Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang: CÒN ĐÓ NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=demX6wk_pSg
-Đêm Nhạc Tưởng Niệm Ngày Giỗ Đầu Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang: CÒN ĐÓ NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU SAU NỬA THẾ KỶ DÂN VIỆT (04/06/2012)
“Tôi
chót sinh ra làm dân nhược tiểu, nỗi tủi hờn căm bừng trên tay, nỗi
nhục nhằn chĩu nặng đôi vai…” (Nỗi Buồn Nhược Tiểu - Nhạc & Lời:
Nguyễn Đức Quang).
Vào tối Thứ Bảy ngày 31/03/2012, bạn bè, người thân, những người yêu mến cố nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã tụ họp về hội trường báo Người Việt để dự đêm nhạc tưởng nhớ lại người đàn anh du ca đã ra đi tròn một năm.
Có những người bạn du ca tự khắp nơi đổ về. Đến từ xa nhất là vợ chồng anh chị Nguyễn Quyết Thắng, du ca Ban Mê Thuộc, từ Hoà Lan về theo “tiếng chim gọi đàn”, như lời anh Thắng nói. Gần hơn một chút là những người du ca từ Bắc, Nam Cali cũng có mặt để góp lời…
Gần như toàn bộ đêm nhạc hôm đó là nhạc Nguyễn Đức Quang. Có một số người cho rằng dù anh Quang sáng tác được nhiều thể loại, nhưng dấu ấn lớn nhất của anh là thể nhạc du ca, hát trong các sinh hoạt cộng đồng, hát trong những trại hè sinh viên, hát trong những đêm lửa trại hướng đạo… Bạn bè, thế hệ đàn em của anh Quang đã cố gắng tái tạo lại không khí hào hùng của những sinh hoạt đó... Ấy vậy mà khi nghe lại những ca khúc ấy ở Little Saigon, một nơi chốn bình yên cách quê hương Việt Nam gần nửa vòng trái đất, không ít người đã có một cảm giác buồn buồn…
Vì những trăn trở của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang về quê hương Việt nam cách đây nửa thế kỷ hình như vẫn còn nguyên…
“Chuyện Việt Nam đã mấy mươi năm, mấy trăm năm hay đã hơn ngàn năm, mấy ngàn năm chưa thấy vẻ vang, trên đường đi vẫn đầy bóng tối tăm…” (Chuyện Quê Ta)
Hơn bao giờ hết, những người còn quan tâm tới Việt Nam đều nhận ra rằng tình hình Việt Nam hiện nay về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội… không mấy sáng sủa.
“Cho đồng bào tôi ở khắp bốn phương trời
Hát những bài ca tôi đòi đã mòn hơi…
…Đêm đêm đi dạy vá vay thêm, hay mang xe đèo kiếm cơm ăn
Thân trâu kéo cày, bên lũ hưởng nhàn…” (Cho Đồng Bào Tôi)
Nếu không biết đây là những lời hát đã viết cách đây gần nửa thế kỷ, nhiều người sẽ nghĩ rằng đây chính là lời miêu tả chân thực cho xã hội Việt Nam hiện tại! Không buồn sao được, khi mà chúng ta cứ phải nhìn quê nhà ì ạch, không thoát ra khỏi những bế tắc của 50 năm trước!
Hợp ca Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong đêm nhạc kỷ niệm giỗ đầu nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang.
Khi
viết ca khúc Nỗi Buồn Nhược Tiểu vào năm 1964, chắc nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang đang nhìn quê hương chia cắt, bom đạn một cách bi ai. Nhưng chắc
anh Quang lúc đó không thể ngờ rằng, vẫn có những nỗi buồn còn ray rứt
hơn là việc làm con dân của một quốc gia nhược tiểu. Đó là nỗi buồn của
những người dân nước chậm tiến mà lại còn không có quyền nhận ra nỗi
nhục này, để mà gào to lên cho thỏa nỗi tủi hờn! Ở cuối bài hát, nhạc sĩ
Nguyễn Đức Quang vẫn còn đủ niềm tin để kêu gọi đồng bào đừng bỏ cuộc,
mà hãy góp tay vào để vực dậy non sông:“…Hãy đứng dậy hỡi anh này, hãy đứng dậy hỡi em này
Bao người con Việt Nam, cùng tay cầm tay, dựng xây đất nước…”
Còn bây giờ ở Việt Nam, có mấy ai dám kêu gọi như vậy khi sơn hà nguy biến? Có nhiều người liên tưởng tới nhạc sĩ Việt Khang và ca khúc “ Việt Nam Tôi Đâu”. Ca khúc này mới đây trở thành một hiện tượng trong cộng đồng chúng ta, không phải vì giá trị âm nhạc của nó, mà bởi vì tinh thần can đảm của người nhạc sĩ, dám nhận diện và nói lên thân phận nhược tiểu của đất nước mình, bất chấp hậu quả chắc chắn sẽ đến là tù tội. Nếu còn sống, hẳn anh Quang sẽ có nhiều đồng cảm dành cho Việt Khang…
Hùng ca chính là đóng góp lớn nhất của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang cho nền âm nhạc Miền Nam Việt Nam trước 1975. Đã nửa thế kỷ rồi, mà mỗi khi nghe lại bài hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, hầu như ai cũng cảm thấy lòng yêu nước dâng trào: “…Còn Việt Nam, triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng…”. Hỏi ai trong chúng ta không cảm thấy hào khí ngất trời khi cùng hát bài Đường Việt Nam:
“… Nhưng càng mưa dông càng vươn tới
Bước chân hùng còn đi rất hăng
Đi dựng lấy huy hoàng, giống da vàng này là vua đấu tranh…”
Nhưng cũng chính những bản hùng ca đó lại làm chúng ta ngậm ngùi. Những ngọn lửa trong trái tim của thế hệ anh Nguyễn Đức Quang đã không thể đem lại mùa xuân cho dân tộc. Và giờ đây, khi Việt Nam đang cần hơn bao giờ hết những trái tim yêu nước, ngọn lửa trong những lời ca của người nghệ sĩ vẫn không thể bừng sáng lên trong thế hệ trẻ tại quê nhà. Nếu những bài hát đó chỉ được hát ở đây, ở một Little Saigon bình yên này, thì đó chỉ là sự hoài niệm. Những người cần ngồi cùng nhau hát bài Về Với Mẹ Cha “Từ Nam Quan Cà Mau, từ non cao rừng sâu, gặp nhau do non nước xây cầu…” phải là những thanh niên Việt Nam, chứ không phải là những mái đầu sương điểm ở chốn quê người…
Những lời hát cho thân phận Việt Nam vẫn đúng… Những hoài bão lớn lao cho dân tộc vẫn còn nguyên và chưa thực hiện được… Như vậy thì lời kêu gọi đoàn kết lại vẫn còn có giá trị. Và có ai đó, xin hãy chuyển lời kêu gọi này của Nguyễn Đức Quang về đến quê nhà:
“…Đường Việt Nam mời những bước chân rời, sát nhau lại vì đường vẫn còn xa…” (Đường Việt Nam)
Dân Việt
--Trách nhiệm... là trách nhiệm gì?
Tại cuộc họp báo công bố kết quả công tác của Thanh tra Chính phủ hôm qua.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: Sử dụng sai hàng chục ngàn tỉ đồng“Đại gia” dầu lửa Nga sẽ cùng Petro Vietnam khai thác khí đốt
Gazprom sẽ nắm 49% cổ phần của dự án này, số cổ phần còn lại do Petro Vietnam nắm giữ.-
Gazprom, hãng năng lượng khổng lồ của Nga vừa ký thỏa thuận liên doanh khai thác khí đốt với Petro Vietnam trên biển Đông.Theo hãng tin RIA Novosti của Nga, Gazprom sẽ nắm 49% cổ phần của dự án này, số cổ phần còn lại do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) nắm giữ. Dự án sẽ khai thác khí đốt tại hai lô số 05.2 và 05.3 trên biển Đông. Lễ ký kết thỏa thuận này diễn ra ngày 5/4 tại Hà Nội nhân dịp Tổng giám đốc Gazprom, ông Alexey Miller, dẫn đầu một đoàn công tác đang thăm và làm việc tại Việt Nam.
“Các thỏa thuận đã được ký kết giữa hai bên về đào tạo và đào tạo lại nhân sự, cũng như sự tham gia của Gazprom vào dự án để cùng phát triển các lô đã được cấp phép số 05.2 và 05.3 thuộc thềm lục địa Việt Nam”, tuyên bố của Gazprom được RIA Novosti trích dẫn.
Đại diện cho Gazprom trong liên doanh này sẽ là một chi nhánh thuộc toàn quyền sở hữu của tập đoàn mang tên Gazprom International.
Vào ngày 15/12/2009, Gazprom và Petro Vietnam đã ký một thỏa thuận đối tác chiến lược, trong đó hai bên nhất trí sẽ tiếp tục phát triển các mỏ năng lượng tại thềm lục địa của Việt Nam.
Trước đó, vào tháng 10/2008, Gazprom và Petro Vietnam đã ký hợp đồng khai thác dầu khí thời hạn 30 năm tại các giếng 129, 130, 131, 132 thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Hai lô số 05.2 và 05.3 thuộc thềm lục địa Việt Nam trên biển Đông là nơi mà Việt Nam đã phát hiện thấy hai mỏ khí ngưng tụ là Mộc Tinh ở lô số 05.3 và Hải Thạch thuộc cả lô 05.2 và 05.3, cùng một mỏ dầu có tên Kim Cương Tây thuộc lô 05.2.
Tổng trữ lượng khí đốt của cả hai mỏ trên ước tính ở mức 55,6 tỷ m3 và 25,1 triệu tấn khí ngưng tụ. Gazprom và Petro Vietnam dự kiến sẽ khoan 16 giếng với độ sâu 2.000 - 4.600 m để khai thác các lô này.
- Nga tham gia dự án khí ở Biển Đông – (BBC). – Trung Quốc lại cảnh cáo Ấn Độ không được thăm dò dầu khí ở Biển Đông – (VOA). :Công Ty Nga Gazprom Vô VN Khai Thác 2 Lô ở Biển Đông (04/06/2012) -
---Chiến lược của Tàu ỡ Biển Đông: China's Strategy in the South China Sea (Contemporary Southeast Asia March 2011) -- Bài của Taylor Fravel mà "người sành điệu" chờ đợi đã lâu! (Trong bài này, Fravel có nhiều lý luận mà THD không đồng ý. Đăng bài này ở đây để các bạn biết có người nghĩ như thế, không phải vì tôi đồng ý với tác giả, đừng "bắn người đưa tin" nha!)..Trong số báo này có nhiều bài hay, ngày mai đăng tiếp! ◄◄
-Sự kiện Mỹ xoay trở lại châu Á gây sóng gió trong khu vực: US pivot making waves in the region (Straits Times 5-4-12) -- Bài của Mark Valencia
Biển Đông - ASEAN chia rẽ: Asian Bloc Split on Disputes With China (WSJ 4-4-12)
Trổi dậy quân sự của Trung Quốc: China’s military rise (Economist 6-4-12) -- Bài trên trang bìa tạp chí Economist tuần này.
- Tàu cá cùng 9 ngư dân bị tàu lạ đâm chìm (Dân Trí). – – 9 thuyền viên gặp nạn vào bờ an toàn (Thanh Niên). – 12 tàu cá Việt ứng cứu một tàu cá Việt (Tuổi Trẻ ). – PGS-TS Võ Văn Trác, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nghề cá VN: Lập quỹ hỗ trợ ngư dân bị nước ngoài bắt giữ (PLTP). - Chia sẻ cùng người bám biển (TN). –
- Tri ân lính Hoàng Sa (TN). –- Tặng bằng khen cho gia tộc họ Đặng hiến tờ lệnh quý (TN). - Hiến tặng tờ lệnh quý Hoàng Sa: Tộc họ Đặng được tặng bằng khen (NLĐ).
- Trung Quốc công khai tuyên bố có kế hoạch du lịch ra Hoàng Sa – (RFI). – Giới chức TQ phủ nhận kế hoạch khai thác du lịch tại Hoàng Sa – (VOA). - Báo TQ nói ‘Biển Đông chia rẽ Asean’ – (BBC). – ASEAN bế tắc trong hồ sơ tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông – (RFI). – Bắc Kinh kêu gọi « một môi trường khu vực hòa bình » – (RFI). – Trung Quốc khẳng định không muốn đàm phán với ASEAN về Biển Đông – (RFI). – Phạm Trần: Việt nam trúng gió Tàu ở hội nghị ASEAN – Nam Vang (Thông Luận). – Lê Duy Nhân: Thông điệp từ Bắc Kinh (Thông Luận).- Kết quả cuộc nghiên cứu về quan hệ Mỹ-Trung – (VOA). - Mỹ và đồng minh trước một Trung Quốc trỗi dậy (JapanTimes/ VNN). - Mỹ không đóng quân tại Singapore (TN). - Mỹ không đủ máy bay tàng hình đánh Trung, Triều (TTXVN).
- Vì sao Palau cứng rắn? (TN). – Báo TQ phản ứng vụ Palau bắn ngư dân – (BBC). – Hàn Quốc đề nghị tử hình thuyền trưởng Trung Quốc (Yonhap/ Korean Herald/ PLVN).
- CH Czech muốn bán vũ khí cho Việt Nam – (BBC).
Giải quyết tranh chấp Biển Đông quan trọng nhất DOC
Đôi lời: Có một bài
báo về Hội nghị thượng đỉnh ASEAN và vấn đề Biển Đông với giọng điệu khá
nghiêm khắc khi nói về thái độ xấu của Trung Quốc, được đăng trên tất
cả các trang web của các vị lãnh đạo đảng, nhà nước. Tuy nhiên, nó na ná
một bài được đăng trước đó nửa ngày trên blog của nhà báo Hữu Nguyên
(được “rút gọn” để đăng trên Đại đoàn kết), nhưng tên tác giả thì không
giống.
Xin đăng dưới đây cả 3 bài, có chút đối chiếu giữa bài trên trang Nguyễn Phú Trọng và bài trên blog Hữu Nguyên, những chữ màu vàng là trùng nhau ở 2 văn bản.
Nguyenphutrong.com
Ngày 4/3, Hội nghị cấp cao ASEAN – 20 tại Campuchia đã bế mạc, thông qua tuyên bố chung Phnom Penh vẫn tiếp tục nhấn mạnh về vấn đề Biển Đông.
Biển đông “nóng” tại Phnom Penh
Do đó, ASEAN tiếp tục duy trì những cam kết chung đã được phản ánh trong Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông 2002 (DOC) và các nguyên tắc được công nhận rộng rãi của pháp luật quốc tế. Trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và hướng tới việc hiện thực hóa Bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).
Trước hết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa – chính trị của ASEAN, có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của nhiều thành viên Hiệp hội này. Và là một trong những tuyến hàng hải thương mại nhộn nhịp hàng đầu thế giới, trong đó có lợi ích của nhiều cường quốc. Do đó, việc duy trì an ninh, ổn định trên Biển Đông không chỉ quan trọng với các quốc gia trong khu vực mà còn có ý nghĩa quốc tế. Hiến chương ASEAN, văn bản quan trọng bậc nhất cho tương lai phát triển của các quốc gia trong khu vực đã khẳng định một trong những mục tiêu hàng đầu của Hiệp hội là “nhằm đảm bảo rằng người dân và các quốc gia thành viên của ASEAN được sống trong hòa bình”. Để làm được điều đó, ASEAN đã cam kết “luôn duy trì vai trò trung tâm và chủ động… là một động lực cơ bản trong quan hệ, hợp tác của mình với các đối tác bên ngoài”. Tinh thần này, khi triển khai trong thực tế, đòi hỏi ASEAN phải tích cực trong vấn đề Biển Đông, chủ động tham gia vào việc thúc đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho các tranh chấp tại đây.
Trung Quốc tự cô lập mình
Trong tất cả các bên có liên quan ở Biển Đông, Trung Quốc là nước duy nhất hạ thấp vai trò của ASEAN và mong muốn làm suy yếu tổ chức này bằng các hoạt động theo kiểu “chia để trị”. Chính vì vậy, Trung Quốc luôn bảo lưu lập trường giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng cơ chế song phương. Tuy nhiên, trước sự đoàn kết, nhất trí cao của hiệp hội, Trung Quốc vẫn buộc phải miễn cưỡng chấp nhận vai trò của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông. Sắp tới đây tháng 11/2012, ASEAN và Trung Quốc sẽ kỷ niệm 10 năm DOC được ký kết cũng tại Phnom Penh. Việc ký kết DOC 2002 được xem là một thành tựu lớn trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng lòng tin trong khu vực và các giá trị chuẩn mực chung.
Song trên thực tế, kể từ DOC tới nay, các nước trong khu vực và cộng đồng thế giới lại thường xuyên chứng kiến một Trung Quốc hành xử trên Biển Đông theo kiểu “hành động đơn phương, tuyên bố ứng phó”. Hiện tượng này bắt nguồn từ việc Trung Quốc tự mình tin rằng họ có chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông với yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý. Cách hành xử theo kiểu “nói một đàng làm một nẻo” của Trung Quốc những năm gần đây trên Biển Đông không chỉ làm phức tạp tình hình mà càng khiến cho hình ảnh của một Trung Quốc đang “trỗi dậy hòa bình” bị tổn hại trong nhận thức của thế giới mà đặc biệt là với các quốc gia có tranh chấp trên Biển Đông. Để đối phó, họ đề xuất một chính sách “chia để trị”, bằng cách hỗ trợ một số nước trong khi lại trừng phạt và gây hấn với một số nước khác.
Tuy nhiên, chính sách này hiện nay mang ý nghĩa rất tiêu cực và dễ dàng bị nhận diện bởi các quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nếu Trung Quốc càng kiên trì với chính sách này thì họ càng khó có thể xây dựng được lòng tin với người dân của các quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng. Và cách tốt nhất mà Trung Quốc có thể tránh được điều tiếng tai hại này là họ nên thay đổi cách hành xử, thật sự có thiện chí hợp tác gần gũi hơn, chia sẻ hơn các quyền lợi chính đáng của các quốc gia trong khu vực ở cấp độ song phương lẫn đa phương.
Không chỉ Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng mà rất nhiều lãnh đạo quốc gia khác của ASEAN đã bày tỏ sự ủng hộ hết mình chủ đề của Hội nghị năm 2012 là xây dựng một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, liên kết chặt chẽ không những là lợi ích chung của khu vực mà còn là mục tiêu chiến lược của các nước thành viên. Sự tham gia của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông trên thực tế đã có quá trình lịch sử lâu dài, đáp ứng được lợi ích của tất cả các bên, bao gồm Trung Quốc. Tăng cường sự tham gia của một ASEAN năng động, đoàn kết, không làm suy yếu lợi ích hợp pháp của bất cứ bên nào mà ASEAN đang cố gắng thực hiện sẽ “đem giá trị đến với tất cả, thậm chí bao gồm cả những nước không có yêu sách đối với các địa hình đất hay quyền tài phán trên Biển Đông, mà có một lợi ích trong hòa bình, ổn định ở khu vực và tự do hàng hải ở đây”.
Theo trang web của Bộ Ngoại giao Philippines, tại phiên họp kín, Tổng thống Benigno Aquino III khẳng định Philippines xem giải pháp giải quyết tranh chấp ở biển Đông thông qua Công ước LHQ về Luật Biển là quan trọng nhất. Philippines tin tưởng trong Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) có các điều khoản phân chia khu vực tranh chấp và không tranh chấp.
Hãng tin DPA (Đức) dẫn lời Tổng Thư ký ASEAN Surin Pitsuwan tuyên bố dự thảo COC sẽ được soạn thảo trong nội bộ ASEAN xong mới mời Trung Quốc thảo luận tiếp. Quan điểm này được Thủ tướng Malaysia Datuk Seri Najib Tun Razak và Ngoại trưởng Thái Lan Surapong Tovichakchaikul đồng tình. Ông Surin Pitsuwan cho biết ASEAN muốn hoàn thành dự thảo COC trong năm nay.
Mộc Lan
Xin đăng dưới đây cả 3 bài, có chút đối chiếu giữa bài trên trang Nguyễn Phú Trọng và bài trên blog Hữu Nguyên, những chữ màu vàng là trùng nhau ở 2 văn bản.
Nguyenphutrong.com
Giải quyết tranh chấp Biển Đông quan trọng nhất DOC
05/04/2012 8:30 amNgày 4/3, Hội nghị cấp cao ASEAN – 20 tại Campuchia đã bế mạc, thông qua tuyên bố chung Phnom Penh vẫn tiếp tục nhấn mạnh về vấn đề Biển Đông.
Biển đông “nóng” tại Phnom Penh
Do đó, ASEAN tiếp tục duy trì những cam kết chung đã được phản ánh trong Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông 2002 (DOC) và các nguyên tắc được công nhận rộng rãi của pháp luật quốc tế. Trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và hướng tới việc hiện thực hóa Bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).
Đảo đá lớn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam.
Dù cho phía Trung Quốc tìm đủ mọi cách để kìm hãm việc ASEAN và nước tiến tới những quy định ràng buộc hơn, mang tính pháp lý về ứng xử trên Biển Đông như là COC. Vẫn không
ngăn cản được tình hình diễn ra ngoài ý muốn của Trung Quốc tại Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 ở Phnom Penh. Bởi nhiều quốc gia ASEAN có
những lý do chiến lược để tham gia lâu dài, liên tục và tìm kiếm sự đồng
thuận cao ở cấp thượng đỉnh trong việc giải quyết căng thẳng trên Biển
Đông.Trước hết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa – chính trị của ASEAN, có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của nhiều thành viên Hiệp hội này. Và là một trong những tuyến hàng hải thương mại nhộn nhịp hàng đầu thế giới, trong đó có lợi ích của nhiều cường quốc. Do đó, việc duy trì an ninh, ổn định trên Biển Đông không chỉ quan trọng với các quốc gia trong khu vực mà còn có ý nghĩa quốc tế. Hiến chương ASEAN, văn bản quan trọng bậc nhất cho tương lai phát triển của các quốc gia trong khu vực đã khẳng định một trong những mục tiêu hàng đầu của Hiệp hội là “nhằm đảm bảo rằng người dân và các quốc gia thành viên của ASEAN được sống trong hòa bình”. Để làm được điều đó, ASEAN đã cam kết “luôn duy trì vai trò trung tâm và chủ động… là một động lực cơ bản trong quan hệ, hợp tác của mình với các đối tác bên ngoài”. Tinh thần này, khi triển khai trong thực tế, đòi hỏi ASEAN phải tích cực trong vấn đề Biển Đông, chủ động tham gia vào việc thúc đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho các tranh chấp tại đây.
Trung Quốc tự cô lập mình
Trong tất cả các bên có liên quan ở Biển Đông, Trung Quốc là nước duy nhất hạ thấp vai trò của ASEAN và mong muốn làm suy yếu tổ chức này bằng các hoạt động theo kiểu “chia để trị”. Chính vì vậy, Trung Quốc luôn bảo lưu lập trường giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng cơ chế song phương. Tuy nhiên, trước sự đoàn kết, nhất trí cao của hiệp hội, Trung Quốc vẫn buộc phải miễn cưỡng chấp nhận vai trò của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông. Sắp tới đây tháng 11/2012, ASEAN và Trung Quốc sẽ kỷ niệm 10 năm DOC được ký kết cũng tại Phnom Penh. Việc ký kết DOC 2002 được xem là một thành tựu lớn trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng lòng tin trong khu vực và các giá trị chuẩn mực chung.
Song trên thực tế, kể từ DOC tới nay, các nước trong khu vực và cộng đồng thế giới lại thường xuyên chứng kiến một Trung Quốc hành xử trên Biển Đông theo kiểu “hành động đơn phương, tuyên bố ứng phó”. Hiện tượng này bắt nguồn từ việc Trung Quốc tự mình tin rằng họ có chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông với yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý. Cách hành xử theo kiểu “nói một đàng làm một nẻo” của Trung Quốc những năm gần đây trên Biển Đông không chỉ làm phức tạp tình hình mà càng khiến cho hình ảnh của một Trung Quốc đang “trỗi dậy hòa bình” bị tổn hại trong nhận thức của thế giới mà đặc biệt là với các quốc gia có tranh chấp trên Biển Đông. Để đối phó, họ đề xuất một chính sách “chia để trị”, bằng cách hỗ trợ một số nước trong khi lại trừng phạt và gây hấn với một số nước khác.
Tuy nhiên, chính sách này hiện nay mang ý nghĩa rất tiêu cực và dễ dàng bị nhận diện bởi các quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nếu Trung Quốc càng kiên trì với chính sách này thì họ càng khó có thể xây dựng được lòng tin với người dân của các quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng. Và cách tốt nhất mà Trung Quốc có thể tránh được điều tiếng tai hại này là họ nên thay đổi cách hành xử, thật sự có thiện chí hợp tác gần gũi hơn, chia sẻ hơn các quyền lợi chính đáng của các quốc gia trong khu vực ở cấp độ song phương lẫn đa phương.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự phiên họp hẹp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ngày 4.4
ASEAN muốn thực hiện hiệu quả COCKhông chỉ Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng mà rất nhiều lãnh đạo quốc gia khác của ASEAN đã bày tỏ sự ủng hộ hết mình chủ đề của Hội nghị năm 2012 là xây dựng một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, liên kết chặt chẽ không những là lợi ích chung của khu vực mà còn là mục tiêu chiến lược của các nước thành viên. Sự tham gia của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông trên thực tế đã có quá trình lịch sử lâu dài, đáp ứng được lợi ích của tất cả các bên, bao gồm Trung Quốc. Tăng cường sự tham gia của một ASEAN năng động, đoàn kết, không làm suy yếu lợi ích hợp pháp của bất cứ bên nào mà ASEAN đang cố gắng thực hiện sẽ “đem giá trị đến với tất cả, thậm chí bao gồm cả những nước không có yêu sách đối với các địa hình đất hay quyền tài phán trên Biển Đông, mà có một lợi ích trong hòa bình, ổn định ở khu vực và tự do hàng hải ở đây”.
Theo trang web của Bộ Ngoại giao Philippines, tại phiên họp kín, Tổng thống Benigno Aquino III khẳng định Philippines xem giải pháp giải quyết tranh chấp ở biển Đông thông qua Công ước LHQ về Luật Biển là quan trọng nhất. Philippines tin tưởng trong Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) có các điều khoản phân chia khu vực tranh chấp và không tranh chấp.
Hãng tin DPA (Đức) dẫn lời Tổng Thư ký ASEAN Surin Pitsuwan tuyên bố dự thảo COC sẽ được soạn thảo trong nội bộ ASEAN xong mới mời Trung Quốc thảo luận tiếp. Quan điểm này được Thủ tướng Malaysia Datuk Seri Najib Tun Razak và Ngoại trưởng Thái Lan Surapong Tovichakchaikul đồng tình. Ông Surin Pitsuwan cho biết ASEAN muốn hoàn thành dự thảo COC trong năm nay.
Mộc Lan
——————————-
Blog Hữu NguyênBiển Đông vẫn “nóng” ở Phnom Penh
Hữu Nguyên
.
Bất chấp các thông tin về việc nước chủ
nhà sẽ không đưa vấn đề Biển Đông vào nghị trình chính thức của Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN 2012, Tuyên bố chung Phnom Penh ngày 3/4/2012 vẫn tiếp tục nhấn mạnh vấn đề Biển Đông. Theo
đó, ASEAN tiếp tục duy trì những cam kết chung đã được phản ảnh trong
Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông 2002 (DOC) và các nguyên
tắc được công nhận rộng rãi của pháp luật quốc tế. Trong đó có Công ước
của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và hướng tới việc hiện thực
hóa Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).
Trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 mấy ngày, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có chuyến công du chính thức Campuchia. Lần đầu tiên sau 12 năm, chuyến thăm của người đứng đầu Trung Quốc tới Campuchia theo các nhà phân tích không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên với việc Campuchia đang ngồi ghế chủ tịch luân phiên của ASEAN trong năm 2012. Phát biểu trong chuyến viếng thăm Campuchia, ông Hồ Cẩm Đào cho biết Trung Quốc muốn tiến tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), nhưng “không quá nhanh, để tranh chấp không đe doạ sự ổn định, an ninh khu vực”. Có thể nói, từ lâu Trung Quốc đã làm đủ mọi cách để “câu giờ” việc ASEAN và nước này tiến tới những quy định ràng buộc hơn, mang tính pháp lý về ứng xử trên Biển Đông như là COC. Trong suốt thời gian “câu giờ” này, Trung Quốc luôn điều khiển các hành động theo mong muốn mọi việc ứng xử và quản lý tranh chấp diễn ra “theo kiểu Trung Quốc”. Có nghĩa là nước này không chấp nhận đàm phán đa phưong và quốc tế hoá vấn đề Biển Đông, được xem sẽ rất bất lợi cho Trung Quốc. Vì vậy, điều mà Trung Quốc đang làm ở Campuchia là cố gắng thuyết phục quốc gia đương kim chủ tịch luân phiên của ASEAN, tạo ảnh hưởng lên ASEAN để ngăn chận một sự nhất trí cao trong vấn đề Biển Đông có thể gây khó khăn cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, tất cả những nỗ lực trên đã không ngăn cản được tình hình diễn ra ngoài ý muốn của Trung Quốc tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 mới đây ở Phnom Penh. Đơn giản là nhiều quốc gia ASEAN có những lý do chiến lược để tham gia lâu dài, liên tục và tìm kiếm sự đồng thuận cao ở cấp thượng đỉnh trong việc quản lý căng thẳng trên Biển Đông. Trước hết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa chính trị của ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của nhiều thành viên hiệp hội này. Biển Đông còn là một trong những tuyến hàng hải thương mại nhộn nhịp hàng đầu thế giới, trong đó có lợi ích của nhiều cường quốc. Do đó, việc duy trì an ninh và ổn định trên Biển Đông không chỉ quan trọng với các quốc gia trong khu vực mà còn có ý nghĩa quốc tế. Hiến chương ASEAN, văn bản quan trọng bậc nhất cho tương lai phát triển của các quốc gia trong khu vực đã khẳng định một trong những mục tiêu hàng đầu của hiệp hội là “nhằm đảm bảo rằng người dân và các quốc gia thành viên của ASEAN được sống trong hòa bình”. Để làm được điều đó, ASEAN đã cam kết “luôn duy trì vai trò trung tâm và chủ động… là một động lực cơ bản trong quan hệ và hợp tác của mình với các đối tác bên ngoài”. Tinh thần này, khi triển khai trong thực tế, đòi hỏi ASEAN phải tích cực trong vấn đề Biển Đông, chủ động tham gia vào việc thúc đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho các tranh chấp ở đây. Diễn biến tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 ở Phnom Penh mới đây chính là “phép thử” trên thực tế cho vai trò trung tâm và trụ cột của ASEAN trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp của khu vực.
Trong tất cả các bên có liên quan ở Biển Đông, Trung Quốc là nước duy nhất hạ thấp vai trò của ASEAN và mong muốn làm suy yếu tổ chức này bằng các hoạt động theo kiểu “chia để trị”. Chính vì vậy, Trung Quốc luôn bảo lưu lập trường giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng cơ chế song phương. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Trung Quốc vẫn buộc phải miễn cưỡng chấp nhận vai trò của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông mỗi khi hiệp hội này có sự đoàn kết, nhất trí cao. Tháng 11 năm nay, ASEAN và Trung Quốc sẽ kỷ niệm 10 năm DOC được ký kết cũng tại Phnom Penh. Việc ký kết DOC 2002 được xem là một thành tựu lớn trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng lòng tin trong khu vực và các giá trị chuẩn mực chung. Song, kể từ DOC tới nay, các nước trong khu vực và cộng đồng thế giới lại thường xuyên chứng kiến một Trung Quốc hành xử trên Biển Đông theo kiểu “hành động đơn phương, tuyên bố ứng phó”. Hiện tượng này bắt nguồn từ việc Trung Quốc tự mình tin rằng họ có chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông với yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý. Cách hành xử theo kiểu “nói một đàng làm một nẻo” của Trung Quốc những năm gần đây trên Biển Đông không chỉ làm phức tạp tình hình mà càng khiến cho hình ảnh của một cường quốc đang “trỗi dậy hòa bình” bị tổn hại trong nhận thức của thế giới mà đặc biệt là với các quốc gia có tranh chấp trên Biển Đông. Chính các học giả Trung Quốc đôi khi cũng thể hiện mối lo về một “liên minh châu Á” chống lại Trung Quốc. Để đối phó, họ đề xuất một chính sách “chia để trị”, bằng cách hỗ trợ một số nước trong khi lại trừng phạt và gây hấn với một số nước khác. Tuy nhiên, chính sách này trong thế giới ngày nay mang ý nghĩa rất tiêu cực và dễ dàng bị nhận diện bởi các quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nếu Trung Quốc càng kiên trì với chính sách này thì họ càng khó có thể xây dựng được lòng tin với người dân của các quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng.Và cách tốt nhất mà Trung Quốc có thể tránh được điều tiếng tai hại này là họ nên thay đổi cách hành xử, thật sự có thiện chí hợp tác gần gũi hơn, chia sẻ hơn các quyền lợi chính đáng của các quốc gia trong khu vực ở cấp độ song phương lẫn đa phương.
Không chỉ Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng mà rất nhiều lãnh đạo quốc gia khác của ASEAN đã bày tỏ sự ủng hộ hết mình chủ đề của năm 2012 là xây dựng một ASEAN đoàn kết, vững mạnh và liên kết chặt chẽ không những là lợi ích chung của khu vực mà còn là mục tiêu chiến lược của các nước thành viên. Bởi vì, một ASEAN thiếu đoàn kết sẽ khiến cho tổ chức này ít quan trọng hơn về kinh tế và chiến lược đối với các nước thành viên so với các cường quốc bên ngoài. Sự tham gia của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp Biển Đông trên thực tế đã có quá trình lịch sử lâu dài và đáp ứng được lợi ích của tất cả các bên, bao gồm cả Trung Quốc. Tăng cường sự tham gia của một ASEAN năng động và đoàn kết, không làm suy yếu lợi ích hợp pháp của bất cứ bên nào. Thay vào đó, những gì mà ASEAN đang cố gắng thực hiện sẽ “đem giá trị đến với tất cả, thậm chí bao gồm cả những nước không có yêu sách đối với các địa hình đất hay quyền tài phán trên Biển Đông, mà có một lợi ích trong hòa bình và ổn định ở khu vực và tự do hàng hải ở đây”, như nhiều tuyên bố của ASEAN từng khẳng định.
Mặc dù các thông tin về việc nước chủ nhà sẽ không đưa vấn đề Biển Đông vào nghị trình chính thức của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012, Tuyên bố chung Phnom Penh ngày 3-4-2012 vẫn tiếp tục nhấn mạnh vấn đề Biển Đông.
The Cultural Revolution in China was replaced by KFC? – utter stupidity.
- Ngốc và nguy hiểm.
Trên thực tế , Rợ đang thực hiện mốt cuộc CM VH mới – nói đúng hơn là một cuộc chiến tranh VH- tại nó và trên toàn cầu.
1/ Tại nó: đó là sữa bẩn, là hàng giả, là hàng chục người đí qua 1 em bé 2 tuổi bị xe đè mà ko ai giúp đỡ, là diệt chủng VH ở Tibet.
2/ Trên toàn cầu: Là tạo ảnh hưởng tại Africa, Latino và cả trên đất Mẽo.
Ta nghe nói đã có nhg “Viện Khổng Tử” ở Mẽo.
Thế đó, cái Theory of Slavery mà ngay ở Vietnam cũng đang bị gạt bổ lại bắt đầu tìm thấy đất sống ở Mẽo.
….
Sau mấy chục năm móc ví nuôi béo Rợ, mài nanh sửa vuốt cho Rợ, Mẽo bị khủng hoảng ngay trong óc mình.
..
-April 4, 2012
WALTER RUSSELL MEAD
As I’ve been writing about the crisis of the blue social model, I’ve mostly focused on its consequences for North American and European societies. Canada, the US and the countries of western and central Europe are the places where the blue model has become most solidly entrenched and fully developed, and in the first instance the decline of that social model is registering most forcefully in their political and cultural lives.
Trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 mấy ngày, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có chuyến công du chính thức Campuchia. Lần đầu tiên sau 12 năm, chuyến thăm của người đứng đầu Trung Quốc tới Campuchia theo các nhà phân tích không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên với việc Campuchia đang ngồi ghế chủ tịch luân phiên của ASEAN trong năm 2012. Phát biểu trong chuyến viếng thăm Campuchia, ông Hồ Cẩm Đào cho biết Trung Quốc muốn tiến tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), nhưng “không quá nhanh, để tranh chấp không đe doạ sự ổn định, an ninh khu vực”. Có thể nói, từ lâu Trung Quốc đã làm đủ mọi cách để “câu giờ” việc ASEAN và nước này tiến tới những quy định ràng buộc hơn, mang tính pháp lý về ứng xử trên Biển Đông như là COC. Trong suốt thời gian “câu giờ” này, Trung Quốc luôn điều khiển các hành động theo mong muốn mọi việc ứng xử và quản lý tranh chấp diễn ra “theo kiểu Trung Quốc”. Có nghĩa là nước này không chấp nhận đàm phán đa phưong và quốc tế hoá vấn đề Biển Đông, được xem sẽ rất bất lợi cho Trung Quốc. Vì vậy, điều mà Trung Quốc đang làm ở Campuchia là cố gắng thuyết phục quốc gia đương kim chủ tịch luân phiên của ASEAN, tạo ảnh hưởng lên ASEAN để ngăn chận một sự nhất trí cao trong vấn đề Biển Đông có thể gây khó khăn cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, tất cả những nỗ lực trên đã không ngăn cản được tình hình diễn ra ngoài ý muốn của Trung Quốc tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 mới đây ở Phnom Penh. Đơn giản là nhiều quốc gia ASEAN có những lý do chiến lược để tham gia lâu dài, liên tục và tìm kiếm sự đồng thuận cao ở cấp thượng đỉnh trong việc quản lý căng thẳng trên Biển Đông. Trước hết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa chính trị của ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của nhiều thành viên hiệp hội này. Biển Đông còn là một trong những tuyến hàng hải thương mại nhộn nhịp hàng đầu thế giới, trong đó có lợi ích của nhiều cường quốc. Do đó, việc duy trì an ninh và ổn định trên Biển Đông không chỉ quan trọng với các quốc gia trong khu vực mà còn có ý nghĩa quốc tế. Hiến chương ASEAN, văn bản quan trọng bậc nhất cho tương lai phát triển của các quốc gia trong khu vực đã khẳng định một trong những mục tiêu hàng đầu của hiệp hội là “nhằm đảm bảo rằng người dân và các quốc gia thành viên của ASEAN được sống trong hòa bình”. Để làm được điều đó, ASEAN đã cam kết “luôn duy trì vai trò trung tâm và chủ động… là một động lực cơ bản trong quan hệ và hợp tác của mình với các đối tác bên ngoài”. Tinh thần này, khi triển khai trong thực tế, đòi hỏi ASEAN phải tích cực trong vấn đề Biển Đông, chủ động tham gia vào việc thúc đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho các tranh chấp ở đây. Diễn biến tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 ở Phnom Penh mới đây chính là “phép thử” trên thực tế cho vai trò trung tâm và trụ cột của ASEAN trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp của khu vực.
Trong tất cả các bên có liên quan ở Biển Đông, Trung Quốc là nước duy nhất hạ thấp vai trò của ASEAN và mong muốn làm suy yếu tổ chức này bằng các hoạt động theo kiểu “chia để trị”. Chính vì vậy, Trung Quốc luôn bảo lưu lập trường giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng cơ chế song phương. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Trung Quốc vẫn buộc phải miễn cưỡng chấp nhận vai trò của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông mỗi khi hiệp hội này có sự đoàn kết, nhất trí cao. Tháng 11 năm nay, ASEAN và Trung Quốc sẽ kỷ niệm 10 năm DOC được ký kết cũng tại Phnom Penh. Việc ký kết DOC 2002 được xem là một thành tựu lớn trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng lòng tin trong khu vực và các giá trị chuẩn mực chung. Song, kể từ DOC tới nay, các nước trong khu vực và cộng đồng thế giới lại thường xuyên chứng kiến một Trung Quốc hành xử trên Biển Đông theo kiểu “hành động đơn phương, tuyên bố ứng phó”. Hiện tượng này bắt nguồn từ việc Trung Quốc tự mình tin rằng họ có chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông với yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý. Cách hành xử theo kiểu “nói một đàng làm một nẻo” của Trung Quốc những năm gần đây trên Biển Đông không chỉ làm phức tạp tình hình mà càng khiến cho hình ảnh của một cường quốc đang “trỗi dậy hòa bình” bị tổn hại trong nhận thức của thế giới mà đặc biệt là với các quốc gia có tranh chấp trên Biển Đông. Chính các học giả Trung Quốc đôi khi cũng thể hiện mối lo về một “liên minh châu Á” chống lại Trung Quốc. Để đối phó, họ đề xuất một chính sách “chia để trị”, bằng cách hỗ trợ một số nước trong khi lại trừng phạt và gây hấn với một số nước khác. Tuy nhiên, chính sách này trong thế giới ngày nay mang ý nghĩa rất tiêu cực và dễ dàng bị nhận diện bởi các quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nếu Trung Quốc càng kiên trì với chính sách này thì họ càng khó có thể xây dựng được lòng tin với người dân của các quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng.Và cách tốt nhất mà Trung Quốc có thể tránh được điều tiếng tai hại này là họ nên thay đổi cách hành xử, thật sự có thiện chí hợp tác gần gũi hơn, chia sẻ hơn các quyền lợi chính đáng của các quốc gia trong khu vực ở cấp độ song phương lẫn đa phương.
Không chỉ Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng mà rất nhiều lãnh đạo quốc gia khác của ASEAN đã bày tỏ sự ủng hộ hết mình chủ đề của năm 2012 là xây dựng một ASEAN đoàn kết, vững mạnh và liên kết chặt chẽ không những là lợi ích chung của khu vực mà còn là mục tiêu chiến lược của các nước thành viên. Bởi vì, một ASEAN thiếu đoàn kết sẽ khiến cho tổ chức này ít quan trọng hơn về kinh tế và chiến lược đối với các nước thành viên so với các cường quốc bên ngoài. Sự tham gia của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp Biển Đông trên thực tế đã có quá trình lịch sử lâu dài và đáp ứng được lợi ích của tất cả các bên, bao gồm cả Trung Quốc. Tăng cường sự tham gia của một ASEAN năng động và đoàn kết, không làm suy yếu lợi ích hợp pháp của bất cứ bên nào. Thay vào đó, những gì mà ASEAN đang cố gắng thực hiện sẽ “đem giá trị đến với tất cả, thậm chí bao gồm cả những nước không có yêu sách đối với các địa hình đất hay quyền tài phán trên Biển Đông, mà có một lợi ích trong hòa bình và ổn định ở khu vực và tự do hàng hải ở đây”, như nhiều tuyên bố của ASEAN từng khẳng định.
———————–
Đại đoàn kếtBiển Đông vẫn “nóng” ở Phnom Penh
(05/04/2012)Mặc dù các thông tin về việc nước chủ nhà sẽ không đưa vấn đề Biển Đông vào nghị trình chính thức của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012, Tuyên bố chung Phnom Penh ngày 3-4-2012 vẫn tiếp tục nhấn mạnh vấn đề Biển Đông.
Theo đó, ASEAN tiếp tục duy trì những
cam kết chung đã được phản ảnh trong Tuyên bố về ứng xử của các bên trên
Biển Đông 2002 (DOC) và các nguyên tắc được công nhận rộng rãi của pháp
luật quốc tế. Trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS) và hướng tới việc hiện thực hóa Bộ Quy tắc ứng xử của các bên
trên Biển Đông (COC).
.
Trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN
2012 mấy ngày, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có chuyến công du chính
thức Campuchia. Lần đầu tiên sau 12 năm, chuyến thăm của người đứng đầu
Trung Quốc tới Campuchia theo các nhà phân tích không phải là sự trùng
hợp ngẫu nhiên với việc Campuchia đang ngồi ghế Chủ tịch luân phiên của
ASEAN trong năm 2012. Phát biểu trong chuyến viếng thăm Campuchia, ông
Hồ Cẩm Đào cho biết Trung Quốc muốn tiến tới một Bộ Quy tắc ứng xử trên
Biển Đông (COC), nhưng “không quá nhanh, để tranh chấp không đe doạ sự
ổn định, an ninh khu vực”. Có thể nói, từ lâu Trung Quốc đã làm đủ mọi
cách để “câu giờ” việc ASEAN và nước này tiến tới những quy định ràng
buộc hơn, mang tính pháp lý về ứng xử trên Biển Đông như là COC. Trong
suốt thời gian “câu giờ” này, Trung Quốc luôn điều khiển các hành động
theo mong muốn mọi việc ứng xử và quản lý tranh chấp diễn ra “theo kiểu
Trung Quốc”. Có nghĩa là nước này không chấp nhận đàm phán đa phưong và
quốc tế hoá vấn đề Biển Đông, được xem sẽ rất bất lợi cho Trung Quốc. Vì
vậy, điều mà Trung Quốc đang làm ở Campuchia là cố gắng thuyết phục
quốc gia đương kim Chủ tịch luân phiên của ASEAN, tạo ảnh hưởng lên
ASEAN để ngăn chặn một sự nhất trí cao trong vấn đề Biển Đông có thể gây
khó khăn cho Trung Quốc.
.
Tuy nhiên, tất cả những nỗ lực trên đã
không ngăn cản được tình hình diễn ra ngoài ý muốn của Trung Quốc tại
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 mới đây ở Phnom Penh. Đơn giản là nhiều
quốc gia ASEAN có những lý do chiến lược để tham gia lâu dài, liên tục
và tìm kiếm sự đồng thuận cao ở cấp thượng đỉnh trong việc giải quyết
căng thẳng trên Biển Đông. Trước hết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa –
chính trị của ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của
nhiều thành viên Hiệp hội này. Biển Đông còn là một trong những tuyến
hàng hải thương mại nhộn nhịp hàng đầu thế giới, trong đó có lợi ích của
nhiều cường quốc. Do đó, việc duy trì an ninh và ổn định trên Biển Đông
không chỉ quan trọng với các quốc gia trong khu vực mà còn có ý nghĩa
quốc tế. Hiến chương ASEAN, văn bản quan trọng bậc nhất cho tương lai
phát triển của các quốc gia trong khu vực đã khẳng định một trong những
mục tiêu hàng đầu của Hiệp hội là “nhằm đảm bảo rằng người dân và các
quốc gia thành viên của ASEAN được sống trong hòa bình”. Để làm được
điều đó, ASEAN đã cam kết “luôn duy trì vai trò trung tâm và chủ động…
là một động lực cơ bản trong quan hệ và hợp tác của mình với các đối tác
bên ngoài”. Tinh thần này, khi triển khai trong thực tế, đòi hỏi ASEAN
phải tích cực trong vấn đề Biển Đông, chủ động tham gia vào việc thúc
đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho các tranh chấp ở đây. Diễn
biến tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 2012 ở Phnom Penh mới đây chính là
“phép thử” trên thực tế cho vai trò trung tâm và trụ cột của ASEAN trong
việc giải quyết các vấn đề phức tạp của khu vực.
.
Trong tất cả các bên có liên quan ở
Biển Đông, Trung Quốc là nước duy nhất hạ thấp vai trò của ASEAN và mong
muốn làm suy yếu tổ chức này bằng các hoạt động theo kiểu “chia để
trị”. Chính vì vậy, Trung Quốc luôn bảo lưu lập trường giải quyết các
tranh chấp trên Biển Đông bằng cơ chế song phương. Tuy nhiên, thỉnh
thoảng Trung Quốc vẫn buộc phải miễn cưỡng chấp nhận vai trò của ASEAN
trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông mỗi khi Hiệp hội này có sự
đoàn kết, nhất trí cao. Tháng 11 năm nay, ASEAN và Trung Quốc sẽ kỷ niệm
10 năm DOC được ký kết cũng tạiPhnom Penh. Việc ký kết DOC 2002 được
xem là một thành tựu lớn trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN góp phần
quan trọng vào công cuộc xây dựng lòng tin trong khu vực và các giá trị
chuẩn mực chung. Song, kể từ DOC tới nay, các nước trong khu vực và
cộng đồng thế giới lại thường xuyên chứng kiến một Trung Quốc hành xử
trên Biển Đông theo kiểu “hành động đơn phương, tuyên bố ứng phó”. Hiện
tượng này bắt nguồn từ việc Trung Quốc tự mình tin rằng họ có chủ quyền
trên hầu như toàn bộ Biển Đông với yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý. Cách
hành xử theo kiểu “nói một đàng làm một nẻo” của Trung Quốc những năm
gần đây trên Biển Đông không chỉ làm phức tạp tình hình mà càng khiến
cho hình ảnh của một cường quốc đang “trỗi dậy hòa bình” bị tổn hại
trong nhận thức của thế giới mà đặc biệt là với các quốc gia có tranh
chấp trên Biển Đông. Chính các học giả Trung Quốc đôi khi cũng thể hiện
mối lo về một “liên minh châu Á” chống lại Trung Quốc. Để đối phó, họ đề
xuất một chính sách “chia để trị”, bằng cách hỗ trợ một số nước trong
khi lại trừng phạt và gây hấn với một số nước khác. Tuy nhiên, chính
sách này trong thế giới ngày nay mang ý nghĩa rất tiêu cực và dễ dàng bị
nhận diện bởi các quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc nếu Trung Quốc càng kiên trì với chính sách này
thì họ càng khó có thể xây dựng được lòng tin với người dân của các
quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng.Và cách tốt nhất mà Trung Quốc có
thể tránh được điều tiếng tai hại này là họ nên thay đổi cách hành xử,
thật sự có thiện chí hợp tác gần gũi hơn, chia sẻ hơn các quyền lợi
chính đáng của các quốc gia trong khu vực ở cấp độ song phương lẫn đa
phương.
.
Không chỉ Thủ tướng Việt Nam Nguyễn
Tấn Dũng mà rất nhiều lãnh đạo quốc gia khác của ASEAN đã bày tỏ sự ủng
hộ hết mình chủ đề của Hội nghị năm 2012 là xây dựng một ASEAN đoàn kết,
vững mạnh và liên kết chặt chẽ không những là lợi ích chung của khu vực
mà còn là mục tiêu chiến lược của các nước thành viên. Bởi vì, một
ASEAN thiếu đoàn kết sẽ khiến cho tổ chức này ít quan trọng hơn về kinh
tế và chiến lược đối với các nước thành viên so với các cường quốc bên
ngoài. Sự tham gia của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông
trên thực tế đã có quá trình lịch sử lâu dài và đáp ứng được lợi ích của
tất cả các bên, bao gồm cả Trung Quốc. Tăng cường sự tham gia của một
ASEAN năng động và đoàn kết, không làm suy yếu lợi ích hợp pháp của bất
cứ bên nào. Thay vào đó, những gì mà ASEAN đang cố gắng thực hiện sẽ
“đem giá trị đến với tất cả, thậm chí bao gồm cả những nước không có yêu
sách đối với các địa hình đất hay quyền tài phán trên Biển Đông, mà có
một lợi ích trong hòa bình và ổn định ở khu vực và tự do hàng hải ở
đây”, như nhiều tuyên bố của ASEAN từng khẳng định.
.
Hữu Nguyên
Nguồn: Đại đoàn kếtMột cuộc khủng hoảng của nền văn minh
- Ngốc và nguy hiểm.
Trên thực tế , Rợ đang thực hiện mốt cuộc CM VH mới – nói đúng hơn là một cuộc chiến tranh VH- tại nó và trên toàn cầu.
1/ Tại nó: đó là sữa bẩn, là hàng giả, là hàng chục người đí qua 1 em bé 2 tuổi bị xe đè mà ko ai giúp đỡ, là diệt chủng VH ở Tibet.
2/ Trên toàn cầu: Là tạo ảnh hưởng tại Africa, Latino và cả trên đất Mẽo.
Ta nghe nói đã có nhg “Viện Khổng Tử” ở Mẽo.
Thế đó, cái Theory of Slavery mà ngay ở Vietnam cũng đang bị gạt bổ lại bắt đầu tìm thấy đất sống ở Mẽo.
….
Sau mấy chục năm móc ví nuôi béo Rợ, mài nanh sửa vuốt cho Rợ, Mẽo bị khủng hoảng ngay trong óc mình.
..
-April 4, 2012
WALTER RUSSELL MEAD
As I’ve been writing about the crisis of the blue social model, I’ve mostly focused on its consequences for North American and European societies. Canada, the US and the countries of western and central Europe are the places where the blue model has become most solidly entrenched and fully developed, and in the first instance the decline of that social model is registering most forcefully in their political and cultural lives.
That
process has a long way to run; the creative destruction of the world of
big blue is going to be causing social and economic crises for years
and even decades to come. But we won’t grasp the immense importance and
the urgency of what’s happening in the west until we fully take on board
the importance of the decay of the blue model for global politics.
The
blue social model was more than a comfortable arrangement that eased
social conflict and promoted two generations of rising affluence in the
western world. For the places where the blue model didn’t yet or didn’t
fully exist, it served as a goal. If you asked politicians, business
leaders and pro-democracy activists around the world what they hoped to
help their countries become, the answer would generally be that they
wanted their countries to look more like the west. They wanted to be
able to deliver secure jobs for life, mass affluence, rising standards
of living along with continuing technological progress and increasing
life expectancy for their people.
The
blue model is what the United States held out to the world as its ideal
during the Cold War. We argued that capitalism rather than socialism
was the best road to the blue life. The mechanisms of the market would
create the equality, dignity and affluence that communism promised but
failed to deliver — and do all this without the mass murder, political
repression and soul-destroying conformity that communism demands.
It
worked. Capitalism is the best road to the blue social model, and
communism is at best a long, murderous detour on the route. As more
people in more countries saw this, the appeal of communism gradually
waned. As capitalism, after a very unpromising start, began to raise
living standards from central Europe to east and south Asia, the
communist ideology that once inspired fanatical devotion in countries
like China and Vietnam faded away.
It
was the heady sense that the world had fallen in love with our way of
life that inspired the democratic triumphalism that united both the
Clinton and George W. Bush eras. They like us, they really like us,
American journalists and diplomats found as they traveled through
countries that had recently been among our most bitter foes. The
Cultural Revolution in China was replaced by KFC; Vietnam became our new
best friend.
During
the Cold War, we said there were two kinds of countries: developed
countries like the western industrial democracies and Japan, and
developing countries. The developed countries had reached the end of
history; they had figured everything out and only had to bask in their
success, growing richer and happier year by year, but not changing in
any disruptive or unpleasant ways.
Developing
countries were still in the process that the developed countries had
completed; they just needed to catch up, and then they too could stop.
The
erosion of the blue model throughout the west rips these illusions
away. There is no such thing as a developed country. No country on earth
has reached a stable end state; there is no such thing as a comfortable
retirement from the stresses and storms of history and of change.
France, America, Germany, Japan: we thought we had found a permanent
solution to all economic and social questions.
We hadn’t.
For
countries like Brazil, India, South Africa and China, this raises
profound questions. What is it that they are trying to do? What are they
trying to become? Is their goal to emulate the social market economies
that the west enjoyed a generation ago? Are they hoping to build a
stable mass middle class on the basis of big box factory work and armies
of white collar middle managers that dominated American life in 1970?
And if that isn’t the goal, what is?
For
now, much of the world is running on autopilot. The “developing”
countries are generally sticking with the old paradigm: that development
is the process of turning blue and that Fordist industrialization can
and will yield mass prosperity.
But
they are likely to discover that this isn’t true. China will not be
able to build a western style welfare state as its GDP grows. The South
African labor unions won’t be able to turn the country into Detroit at
its peak, with lifetime employment at high wages for a unionized work
force.
Manufacturing
employment in these countries will not indefinitely rise, and neither
will pay. Competition from other, poorer, job-hungry countries will push
wages down; automation will reduce the number of workers worldwide
required to produce a given level of output and by reducing the supply
of manufacturing jobs automation will also depress global wages,
especially for the unskilled.
Developing
countries (along with the Davoisie and most commentators and
“modernization theorists”) have also assumed that because development
meant the establishment of a stable middle class society, to become more
economically developed was to become more politically stable.
But
if the blue route is closed, if developing countries can’t establish an
ideal that is already disappearing in the lands of its birth, does this
still hold true? Will inequality diminish and social tensions ease with
industrial development in a post-blue world? And if developing
countries find it impossible to achieve the kind of social stability
that the regulated, economically secure, prosperous conditions that
Europe, the US and Japan enjoyed during their blue periods, what will
life be like there instead? What kind of social stability can they hope
to achieve?
There
is a related question about economic stability. Between World War Two
and the 1980s, it looked as if precipitous economic crashes and
financial market crises had disappeared. From the 17th century through
the Great Depression, the advance of capitalism involved periodic and
devastating financial market events that led to massive ups and downs
for the real economy. Firms went bankrupt, people lost their savings and
their jobs.
As
part of the Great Stabilization of the mid to late twentieth century,
all that stuff went away. Keynesian economic management, financial
market regulation and central bank interventions were the new tools that
seemed to slay the old dragon of depression.
That
era now looks more like the eye of a hurricane rather than the
permanent end to the specter of financial crisis; things may change in
the future but we appear to be back in a zone in which financial market
turmoil can sweep across the world, destabilizing the real economy and
threatening firms and even countries with economic disaster.
It
is all beginning to look very 1890s again: Economic inequality, class
struggle, collapse of once stable institutions and employment patterns,
financial market instability and recurring currency crises.
125
years ago there was a lot of doubt about what industrial society would
look like. The fear that society was dividing irretrievably into classes
of haves and have-nots, with the vast majority of humanity toiling in
industrial semi-slavery for the benefit of a few was rampant. Some
thought this condition could last; many others thought the toiling
masses would rise against the haves.
That
working class mobilization would decline as the factory workers became
better off, moved into the ‘burbs and bought cars, was not on the
program, but that is what happened. That the economic storms and
privations of the late Victorian period and the global crisis caused by
World War I and its aftermath would ultimately give way to decades of
stable prosperity did not strike many observers as inevitable or even
probable in 1893 or 1921.
The
changes didn’t happen magically and they didn’t happen all at once.
There were false dawns, as in the 1920s prosperity in the US, and there
were different approaches to achieving it. (Fascism, communism and
modern American liberalism were all efforts to create social and
political stability on the basis of industrial society.) In the end,
many different countries built their own versions of blue modern
society, but America remained the place that got there first.
And
that’s what we need to remember today. America had to build a new kind
of democratic industrial society before it could serve as a model for
others, or before it could hold that model up as a goal. Now that the
blue model is no longer adequate, we need to prepare the way for
something new.
Post-industrial
society is coming to the whole world — not at the same time and not at
the same pace. But machines and IT and robots are going to reduce the
number of people who work in old fashioned factories much faster than
many people think. And many forms of office and administrative work are
going to be transformed and disappear. Many white collar occupations
that we take for granted today are going to become as obscure and
marginal as once common trades like farriers and tinsmiths.
Once
again the dystopian fantasies return. A handful of people will be
insanely wealthy, while the mass of mankind, unemployed and worthless,
will scramble miserably for scraps. The half of the population with
below average intelligence (we can’t all live in Lake
Woebegone) will be impoverished neo-serfs: at best housemaids and pool
boys for the handful of people whose jobs haven’t, yet, been taken by
the machines.
Perhaps
this is so; the future refuses, obstinately, to reveal itself despite
our earnest entreaties. But it seems very unlikely. Just as the early
industrial age was drowning in bounty (the huge gains in productivity
brought on by the industrial revolution and its knock-on consequences in
agriculture), so our present age bears all the signs of approaching
abundance. The robots are going to be able to make most of the stuff
that we need without millions of human beings having to sit in dark,
noisy and dangerous factories giving the best years of their lives to
mindless labor.
We
must fight the perversity, the blindness, and the gibbering pessimism
that tells us that this is a bad thing. It is like getting so caught up
in the financial problems of Social Security that we lose sight of the
big picture: that Social Security is in trouble because we are living
longer and healthier lives. It is like crying about the problem of what
to do with all the people who no longer have to cut sugar cane in the
hot sun now that the mechanical harvesters are taking those jobs away.
It is like worrying about how bored and deprived the ten-year-old
chimney sweeps will become once we find ways of heating our homes that
don’t require naked urchins to shimmy up and down narrow pipes in
cancer-causing tar.
America’s
job is to show the world how to shoot fish in a barrel: how to harness
the power of the new technologies and how to find productive uses for
all the human labor being released from drudgery and routine. We have to
show how the complex and sophisticated services that people need for
life in post industrial society can become radically cheaper: good legal
advice, financial planning, education, training, government. The costs
of these services can fall as far and as fast as the prices of so many
goods did in daily life when the industrial revolution first swept
through the world.
We
have to show the world how new products and new industries can be
created on the basis of new technical possibilities, how daily life can
be enriched by ingenious new services and gadgets. We have to show how
IT can revolutionize the world of work, allowing people to telecommute,
collaborate over great distances, and empower a generation of
entrepreneurs. We have to show people how, now that so many of the old
jobs are becoming unnecessary, there are new ways for people to make a
good living providing goods and services that, under the old system,
were either available only to a wealthy few or not available at all.
The
blue clingers can’t see it, but we have laid the foundation for the
greatest burst of affluence that the world has ever known. We are like
the children of Israel in the desert; the promised land lies before us —
but the timorous blue clingers tell us that the land is inhabited by
giants and there is no way we can possibly make our way into it.
When
they did that in the Bible, God punished the cowards and the clingers
by making them wander in the desert for forty more years. That is pretty
much what will happen to us if we fail to embrace the possibilities of
the future now. We will get there, but after years of aimless wandering
and unnecessary privation.
But
we need to get there fast; this isn’t just about us. We, the Europeans
and the Japanese can probably handle a generation of wandering. Life
would be poorer and nastier than it needs to be, politics would get
pretty poisonous and Europe’s problems with some of its immigrants might
get deeply ugly, but this might just mean the degradation of social
life and the impoverishment of democracy rather than chaos, violence and
the rise of new ideologies and movements based on fanaticism and hate.
I’m
not nearly as sure that the rest of the world would be as calm or as
stable if the blue model continues to rot but we don’t make the move to
the next step.
The
fight for the reforms and changes in the United States that can
facilitate and speed up the birth of a prosperous post-industrial
society here is deeply connected to the fight for a peaceful and
prosperous world in the 21st century. It is not just that these changes
will keep the US rich and strong enough to play a role in supporting
world peace. It is that the example of a successful transformation here
will do more to promote democracy, peace and human rights worldwide than
all the foreign aid, all the diplomats and even all the ships and tanks
and drones in the world could ever do.
And
it is raving lunacy to expect that there is some master plan that can
reveal the shape of the new society and show us how to achieve it. That
isn’t what life at the cutting edge of history is ever like. The
challenge of our time is invention, not implementation. The future
doesn’t exist yet; we have to make it up.
[Image © Victoria and Albert Museum, London.]
-Theo:
A Crisis of Civilization
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét