Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Ngày 21/1/2014 - Phạm Trung Cang cũng được “ông anh” mật báo tháo chạy? - Nghịch lý nông nghiệp Việt Nam - Đầu tư từ Trung Quốc: Con dao hai lưỡi

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Phạm Trung Cang cũng được “ông anh” mật báo tháo chạy?

(Kienthuc.net.vn) – Luật sư Phạm Văn Phất cho rằng, không loại trừ khả năng Phạm Trung Cang được “mật báo” sẽ bị điều tra lại, nên đã tháo chạy ra nước ngoài.
Ngày 9/1/2014 vừa qua, TAND Thành phố Hà Nội quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm, kiến nghị VKSND TP Hà Nội làm rõ vai trò đồng phạm của ông Phạm Trung Cang, nguyên Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và 4 người khác về hành vi “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng” khiến dư luận khá bất ngờ. Tuy nhiên, bất ngờ hơn nữa là việc ông Phạm Trung Cang đã xuất cảnh ra nước ngoài trước đó (23/12/2013) và cho đến thời điểm này, nguyên Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB vẫn không có mặt tại Việt Nam.
Việc “chọn đúng thời điểm” xuất cảnh của ông Cang khiến dư luận không khỏi nghi ngờ về những khuất tất xung quanh cuộc “tháo chạy”. Liệu có sự mờ ám, thiếu khách quan khi VKSND Tối cao đình chỉ quyết định khởi tố với ông Cang trước đó? Và giống như Dương Chí Dũng, ông Cang cũng có một “ông anh” nào đó đã “mật báo” về việc sẽ bị điều tra lại để “đại gia” này kịp “mất tích” khỏi Việt Nam?
Ông Phạm Trung Cang đã “biến mất” khỏi Việt Nam trước khi tòa án yêu cầu điều tra bổ sung về vai trò phạm tội của ông này.
VKSND Tối cao “một mình một ngựa”
Trong vụ “đại án” của Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm, việc nhận định trái chiều giữa các cơ quan tố tụng về trường hợp của ông Phạm Trung Cang khiến dư luận không khỏi băn khoăn, đặc biệt là những khuất tất xung quanh quyết định đình chỉ vụ án đối với nguyên Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB.
Trong khi cả CQĐT Bộ Công an và TAND thành phố Hà Nội đều nhận định Phạm Trung Cang có vai trò đồng phạm về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” thì VKSND Tối cao lại “một mình một ngựa”, bác bỏ vai trò phạm tội của Phạm Trung Cang.
Cụ thể, ngày 1/8/2013, CSĐT Bộ Công an đã ra bản kết luận điều tra và kết luận điều tra bổ sung ngày 30/10/2013 đề nghị truy tố Nguyễn Đức Kiên. Theo kết luận này, Phạm Trung Cang cùng 4 lãnh đạo cao cấp khác của Ngân hàng ACB bao gồm Trần Xuân Giá (Chủ tịch HĐQT ACB), Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang (đều nguyên là Phó Chủ tịch HĐQT ACB), Lý Xuân Hải (nguyên Tổng Giám đốc ACB) bị đề nghị truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Kết luận của CQĐT Bộ Công an nêu rõ, các lãnh đạo Ngân hàng ACB đã có hành vi cố ý làm trái, ra chủ trương dùng tiền huy động của khách hàng, ủy thác cho nhân viên và các công ty gửi tiền VNĐ và USD vào các tổ chức tín dụng để hưởng lãi suất cao hơn trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định. Trong đó, có việc gửi tiền vào VietinBank Chi nhánh Nhà Bè và Chi nhánh TP HCM để hưởng lãi suất chênh lệch ngoài hợp đồng, gây thất thoát cho ACB 718,9 tỉ đồng. Ngoài ra, việc đầu tư cổ phiếu dẫn đến ACB bị thiệt hại hơn 687 tỉ đồng cũng có vai trò của ông Phạm Trung Cang.
Sau khi có kết luận điều tra của cơ quan công an, ngày 12/12/2013, VKSND Tối cao ra cáo trạng đồng thời truy tố 7 bị can với nhiều tội danh, tổng số tiền thiệt hại do 7 bị can gây ra trong vụ án là 1.695,6 tỉ đồng. Điều bất ngờ là trong cáo trạng này, VKSND Tối cao cho rằng, ông Cang không phải chịu trách nhiệm về hậu quả làm thất thoát số tiền 718,9 tỉ đồng cũng như việc đầu tư cổ phiếu nên đã ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Phạm Trung Cang.
Tuy nhiên, chỉ chưa đầy 1 tháng sau khi VKSND Tối cao ra cáo trạng, ngày 3/1/2014, TAND thành phố Hà Nội đã ra quyết định trả hồ sơ số 02/HSST-QĐ cho VKSND TP Hà Nội để làm rõ vai trò của một số cá nhân liên quan trong đó có ông Phạm Trung Cang.
Cuộc “tháo chạy” ngoạn mục và dấu hỏi về “ông anh mật báo”
Điều đáng nói là khi TAND thành phố Hà Nội trả hồ sơ điều tra bổ sung vì cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm thì ông Phạm Trung Cang đã “biến mất” khỏi Việt Nam và cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa xuất hiện.
Trong khi vụ “đại án” của Dương Chí Dũng vẫn chưa hết nóng thì cuộc “tháo chạy” đúng thời điểm của ông Phạm Trung Cang khiến dư luận không khỏi đặt dấu hỏi về những khuất tất xung quanh vụ việc này. Phải chăng việc đình chỉ này nhằm mục đích tạo điều kiện cho Phạm Trung Cang tháo chạy bởi chỉ ít ngày khi lệnh cấm xuất cảnh được gỡ bỏ, Phạm Trung Cang đã nhanh chóng rời khỏi Việt Nam từ 24/12/2013 qua cửa khẩu Hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất (TP.HCM). Và cũng chỉ khoảng 1 tuần sau khi nguyên Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB “mất tích” thì vụ án được trả hồ sơ điều tra lại để làm rõ vai trò phạm tội của ông này .
Trao đổi với Kiến Thức, luật sư Phạm Văn Phất, Trưởng Văn phòng luật An Phát Phạm cũng cho rằng, không loại trừ khả năng ông Cang được “mật báo” trước để xuất cảnh ra nước ngoài. “Trong bối cảnh Dương Chí Dũng từng được mật báo từ một “ông anh” trong Bộ Công an về việc mình sẽ bị khởi tố để tháo chạy trước thì những nghi ngờ về trường hợp của ông Phạm Trung Cang hoàn toàn có cơ sở . Ngay cả sự bất nhất giữa các cơ quan tố tụng khi CQĐT và Tòa án đều thấy rằng phải xem xét vai trò phạm tội ông Phạm Trung Cang, chỉ riêng VKSND Tối cao tách ra, đình chỉ vụ án thì người ta cũng có quyền nghi ngờ về sự thiếu khách quan ở đây (?!)”, luật sư Phất nói.
Nguyên Đan

Phục hồi điều tra cựu Phó chủ tịch ACB

 Ngày 20/1, tin từ cơ quan tố tụng cho hay, liên quan đến vụ án “bầu” Kiên, Viện KSND Tối cao đã quyết định phục hồi điều tra đối với ông Phạm Trung Cang, nguyên Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB về hành vi cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, theo Điều 165 Bộ luật Hình sự.
Viện KSND Tối cao cũng phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Huỳnh Quang Tuấn, thành viên thường trực HĐQT ACB, về cùng hành vi.
Cơ quan chức năng xác định ông Tuấn liên quan đến chủ trương ủy thác cho nhân viên ACB gửi tiền vào ngân hàng TMCP Công thương (Vietinbank) để hưởng lãi xuất 17,8% – 27%/năm. Việc làm này vi phạm Luật Các tổ chức tín dụng quy định về nghiệp vụ ủy thác, dẫn đến bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo chiếm đoạt hơn 718 tỷ đồng của ACB.
Trước đó, Viện KSND Tối cao đã ra cáo trạng truy tố “bầu” Kiên cùng 6 đồng phạm về 4 tội danh: kinh doanh trái phép; cố ý làm trái; lừa đảo chiếm đoạt tài sản và trốn thuế.
Theo cáo trạng, tại cuộc họp ngày 22/3/2010, Thường trực HĐQT ACB gồm các ông: Trần Xuân Giá, Trịnh Kim Quang, Lê Vũ Kỳ, Lý Xuân Hải (bị can trong vụ án) và Phạm Trung Cang đã thống nhất và ký vào biên bản “đồng ý ủy thác cho các cá nhân để gửi tiền VNĐ và USD tại các tổ chức tín dụng…”.
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 chưa có hiệu lực thi hành và ngày 31/12/2010, ông Phạm Trung Cang đã có đơn xin từ nhiệm, thôi giữ chức danh thành viên HĐQT ACB.
Sau khi chấp thuận đơn của ông Cang, ACB đã bổ nhiệm chức danh Phó Chủ tịch HĐQT ngân hàng ACB đối với ông Huỳnh Quang Tuấn. Do đó, cơ quan chức năng nhận định ông Cang không phải chịu trách nhiệm về hậu quả chủ trương ủy thác gửi hơn 718 tỷ đồng bị Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt. Đồng thời ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Phạm Trung Cang.
Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, ngày 3/1, TAND TP Hà Nội đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung một số vấn đề chưa được làm rõ. Ngay sau đó, cơ quan CSĐT và Viện KSND Tối cao đã thống nhất khởi tố bị can ông Tuấn và phục hồi điều tra đối với ông Cang.
Theo Tiền Phong

Có “ông anh mật báo” cho “sếp” Ngân hàng ACB đào thoát không?

 
Ông Phạm Trung Cang đột nhiên mất tích trước khi bị phục hồi điều tra đã làm dấy lên nỗi nghi ngờ về việc tháo chạy có chủ đích của ông này. Nhất là sau vụ xét xử đại án Vinalines, Dương Chí Dũng khai là có “ông anh trên bộ” mật báo để chạy trốn.
Thập niên 80, Phạm Trung Cang tốt nghiệp cao đẳng kinh tế rồi làm thư ký cho Phó Chủ tịch quận 3. Ông bắt đầu tập tành làm hấp gia công lốp xe. Thấy ngon ăn, ông Cang bỏ luôn việc công sở và mở cơ sở sản xuất lốp xe đạp. Sản phẩm của ông ta đã gây tiếng vang trên thị trường, hàng sản xuất không kịp để bán.
Nguyên liệu của ông Cang dùng để sản xuất vỏ xe thường được dùng bằng mủ cao su thiên nhiên nên cho sản phẩm tốt. Vốn đã giàu, người ta lại muốn giàu hơn. Nếu “phi thương” có thể làm giàu còn “gian thương” có ngày cũng đến mạt vận. Trong một lần, có người chào bán cho ông Cang một lượng lớn mủ cao su có màu ngả sang vàng.


Người này nói rằng, bán số mủ trên với giá rẻ hơn 2 lần do bị chìm tàu dưới biển và trục vớt kịp thời. Những mẻ hàng đầu tiên của loại mủ mới, ông Cang thấy chất lượng sản phẩm không thay đổi và chắc mẩm sẽ thu lợi to.
Ông chủ cơ sở dốc hết tiền mua lô mủ trên về trữ và ngày đêm sản xuất ra sản phẩm mang đi tiêu thụ. Hàng vỏ xe để trong kho, hàng phân phối cho khách chỉ sau 1 tháng dần chảy nhão như… cháo.
“Tham thì thâm”, ông Cang đã trả giá cho bài học đầu tiên về sự thất bại với số tài sản hơn 100 lượng vàng và khách hàng cạch mặt. Cơ may lại đến với vị “đại gia” này khi gặp được ông bạn người Hoa đang làm bao nhựa tái sinh. Thế là, ông Cang nhảy vào hợp tác. Tài sản còn lại được bao nhiêu, ông đổ vào để làm bao nhựa. Cũng chỉ một thời gian, cơ sở bao bố bên cạnh cháy đã lây sang cửa hàng bao bì. Vị “đại gia” này lại trắng tay.
Làm “con buôn” trong 2 năm, đến năm 1986, ông Cang lại có chút vốn rồi mở lại cơ sở xuất tấm nhựa tái sinh. Công ty Đại Hưng chính thức ra đời. Đến năm 1998, công việc ăn nên làm ra, ông Phạm Trung Cang đã chính thức đổi tên cơ sở cũ thành công ty Tân Đại Hưng để đưa hàng bao bì, sản phẩm nhựa xuất khẩu ra một số nước trên thế giới.
Cũng ở thời điểm này, ông Cang giao hết cơ ngơi đã gây dựng để về giữ vị Tổng Giám đốc ngân hàng ACB. Đến 4/2012, ông Phạm Trung Cang được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Eximbank. Ngày 19/9/2012, ông Cang chính thức từ nhiệm chức vụ trên.
Việc từ nhiệm của ông Phạm Trung Cang gây không ít những nghi vấn trước hàng loạt quan chức cấp cao của ngân hàng bị bắt trước đó. Tuy nhiên, ông Cang cũng cho rằng, bản thân ông từ nhiệm vì lý do cá nhân và không liên quan đến việc điều hành Eximbank.
Những ngày qua, ông Phạm Trung Cang đột ngột mất tích sau khi xuất cảnh qua đường Tân Sơn Nhất đã làm cho dư luận đặt nhiều nghi vấn. Phải chăng, ông Cang “mất tích” trong bối cảnh ít nhiều có liên quan đến vấn đề pháp lý.
Trong diễn biến đầu năm 2014, Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã kiến nghị Viện Kiểm sát nhân dân TP Hà Nội làm rõ vai trò đồng phạm của ông Phạm Trung Cang về hành vi “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Ông Cang đã xuất cảnh vài ngày trước khi Tòa án nhân dân TP Hà Nội kiến nghị lên Viện Kiểm sát.
Ông Cang được xem là nằm trong nhóm đồng phạm cùng Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá, Lý Xuân Hải, Lê Vũ Kỳ và Trịnh Kim Quang.
Ông Cang biết rõ việc ACB ủy thác là chưa có hướng dẫn nhưng không có ý kiến ngăn cản. Việc này đã tạo điều kiện cho “siêu lừa 250 triệu USD” Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt tiền của các tổ chức và cá nhân gây thiệt hại hơn 718 tỉ đồng.
Ông Phạm Trung Canh chạy trốn làm dấy lên nhiều nghi ngờ. Tuy nhiên, điều này có thể hiểu được, vì rõ ràng một người “đầu có sỏi” như ông Canh sẽ dễ dàng đánh hơi được nước gần đến chân mình, nhất là khi tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Theo PetroTimes

Nghịch lý nông nghiệp Việt Nam



Việt Nam được đánh giá là nơi có muối ngon nhất thế giới. Nhật Bản, Mỹ vẫn luôn nhập khẩu muối Việt Nam để ăn. Trong khi đó, một số doanh nghiệp trong nước lại nhập khẩu muối công nghiệp rồi bán ra thị trường làm muối ăn… Nghịch lý đó còn xảy ra với gạo Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng giá lại rẻ mạt, nông dân phải bỏ ruộng….

Muối Việt Nam ngon nhất thế giới, nhập muối công nghiệp về làm muối ăn

Báo Dân trí dẫn lời kể của Kỹ sư hóa thực phẩm Nguyễn Đình Bình, sau hàng chục năm bôn ba khắp Việt Nam từ vùng muối ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ đến miền Bắc, thương gia Nhật Bản – ông Terufumi Nozawa – vẫn chưa tìm ra được loại muối ưng ý.
Cho đến một ngày cuối tháng 5/2000, vị thương gia này có mặt tại trụ sở Tổng công ty Muối Việt Nam (số 7 Hàng Gà – Hà Nội) và tại đây, vị thương gia này đã được giới thiệu một loại muối thực phẩm sản xuất theo phương pháp tự nhiên sử dụng năng lượng mặt trời từ khâu kết tinh đến sấy khô (không qua chế biến công nghiệp) do những người diêm dân trực tiếp làm ra với công nghệ phơi cát độc đáo, hoàn toàn đảm bảo yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nhận những hạt muối trắng, ông Nozawa đưa vào miệng nếm thử, nét mặt của ông bỗng giãn ra vì vui mừng. Ông chậm rãi nói: “Kết quả cuộc hành trình của tôi sau 15 năm tìm kiếm là đây. Đây mới chính là phương pháp sản xuất muối độc đáo và là loại Muối ngon nhất thế giới”.
Từ sau cuộc hội ngộ “định mệnh” đó, trung bình mỗi năm Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản hơn 600 tấn muối phơi cát miền Bắc.
Năm 2005, ngành muối Việt Nam lại đón nhận một thị trường khó tính không kém, đó là Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam cũng đã xuất khẩu muối ăn cao cấp sang thị trường Hoa Kỳ mỗi năm 800 tấn.
Điều đáng nói là trong khi nhiều doanh nghiệp làm công nghệ thực phẩm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ… luôn tìm cách nhập khẩu muối biển sạch tự nhiên từ Việt Nam để phục vụ nhu cầu người tiêu dùng trong việc ăn, nêm, chế biến thực phẩm thì một số công ty trong nước lại nhập muối công nghiệp có nguồn gốc khai thác từ muối mỏ, hồ nước mặn với giá rẻ về làm muối ăn cung ứng ra thị trường.
Thực tế, trong các năm qua, ngành Hải quan đã phát hiện một số doanh nghiệp lợi dụng cơ chế ưu đãi thuế đối với nhập khẩu nguyên liệu đầu vào sản xuất để nhập khẩu muối công nghiệp, nhưng sau đó lại bán trở lại thị trường làm muối ăn, chế biến thực phẩm
Nhận định của kỹ sư Nguyễn Đình Bình: “Những hạt muối trắng tinh, khô giòn với độ tinh khiết cao 99% không đem lại lợi ích mà còn có thể mang lại bệnh tật vì khi đưa chúng vào cơ thể sẽ làm mất cân bằng khoáng chất.
Các nguyên tố khoáng rất cần thiết cho cơ thể song nếu dùng nó một cách đơn phương riêng rẽ có thể phản tác dụng, chẳng hạn đối người bị huyết áp cao mà ăn mặn, ăn nhiều nguyên tố Natri có thể gây nguy hiểm”.

Gạo xuất khẩu nhiều, giá rẻ mạt, nông dân bỏ ruộng

Nghịch lý ấy cũng được lặp lại với lúa gạo của Việt Nam. Năm 2013, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 6,68 triệu tấn gạo. Từ vị trí xuất khẩu nhiều thứ hai thế giới trong mấy chục năm qua, VN đã bị rớt xuống vị trí thứ ba trong năm 2013.
Ông Trương Thanh Phong – Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho rằng mặc dù rớt xuống vị trí thứ ba, nhưng việc vẫn đảm bảo tiêu thụ hết lúa gạo hàng hóa cho nông dân và nông dân có lãi hơn 30% mới là mục tiêu lớn nhất của ngành trong năm qua.
Tuy nhiên, theo VFA, tính đến hết tháng 6/2013, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 3,485 triệu tấn, trị giá 1,575 tỷ USD. Cũng theo Hiệp hội này, hiện giá lúa khô tại kho khu vực ĐBSCL loại thường dao động từ 5.000 – 5.100 đ/kg, lúa dài khoảng 5.200 – 5.300 đ/kg. Theo Oryza, trang tin giá gạo toàn cầu, Việt Nam vẫn là quốc gia có giá gạo rẻ nhất.
Nhiều nông dân ở phía Bắc tính toán, làm một sào lúa sau khi trừ hết chi phí mỗi tháng họ nhận được khoản lợi nhuận từ 50.000-80.000 đồng, tương đương với hai bát phở ở thành phố. Trong khi đó, 3kg lúa thu mua tại ĐBSCL chưa bằng giá 1kg ốc bươu vàng bán cho Trung Quốc, nông dân tại các vựa lúa ĐBSCL phải ôm nợ hàng trăm tỷ vì lúa gạo. Từ đó, dẫn đến nhiều nông dân phải bỏ ruộng.
Không chỉ khu vực ĐBSCL, ngoài miền Bắc có tới hơn 42.000 hộ bỏ ruộng, trả ruộng. Ban chỉ đạo trung ương sơ kết năm năm thực hiện nghị quyết trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn vừa có báo cáo tổng hợp về kết quả thực hiện nghị quyết nêu trên.
Theo đó, nghị quyết này đã được triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện, nghiêm túc và sâu rộng, tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại như tốc độ tăng trưởng của nông lâm ngư nghiệp tiếp tục có xu hướng chậm lại, khả năng cạnh tranh của nhiều loại sản phẩm còn thấp… Đáng chú ý trong các năm 2012-2013 đã có 42.785 hộ bỏ không đất canh tác 6.882,1ha, 3.407 hộ trả 433,05ha đất.

Vải thiều VN bị lột mác, gắn thương hiệu Trung Quốc để bán giá cao

Mặc dù Bộ Công thương đã quy định không cho thương lái nước ngoài vào nội địa thu mua nông sản, nhưng tại các vựa vải thiều lớn ở miền Bắc như Lục Nam, Lục Ngạn (Bắc Giang), Thanh Hà (Hải Dương)… các thương lái Trung Quốc vẫn núp dưới danh nghĩa khách du lịch để trực tiếp mua bán với nông dân.
Tại vựa vải thiều lớn nhất miền Bắc là huyện Lục Ngạn (Bắc Giang), trung bình mỗi ngày có tới 1.500 – 2.000 tấn vải tươi được đóng thùng, ướp đá lạnh chở ngược lên hai cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) và Lào Cai để xuất sang Trung Quốc.
Theo Phó Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang Đào Xuân Cường, mỗi năm có khoảng 100-200 thương lái Trung Quốc vào tận Lục Ngạn để thu mua vải. Toàn bộ giá cả, sức mua, thị trường vải thiều hàng năm cao hay thấp hầu như phụ thuộc vào họ, do chính họ quyết định.

Tấp nập chợ vải thiều ở thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, Bắc Giang.

Theo quy định của Bộ Công thương, các thương nhân nước ngoài không được phép trực tiếp vào thu mua nông sản tại địa phương ở Việt Nam. Họ chỉ được phép mua nông sản (như vải thiều) tại cửa khẩu do các thương nhân Việt Nam xuất sang.
Ông Nguyễn Quang Bách, Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) than phiền, điều đáng buồn nữa là từ nhiều năm nay, vải thiều Việt Nam không hề được gắn nhãn mác, thương hiệu của Việt Nam, mà chỉ cần sang khỏi cửa khẩu là vải Việt Nam bị lột mác, bóc thùng, gắn thương hiệu Trung Quốc để bán được giá cao hơn.
Bộ NN-PTNT cho biết, Trung Quốc cũng trồng khá nhiều vải thiều, nhưng chất lượng và độ ngon của vải Trung Quốc thua xa vải Thanh Hà, Lục Ngạn của Việt Nam.

“Phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược”

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng ngày 6/1/2014 đã tái khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược của đất nước trong giai đoạn tới.
Phát biểu kết luận cuộc họp Ban chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn về tổng hợp các ý kiến đóng góp vào Báo cáo sơ kết của Ban Chỉ đạo và xây dựng dự thảo Kết luận của Bộ Chính trị về việc thực hiện Nghị quyết, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Trưởng Ban chỉ đạo, nhấn mạnh, các văn bản của Ban Chỉ đạo báo cáo Bộ Chính trị cần xây dựng cụ thể, nêu bật tính cần thiết và lợi ích từ việc thực hiện Nghị quyết.
Trưởng Ban chỉ đạo cũng yêu cầu ban soạn thảo đánh giá, phân tích kỹ kết quả đã làm được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 26/NQ-TU; khẳng định, đây là nhiệm vụ chiến lược phát triển và xây dựng đất nước giai đoạn tới; lấy thị trường, hiệu quả kinh tế làm định hướng.
Báo cáo cũng làm rõ bài học kinh nghiệm rút ra từ việc đổi mới tư duy, huy động toàn bộ hệ thống chính trị, đoàn thể nhân dân do cấp ủy, chính quyền địa phương làm nòng cốt để xây dựng nông nghiệp, nông thôn thì sẽ thực hiện thành công Nghị quyết, nâng cao hiệu quả, đời sống cho người nông dân.
Trong các giải pháp thực hiện, cần xác định rõ lĩnh vực, mục tiêu tăng trưởng; đặc biệt cần nhấn mạnh nhiệm vụ công nghiệp hóa nông thôn; công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn theo hướng phát huy những mô hình đã phát huy kết quả, hướng đến mục tiêu cao nhất là nâng cao đời sống người nông dân, đảm bảo lợi ích căn bản, lâu dài của đất nước.
Nông nghiệp, nông thôn có bước phát triển mới; tiếp tục nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của nông dân, góp phần quan trọng duy trì phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ở các vùng nông thôn.
Qua 5 năm thực hiện, thực tế cho thấy cần thiết phải thay đổi bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới cho phù hợp với tình hình mới và đặc thù các địa phương. Các đại biểu cũng đề nghị ban soạn thảo đánh giá tổng quan hơn việc xây dựng, triển khai các chính sách tín dụng hỗ trợ nông nghiệp; kết quả công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề cho nông thôn.
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Quốc Cường đề nghị điều chỉnh mức tăng trưởng nông nghiệp ở mức 3-3,5% cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
Ông Cường cũng đề nghị cần có chính sách đặc thù cho người trồng lúa, vùng trồng lúa để cân đối thu nhập, đảm bảo đời sống cho nông dân, đồng thời giữ vững an ninh lương thực quốc gia, khắc phục tình trạng nông dân bỏ trồng lúa.
Theo Báo Đất Việt

Đầu tư từ Trung Quốc: Con dao hai lưỡi

Thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài cũng cho thấy một cú “đại nhảy vọt” của dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) từ Trung Quốc vào Việt Nam năm 2013 đạt mức hơn 2,3 tỉ USD so với 345 triệu USD của năm 2012.
“Chúng tôi đã nhận được rất nhiều yêu cầu mua lại các dự án bất động sản từ các nhà đầu tư Trung Quốc. Năm nay, chúng tôi nhận thấy tiềm năng khá lớn từ các nhà đầu tư Nhật, Hàn Quốc, nhưng tâm điểm của mọi chú ý vẫn sẽ tập trung vào các nhà đầu tư Trung Quốc”, ông Troy Griffiths, Phó Tổng Giám đốc Savills Việt Nam, cho biết.
Thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài cũng cho thấy một cú “đại nhảy vọt” của dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) từ Trung Quốc vào Việt Nam năm 2013 đạt mức hơn 2,3 tỉ USD so với 345 triệu USD của năm 2012. Trong đó, 2 lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất là bất động sản và dệt may.

FDI Trung Quốc tăng

Theo VinGroup, tháng 5 năm ngoái, Quỹ đầu tư Warburg Pincus (Hồng Kông) đã ký hợp đồng 200 triệu USD mua khoảng 20% cổ phần trong Vincom Retail thuộc VinGroup. Warburg Pincus còn cam kết sẽ đầu tư 25 triệu USD trong đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của Vingroup trên thị trường Singapore trong thời gian tới.
Sau thương vụ giữa Warburg Pincus và Vincom Retail, một quỹ đầu tư khác của Hồng Kông là EXS Capital cũng quyết định rót 37 triệu USD vào Sơn Kim Land. Cái bắt tay này đã giúp Sơn Kim Land tiếp tục triển khai được 5 dự án căn hộ và trung tâm thương mại tại những vị trí đắt địa ở quận 1, quận 2 (TP.HCM) và Phan Thiết.
Ngoài bất động sản, lĩnh vực dệt may cũng thu hút khá mạnh vốn đầu tư của Trung Quốc. Các doanh nhân nước này đang muốn đón đầu cơ hội lớn từ việc gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Việt Nam được dự báo có thể được hoàn tất trong năm nay.
Theo Bloomberg, giá cổ phiếu của Tập đoàn dệt Texhong Textile đã tăng 445% trong 12 tháng qua nhờ đầu tư vào ngành dệt may của Việt Nam. Sự kiện này đã góp phần nâng giá trị tài sản ròng của nhà đồng sáng lập kiêm cổ đông lớn nhất của Công ty là ông Hong Tianzhu lên mức 1 tỉ USD.
Thời gian qua, các công ty dệt ở Trung Quốc, nước nhập khẩu bông lớn nhất thế giới, đã chịu ảnh hưởng nặng nề do chính sách mua bông giá cao của Chính phủ nước này nhằm giúp nông dân trồng bông không bị thua lỗ. Chính sách này đã khiến giá bông ở Trung Quốc cao hơn giá bông ở Việt Nam khoảng 75%.
“Texhong đã đi rất sớm trong việc mở rộng hoạt động ở Việt Nam. Công ty đã tận dụng được chênh lệch giá bông, bằng cách mua bông ở Việt Nam và bán sản phẩm ở Trung Quốc”, Dennis Lam, chuyên gia phân tích thuộc Công ty chứng khoán DBS Vickers Hồng Kông, nhận xét.
Giữa năm ngoái, nhà máy sản xuất sợi giai đoạn 1 của Công ty Texhong Ngân Long thuộc Tập đoàn Texhong Textile đã được khởi công tại Quảng Ninh với vốn đầu tư lên tới 300 triệu USD, nâng số nhà máy của Texhong tại Việt Nam lên con số 4.
Nhưng thành công nhờ giá bông của ông chủ Texhong Textile chỉ là một sự khởi đầu may mắn. Đích nhắm cuối cùng của việc đầu tư thêm nhà máy ở Việt Nam chính là TPP. “Hàng dệt may Việt Nam hiện đã được hưởng thuế suất 0% khi vào Trung Quốc. Nếu được miễn thuế khi xuất sang Mỹ, kế hoạch mở rộng công suất của chúng tôi hiện nay vẫn là chưa đủ”, ông Tianzhu nói.
Gần đây, Tập đoàn Crystal (Hồng Kông) cũng cho biết sẽ đầu tư khoảng 425 triệu USD vào dự án dệt Pacific Crystal và 120 triệu USD vào dự án may Tinh Lợi mở rộng, sử dụng hơn 70 ha đất tại Khu Công nghiệp Lai Vu, tỉnh Hải Dương.
“Ba năm trước, nhận xét chung của các doanh nhân Trung Quốc là việc đầu tư vào Việt Nam là “thừa”. Tuy nhiên, 6 tháng vừa qua, tôi đã nhận liên tiếp nhiều cuộc gọi và viếng thăm của doanh nhân Trung Quốc. Họ bắt đầu quan tâm đến việc thiết lập nhà máy tại Việt Nam để hưởng lợi từ TPP”, Tiến sĩ Alan Phan, người có nhiều kinh nghiệm về thị trường Trung Quốc, cho biết.

Hệ lụy không ít

Tất nhiên, mọi sự việc đều có 2 mặt và việc gia tăng vốn đầu tư từ Trung Quốc thời gian qua cũng có những hệ lụy đi kèm.
Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Thêu đan TP.HCM, cho rằng về lâu dài, doanh nghiệp trong nước sẽ gặp bất lợi và rủi ro về gia công và mua bán trước làn sóng đầu tư mạnh mẽ vào ngành dệt may của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Cụ thể, khi hợp tác với doanh nghiệp gia công Việt Nam, các công ty Trung Quốc thường sẵn sàng hy sinh lợi nhuận tiền công để cạnh tranh, thu hút lao động của doanh nghiệp Việt và chỉ tìm cách thu lợi nhuận trong phần sản xuất nguyên phụ liệu. Do đó, nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước có khả năng thua trắng.
Đối với doanh nghiệp mua nguyên liệu bán thành phẩm, chắc chắn là các doanh nghiệp Trung Quốc luôn mua được nguyên liệu giá rẻ hơn nhờ mối quan hệ đã có trước khi đầu tư sang Việt Nam. Kế đến, trong khi hầu hết doanh nghiệp Việt phải trả tiền nguyên liệu trước hoặc ngay khi nhận hàng, doanh nghiệp Trung Quốc có thể được đối tác cho trả chậm. Như vậy, chi phí của họ sẽ thấp hơn.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm của ông Kiệt, doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào khâu sản xuất nguyên liệu ở nước nào thì trước mắt cũng sẽ giải quyết được vấn đề nguyên liệu cho doanh nghiệp nước đó. Nhưng về lâu dài, sự phụ thuộc này sẽ khiến doanh nghiệp trong nước mãi luẩn quẩn kiếp làm gia công cho các công ty Trung Quốc. Nếu các nhà máy này bị đóng cửa, doanh nghiệp trong nước sẽ bị mất nguồn cung cấp nguyên liệu.
Thời gian qua, cùng với việc tăng vốn đầu tư tại Việt Nam, nhiều công ty Trung Quốc còn tiến vào thị trường trong nước thông qua con đường đấu thầu các dự án điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất nhờ bỏ thầu giá rẻ theo hình thức tổng thầu EPC (thiết kế, cung cấp máy móc và xây dựng). Sau khi thắng thầu, họ thường mang vào Việt Nam khá nhiều trang thiết bị, máy móc, nguyên liệu dẫn đến tình trạng nhập siêu gia tăng.
Theo thống kê của Trung tâm Thông tin công nghiệp và Thương mại (VITIC), 9 tháng đầu năm 2013 có tới 43 nhóm hàng được nhập khẩu từ Trung Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 26,7 tỉ USD. Trong đó, các nhóm hàng đạt kim ngạch từ 1 tỉ USD trở lên là máy móc, dụng cụ và linh kiện, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, vải, sắt thép. Nếu năm 2009, Việt Nam chỉ nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 11,5 tỉ USD thì 9 tháng đầu năm 2013, con số này đã lên tới 17,2 tỉ USD.
Theo Nhịp cầu Đầu tư

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét