đổi mới tư duy
về CNXH và con đường đi lên CNXH; cộng với sự yếu kém, bất cập trong cơ
chế, chính sách quản lý của Nhà nước v.v…” (Báo Công an, 23/02/013)
Tại sao đảng chỉ mắc có “một số sai lầm, khuyết điểm” ? Nếu chỉ có “một
số” thì đất nước đâu có chậm tiến và nhân dân đâu đến nỗi lạc hậu như
bây giờ? Những người như ông Ban, cả Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung
ương đảng CSVN thử sờ lên gáy xem sau 83 năm có mặt trên đất nước, đảng
CSVN đã đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” chưa?
Hãy nhìn sang các nước láng giềng trong vùng Đông Nam Á, chẳng hạn như
Thái Lan để biết trình độ dân trí và sự phồn thịnh của họ cao gấp bao
nhiều ngàn lần người Việt Nam bây giờ? Những người Cộng sản từng kiêu
ngạo trong chiến tranh hãy bình tâm xét lại chân tướng mình xem đã có
khả năng đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho tòan dân trong thời bình
chưa?
Và tại sao Đại tá Nguyễn Bình Ban lại đổ lỗi cho “tư duy” (hay cách suy
luận), “cơ chế” và “chính sách qủan lý”? Những thứ này từ con người của
đảng mà ra chứ đâu có tự trên trời rơi xuống. Những yếu kém về kinh tế,
nạn tham nhũng, mất công bằng, bất công, xáo trộn trong xã hội, văn hoá
suy đồi, đạo lý băng hoại, vi phạm quyền con người, kìm kẹp dân chủ, lấy
mất tự do của dân là do cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ có chức có
quyền đã làm theo chủ trương của đảng và chính sách của nhà nước chứ
chẳng nhẽ dân lại tự ý gây ra để làm khổ mình?
Lối đổ thừa chạy tội này không đánh lừa được dân đâu. Người dân Việt Nam
ở Thế kỷ 21 không còn khờ khạo dễ bị đánh lừa như người dân sống trong
Thế kỷ 20 chứ đừng nghĩ đến các Thế kỷ trước.
AI SUY THOÁI TƯ TƯỞNG?
Chuyện này cũng giống như lời nói rất chướng tai ngày 25/02 (2013) của
Tổng Bí Thư đảng Nguyễn Phú Trọng tại Vĩnh Phúc. Ông Trọng nói rằng:
“Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa… Xem ai có tư
tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của
đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’
không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Người ta đang có
những quan điểm đấy!… Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy.
Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! Chỉ ở đâu nữa nào? … Tham gia
đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… thì nó là cái gì?! … Cho nên
các đồng chí quan tâm xử lý cái này.”
Ô hay, là người lãnh đạo đảng cầm quyền mà ông khinh dân như thế thì “tư
duy” của ông này phải có vấn đề. Nếu đầu óc ông bình thường thì ông
Trọng không thể buông ra những nhận xét chủ quan một chiều và độc tài
như thế.
Bởi vì khi Đảng và Quốc hội kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến sửa đổi
Hiến pháp 1992 thì đảng phải lắng nghe mọi ý kiến, kể cả ý kiến trái
chiều chứ không thể vu oan cáo vạ cho những ai khác lập trường và quan
điểm với mình.
Vì vậy, ngay sau khi lời nói của ông Trọng được công bố trên Đài Truyền
hình ở Việt Nam ngày 25/02 (2013) thì phản ứng từ nhiều phía đã nổi lên.
Quyết liệt và đầu tiên là của Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, Phóng viên báo Gia đình & Xã hội (Gia đình.Net).
Ông Kiên viết quan điểm của mình trên mạng báo “Cùng Viết Hiến Pháp” của
nhóm Trí thức chủ xướng gồm có: Tiến sỹ toán học Ngô Bảo Châu (Đại học
Chicago); Ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Tổng biên tập VietnamNet, học giả
Trung tâm báo chí, chính trị và chính sách công Shorenstein, Đại học
Harvard; Giáo sư Đàm Thanh Sơn, Đại học Chicago.
Trong bài “Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng”, ông Kiên can đảm
nói thẳng: “Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông
nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư
cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ
“suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là
đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả
nước. Nếu ông và các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4, muốn giữ vai trò
lãnh đạo, muốn chính trị hóa quân đội, không muốn đa đảng, không muốn
tam quyền phân lập, thì đó chỉ là ý muốn của riêng ông và ĐCS của ông.
Ông không thể quy kết rằng đó là ý muốn của nhân dân Việt Nam. Tuy
nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, những ý muốn trên chỉ nên xem là
của riêng ông TBT Trọng, chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng
viên cộng sản hiện nay.”
Sau bài viết này, báo Gia đình & Xã hội (của Tổng cục Dân số-Kế họach hóa gia đình, Bộ Y tế) buộc ông Kiên thôi việc.
Tờ báo viết: “Báo Gia đình & Xã hội xin thông báo, do anh Nguyễn Đắc
Kiên (nguyên phóng viên) vi phạm Quy chế hoạt động của Báo và Hợp đồng
lao động nên Hội đồng Kỷ luật của Báo Gia đình & Xã hội đã họp và ra
Quyết định kỷ luật, buộc thôi việc đối với anh Nguyễn Đắc Kiên.
Hiện nay anh Nguyễn Đắc Kiên không còn tư cách là phóng viên Báo Gia
đình & Xã hội và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật với các
phát ngôn, hành vi của mình. Các đơn vị, cá nhân lưu ý khi liên hệ công
việc, đề nghị liên hệ thẳng với Tòa soạn, không qua anh Nguyễn Đắc
Kiên.”
Rõ ràng đây là hành động ngăn cấm quyền tự do ngôn luận, và chắc chắn phải đến từ Ban Tuyên giáo của đảng CSVN.
Nhưng không phải chỉ có Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên chỉ trích ông Trọng mà
còn có nhiều người khác, điển hình như Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang đã phổ
biến bài viết của mình trên các mạng báo “truyền thông xã hội”.
Trong một đọan, ông nói: “Vừa nghe xong, như một phản xạ vô điều kiện,
tôi bỗng buột miệng: “Trời ơi, cái cậu này ăn nói hàm hồ quá nhỉ!”.
Sao lại có thể quy chụp những người yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, yêu
cầu đa nguyên đa đảng, yêu cầu “tam quyền phân lập”; những người tham
gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể …” là “suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống”.
Nguyễn Phú Trọng có biết những ai đã và đang tích cực tham gia những hoạt động trên không?
Đó là cụ Nguyễn Trọng Vĩnh 96 tuổi – nguyên Bí thư tỉnh ủy Thanh hóa,
cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nhà văn kỳ cựu khả kính Nguyên Ngọc,
Bộ trưởng, ủy viên TW Đảng Nguyễn Đình Lộc, cố vấn Thủ tướng Nguyễn
Trung, phó chủ tịch Quốc hội, giáo sư tiến sỹ Phan Đình Diệu, giáo sư -
thứ trưởng Chu Hảo, tiến sỹ-thứ trưởng Trần Nhơn, luật gia – phó chủ
nhiệm văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận, luật gia – phó chủ tịch Mặt
trận Tổ Quốc Lê Hiếu Đằng, viện trưởng – giáo sư Tương Lai, viện
trưởng-tiến sỹ Nguyễn Quang A…
Trong số đó, về tuổi tác: có người bậc cha chú, có người bậc đàn anh của
ông; về trình độ: bậc thầy của ông; về quá trình cách mạng: bậc tiền
bối so với ông.
Vậy mà Nguyễn Phú Trọng dám thóa mạ họ là những kẻ suy thoái mọi mặt.
Dưới con mắt Nguyễn Phú Trọng, họ là những kẻ không còn tư tưởng chính
trị đúng đắn, lối sống suy đồi, đạo đức kém cỏi…
Thật là nghênh ngang, trâng tráo, và hỗn xược.”
Tiến sỹ Giang kết luận: “Vậy là ông Nguyễn Phú Trọng không những xấc
xược với bề trên mà còn thất lễ với cả bộ phận lớn dân tộc!”
Nhà báo Võ Văn Tạo cũng viết trên trên Basamnews: “Muốn duy trì điều 4
trong Hiến pháp, ông Trọng muốn giữ độc quyền đảng trị. Tuy nhiên, không
ít đảng viên, kể cả không ít đảng viên cấp cao, đều biết rõ cái độc
quyền ấy thực chất chỉ cốt duy trì quyền uy chính trị và đặc quyền đặc
lợi vật chất cho những đảng viên có chức quyền biến chất. Hầu hết các
đảng viên cấp thấp, không có chức quyền, không đặc quyền đặc lợi, hoặc
có chức quyền nhưng lại có lương tri đều băn khoăn, lo lắng cho vận mệnh
của đất nước trước hiện tượng suy thoái đạo đức của “một bộ phận không
nhỏ” đảng viên hiện nay.
Không ít đảng viên tâm huyết và có trí thức nhận ra sự thật phũ phàng:
quay lưng với mọi thành tựu chính trị – xã hội của nhân loại (đa nguyên
chính trị, tam quyền phân lập, phi chính trị hóa quân đội), đảng CSVN đã
quá lạc hậu, xơ cứng, bế tắc về đường lối, đang bị những kẻ vô liêm sỉ,
cơ hội xấu xa núp bóng để đục khoét tham nhũng trắng trợn, trở thành
vật cản kìm hãm vô cùng tai hại cho sự phát triển đi lên của đất nước,
làm Việt Nam càng ngày càng tụt hậu và trở nên xa lạ so với khu vực và
thế giới.
Đảng CSVN có hơn 3 triệu đảng viên, và số đảng viên hưởng đặc quyền đặc
lợi chỉ là một phần trong số đó, trong khi cả nước có gần 90 triệu dân.
Giữ điều 4 Hiến pháp là gì, nếu chẳng phải là khư khư độc quyền đảng trị
như “đười ươi giữ ống”, giữ lợi ích bất chính cho một thiểu số người,
bất chấp phương hại nặng nề tự do, hạnh phúc của nhân dân, kéo lùi tương
lai phát triển của đất nước?.”
Rõ ràng Tổ tiên người Việt nói không sai khi “thượng bất chính thì hạ
tắc loạn” nên trước ông Trọng cũng đã có những loại phản biện “thiếu văn
hoá” với những Trí thức và lão thành cách mạng như của ông Phó Giáo sư,
Tiến sỹ Hà Nguyên Cát thuộc Học viện Quốc phòng xuất hiện trên báo Quân
đội Nhân dân ngày 16/12/2912.
Ông này hồ hởi viết rằng : “Mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước CHXHCN Việt Nam và toàn xã hội
luôn được các thế lực thù địch đặt lên hàng đầu trong thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình”, nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng, hướng lái
Việt Nam theo con đường của chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt hiện nay, các thế
lực thù địch đang ráo riết lợi dụng đợt sinh hoạt dân chủ lấy ý kiến
đóng góp của nhân dân sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 được tiến hành vào
quý I năm 2013, để tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ Đảng ta.
Mưu đồ của họ là tạo sự nghi ngờ, mất lòng tin, dẫn đến đối lập với
Đảng, đòi bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992,
quy định về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước CHXHCN Việt Nam
và toàn xã hội.”
Nhưng ông Cát và cả Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nữa có biết rằng nhân
dân và nhiều “bậc thầy” Cộng sản của các ông ở Nga và các nước Đông Âu
cũ đã quay lưng, sổ toẹt vào Chủ nghĩa Mác-Lênin từ khuya rồi không?
Chỉ có những kẻ còn ngủ mê của đảng CSVN mới không nhìn ra, hoặc đã thấy
nhưng vẫn tham quyền cố vị nên cứ ngoi ngóp lội ngược dòng?
Phạm Trần
(Chúa cứu thế)
Đài Loan thông báo tập trận tại đảo Ba Bình
Đài Loan thông báo tập trận ở Ba Bình. (REUTERS/Stringer)
Đài Loan ra thông báo sẽ tiến hành tập trận bắn đạn thật trên đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa vào tháng tới.
Theo lực lượng tuần duyên Đài Loan, cuộc tập trận sẽ bắt đầu ngày 09 và kéo dài đến 11/04 ở đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa, nơi đang có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Vẫn theo nguồn tin trên, trong số các vũ khí được sử dụng trong cuộc tập trận có pháo 40 mm và 120 mm mà Đài Loan đã đưa đến đảo Ba Bình từ năm ngoái với lý do để tăng cường khả năng phòng thủ tại quần đảo Trường Sa.
Vùng quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 5 km vuông, với hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, bãi đá, trong đó lớn nhất là đảo Ba Bình. Đài Loan chiếm giữ đảo này và xây dựng ở đây một trạm đồn trú của lực lượng tuần duyên.
Việt Nam tuyên bố có chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và đã lên tiếng phản đối trước việc Đài Loan đưa thêm vũ khí đến đảo Ba Bình hồi năm ngoái.
Tất cả các bên có tranh chấp chủ quyền ở vùng quần đảo Trường Sa, ngoại trừ Brunei, đều có quân đội đồn trú trên các đảo ở Trường Sa.
Các tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei đối với Trường Sa đã làm cho tình hình tại Biển Đông thêm nóng bỏng, đặc biệt gây căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines.
Đức Tâm (RFI)
Theo lực lượng tuần duyên Đài Loan, cuộc tập trận sẽ bắt đầu ngày 09 và kéo dài đến 11/04 ở đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa, nơi đang có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Vẫn theo nguồn tin trên, trong số các vũ khí được sử dụng trong cuộc tập trận có pháo 40 mm và 120 mm mà Đài Loan đã đưa đến đảo Ba Bình từ năm ngoái với lý do để tăng cường khả năng phòng thủ tại quần đảo Trường Sa.
Vùng quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 5 km vuông, với hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, bãi đá, trong đó lớn nhất là đảo Ba Bình. Đài Loan chiếm giữ đảo này và xây dựng ở đây một trạm đồn trú của lực lượng tuần duyên.
Việt Nam tuyên bố có chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và đã lên tiếng phản đối trước việc Đài Loan đưa thêm vũ khí đến đảo Ba Bình hồi năm ngoái.
Tất cả các bên có tranh chấp chủ quyền ở vùng quần đảo Trường Sa, ngoại trừ Brunei, đều có quân đội đồn trú trên các đảo ở Trường Sa.
Các tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei đối với Trường Sa đã làm cho tình hình tại Biển Đông thêm nóng bỏng, đặc biệt gây căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines.
Đức Tâm (RFI)
Hội đồng Giám mục Việt Nam đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp
Sáng ngày 01/03/2013, Hội đồng Giám mục Việt Nam trao thư góp ý về Hiến
pháp cho Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Trong thư góp ý này,
Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu gọi nên bỏ Điều 4 quy định về sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Trong bản nhận định và góp ý với tư cách công dân, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam trước hết yêu cầu là Hiến pháp mới phải nêu rõ hơn về các quyền của con người, chẳng hạn như về quyền tự do ngôn luận, phải ghi rõ thêm là « mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình ».
Về quyền tự do tôn giáo, Hội đồng Giám mục yêu cầu Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo và không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo, như đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, . . .
Đặc biệt trong phần nói về quyền làm chủ của nhân dân, các giám mục đặt lại vấn đề về Điều 4 Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục viết : « Để tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định một cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái chính trị nào, vì chủ thể của quyền bính chính trị chính là nhân dân. »
Các giám mục Việt Nam còn cho rằng cần phải có sự độc lập giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, để tránh tình trạng lạm quyền và lộng quyền. Theo Hội đồng Giám mục, dự thảo sửa đổi Hiến pháp vẫn chưa có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước. Các giám mục cũng thắc mắc là bản dự thảo Hiến pháp không có chương nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền, trong khi đây là người nắm quyền hành cao nhất ở Việt Nam, chiếu theo dự thảo Hiến pháp. Do đó, Hội đồng Giám mục yêu cầu « xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào ».
Những ý kiến của Hội đồng Giám mục như vậy là có nhiều điểm tương đồng với những ý kiến của các vị nhân sĩ trí thức trong bản Kiến nghị được đưa ra ngày 19/01/2013 và nay đã thu được hơn 6000 chữ ký ủng hộ.
Trong buổi làm việc với tỉnh ủy Vĩnh Phúc ngày 25/02/2013 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu rằng những ý kiến đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, đòi tam quyền phân lập, phi chính trị hóa quân đội, có thể được quy là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Sau đó, phát biểu với các lãnh đạo thành phố Hà Nội ngày 27/02/2013 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã cảnh báo về việc “ lợi dụng việc lấy ý kiến về Hiến pháp để tuyên truyền vận động nhân dân chống lại Đảng, nhà nước ». Theo ông Hùng, hành động đó là « ngược chiều, phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn »
Thanh Phương (RFI)
Trong bản nhận định và góp ý với tư cách công dân, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam trước hết yêu cầu là Hiến pháp mới phải nêu rõ hơn về các quyền của con người, chẳng hạn như về quyền tự do ngôn luận, phải ghi rõ thêm là « mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình ».
Về quyền tự do tôn giáo, Hội đồng Giám mục yêu cầu Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo và không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo, như đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, . . .
Đặc biệt trong phần nói về quyền làm chủ của nhân dân, các giám mục đặt lại vấn đề về Điều 4 Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục viết : « Để tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định một cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái chính trị nào, vì chủ thể của quyền bính chính trị chính là nhân dân. »
Các giám mục Việt Nam còn cho rằng cần phải có sự độc lập giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, để tránh tình trạng lạm quyền và lộng quyền. Theo Hội đồng Giám mục, dự thảo sửa đổi Hiến pháp vẫn chưa có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước. Các giám mục cũng thắc mắc là bản dự thảo Hiến pháp không có chương nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền, trong khi đây là người nắm quyền hành cao nhất ở Việt Nam, chiếu theo dự thảo Hiến pháp. Do đó, Hội đồng Giám mục yêu cầu « xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào ».
Những ý kiến của Hội đồng Giám mục như vậy là có nhiều điểm tương đồng với những ý kiến của các vị nhân sĩ trí thức trong bản Kiến nghị được đưa ra ngày 19/01/2013 và nay đã thu được hơn 6000 chữ ký ủng hộ.
Trong buổi làm việc với tỉnh ủy Vĩnh Phúc ngày 25/02/2013 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu rằng những ý kiến đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, đòi tam quyền phân lập, phi chính trị hóa quân đội, có thể được quy là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Sau đó, phát biểu với các lãnh đạo thành phố Hà Nội ngày 27/02/2013 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã cảnh báo về việc “ lợi dụng việc lấy ý kiến về Hiến pháp để tuyên truyền vận động nhân dân chống lại Đảng, nhà nước ». Theo ông Hùng, hành động đó là « ngược chiều, phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn »
Thanh Phương (RFI)
Blogger VN được đề cử giải Netizen 2013
Một blogger được nhiều người theo dõi ở Việt Nam, ông Huỳnh
Ngọc Chênh, vừa được đề cử giải thưởng Công dân mạng (Netizen)
2013 cùng với tám blogger của các nước khác.
Đây là giải thưởng của tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) và tập đoàn Google dành cho các cá nhân đã có nỗ lực vượt qua kiểm soát, kiểm duyệt mạng, thúc đẩy tự do ngôn luận và tự do internet trên thế giới.
Danh sách chín blogger hiện đang ở trên Bấm trang mạng do RSF lập ra để thu thập phiếu bầu và kêt quả sẽ được công bố ngày 7/3 tới.
Ông Huỳnh Ngọc Chênh chia sẻ với BBC ý nghĩ của ông về tình trạng kiểm soát mạng và blogs ở Việt Nam, "hiện tượng nhà báo Nguyễn Đắc Kiên", và việc ông được đề cử giải thưởng.
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Kể ra thì việc đề cử cũng khá bất ngờ. Trước đó thì tổ chức RSF cũng gọi điện phỏng vấn tôi. Nay biết là Việt Nam chỉ có mình tôi thì cũng hơi bất ngờ thật.
Cảm giác là so với nhiều người thì mình cũng chưa xứng đáng lắm. Thứ hai là cũng có chút lo lắng. Lo là sẽ khó khăn cho mình về sau trong việc viết lách hay đi lại.
BBC: Ông nhận xét thế nào về không khí kiểm soát, kiểm duyệt không gian mạng ở Việt Nam trong tương lai gần?
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Hiện giờ thì người ta vẫn chặn một số trang blog, chủ yếu là chặn bằng đường truyền. Thí dụ trang của tôi bị VNPT chặn.
Cũng không biết tương lai thế nào, nhưng tôi có sự lạc quan là ngày càng nhiều người viết, phát biểu ý kiến của mình trên nhiều trang khác nhau cũng như mạng xã hội.
Cho tới nay thì các hình thức ngăn chặn vẫn mới chỉ là bằng tường lửa hay đường truyền. Những người viết như tôi vẫn chưa gặp khó khăn gì từ các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên họ cũng thông qua cơ quan cũ của tôi là báo Thanh Niên, hay người quen, nhắn nhủ với tôi là "nên bớt bớt lại".
Nhưng tôi viết đúng trong khuôn khổ pháp luật thôi, lúc nào cũng như vậy, không thêm mà cũng không bớt.
BBC: Chắc là ông cũng biết việc một đồng nghiệp trẻ của ông, anh Nguyễn Đắc Kiên, viết blog phản bác lại phát biểu của Tổng bí thư Đảng CSVN và sau đó bị cho thôi việc?
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Anh Kiên là nhà báo dũng cảm, thắng thắn và vững vàng. Dũng cảm nhất là khi anh cất tiếng nói trong khi còn đang làm việc.
Những điều mà anh nói, theo tôi, hoàn toàn không sai về mặt pháp luật, vì chỉ trao đổi về những điều mà lãnh đạo phát biểu. Bởi vậy cho anh nghỉ vì lý do đó thì quá sai.
Tôi không cho đây là chủ trương từ trên cao xuống, mà cho đây là sự sợ hãi của tổng biên tập báo Gia đình-Xã hội hay cơ quan chủ quản báo, muốn cho anh Kiên nghỉ việc liền để khỏi phiền hà với cấp trên.
Quyết định như vậy là sai pháp luật.
BBC: Theo ông, ở Việt Nam những nhà báo như Nguyễn Đắc Kiên có nhiều không, và những tổng biên tập như ông Lê Cảnh Nhạc của tờ Gia đình-Xã hội có nhiều không ạ?
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Hầu như tổng biên tập nào cũng giống như ông Nhạc, bởi vì họ là người của Đảng chuyển qua, giao nhiệm vụ để quản lý tờ báo.
Do vậy họ phải làm công việc mà Đảng giao phó, ngăn chặn những ý kiến ngược lại chính sách của Đảng, nhắc nhở các nhân viên có ý kiến đó.
Còn những người như anh Kiên trong giới nhà báo trẻ thì nhiều lắm. Dũng cảm như anh Kiên thì ít, nhưng suy nghĩ như anh thì rất nhiều.
Tôi nói chuyện với bạn bè, đồng nghiệp trẻ, thì thấy những gì họ nghĩ và phát biểu cũng giống những gì tôi viết ra hay anh Kiên nói ra. Nhưng để công khai viết ra những gì họ nghĩ thì họ không dám làm, vì biết hậu quả sẽ là như thế nào.
(BBC)
Đây là giải thưởng của tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) và tập đoàn Google dành cho các cá nhân đã có nỗ lực vượt qua kiểm soát, kiểm duyệt mạng, thúc đẩy tự do ngôn luận và tự do internet trên thế giới.
Danh sách chín blogger hiện đang ở trên Bấm trang mạng do RSF lập ra để thu thập phiếu bầu và kêt quả sẽ được công bố ngày 7/3 tới.
Ông Huỳnh Ngọc Chênh chia sẻ với BBC ý nghĩ của ông về tình trạng kiểm soát mạng và blogs ở Việt Nam, "hiện tượng nhà báo Nguyễn Đắc Kiên", và việc ông được đề cử giải thưởng.
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Kể ra thì việc đề cử cũng khá bất ngờ. Trước đó thì tổ chức RSF cũng gọi điện phỏng vấn tôi. Nay biết là Việt Nam chỉ có mình tôi thì cũng hơi bất ngờ thật.
Cảm giác là so với nhiều người thì mình cũng chưa xứng đáng lắm. Thứ hai là cũng có chút lo lắng. Lo là sẽ khó khăn cho mình về sau trong việc viết lách hay đi lại.
BBC: Ông nhận xét thế nào về không khí kiểm soát, kiểm duyệt không gian mạng ở Việt Nam trong tương lai gần?
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Hiện giờ thì người ta vẫn chặn một số trang blog, chủ yếu là chặn bằng đường truyền. Thí dụ trang của tôi bị VNPT chặn.
Cũng không biết tương lai thế nào, nhưng tôi có sự lạc quan là ngày càng nhiều người viết, phát biểu ý kiến của mình trên nhiều trang khác nhau cũng như mạng xã hội.
Cho tới nay thì các hình thức ngăn chặn vẫn mới chỉ là bằng tường lửa hay đường truyền. Những người viết như tôi vẫn chưa gặp khó khăn gì từ các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên họ cũng thông qua cơ quan cũ của tôi là báo Thanh Niên, hay người quen, nhắn nhủ với tôi là "nên bớt bớt lại".
Nhưng tôi viết đúng trong khuôn khổ pháp luật thôi, lúc nào cũng như vậy, không thêm mà cũng không bớt.
BBC: Chắc là ông cũng biết việc một đồng nghiệp trẻ của ông, anh Nguyễn Đắc Kiên, viết blog phản bác lại phát biểu của Tổng bí thư Đảng CSVN và sau đó bị cho thôi việc?
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Anh Kiên là nhà báo dũng cảm, thắng thắn và vững vàng. Dũng cảm nhất là khi anh cất tiếng nói trong khi còn đang làm việc.
Những điều mà anh nói, theo tôi, hoàn toàn không sai về mặt pháp luật, vì chỉ trao đổi về những điều mà lãnh đạo phát biểu. Bởi vậy cho anh nghỉ vì lý do đó thì quá sai.
Tôi không cho đây là chủ trương từ trên cao xuống, mà cho đây là sự sợ hãi của tổng biên tập báo Gia đình-Xã hội hay cơ quan chủ quản báo, muốn cho anh Kiên nghỉ việc liền để khỏi phiền hà với cấp trên.
Quyết định như vậy là sai pháp luật.
BBC: Theo ông, ở Việt Nam những nhà báo như Nguyễn Đắc Kiên có nhiều không, và những tổng biên tập như ông Lê Cảnh Nhạc của tờ Gia đình-Xã hội có nhiều không ạ?
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh: Hầu như tổng biên tập nào cũng giống như ông Nhạc, bởi vì họ là người của Đảng chuyển qua, giao nhiệm vụ để quản lý tờ báo.
Do vậy họ phải làm công việc mà Đảng giao phó, ngăn chặn những ý kiến ngược lại chính sách của Đảng, nhắc nhở các nhân viên có ý kiến đó.
Còn những người như anh Kiên trong giới nhà báo trẻ thì nhiều lắm. Dũng cảm như anh Kiên thì ít, nhưng suy nghĩ như anh thì rất nhiều.
Tôi nói chuyện với bạn bè, đồng nghiệp trẻ, thì thấy những gì họ nghĩ và phát biểu cũng giống những gì tôi viết ra hay anh Kiên nói ra. Nhưng để công khai viết ra những gì họ nghĩ thì họ không dám làm, vì biết hậu quả sẽ là như thế nào.
(BBC)
'Quân đội không thể trung lập'
Cả Trung Quốc và Việt Nam đều đặt quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Một đại tá quân đội viết trên
website Đảng CSVN rằng kêu gọi tách quân đội ra khỏi sự lãnh
đạo của Đảng là 'phản khoa học và phản động'.
Đại tá, Tiến sỹ Nguyễn Văn Quang, người viết nhiều bài chính luận trên các báo của Đảng, vừa có bài tựa đề "Quân đội không thể và không nên trung lập – Lịch sử đã cảnh báo" đăng trên trang cpv.org.vn hôm thứ Năm 28/2.
Trong bài viết của mình, Đại tá Quang tìm cách chứng minh luận đề rằng "bản thân quân đội luôn là một lực lượng chính trị, một bộ phận đặc biệt quan trọng của chính quyền nhà nước".
Quan điểm của ông là: "Mọi điều kêu gọi trung lập, hay chia tách sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đối với quân đội đều là vô nghĩa, phản khoa học, kéo theo những tư tưởng chính trị phản động".
Đề xuất tách lực lượng vũ trang Việt Nam ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đang được bàn tán sau khi nó được nêu lên trong kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp của một số giới gửi lên Quốc hội.
Kiến nghị về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 92 do 72 nhân sỹ trí thức khởi xướng tháng trước, đề xuất này được đưa ra cùng với đề xuất bỏ Điều 4 về quyền lãnh đạo của Đảng.
Ông đại tá dẫn lời lãnh tụ Cộng sản Vladimir Ilych Lenin nhận định: "Ngày nay quân đội đã kiên quyết ly khai hẳn với chế độ chuyên chế".
Đại tá Quang cho rằng ngay từ thời đó, "bọn tôi tớ của nền chuyên chế ấy đã tung ra những khẩu hiệu về 'tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị'. Những điểm này, ngay lập tức bị Lenin chỉ rõ là giả dối”.
Ông cũng nhắc lại quan điểm của Lenin, rằng "quân đội không thể và không nên trung lập".
Tiếp đó, Đại tá Nguyễn Văn Quang chuyển sang lịch sử Việt Nam sau 1945, khi tại miền Nam Việt Nam "các đảng phái luôn phô trương thanh thế, tìm mọi cách lôi kéo quân đội tham gia vào chính trị, gây ảnh hưởng của mình đối với chính quyền nhà nước".
Ở miền Bắc, theo ông Quang, từ 1945 đến nay, "khi chính quyền cách mạng, Nhà nước của nhân dân được thành lập, Quân đội không chỉ là một bộ phận hữu cơ của Đảng mà còn là một thành phần đặc biệt quan trọng của hệ thống chính trị, được Hiến pháp hiến định và pháp luật thừa nhận".
Ông viết: "Dưới chế độ tư bản, dù có đảng này hay đảng nọ thay nhau cầm quyền, thì mục tiêu cuối cùng cũng là lãnh đạo quân đội của giai cấp tư sản duy trì sự bóc lột giai cấp những người lao động, nô dịch, tước đoạt, độ hộ các dân tộc khác; đàn áp sự phản kháng của nhân dân lao động, bảo vệ quyền thống trị của giai cấp tư sản."
Theo ông Quang, các quân đội đều chịu sự lãnh đạo của một chính đảng nhất định.
"Trong mọi thời đại, quân đội luôn là yếu tố quan trọng của thượng tầng kiến trúc chính trị... Bản thân quân đội là một lực lượng chính trị, luôn tham gia vào mọi hoạt động chính trị của nhà nước; duy trì và bảo vệ các lợi ích của giai cấp và chính đảng cầm quyền."
Tác giả bài viết kết luận: "Nếu vô tình bàn đến mục đích, chức năng và nhiệm vụ của quân đội mà không chú ý tới bản chất chính trị - giai cấp của nó thì là điều vô nghĩa và là sự non kém, thiếu hiểu biết về chính trị và về quân đội".
Trong phỏng vấn của BBC hôm 28/2 với Cựu Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, về quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ông Vĩnh cho rằng điều này đi ngược lại với tư tưởng Hồ Chí Minh.
"Trước đây Hồ Chủ tịch chỉ nói quân đội phải trung với nước, hiếu với dân."
"Gọi quân đội là quân đội nhân dân, thế thì là từ nhân dân mà ra. Cho nên phải trung với nước, hiếu với dân là đúng rồi. Chứ không ai nói là quân đội Đảng Cộng sản."
(BBC)
Đại tá, Tiến sỹ Nguyễn Văn Quang, người viết nhiều bài chính luận trên các báo của Đảng, vừa có bài tựa đề "Quân đội không thể và không nên trung lập – Lịch sử đã cảnh báo" đăng trên trang cpv.org.vn hôm thứ Năm 28/2.
Trong bài viết của mình, Đại tá Quang tìm cách chứng minh luận đề rằng "bản thân quân đội luôn là một lực lượng chính trị, một bộ phận đặc biệt quan trọng của chính quyền nhà nước".
Quan điểm của ông là: "Mọi điều kêu gọi trung lập, hay chia tách sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đối với quân đội đều là vô nghĩa, phản khoa học, kéo theo những tư tưởng chính trị phản động".
Đề xuất tách lực lượng vũ trang Việt Nam ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đang được bàn tán sau khi nó được nêu lên trong kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp của một số giới gửi lên Quốc hội.
Kiến nghị về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 92 do 72 nhân sỹ trí thức khởi xướng tháng trước, đề xuất này được đưa ra cùng với đề xuất bỏ Điều 4 về quyền lãnh đạo của Đảng.
Lịch sử chứng minh?
Trong bài viết của mình, ông Nguyễn Văn Quang nhắc lại thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản Nga cách đây hơn 100 năm, khi một số binh lính của Nga Hoàng chuyển sang phục vụ cho cách mạng.Ông đại tá dẫn lời lãnh tụ Cộng sản Vladimir Ilych Lenin nhận định: "Ngày nay quân đội đã kiên quyết ly khai hẳn với chế độ chuyên chế".
"Dưới chế độ tư bản... mục tiêu cuối cùng cũng là lãnh đạo quân đội của giai cấp tư sản duy trì sự bóc lột giai cấp những người lao động, nô dịch, tước đoạt, độ hộ các dân tộc khác..."
Đại tá,Tiến sỹ Nguyễ́n Văn Quang
Đại tá Quang cho rằng ngay từ thời đó, "bọn tôi tớ của nền chuyên chế ấy đã tung ra những khẩu hiệu về 'tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị'. Những điểm này, ngay lập tức bị Lenin chỉ rõ là giả dối”.
Ông cũng nhắc lại quan điểm của Lenin, rằng "quân đội không thể và không nên trung lập".
Tiếp đó, Đại tá Nguyễn Văn Quang chuyển sang lịch sử Việt Nam sau 1945, khi tại miền Nam Việt Nam "các đảng phái luôn phô trương thanh thế, tìm mọi cách lôi kéo quân đội tham gia vào chính trị, gây ảnh hưởng của mình đối với chính quyền nhà nước".
Ở miền Bắc, theo ông Quang, từ 1945 đến nay, "khi chính quyền cách mạng, Nhà nước của nhân dân được thành lập, Quân đội không chỉ là một bộ phận hữu cơ của Đảng mà còn là một thành phần đặc biệt quan trọng của hệ thống chính trị, được Hiến pháp hiến định và pháp luật thừa nhận".
Cảnh báo
Đại tá Nguyễn Văn Quang khẳng định rằng "không có quân đội nào trung lập về chính trị" và "quân đội nào cũng thuộc về một giai cấp nhất định".Ông viết: "Dưới chế độ tư bản, dù có đảng này hay đảng nọ thay nhau cầm quyền, thì mục tiêu cuối cùng cũng là lãnh đạo quân đội của giai cấp tư sản duy trì sự bóc lột giai cấp những người lao động, nô dịch, tước đoạt, độ hộ các dân tộc khác; đàn áp sự phản kháng của nhân dân lao động, bảo vệ quyền thống trị của giai cấp tư sản."
Theo ông Quang, các quân đội đều chịu sự lãnh đạo của một chính đảng nhất định.
"Trong mọi thời đại, quân đội luôn là yếu tố quan trọng của thượng tầng kiến trúc chính trị... Bản thân quân đội là một lực lượng chính trị, luôn tham gia vào mọi hoạt động chính trị của nhà nước; duy trì và bảo vệ các lợi ích của giai cấp và chính đảng cầm quyền."
Tác giả bài viết kết luận: "Nếu vô tình bàn đến mục đích, chức năng và nhiệm vụ của quân đội mà không chú ý tới bản chất chính trị - giai cấp của nó thì là điều vô nghĩa và là sự non kém, thiếu hiểu biết về chính trị và về quân đội".
Trong phỏng vấn của BBC hôm 28/2 với Cựu Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, về quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ông Vĩnh cho rằng điều này đi ngược lại với tư tưởng Hồ Chí Minh.
"Trước đây Hồ Chủ tịch chỉ nói quân đội phải trung với nước, hiếu với dân."
"Gọi quân đội là quân đội nhân dân, thế thì là từ nhân dân mà ra. Cho nên phải trung với nước, hiếu với dân là đúng rồi. Chứ không ai nói là quân đội Đảng Cộng sản."
(BBC)
Một xã hội ngập tràn nỗi sợ
*BÙI VĂN BỒNG
BVB - Sau thắng cuộc 1975, Việt Nam nổi tiếng trên thế giới là
dân tộc anh hùng, một dân tộc kiên cường gan góc chống giặc ngoại xâm,
một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, đã mấy nghìn năm không bao giờ
chịu khuất phục trước mọi thế lực ngoại bang xâm lược, thôn tính.
Thế nhưng, hiện nay cả dân tộc đang đặt trước nhiều nỗi sợ, thậm chí bạn bè quốc tế còn đánh giá là hèn kém. Trước hết, người dân cả nước đã thấm đậm hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, nay rất yêu chuộng hòa bình, và dĩ nhiên sợ chiến tranh. Chiến tranh đối với dân tộc Việt Nam là nỗi đau, dày đắp hy sinh xương máu hết đời này sang đời khác. Nay tuy đã 24 năm lặng tiếng súng kể từ sau hải chiến Trường Sa (1988), nhưng đất nước vẫn chưa có hòa bình. Nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập cận kề. Rõ nhất là những ẩn chứa tiềm tàng những nguy cơ bùng phát chiến tranh biển-đảo, biên giới. Vì thế, nối sợ chiến tranh, nỗi sợ mất đi cuộc sống hòa bình cứ thường trực ngày đêm, canh cánh không yên lòng dân Việt.
Đó là nỗi sợ lớn nhất.
Về giới lãnh đạo, đảng cầm quyền đang rất sợ Đảng Cộng sản bị tiêu vong, và đã rõ những nguy cơ tiêu vong cận kề. Nguy cơ này, gần đây đã liên tục được báo động trong các nghị quyết, các hội nghị của Đảng. Đảng càng sợ mất Đảng, lại càng ra sức cảnh giác, đề phòng với những gì bị coi là nguy cơ làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, từ Ủy viên Bộ Chính trị, các Ủy viên Trung ương, đến đảng viên thường đều sợ mất Đảng, nhiều người đã tin là khó giữ được sự “tồn”, mà hiện trạng thế này rồi thì tình huống “vong” của Đảng xảy ra bất cứ lúc nào. Một đảng mà "một bộ phận không nhỏ lãnh đạo có chức có quyền suy thoái, biến chất" thì còn đâu sức sống? Tồn tại càng lâu thì tác hại đến xã hội càng lớn, chưa nói đến sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo xã hội!
Suy cho cùng, nhất là sau Hội nghị Thành Đô 1990, Đảng ta cứ liên tục đưa ra, có khi hô toáng lên nào là “diễn biến hòa bình”, nào là “thế lực thù địch”, nào là “ý chí phục thù bên thua cuộc”, nào là mầm mống phản động”, nào là phong trào dân chủ tự phát, đòi “đa nguyên đa đảng”…Nghĩa là, Đảng ta không yên tâm, toàn ý cầm quyền, mà lúc nào cũng sợ kẻ nào đó giật mất quyền của mình. Nhưng, gần đây, những tiếng nói trung thực đã ít bị ruồng ép, khó bịt mồm, không dễ ngăn chặn, buộc phải công nhận. Đó là những đánh giá, nhận định, kết luận: Không ai phá, không có ‘diễn biến hòa bình”, “thế lực thù địch” nào khác, mà nguyên nhân chính là Đảng ta đã tự phá banh chính mình, từ trong nội bộ đã “tự diễn biến”, nghĩa là người cộng sản tự đào hố chôn mình! Phân tích cho rõ: “Diễn biến hòa bình” là sự mắc mưu Trung Quốc, họ muốn độc tôn với Việt Nam, muốn chính phục, chi phối Việt Nam từ chính trị đến đối ngoại, từ kinh tế đến van hóa-xã hội. Nghĩa là sự thôn tính thông qua cái gọi là “trỗi dậy hòa bình”, là thủ đoạn thâm độc của “xâm lược mềm”, chinh phục, thôn tính không cần chiến tranh.
Vì thế, cái đích cần đạt tới của Trung Quốc trong chiêu bài ‘diễn biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện) hòa hợp dân tộc, phải ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu hóa”, phương Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu, phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào Trung Quốc, phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải nghe…Rằng: Việt Nam phải hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và các nước Đông Âu cũng không tốt, họ đang “diễn biến hòa bình” thâm độc, nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ. Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ, thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy, Việt Nam cần cảnh giác…
Đó là nỗi sợ mà Đảng ta đã gói chặt ôm về “gối đầu giường” từ sau Hội nghị Thành Đô, như một thứ bùa mê thuốc lú đã ngấm sâu vào thần kinh và nội tạng. Rồi sau đó lại sang tàu “ẵm về” 16 chữ vàng, 4 tốt, để mê muội, lú lẩn thêm, để bám Trung Quốc chặt hơn, chẳng khác nào Bạch Cốt Tinh hóa cô nằng xinh đẹp hút hồn thấy trò Đường Tăng vậy. Như thế, các vị, các cấp lãnh đạo và hơn 3,6 triệu đảng viên phải biết sợ chính mình trước khi sợ mất Đảng!
Đối với người dân: Nỗi sợ thường trực, do sự chuyển hóa rất siêu nghệ của “chuyên chính vô sản”, từ chỗ (theo lý luận cách mạng Mác-xít) là chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với nhân dân, bỗng quay sang “chuyên chính với nhân dân”, chuyên chính vơi sngay nền dân chủ mà Đảng vẫn tự khoe là “ưu việt”, là “dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”…Đã có quyền trong tay, thế lực đầy mình, lực lượng bảo vệ Đảngngày càng đông đảo, được chính quy hóa, nhất là công an, thanh bảo kiếm trung thành bảo vệ Đảng, ai mà không ngán? Dù bài hát ca ngợi chiến sĩ công an có đủ bộ 3: “Vì an ninh Tổ quốc ta đi / được mang danh thanh bảo kiếm trung thành / bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ tươi đẹp…”. Nhưng rồi lãnh đạo, chỉ huy, huấn luyện, giáo dục lực lượng công an rất tài. Chỉ thấy bảo vệ Đảng, không thấy bảo vệ nhân dân, và cũng qua đó mất đi ý nghĩa “chế độ tươi đẹp”. Chế độ cho ai, ai được hưởng, khi người dân thấy bóng, hoặc mới nghe nói đến công an là mỗi người đều có “phản xạ thường trực” phải cảnh giác, được yên thân là hơn hết?
Một xã hội thời văn minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ chính quyền, công an, sợ kẻ cướp, sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh hèn, bất cần, nhu nhược, không còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và do vậy, khối đại đoàn kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy cơ mất nước!
Trong kháng chiến, Đảng kêu gọi lòng yêu nước, thi đua yêu nước, toàn dân đánh giặc, nuôi chí anh hùng; nhưng trong hòa bình, Đảng lại xem nhẹ, coi thường lòng yêu nước, làm nhụt chí anh hùng, xóa nhòa niềm tự hào dân tộc. Mọi nỗ lực dân chủ đều bị khoanh hẹp, thậm chí triệt tiêu, quyền lực của dân bị chặt hết, đồng tiền có quyền lực tối cao, chức quyền ra sức thống trị; cả bộ máy quyền hành trở thành nỗi ngán ngại, sợ sệt đối với người dân. Trong kháng chiến, cán bộ được người dân hy sinh cả tính mạng, của cải để bảo vệ; nhưng hòa bình rồi thì đảng không bảo vệ dân, còn ức hiếp dân, thậm chí nặng về quan liêu, mệnh lênh: "bảo cái gì dân cũng phải nghe". Nếu sợ nguy cơ tồn vong của Đảng, của chế độ cần nhận diện và thấu suốt thực trạng đáng lo ngại ấy!
Người dân trong một nước được mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân”, một nước đã “tự do, độc lập” mà người dân không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút gì làm chính quyền phật ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp thành tội rồi tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Dân chủ ở đâu, khi nghe đài, đọc báo, mở mạng Internet, thậm chí cả khi chuyện vui, chuyện phiếm bàn trà, quán nhậu, bất kỳ nơi đâu đều bị theo dõi, bị cấm đoán, bị “quy vào” hết chuyện này đến tội danh tội trạng khác? Nói cái gì cũng phải nhìn trước ngó sau, tự biết canh chừng, sợ “ếch chết vì ộp ộp” thì đó là quyền gì? Nỗi sợ thường trực ngày đêm của mọi công dân, kể cả trí thức, nhà báo, đảng viên đến mức mát hẳn quyền con người, ăn không ngon, ngủ không yên là do ai gây nên? Do quan điểm của Đảng bị đánh tráo, tư tưởng bị lọi dụng, bẻ cong?
Lại nữa, dù rất phi lý: Nhà báo sợ viết sự thật, người nghèo sợ kẻ sẵn tiền, chính quyền sợ đại gia, người già sợ con nít, người dân sợ công an, công an sợ côn đồ, dân lành sợ lưu manh, làm ăn sợ đánh thuế, mua hàng sợ hàng gian hàng giả, ăn uống sợ độc hại, sợ nắc bệnh ung thư. Rồi nữa: Đảng viên sợ 19 điều cấm; đi bộ đội sợ hy sinh không được công nhận liệt sĩ, mộ chí không ai thắp hương đặt hoa tưởng niệm; người lao động sợ mất việc, học nghề sợ thất nghiệp, ra chợ sợ giá cả, ốm đau sợ không đủ tiền mua thuốc
Những cái tưởng như “chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường sợ tai nạn, sợ đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng tiền, không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác chết sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo theo, dính chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như những con cờ đô-mi-nô. Vậy thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối, chính sách, cách thức quản lý, điều hành nào gây nên?...? Dấu chân Việt Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: ... Tình chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ /Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương /Từng dài âu lo, từng quen đợi chờ. /Mộng thật cam go / Miễn là mai niềm đau thành nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao cứ làm cho nhau sợ,… "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh Công Sơn).
Ôi, một xã hội mà từ vị lãnh đạo, từ ‘vua” đến dân, ai cũng canh cánh nỗi sợ, thì sao có thể gọi là tốt đẹp, là "ưu việt"? Làm sao mà phát triển được đất nước sánh vai với các nước? Cho nên, với hiện trạng này, câu kết trong các Nghị quyết Đại hội Đảng mà nhiệm kỳ nào cũng 'bổ cũ soạn lai' đọc đến phát ngán: “Phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nay đã chứng minh chỉ là khẩu hiệu cửa miệng nhàm chán, vô nghĩa mà thôi.
BVB
Theo Bùi Văn Bồng BlogThế nhưng, hiện nay cả dân tộc đang đặt trước nhiều nỗi sợ, thậm chí bạn bè quốc tế còn đánh giá là hèn kém. Trước hết, người dân cả nước đã thấm đậm hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, nay rất yêu chuộng hòa bình, và dĩ nhiên sợ chiến tranh. Chiến tranh đối với dân tộc Việt Nam là nỗi đau, dày đắp hy sinh xương máu hết đời này sang đời khác. Nay tuy đã 24 năm lặng tiếng súng kể từ sau hải chiến Trường Sa (1988), nhưng đất nước vẫn chưa có hòa bình. Nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập cận kề. Rõ nhất là những ẩn chứa tiềm tàng những nguy cơ bùng phát chiến tranh biển-đảo, biên giới. Vì thế, nối sợ chiến tranh, nỗi sợ mất đi cuộc sống hòa bình cứ thường trực ngày đêm, canh cánh không yên lòng dân Việt.
Đó là nỗi sợ lớn nhất.
Về giới lãnh đạo, đảng cầm quyền đang rất sợ Đảng Cộng sản bị tiêu vong, và đã rõ những nguy cơ tiêu vong cận kề. Nguy cơ này, gần đây đã liên tục được báo động trong các nghị quyết, các hội nghị của Đảng. Đảng càng sợ mất Đảng, lại càng ra sức cảnh giác, đề phòng với những gì bị coi là nguy cơ làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, từ Ủy viên Bộ Chính trị, các Ủy viên Trung ương, đến đảng viên thường đều sợ mất Đảng, nhiều người đã tin là khó giữ được sự “tồn”, mà hiện trạng thế này rồi thì tình huống “vong” của Đảng xảy ra bất cứ lúc nào. Một đảng mà "một bộ phận không nhỏ lãnh đạo có chức có quyền suy thoái, biến chất" thì còn đâu sức sống? Tồn tại càng lâu thì tác hại đến xã hội càng lớn, chưa nói đến sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo xã hội!
Suy cho cùng, nhất là sau Hội nghị Thành Đô 1990, Đảng ta cứ liên tục đưa ra, có khi hô toáng lên nào là “diễn biến hòa bình”, nào là “thế lực thù địch”, nào là “ý chí phục thù bên thua cuộc”, nào là mầm mống phản động”, nào là phong trào dân chủ tự phát, đòi “đa nguyên đa đảng”…Nghĩa là, Đảng ta không yên tâm, toàn ý cầm quyền, mà lúc nào cũng sợ kẻ nào đó giật mất quyền của mình. Nhưng, gần đây, những tiếng nói trung thực đã ít bị ruồng ép, khó bịt mồm, không dễ ngăn chặn, buộc phải công nhận. Đó là những đánh giá, nhận định, kết luận: Không ai phá, không có ‘diễn biến hòa bình”, “thế lực thù địch” nào khác, mà nguyên nhân chính là Đảng ta đã tự phá banh chính mình, từ trong nội bộ đã “tự diễn biến”, nghĩa là người cộng sản tự đào hố chôn mình! Phân tích cho rõ: “Diễn biến hòa bình” là sự mắc mưu Trung Quốc, họ muốn độc tôn với Việt Nam, muốn chính phục, chi phối Việt Nam từ chính trị đến đối ngoại, từ kinh tế đến van hóa-xã hội. Nghĩa là sự thôn tính thông qua cái gọi là “trỗi dậy hòa bình”, là thủ đoạn thâm độc của “xâm lược mềm”, chinh phục, thôn tính không cần chiến tranh.
Vì thế, cái đích cần đạt tới của Trung Quốc trong chiêu bài ‘diễn biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện) hòa hợp dân tộc, phải ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu hóa”, phương Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu, phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào Trung Quốc, phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải nghe…Rằng: Việt Nam phải hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và các nước Đông Âu cũng không tốt, họ đang “diễn biến hòa bình” thâm độc, nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ. Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ, thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy, Việt Nam cần cảnh giác…
Đó là nỗi sợ mà Đảng ta đã gói chặt ôm về “gối đầu giường” từ sau Hội nghị Thành Đô, như một thứ bùa mê thuốc lú đã ngấm sâu vào thần kinh và nội tạng. Rồi sau đó lại sang tàu “ẵm về” 16 chữ vàng, 4 tốt, để mê muội, lú lẩn thêm, để bám Trung Quốc chặt hơn, chẳng khác nào Bạch Cốt Tinh hóa cô nằng xinh đẹp hút hồn thấy trò Đường Tăng vậy. Như thế, các vị, các cấp lãnh đạo và hơn 3,6 triệu đảng viên phải biết sợ chính mình trước khi sợ mất Đảng!
Đối với người dân: Nỗi sợ thường trực, do sự chuyển hóa rất siêu nghệ của “chuyên chính vô sản”, từ chỗ (theo lý luận cách mạng Mác-xít) là chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với nhân dân, bỗng quay sang “chuyên chính với nhân dân”, chuyên chính vơi sngay nền dân chủ mà Đảng vẫn tự khoe là “ưu việt”, là “dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”…Đã có quyền trong tay, thế lực đầy mình, lực lượng bảo vệ Đảngngày càng đông đảo, được chính quy hóa, nhất là công an, thanh bảo kiếm trung thành bảo vệ Đảng, ai mà không ngán? Dù bài hát ca ngợi chiến sĩ công an có đủ bộ 3: “Vì an ninh Tổ quốc ta đi / được mang danh thanh bảo kiếm trung thành / bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ tươi đẹp…”. Nhưng rồi lãnh đạo, chỉ huy, huấn luyện, giáo dục lực lượng công an rất tài. Chỉ thấy bảo vệ Đảng, không thấy bảo vệ nhân dân, và cũng qua đó mất đi ý nghĩa “chế độ tươi đẹp”. Chế độ cho ai, ai được hưởng, khi người dân thấy bóng, hoặc mới nghe nói đến công an là mỗi người đều có “phản xạ thường trực” phải cảnh giác, được yên thân là hơn hết?
Một xã hội thời văn minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ chính quyền, công an, sợ kẻ cướp, sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh hèn, bất cần, nhu nhược, không còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và do vậy, khối đại đoàn kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy cơ mất nước!
Trong kháng chiến, Đảng kêu gọi lòng yêu nước, thi đua yêu nước, toàn dân đánh giặc, nuôi chí anh hùng; nhưng trong hòa bình, Đảng lại xem nhẹ, coi thường lòng yêu nước, làm nhụt chí anh hùng, xóa nhòa niềm tự hào dân tộc. Mọi nỗ lực dân chủ đều bị khoanh hẹp, thậm chí triệt tiêu, quyền lực của dân bị chặt hết, đồng tiền có quyền lực tối cao, chức quyền ra sức thống trị; cả bộ máy quyền hành trở thành nỗi ngán ngại, sợ sệt đối với người dân. Trong kháng chiến, cán bộ được người dân hy sinh cả tính mạng, của cải để bảo vệ; nhưng hòa bình rồi thì đảng không bảo vệ dân, còn ức hiếp dân, thậm chí nặng về quan liêu, mệnh lênh: "bảo cái gì dân cũng phải nghe". Nếu sợ nguy cơ tồn vong của Đảng, của chế độ cần nhận diện và thấu suốt thực trạng đáng lo ngại ấy!
Người dân trong một nước được mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân”, một nước đã “tự do, độc lập” mà người dân không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút gì làm chính quyền phật ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp thành tội rồi tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Dân chủ ở đâu, khi nghe đài, đọc báo, mở mạng Internet, thậm chí cả khi chuyện vui, chuyện phiếm bàn trà, quán nhậu, bất kỳ nơi đâu đều bị theo dõi, bị cấm đoán, bị “quy vào” hết chuyện này đến tội danh tội trạng khác? Nói cái gì cũng phải nhìn trước ngó sau, tự biết canh chừng, sợ “ếch chết vì ộp ộp” thì đó là quyền gì? Nỗi sợ thường trực ngày đêm của mọi công dân, kể cả trí thức, nhà báo, đảng viên đến mức mát hẳn quyền con người, ăn không ngon, ngủ không yên là do ai gây nên? Do quan điểm của Đảng bị đánh tráo, tư tưởng bị lọi dụng, bẻ cong?
Lại nữa, dù rất phi lý: Nhà báo sợ viết sự thật, người nghèo sợ kẻ sẵn tiền, chính quyền sợ đại gia, người già sợ con nít, người dân sợ công an, công an sợ côn đồ, dân lành sợ lưu manh, làm ăn sợ đánh thuế, mua hàng sợ hàng gian hàng giả, ăn uống sợ độc hại, sợ nắc bệnh ung thư. Rồi nữa: Đảng viên sợ 19 điều cấm; đi bộ đội sợ hy sinh không được công nhận liệt sĩ, mộ chí không ai thắp hương đặt hoa tưởng niệm; người lao động sợ mất việc, học nghề sợ thất nghiệp, ra chợ sợ giá cả, ốm đau sợ không đủ tiền mua thuốc
Những cái tưởng như “chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường sợ tai nạn, sợ đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng tiền, không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác chết sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo theo, dính chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như những con cờ đô-mi-nô. Vậy thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối, chính sách, cách thức quản lý, điều hành nào gây nên?...? Dấu chân Việt Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: ... Tình chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ /Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương /Từng dài âu lo, từng quen đợi chờ. /Mộng thật cam go / Miễn là mai niềm đau thành nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao cứ làm cho nhau sợ,… "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh Công Sơn).
Ôi, một xã hội mà từ vị lãnh đạo, từ ‘vua” đến dân, ai cũng canh cánh nỗi sợ, thì sao có thể gọi là tốt đẹp, là "ưu việt"? Làm sao mà phát triển được đất nước sánh vai với các nước? Cho nên, với hiện trạng này, câu kết trong các Nghị quyết Đại hội Đảng mà nhiệm kỳ nào cũng 'bổ cũ soạn lai' đọc đến phát ngán: “Phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nay đã chứng minh chỉ là khẩu hiệu cửa miệng nhàm chán, vô nghĩa mà thôi.
BVB
Các ông đã tuyên chiến với nhân dân
Sau bài phát biểu của hai ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng và ông
chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, một sự thật hiển hiện: Cho đến giờ
phút này các ông đã đã tuyên chiến với toàn dân. Các ông không còn ngần
ngại tự bóc trần bản chất của mình. Đó là bản chất độc tài.
Bản thân những người đảng viên còn lương tri, những ngày này họ cảm thấy
xấu hổ khi đến nơi làm việc, khi nhìn thấy mặt những quần chúng trong
cơ quan. Hơn lúc nào hết, cái danh hiệu đảng viên CS đang đè lên gánh
vai của họ. Họ không thể ngờ rằng Tổng bí thư, Chủ tịch quốc hội của họ
có ăn nói trước quốc dân đồng bào như vậy. Tôi đã gặp những ánh mắt cụp
xuống, ái ngại của họ.
Với tuyệt đại quần chúng, với thông điệp các ông muốn răn đe, hơn 90
triệu người dân Việt Nam không thể hiểu khác đi là: Đât nước này của
đảng tao, Hiến pháp này chỉ có thể do đảng tao đẻ ra. Tao cấm thằng nào,
con nào đẻ ra một bản hiến pháp khác. Ý kiến khác với tao là đi tù. Các
ông đã không ngần ngại doạ dẫm toàn dân.
Nhưng điều đầu tiên tôi muốn nói với các ông là dân Việt Nam, đến hôm
nay, không còn ai sợ cái bộ máy chuyên chính vô sản của các ông nữa. Hoạ
may chỉ còn bọn quan tham, bọn bán nước cầu vinh là thường trực nỗi
khiếp sợ của công lý, của sự thật.
Có thể các ông trong một lúc quẫn bách nào đó, bộc phát ra những lời nói
trên. Nhưng chuyện đời không phải cái gì tự nhiên mà nó tới Nó là kết
quả của lối tư duy độc tài ăn sâu thâm căn cố đế vào máu các ông rồi.
Không thay đổi được. Cái kim lâu ngày trong bọc cũng phải lòi ra. Vâng,
hôm nay nó tự động lòi ra qua lời phát biểu của các ông.
Hơn 20 năm điều 4 tự các ông cho phép nó ngự trị trong hiến pháp đã làm
cho các ông ngộ nhận mình được chính danh. Điều đó dẫn đến cái đảng của
ông suy thoái như thế nào, các ông tự đánh giá. Nhưng tai hại hơn cả là
điều 4 đã làm cho các ông chủ quan coi thường những luồng tư tưởng tiến
bộ khác đang tạo ra nhiều dòng chảy trong đời sống xã hội dân sự trên
đất nước VN này. Các ông cố tình làm ngơ, các ông cố tình thoá mạ, tìm
mọi cách ngăn chặn nó, nhưng nó vẫn cứ chảy. Các ông không làm gì ngăn
nổi nó.
Một điều tai hại hơn nữa khi các ông ngộ nhận: Có điều 4 hiến pháp thì
đảng mới được quyền lãnh đạo, không có điều 4 thì đảng mất quyền lãnh
đạo. Không phải vô cớ mà ông Nguyễn Minh Triết tuyên bố bỏ điêu 4 là tự
sát. Đây là lối tư duy cực kỳ thiểu năng. Đất nước này chỉ có 1 đảng của
các ông, ai vào đây làm thay các ông mà phải sợ mất quyền lãnh đạo?
Ngược lại, các ông còn cố tình giữ điều 4 cực kỳ phản cảm, chỉ tổ phản
tác dụng lại mà thôi. Đây là một điều thiếu khôn ngoan. Các ông muốn lấy
lại lòng tin của dân các ông cứ mạnh dạn gạt điều 4 ra, thử xem sức
chiến đấu của đảng mà hàng ngày các ông ra rả trên báo đài, có thực sự
tác dụng gì hay không, có thực chất hay không?
Về mặt quân đội, các ông như một người cha vô trách nhiệm, có sinh mà
không có nuôi một ngày nào. Các ông cũng từng làm cha làm mẹ. Đứa trẻ
khi lớn lên sẽ coi ra sao khi bố mẹ chúng không nuôi nổi chúng dù chỉ
một ngày. Liệu nó có còn coi những người sinh ra nó là cha là mẹ nữa hay
không? Mấy hôm nay các ông cử những con vẹt lên tấu hài trên TV, như
muốn khẳng định quân đội VN hiện nay là do đảng của các ông sinh ra, và
dẫn đến hệ quả là nó phải trung thành phục vụ các ông.
Vâng, đúng, Việt Minh do ông Võ Nguyên Giáp đứng ra tổ chức đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải Phóng quân, tiền thân của QĐNDVN hiên nay. Nhưng ai
đã từng trong quân ngũ không thể không biết câu hát trong bài Vì Nhân
Dân Quên Mình: “...đoàn vệ quốc chúng ta, từ nhân dân mà ra...”. Đấy là
về tinh thần. Về vật chất thì đảng của các ông lấy đâu ra tiền bạc, vật
chất nuôi một bộ máy quân đội khổng lồ qua 4 cuộc chiến tranh? Các ông
thừa biết đấy là mồ hôi nước mắt, xương máu của NHÂN DÂN, không phải của
đảng các ông.
Các ông không nuôi nổi quân đội một ngày nào. Thôi, các ông đừng nhận vớ
nhận vẩn nữa. Nó (Quân đội) không phải là con của các ông, nó là con
của Nhân Dân.
Vậy thì các ông cố đưa điều khoản vào hiến pháp - bắt quân đội phải trung thành với đảng của các ông để làm gì?
Các ông không còn tin tưởng đội ngũ chính trị viên trong quân đội nữa? Các ông muốn quân đội đàn áp dân?
Không! Điều các ông muốn chắc chắn không xảy ra! Non sông đất nước này
nồi da xáo thịt nhiều lắm rồi. Họ không muốn thêm một giọt máu vô ích
nào phải đổ nữa. Hơn ai hết những cán bộ chiến sĩ trong quân đội ý thức
được điều này rõ nhất. Không bao giờ họ quay súng bắn lại dân mình đâu
các ông ạ. Họ thừa biết cái mà gọi là "bảo vệ đảng" thực chất là bảo vệ
cái mạng sống của gia đình vợ con cùng khối tài sản kếch xù của các ông.
Họ không dại dột làm những điều ngu xuẩn như vậy.
Những người lính biên phòng Đông Đức cũ tự bắn vào đầu mình để phản đối
lệnh của Hô-nếch-kơ bắn vào dân thường. Chỉ vậy thôi, nước Đức thống
nhất. Không thêm một giọt máu nào nữa. Ngàn đời sau người dân Đức vẫn
tôn vinh họ là những anh hùng. Các ông đừng mơ một kịch bản Thiên An Môn
thứ 2 trên đất nước VN này. Đặng Tiểu Bình dùng các quân đoàn khác,
thuộc bộ tộc khác kéo về Bắc Kinh để đàn áp sinh viên người Hán. Đất
nước Trung Hoa dân số quá đông, quá nhiều bộ tộc, các chính trị gia TQ
lợi dụng việc này để đàn áp dân. Việt Nam thì không. Trừ tỷ lệ người
thiểu số ít ỏi, hầu như tất cả 90 triệu dân VN này đều dân tộc Kinh. Đâu
đâu trên dải đất chữ S này cũng bà con thân thuộc với nhau, các ông
không thể làm được cái việc lấy quân đội đàn áp dân đâu.
Thôi các ông đừng đưa điều khoản quân đội trung thành với đảng vào hiến
pháp nữa. Nó chỉ phản tác dụng mà thôi. Mà nó phản tác dụng đến khủng
khiếp cho các ông đấy.
Đôi điều tâm sự cùng các ông đã dài. Đời việc gì đến sẽ đến. Các ông
không cản nổi đâu. Chỉ mong các ông tỉnh táo khôn ngoan tìm cho mình một
lối thoát trong danh dự. Để đất nước này, dân tộc này còn mở mày mở mặt
với năm châu bốn biển. Để con cháu tôi, con cháu các ông, mai này ra
nước ngoài nó còn tự hào mở mồm ra nói: Tôi là người Việt Nam.
Trần Sơn (DLB)
Gò cỏ may – Tổ quốc hay đảng của các ông trên hết?
Chiếc ca men uống nước này rất thân thiết với anh bộ đội cụ Hồ… |
Nguyên văn Điều 45 (Hiến pháp 1992) ghi: “Các LLVT nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân , có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu…”.
.
.
Đã được Ủy ban dự thảo Hiến pháp của các ông Trọng và Hùng sửa lại (thành điều 70) như sau: “Lực lượng vĩ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng công sản Việt Nam, Tổ Quốc và nhân dân…”
Như vậy Tổ quốc và nhân dân đã bị đẩy xuống hàng thứ 2 sau Đảng CSVN. Điều này đã làm nhức nhối không ít cho những ai quan tâm tới hiện tình đất nước. Cả trong và ngoài quân đội.
Theo thầy trò anh Trần Bình Minh ở VTV (thông qua miệng lưỡi BTV Quang Minh-VTV1) thì: … ở
mỗi quốc gia dân tộc, tổ chức và hoạt động của quân đội có những đặc
điểm riêng. Gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Nhưng đều tuân theo vấn đề
có tính qui luật. Đó là ”quân sự phải phục tùng chính trị”. Ở nước ta,
quân đội do đảng sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện.
Nên quân đội phải trung thành trước hết với ĐCS. (Xem bản tin thời sự VTV1 ngày 27/02/2013 – từ phút thứ 11′).
Khi Tổ Quốc và Nhân Dân bị các ông Trọng và Hùng xếp đứng sau đảng Cộng sản Việt Nam, nhà thơ Ngô Minh ở Huế nêu mấy câu hỏi nhẹ nhàng khá lý thú như sau:
Có thật Cụ Hồ nói “Trung với Đảng, hiếu với dân…” không? Lá cờ biểu
tượng mà cụ Hồ trao cho Quân đội NDVN ghi câu gì? “Trung với nước”
trước, hay “Trung với Đảng trước”? (*)
Lời của Cụ Hồ (trên lá cờ thấm máu muôn dân) còn giành ra đó. Thế mà
đám hậu duệ tốn kém bao thời gian và công của phát động học tập Tư
tưởng của Cụ kiểu gì mà cứ bị quên hay cố tình đánh tráo?
Chẳng thà bỏ quách cái câu mở đầu Hiến pháp sửa đổi có nhắc đến Tư
tưởng Hồ Chí Minh ấy đi cho đỡ trướng. Tránh bị người đời chê cười…
Các ý kiến của phía phản biện (phi chính thống), hết thảy đều công nhận Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền
thân của QĐND VN với 34 chiến sỹ là do Việt Minh – ông Võ Nguyên Giáp
(cánh tay phải của ông Hồ Chí Minh) thành lập vào ngày 22/12/1944 ở Cao
Bằng. Nhưng ai là người tham gia? Ai là người chăm bẵm nuôi nấng
cái đội quân nhỏ bé ấy trở thành một đội quân hùng hậu. Trong suốt bốn
cuộc chiến tranh tàn khốc. Đánh thắng 3 “Đế quốc to” và cả tên giặc
bành trướng khổng lồ phương Bắc và tay sai của chúng ở biên giới Tây
Nam? Nếu đó không phải là nhân dân?
Bút tích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
- Vì nhân dân quên mình (Lời bài hát)
- Vì nhân dân quên mình
- Vì nhân dân hy sinh
- Anh em ơi, vì nhân dân quên mình
- Đoàn Vệ quốc chúng ta ở nhân dân mà ra
- Được dân mến, được dân tin muôn phần
-
- Thề vì dân suốt đời
- Thề tranh đấu không ngừng
- Vì đất nước thân yêu mà hy sinh
- Thề diệt hết đế quốc kia, giành tự do hòa bình
- Đoàn Vệ quốc quên mình vì nhân dân
-
-
- Thề noi gương Bác Hồ
- Vì nhân dân gian lao
- Trong bao năm Người tranh đấu không ngừng
- Người chỉ biết có dân, ngày ngày lo sao cho
- Toàn dân ấm, toàn dân no, được học hành
-
- Người chỉ vui khi nào
- Toàn dân hết đau thương
- Người tranh đấu đem tương lai về cho dân
- Đoàn Vệ quốc chúng ta là con yêu của Người
- Thề noi gương suốt đời vì nhân dân. (**)
-
Nhân dân đã sinh ra, cưu mang và nuôi cả quân đội cả đảng của các ông
Trọng và Hùng. Vậy mà nay các ông nỡ vỗ nợ. Đặt tổ quốc và nhân dân
xuống bên dưới cái đảng (nay đã có “một bộ phận không nhỏ” thoái hóa
biến chất trở thành “bầy sâu”) của các ông hay sao?
Đoàn Vệ quốc chúng ta ở nhân dân mà ra… Thề noi gương suốt đời vì nhân dân!
Thế là rõ như ban ngày rồi nhé! Vậy có anh bộ đội nào muốn trung
thành tuyệt đối với đảng. Để rồi trong các tình huống tranh chấp giữa
đảng và nhân dân. Ngang nhiên đạp nồi cơm của dân để bảo vệ miếng ăn
miếng uống của tụi quan tham (nhân danh đảng). Như đã từng xẩy ra vào
ngày 5/1/2012 ở Tiên Lãng Hải Phòng không?
Gò cỏ may
----------------------------
- http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/406242
(**) Vì nhân dân quên mình là tên của một hành khúc do Doãn Quang Khải (học viên khóa 6, Trường lục quân Việt Nam) sáng tác vào tháng 5 năm 1951, nói lên nguồn gốc “từ nhân dân mà ra”, mục đích “vì nhân dân mà chiến đấu” của Quân đội nhân dân Việt Nam, ca ngợi quan hệ gắn bó giữa quân đội với nhân dân, sự tin yêu của nhân dân với quân đội. Bài hát được giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam (1952-1953). Đây là một trong những bài hát truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, được sử dụng làm nhạc hiệu cho các chương trình phát thanh quân đội nhân dân và truyền hình quân đội nhân dân.
(Blog Gò cỏ may)
Ấn tượng trong tuần: Thái độ trước sự thật...
Đời sống vốn phức tạp, vốn đầy sự biến thiên. Và vì thế, cũng vẫn luôn
tồn tại cụm từ trong nhân gian: Đánh giá lại lịch sử; hoặc đánh giá lại
một con người...
Có khi là sự đánh giá lại của hiện tại với quá khứ. Mà cũng có khi sẽ là sự đánh giá lại của tương lai, với hiện tại!
Giữa những ngày này, vấn đề góp ý cho Dự luật sửa đổi Hiến pháp còn đang gây ra những tranh luận, những í kiến bàn cãi đa chiều, có một vấn đề nổi lên trên báo chí trở nên hấp dẫn không kém. Đó là những ý kiến về Cuộc chiến biên giới 1979 cần được đưa vào sách giáo khoa mới đăng gần đây trên các báo, của các nhà giáo, nhà sử học...
Trước sự thật lịch sử
Trả lời phỏng vấn của báo Dân trí, GS.TS Đỗ Thanh Bình (Khoa Lịch sử, ĐH Sư phạm HN) cho rằng: Cuộc chiến bảo vệ biên giới nay đã được hơn 30 năm, đủ chín muồi để đưa vào SGK dạy cho học trò biết. Vì đó là sự thật lịch sử. Người Trung Quốc có những chuyện không thật mà họ vẫn đưa vào SGK như vấn đề biển Đông, họ đưa vào bản đồ, vào quả địa cầu cho học sinh học. Huống gì đây là sự thật mà ta lại không đưa vào SGK...
Cũng theo ông Đỗ Thanh Bình, SGK Lịch sử hiện nay viết quá khiêm tốn về vấn đề này. Như sách "nâng cao" viết 13 dòng, SGK đại trà chỉ viết khoảng 10 dòng và chỉ nêu sự kiện chính...
Ngành GD luôn thận trọng và luôn đi sau. Thận trọng là đúng và muộn còn... hơn không. Vì viết SGK, nhất là về vấn đề lịch sử không chỉ cần tư liệu sự thật chính xác, mà còn đòi hỏi một phương pháp tư duy tôn trọng lịch sử, tôn trọng hiện thực khách quan.
Trong bài viết Lịch sử, sự thật và sử học, đăng trên Tạp chí Tổ Quốc (tháng 1/1988), GS Sử học Hà Văn Tấn đã viết về cái khó của người viết sử. Và nếu đối chiếu với những ý tưởng vừa được các nhà giáo, nhà sử học đề xuất mới đây, thấy rằng bài viết vẫn còn rất nóng hổi tính thời sự. Xin được trích dẫn:
... Biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Muốn viết sử phải biết phương pháp sử học và trước hết phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội .
Các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học: Bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện; bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất đã có những khả năng dẫn nhà sử học... xa rời sự thật. Đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Nguời ta chia sử liệu ra làm hai loại: Sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp. Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng với sự kiện, chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo Điện Biên hay văn bản Hiệp nghị Paris... là sử liệu trực tiếp.
Sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin.
Hiện nay nhiều công trình nghiên cứu sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử Đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này.
Những lời kể như vậy thường được phân tích so sánh với các tư liệu khác, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình càng xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Giữa những ngày này, vấn đề góp ý cho Dự luật sửa đổi Hiến pháp còn đang gây ra những tranh luận, những í kiến bàn cãi đa chiều, có một vấn đề nổi lên trên báo chí trở nên hấp dẫn không kém. Đó là những ý kiến về Cuộc chiến biên giới 1979 cần được đưa vào sách giáo khoa mới đăng gần đây trên các báo, của các nhà giáo, nhà sử học...
Trước sự thật lịch sử
Trả lời phỏng vấn của báo Dân trí, GS.TS Đỗ Thanh Bình (Khoa Lịch sử, ĐH Sư phạm HN) cho rằng: Cuộc chiến bảo vệ biên giới nay đã được hơn 30 năm, đủ chín muồi để đưa vào SGK dạy cho học trò biết. Vì đó là sự thật lịch sử. Người Trung Quốc có những chuyện không thật mà họ vẫn đưa vào SGK như vấn đề biển Đông, họ đưa vào bản đồ, vào quả địa cầu cho học sinh học. Huống gì đây là sự thật mà ta lại không đưa vào SGK...
Cũng theo ông Đỗ Thanh Bình, SGK Lịch sử hiện nay viết quá khiêm tốn về vấn đề này. Như sách "nâng cao" viết 13 dòng, SGK đại trà chỉ viết khoảng 10 dòng và chỉ nêu sự kiện chính...
Ngành GD luôn thận trọng và luôn đi sau. Thận trọng là đúng và muộn còn... hơn không. Vì viết SGK, nhất là về vấn đề lịch sử không chỉ cần tư liệu sự thật chính xác, mà còn đòi hỏi một phương pháp tư duy tôn trọng lịch sử, tôn trọng hiện thực khách quan.
Trong bài viết Lịch sử, sự thật và sử học, đăng trên Tạp chí Tổ Quốc (tháng 1/1988), GS Sử học Hà Văn Tấn đã viết về cái khó của người viết sử. Và nếu đối chiếu với những ý tưởng vừa được các nhà giáo, nhà sử học đề xuất mới đây, thấy rằng bài viết vẫn còn rất nóng hổi tính thời sự. Xin được trích dẫn:
... Biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Muốn viết sử phải biết phương pháp sử học và trước hết phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội .
Các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học: Bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện; bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất đã có những khả năng dẫn nhà sử học... xa rời sự thật. Đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Nguời ta chia sử liệu ra làm hai loại: Sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp. Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng với sự kiện, chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo Điện Biên hay văn bản Hiệp nghị Paris... là sử liệu trực tiếp.
Sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin.
Hiện nay nhiều công trình nghiên cứu sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử Đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này.
Những lời kể như vậy thường được phân tích so sánh với các tư liệu khác, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình càng xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Một hình ảnh nhắc nhớ về sự kiện chiến tranh biên giới năm 1979. Ảnh tư liệu |
Bài viết là sự nghiên cứu kỹ lưỡng, quan sát và trải nghiệm sâu sắc hiện thực sử học nước Việt của một nhà khoa học tên tuổi.
Viết sử đã khó, viết SGK Lịch sử chắc chắn còn khó hơn gấp bội. Bởi đối tượng người đọc- học, là học sinh nhiều cấp độ tuổi. Sách giáo khoa nói chung, SGK Lịch sử nói riêng, cần phải bảo đảm ít nhất ba tiêu chí: Khách quan (trung thực, tôn trọng sự thật), khoa học (trình bầy logic, khúc triết) và giáo dục (sư phạm, dạy người).
Việc viết về cuộc chiến biên giới 1979, lại đặt trong bối cảnh thời cuộc- quan hệ đối ngoại giữa hai nước Việt- Trung đang nước sôi lửa bỏng, đang nhiều "biến động thăng trầm". Nó vừa phản ánh đời sống một thời đại mà nước Việt đang phải trải qua, quá nhiều cam go, thậm chí tổn thương, bi tráng và đầy thách thức. Nhưng những nhà viết sử, nhà giáo, nhà sư phạm không thể lảng tránh, vì đó là sự thật lịch sử. Vì đó là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền dân tộc. Và vì đó là giáo dục
Sự thật lịch sử này nằm trong một bối cảnh chung lớn hơn: Ngày nay, chủ quyền và độc lập dân tộc các quốc gia luôn được đặt lên hàng đầu. Nó là nỗi đau, là khí phách của mỗi dân tộc, mà nhìn vào đó, thế hệ trẻ cần luôn được "nạp năng lượng"- tinh thần yêu nước, ý chí cương cường bảo vệ chủ quyền, độc lập nước mình.
Nhìn ra xung quanh, có thể thấy rất rõ bối cảnh đặc biệt này đang thử thách sự can đảm và ý thức chủ quyền của mọi quốc gia.
Mới đây, ngày 26/2, Hãng Yonhap (Hàn Quốc) đưa tin, Bộ GD Hàn Quốc thông báo, bắt đầu học kỳ tới, vào tháng ba, mỗi năm học sinh nước này, sẽ học tối thiểu 10 giờ bắt buộc về quần đảo Dokdo/ Takeshima (quần đảo đang tranh chấp với Nhật).
Trước đó, Nhật Bản cũng đưa quần đảo này vào SGK Nhật Bản, để dạy cho trẻ em Nhật. Còn cuốn giáo trình dành cho giáo viên trung học, tháng 7/2008 đã xác nhận chủ quyền của Nhật Bản trên đảo Takeshima.
Ngay sau đó, phía Hàn Quốc đã có động thái phản đối buộc Chính phủ Nhật Bản phải bỏ nội dung khẳng định chủ quyền với đảo này. Đựơc biết, mới đây nhất, bộ SGK cấp THPT dùng cho năm học 2013 của Nhật Bản vẫn ghi rõ, đảo Dokdo (tức Takeshima) là lãnh thổ cố hữu của Nhật Bản.
Viết sử đã khó, viết SGK Lịch sử chắc chắn còn khó hơn gấp bội. Bởi đối tượng người đọc- học, là học sinh nhiều cấp độ tuổi. Sách giáo khoa nói chung, SGK Lịch sử nói riêng, cần phải bảo đảm ít nhất ba tiêu chí: Khách quan (trung thực, tôn trọng sự thật), khoa học (trình bầy logic, khúc triết) và giáo dục (sư phạm, dạy người).
Việc viết về cuộc chiến biên giới 1979, lại đặt trong bối cảnh thời cuộc- quan hệ đối ngoại giữa hai nước Việt- Trung đang nước sôi lửa bỏng, đang nhiều "biến động thăng trầm". Nó vừa phản ánh đời sống một thời đại mà nước Việt đang phải trải qua, quá nhiều cam go, thậm chí tổn thương, bi tráng và đầy thách thức. Nhưng những nhà viết sử, nhà giáo, nhà sư phạm không thể lảng tránh, vì đó là sự thật lịch sử. Vì đó là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền dân tộc. Và vì đó là giáo dục
Sự thật lịch sử này nằm trong một bối cảnh chung lớn hơn: Ngày nay, chủ quyền và độc lập dân tộc các quốc gia luôn được đặt lên hàng đầu. Nó là nỗi đau, là khí phách của mỗi dân tộc, mà nhìn vào đó, thế hệ trẻ cần luôn được "nạp năng lượng"- tinh thần yêu nước, ý chí cương cường bảo vệ chủ quyền, độc lập nước mình.
Nhìn ra xung quanh, có thể thấy rất rõ bối cảnh đặc biệt này đang thử thách sự can đảm và ý thức chủ quyền của mọi quốc gia.
Mới đây, ngày 26/2, Hãng Yonhap (Hàn Quốc) đưa tin, Bộ GD Hàn Quốc thông báo, bắt đầu học kỳ tới, vào tháng ba, mỗi năm học sinh nước này, sẽ học tối thiểu 10 giờ bắt buộc về quần đảo Dokdo/ Takeshima (quần đảo đang tranh chấp với Nhật).
Trước đó, Nhật Bản cũng đưa quần đảo này vào SGK Nhật Bản, để dạy cho trẻ em Nhật. Còn cuốn giáo trình dành cho giáo viên trung học, tháng 7/2008 đã xác nhận chủ quyền của Nhật Bản trên đảo Takeshima.
Ngay sau đó, phía Hàn Quốc đã có động thái phản đối buộc Chính phủ Nhật Bản phải bỏ nội dung khẳng định chủ quyền với đảo này. Đựơc biết, mới đây nhất, bộ SGK cấp THPT dùng cho năm học 2013 của Nhật Bản vẫn ghi rõ, đảo Dokdo (tức Takeshima) là lãnh thổ cố hữu của Nhật Bản.
Cuộc chiến bảo vệ biên giới nay đã được hơn 30 năm, đủ chín muồi để đưa vào SGK. Ảnh minh họa: Đào Ngọc Thạch/ Thanh Niên |
Còn ở VN, việc đưa vào SGK cuộc chiến 1979 rất
cần định lượng và định tính phù hợp cấp học. Chương trình, SGK của
ngành GD nhiều năm nay, luôn bị hệ lụy của sự...quá tải. Ngành càng chủ
trương giảm, chương trình, SGK càng...nặng. Còn môn Sử, rút cục chung
số phận bẽ bàng với môn Văn- bị học sinh chán ghét một cách vô lý, thậm
chí có hàng ngàn điểm 0.
Cho dù, có nhiều ý kiến của ngành mang tính ngụy biện, đổ lỗi khách quan, thì một sự thật... lịch sử khác không thể tránh né, hoặc chối cãi, là chương trình, SGK môn Sử viết khô khan, không hấp dẫn.
Lịch sử là hiện thực khách quan với tất cả cái hùng, cái bi, cái sai, cái đúng, cái hay cái dở của một dân tộc, một quốc gia trên hành trình vận động và phát triển, mang tính khoa học của quy luật thực tiễn. Lịch sử càng không phải là một môn giáo dục, tuyên truyền một chiều. Như một nhà giáo từng thốt lên chua xót: Dạy sử, không thể "nấu sỏi và nước lã thành súp" (Tuần Việt Nam, ngày 8/8/2011).
Điều này, đặt trong bối cảnh Internet với những thông tin cực nhanh, đa dạng đã chiếm lĩnh trận địa thông tin đời sống giới trẻ, thì rút cục vài bài học lịch sử mang tính "giáo huấn" của nhà trường sẽ luôn "yểu mệnh", thiếu sức sống, không đủ sức cuốn hút tuổi trẻ.
Cuộc chiến 1979- cũng đang trở thành "cuộc chiến"... thử thách trí tuệ, phương pháp tư duy khoa học và bản lĩnh trung thực của ngành GD trong lĩnh vực viết SGK Lịch sử hiện đại, trước hết là chuẩn kiến thức của môn học này, trong toàn bộ chủ trương viết SGK mới cho sau năm 2015.
... Và trước "sự thật" cá nhân
Chưa cần nói đến thái độ con người trước những sự thật lịch sử lớn lao. Ngay thái độ của con người trước "sự thật" cá nhân, nhiều khi cũng đã là những thách thức cực đại về sự trung thực, sự sáng suốt của phẩm cách và trí não.
Đó là câu chuyện nổi lên gần đây, xung quanh vụ việc bắt ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải VN, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng CT Hàng hải VN (Vinalines), từng bỏ trốn vì những sai phạm đặc biệt nghiêm trọng, khi cơ quan chức năng có quyết định truy nã ông này, gây xôn xao dư luận khá lâu.
Trước sức ép và áp lực xã hội, cơ quan chức năng vào cuộc. Đến nay, lần lượt gần chục con người là "bạn bè" quen biết, cán bộ chức năng, đã lần lượt bị bắt vì liên quan đến việc tổ chức giúp ông Dương Chí Dũng bỏ trốn.
Đó là Trần Văn Dũng (tức Dũng "Bắc Kạn", từng được coi là trùm giang hồ đất Cảng), Vũ Tiến Sơn, Vũ Văn Sáu, Phạm Đình Nghiên, Hà Trọng Tuấn, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Trọng Ánh và Đồng Xuân Phong (riêng ĐXP hiện đang bị truy nã).
Cho dù, có nhiều ý kiến của ngành mang tính ngụy biện, đổ lỗi khách quan, thì một sự thật... lịch sử khác không thể tránh né, hoặc chối cãi, là chương trình, SGK môn Sử viết khô khan, không hấp dẫn.
Lịch sử là hiện thực khách quan với tất cả cái hùng, cái bi, cái sai, cái đúng, cái hay cái dở của một dân tộc, một quốc gia trên hành trình vận động và phát triển, mang tính khoa học của quy luật thực tiễn. Lịch sử càng không phải là một môn giáo dục, tuyên truyền một chiều. Như một nhà giáo từng thốt lên chua xót: Dạy sử, không thể "nấu sỏi và nước lã thành súp" (Tuần Việt Nam, ngày 8/8/2011).
Điều này, đặt trong bối cảnh Internet với những thông tin cực nhanh, đa dạng đã chiếm lĩnh trận địa thông tin đời sống giới trẻ, thì rút cục vài bài học lịch sử mang tính "giáo huấn" của nhà trường sẽ luôn "yểu mệnh", thiếu sức sống, không đủ sức cuốn hút tuổi trẻ.
Cuộc chiến 1979- cũng đang trở thành "cuộc chiến"... thử thách trí tuệ, phương pháp tư duy khoa học và bản lĩnh trung thực của ngành GD trong lĩnh vực viết SGK Lịch sử hiện đại, trước hết là chuẩn kiến thức của môn học này, trong toàn bộ chủ trương viết SGK mới cho sau năm 2015.
... Và trước "sự thật" cá nhân
Chưa cần nói đến thái độ con người trước những sự thật lịch sử lớn lao. Ngay thái độ của con người trước "sự thật" cá nhân, nhiều khi cũng đã là những thách thức cực đại về sự trung thực, sự sáng suốt của phẩm cách và trí não.
Đó là câu chuyện nổi lên gần đây, xung quanh vụ việc bắt ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải VN, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng CT Hàng hải VN (Vinalines), từng bỏ trốn vì những sai phạm đặc biệt nghiêm trọng, khi cơ quan chức năng có quyết định truy nã ông này, gây xôn xao dư luận khá lâu.
Trước sức ép và áp lực xã hội, cơ quan chức năng vào cuộc. Đến nay, lần lượt gần chục con người là "bạn bè" quen biết, cán bộ chức năng, đã lần lượt bị bắt vì liên quan đến việc tổ chức giúp ông Dương Chí Dũng bỏ trốn.
Đó là Trần Văn Dũng (tức Dũng "Bắc Kạn", từng được coi là trùm giang hồ đất Cảng), Vũ Tiến Sơn, Vũ Văn Sáu, Phạm Đình Nghiên, Hà Trọng Tuấn, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Trọng Ánh và Đồng Xuân Phong (riêng ĐXP hiện đang bị truy nã).
Ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải VN |
Nhưng "đỉnh cao" của đường dây giúp nhau ...phạm tội
này, là ông Dương Tự Trọng, em ruột Dương Chí Dũng, nguyên là Đại tá,
Phó GĐ CA Hải Phòng, nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lí hành
chính về trật tự xã hội (Bộ Công an).
Khi ông Dương Tự Trọng bị bắt, câu chuyện bi thảm về một gia đình từng được coi là "danh gia vọng tộc" của đất Cảng, mới được vén lên.
Bi thảm, vì Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng đều là con trai của ông Dương Khắc Thụ, nguyên Đại tá, GĐ CA Hải Phòng, thập niên 70-80. Giờ ông Dương Khắc Thụ đã 90 tuổi- cái tuổi gần đất xa trời, không còn đủ minh mẫn, và cả sức khỏe nữa- để có thể chịu đựng những "nhân- quả" quá lớn đổ sập xuống gia đình ông.
Khi mà ngoài hai con trai ruột, còn có con rể Nguyễn Bình Kiên, nguyên Đại tá, Phó GĐ CA Hải Phòng, người trước đó bị khai trừ Đảng. Còn hàng loạt những người thân tín của gia đình ông như Vũ Tiến Sơn, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Trọng Ánh cũng lần lượt vào trại giam.
Bi thảm, vì Dương Tự Trọng vốn là một cán bộ rất có năng lực, từng là nỗi "kinh hoàng" của tội phạm đất Cảng. Lăn lộn nghiệp vụ, từng trải qua nhiều chức vụ quản lý từ cơ sở, lại có một lý lịch trích ngang quá "đẹp", Dương Tự Trọng được đánh giá là có nhiều tố chất để thăng tiến hơn nữa.
Tiếc thay, không ai ngăn cản con đường thăng tiến này ngoài chính Dương Tự Trọng. Và biết đâu, oan nghiệt thay, còn có cả Dương Chí Dũng, người anh ruột. Nhưng đó vẫn còn là câu chuyện đang chờ kết luận điều tra của các cơ quan chức năng.
Và cho dù, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, trong trả lời phỏng vấn của báo chí, vẫn đặt ba câu hỏi nghi vấn lớn về những "lỗ hổng đầu mối chết người" trong vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn, người viết bài quan tâm hơn, đến chủ đề- thái độ trước "sự thật".
Báo chí đã dùng chữ "lụy tình" để viết về Dương Tự Trọng. Con người này vốn rắn lòng trước những kẻ tội phạm cộm cán của đất Cảng, nhưng lại mềm lòng trước tội phạm là người ruột thịt, khiến vụ việc trở thành sai một ly, đi một dặm. Cái đi một dặm cay đắng, và khốc liệt quá!
Vì làm sao, Dương Tự Trọng, nguyên là một cán bộ CA dày dạn trong nghề, lại không hiểu một điều, hoạt động nghiệp vụ giỏi giang của cơ quan chức năng nhất định không sớm thì muộn, sẽ tìm ra thủ phạm. Cao nhân tất hữu cao nhân trị. Dương Tự Trọng thừa tình, mà bỗng thiếu trí, và thiếu cả tâm. Tiếc thay!
Khi ông Dương Tự Trọng bị bắt, câu chuyện bi thảm về một gia đình từng được coi là "danh gia vọng tộc" của đất Cảng, mới được vén lên.
Bi thảm, vì Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng đều là con trai của ông Dương Khắc Thụ, nguyên Đại tá, GĐ CA Hải Phòng, thập niên 70-80. Giờ ông Dương Khắc Thụ đã 90 tuổi- cái tuổi gần đất xa trời, không còn đủ minh mẫn, và cả sức khỏe nữa- để có thể chịu đựng những "nhân- quả" quá lớn đổ sập xuống gia đình ông.
Khi mà ngoài hai con trai ruột, còn có con rể Nguyễn Bình Kiên, nguyên Đại tá, Phó GĐ CA Hải Phòng, người trước đó bị khai trừ Đảng. Còn hàng loạt những người thân tín của gia đình ông như Vũ Tiến Sơn, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Trọng Ánh cũng lần lượt vào trại giam.
Bi thảm, vì Dương Tự Trọng vốn là một cán bộ rất có năng lực, từng là nỗi "kinh hoàng" của tội phạm đất Cảng. Lăn lộn nghiệp vụ, từng trải qua nhiều chức vụ quản lý từ cơ sở, lại có một lý lịch trích ngang quá "đẹp", Dương Tự Trọng được đánh giá là có nhiều tố chất để thăng tiến hơn nữa.
Tiếc thay, không ai ngăn cản con đường thăng tiến này ngoài chính Dương Tự Trọng. Và biết đâu, oan nghiệt thay, còn có cả Dương Chí Dũng, người anh ruột. Nhưng đó vẫn còn là câu chuyện đang chờ kết luận điều tra của các cơ quan chức năng.
Và cho dù, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, trong trả lời phỏng vấn của báo chí, vẫn đặt ba câu hỏi nghi vấn lớn về những "lỗ hổng đầu mối chết người" trong vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn, người viết bài quan tâm hơn, đến chủ đề- thái độ trước "sự thật".
Báo chí đã dùng chữ "lụy tình" để viết về Dương Tự Trọng. Con người này vốn rắn lòng trước những kẻ tội phạm cộm cán của đất Cảng, nhưng lại mềm lòng trước tội phạm là người ruột thịt, khiến vụ việc trở thành sai một ly, đi một dặm. Cái đi một dặm cay đắng, và khốc liệt quá!
Vì làm sao, Dương Tự Trọng, nguyên là một cán bộ CA dày dạn trong nghề, lại không hiểu một điều, hoạt động nghiệp vụ giỏi giang của cơ quan chức năng nhất định không sớm thì muộn, sẽ tìm ra thủ phạm. Cao nhân tất hữu cao nhân trị. Dương Tự Trọng thừa tình, mà bỗng thiếu trí, và thiếu cả tâm. Tiếc thay!
Ông Dương Tự Trọng, em ruột Dương Chí Dũng |
Người viết chợt nhớ đến khá nhiều câu chuyện của các
ông bố, bà mẹ ít được học, ít chữ nghĩa, trước tội ác của con cái. Sau
những đau đớn, hoảng sợ, sau những dằn vặt khổ sở, cuối cùng họ đã động
viên con cái thú tội trước bình minh. Điều đó, rất có thể là tình tiết giảm nhẹ tội lỗi của con em họ.
Ai dám bảo, họ không có trí, không có tâm? Cái chữ trí, chữ tâm ở đây không phụ thuộc vào bằng cấp đào tạo, không phụ thuộc vào vị thế, quyền uy xã hội. Cái chữ trí, chữ tâm đó cho thấy họ có cách nghĩ đúng, để dẫn đến hành động xử lý đúng, trước một sự thật- dù cay đắng thế nào, vì an ninh, trật tự cộng đồng và xã hội.
Thái độ con người trước sự thật lịch sử đầy bi phẫn, bi thương của một quốc gia, hay có khi chỉ là trước "sư thật" bi thảm, bi kịch của một cá nhân, một gia đình, đều cần đến sự trung thực. Đó mới là cái tầm của chữ trí, của cách tư duy. Và đó cũng là chữ dũng của một dân tộc, của một cá nhân.
Nhưng đời sống vốn phức tạp, vốn đầy sự biến thiên. Và vì thế, cũng vẫn luôn tồn tại cụm từ trong nhân gian: Đánh giá lại lịch sử; hoặc đánh giá lại một con người. Vì Hôm nay đúng, mai có thể sai rồi (mượn ý thơ Xuân Quỳnh)
Có khi là sự đánh giá lại của hiện tại với quá khứ. Mà cũng có khi sẽ là sự đánh giá lại của tương lai, với hiện tại!
Kỳ Duyên (TVN)
28.02.2013
Nguyễn Minh Cần
(Dân luận)
Ai dám bảo, họ không có trí, không có tâm? Cái chữ trí, chữ tâm ở đây không phụ thuộc vào bằng cấp đào tạo, không phụ thuộc vào vị thế, quyền uy xã hội. Cái chữ trí, chữ tâm đó cho thấy họ có cách nghĩ đúng, để dẫn đến hành động xử lý đúng, trước một sự thật- dù cay đắng thế nào, vì an ninh, trật tự cộng đồng và xã hội.
Thái độ con người trước sự thật lịch sử đầy bi phẫn, bi thương của một quốc gia, hay có khi chỉ là trước "sư thật" bi thảm, bi kịch của một cá nhân, một gia đình, đều cần đến sự trung thực. Đó mới là cái tầm của chữ trí, của cách tư duy. Và đó cũng là chữ dũng của một dân tộc, của một cá nhân.
Nhưng đời sống vốn phức tạp, vốn đầy sự biến thiên. Và vì thế, cũng vẫn luôn tồn tại cụm từ trong nhân gian: Đánh giá lại lịch sử; hoặc đánh giá lại một con người. Vì Hôm nay đúng, mai có thể sai rồi (mượn ý thơ Xuân Quỳnh)
Có khi là sự đánh giá lại của hiện tại với quá khứ. Mà cũng có khi sẽ là sự đánh giá lại của tương lai, với hiện tại!
Kỳ Duyên (TVN)
Nguyễn Minh Cần - Thậm cấp chí nguy!
Chưa bao giờ Bộ chính trị ĐCSVN lâm vào thế kẹt như lần này! Họ giăng
bẫy “đám dân đen”, bịp bợm bày trò lấy ý kiến dân để sửa đổi “hiến pháp”
hòng độc tôn thống trị dân ta dài dài... Nhưng bây giờ thì họ lại đang
rơi vào cái bẫy do chính họ giăng ra!
Trước khi giăng bẫy, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các ông đầu nậu
trong BCT đã cẩn thận chặn họng “dân đen” là “bỏ Điều 4 là tự sát”, “chỉ
có quyền sở hữu toàn dân, chứ không thể có quyền sở hữu tư nhân về đất
đai”, “không thể có báo chí tư nhân”, “không thể có đảng phái đối lập”,
“không thể có đa nguyên, đa đảng”, “quân đội và công an là của Đảng,
không thể khác được”, “kinh tế quốc doanh là chủ đạo”, “nhà nước ta
không tam quyền phân lập”... Sau đó, các ông mới cho kẻ bề tôi Phan
Trung Lý, trưởng ban dự thảo sửa đổi “hiến pháp”, ra sân khấu giở giọng
đường mật rằng “Ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nên nhân
dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và sửa đổi hiến pháp”.
Ông Lý dụ dỗ người dân mạnh dạn góp ý, “không có điều gì cấm kỵ hết”,
kể cả Điều 4! Tổng bí thư lúc này đắc chí nghĩ rằng diệu kế này của BCT
chắc chắn sẽ thành công mỹ mãn...
Nào ngờ, “đám dân đen” bất trị của thời đại bùng nổ thông tin bảo nhau
ào ào góp ý kiến, mà... khốn nạn thay, những ý kiến đó hầu hết lại ngược
với những điều răn đe, cấm kỵ của “Đảng ta”. Tệ hơn nữa, ngày
04.02.2013, một phái đoàn thay mặt cho 72 vị nhân sĩ, trí thức, kể cả
một số vị vốn là cựu đại thần của “triều đình” CS, đã đến “quốc hội”
trang trọng trao kiến nghị và kèm theo cả một bản dự thảo hiến pháp,
dường như để làm vật “đối chứng” cho toàn dân dễ bề đối chiếu với dự
thảo hiến pháp sắp đưa ra của “Đảng ta”. Khách quan mà nói, dự thảo hiến
pháp của các vị nhân sĩ, trí thức khá dân chủ và tiến bộ, nên gần như
hầu hết các điều quan trọng trong đó đều chống lại tất cả những điều mà
Tổng bí thư và các ông lớn “Đảng ta” đã răn đe! Chẳng hạn, nó khẳng định
quyền lập hiến phải thuộc về toàn dân, toàn dân phải phúc quyết hiến
pháp; nó xác quyết quyền con người đã ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền (1948)... được tôn trọng và bảo vệ; nó công nhận quyền sở
hữu tư nhân về đất đai, quyền lập hội, lập nghiệp đoàn... Nó khẳng định
các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị, đặt lợi
ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào. Tệ hơn nữa,
nó vứt bỏ hoàn toàn cái Điều 4 thiêng liêng của “Đảng ta” mà ghi rõ là
các đảng phái chính trị được tự do thành lập và hoạt động, quyền đối lập
chính trị được tôn trọng, pháp luật bảo đảm sự bình đẳng giữa các đảng
phái chính trị!
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đâm ra bối rối... Lẽ ra, ông phải bình tĩnh
để cho “đám dân đen” góp hết ý cho đến cuối tháng ba này để “Đảng ta”
“phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, tạo
sự đồng thuận của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân
trong việc sửa đổi Hiến pháp” (đúng nguyên văn), nhưng... chưa hết ba
tháng góp ý thì ông Trọng đã đùng đùng phản ứng mạnh mẽ, tung ra những
lời răn đe đối với những ai góp ý không đúng với đường lối “Đảng ta”.
Cái “lú” của ông Trọng lộ ra ở đây! Ông là một nhà lý luận kiệt xuất của
“Đảng ta”, mà lời lẽ buộc tội của ông thì hàm hồ, cửa quyền, trịch
thượng, thiếu hẳn chất lý luận, hoàn toàn không có sức thuyết phục nào.
Ông lớn tiếng hô: “phải lãnh đạo cái việc góp ý kiến sửa đổi dự thảo
hiến pháp”, nhưng lãnh đạo thế nào thì không thấy ông chỉ đạo. Chẳng lẽ
ông ra lệnh cho các đồng chí của ông bịt miệng “đám dân đen”, bằng cách
công khai tuyên bố rõ những vấn đề a, b, c... này thì “Đảng ta” cấm
không ai được nói đến. Nếu thế thì trắng trợn quá và “hơi bị” trái với
lời tuyên bố của kẻ bề tôi Phan Trung Lý! Mà không làm độc đoán thì làm
sao ngăn được “đám dân đen” lắm mồm nói đến những vấn đề thiết thân của
họ, tức là chạm đến những điều “Đảng ta” cấm kỵ? Tự do ngôn luận kia mà!
Để thấy rõ tính chất nghèo nàn về mặt lý luận của nhà lý luận kiệt xuất
của “Đảng ta” trong những lời rao giảng của ông tại Phú Thọ được phát đi
trên Chương trình VTV1 hôm 25.02.2013, chúng tôi xin ghi lại nguyên văn
ở đây:
"Các đồng chí phải lãnh đạo cái việc góp ý kiến sửa đổi dự thảo hiến pháp. Cái này quan trọng lắm đấy.
Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa.
Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam
quyền phân lập’ không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không?
Người ta đang có những quan điểm đấy!
Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng nữa. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa, chỉ ở đâu nữa nào?
Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể... thì nó là cái gì?! Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này".
Cái chữ “xử lý” này làm mọi người nhớ lại, trước đó, vào ngày
28.12.2012, cũng chính Tổng bí thư đã giao nhiệm vụ cho lực lượng công
an và quân đội phải “ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý
kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước”.
Xem ra những lời đe dọa đó ngày nay không còn “thiêng” nữa, không làm
“đám dân đen” bất trị khiếp sợ như xưa. Sau khi Chương trình VTV1 tung
ra bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hôm 25.02, thì ngay
trong tối hôm đó, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên của báo Gia Đình & Xã Hội
liền tung lên một bài phê phán thẳng thừng ông Nguyễn Phú Trọng với
những lý lẽ đanh thép, lập luận vững chắc. Đây là cú đấm thôi sơn vào
mặt Tổng bí thư. Đáp lại, như mọi khi, “Đảng ta” liền hèn hạ đánh nhà
báo một “cú dưới thắt lưng”: đuổi việc! Chắc rồi đây sẽ còn “bồi” thêm
vài quả đấm nào nữa đây. Nhưng hành vi trả thù này của “Đảng ta” chỉ làm
Tổng bí thư rơi mặt nạ, lộ rõ bộ mặt thật đốn mạt, dối trá, bịp bợm của
một kẻ độc tài đuối lý. Còn nhà báo Nguyễn Đắc Kiên là một nhà báo
cương trực, can đảm, khẳng khái thì được rất nhiều người ở khắp nơi hoan
hô khâm phục. Nhưng anh đã khiêm tốn nói: “bài viết của tôi là rất bình
thường, nó thật sự bình thường, không có gì to tát cả”, “bài này cũng
như những bài khác trên blog hoàn toàn do mệnh lệnh đạo đức” mà viết
thôi. Cuối năm ngoái, anh có bài thơ, kết thúc bằng mấy câu rất giản dị:
nếu một ngày tôi phải vào tù,/ thì chắc chắn là nhà tù cộng sản,/ bởi
vì tôi khao khát tự do.
Tấm gương cương trực của Nguyễn Đắc Kiên nhanh chóng lan tỏa mạnh trong
nhiều người cũng “khao khát tự do” như anh, nhất là thế hệ @ hăng say
trong và ngoài nước. Mới đây, đã có “Lời Tuyên bố của các Công dân Tự
do”, sát cánh bên nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, “kêu gọi các công dân khác
cùng với chúng tôi đồng tuyên bố”:
1/ không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong hiến pháp hiện hành mà còn muốn tổ
chức một Hội nghị lập hiến, làm một hiến pháp mới thực sự là ý chí của
toàn dân, không phải là ý chí của ĐCS như Hiến pháp hiện hành;
2/ ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh
vì tự do, dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không
một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước;
3/ không chỉ ủng hộ chính thể tam quyền phận lập mà còn muốn một
chính thể phân quyền theo chiều dọc, tăng tính tự trị cho các địa
phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc
gia, các đoàn thể quốc gia;
4/ ủng hộ phi chính trị hóa quân đội, vì quân đội là để bảo vệ nhân
dân, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ, không phải để bảo vệ
bất cứ một đảng phái nào;
5/ khẳng định mình, cũng như tất cả những người Việt Nam khác, có
quyền như trên, vì đó là quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng là quyền
tự nhiên vốn có của con người từ khi sinh ra, chứ không phải quyền ĐCS
ban cho, nên ĐCS không thể tước đoạt nó.
Đây là một sáng kiến rất đáng hoan nghênh và hưởng ứng. (Tiếc rằng, các
bạn không đề cập đến yêu sách công nhận quyền sở hữu tư nhân về ruộng
đất, một vấn đề sinh tử của dân ta). Chúng ta hy vọng rằng việc lấy chữ
ký vào “Lời Tuyên bố” này sẽ lan rất rộng, “Đảng ta” khó lòng ngăn cản
được! Nhất là trong thời đại internet bùng nổ thông tin ngày nay, dù có
muốn, chắc “Đảng ta” cũng phải bó tay.
Tổng bí thư cùng phe cánh đang điên đầu, lúng túng... Ông ra lệnh cho
lực lượng công an và quân đội, cho các cấp đảng ủy phải “ngăn chặn”,
phải “xử lý”... nhưng thử hỏi, Tổng bí thư có dám bỏ tù 72 nhân sĩ, trí
thức, trong số đó có những “cựu thần” của đảng không? Có dám bỏ tù cả
mấy chục nghìn người đã và đang tiếp tục đưa kiến nghị sửa đôi hiến pháp
theo lời kêu gọi “thiết tha” của “Đảng ta” hay không? Nếu không thì làm
ngăn sao nổi ngọn triều dâng ngày càng cao này? Ngay cái việc ông quy
kết cho những người đưa kiến nghị “là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống” chắc chắn sẽ gây phản ứng mạnh trong nhiều người có tinh
thần tự trọng!
Cho rằng những kiến nghị “vớ vẩn” này là biểu hiện của sự “suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, nên Tổng bí thư rất coi trọng mặt
trận tư tưởng. Ông tăng cường đội quân truyền thông hùng hậu trên mặt
trận đó, gồm đủ loại báo giấy, báo mạng, đài truyền hình, đài phát
thanh, lại thêm hàng trăm “bồi bút” chuyên nghiệp và trên 62 000 báo cáo
viên, tuyên truyền viên, dư luận viên các cỡ, các cấp từ trung ương cho
đến xã (số liệu đưa ra tại Hội nghị Tổng kết công tác Tuyên truyền
miệng năm 2012) thế mà “Đảng ta” vẫn cứ thua hoài trên măt trận truyền
thông trước hệ thống mạng xã hội trong và ngoài nước phát triển mạnh hơn
nhiều, với nhiều “cây bút” có trình độ viết lách, diễn đạt sắc bén, với
đề tài nóng hổi rất hợp lòng người.
Giờ đây, Tổng bí thư cảm thấy mối nguy đang đến gần. Ông không thể không
thấy lòng dân đã bộc lộ rõ ràng trong cuộc góp ý sửa đổi hiến pháp, là
đại chúng đòi phải có một bản hiến pháp mới, một “khế ước xã hội” được
sự đồng thuận của toàn dân, một hiến pháp thật sự dân chủ, ổn định,
trường tồn, chứ không phải là một văn bản pháp lý giả tạo để hợp thức
hóa đường lối của ĐCS trong từng giai đoạn. Ý dân là đòi phải xóa bỏ
những điều mà “Đảng ta” cố sống cố chết bám cho kỳ được thì người dân
mới thỏa mãn. Nếu Tổng bí thư và phe cánh ông cứ khăng khăng bịt tai,
nhắm mắt trước tiếng dân, trước ý dân mà cứ dùng lối cai trị đàn áp,
khủng bố để cố bịt miệng dân rồi ngoan cố đưa ra một bản hiến pháp “mới
như cũ” thì lòng uất hận của toàn dân sẽ là ngọn triều dâng cao rất dễ
biến thành trận sóng thần quét sạch “Đảng ta”. Vì sao có thể nói như
vậy? Vì dưới gậm giường chế độ độc tài toàn trị của “Đảng ta” có sẵn
những thùng thuốc súng đang tích lũy chỉ chờ một tia lửa là bùng nổ. Nói
cụ thể, những thùng thuốc súng đó là “nạn tham nhũng tràn lan”, là
“kinh tế trì trệ, giá cả gia tăng, hàng nghìn doanh nghiệp phá sản, thất
nghiệp năng nề”, là “số dân oan ngày mỗi tăng do bọn cường hào đỏ cướp
đoạt ruộng đất của dân”, là “các quan lại CS chà đạp nhân quyền, áp bức,
bóc lột người dân”, là “kẻ cầm quyền luồn cúi, khuất phục ngoại bang,
để mất đất, mất biển, mất đảo, lại đàn áp hung bạo người dân yêu nước
chống bọn xâm lấn bờ cõi nước ta”, v.v... Lúc này là thời điểm vô cùng
tế nhị, nếu Tổng bí thư và các ông đầu nậu ĐCS cứ u mê, ngoan cố, không
chiều theo ý dân thì không khéo nỗi bất bình của người dân sẽ là một tia
lửa nhỏ làm nổ bùng cả một loạt thùng thuốc súng kia.
Đấy, như chúng tôi đã nói trên, các ông trong BCT giăng bẫy “đám dân
đen”, bày trò lấy ý kiến dân sửa đổi hiến pháp thì hóa ra chính các ông
lại rơi vào bẫy. Các ông bị kẹt trong một gọng kìm khó thoát, một bên là
lòng dân, ý dân muốn thay đổi hiến pháp vì lợi ích của Dân tộc và Tổ
quốc, một bên là ý “Đảng ta” muốn giữ cái hiến pháp “như cũ” để bảo vệ
quyền lực và quyền lợi của các ông. Tình thế này của “Đảng ta” thật là
“thậm cấp chí nguy”!
Chỉ có một con đường duy nhất giúp “Đảng ta” thoát khỏi tình trạng “thậm
cấp chí nguy” này – như chúng tôi đã viết trong bài “Lan man chuyện
hiến pháp” – là ĐCS cần tổ chức một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do và trung
thực, có sự kiểm soát của quốc tế, cho nhân dân được tự do bầu cử, ứng
cử để bầu lên một quốc hội lập hiến, và quốc hội này sẽ dự thảo và thông
qua hiến pháp mới; hiến pháp mới sẽ được đưa ra trưng cầu dân ý một
cách thật tự do và đàng hoàng để toàn dân phúc quyết thì chắc chắn hiến
pháp đó sẽ là hiến pháp tốt nhất có thể tồn tại lâu dài với thời gian.
Để làm được việc này những người CS phải có một tấm lòng thật sự vì Dân,
vì Nước và một ý chí sắt đá muốn chuyển biến một cách nhẹ nhàng, không
gây chấn động chế độ độc tài toàn trị thành chế độ dân chủ đa nguyên.
Nếu những người CS không làm được việc đó thì nhất định nhân dân ta sẽ
làm được!
Điều vừa nói trên không có gì mới cả, nhiều tổ chức và một vài chiến sĩ
dân chủ trước đây cũng đã nêu ra rồi. Chẳng hạn như Khối 8406 hồi tháng
04 năm 2006 cũng đã đề ra “Tiến trình dân chủ hóa” trong đó cũng đã đề
cập đến việc lập Hội đồng soạn thảo hiến pháp mới, tổ chức bầu cử quốc
hội mới và quốc hội này sẽ thông qua hiến pháp mới, hiến pháp thật sự
dân chủ.
Mong sao Tổng bí thư và “Đảng ta” đủ sáng suốt chọn con đường vì Dân, vì
Nước, chứ không phải vì quyền lực và quyền lợi của mình! Nếu ĐCS không
chọn thì nhân dân ta sẽ chọn, lúc đó thì ĐCS chắc chắn sẽ bị gạt ra
ngoài lề lịch sử!
28.02.2013
Nguyễn Minh Cần
(Dân luận)
TS Nguyễn Quang A - Đảng yếu nên sợ hãi đa nguyên đa đảng?
Khát vọng dân chủ trong góp ý sửa đổi Hiến pháp như trăm hoa đua nở,
nhưng đã bị hai nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và Quốc hội khoanh vùng
diễn biến hòa bình chống Đảng và Nhà nước.
Hô hào và đe doạ
Ngày 27/2 làm việc với các nhà lãnh đạo TP. Hà Nội Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Sinh Hùng chỉ đạo về điều gọi là đấu tranh, ngăn chặn tuyệt đối
việc lợi dụng góp ý vào dự thảo để tuyên truyền, vận động người dân phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân; chống Đảng và Nhà nước. Báo Điện tử
Cộng sản và báo Hà Nội Mới cùng đưa tin này.
Ông Nguyễn Sinh Hùng đồng thời là Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp
1992, phát biểu của ông làm rõ thêm nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng hôm 25/2 tại Vĩnh Phúc khi phê phán những luồng ý kiến đa nguyên
đa đảng bầu cử tự do là suy thoái chính trị, tư tưởng đạo đức.
Tuy không đề cập trực tiếp tới Bản đại kiến nghị 7 nội dung do 72 nhân
sĩ trí thức ký tên ban đầu và cập nhật hơn 6 ngàn chữ ký điện tử, nay
quen gọi là Kiến nghị 72, nhưng mọi người đều hiểu rằng hai nhân vật
chóp bu của chế độ là ông Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Sinh Hùng muốn ám
chỉ những luồng ý kiến nào. Bản Kiến nghị 72 đã góp ý Việt Nam cần tổ
chức bầu cử tự do, chấp nhận đa nguyên đa đảng, đa sở hữu đất đai và
nhất là phi chính trị hóa quân đội.
Trả lời Nam Nguyên tối 28/2, TS Nguyễn Quang A người đầu tiên ký tên trong Kiến nghị 72 phát biểu:
“ Cả hai ông như thế đã bứt cái lá nho cuối cùng xuống. Người ta cũng
hiểu việc góp ý nói chung là rất ít kết quả và người ta góp ý là cố gắng
để cho chính các ông ấy và những người đương chức đương quyền cũng có
thể học thêm hiểu thêm điều gì đó, rồi người dân, giới trẻ học thêm hiểu
thêm thì có thể thay đổi được điều gì đó. Nhưng mà những lời đe dọa
kiểu như thế là ngược lại hoàn toàn với những lời hô hào của chính họ.
Phải nói thực là tôi không hiểu các ông ấy ăn nói theo kiểu gì nữa.”
Linh mục Lê Quốc Thăng, Tổng thư ký Ủy ban Công lý Hòa bình Hội đồng
Giám mục Việt Nam, là người ký tên thứ 57 trong Kiến nghị 72 với danh
nghĩa là một linh mục thuộc Giáo phận Saigon. Trả lời Nam Nguyên Linh
mục Lê Quốc Thăng nhận định:
“Những ý kiến của nhóm 72 nói chung hay của cá nhân mình khi ký tên tham
gia bản kiến nghị đó thì cũng chỉ làm với tất cả lương tâm của một
người công dân Việt Nam yêu nước thương nòi muốn đất nước này phát
triển, chứ hoàn toàn không nhằm mục đích lật đổ đảng Cộng sản lãnh đạo
hay lật đổ Chính quyền …v..v…
Tự thân khi đọc 7 kiến nghị đó thì chúng ta đều thấy rõ là không câu
nào, chữ nào lên án hay tìm mọi cách lôi kéo để lật đổ Chính quyền hay
Đảng Cộng sản hiện nay trong vai trò lãnh đạo của họ. Cho nên đó là ý
kiến riêng của ông Tổng Bí thư, của ông Chủ tịch Quốc hội, đối với tôi
thì tôi không quan tâm chuyện đó. Điều chúng tôi quan tâm, đây là cơ hội
để cho toàn thể dân tộc toàn thể đất nước thấy ra được những điểm cần
thiết để cho đất nước mình phát triển, để cho đất nước mình có khả năng
tự cường chống trả lại mưu đồ xâm lăng của những thế lực, những nước đen
tối khác, vì lương tâm của một người công dân bắt buộc
Nỗi sợ hãi của kẻ yếu
Tại buổi làm việc ngày 27/2 ở Hà Nội, ông Nguyễn Sinh Hùng đặc biệt nhấn
mạnh, Bản lấy ý kiến là bản của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp công bố, trên
cơ sở tiếp thu thảo luận của Quốc hội. Theo lời ông, đây là bản duy nhất
để góp ý, còn ai tự tổ chức lấy ý kiến khác là không được.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Hồ Uy Liêm, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp Hội Khoa
học Kỹ thuật Việt Nam, là một trong số 72 người ký tên đầu tiên vào Bản
Kiến nghị 7 nội dung góp ý sửa đổi hiến pháp, từ Hà Nội nói rằng phản
ứng của giới chức lãnh đạo Đảng và Quốc hội là điều có thể hiểu được
nhưng không phải là điều ông mong đợi, vì bản kiến nghị đó mang tinh
thần xây dựng và không hề đòi lật đổ ai cả. PGS.TS Hồ Uy Liêm nhấn mạnh:
“ Có sự mâu thuẫn một bên nói là không có vùng cấm, một bên lại phản ứng
khá là mạnh trong câu chuyện ấy…đã là góp ý kiến thì phải có rất nhiều ý
kiến khác nhau, không nên dựa vào một văn bản chuẩn bị sẵn. Nếu làm
theo văn bản ấy thì tình hình thay đổi không nhiều, thực chất nó vẫn như
cũ thôi.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi là với phạm vi cấm quá rõ rệt mà các nhà lãnh
đạo chóp bu vừa lên tiếng răn đe, vậy thì việc sửa đổi Hiến pháp lần này
cũng vẫn chỉ mang tính chất giai đoạn với các nội dung sửa đổi chỉ nhằm
củng cố vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam trong
giai đoạn mới? PGS.TS Hồ Uy Liêm nhận định:
“ Tôi nghĩ rằng, đòi hỏi tự do dân chủ là một đòi hỏi bức xúc của cả xã
hội. Thế nên kiểu gì rồi cũng phải có sự thay đổi, nếu mà thay đổi đến
nhanh thì đất nước được lợi, chứ còn thay đổi theo kiểu cứ chần chừ hoặc
là vừa mới có những ý kiến khác khác một tí mà phản ứng thế này thì
chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn. “
Cùng với câu hỏi là các nội dung sửa đổi trong dự thảo Hiến pháp được Ủy
ban soạn thảo đưa ra thực chất chỉ giúp cho Đảng Cộng sản tiếp tục vai
trò lãnh đạo độc tôn của mình. TS Nguyễn Quang A phân tích:
“ Bản dự thảo Hiến pháp được đưa ra lấy ý kiến thì có rất nhiều điểm cốt
lõi là tồi tệ hơn bản thân Hiến pháp hiện hành đang cần phải sửa đổi.
Một số qui định, thí dụ từ trước đến nay Hiến pháp Việt Nam chưa bao giờ
đặt vấn đề là quân đội trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam cả. Bây
giờ hợp hiến hóa việc ấy, tôi nghĩ rất là nguy hiểm, hoặc về đất đai hợp
hiến hóa việc gọi là Nhà nước có quyền thu hồi đất cho mục đích các dự
án kinh tế chẳng hạn, thì đấy lại là hợp hiến hóa một chuyện từ trước
đến nay chưa từng có và như thế còn tồi hơn bản Hiến pháp hiện hành.
Cái dân chủ mà người ta muốn nói vạn lần dân chủ hơn các dân chủ khác
thì tôi nghĩ sẽ đi ngược lại hoàn toàn. Và chính vì thế người dân phải
nêu chính kiến của mình. Tôi sẵn sàng đối thoại với bất kỳ ai về những
chuyện đó, tôi nghĩ rằng phải tranh luận với nhau chứ không phải là đe
dọa, không phải là dùng công an quân đội để đàn áp những người có chính
kiến như vậy trong một nền văn minh như thế này.”
Đáp câu hỏi phải chăng Đảng Cộng sản sợ hãi mất quyền lãnh đạo nên sợ
hãi đa nguyên chính trị không dám chấp nhận chế độ đa đảng. TS Nguyễn
Quang A nhận định:
“ Tôi nghĩ chỉ có thể có một lý giải, đó là người ta đang ở trong thế
rất yếu thì mới phải thế. Nếu người ta đang rất mạnh, rất đường hoàng,
có chính nghĩa, có đủ mọi thứ mà thuyết phục được người dân bằng kết
quả, được người dân chấp nhận bằng lá phiếu của mình một cách rất là
sòng phẳng, công khai minh bạch trong bầu phiếu thực sự tự do, thì đương
nhiên cái tổ chức tự cho mình là đỉnh cao, mạnh và được nhân dân ủng hộ
thì tại sao lại còn sợ cái gì. Tôi thực sự không thể hiểu được, chỉ có
thể suy ra là tại vì họ lo, rất lo. Tại sao phải lo, chỉ yếu mới phải lo
thôi.”
Khi phát động phong trào nhân dân góp ý sửa đổi Hiến pháp, ông Phan
Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội kiểm Trưởng ban biên tập
dự thảo sửa đổi Hiến pháp khẳng định trong cuộc họp báo ngày 29/12/2012
tại Hà Nội rằng: “không có điều gì cấm kỵ khi nhân dân góp ý sửa Hiến
pháp”. Chúng tôi đã truy cập lại bản tin VietnamNet đưa lên mạng cùng
ngày, ông Lý còn nhấn mạnh: “Ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân nên nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và sửa
đổi Hiến pháp.”
Thế nhưng chỉ chưa đầy 90 ngày mà sự thật được thể hiện hoàn toàn khác,
khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rồi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
nói ngược lại những gì ông Chủ tịch Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý đã
khẳng định.
Có những lập luận ác miệng còn cho rằng, ba tháng trước mở đường cho ý
kiến dân chủ trăm hoa đua nở, ba tháng sau bắt đầu xử lý đối phó những
đóa hoa nở sớm đó. Chẳng hạn như kỷ luật buộc thôi việc nhà báo Nguyễn
Đắc Kiên vừa qua.
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-03-01
Nguyễn Chí Đức - Thư góp ý cho bản Hiến Pháp 1992 theo tinh thần Dân Tộc Chủ Nghĩa
Kính gửi: Các cấp lãnh đạo xxx
Đồng kính gửi: Các cấp lãnh đạo xxx
Tôi tên là: Nguyễn Chí Đức
Nhân viên: xxx
Nơi làm việc: xxx
Theo công văn số 593/VNPT-VP của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
và công văn của đơn vị ta về việc “lấy ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến
Pháp 1992” đối với các cán bộ công nhân viên, tôi hồ hởi viết những dòng
tâm huyết này xin đi thẳng vào vài vấn đề chính. Những điều viết dưới
đây là những suy nghĩ của tôi bấy lâu nay, nếu có gì phật ý lãnh đạo
cũng như trái với đường lối chủ trương hiện nay của Đảng cầm quyền tức
là Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) xin xem đó là chuyện rất bình thường
đối với vấn đề tự do tư tưởng:
I – GÓP Ý CHO BẢN HIẾN PHÁP 1992
1) Về lời nói đầu:
Theo đánh giá của tôi qua tìm hiểu các tài liệu và tham khảo một số bài
viết của các nhân sỹ-trí thức là quá đề cao ĐCSVN và cố chủ tịch Hồ Chí
Minh, đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Trong khuôn khổ bài viết này,
tôi không thể trích đăng, liệt kê ra những lời nói đầu súc tích, cô đọng
Hiến Pháp của các nước trên thế giới cũng như bản Hiến Pháp 1946 là bản
Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Hơn nữa, trong khi lịch sử 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt còn có
biết bao công lao của các tiền nhân. Nếu đề tên Hồ Chí Minh vào lời nói
đầu thì bắt buộc phải liệt kê đủ danh sách các anh hùng dân tộc, các
danh nhân trong quá khứ, đặc biệt phải liệt kê cả các vua Hùng đã có
công dựng nước vào trong bản Hiến Pháp. Vậy thì bản Hiến Pháp có khác gì
việc tóm tắt biên niên sử của dân tộc Việt Nam?
Nhìn ra thế giới, hiện nay còn những nước nào ghi chủ nghĩa Mác-Lê Nin
vào Hiến Pháp của nước họ ko? Ngay tại chính quốc của những nước xuất
khẩu, khai sinh chủ nghĩa Mác-Lênin như Đức, Nga họ có còn ưa chuộng và
cổ súy chủ nghĩa Cộng Sản nữa hay không hay phải suy nghĩ ngược ngược
lại?
Vậy tôi đề nghị không nhắc đến Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-Lê nin vào
lời nói đầu. Từ đề nghị này hiển nhiên cũng không được phép nhắc đến
ĐCSVN vào lời nói đầu.
2) Điều 11:
Chuyển Điều 11 đưa lên trở thành điều đầu tiên của bản Hiến Pháp mới.
Theo quan điểm của tôi “đảng phái chỉ là nhất thời, dân tộc mới là vạn
đại”, các tổ chức chính trị, các chính khách dù hoạt động với mục đích
gì, chủ trương ra sao tối hậu cũng phải vì quyền lợi Quốc Gia.
3) Điều 4:
Theo các nhà khoa học trong vũ trụ (quan sát được) có hơn 80 tỷ thiên hà
với ước tính một nghìn tỷ tỷ ngôi sao. Hệ mặt trời và trái đất nơi có
loài người sinh sống chỉ là sự hiện diện cực kì bé nhỏ trong vũ trụ.
Trên trái đất có biết bao chủng loài thực vật, động vật. Bản thân loài
người là một động vật cao cấp cũng đa dạng về sắc tộc, tiếng nói, chữ
viết, nền văn hóa, tín ngưỡng-tôn giáo và ngay cả cùng một sắc tộc cũng
có sự khác biệt về cách sống, suy nghĩ tùy hoàn cảnh, địa lý thậm chí
trong cùng một gia đình thì anh-em cũng đã khác biệt rồi chứ đừng nói
đến xã hội. Giải thích điều này tôi muốn nói vấn đề đa nguyên, đa dạng
là vấn đề tự nhiên và không ai có thể ngụy biện cho mục đích độc tôn,
nhất nguyên luận.
Vì con người sống và trao đổi-giao lưu, tạo ra chiến tranh-hòa bình… nên
xã hội loài người từ đó mới nảy sinh các chủ thuyết chính trị, tôn giáo
rất đa dạng. Những người sáng lập các chủ thuyết ở thời điểm họ sống
đều cao vọng về việc cải tạo xã hội, cải tạo con người hướng thượng,
phát triển theo hướng văn minh hơn, sống yêu thương với nhau.
Việc ưu ái chỉ duy nhất một chủ thuyết chính trị, một chính đảng nào đó
bất luận với mục đích nào vào bản Hiến Pháp là trái với quy luật xã hội
đang diễn ra trên thế giới nói chung và thực tế tình hình chính trị tại
Việt Nam và đương nhiên trái với qui luật tự nhiên mà tôi đã sơ lược
trình bày ở trên.
(Không thể lấy ý chí của 4 triệu người để áp đặt ý chí chung của 86
triệu người còn lại nếu không có sự đồng thuận và trưng cầu dân ý bằng
bỏ phiếu trên toàn lãnh thổ Việt Nam)
Vậy tôi đề nghị:
Điều 4 nói riêng và tất cả các điều khác nói chung không được ưu ái, ám
chỉ cho riêng ĐCSVN. Còn công lao (và cả sai lầm) của Đảng này với dân
tộc Việt Nam thì đã đang và sẽ được ghi vào lịch sử nước nhà. Ngoài ra
đã có những viện bảo tàng, tượng đài-nghĩa trang, văn học dân gian
truyền miệng ghi công đức của các anh hùng, liệt sỹ tham gia kháng chiến
kiến quốc qua các thời kỳ dù theo Cộng Sản hay phi Cộng Sản.
Còn nếu những người nắm quyền lực quyết tâm giữ nguyên điều 4 thì tôi đề nghị phải sửa mục số 2&3:
Gốc: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân…”
Sửa: “Các đảng phái, phong trào chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân…”
Gốc: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiếp Pháp”
Sửa: “Các đảng phái, tổ chức, phong trào chính trị hoạt động trong khuôn khổ Hiến Pháp”
4) Điều 9, 10
Nên gom tất cả các điều này cùng với Điều 4 vào làm một mối về việc qui
định chung cho các tổ chức chính trị, nghiệp đoàn, các hoạt động xã hội,
dân sự nói chung.
5) Điều 13:
Tên nước: CỘNG HÒA VIỆT NAM
Trong thực tế sau 1946, ở miền Bắc tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Còn miền Nam từ 1955-1975 là Việt Nam Cộng Hòa, bên cạnh đó còn một
lực lượng thân Cộng Sản xưng danh là Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Sau
khi đất nước thống nhất thì tên nước được đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam.
Tên nước dù có đổi đi, đổi lại vẫn dính đến 2 từ “Cộng Hòa” và nước Việt
Nam. Vậy tôi đề nghị đổi tên nước là “Cộng Hòa Việt Nam” còn nếu để tên
cũ vừa dài, vừa không đúng với thực tế của xã hội mà vừa không được
lòng dân cũng như trong giao thiệp quốc tế.
Bản thân chúng ta kể cả người đảng viên của ĐCSVN cũng không thoải mái
với 2 từ “Cộng Sản”. Ví dụ : nếu ai đó là đảng viên của ĐCSVN thì họ tự
hào là Đảng Ta chứ có ai dám nói, vinh dự là người Cộng Sản đâu? Chính
quyền hiện nay là chính quyền Cộng Sản đâu?
Trong khi rõ ràng trên danh nghĩa chúng ta đang phấn đấu tiến tới thiên
đàng theo chủ thuyết Cộng Sản. Nhưng lý thuyết này còn xa xôi, mơ hồ,
mông lung làm sao!
Quốc Ca: bỏ bài hát Tiến Quân Ca
Lời bài hát này rất sắt máu, man rợ không phù hợp với hoàn cảnh xã hội
hiện nay và xu thế hợp tác, toàn cầu hóa trên toàn thế giới. Hơn nữa,
nói một cách thành thực bài hát này giai điệu không hay và hợp lý như
bài “Việt Nam, Việt Nam” của cố nhạc sỹ Phạm Duy huặc bài Quốc Ca của
nước Việt Nam Cộng Hòa (đã mất).
Bài Quốc Ca phải thể hiện tinh thần nhân bản, xây dựng đất nước, nêu bật
tinh thần bất khuất, quật cường của dân tộc ta trong việc chống giặc
ngoại xâm cũng như đề cao tình yêu đồng bào, hòa hiếu, quê hương Việt
Nam.
3) Điều 70:
Gốc: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân…”
Sửa: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”
Thực ra còn nhiều nội dung tôi muốn trình bày nhưng vượt quá chuyên môn
sâu của tôi về những lĩnh vực đang gây ra bất cập trong xã hội, khiếu
kiện, bất công như đất đai, tôn giáo, nông dân, tài chính, tòa án… nên
tôi e rằng sẽ khiếm khuyết nếu cứ muốn trình bày dài lê thê. Hơn nữa
thời hạn nộp bản góp ý trên danh nghĩa đã hết hạn vì lý do chậm trễ nào
đó mà tôi không rõ lý do nên tôi không thể suy nghĩ cho thấu đáo các vấn
đề khác ngay lập tức.
II – GÓP Ý CHUNG CUỘC:
Thực chất đây không phải là góp ý của tôi đối với bản Hiến Pháp 1992 mà
là tôi góp ý cho ĐCSVN. Thực tế đa số đại biểu Quốc Hội nước CHXHCNVN
cũng là đảng viên của ĐCSVN. Tôi đã từng là đảng viên của Đảng này nên
tôi hiểu chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng là tuyệt đối, là nhất
quán trên mọi phương diện, gạt bỏ mọi thao thức từ trái tim mình.
Hiện nay, ĐCSVN là đảng đang cầm quyền cho nên mọi vấn đề tồn vong của
dân tộc phụ thuộc chủ yếu vào Đảng này. Trong quá khứ, ĐCSVN có những
công lao trong công cuộc giải phóng dân tộc, đưa vị thế Việt Nam có tên
trang trọng trên bản đồ thế giới sau gần một thế kỷ bị ngoai bang đô hộ,
can dự tính đến 1975. Điều này tuy còn có nhiều ý kiến tranh luận nhưng
cá nhân tôi phản đối quyệt liệt nếu ai có ý định lợi dụng “đục nước thả
câu” làm chia rẽ, ly khai dân tộc chứ không phải vấn đề học thuật, lịch
sử. Nhưng rõ ràng tôi nhận thấy đến thời điểm này chủ thuyết Cộng Sản
đã lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Những tiến bộ, thành
công trong kinh tế, quản lý xã hội hiện nay ở Việt Nam chẳng có liên
quan gì đến Chủ nghĩa xã hội, chủ thuyết Cộng Sản cả.
Vậy hà cớ gì chúng ta còn khăng khăng bám vào để làm gì? Nói dối nhau và làm khổ nhau ra?
Vậy nên chăng ĐCSVN nên đổi tên trở lại Đảng Lao Động Việt Nam như giai
đoạn 1951 cho đỡ bị dự ứng đối với nhân dân trong nước và trong giao
thiệp quốc tế?
Mặt khác trên cơ sở Đảng Lao Động này, cũng với những tinh hoa, anh tài
đang có sẵn thì soạn ra một cương lĩnh, chủ thuyết hài hòa giữa dân tộc,
thời đại với những chế tài chống chuyên quyền, độc đoán nhằm đưa người
tài lên làm lãnh đạo ngay trong chính nội bộ đảng mình. Nếu Đảng Lao
Động thành thực có tinh thần Quốc Gia, yêu nước tôi tin rằng họ sẽ không
gây cản trở, chèn ép đối với những nhóm/tổ chức/đảng có chủ trương vì
dân nghèo, chống áp bức bất công ra đời.
(Dĩ nhiên lộ trình và quá trình mở rộng chính trị, tự do báo chí, tôn
giáo, lập đảng phải bàn thảo và chung tay của nhiều giai tầng trong xã
hội trên tinh thần hòa hợp, tôn trọng, cảm thông lẫn nhau.)
Chia sẻ chút quyền lợi khiêm tốn của mình đối với những tổ chức chính
trị khác trong thời đại mới có nghĩa là ĐCSVN đã lập một đại công mở ra
một trang sử, bước ngoặt mới cho dân tộc. Còn nếu ĐCSVN bằng mọi giá vẫn
chủ trương chuyên chính, kiểm soát tất cả xã hội bằng công cụ truyền
thông, công an-bộ đội và các nguồn lợi của đất nước thì dĩ nhiên Đảng
này vẫn cầm quyền tuyệt đối nhưng làm chậm sự phát triển của xã hội,
băng hoại nhiều giá trị văn hóa-truyền thống của dân tộc đặc biệt làm
kiệt quệ sức mạnh dân tộc để có thể tự vệ trước kẻ thù truyền kiếp là
Trung Quốc đã đang lăm le thôn tính trên nhiều mặt như kinh tế, văn hóa,
biển đảo.
Xin chân thành cảm ơn các quí lãnh đạo các cấp đã nhận và đọc bản góp ý này của tôi!
Hà nội, ngày 1/3/2013
Người viết thư góp ý
(đã ký tên và gửi đi đến nơi có thẩm quyền)
Nguyễn Chí Đức
(Blog Nguyễn Chí Đức)
Đường dây tuồn vật tư ra ngoài tại công trình cầu Nhật Tân
Mỗi ngày có hàng chục chuyến tàu
thuyền ngang nhiên “ăn hàng” trên sông Hồng. Hàng nghìn tấn sắt thép,
hàng nghìn tấn xi măng vật tư bị ăn cắp. Hai đầu cầu (Đông Anh và Tây
Hồ) đã hình thành phố “đại lý” vật liệu, vật tư xây dựng hoạt động náo
nhiệt ngày đêm. Tất cả đều có bàn tay ”đạo diễn” từ các sếp, kỹ sư nhà
thầu thi công cầu Nhật Tân khiến chất lượng của “biểu tượng hữu nghị Việt – Nhật’ bị đe dọa nghiêm
trọng. Tuy nhiên, mới chỉ có vài con cá con bị đưa ra ánh sáng. Đại lý
lớn nhất thuộc về con nuôi Quang “đầu to” (Chủ tịch quận Tây Hồ) vẫn rất
an toàn, dù mới đây đã có vài chú tép riu bị tóm. Quan chức cấp cao thì
hoặc có phần chia hoặc vô trách nhiệm nên cứ làm ngơ.
Phần nổi của tảng băng chìm
Ngày 20-2, Công an Hà Nội khởi tố Đỗ
Thanh Phúc (SN 1985, quê Hưng Yên) và Phạm Văn Huy ( SN 1984, quê Thái
Bình) về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hai người này
đều là kỹ sư gói thầu số 1 dự án cầu Nhật Tân – gói thầu do Cty TNHH Xây
dựng Sumitomo – Mitsui thực hiện.
Trước đó, CQĐT đã khởi tố bị can 3 người
khác là kỹ sư, lái xe thuộc Cty TNHH Xây dựng Sumitomo – Mitsui về hành
vi trên, gồm: Đoàn Quang Hưng, quê Hải Dương; Nguyễn Huy Bình, quê Thái
Bình và Đặng Huy Định, quê Nam Định.
Lợi dụng việc được Cty Sumitomo – Mitsui
giao đi nhận cọc ván thép đang tập kết tại nút giao thông Trung Hòa, là
tài sản phục vụ thi
công gói thầu số 2 dự án đường vành đai 3 Hà Nội (một gói thầu khác của
Cty Sumitomo – Mitsui), Bình, Định, Hưng đã đem bán “đồng nát” 43 cọc
thép lấy hơn 180 triệu đồng chia nhau.
Điều tra mở rộng, CQĐT tiếp tục làm rõ
sự liên quan của 2 kỹ sư thuộc gói thầu số 1 dự án cầu Nhật Tân. Theo
đó, Phúc và Huy đã báo cáo thiếu 5 cọc ván thép, tạo điều kiện cho Bình
đem bán lấy tiền chia nhau.
(Cầu Nhật tân)
Hội đồng Giám mục Việt nam - Nhận định và góp ý Hiến pháp 1992
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM - NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
WHĐ
(01.03.2013) – Sáng nay, 01-03-2013, linh mục Giuse Dương Hữu Tình, Thư
ký Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), đã đến và trao Thư góp ý của
Ban Thường vụ HĐGMVN cho Thường trực Ban biên tập - Ủy ban Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992, tại số 37 Hùng Vương, quận Ba Đình, Thành phố Hà
Nội.
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn Thư góp ý của Ban Thường vụ HĐGMVN:
GS. Thái Vĩnh Thắng - Sự ra đời Hội đồng Bầu cử Quốc gia là cần thiết?
Thời gian qua, có không ít người trúng cử đại biểu Quốc hội, HĐND nhưng
có hành vi, lời nói không trung thực, không đúng mực nên đã bị bãi miễn,
bãi nhiệm. Vậy phải chăng, việc tổ chức bầu cử và kiểm tra tư cách đại
biểu trúng cử còn nhiều khiếm khuyết?
Nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã bổ
sung thiết chế Hội đồng Bầu cử Quốc gia (Điều 121). Đây sẽ là một trong
ba thiết chế mới của Hiến pháp mới. Theo đó, Hội đồng Bầu cử Quốc gia do
Quốc hội thành lập; tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng
dẫn công tác bầu cử HĐND các cấp.
Theo Giáo sư – Tiến sĩ Thái Vĩnh Thắng, Chủ nhiệm Khoa Hành chính – Nhà
nước Trường Đại học Luật Hà Nội: Sự ra đời của Hội đồng Bầu cử Quốc gia
là cần thiết và phù hợp với nhu cầu hiện nay. Để đảm bảo tính khách quan
trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các
cấp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia phải là thiết chế độc lập; tức là, đã là
thành viên của Hội đồng Bầu cử Quốc gia, người đó không được giữ chức vụ
khác trong Bộ máy nhà nước.
“Ở một số nước Đông Nam Á, thành viên Hội đồng Bầu cử Quốc gia chủ yếu
được lấy từ Liên đoàn Luật sư, đại diện của các tổ chức xã hội, những
người có uy tín, có năng lực, đã về hưu như: Chủ tịch Quốc hội, Chánh án
Tòa án Tối cao, … Nhiều nước coi Hội đồng Bầu cử Quốc gia là cơ quan
quan trọng trong Bộ máy nhà nước, đảm bảo cho các cuộc bầu cử đúng Hiến
pháp và pháp luật. Ngoài vai trò quan trọng trong các cuộc bầu cử, Hội
đồng Bầu cử Quốc gia còn nghiên cứu về chế độ bầu cử, chính sách bầu cử,
duy trì mối quan hệ giữa cử tri và đại biểu trúng cử. Khi cử tri có ý
kiến về đại biểu nào đó, Hội đồng Bầu cử Quốc gia sẽ xác minh và có
quyền bãi miễn nếu đại biểu đó không xứng đáng.”.
Cũng theo Giáo sư – Tiến sĩ Thái Vĩnh Thắng, với chế định độc lập, Hội
đồng Bầu cử Quốc gia là cơ quan quyết định tối cao trong việc chống gian
lận bầu cử, dễ dàng và khách quan trong việc xem xét lại kết quả bầu
cử. Để đảm bảo “chất lượng” của đại biểu, khi ứng cử các ứng cử viên
phải có “chương trình vận động bầu cử” là nếu trúng cử sẽ làm gì. Hội
đồng Bầu cử Quốc gia và cử tri sẽ thực hiện việc giám sát đại biểu trúng
cử trên cơ sở “chương trình vận động bầu cử” của đại biểu đó, từ đó
khắc phục được tình trạng đại biểu trúng cử nhưng “không biết làm gì”.
Hiện nay, sự lựa chọn của người dân chưa cao khi thực hiện quyền bầu cử,
mặc dù Mặt trận Tổ quốc có hiệp thương nhưng Mặt trận không giám sát
bằng người dân được. Ví dụ, một đơn vị bầu cử được bầu 3 đại biểu nhưng
chỉ đưa ra 5 ứng cử viên, tức là người dân chỉ được quyền chọn 40%; còn
nếu đưa ra 4 ứng cử viên để lấy 3 đại biểu thì người dân chỉ được chọn
25%.
Để người dân thực sự lựa chọn, cần phải tăng tỷ lệ ứng cử viên/đại biểu
được bầu. Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên, Hà Nội có hơn 60 ứng cử
viên nhưng chỉ bầu có 6 đại biểu nên các đại biểu thực sự là “tinh túy”,
chất lượng.
“Với sự ra đời của Hội đồng Bầu cử Quốc gia cùng sự thay đổi của Luật
Bầu cử, chất lượng đại biểu sẽ nâng lên, tình trạng đại biểu không đạt
tiêu chuẩn sẽ được cải thiện.”, Giáo sư – Tiến sĩ Thái Vĩnh Thắng đánh
giá.
Kiên Trung (Infonet)
NS. Tô Hải - Báo động! Báo động!
Kể từ ngày Đảng trưởng nổ phát súng lệnh xử lý những ai góp ý mà lại
trái với những gì đảng của họ muốn góp, nghĩa là vi phạm vào những “tử
huyệt” của đảng họ thì đồng đảng phải lập tức nổ súng tấn công vào
bất cứ ai.Một vài thằng trẻ con nhãi nhép, vô học lưu manh bỗng được
mỗi tháng vài chục triệu theo lương giáo sư, tiến sỹ, đại tá, trung,
thiếu tướng... vênh váo chửi các bậc tiền bối chúng là đồ “phản động,
cần phải xử lý cả đến đời con, cháu” họ! Nguyễn sinh Hùng còn hỗn láo
tuyên bố thẳng với nhóm 72 nhân sỹ trí thức: ”Đã lợi dụng góp ý kiến
để chống phá đảng (của nó): Góp ý sai với yêu cầu của bọn nó muốn là
“tô son trát phấn cho cái đảng “thối hoăng, lúc nhúc những sâu bọ
thoái hóa”...là phạm pháp!?Và như một đàn thú dữ được chủ mở cửa
chuồng, các loại hùm, beo, hổ sói nhao nhao lên tiếng gầm gừ như muốn
xé xác tất cả những ai quyết phen này nói lên SỰ THẬT: Cái đảng mà các
anh khoác lên tấm bia “Cộng Sản” đầy tội lỗi mà cả thế giới nguyền rủa
đã bị các anh mang ra đánh đĩ với thiên hạ nên mắc đủ thứ bệnh tim la
cù đinh thiên pháo HIV giai đoạn cuối rồi! Hãy lo mà cuốn gói mang
theo những gì kiếm chác được ở cái đất Việt này về Tầu cho sớm
đi!Nhưng vì…chưa có lệnh, bọn dốt nát nhất, hèn hạ nhất, tham lam và
ác độc nhất trong các triều đại của lịch sử Viêt vẫn không chịu thua.
Chúng đang vênh váo vỗ ngực hô lớn:ĐẢNG CHÚNG TAO CÔNG LAO NHƯ TRỜI
BỂ ĐÃ ĐẺ RA CÁI NƯỚC VIỆT NAM NÀY NÊN TAO PHẢI CẦM QUYỀN–QUÂN ĐỘI
–CÔNG AN CŨNG DO CHÚNG TAO THÀNH LẬP NÊN. TUÂN LỆNH BẮN AI, GIẾT AI,
ĐẦU HÀNG AI... ĐỀU PHẢI THEO LỆNH CỦA CHÚNG TAO LÀ ĐIỀU TẤT NHIÊN CẤM
BÀN CÃI!Kẻ nào nói ngược lại hay khác đi đều là …phản động tuốt! Bất cứ
ai, dù là bậc cha ông, tiền bối chúng, đều có thể là mục tiêu cho bọn
chúng nhai sống nuốt tươi khi có lệnh!
Đã đến lúc:ĐỒNG BÀO HÃY ĐỨNG LÊN! AI CÓ GẬY DÙNG GẬY! AI CÓ DAO DÙNG
DAO! CÓ GẠCH ĐÁ DÙNG GẠCH ĐÁ CHỐNG LẠI KHI BỌN CHÚNG RA TAY KHỦNG BỐ
ĐỒNG BÀO!
Hãy đọc vài lời chúng tuyên bố sau phát súng lệnh ra tay xử lý của Đầu
Đảng NGUYỄN TRỌNG GIẦU tức PHÚ TRỌNG! (chứ chúng đâu có trọng Nghèo!)
TRÍCH NHỮNG LỜI DỌA NẠT CÔNG KHAI TRÊN MẠNG CỦA BỌN CHÓ ĐIÊN
Đảng cảnh cáo việc góp ý Hiến pháp (BBC, thứ tư, 27 tháng 2, 2013). – Video (từ phút thứ 8): Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng cảnh cáo việc “lợi dụng” việc lấy ý kiến sửa đổi hiến pháp. “Lợi dụng việc lấy ý kiến góp ý hiến pháp để tuyên truyền, vận động nhân dân chống lại đảng, chống lại chính quyền… phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn. Thứ hai, pháp luật quy định, nghị quyết quốc hội quy định, bản lấy ý kiến là bản của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp công bố, trên cơ sở tiếp thu ý kiến thảo luận của QH, thực ra là chúng ta cũng đã trình bày trong các cơ quan của Trung ương, của đảng, đã được QH nhất trí, tổ chức lấy ý kiến, thì đó là cái bản duy nhất. Tự tổ chức lấy ý kiến khác của anh là không được. Đó là cách làm không đúng quy định, tôi chưa nói là vi phạm pháp luật-!!??
“Đảng và chính quyền đã có cở sở tiêu diệt và đánh dập đầu mấy con “rắn chiêu hồi” như tên Nguyễn Đình Lộc, Nguyễn Quang A, Chu Hảo, Tương Lai, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Trung v.v….Những con “rắn chiêu hồi” vì kèn cựa, bất mãn, trâu buột ghét trâu ăn, khi giao việc cho thì làm như cứt, khi mất chức thì phản bội chiêu hồi...Bọn “ăn cháo đái bát” phải bị trừng trị nghiêm khắc để làm gương:- Cấm không cho xuất ngoại.- Tìm chứng cứ, thậm chí là tạo chứng cứ để bắt, đưa vào tù.- Không cho con cái lũ chó này ngóc đầu dậy.- Cắt các mối quan hệ thu nhập.- Làm cho chúng lúc nào cũng căng thẳng mệt mỏi.- Cắt các mối liên hệ với bên ngoài.Để khi chúng hối hận thì cho quay về với lương thiện, với tư cách một người dân bình thương…”
Những cái tên như Nguyễn đình Lộc, Chu Hảo, Tương Lai, Nguyễn quang A,
Nguyễn Trung… mà chúng còn đe dọa “đánh dập đầu”, ”không cho con cái
lũ chó này ngóc đầu dậy” thì thấy càng rõ: Cái thời điểm mà bọn chủ
chúng nuôi để đem ra xử dụng lũ chó sói mặt người này đã bắt đầu.
Hãy kịp thời phổ biến tất cả những lời đe dọa này cho toàn thế giới biết và yêu cầu góp sức ngăn chặn!!!
ĐỒNG BÀO HÃY CẢNH GIÁC!!!
NS. Tô Hải
(FB NS. To Hai)
Từ Kiến nghị 72 đến Lời Tuyên bố Công dân Tự do
Nguồn tin AP được Washington Post dẫn lại hôm thứ Sáu nói rằng ý định
của đảng Cộng sản Việt Nam là muốn đánh bóng tính hợp pháp đang tuột dốc
của mình bằng cách yêu cầu quần chúng gợi ý sửa đổi Hiến pháp, nhưng
điều mà họ nhận được là ba chuyện, một là những lời phê phán hiếm thấy
về chế độ độc đảng, hai là một nhà báo mất việc trở thành một nhân vật
được quần chúng yêu mến, và ba là một bài học về sức mạnh của Internet.
Làn sóng phê phán đã buộc lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đứng về thế
thủ trước sức ép của quần chúng bất mãn trước nạn tham nhũng ở cấp
thượng tầng và kinh tế lu mờ.
Góp ý đầu tiên về sửa đổi Hiến pháp là của 72 nhà trí thức, còn được gọi là Kiến nghị 72.
Ông Lê Hiếu Đằng, một trong 72 người ký Kiến nghị nói rằng nhiều người
Việt Nam đã hy sinh để xây dựng chế độ hiện nay, do đó đi ngược lại các
quyền của người dân là điều không thể chấp nhận sau khi máu đã đổ ra.
Tầm ảnh hưởng lan rộng của Kiến nghị 72 đã buộc lãnh đạo đảng Cộng sản phải phản ứng, trong đó có Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Phát biểu đôi lúc gằn giọng và trịch thượng của ông Trọng trong buổi lên
lớp tỉnh Phú Thọ đã gặp phản ứng của nhiều người, trong đó có giáo sư
Tương Lai, và Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang.
Thế nhưng, phản ứng nổi cộm nhất là của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên của tờ
Gia đình và Xã hội, và trong vòng 24 tiếng, nhà báo đã bị đuổi việc.
Sau “Vài lời…” của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng tiếp sức cho đồng chí tổng bí thư của ông.
Câu chuyện chưa dừng ở đây. Cộng đồng mạng nhao nhao lên tiếng ủng hộ
nhà báo Nguyễn Đắc Kiên bằng cách tung ra trên mạng “Lời Tuyên bố Công
dân Tự do,” với hy vọng lời tuyên bố này trở thành “sợi dây bền vững
kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt Nam.”
Tính đến 1 giờ sáng ngày 2 tháng 3, tuyên bố này đã nhận được 1.200
người tham gia ký tên; trong đó có những khuôn mặt quen thuộc như Nguyễn
Hoàng Vi, Phạm Thanh Nghiên, Mẹ Nấm, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Đan Quế, Đinh
Hữu Thoại, Bùi Chát… kể cả Huy Đức của “Bên Thắng Cuộc.”
Jonathan D. London, chuyên viên về Việt Nam tại trường đại học Hồng Kông nói:
“Lãnh đạo đảng đã mất quyền kiểm soát trong cuộc tranh luận. Dù muốn hay
không, Việt Nam đang có tranh luận về Hiến pháp, thậm chí các đảng viên
lão thành cũng nhập cuộc. Muốn đậy nắp lại vào thời điểm này không phải
là chuyện dễ.”
(VOA).
Nguyễn Đắc Kiên hãy ngẫm lại lời mình nói!
Về nội dung bài viết: “vài lời gửi đến Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng”,
của anh mấy ngày qua trên các diễn đàn, blog đều có đăng nham nhảm và
tên tuổi của anh cũng theo đó mà nổi lên như cồn. Ở đây, Tôi đứng trên
cương vị một người từng làm báo gửi đến anh một vài suy nghĩ thế này.
Người Việt Nam ta thường có câu: “con chó trước khi nằm còn phải cuốn ổ
và ngửi chỗ ba lần, con người trước khi nói phải suy nghĩ và uốn lưỡi ba
lần rồi mới nói”. Câu nói này tuy có phần thô tục nhưng ngẫm lại đó là
một câu nói sâu cay mà ông cha ta đã đúc kết được từ thực tiễn cuộc
sống.
Đọc câu nói trên tôi liền suy nghĩ đến vụ “nhà báo” Nguyễn Đắc Kiên,
không biết anh sinh ra và lớn lên ở đâu? sống và học tập trong môi
trường giáo dục nào? mục đích anh theo đuổi cái sự học và công việc đó
để làm gì? Anh là “nhà báo”, à quên anh đã từng là nhà báo thôi còn giờ
thì không anh đã không còn đủ tư cách là nhà báo nữa! là người có trình
độ học vấn cao? nhưng theo tôi có lẽ sự am hiểu về lịch sử Việt Nam của
anh còn quá ít ỏi, nên mới viết ra những lời lẽ vừa qua. Sinh thời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói một câu rất hay như thế này: “Dân ta phải biết
sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thiết nghĩ anh cũng nên
đọc lại kiến thức lịch sử Việt Nam và suy ngẫm về những phát ngôn “gây
tiếng vang” của mình? Thì sẽ hiểu được lý do vì sao Việt Nam lại chọn
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất. Anh cũng chỉ là một thanh niên
có suy nghĩ và bản lĩnh chính trị kém xa các bậc tiền bối đã cống hiến
cả đời mình cho Đảng, cho đất nước này. Đối với họ hành động của anh như
“ăn cháo đá bát” vậy. Hãy thử nhìn sang các nước khác với chế độ đa
đảng liệu người dân có được cuộc sống yên bình, xã hội ổn định như Việt
Nam hay không? hay họ lại nơm nớp lo sợ mỗi khi ra đường?
Nguyễn Đắc Kiên - Hãy ngẫm lại lời mình nói! |
Về việc anh nói đến phi chính trị quân đội, đây là bằng chứng cho thấy
rằng anh quá ngây thơ và không hiểu biết chính trị. Anh đã bị “nhồi não”
thông tin tuyên truyền của phương Tây rồi. Cho thấy anh không hiểu bản
chất của vấn đề. Xin nhớ rằng trên thế giới không có một quốc gia nào có
quân đội phi chính trị cả!
Bản chất của quân đội là sức mạnh, là quyền lực, mà đã là quyền lực thì
có chính trị! Trên thế giới có biết bao cuộc đảo chính do quân đội thực
hiện! Trong bất kỳ quân đội của nước nào cũng đều có các bộ phận tình
báo, gián điệp, được các đảng phái kiểm soát chặt chẽ, vậy phi chính trị
ở đâu? Anh đang mơ sao?
Là người làm báo lâu năm trong nghề ắt hẳn anh hiểu rất rõ đặc thù của
báo chí nước ta. Thực chất, bài viết của anh trên blog cũng như rất
nhiều những bài viết khác của tất cả các công dân mạng “đến và đi” trên
các trang mạng internet. Mọi chuyện sẽ không có gì to tát nếu phần tác
giả bài viết chỉ độc cái tên “Nguyễn Đắc Kiên”. Đằng này ngay phía dưới
bài viết lại đăng trình ình dòng chữ “theo ý kiến cá nhân của Nguyễn Đắc
Kiên – nhà báo, Báo Gia đình và Xã hội”.
Vấn đề mấu chốt là ở đây, anh đăng bài trên blog với danh nghĩa cá nhân,
không phải viết bài cho tòa soạn, hà cớ gì lại đính kèm chữ “Báo Gia
đình và Xã hội”. Nếu chịu khó bình tĩnh suy ngẫm lại, anh sẽ thấy được
những rắc rối mình đã gây cho đồng nghiệp và tờ báo nơi anh đang làm
việc. Vậy mà, anh chẳng những không nghĩ mà còn quả quyết như đinh đóng
cột trên BBC rằng: “Tôi hoàn toàn nhận thức được hệ quả của bài viết
trên, nhưng việc này hoàn toàn do mệnh lệnh đạo đức của tôi”. Vậy hóa ra
bấy lâu nay, khoác trên mình chiếc áo ký giả, gắn trên mình trọng trách
cao cả làm công việc định hướng dư luận, anh lại luôn tâm niệm “mệnh
lệnh đạo đức” là sẵn sàng vì cá nhân mà bắt đồng nghiệp và cơ quan nơi
mình làm việc phải gánh chịu hậu quả do mình gây ra sao?
Cảm tính ai cũng có, nhưng một người làm báo, có học thức, có địa vị xã
hội khi đưa bất cứ thông tin nào lên truyền thông đại chúng cần phải cân
nhắc kỹ càng, để định hướng dư luận chứ không phải làm rối loạn xã hội
để các thế lực phản động vịn cớ “thừa nước đục thả câu” gây hoang mang
trong quần chúng nhân dân. Dù hành động của anh là vô tình hay cố ý thì
đó cũng là một sai lầm đối với một người làm báo.
Bạn đọc Phú Vinh
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả)
(Website Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng )
Hà Sĩ Phu - Vì sao tôi ủng hộ các bạn?
(Tâm tình gửi những người soạn thảo “Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do”)
Trong năng lực ít ỏi của mình, tôi luôn quan tâm và ủng hộ tất cả
những ai cố gắng giúp vào sự tiến bộ xã hội, bằng cách này hay cách
khác. Lần này, khi thấy các bạn thông báo “Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do” tôi đã quyết định ký tên ủng hộ rất sớm, và có những tâm tư muốn chia sẻ.
Đơn giản chỉ vì tôi hiểu rằng: Giường mối để tổ chức và điều hành một xã hội giống như một sơ đồ tỏa từ trên xuống,
mà Hiến pháp và hệ thống quyền lực là những điểm trung tâm. Nhưng ngược
lại, để cải biến và gây dựng một nền dân chủ (gần như từ số không) tiến
tới thay thế cho một hệ điều hành phi dân chủ đang cố thủ thì phải bắt
đầu “từ dưới lên”, và “từ giữa lên”, từ những việc cụ thể, thiết thực, dù nhỏ bé.
Đó là những việc như bênh vực những người dân bị cướp nhà cướp đất,
bị đối xử oan sai, việc đòi trả tự do cho những công dân bị tù đày chỉ
vì biểu lộ lòng yêu nước, đòi hủy bỏ những điều luật vi phạm quyền công
dân và quyền con người tối thiểu (điều 88 chẳng hạn), đòi quyền được tự
do tư tưởng, tự do phát biểu ý kiến, quyền biểu tình, quyền lập hội,
đoàn kết bênh vực và ủng hộ những người can đảm dấn thân, (hiện tại như
nhà báo Nguyễn Đắc Kiên) …vân vân… Còn sự cải thiện “tiến hành từ trên cao xuống” cũng rất quý, rất cần để phối hợp nhưng không nên kỳ vọng gì nhiều.
Những hoạt động công khai rất khiêm tốn ấy vừa đem lại những kết quả thực tế “đong đếm được”,
vừa mở mang Dân trí, vừa tập dượt Dân chủ, hình thành những sức mạnh
dân chủ trong một xã hội dân sự công chính. Cứ thế mà nhích dần lên.
Có sợ như vậy sẽ chậm quá chăng? Xin thưa: Tốc độ dân chủ hóa nhanh hay chậm là do tương quan lực lượng giữa dân chủ và chống dân chủ
quyết định chứ không phải do ý muốn. Mặc dù mỗi cố gắng về dân chủ đều
có tác dụng riêng, ít nhiều đều góp phần thức tỉnh Dân trí, nhưng nếu ảo
tưởng, nôn nóng khi chưa có cơ sở, việc của giai đoạn sau cùng lại đem làm trước thì hiệu quả sẽ kém, muốn nhanh thì lại kéo dài thêm. Ta thường nói “Tim nóng thì đầu phải lạnh”, bởi tiến trình càng hợp lý thì cơ hội sẽ đến càng nhanh.
Nay nhận thấy “Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do” ngắn gọn do các bạn soạn thảo thực chất là công khai bày tỏ nhận thức và nguyện vọng của những công dân tự do (nghĩa là không thuộc bất cứ tổ chức chính trị nảo), là thực hiện quyền tự do tư tưởng, tự do bày tỏ suy nghĩ một cách công khai để thăm dò sự đồng thuận của công chúng, công luận, chính là đáp ứng những việc làm thiết thực như đã nói trên.
Ngoài ý nghĩa ấy “Lời Tuyên bố” ở đây không phải một kiến nghị-yêu cầu,
cũng chưa phải một dự kiến hay chương trình hành động cụ thể gì hết,
việc bình thường nhưng rất có ích trong việc nâng cao Dân trí, chuẩn bị
tích cực cho một xã hội dân chủ vững chắc.
Giữ đúng mục tiêu ấy, tôi tin “Lời tuyên bố” sẽ được hưởng ứng đông đảo.
Chúc cuộc thăm dò và vận động của các bạn thu được kết quả tốt đẹp.
Hà Sĩ Phu
Blogger Beo - Sửa Hiến pháp: Kẻ cưỡng hiếp bị liệt cmn dương
Tầm ấy, bản dự thảo hiến pháp chưa được công bố rộng rãi.
Viết loằng ngoằng thế, tựu trung lại, Beo muốn diễn đạt rằng, thực chất của lần sửa đổi hiến pháp này chỉ là xếp sắp lại quyền lực trên cấp chóp bu. Và việc xếp sắp ấy sẽ bất chấp ba quyền pháp có hiếp dâm nhau hay không. Chấm hết.
Hiến pháp là bộ luật cái thể hiện tình cảm và ước vọng của nhân dân. Chính vì vậy, bộ luật cái này gắn liền với những vấn đề quốc gia và xã hội ở thời điểm nó ra đời.
Chưa cần đọc kĩ văn bản dự thảo sửa đổi, đã thấy ngay rằng, do công lao giành độc lập và thống nhất đất nước, Đảng cộng sản nghiễm nhiên coi tính chính danh lãnh đạo đất nước của mình là vĩnh viễn. Và Beo tin rằng, không có bất cứ ai trong nhóm chủ trương sửa đổi hiến pháp, manh nha thay đổi điều đã được mặc định này.
Nay, có vẻ như tình hình rất chi là tình hình, rắn thả ra rồi bắt lại ra sao…
Cách bắt lại rắn thô thiển đầu tiên là đích thân hai vị đứng đầu quốc gia đập vỗ mặt quốc dân đồng bào là đồ suy thoái đạo đức.
Beo yêu đất nước mình, tôn trọng sự đứng đầu của Đảng cộng sản nhưng nhận thức rằng, trong thế giới phẳng của thập kỉ thứ hai của thế kỉ 21, hoàn toàn không cần thiết phải khẳng định tính chính danh bằng cách ghi vào Bộ luật cái nữa. Nếu Đảng cộng sản đủ sức mạnh, át vía được tất cả các luồng tư tưởng khác mình, hà cớ gì cứ phải khăng khăng ôm cứng lấy cái phao điều 4 đến thế.
Cách bắt rắn thứ hai. Tối qua Beo bỏ công coi chuyên mục góp ý hiến pháp (đại khái thế) trên VTV và ANTV. Đủ các giai tầng, các anh công an ngồi nghiêm trang đầu đội đầy mũ trong nhà hội nghị máy lạnh. 100 xã ở Phú thọ đã lấy xong ý dân rất hợp lòng đảng. Nhà bác hiu gì đấy nói có mỗi câu tôi hoàn toàn nhất trí ….Cha mẹ bà con làng nước hàng xóm láng giềng ôi!
Lẻ mẻ còn vài bài bắt rắn nữa, nói chung cũng cũ kĩ và phản hiệu quả mà vụ buộc thôi việc thần tốc Nguyễn Đắc Kiên là ví dụ.
Văn bản HP chính thức ban hành chắc chắn trăm phần trăm sẽ không thay đổi gì so với bản dự thảo, trừ dăm ba câu chữ thì là mà vì vớ vẩn và, trừ cuộc thương thảo quyền lực, đương nhiên chả dính dáng gì đến nhân giân, sắp tới đây. Nhưng, cuộc tập dượt dân chủ đầu tiên trong lịch sử 8 mấy năm của Đảng cộng sản, đã vọt tầm kiểm soát và ngoài lường định.
Chuẩn bị bao nhiêu cơ mưu cưỡng hiếp, đúng lúc hành sự té ra liệt cmn dương.
Nghĩ lại, giờ thấy mình ngu thật, bỏ bao công cãi nhau mà nào có...lên đỉnh.
Hồ Thu Hồng
---------------------
(***) Đây là 1 trong số 19 bài sở 4 tờ Sài gòn bắt buộc bạn Beo tháo gỡ trong blog cũ. Văn bản này do nữ phó phòng non choẹt (not tuổi tác) kí trong khi các giấy mời họp trong vụ blog Beo ấy toàn do phó giám sở kí. Em này học cùng khóa chính trị với Beo và tụ nhau trong nhóm, hễ thi mà buông phao ra chết liền.
(Beo Blog)
Cường hào ác bá khoác áo “hệ thống chính trị” ngay tại Thủ đô
Vẫn cách làm bấy lâu ở Hà Nội: dùng mọi thủ đoạn lừa lọc, chiếm đoạt
ruộng đất của dân, đưa toàn hệ thống chính trị vào cuộc để đàn áp bắt bớ
dân, lợi dụng chủ trương dồn điền đổi thửa, chính quyền huyện Chương Mỹ
(Hà Nội) đã đang tâm đưa Công an cùng toàn hệ thống chính trị “vào
cuộc” nhằm chiếm đoạt ruộng đất của người dân xã Thượng Vực và xã Văn
Võ. Khi người dân thực hiện quyền công dân nhằm bảo vệ tài sản, bảo vệ
lẽ phải thì Công an lại tổ chức bắt cóc, giam giữ trái pháp luật hàng
chục người dân vô tội (toàn phụ nữ, người già). Dân phản đối dữ dội,
Huyện ủy (Đảng bộ cấp huyện) ráo riết chỉ đạo Viện Kiểm sát cùng cấp
“khắc phục” thủ tục tố tụng để khẩn trương … truy tố người dân vô tội.
Đây là việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Đảng bộ, chính quyền
ngay tại Hà Nội.
Ngày 11/9/2012 để thông qua Đề án Dồn điền đổi thửa (DĐĐT), Tiểu ban
DĐĐT thôn Trung Vực Trong đề nghị các hộ dân hiến 30 mét vuông/khẩu để
làm giao thông thủy lợi và xây dựng các công trình phúc lợi. Điều này
gặp sự phản ứng của người dân vì theo họ quỹ đất công còn rất nhiều, đủ
để xây dựng hệ thống tưới tiêu và giao thông đồng nội. Ông Nguyễn Duy
Tuấn, một người dân trong thôn bị cắt đến 90 mét vuông cho ba khẩu trong
gia đình cho biết: “quỹ đất công của thôn còn hơn 55 nghìn mét vuông,
trong khi nếu cắt 30 mét vuông/khẩu của toàn bộ người
dân trong thôn thì chỉ khoảng 40 nghìn mét vuông. Nhỏ hơn nhiều so với
quỹ đất công. Vậy cắt 30 mét vuông/khẩu của chúng tôi làm gì”. Điều này
nhận được sự đồng tình của đa số người dân trong thôn. Tuy nhiên, trong
Bảng Kết quả kế hoạch giao ruộng của Tiểu ban DĐĐT lại cho biết Hội nghị
ngày 11/9/2012 đã biểu quyết nhất trí 100% của 82 đại biểu. Ông Đặng
Đình Yên (74 tuổi) một đại biểu trong buổi họp ngày hôm đó cho biết,
cuộc họp chỉ khoảng 40 người đến dự và chỉ nói đến chuyện DĐĐT, không hề
nói đến hiến 30 mét vuông/khẩu.
Quá bức xúc vì cho rằng mình bị ép buộc gắp phiếu và hiến 30 mét vuông/khẩu, các hộ dân đã làm đơn lên xã để kiến nghị.
Điều đó dẫn đến vào ngày 31/1/2013, Huyện Ủy Chương Mỹ đã có chỉ đạo
UBND tạo một cuộc họp với toàn thể người dân về Đề án DĐĐT. Sau khi lắng
nghe các ý kiến của người dân không nhất trí hiến 30 mét vuông/khẩu,
ông Trần Đình Vững – Phó bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Chương Mỹ
phát biểu, cán bộ cấp thôn làm sai. Ông cho biết chủ trương của Huyện là
không lấy một mét vuông đất của người dân sau khi DĐĐT. Tuy nhiên ông
Nguyễn Văn Doanh – Phó chủ tịch huyện có đề nghị tạm giao ruộng cho nhân
dân để sản xuất. Sau vụ mùa, cơ quan quản lý sẽ thực hiện chia lại. Ý
kiến này không được người dân đồng ý. Họ muốn chính quyền phải sửa sai
ngay, thậm chí họ sẵn sàng bỏ luôn vụ Đông-Xuân để chính quyền có thời
gian thực hiện. Tuy nhiên, điều này không được chấp nhận. Cuộc họp kết
thúc mà chưa được thông qua biên bản.
Đến ngày 22 và ngày 26/2/2013, Tiểu ban đã cho máy bừa vào bừa ruộng của
dân. Hàng ngàn người đã ra cản trở để phản đối. Bên thôn Trung Vực
chính quyền bắt 4 người nông dân.
Không đồng ý về việc chính quyền xã lấy mỗi khẩu 30m2 đất loại I để làm
giao thông thủy lợi. Vì theo chỉ đạo của UBND huyện Chương Mỹ, chỉ lấy
đất xấu chứ không thể lấy đất loại I. Người dân thôn Trung Vực Trong, xã
Thượng Vực, huyện Chương Mỹ đề nghị chính quyền địa phương phải giải
quyết.
Đồng thời, theo quy định không được dồn ghép ruộng từ thôn này sang thôn
khác, thì chính quyền UBND xã Thượng Vực tự ý đổi cho thôn khác. Nhân
dân thôn Trung Vực Trong đã bỏ ruộng không cày cấy. Ngày 26/2/2013,
chính quyền huyện Chương Mỹ xã Thượng Vực đã tiến hành cưỡng chế
Ngày 21/2/2013, trong cuộc cưỡng chế tại xóm Cộng Hòa, thôn Võ Lao, xã
Văn Võ, huyện Chương Mỹ, có 6 phụ nữ bị bắt và tạm giữ tại CA huyện
Chương Mỹ để lập hồ sơ chuyển Viện Kiểm sát cùng cấp khởi tố.
Ngày 22/2/2013, 16 người thân của 6 phụ nữ trên mang hồ sơ lên trình các
cơ quan chức năng thì bị cơ quan CAH Chương Mỹ bắt giữ lại dọc đường
rồi đưa về trụ sở CAH thu giữ toàn bộ các loại giấy tờ liên quan.
Toàn cảnh vụ đàn áp, cướp đất của dân ở Chương Mỹ:
.
01/03/2013
(Cầu Nhật Tân)
Thuế thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm: Một kiến nghị vô lý
Ngày 26.2, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) đã gửi Thủ tướng Chính
phủ, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, nhiều bộ ngành...
kiến nghị cực “sốc”: Đánh thuế thu nhập trên tiền lãi từ những khoản
gửi tiết kiệm trên mức 500 triệu đồng, để chuyển hướng dòng tiền vào
đầu tư, sản xuất kinh doanh.Theo HoREA, việc đưa ra kiến nghị này nhằm
thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, trong đó có giải pháp tháo gỡ cho thị trường bất động sản
(BĐS).
|
Không khuyến khích người dân gửi tiết kiệm
Trả lời phỏng vấn của Thanh Niên tối 1.3, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch
HoREA, cho biết: Các nước khác không khuyến khích người dân gửi tiết
kiệm mà khuyến khích người dân lập doanh nghiệp (DN) làm ăn để tạo thu
nhập. Thay vì gửi ngân hàng (NH) lấy lãi, cần huy động toàn bộ nguồn lực
làm giàu cho đất nước, cho gia đình, cá nhân. Ở Mỹ lãi suất (LS) tiền
gửi khoảng 1%/năm, LS cho vay khoảng 3%. Một số nước xung quanh chúng
ta đều thực hiện chính sách LS tiền gửi tiết kiệm thấp hơn lạm phát.
Trong khi ở nước ta hiện nay LS tiền gửi đang cao hơn lạm phát (LS thực
dương). Vì vậy, người dân thường đem tiền gửi NH để lấy lãi. Nhiều
người gửi cả trăm tỉ đồng, mỗi năm thu tiền lãi hàng chục tỉ đồng mà
không phải đóng đồng thuế nào. “Vậy có quá phi lý không?”, ông Châu đặt
câu hỏi.
Nếu không đưa tiền vào sản xuất mà cứ gửi ở NH sẽ làm cho nền kinh tế
càng khó khăn hơn. “Người hưu trí, người nghèo có 500 triệu gửi NH thì
không đánh thuế, nhưng hàng chục tỉ đồng thì phải đánh thuế. Cần đánh
thuế thu nhập cá nhân (TNCN) khoản lãi thu được từ gửi tiết kiệm này.
Tôi đã nghiên cứu kỹ ở nước ta người dân có được khoản tiền 500 triệu
đồng để gửi NH không nhiều. Quốc hội nghiên cứu có thể nâng lên hoặc hạ
xuống. Nhà nước đang có nhiều chính sách chuyển dòng tiền từ dân sang
sản xuất, kinh doanh để phát triển đất nước”, ông Châu nói.
Lợi bất cập hại
Ngay sau khi nghe về nội dung đề xuất này, ông Nguyễn Hoàng Hải - Tổng
thư ký Hiệp hội Đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) - nhận xét: “Có thể
thấy HoREA đang sốt ruột với thị trường BĐS, nhưng đây là một kiến nghị
bất khả thi trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay”.
Theo ông Hải, ở một số nước áp dụng thuế TNCN đối với khoản tiền gửi
tiết kiệm từ 5 - 10% bởi thị trường vốn ở nước đó phát triển mạnh, lượng
vốn dồi dào, LS tiết kiệm thấp...
Ngược lại, thị trường vốn Việt Nam chưa phát triển mạnh, các DN dựa vào
nguồn vốn NH chiếm tỷ trọng cao, LS huy động, cho vay đều ở mức cao.
Vấn đề giảm LS cả huy động và cho vay để khôi phục nền kinh tế được đề
cập nhiều trong thời gian qua nhằm khôi phục nền kinh tế, giúp các DN
hoạt động sản xuất bình thường trở lại. Nếu chúng ta áp dụng thuế TNCN
đối với những khoản tiết kiệm trên 500 triệu đồng thì lúc này để các NH
có thể huy động được vốn, LS huy động trên thị trường thay vì ở mức
8%/năm có thể phải tăng lên 10%/năm để đủ sức hấp dẫn người gửi tiền.
Mà LS huy động cao thì dẫn đến LS cho vay cao. Điều này sẽ gây bất lợi
cho các DN, trong đó có cả các DN BĐS.
|
Nguyên Thống đốc NH Nhà nước VN ông Cao Sĩ Kiêm thẳng thắn: “Kiến nghị
như vậy chứng tỏ không hiểu gì về nguyên tắc kinh tế, cũng như chính
sách tài chính, tiền tệ. Muốn khuyến khích gửi tiết kiệm hay không các
NH sẽ dùng các công cụ LS ngắn hạn, dài hạn, tăng hay giảm, chứ không
phải là đánh thuế”.
Ông Trương Văn Phước - Tổng giám đốc NH TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
(Eximbank) - cho rằng: “Nếu nói nên thu thuế từ lãi tiết kiệm để hỗ trợ
người nghèo còn có lý chứ nói đánh thuế TNCN trên tiền gửi để chuyển
dòng vốn từ tiết kiệm vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì không phù
hợp. Kiến nghị này nếu được chấp thuận có thể gây ra phản tác dụng, gây
ảnh hưởng xấu đến nguồn vốn huy động của hệ thống NH”.
Bất khả thi
Trao đổi với Thanh Niên, TGĐ một NH cổ phần lớn tại Hà Nội nói
thẳng: “Đó là kiến nghị không xuất phát từ những nghiên cứu thực tiễn
cũng như chính sách”. Vì vậy, mục tiêu của kiến nghị này là bất khả
thi.
Ông phân tích ở hai điểm: Thứ nhất là sau khi có chủ trương thu thuế
tiền gửi tiết kiệm, ai sẽ đảm bảo người dân sẽ dùng tiền nhàn rỗi không
gửi NH để mua nhà, mua đất, đầu tư BĐS? Nếu cho rằng người dân sẽ đem
tiền đó để đầu tư sản xuất kinh doanh cũng cực kỳ không có cơ sở bởi lẽ
đâu phải ai có tiền cũng có thể tổ chức sản xuất kinh doanh được. Lợi
bất cập hại ở chỗ có thể người dân lấy tiền ra khỏi NH sau đó đem mua
vàng, USD, dẫn tới tình trạng “vàng hóa, đô la hóa” quay trở lại.
Chính phủ đang khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ NH như thanh toán
không dùng tiền mặt, gửi tiết kiệm để NH có vốn tài trợ lại cho các
DN, nền kinh tế thì kiến nghị đánh thuế TNCN đối với người gửi tiết
kiệm chẳng khác gì đi ngược lại chủ trương này.
Điểm thứ hai là về hạn mức đánh thuế trên 500 triệu đồng, với kinh
nghiệm của người quản lý NH, ông chỉ nói ngắn gọn: “Đánh thuế đối với
khoản tiền gửi trên 500 triệu đồng cho một cuốn sổ tiết kiệm, nếu vậy
người dân chỉ đơn giản chia thành 10 cuốn, mỗi cuốn 50 triệu đồng. Vậy
thì có khi phải tiếp tục kiến nghị cấm chia nhỏ số tiết kiệm ra nữa”.
|
Đánh thuế hai lần Tiền gửi tiết kiệm của người dân từ thu nhập đã nộp thuế TNCN, tức đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước rồi. Nếu đánh thuế tiền gửi tiết kiệm nữa chẳng khác gì đánh thuế 2 lần. Đó là một kiến nghị vô cùng phi lý.
Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sĩ Kiêm
Ý tưởng đánh thuế TNCN trên
tiền lãi tiết kiệm đã được bàn nhiều trước đây. Do thấy không phù hợp
nên Quốc hội đã bác khi luật Thuế TNCN được thông qua. Người lao động,
cán bộ công chức thu nhập thấp phải tằn tiện tiết kiệm mồ hôi, nước mắt
gửi NH để hưởng chút lãi thì việc đánh thuế là không thể chấp nhận
được.
Ông Nguyễn Thái Sơn - nguyên Trưởng phòng Thuế TNCN Cục Thuế TP.HCM
|
Doanh nghiệp Bất động sản cũng không đồng tình Ngay chính một số DN BĐS là thành viên của HoREA khi trao đổi với Thanh Niên cũng tỏ ra không đồng tình với kiến nghị này. Những doanh nhân này đề nghị không nêu tên vì “cùng hiệp hội gặp nhau hoài, để tên kỳ lắm”. TGĐ một DN BĐS nói ngay là kiến nghị này vô lý. “Về khía cạnh xã hội thì nhiều người hưu trí, người già, người có thu nhập không cao phải tích cóp dần tiền bạc gửi tiết kiệm để tích lũy, dành khi hậu sự, lo cho tương lai, đối phó với bất trắc trong cuộc sống... mà đi đánh thuế trên phần lãi ít ỏi của họ là không nhân đạo... Đó chỉ là một ý kiến thôi, muốn thông qua phải được Quốc hội họp, lấy ý kiến người dân. Tôi nghĩ kiến nghị này không khả thi đâu”, vị này nói. TGĐ một DN BĐS khác chia sẻ: “Nếu đánh thuế, người dân sẽ không gửi tiền nữa, hoặc có gửi thì cũng chẻ nhỏ ra, gửi ở nhiều NH khác nhau, cuối cùng cũng không đánh thuế được. Mà NH không huy động được tiền thì các DN, trong đó có DN BĐS sẽ vay tiền ở đâu? Thị trường chứng khoán thì èo uột, các kênh huy động vốn khác như trái phiếu thì quá hạn chế. Có khi chính DN BĐS lại chết trước vì kiến nghị này”. |
Thanh Xuân - Anh Vũ - Đình Sơn
(Thanh niên)
Đánh thuế thu nhập lên tiền gửi tiết kiệm: Một kiến nghị tai hại!
“Hiến kế” tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (Horea) đã gửi kiến nghị lên Thủ tướng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị áp dụng một số giải pháp cấp bách, trong đó có đề nghị “đánh thuế thu nhập lên tiền gửi tiết kiệm của nhân dân”(!)
Theo báo Pháp Luật TPHCM ngày 1/3/2013 (tại đây), tại cuộc họp các thành viên Horea ngày 28-2, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Horea, cho biết hiệp hội kiến nghị cần
sửa ngay chính sách lãi suất tiết kiệm thực dương và chính sách không
đánh thuế trên thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm. Theo kiến nghị, tiền lãi
thu được từ những khoản tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở lên
phải bị đánh thuế.
Mục đích của kiến nghị này, theo
Horea, là nhằm hướng dòng tiền của người dân đổ vào đầu tư sản xuất kinh
doanh thay vì gửi tiết kiệm ở ngân hàng. Ông Marc Townsend, Tổng giám
đốc Công ty Tư vấn Bất động sản CBRE, cũng nói nếu lãi suất huy động của
các ngân hàng thương mại hiện vẫn từ 9%/năm trở lên thì người dân vẫn
gửi tiền vô ngân hàng hơn là đầu tư sản xuất hay mua bất động sản. Mức
lãi suất tiết kiệm phổ biến hiện thời là 8%/năm cho những kỳ hạn dưới 12
tháng.
Tôi chưa được xem toàn văn kiến
nghị của Horea, nhưng với thông tin trên, đã có thể nhận định sơ khởi
rằng lập luận của Horea tỏ ra sai lầm và mâu thuẫn với một số chính sách
điều hành thị trường tiền tệ của Chính phủ.
Thứ nhất, không thể quan niệm
rằng gửi tiền tiết kiệm là “không” sản xuất kinh doanh vì nếu không huy
động được tiền tiết kiệm của người dân ngân hàng sẽ không có vốn cung
cấp cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Người dân gửi tiền vào ngân
hàng là một cách gián tiếp góp vốn cho sản xuất kinh doanh qua trung
gian điều phối của ngân hàng.
Trong tất cả các hình thức đầu tư
tài chính thì gửi tiền tiết kiệm được coi là kênh an toàn nhất, ít rủi
ro nhất nhưng cũng là kênh đầu tư có lợi nhuận thấp nhất. Đa số người
dân không có điều kiện, thời gian, kiến thức, kỹ năng và “máu me” để đầu
tư cổ phiếu (chứng khoán), bất động sản, vàng/ngoại tệ, hàng hóa chiến
lược (lương thực/xăng dầu/kim loại quý…) đã chọn việc gửi tiết kiệm ngân
hàng như là cách thức đầu tư an toàn và hữu hiệu nhất cho những đồng
tiền nhàn rỗi của mình. Đây cũng là cách đầu tư được ưa chuông của những
người đã về hưu, những người trẻ dành dụm cho con cái về sau v.v…
Đánh thuế lên lợi nhuận từ tiền
gửi tiết kiệm sẽ vô hình trung triệt tiêu phương thức đầu tư tài chính
sơ đẳng này của người dân. Khi người dân không còn mặn mòi với tiết
kiệm, hệ thống ngân hàng sẽ thiếu vốn và từ đó việc tiếp cận tín dụng
của doanh nghiệp cũng bị thu hẹp.
Thứ hai, để huy động được tiền
nhàn rỗi của người dân, ngân hàng nhất thiết phải duy trì lãi suất tiết
kiệm thực dương, nghĩa là lãi suất tiết kiệm phải cao hơn tỷ lệ lạm
phát. Sẽ không ai gửi tiền cho ngân hàng nếu đến khi đáo hạn đồng tiền
rút ra có giá trị thấp hơn đồng tiền lúc gửi vào do “trượt giá”. Không
đánh thuế lên tiền lãi thu được từ tiền gửi tiết kiệm là một cách thức
giúp duy trì lãi suất tiết kiệm thực dương và khuyến khích người dân gửi
tiết kiệm, để thu hút đồng tiền vào ngân hàng.
Nếu thực hiện tốt chính sách này,
Nhà nước sẽ giảm được việc vay nợ nước ngoài để tài trợ cho nền kinh
tế, hạn chế được lạm phát và “bong bóng tài sản”. Ngược lại, nếu tiết
kiệm không sinh lợi, không hấp dẫn, người dân sẽ bung tiền vào tiêu
dùng, mua sắm, đẩy giá cả hàng hóa lên cao và sẽ chắc chắn sẽ có nhiều
người mua vàng và đô la Mỹ để “trú ẩn”… dẫn tới sự phá sản của nhiều
chính sách tài chính hiện hành về ổn định thị trường vàng, về tỷ giá hối
đoái v.v…
Đề nghị đánh thuế vào tiền lãi
tiết kiệm, các nhà kinh doanh bất động sản nghĩ rằng, dòng tiền nhàn rỗi
của người dân sẽ chảy vào mua sắm nhà đất, làm sống lại “thời hoàng
kim” của ngành này, nhưng kỳ vọng đó sẽ rất khó xảy ra vì tình hình hiện
nay không giống những năm 2006-2008. Khi ấy tín dụng bùng nổ, tiền mặt
từ các tập đoàn kinh tế nhà nước bung ra ngập thị trường, đẩy giá bất
động sản và cổ phiếu lên mức cao chót vót, vượt xa khả năng thanh toán
của người có nhu cầu, nhưng hiện nay thì tín dụng được kiểm soát kỹ,
tiền mặt không dồi dào như trước nữa và nền kinh tế đang rất khó khăn.
Con đường duy nhất để vực dậy thị
trường bất động sản hiện nay là giảm giá nhà đất xuống mức giá trị thật
của nó và phù hợp với thu nhập bình quân của xã hội để người có nhu cầu
có thể mua được nhà đất bằng thu nhập chính đáng của mình chứ không
phải bằng cách vận động (lobby) để Nhà nước đưa ra những biện pháp chỉ
có lợi cho nhà kinh doanh bất động sản mà có hại cho nền kinh tế nói
chung.
Trên các mạng xã hội, đã có người
chỉ thẳng ra rằng: “Kiến nghị này chứng tỏ lợi ích nhóm muốn chi phối
chứ chẳng phải vì lợi ích toàn bộ nền kinh tế.Về nguyên lý thì chẳng qua
họ đang muốn hướng dòng tiền vào các bất động sản đang ế ẩm!”.
Khi trình ra “kiến nghị” nói
trên, các nhà kinh doanh ở Horea đã thấy cây mà không thấy rừng, chỉ
quan tâm tới lợi ích cục bộ của doanh nghiệp mình, của ngành mình mà
không để ý tới lợi ích toàn cục của xã hội. Mong sao Chính phủ sẽ không
nghe theo những kiến nghị tai hại như thế này.
Cave núi - Tự phủ nhận mình không dễ
Tầm này năm ngoái (Tết con Thìn-2012) ông Đặng Hùng Võ, nguyên thứ
trưởng Bộ KH CN&MT nổi lên như 1 người hùng của dân qua thái độ rõ
ràng dứt khoát ủng hộ anh em ông Đoàn Văn Vươn trong vụ đất đai Tiên
Lãng-Hải Phòng. Nhưng chỉ sau đó ít lâu ông lại là đối tượng bị lề trái
công kích qua vụ Văn Giang-Ecopark vì những văn bản ông ký nháy khi còn
đương chức đương quyền. Cuối năm ông lại được vỗ tay lần nữa khi ngồi ở
trụ sở Bộ cũ (ai có thể?), tiếp những người dân Văn Giang khiếu kiện và
nói lời xin lỗi. Tiếng vỗ tay chưa ngớt thì ông đã “nói lại” gây chưng
hửng cho những người mới vừa vỗ tay khen ông.
Những chiến sĩ tích cực và ẩn danh của lề trái trên mạng ảo ngay lập tức
mắng ông Võ là lo giữ cái sổ hưu. Thật ra không phải vậy. Dưới thời độc
tài toàn trị của nhà Ba Dũng, các ông Nguyễn Quang A, Tương Lai, Nguyên
Ngọc…, những người vẫn ra Bờ Hồ biểu tình hay ký hầu hết các kiến nghị
tập thể đăng chỗ chị Ba Sàm, không bị mất sổ hưu, mà vẫn được dành đất
biên bài trên các tờ báo lề phải, chẳng hạn tuần nào chúng ta cũng gặp
ông Quang A trên tờ Lao Động dù ông tổng tờ này không còn là ông Tống
Văn Công “dân chủ”. Ông Giáo sư Võ, không có 1 công trình khoa học cá
nhân nào đủ có danh gì với núi sông, nếu có được biết đến, thì là được
biết đến nhờ vai trò thứ trưởng, tạm cho là thứ trưởng tốt đi, nay nếu
phủ nhận những gì ông làm khi ông là thứ trưởng, thử hỏi ông Võ sẽ còn
lại gì. Chẳng còn gì cả. Tự phủ nhận mình không dễ.
Không chỉ ông Võ. Tất cả các ông lý cựu, cựu mưu sĩ cho các ông lý cựu,
đang nổi lên như những đại diện ưu tú của dân tộc bên chỗ Ba Sàm, khi ký
1 văn bản mấy mươi hai “nhân sĩ trí thức” góp ý hiến pháp và đề xuất 1
mô hình đa đảng tổng thống chế (chủ-tịch-nước chế) Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và được Ba Sàm cùng các đồng minh nhìn đó như bản góp ý duy nhất
chấp nhận được đối với chế độ (bất cứ ai khác định góp ý sẽ bị cho là
tay sai cho chế độ làm loãng dư luận để bản dự thảo hiến pháp lý cựu
Việt Nam Dân chủ cộng hòa này bị chìm đi), cũng chưa thấy ai tự phủ nhận
mình. Người đứng đầu đoàn nhân sĩ được chính quyền tiếp đón và tiếp
nhận bản góp ý (tất nhiên họ sẽ không xem xét) là cựu bộ trưởng tư pháp
Nguyễn Đình Lộc chưa thấy tự vấn khi ông còn đầy đủ quyền lực, làm bộ
trưởng 1 bộ quan trọng như Bộ Tư pháp, ông đã làm được cái gì, và nay,
khi không có những lợi thế đó nữa, liệu ông sẽ làm được những gì. Nghị
định 31-CP về quy chế quản chế hành chính, 1 nghị định phản dân chủ bậc
nhất, cho phép chính quyền địa phương quản chế các đối tượng không cần
qua xét xử, do thủ tướng thương dân Võ Văn Kiệt ký năm 1997 theo yêu cầu
Bộ Nội vụ, thì khi đó ông Lộc là bộ trưởng Tư pháp (ông giữ chức suốt
10 năm từ 92 đến 2002) có ý kiến gì, sao ông không “từ chức để phản đối”
như cách hành xử dân chủ của mọi ông bộ trưởng không hài lòng với chính
sách của người đứng đầu nội các? Còn nếu ngày xưa ông ngu, bây giờ ông
tỉnh thì sao ông chưa nói lời sám hối về cái ngu xưa của mình, sao ông
không ký bình thường mà phải cố chen làm người đứng đầu đoàn nhân sĩ?
Không trách ông Lộc được. Hầu hết những người đồng đơn với ông, khi ký
tên vào bản kiến nghị, đều treo lủng lẳng bên cạnh mình 1 loạt chức danh
có được trong chế độ độc đảng mà cái chế độ đó nay họ đòi loại bỏ,
nguyên này nguyên nọ. Không ai tự phủ nhận mình khi ghi những chức danh
đó theo kiểu “nguyên thứ trưởng vô dụng”, “nguyên cố vấn bất lực”,
“nguyên lãnh đạo cơ quan mặt trận tổ quốc bù nhìn”… Không phải vì sổ
hưu. Mà vì phủ nhận mình không dễ. Mà vì nếu phủ nhận mình thì tiếng nói
của mình cũng thành vô giá trị.
Ngay 1 nhân vật dũng cảm vô song, đấu tranh chống toàn trị trong 1 giai
đoạn khắc nghiệt với người đấu tranh hơn nhiều so với các nhân sĩ bây
giờ, là cụ Trần Độ, dũng cảm có thừa nhưng vẫn chưa đến mức tự phủ nhận
mình. Khi ra khỏi đảng Cộng sản của các ông Mười-Anh-Nông-Dân, cụ Trần
Độ nói đảng này không còn là đảng của cụ ngày xưa nữa. Đảng Cộng sản của
các ông Mười-Anh-Nông-Dân dù gì thì cũng là đảng cộng sản mở cửa hội
nhập. Còn đảng ngày xưa của cụ Độ, đảng Lao động thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, là đảng làm Cải cách ruộng đất, bỏ tù không chỉ Nguyễn Chí
Thiện mà cả đồng minh thời điểm 90 của cụ Độ là cụ Hoàng Minh Chính,
diệt Nhân văn Giai phẩm, dùng vũ lực thủ tiêu Việt Nam Cộng hòa và thủ
tướng VNDCCH-thành viên đảng đó, ông Phạm Văn Đồng là người ký công hàm
Hoàng Sa.
Nói bản góp ý hiến pháp đi kèm bản dự thảo hiến pháp tự soạn là bản lý
cựu là 1 cách nói có phần giản lược. Ngoài các vị lý cựu, các vị cộng
sản phản tỉnh nhóm võ văn kiệt, còn có các vị nhóm dương văn minh nữa:
Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Tấn Mẫm…- những người sinh ra và lớn lên ở Việt Nam
Cộng hòa, đã đấu tranh để hỗ trợ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa toàn thắng,
toàn trị và nay lại kêu gọi bãi bỏ chế độ toàn trị đó, đồng thời cũng
chưa có lời nào nhìn nhận lại sự hỗ trợ toàn trị trong quá khứ của mình.
Bên Ba Sàm đang đăng dần sách của GS Lê Xuân Khoa vể chiến tranh Việt
Nam, em đang copy dần về máy, đợi bao giờ đủ bộ rồi mới đọc. Nhìn mục
lục thấy GS phân tích cái sai của cả VNDCCH, cả VN Cộng hòa, cả các
cường quốc… nghĩa là có vẻ đầy đủ khách quan khoa học lắm, nhưng chưa
thấy dành phần nào phân tích những người “cánh tả miền Nam” –những người
quan niệm chính trị không thể giống VNDCCH (nên thực tế sau này nhiều
người chuyển sang đấu tranh: từ Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan xưa đến Hồ
Ngọc Nhuận nay) nhưng lại hỗ trợ VNDCCH đắc lực trong 1 cuộc chiến có
“bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”. Mà đây là lực lượng thú vị nhất,
khó hiểu nhất, rất cần phân tích.
Trong vở chèo rộn rang lề trái lề phải góp ý hiến pháp đầu xuân, xuất
hiện ông nghị Hoàng Hữu Phước khật khưỡng đi vào, chân nam đá chân siêu,
nói năng lảm nhảm. Càng vui chứ sao. Xem chèo thì phải có hề chèo mới
là đúng kiểu.
P/S. Ông Phước mắng ông Dương Trung Quốc ngu khi coi Việt Nam Cộng hòa
là có đa đảng. Chẳng biết có không, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xưa
có đa đảng đấy, ngoài đảng Lao động còn có đảng Xã hội của ông Nguyễn
Xiển, đảng Dân chủ của ông Nghiêm Xuân Yêm, nay mấy ông ấy đều được đặt
tên phố cả. Nhưng vẫn có cải cách ruộng đất, vẫn có đủ thứ đã được nhắc
đến ở phần trước. Đa đảng mà đa đảng một bề, thì khác gì một đảng mà có
Ba Tư Ba Bá tranh hùng đâu.
Cave núi
(Blog Cave núi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét