Trận chiến chính trị Việt Nam nóng dần giữa lúc nền kinh tế chao đảo
Hồng Phúc chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Theo Agence France-Presse
Theo Agence France-Presse
Việc
bắt giữ một trong những ông trùm ngân hàng hàng đầu của Việt Nam phản
ánh một cuộc đấu tranh quyền lực trong số các nhà lãnh đạo Cộng sản giữa
lục họ đang tìm cách giải quyết những vấn nạn kinh tế đang ngày càng
bất ổn tại nước này, các chuyên gia cho biết.
Ông
Nguyễn Đức Kiên, cổ đông tại một số ngân lớn ở Việt Nam và người đồng
sáng lập Ngân hàng Á Châu (Asia Commercial Bank – ACB), đã bị bắt giữ
vào hôm thứ Hai vừa qua. Tiếp theo ông là cựu giám đốc ngân hàng ACB, Lý
Xuân Hải, cũng chính thức bị cơ quan an ninh giam giữ ba ngày sau đó.
Các vụ
bắt giữ trên được biết là liên quan đến kinh tế nhưng cho tới thời điểm
này vẫn chưa có thông tin nào xác định rõ ràng. Vụ việc đã gây ra nhiều
hoảng loạn cho giới đầu tư và khách hàng, khiến chỉ số chứng khoáng Việt
Nam tụt dốc và giá trị thị trường mất khoảng 5,0 tỷ USD, dẫn đến tình
trạng tháo chạy cũng như rút tiền hàng loạt lên đến cả trăm triệu USD
tại các chi nhánh ngân hàng ACB.
Nhưng
theo báo cáo của nhóm tình báo Stratfor thì “mối quan tâm lớn hơn là
tiềm năng đối với các bất ổn chính trị trong nước. . . việc ông Kiên bị
bắt có thể biểu hiện sự bất hòa ngày càng gia tăng giữa giới tinh hoa
chính trị và phe nhóm [trong Đảng Cộng sản Việt Nam]”.
Ông
trùm yêu bóng đá Nguyễn Đức Kiên, năm nay 48 tuổi với mái tóc bạc trắng,
được cho rằng có mối quan hệ chặt chẽ với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và
con gái của ông – một doanh nhân ngành ngân hàng được đạo tạo ở Thụy Sĩ.
Từ
những năm 1990 khi Việt Nam mở cửa kinh tế, quyền lực được dần chuyển từ
đảng sang nhà nước – và kể từ khi đảm nhận chức vụ vào năm 2006, ông
Dũng được cho là thủ tướng mạnh mẽ nhất từ trước tới nay.
Ông
Dũng, người tái đắc cử nhiệm kỳ năm năm lần thứ hai hồi đầu năm 2011, đã
sử dụng quyền lực để tích cực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế theo mô hình chaebol của Hàn Quốc (mô hình tập đoàn thuộc sở
hữu và điều hành bởi một gia đình), dựa vào các doanh nghiệp nhà nước để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Lúc
đầu, tốc độ tăng trường hàng năm của Việt Nam tăng lên hơn bảy phần trăm
mỗi năm và nhanh chóng trở thành một nơi yêu thích của các nhà đầu tư
nước ngoài, bao gồm cả ngân hàng toàn cầu khổng lồ Standard Chartered,
trong đó ngân hàng này sở hữu 15% cổ phần của ACB.
Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng trong nửa đầu năm 2012 chỉ ở mức 4,4%, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm gần 30% trong cùng thời kỳ và theo ngân
hàng nhà nước thì các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đang ở “mức
báo động”. Tiếp theo đó là một loạt các chỉ gay gắt trích ngày càng gia
tăng đối với cách điều hành của ông Dũng.
“Chưa
bao giờ xã hội Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều biến động làm suy
yếu sự lãnh đạo của Đảng và đe dọa sự sống còn của toàn bộ chế độ chính
trị như hiện nay”, một cựu phó chủ tịch Quốc hội nay đã về hưu nói với
Agence France-Presse.
“Một số
nhà lãnh đạo Đảng nay đã mất kiên nhẫn, và cảm thấy đây là thời điểm để
hành động nhằm loại bỏ các mối đe dọa đó và lấy lại niềm tin của công
chúng”, ông nói thêm với điều kiện yêu cầu được giấu tên.
Trong
một bài viết gay gắt vào hôm thứ năm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang –
một trong những đối thủ chính trị của ông Dũng – cho biết: “Việt Nam
hiện nay đang bị áp lực bởi những đổ vỡ, kém hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước”.
Ông chỉ
trích “sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống” của một bộ
phận không nhỏ cán bộ – ẩn ý như đề cập đến ông trùm bầu Kiên với xe
Rolls Royce đắc tiền – và kêu gọi cải cách kinh tế cũng như chấn chỉnh
lại hệ thống chống tham nhũng.
Một
vòng đấu đá mới giữa các phe nhóm đã bắt đầu và “chiến trường chính là
cải cách kinh tế và tính trung thực bao gồm cả khu vực doanh nghiệp nhà
nước, hệ thống ngân hàng, và thanh trừng tham nhũng ở quy mô lớn “, ông
Carl Thayer – chuyên gia về Việt Nam nói.
“Ông
Sang và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đang lặp đi lặp lại một điệp khúc
cũ nhưng thực tế rằng tham nhũng là một trong những mối đe dọa lớn đối
với tính hợp pháp của hệ thống độc đảng tại Việt Nam”, ông Thayer nói.
Sự bất mãn của công chúng về tình hình tham nhũng đang sôi sục và đã nhiều lần nổ ra các cuộc biểu tình bạo lực trong năm nay.
Trường
hợp của một người nông dân sử dụng thuốc nổ tự chế để phản đối công an
địa phương cưỡng chiếm đất đai hồi tháng Giêng vừa qua đã được các trang
báo đưa lên trang đầu.
Ông
Thayer chỉ ra tầm quan trọng trong việc quyết định tước bỏ quyền kiểm
soát ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng từ tay thủ tướng và giao lại
quyền hạn này cho Đảng.
Ông
Dũng trước đây đã chịu nhiều áp lực đối với các vụ tham nhũng trong các
doanh nghiệp nước mà ông đã ra sức thúc đẩy, và trong năm 2010 ông buộc
phải chấp nhận trách nhiệm cá nhân cho sự sụp đổ của tổng công ty khổng
lồ Vinashin.
Một số
nhà quan sát dự đoán rằng trong khi việc bắt giữ ông Kiên sẽ không buộc
ông Dũng phải rời ghế thủ tướng nhưng sẽ có thêm nhiều đồng minh của ông
Dũng có thể được nhắm làm mục tiêu.
Ông
Kiên “có thể là người nổi bật và giàu có nhất” nhưng cho đến nay ông
không phải là người đầu tiên và tất nhiên cũng không phải là người cuối
cùng, ông Thayer – giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales ở Úc
nhận xét.
Riêng
ông Dũng, các chuyên gia bình luận rằng ông đã đưa ra các biện pháp nhằm
tự bảo vệ chính ông, bằng cách đánh giá cao những nỗ lực của công an
trong việc điều tra tham nhũng liên quan đến cải cách ngân hàng và kêu
gọi trừng phạt thủ phạm “bất kỳ đó là ai”.
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
“Thay đổi thể chế” là thay đổi cái gì? Ai thay đổi? (Việt Hoàng)
Việt Hoàng
“…Nếu
muốn như vậy thì trước hết chính quyền Việt Nam cần nhanh chóng trả tự
do cho tất cả tù nhân chính trị và tôn giáo (theo đề nghị của giáo sư
Hoàng Tụy), tiến tới việc tổ chức các cuộc gặp gỡ, đối thoại ôn hòa với
đại diện mọi tầng lớp nhân dân…”
Thông
điệp đầu năm 2014 của thủ tướng chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng là
một văn bản khá dài với nhiều nội dung, tuy nhiên một “thông điệp” quan
trọng mà dư luận bàn tán và quan tâm nhất đó là “thay đổi thể chế, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền…”. Có hai
nội hàm đằng sau thông điệp này, một là ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ nói cho
vui như bao lần khác và tiếp tục cho người dân Việt Nam ăn bánh vẽ, hai
là ông dọn đường dư luận để tiến hành những thay đổi quan trọng như cải
cách thể chế... Nếu là trường hợp đầu tiên thì không có gì để nói. Bài
viết này là để phân tích những gì mà ông Dũng có thể làm và nên làm
trong trường hợp muốn Việt Nam thay đổi.
“Thay
đổi thể chế” là thay đổi cái gì? Tất nhiên đó là thay đổi “thể chế
chính trị”. Điều này có nghĩa là phải thay đổi tư duy chính trị, từ một
thể chế toàn trị mà đảng cộng sản đứng trên và đứng ngoài luật pháp
thành một nhà nước dân chủ và pháp trị. Một nhà nước dân chủ dưới
cái nhìn của thế giới văn minh là một nhà nước mà trong đó người dân là
chủ nhân thật sự của đất nước, vì vậy người dân; thứ nhất: Có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí; thứ hai: Có quyền lập hội, đoàn và các tổ
chức của riêng mình; thứ ba: Có quyền tự do bầu cử và ứng cử vào các cơ
quan công quyền. Mô hình của nhà nước pháp trị tuy có ít nhiều khác nhau
nhưng phải dựa trên nền tảng “tam quyền phân lập” giữa ba cơ quan: lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Mục đích là để giám sát lẫn nhau, không cơ
quan nào được lạm dụng quyền lực.
Sự
nhìn nhận dân chủ giữa thế giới văn minh cũng như những người dấn thân
cho dân chủ với chính quyền Việt Nam rất khác nhau. Thông điệp của ông
Dũng chắc chắn phải do một nhóm cố vấn của ông cùng viết ra chứ không
phải một người và thật là ngạc nhiên về sự nhìn nhận của họ về dân chủ.
Trong thông điệp có đoạn viết “tăng cường sự lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước cũng là nhằm phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân” hay đoạn “dân chủ là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.v.v.
Mấy chục năm nay, chưa cần “tăng cường sự lãnh đạo của đảng” mà người
dân Việt Nam khốn khổ như thế nào thì ai cũng thấy rõ, giờ lại “tiếp tục
tăng cường sự lãnh đạo của đảng” thì đất nước sẽ đi về đâu? Đổi mới là
đổi mới cái gì?
Đảng
cộng sản Việt Nam cần phải hiểu rằng đất nước Việt Nam là của chung, là
của tất cả 90 triệu người Việt trong nước và gần 4 triệu người Việt ở
hải ngoại. Chính vì đất nước Việt Nam là của chung nên nó không thể nào
lại đồng thời là “chiến lợi phẩm” hay “phần thưởng” để ban tặng cho ai,
hoặc một nhóm người nào đó vì đã từng “có công với đất nước”. Luận điệu
“vì đảng cộng sản có công giải phóng đất nước nên giờ đương nhiên phải cầm quyền vĩnh viễn”, “không có đảng cộng sản thì không có ngày hôm nay”…là
những suy nghĩ thiếu hiểu biết, nông cạn và phản động. Nước Việt Nam có
lịch sử gần 4000 năm và trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử với bao
triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn… Những vị vua và anh hùng dân
tộc trong lịch sử đã có công rất lớn trong việc dành lại độc lập và đánh
đuổi ngoại xâm. Hậu thế ghi nhận công lao của họ và lịch sử không bao
giờ quên ơn họ nhưng không thể vì thế mà con cháu họ lại có quyền thừa
kế…đất nước Việt Nam. Đảng cộng sản cũng không là ngoại lệ. Nếu có công
họ sẽ được lịch sử ghi nhận. Nếu họ muốn tiếp tục cầm quyền và lãnh đạo
đất nước thì họ phải có chính danh trong hiện tại. Chính danh đó chỉ có
được nếu họ được đa số người dân Việt Nam lựa chọn thông qua một cuộc
bầu cử dân chủ, công bằng và minh bạch với sự tham gia của tất cả các
đảng phái khác nhau.
Không
thể nào có được một thể chế “dân chủ độc đảng”, đó là một luận điệu bịp
bợm. Đã một đảng lãnh đạo thì không thể có sự cạnh tranh chính trị và
người dân không thể lựa chọn cho mình những gì tốt đẹp mà sự cạnh tranh
mang lại vì họ không có gì để so sánh. Một đảng lãnh đạo cũng không thể
nào tự thay đổi được vì không có áp lực để thay đổi. Đảng là gì? Đảng là
tập hợp của những người có cùng chí hướng. Là “đồng chí” với nhau, làm
sao có thể đấu tranh dứt khoát với nhau được? Nhất là khi không bị áp
lực trừng phạt của nhân dân? Như là mất quyền lãnh đạo.v.v.
Thế
nào là đảng cầm quyền? Đảng cầm quyền là một đảng chính trị được người
dân tín nhiệm và lựa chọn để quản lý đất nước. Đảng cầm quyền cũng giống
như giám đốc điều hành được hội đồng quản trị (tức là người dân Việt
Nam) bầu ra để điều hành đất nước. Nếu họ làm tốt thì sẽ được tiếp tục
tín nhiệm và lựa chọn, nếu làm dở họ sẽ bị thay thế bởi một đảng chính
chính trị (người điều hành) khác. Đảng chính trị (cũng như giám đốc điều
hành, họ) được ủy quyền của người dân để điều hành đất nước vì vậy họ
chỉ là người “giúp việc cho nhân dân” được nhân dân trả lương và có bổn
phận làm tốt công việc của mình. Không có chuyện ơn nghĩa gì ở đây.
Những khẩu hiệu như “đảng quang vinh, muôn năm”, “ơn đảng, ơn chính phủ”
là những câu lộng ngôn, láo lếu và ngược đời. Không một người làm thuê
nào được phép nói với người chủ của mình như vậy. Đánh giá một đảng
chính trị tốt hay xấu là do người dân chứ không phải do đảng chính trị
đó muốn mà được.
Khi
đảng cộng sản “thay đổi” được tư duy như vậy thì cho dù người dân có
phàn nàn hay kêu ca gì thì họ cũng phải lắng nghe và sửa chữa. Một trách
nhiệm mà các chính quyền dân chủ phải làm thường xuyên đó là “trách
nhiệm giải trình”. Bất cứ một thắc mắc hay nghi hoặc gì của người dân
(thông qua báo chí) được đưa ra thì nhà nước phải nhanh chóng giải trình
một cách thành thật và nhanh chóng để người dân an tâm. Nếu có chuyện
bất đồng ý kiến của người dân thì cũng là chuyện đương nhiên, không có
chính phủ nào có thể làm hài lòng tất cả người dân của mình, nhưng không
thể vì thế mà đàn áp và bịt miệng họ bằng bạo lực. Việc thân nhân các
nhà đấu tranh cho dân chủ và bất đồng chính kiến Việt Nam đang bị giam
giữ ra điều trần trước Quốc hội Mỹ là một sự sỉ nhục đối với nhà cầm
quyền Việt Nam. Tại sao nhà nước này lại không lắng nghe tiếng nói của
người dân mình? Tại sao quốc hội Việt Nam lại không tạo điều kiện cho họ
ra điều trần trước quốc hội mình mà đẩy họ phải vượt đại dương sang tận
nước Mỹ để điều trần và kêu gọi lòng từ bi, sự giúp đỡ của người ngoại
quốc? Danh dự và thể diện của quốc gia đã bị đảng cầm quyền vứt vào sọt
rác như vậy sao? Một nhà nước “của dân, do dân và vì dân” lại xử sự như
vậy sao?
Nếu
ông Dũng và chính phủ Việt Nam không thay đổi tư duy chính trị theo
cách nhìn nhận của thế giới văn minh thì mọi lời kêu gọi đổi mới đều vô
ích và nhanh chóng gặp thất bại. Bất cứ sự thay đổi nào, đầu tiên và
trên hết là phải đem lại quyền lợi cho người dân sau đó mới đến chính
phủ. Lòng dân có an thì chính quyền mới ổn vững. Mô hình nhà nước xã hội
chủ nghĩa đã thất bại thật sự trên thực tiễn lẫn trong lý thuyết. Thay
đổi là đòi hỏi tất yếu của lịch sử và đó cũng là qui luật của tự nhiên.
Những cái gì không phù hợp đương nhiên sẽ bị đào thải. Ông Dũng không
còn nhiều lựa chọn: “Ông sẽ chỉ còn hy vọng thoát hiểm nếu dám nhanh
chóng và táo bạo đứng hẳn vào hàng ngũ dân chủ, đáp ứng một cách quả
quyết nguyện vọng dân chủ của nhân dân để được nhìn nhận như là một nhịp
cầu cần thiết bắc sang kỷ nguyên dân chủ” (Nguyễn Gia Kiểng-Trước hết là một thái độ).
Nếu
muốn như vậy thì trước hết chính quyền Việt Nam cần nhanh chóng trả tự
do cho tất cả tù nhân chính trị và tôn giáo (theo đề nghị của giáo sư
Hoàng Tụy), tiến tới việc tổ chức các cuộc gặp gỡ, đối thoại ôn hòa với
đại diện mọi tầng lớp nhân dân. Công nhận quyền tự do ngôn luận và tự do
báo chí của người dân. Chấp nhận đối thoại với các đảng chính trị của
người Việt trong và ngoài nước tiến tới việc thừa nhận đa nguyên chính
trị và đối lập dân chủ. Kiên quyết và thành tâm chấm dứt mọi hình thức
sử dụng bạo lực đối với người dân, nhất là đối với những người bất đồng
chính kiến. Một việc mà chính quyền cần làm ngay là nhanh chóng xét xử
tên Lê Văn Điệp, phó công an xã Chương Dương, Thường Tín, Hà Nội vì tội
“lợi dụng chức quyền, đánh người gây thương tích nghiêm trọng” mà nạn
nhân là ông Huỳnh Ngọc Tuấn.
Để
làm những việc trên là không hề đơn giản, nhưng ông Dũng có thể làm
được vì ông nắm được quân đội, công an và kinh tế. Quan trọng nhất là
nếu ông Dũng thay đổi thật sự thì ông sẽ nhận được ủng hộ của toàn thể
nhân dân Việt Nam và đó mới là sức mạnh thật sự. Lực cản từ trong nội bộ
đảng cộng sản và các nhóm lợi ích là rất lớn, tuy nhiên thay đổi để
tiếp tục tồn tại trong vinh quang như giới lãnh đạo quân đội tại Miến
Điện sẽ tốt hơn rất nhiều so với số phận của Mubarak (Ai Cập) hay
Gaddaphi (Lybia).
Những
việc của ông Dũng thì ông phải làm, không ai làm thay ông được. Còn đối
với nhân dân Việt Nam nói chung và tầng lớp trí thức tinh hoa Việt Nam
nói riêng thì chúng ta có việc của chúng ta và chúng ta cũng phải tự làm
chứ không ai làm thay chúng ta được. Không thể ngồi “há miệng chờ sung”
hay đặt mọi hy vọng vào sự “dấn thân” của ông Dũng. Chúng ta cần “thẳng
thắn và dứt khoát” rằng: Dân chủ không phải là một khuynh hướng chính
trị mà là một quyền. Và đã là quyền thì chỉ có đòi hỏi chứ không thể
thảo luận hay nhân nhượng. Người cần khiêm tốn và cần tranh thủ sự ủng
hộ là họ, người người lãnh đạo cộng sản muốn đổi mới chứ không phải là
chúng ta. Chúng ta là chủ nhân của đất nước vì vậy chúng ta phải tiếp
tục đòi hỏi những quyền lợi chính đáng thuộc về chúng ta. Dù chưa mạnh
nhưng chúng ta là một tương lai bắt buộc sẽ đến và họ là những người
đang bơi ngược dòng lịch sử. Chúng ta sẽ đến đích dù họ có muốn hay
không muốn. Nếu họ (những người cộng sản) muốn dân chủ cho Việt Nam và
chia sẻ cùng một khái niệm về dân chủ như chúng ta thì chúng ta sẽ đồng
hành cùng họ.
Cuộc
đấu tranh vì tự do và dân chủ cho Việt nam là một cuộc đấu tranh bằng
sự chính nghĩa, trí tuệ và nhân cách. Vì thế nó phải xuất phát từ tầng
lớp trí thức và phải do trí thức lãnh đạo, dẫn dắt. Cuộc thay đổi này
cần và nên diễn ra trong hòa bình vì vậy vai trò dẫn đường của giới trí
thức tinh hoa là rất quan trọng. Việc nhanh chóng xuất hiện một tổ chức
đối lập chính trị hùng mạnh làm đối trọng, để giúp và buộc đảng cộng sản
phải thay đổi như Miến Điện là rất quan trọng. Tất cả những ai có điều
kiện (có hiểu biết về chính trị, muốn tham gia vào chính trường để thay
đổi xã hội và phụng sự nhân dân…), thì nên tham gia vào một đảng chính
trị dân chủ, nhất là những người có uy tín trong xã hội và không bị gặp
khó khăn khi xuất hiện công khai. Những bạn trẻ nếu chưa thật sự tự tin
thì, trước mắt, hãy tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự, tập làm việc
trong môi trường có tổ chức, có mục đích và có lý tưởng rõ ràng. Nên
dành thời gian tìm hiểu về các tổ chức chính trị để có thể ủng hộ và
giới thiệu họ đến với người dân. Dù bất cứ hoàn cảnh nào thì cuộc đấu
tranh này phải đi qua giới trí thức tinh hoa, nhất là giới trí thức trẻ,
những người có tư duy độc lập và chưa “nợ nần” gì chính quyền như lớp
trí thức lớn tuổi.
Thông
điệp mà chúng ta gửi đến đảng cộng sản đó là: Dân chủ là quyền và
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam vì vậy chúng tôi sẽ làm tất cả để dành
lấy nó, dù đảng cộng sản có ủng hộ hay không.
Việt HoàngChiến lược bất đối xứng giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đặng Khương chuyển ngữ
Gary Li, Defense News
Gary Li, Defense News
Vào
ngày 17 tháng Một vừa qua, Việt Nam đã công bố tàu chiến tự chế đầu
tiên của nước này. Dường như các thay đổi có rất nhiều điểm giống tàu hộ
tống Tarantul của Nga, tuy nhiên, chiếc tàu mới này được trang bị các
tên lửa và hệ thống súng pháo tương đối khá tối tân.
Mặc
dù kỹ thuật của Việt Nam vẫn chưa gây nhiều ấn tượng so với các tiêu
chuẩn tàu chiến hiện đại, nhưng sự công bố này phản ánh sự nỗ lực của
Việt Nam trong việc phát triển hải quân ở khu vực nhằm cạnh tranh với
lực lượng ngày càng tăng của nước hàng giềng lớn hơn, Trung Quốc.
Trong
thời gian gần đây, Việt Nam dường như đã mạnh tay hơn đối với các tranh
chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển,
họ cũng đang phải đối mặt với các thiếu hụt năng lượng, và tương tự như
Trung Quốc trong quá trình cải cách, họ cũng đang thèm khát các nguồn
tài nguyên phong phú này. Một số mỏ dầu lớn ngoài khơi của Việt Nam,
chẳng hạn như Bạch Hổ, được dự kiến sẽ cạn kiệt vào năm 2020, do đó
làm tăng thêm nhu cầu khám phá và đi sâu ra ở các lưu vực mới một cách
cấp bách hơn.
Tuy nhiên, Trung Quốc đã chứng minh rằng họ sẽ sẵn sàng và có thể làm
gián đoạn tất cả các hoạt động này thông qua các nỗ lực kết hợp giữa Hải
quân và các lực lượng bán quân sự đặc trách vùng biển. Nước này đang ra
sức để đạt được mục tiêu bá chủ Hải quân vào năm 2050, với tàu sân bay
đầu tiên đã được đưa vào thử nghiệm trên biển cách đây không lâu.
Trong khi nhiều dự đoán và nỗ lực được tập trung vào sự phát triển lực
lượng hải quân của Trung Quốc trong một thập kỷ qua, thì ít có ai để ý
đến các tham vọng quân sự ngày càng gia tăng của Việt Nam. Trong năm
2009, Việt Nam đã mua 6 chiếc tàu ngầm tấn công với động cơ diesel loại
Kilo của Nga với khoảng $3,2 tỷ USD, một số tiền đáng kể trong ngân sách
quốc phòng của nước này và là hợp đồng xuất khẩu hải quân lớn nhất của
Nga.
Hồi cuối năm 2011, nhà máy đóng tàu Schelde của Hà Lan đã ký với Việt
Nam các hợp đồng xây dựng bốn tàu hộ tống loại Sigma, trong đó 2 chiếc
sẽ được xây dựng trong nước nhưng nằm dưới sự giám sát của Hà Lan.
Cho tới thời điểm này, Hải quân Việt Nam không phải là cơ quan duy nhất
được nâng cấp hạm đội. Cảnh sát biển Việt Nam (VMP) đã mua một số tàu
tuần tra nước ngoài từ các tập đoàn Damen của Hà Lan, trong đó bao gồm
cả loại hơn 1.000 tấn và có thể mang theo máy bay trực thăng, và đây sẽ
là tàu lớn nhất của VMP. Việc này sẽ cung cấp năng lực đáng kể cho VMP
trong việc đối trọng lại với số lượng tàu 1.000 tấn cộng với Cơ quan
Giám sát hàng hải của Trung Quốc ở Biển Biển Đông.
Đây chưa phải hoàn toàn là các điểm chính. Hợp đồng này còn bao gồm các
sản xuất được cấp phép và xây dựng các cơ sở bảo trì chuyên ngành, cùng
lúc họ cũng đang giúp Việt Nam thiết lập các ngành nghiên cứu hải quân
và phát triển cơ sở hạ tầng. Và thời điểm thuận lợi này cũng giúp Việt
Nam có lợi thế hơn trong lúc Trung Quốc không có khả năng mua vũ khí
nhập từ nước ngoài (do lệnh cấm vận hoặc lo ngại ‘sao chép kỹ thuật’,
như trong trường hợp với nước Nga), cũng như Việt Nam đã đề ra các chiến
lược liên minh với đối thủ của Trung Quốc là Ấn Độ.
Ấn Độ tuyên bố hồi tháng Chín năm 2011 rằng họ sẽ bán tên lửa BrahMos
cho Việt Nam, trong lúc Việt Nam đã có hệ thống phòng chống ven biển, kể
cả hệ thống Bastion của Nga. Đây có lẽ không phải là một sự trùng hợp
ngẫu nhiên mà Ấn Độ đã thực hiện quyết định này, trong lúc một công ty
dầu khí nhà nước Ấn Độ (ONGC) đưa ra công bố kế hoạch để cùng Việt Nam
khám phá và phát triển các mỏ dầu ở ngoài khơi Biển Đông thuộc chủ quyền
Việt Nam. Ấn Độ cũng giúp Việt Nam đào tạo các chuyên gia cho các tàu
ngầm Kilo mới, dự tính sẽ được chuyển giao vào năm 2014.
Tuy nhiên, điều hợp lý để tự hỏi rằng phải chăng những nỗ lực của Việt
Nam trong thời gian qua đều là vô ích. Hải quân Việt Nam đã không bao
giờ có uy tín nhiều như phía quân đội, lực lượng chính trong việc quyết
định cuộc chiến Việt Nam đẫm máu ở thế kỷ trước.
Nhưng
hướng này hình như đang được thay đổi, và các nhà nước Việt Nam đang nổ
lực tuyên truyền cũng như phấn đấu để tăng khả năng tuần tra của các
lực lượng biển, đặc biệt là trong các đơn vị đồn trú tại quần đảo Trường
Sa.
Sự tăng trưởng Hải quân này nhằm mục đích để chuẩn bị cho các khả năng
xung đột trong tương lai ở ngoài khơi [Biển Đông]. Kinh phí cho lực
lượng Hải quân cũng đã tăng lên đáng kể trong vài năm gần đây.
Về mặt chiến lược, Việt Nam thực sự có lợi thế hơn nhiều so với Trung
Quốc. Lâu nay Việt Nam miêu tả mình như một kẻ yếu trước thế giới, nhưng
thực sự họ lại sở hữu phần lớn các đảo tại quần đảo Trường Sa đang có
nhiều nước tranh chấp, trong khi Trung Quốc chỉ có một nửa các rạn san
hô và các bãi đá ngầm. Trong khi hạm đội Trung Quốc không ngừng mở rộng
cùng với kỹ thuật tiên tiến thì họ phải cũng trải qua một khoảng cách
[đường biển] khá rộng để có thể đặt chân lên các vùng mà họ tuyên bố có
chủ quyền.
Mặt khác, Việt Nam đang tuyên bố chủ quyền với một khu vực có thể nói
là ngay trước cửa nhà của họ. Đội bay của các hạm đội và tàu ngầm với
tên lửa có thể tấn công và rút lui vào các cảng khá dễ dàng, trong khi
hạm đội Trung Quốc có thể bị thiệt hại hoặc bị tiêu diệt trước khi về
lại các cảng ở xa bờ.
Việt Nam không cần phải cạnh tranh để có đủ số lượng tàu hải quân với
Trung Quốc, nhưng thay vào đó họ có thể sự dụng giáo lý chiến tranh du
kích ở ngoài khơi Biển Đông. Một chiến lược tuy không đối xứng, nhưng
kết hợp với các liên minh kịp thời, cùng lúc cũng là các đối thủ của
Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ được chuẩn bị tốt cho cuộc xung đột sắp tới.
Cho dù điều này hóa ra là một cuộc chiến tranh ‘tâm lý’, thì các khả
năng thương thuyết và quyết định vẫn phải được mang mổ xẻ ở hội nghị bàn
tròn. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, Việt Nam sẽ đảm bảo họ có tất
cả các lá bài tốt nhất trước khi ngồi xuống để đàm phán ở hội nghị bàn
tròn.
Gary Li là người đứng đầu của về Phân tích Chuyên ngành Hàng hải & Dự báo Hàng không, tại London.
© 2012 Bản tiếng Việt TCPT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét