Bí mật Trung Nam Hải
Thường
Mao Trạch Đông đến sàn nhảy và ở đó từ hơn 22giờ đến 1giờ sáng. Các nữ
diễn viên trẻ đẹp được cùng nhảy với vị lãnh đạo vĩ đại đều lấy làm
vinh dự. Có khi một bản nhạc, Mao Trạch Đông thay đổi 3 cô để nhảy.
Ngoài vũ trường các nhân viên văn công khác tự nhiên phải biết phận mình
nghiêm chỉnh giữ “kỷ luật cách mạng”.
Sau
khi Viên Thế Khải chấp chính, để bảo đảm an toàn cho Phủ Tổng thống và
để tránh những ánh mắt tò mò từ bên ngoài nhìn vào, do vậy tại Trung Nam
Hải đã được xây bức tường cao để ngăn cách. Sau khi làm Tổng thống hơn 3
năm, Viên Thế Khải lại muốn làm Hoàng đế và sau 80 ngày làm vua, ông đã
bị đổ. Tháng 6/1916 Lê Nguyên Hồng lên làm Tổng thống, không lâu sau
Trương Huân lên và đuổi Lê Nguyên Hồng ra khỏi Trung Nam Hải. Chỉ được
nửa năm Trương Huân lại đổ và Phùng Quốc Trương lên thay. Năm 1919, Từ
Đông Hải lên làm Tổng thống cũng chỉ được một năm thì đổ, Tào Côn Kế lên
thay. Năm 1922, Phùng Ngọc Tường dẫn quân vào Bắc Kinh và giam Tào Côn
Kế vào lầu Diên Khánh. Năm 1922 Lê Nguyên Hồng lần thứ 2 làm tổng thống
cũng không đầy một năm lại đổ, Đoàn Kỳ Thụy chấp chính và giam tướng
quân Phùng Ngọc Tường ở Doanh Đài – Trung Nam Hải. Năm 1927 Trương Tác
Lâm, thủ lĩnh phái quân phiệt Đông Bắc tự xưng là Đại Nguyên Soái và
Trung Nam Hải trở thành “Đại Soái Phủ”, cùng năm Trung Hoa dân quốc định
đô ở Nam Kinh và đổi tên Bắc Kinh thành Bắc Bình.
Năm
1928 Phái Chính phủ của Trung Hoa Dân Quốc đã dẫn đại quân chiếm giữ
Bắc Bình và thành lập chính phủ cách mạng quốc dân thành phố Bắc Bình.
Năm 1929 tuyên bố Trung Nam Hải là công viên của nhân dân và phá tường
để mọi người tham quan. Thế là cả Bắc Hải, Trung Hải và Nam Hải đều trở
thành nơi vui chơi, tham quan, nghỉ ngơi của dân chúng. Nhưng công viên
Trung Nam Hải chỉ duy trì được vài năm lại bị tướng Hà Ứng Khâm dùng làm
“Bắc Bình quân phân hội”. Sau đó không lâu lại bị tướng Lý Tống Nhân
dùng làm “Bắc Bình hành dinh”. Sau sự biến “thất thất” (7/7) năm 1937,
Bắc Bình rơi vào tay chính quyền ngụy của Nhật, Trung Nam Hải trải qua 8
năm dưới ách đó. Tháng 8/1945 Nhật đầu hàng vô điều kiện, Bắc Bình trở
về tay Trung Hoa dân quốc. Năm sau, Trung Nam Hải biến thành “Bộ Tổng tư
lệnh diệt cộng dẹp loạn Hoa Bắc” của tướng Phó Tác Nghĩa. Ngày
30/1/1949, ký kết hiệp định giữa tướng Phó Tác Nghĩa với tướng Diệp Kiếm
Anh tuyên bố “Bắc Bình giải phóng hòa bình”. Sau đó chính quyền của Mao
Trạch Đông định đô ở Bắc Bình, hồi phục tên Bắc Bình thành Bắc Kinh.
Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc đóng tại Trung Nam Hải.
Trung Nam Hải lại trở thành nơi cấm địa đầy quyền lực của chính quyền
mới. Ngày 24/3/1949 Mao Trạch Đông cùng Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu Ân
Lai, Nhiệm Bật Thời, Trần Vân, Trương Văn Thiên, Lý Lập Tam, Lý Phú
Xuân, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn, Vương Giá Tường rời thôn Tây Bá
Pha, huyện Bình Sơn, tỉnh Hà Bắc tiến vào cố đô Bắc Bình. Từ đây đến
huyện Trác ngoại ô phía nam Bắc Kinh khoảng 300km.
Trưa
hôm đó Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai, Nhiệm Bật
Thời đi ôtô đến sân bay ngoại ô phía tây để tham gia duyệt binh đội quân
giải phóng của chiến dịch Thiên Tân, tướng Phó Tác Nghĩa cũng có mặt.
Mao Trạch Đông bắt tay và một lần nữa cảm ơn tướng Nghĩa đã giải phóng
cố đô bằng phương pháp hòa bình. 22giờ hôm đó, Mao và Lưu Thiếu Kỳ đến
Di Hòa Viên, Mao Trạch Đông ngủ ở Cảnh Phúc Các. Một tháng sau Mao Trạch
Đông mời Lương Thấu Minh tiên sinh đi chơi Di Hòa Viên và đã ca ngợi Từ
Hy Thái Hậu vì bà đã tu tạo Di Hòa Viên. Hôm sau Mao Trạch Đông rời Di
Hòa Viên đến ở biệt thự Song Thanh ở dưới chùa Hương Sơn khu công viên
Hương Sơn, do đó Trung ương Đảng và hầu hết các vị lãnh đạo đảng và nhà
nước cũng đều ở Hương Sơn. Công viên Hương Sơn biến thành khu quân sự
cấm.
Từ
ngày 31/1/1949, Chu Ân Lai, Lâm Bá Cừ, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vinh Trăn
đều thấy rõ Trung Nam Hải là nơi ở của cơ quan đầu não trung ương. Chu
Ân Lai đã hạ lệnh cho dã chiến quân Hoa Bắc cử ra một đại đội và vài
chục xe vận tải để tiếp quản Trung Nam Hải. Thời kỳ đó Trung Nam Hải có
hơn 2.000 phòng và điện Cần Chính – nơi ở của một đại đội bảo vệ của
tướng Phó Tác Nghĩa, Mao Trạch Đông cho tước vũ khí của đại đội này và
đưa đi “học tập chỉnh biên, cải tạo tư tưởng” ở ngoại ô. Gần 1.000 người
làm tổng vệ sinh và tu sửa lại Trung Nam Hải đúng 3 tháng để đón chính
quyền mới. Đầu tháng 6, Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh mời Mao Trạch Đông
vào ở Trung Nam Hải. Mao từ chối vì không làm vua nên không vào cung và
cũng vì việc đó mà cho đến nay còn lưu truyền 3 cách nói khác nhau. Một
là, Mao Trạch Đông tuy là tín đồ Mác – Lê, vô thần nhưng am hiểu Kinh
Dịch và ham muốn làm đế vương. Khi Mao Trạch Đông ở Hương Sơn có gặp một
vị đạo lão đạo thuật cao siêu, ông có hỏi khi nào vào Trung Nam Hải
mới tốt. Đạo lão không nói không mà chỉ viết 2 số 99 (tức ngày 9/9). Mao
Trạch Đông lại hỏi: quyền vị của mình giữ được bao lâu? Đạo lão lại
viết con số: 8341. Mao Trạch Đông không hiểu nổi các thuật số này, nhưng
rất kính trọng Đạo lão. Ngày 9/9/1949 Mao Trạch Đông vào ở Trung Nam
Hải và đổi phiên hiệu đội bảo vệ của mình thành Đội 8341 – Trung Nam
Hải. Sau khi vào ở Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông chọn một số ngượi học
vấn uyên thâm như Quách Mạt Nhược, Chu Cốc Thành, Phạm Văn Lan để bàn
luận về 2 thuật số 99 và 8341. Đối với số 99 có thể hiểu được Cửu – số 9
là số to nhất trong hệ thập phân và vì, gọi đế vương là Cửu Ngũ Chi
Tôn, gọi nơi ở của đế vương là Cửu trùng (trong) Cung Khuyết, gọi thiên
hạ là Cửu thiên Cửu địa, Cửu châu Phương viên. Đời Chu gọi là Tài Bạch
Lưu Thông chi pháp là Cửu Phủ viên (hoàn) Pháp, thời Xuân Thu Tề Hoàn
Công có câu “Cửu phẩm chính trung”, báu vật của quốc gia thời cổ đại gọi
là Cửu Đỉnh Đại Lữ, các nhạc công thời cổ đại gọi là Cửu cung đại
thành, các chữ số thời cổ gọi là Cửu kinh toán thuật, kinh văn thời cổ
gọi là Cửu kinh cổ nghĩa, các đạo gia luyện đơn gọi Cửu chuyển Kim đơn
tóm lại không ai đoán trúng cả. Mãi đến ngày 9/9/1976, hai thuật số đó
mới được giải: Mao Trạch Đông chết ngày 9/9, thọ 83 tuổi (1893-1976);
trị vì 41 năm (1935-1976). Mao Trạch Đông chết tại khu Du Vịnh Trì –
Trung Nam Hải. Đó là ngẫu nhiên hay thiên định?
Hai
là, sau khi Diệp Kiếm Anh báo cáo bằng văn bản về việc mời TƯ đảng vào ở
Trung Nam Hải nhưng được mấy hôm không thấy động tĩnh gì thì đích thân
đến Hương Sơn để mời Mao Trạch Đông vào ở Trung Nam Hải. – “Tôi không
nghe, đây là vấn đề nguyên tắc”? Mao Trạch Đông từ chối. Diệp Kiếm Anh
nài nỉ: “Kiếm Anh kiên trì mời anh vào Trung Nam Hải cũng là nguyên tắc,
ở đây đến cái tường vây quanh cũng không có”. – “Không nói, không nói
nữa”. Mao Trạch Đông lắc đầu và Diệp Kiếm Anh nói dỗi – “Không nói nữa
thì không nói nữa”. Chu Ân Lai biết rằng, Mao Trạch Đông rất kị chỗ
Hoàng đế đã từng ở, nơi đã từng là chỗ Từ Hy Thái Hậu chấp chính; là chỗ
Vua Quang Tự – do muốn duy tân nên đã bị tù, là phủ tổng thống của Viên
Thế Khải. Trước khi vào thành, Mao Trạch Đông hiệu triệu toàn đảng xem
tập “Giáp thân tam bách niên tế” của Quách Mạt Nhược sách này nói về
việc sau khi Lý Tự Thành vào Bắc Kinh rồi kiêu ngạo và thất bại như thế
nào, Mao Trạch Đông rất thích cuốn này. Chu Ân Lai mong muốn Mao Trạch
Đông vào Trung Nam Hải chủ yếu vì vấn đề an toàn. Chu Đức – Tổng Tư lệnh
cũng tán đồng. Thế là thiểu số phục tùng đa số – Mao Trạch Đông phải
vào ở Trung Nam Hải.
Ba là, cơ quan
trung ương ở Hương Sơn, hàng ngày chỉ có Chu Ân Lai vào thành làm việc,
giải quyết vấn đề, chỉ đạo công tác, liên hệ với các bộ phận. Từ khi vào
kinh đô Lưu Thiếu Kỳ đi Thiên Tân tham quan, phỏng vấn, thăm hỏi bạn
bè. Chu Đức cũng bận tham quan du lịch, phỏng vấn, hội đàm. Nhiệm Bật
Thời thì bệnh nặng. Mao Trạch Đông bận tiếp kiến đại biểu các đảng phái,
nhân sĩ đồng thời chỉ đạo việc chuẩn bị cho hội nghị trù bị của chính
trị hiệp thương. Vậy ở Hương Sơn không thuận tiện, cho nên tháng 6, Mao
Trạch Đông quyết định vào thành để làm việc. Mao Trạch Đông ở căn nhà
nhỏ tên là Phong Trạch Viên trong Trung Nam Hải. Khi công việc chỉ đạo,
chuẩn bị cho hội nghị trù bị đã xong mọi người đề xuất Mao Trạch Đông
nên quay về Hương Sơn ở vì máy bay địch quấy nhiễu ở đây không an toàn
nhưng Mao Trạch Đông không đồng ý. Trên đây có vẻ mâu thuẫn, nhưng vấn
đề ở chỗ con người Mao Trạch Đông khi còn trẻ rất thích Thủy Hử, làm
cách mạng lập chí thành nghiệp lớn, lại có tư tưởng làm đế vương. Mùa hè
năm 1949, quyền hành thực tế đã vào tay Mao Trạch Đông, lẽ nào lại
không chịu nhận. Thực tế tháng 6/1949, Mao Trạch Đông rời Hương Sơn đến
ngoại ô phía tây, nhà số 1, Tân Lục Sở, đường Ngọc Tuyền ở ít lâu, đến
9/9/1949 mới vào Trung Nam Hải. Ngự tại Cúc Hương Thư – Phong Trạch Viên
– Trung Nam Hải. Người đầu tiên ở đây là Lâm Bá Cừ, ông là “thư ký
trưởng” đang dự thảo thành lập “chính phủ nhân dân trung ương” và chuẩn
bị “khai quốc đại lễ”. Lâm Bá Cừ người Lâm Lễ, Hồ Nam, sinh năm 1885,
năm 1905 vào đồng minh hội của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản. năm 1916 khi
Mao Trạch Đông mới là một cậu học trò nghèo của trường “Sa đệ nhất soái
tiết” thì Lâm Bá Cừ đã là Bí thư đốc quân và là Cục trưởng Cục Tài chính
tỉnh Hồ Nam. Năm 1921 vào Quốc dân Đảng, năm 1922 là tổng vụ Bộ trưởng
Quốc dân đảng của Tôn tiên sinh, Lâm Bá Cừ là một nguyên lão của 2 đảng.
Sau khi Lâm Bá Cừ ở phòng Cúc Hương Thư. Chu Ân Lai thường lui tới làm
việc, nghỉ trưa, dùng bữa ở đây. Tuy tuổi cao hơn Chu Ân Lai nhưng Lâm
Bá Cừ chỉ là một vị tướng nên phải nhường chỗ này cho Chu Ân Lai mà đi ở
nhà khác. Không lâu, Mao Trạch Đông vào đây họp và cũng rất thích chỗ
này, cũng thường nghỉ và dùng bữa ở đây. Đúng là đại thần nhường tể
tướng, tể tướng nhường hoàng thượng. Từ bên trong Tân Hoa Môn đến phòng
nghỉ của các thủ trưởng Trung ương Đảng trong Đại lễ đường Nhân dân được
xây dựng con đường hầm nhỏ, ôtô con đi được. Con đường hầm này chỉ có
các vị trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc mới được sử dụng, như
Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai, Trần Vân, Lâm Bưu,
Đặng Tiểu Bình và một số vệ sĩ đặc biệt.
Từ
năm 1968 – 1976 Giang Thanh cùng đồng bọn lấy cớ “sửa chữa toàn diện”
để cấm cửa công viên Bắc Hải. Suốt 8 năm cho đến khi Mao Trạch Đông qua
đời, Giang Thanh bị lật đổ, vào tù công việc sửa chữa toàn diện mới
xong. Phần lớn các cung, viện, đình, đường trong Trung Nam Hải đều được
xây dựng từ đời Thanh, chủ yếu và nổi tiếng có 8 nơi như: Tiêu Viên,
Doanh Đài, Phong Trạch Viên, Tỉnh Cốc, Hải Yến Đường, Hoài Nhân Đường,
Tử Quang Các, Du Vịnh Trì. Ngày 31/1/1949 “Hiệp định Bắc Bình giải phóng
hòa bình” do Diệp Kiến Anh và Phó Tác Nghĩa ký đã cứu được cố đô nghìn
năm lịch sử mới không bị nội chiến tàn phá. Chiều ngày 5/6/1949, Hội
nghị Chính trị hiệp thương do Mao Trạch Đông chủ trì được khai mạc tại
điện Cần Chính Trung Nam Hải. 14giờ ngày 1/10/1949 cũng tại điện Cần
Chính, Mao Trạch Đông lại chủ trì hội nghị lần thứ nhất “Chính phủ nhân
dân trung ương” và tuyên bố thành lập “Chính phủ nhân dân trung ương”,
Mao Trạch Đông được bầu vào chức vụ Chủ tịch. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Cao
Cương, Trương Lan, Lý Tế Thâm, Tống Khánh Linh làm Phó chủ tịch. Chu Ân
Lai làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. 14 giờ 50 phút cùng
ngày, tất cả đều ra Thiên An Môn và đúng 15giờ hôm đó Mao Trạch Đông chủ
trì khai quốc đại lễ. Từ đó Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu
Ân Lai luôn họp hành, tiệc tùng, tiếp khách nước ngoài tại điện Cần
Chính. Trung Nam Hải dưới thời Mao Trạch Đông là nơi cực lạc của các
quần vương, đồng thời lại là chiến trường đấu đá quyết liệt tranh giành
quyền lực giữa Mao Trạch Đông với các quần thần. Nó để lại biết bao bi
khốc trong ký ức các nguyên lão. Mao ở phòng Cúc Hương thư 18 năm, nơi
này có 2 lối ra vào, một gian dành riêng cho những người phục vụ đặc
biệt; một dành riêng cho Mao Trạch Đông và Giang Thanh. Bên cạnh có các
phòng cơ yếu, vệ sĩ trưởng, chủ nhiệm cách mạng văn hóa – trước đó làm
chủ nhiệm văn phòng trung ương – Dương Thượng Côn. Sau khi gia đình
Dương dọn đi thì nơi đây để đồ tặng phẩm, bàn bóng bàn. Mao Trạch Đông ở
đấy từ tháng 9/1949 đến trung thu năm 1967 thì dọn đến Du Vịnh Trì ở
phía tây Trung Hải.
Hàng năm cứ vào
tối ngày 26/12, ngày sinh nhật của Mao Trạch Đông thường có mời các đồng
sự, bạn bè, nhưng ngày 26/12/1966, Mao Trạch Đông mời các thành viên
của Ủy ban Cách mạng văn hoá, các bạn chiến đấu cũ nhưng số các bạn
chiến đấu cũ chỉ có Chu Ân Lai tới, còn lại đều là các thành viên của Ủy
ban Cách mạng văn hóa. Đến khu vực mới này, ngoài Mao Trạch Đông ra,
dần dần có thêm gia đình của Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Lâm Bá Cừ, Bành Đức
Hoài, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn, Hồ Kiều Mộc. Năm 1960 Xuân Ngẫu
Tề được cải tạo thành vũ trường, sân khấu, rạp chiếu phim và phòng ngủ
đặc biệt của Mao Trạch Đông. Đêm đêm ca múa đều là những diễn viên trẻ
đẹp, tuổi 18-20, được tuyển chọn từ các đoàn văn công. Chu Ân Lai rất ít
khi đến đây nhảy, vì đã có sàn nhảy riêng ở Tử Quang bên bờ Tây Bắc
của Trung Hải. Hàng ngày, cứ 19 giờ 30 phút, vợ chồng Chu Đức – Khang
Khắc Thanh dắt nhau đến sàn nhảy thì đã có các nữ diễn viên trẻ đẹp đón
tiếp, cầm tay Chu Đức đi kiểu “Quân ngũ đại bộ” cho đến khi các em áo
thấm mồ hôi. Thực tế thì Chu Đức nhảy cũng được. “Đi đại bộ” là theo lời
bác sĩ để rèn luyện thân thể. Khoảng 21giờ Chu Đức đưa vợ về nghỉ, Chu
Đức có thói quen ngủ sớm, dậy sớm.
Sau
khi Chu Đức rời sàn nhảy thì vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ – Vương Quang Mỹ mới
đến nhảy. Lưu Thiếu Kỳ nhảy rất giỏi, nhất là điệu valse nhanh. Bạn
nhảy của Lưu Thiếu Kỳ là những cô diễn viên thanh tú, nhẹ nhõm, linh
hoạt như bướm bay. Các cô rất thích nhảy với Lưu Thiếu Kỳ, thường là các
em chủ động mời trước. Còn bà vợ Lưu thì ngồi ở salon mỉm cười, mắt
theo dõi phu quân của mình. Lưu Thiếu Kỳ rất bận, mỗi lần chỉ nhảy
khoảng một tiếng đồng hồ. Vương Quang Mỹ, nhảy cũng rất đẹp. Thường thì
bản nhạc sau cùng thì hai vợ chồng Lưu mới nhảy với nhau. Khi đó các cô
văn công đều chiêm ngưỡng, đồng thời mọi người biết, vợ chồng Lưu chuẩn
bị rời sàn nhảy. Còn các vị lãnh đạo xuất thân từ quân đội như Nguyên
soái Trần Nghị, Phó thủ tướng Lý Tiên Niệm, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh,
Thượng tướng Tiêu Hoa, khi nhảy thì ưỡn ngực ra, ghì sát các cô diễn
viên trẻ đẹp, mặt chạm cả vào phấn son của người ta, các em không dám
nói, không dám cự tuyệt. Vì được tuyển chọn vào Trung Nam Hải để làm bạn
nhảy với các vị lãnh đạo quốc gia, là “đi làm nhiệm vụ” cần phải “hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị vinh quang đã được Đảng, quân đội giao
phó”. Qua tuyển chọn lý lịch chính trị tốt mới được đi làm nhiệm vụ, ai
mà chẳng thấy vinh hạnh. Mao Trạch Đông rất ít khi cùng đi nhảy với phu
nhân. Giang Thanh cũng có lần đến sàn nhảy ngồi xem, rất ít người dám
nhảy với Giang Thanh. Giang Thanh xuất thân từ minh tinh màn bạc, đương
nhiên nhảy rất giỏi nhưng tính khí lạ thường. Sau khi Mao Trạch Đông đến
sàn nhảy liền ngồi vào chỗ salon giành riêng uống trà nói chuyện, có
khi hẹn người đến đây thảo luận, hội báo công tác.
Thường
Mao Trạch Đông đến sàn nhảy và ở đó từ hơn 22giờ đến 1giờ sáng. Các nữ
diễn viên trẻ đẹp được cùng nhảy với vị lãnh đạo vĩ đại đều lấy làm vinh
dự. Có khi một bản nhạc, Mao Trạch Đông thay đổi 3 cô để nhảy. Ngoài vũ
trường các nhân viên văn công khác tự nhiên phải biết phận mình nghiêm
chỉnh giữ “kỷ luật cách mạng”.
(Xem tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét