Hoàng Xuân Phú - Bắt mạch Hiến… nháp
Bài 2:Hiến pháp vi hiến
Cuối tháng 3 năm 2013 dân cư mạng bỗng xôn xao về việc Báo
Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), báo Nhân dân (Cơ quan Trung ương của ĐCSVN),
trang VOV Online (Đài Tiếng nói Việt Nam) cùng nhiều báo chí và trang mạng "lề phải", như Tiền phong, Tuổi
trẻ, Văn nghệ Quân đội, Vietnamnet… đồng loạt viết "Hiếp pháp"
thay cho "Hiến pháp". Trước
đó, ngày 22 tháng 11 năm 2011, Văn phòng Chính phủ cũng gửi công văn số
8298/VPCP-PL "V/v thông báo ý kiến của
Phó Thủ tướng về cuộc họp trực tuyến tổng kết Hiếp pháp". Trong hoàn cảnh Nhân dân bị áp đặt một bản Hiến pháp
trái với nguyện vọng và có hại cho phía dân, lại tạo điều kiện dễ dãi cho bộ
máy thống trị, thì cách chơi chữ này quả là ý nhị và thâm thúy.
Trên bàn phím
thông thường, hai phím "N"
và "P" nằm cách xa nhau, vì
vậy khó mà vô tình gõ nhầm. Chẳng hiểu nguyên do thực sự là gì, nhưng việc họ thay
chữ cái "N" bằng "P" gợi ra cách làm ngược lại,
là thay "P" bằng "N" nhằm tạo ra từ "Hiến…
nháp", để gọi tắt bản Hiến pháp đã được
Quốc hội khóa XIII long trọng thông qua vào ngày 28/11/2013, khi chất lượng của
nó mới đạt tầm bản nháp.
Hai bài "Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?" và "Hiến
pháp vi hiến"
đã góp phần làm sáng tỏ nhận định "…
mới đạt tầm bản nháp". Bài
này bổ sung thêm một số chứng cứ. Hy vọng chúng sẽ có ích, giúp các đại biểu Quốc
hội hiểu rõ hơn cái sản phẩm mà họ đã nhất trí chọn làm Hiến pháp, và cũng giúp
các cử tri hiểu rõ hơn năng lực của những người mà họ đã bầu làm đại biểu cho
mình.
Một ngày không
xa, chắc chắn Hiến pháp sẽ được sửa chữa lần nữa, hoặc được viết lại từ đầu. Hy
vọng những người sẽ tham gia vào công việc trọng đại ấy đọc kỹ mấy bài viết
này, để rút kinh nghiệm mà khắc phục một số chứng bệnh kinh niên, thường mắc phải
trong các Hiến pháp của chế độ đương thời.
Để dễ theo
dõi, bài này được cấu trúc theo kiểu phân loại "chứng bệnh" mắc phải. Đó là các chứng "tất định" (phần 1), "lắm lời" (phần 2), "ít chữ" (phần 3), "tuyên giáo" (phần 4), "lan man" (phần 5), "đại ngôn" (phần 6), "bất chấp" (phần 7), và "vu vơ" (phần 8).
Bài này khá
dài. Chẳng phải vì người viết quá tham lam, ôm đồm, không biết chọn lọc, mà do tâm lý "dọn vườn": Đã phải
xắn tay lên dọn cỏ, thì chẳng nỡ dừng tay khi mảnh vườn vẫn còn um tùm cỏ dại.
Dù đã cố gắng chọn cách trình bày, nhưng bài viết không tránh khỏi rời rạc, khô
khan, vì phải đề cập đến nhiều nội dung tẻ nhạt. Mong bạn đọc dành thời gian và
kiên trì đọc đến cuối, đặc biệt là những người quan tâm, muốn hiểu rõ hơn thực
trạng của bản Hiến pháp đang chi phối cuộc sống của hơn 90 triệu người dân Việt
Nam.
1. Chứng "Tất
định"
Trên
đỉnh cao quyền lực, các nhà độc tài dễ mắc chứng "tứ tưởng": Tưởng quyền lực của mình vô biên, bao trùm
thiên hạ, và tưởng dân chúng thuộc quyền sở hữu của họ,
nên luôn phải ngoan ngoãn, tuân thủ vô điều kiện mọi mệnh lệnh mà họ ban ra. Tưởng trí tuệ của mình cao ngất trời, và tưởng hiểu biết của dân chúng chỉ thấp lè tè ngọn cỏ. Do đó, làm người thế nào, sử dụng quyền con người ra sao, thì muôn dân đều phải đợi nhà cầm
quyền cho phép và hướng dẫn thực hiện. Cũng vì vậy nên nhiễm phải chứng "tất định", nghiện đem tất cả mọi thứ ra để quy định hay định nghĩa, rồi coi đó là chuẩn mực, khuôn phép, và áp đặt lên toàn
dân. Buồn thay, chuẩn mực mà thường phi lý, cứ sai hoài sai mãi…
1.1.
Một
biểu hiện của chứng hoang tưởng quyền lực,
coi thường người dân, là không chịu thừa nhận quyền con người thuộc phạm
trù đương nhiên, như sự tồn tại của con người, mà coi quyền con người là thứ do thế lực cầm quyền ban cho dân chúng.
Ban cho bao nhiêu thì dân chúng chỉ được hưởng bấy nhiêu, không được đòi hỏi
hay thắc mắc. Có điều, giữa thời buổi nhãn hiệu "nhà nước pháp quyền" đã trở thành mốt, thì sự ban phát
tùy ý được hợp pháp hóa thông qua thủ thuật hiến định.
Trong các Hiến pháp của chế độ này, từ "quyền con người" xuất hiện lần
đầu tiên và chỉ đúng một lần tại Hiến pháp 1992, nhưng không phải để thừa nhận, mà để phủ định:
Nghĩa
là "các quyền con người"
không được thừa nhận như giá trị phổ cập, mà chỉ được "thể hiện ở
các quyền công dân", và chúng cũng chỉ "được quy định
trong Hiến pháp và luật".
Sang Hiến pháp 2013, từ "quyền
con người" xuất hiện 9 lần, không còn bị đồng nghĩa mà được song hành với
"quyền công dân", nhưng cả
hai đều không thoát nổi số phận chỉ "được
công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật":
Vậy là cả
những quyền con người hiển nhiên cũng không được thừa nhận, nếu không vượt qua "cửa ải hiến định". Điều đó
cho thấy chứng "tất định" giống
như một thứ bệnh ung thư đã di căn, tác động xấu tới cuộc sống của mọi người
dân.
1.2.
Một căn
nguyên khác của chứng "tất
định" là bệnh ấu trĩ nghề nghiệp
trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. Ấy là tưởng rằng quy định càng kỹ, càng cụ thể
thì càng chặt chẽ, càng ít bị lợi dụng. Nhưng cuộc sống quá bao la, đến mức
không một tấm lưới pháp lý nào có thể bao trùm hết mọi hoàn cảnh thực tế, nên
càng cố căng ra để phủ thì càng sơ hở, rồi kéo căng quá thì rách cả lưới. Khi sa đà vào cụ thể, thì cũng đánh mất tính
tổng quát, nên có thể trở nên sai hoặc để sót nhiều trường hợp, và đôi khi còn dễ
bị lợi dụng hơn. Chẳng hạn, Điều 153 Bộ luật hình sự số 15/1999/AH10 quy định về "Tội buôn lậu",
nhưng chỉ đề cập đến hành vi "buôn bán trái phép qua biên giới". Khi đã viết cụ thể "qua biên giới", thì không thể coi "buôn bán trái phép" trong nội địa Việt Nam là phạm "tội buôn lậu" (theo Điều 153)
nữa. Vậy thì cứ việc "buôn bán trái
phép", nhưng tránh vượt "qua
biên giới" là thoát được tội này, mặc dù buôn bán hàng cấm hoặc hàng trốn
thuế (kể cả trong nội địa) thường được
coi là "buôn lậu".
1.3.
Khi đã nghiện quy định, nghiện định nghĩa, cố định nghĩa cả những thứ không
cần định nghĩa, hay không thể định nghĩa chính xác, thì khó tránh khỏi những
kết quả ngây ngô. Ví dụ đơn giản là Khoản
1 Điều 13 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
"Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật,
chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng
năm cánh."
Có thể
rút ra điều gì từ đây? Khi đã viết cụ thể là "hình chữ nhật", "chiều
rộng bằng hai phần ba chiều dài", và "ở giữa có ngôi sao", thì có nghĩa các nhà lập hiến rất chú
trọng chi tiết và tính chính xác, đặc biệt là coi trọng hình dáng, tỷ lệ kích thước
và vị trí của ngôi sao. Do đó, khi đã
quy định tỉ mỉ như thế, thì tỷ lệ nào không được nhắc tới có thể coi là không
quan trọng và có thể chọn tùy ý. Chẳng hạn, nếu "hình chữ nhật" (với "chiều
rộng bằng hai phần ba chiều dài") to bằng mặt bàn và "ở giữa có ngôi sao"… nhỏ xíu như
con ruồi, thì vẫn phù hợp với mọi tiêu chuẩn được quy định chi tiết trong
Hiến pháp. Nhưng có thể coi cái thứ hợp hiến ấy là Quốc kỳ của nước CHXHCN Việt
Nam hay không? Cũng theo tiêu chuẩn hình
dáng, tỷ lệ kích thước và vị trí của ngôi sao đã được hiến định,
thử hỏi có thể chấp nhận các biến tướng của Quốc kỳ như trong Ảnh 1, Ảnh 2 và Ảnh 3 hay không?
Có cần phải xử lý các tổ chức và cá nhân đã vi phạm Hiến pháp thông qua hành vi
xuyên tạc Quốc kỳ hay không?
Ảnh 1: Quốc kỳ hình chữ nhật, nhưng tỷ lệ kích thước sai,
với ngôi sao bị búa liềm chèn dạt sang một phía (Nguồn: Internet.
Ảnh 2: Quốc kỳ hình… thang lõm một cạnh, với ngôi sao theo
búa liềm phiêu bạt lên trên (Nguồn: Internet
Ảnh 3: Quốc kỳ hình… méo – Không phải do gió bay, vì ngôi
sao vẫn ngay ngắn, không bị méo theo nền cờ (Nguồn: Internet)
1.4.
"Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình
tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở
dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ ‘Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’."
Tức Quốc huy phải là "hình
tròn", nghĩa là hình phẳng,
được giới hạn bởi một đường biên có khoảng cách không đổi (được gọi là bán kính) so với một điểm cố định (được gọi là tâm). Xin hỏi: Trong hai hình ở Ảnh
4 và Ảnh 5, cái nào giống "hình
tròn" hơn? Trong số những người đã học xong chương trình giáo dục
tiểu học (được hiến định "là bắt
buộc" tại Điều 61 Hiến pháp 2013), ai dám nói
rằng cái hình chỗ lồi chỗ lõm trong Ảnh 5
là "hình
tròn"? Ấy vậy mà Hiến pháp lại gọi nó là "hình tròn", và
486 đại biểu Quốc hội đã bấm nút "tán
thành", chỉ có 2 người bỏ phiếu trắng, không có ai phản đối.
Vốn dĩ, Hiến pháp 1946 không hề hiến định Quốc kỳ và Quốc huy. Hiến pháp 1959 bắt đầu hiến định chúng, đã quy định "Quốc
huy… hình tròn", nhưng không đề cập đến hình dáng và tỷ lệ kích thước của
Quốc kỳ, mà chỉ viết "ở giữa có ngôi
sao vàng năm cánh". Hiến pháp 1980 bổ sung thêm quy định "Quốc kỳ…
hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài". Sau đó, nội
dung hiến định "Quốc kỳ… hình chữ
nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài… ở giữa có ngôi sao" và "Quốc huy… hình tròn" được tiếp
tục duy trì trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Như vậy, suốt hơn nửa thế kỷ, cả 13 khóa Quốc hội đều "kiên định lập
trường" cho rằng Quốc huy như trong Ảnh 5 là "hình tròn".
Nội dung đơn
giản như vậy mà còn hiến định sai, thì sao có thể hiến định đúng những vấn đề
phức tạp? Lỗi sơ đẳng, hiển nhiên như vậy mà còn không nhận ra, thì sao có thể
phát hiện nổi những sai sót không tầm thường trong Hiến pháp?
Hiến pháp Mỹ không đề cập đến Quốc kỳ và Quốc huy. Hiến pháp Đức cũng không nhắc đến Quốc huy, và chỉ viết gỏn gọn về Quốc kỳ như sau: "Cờ Liên
bang là Đen-Đỏ-Vàng." (Nghĩa là chỉ
nhắc đến bộ màu Đen-Đỏ-Vàng, thường được dùng làm tên để gọi
Quốc kỳ CHLB Đức, chứ không đưa
ra quy định mang tính định nghĩa về Quốc kỳ.) Thế nhưng sự "thiếu vắng"
ấy không hề cản trở hai quốc gia đó phát triển, trở thành cường quốc hàng đầu
thế giới. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến Việt Nam phải làm khác đi, cố hiến
định một cách chi tiết về Quốc kỳ và Quốc huy, để rồi lại tạo ra sản phẩm ngây
ngô như vậy?
1.5.
Điều 17 Hiến pháp 2013 định nghĩa:
"Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc
tịch Việt Nam."
Ấy là tiếp tục duy trì truyền thống hiến định tại
Điều 53 Hiến pháp 1980 và Điều 49 Hiến pháp 1992. Với bản năng "tất định", đương nhiên đặt ra câu hỏi: Vậy "người có quốc tịch Việt Nam"
là ai? Khoản 1 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam
(Số 24/2008/QH12) cho câu trả lời… ngược lại:
"Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam."
Sử dụng quy tắc bắc cầu cho cặp mệnh đề trên, ta
thu được "chân lý":
"Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân Việt
Nam."
Chỉ "luận quẩn" những thứ hiển
nhiên, để rồi tòi ra đặc sản "đèn cù"
như vậy, thì có nhất thiết phải viết vào Hiến pháp và luật hay không?
2. Chứng "Lắm
lời"
Lời nói
đầu của Hiến pháp Mỹ chỉ vẻn vẹn 52 chữ và của Hiến pháp Đức chỉ có 79 chữ. Còn ở Việt Nam, Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 dài 1276 chữ, của Hiến pháp 1980 dài 1706 chữ và của Hiến pháp 1992 dài 532 chữ. Nghĩa là dài, rất dài, nhưng càng
dài thì càng… sai, nên chưa đầy 70 năm đã phải trải qua 5 đời Hiến pháp. Có lẽ
nhận thức được phần nào hạn chế ấy, nên Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 đã được viết gọn hơn, chỉ còn 290 chữ. Tiến bộ
ấy dễ nhận thấy, song không có nghĩa là Hiến pháp đã khắc phục xong chứng "lắm lời". Sau đây là mấy ví
dụ về biểu hiện của hội chứng đó trong Hiến pháp 2013.
2.1.
"Công đoàn Việt Nam… là… tổ chức chính trị - xã hội được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên" – Nội dung này được hiến định đến hai lần. Lần thứ nhất
tại Điều 9:
"Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt
Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu
chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
thành viên, hội viên tổ chức mình…"
"Công đoàn Việt Nam là tổ chức
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện
cho người lao động, chăm lo và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…"
2.2.
"Cơ quan… cán bộ, công chức, viên chức phải… chống tham nhũng, lãng
phí" – Cái này được quy định tại Điều 8:
"Các
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ
Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền."
Không nhất thiết phải viết ở đó như vậy, vì nội
dung "Cơ quan… cá nhân phải… chống
lãng phí… chống tham nhũng" cũng xuất hiện trong Điều 56:
"Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh
tế - xã hội và quản lý nhà nước."
Chẳng nhẽ phải
đề cập hai lần, vì Quốc hội cho rằng "các
cơ quan nhà nước" không phải là "cơ
quan", và "cán bộ, công chức,
viên chức" không phải là "cá
nhân", hay sao?
2.3.
Đặc biệt, chỉ trong nội bộ Điều 58 mà ý "Nhà nước, xã hội… bảo vệ, chăm sóc sức khỏe…" đã được viết
hai lần:
"1.
Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc
sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
2.
Nhà nước, xã hội và gia đình có
trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình."
Chẳng nhẽ phải
viết hai lần vì Quốc hội cho rằng "người
mẹ, trẻ em" không thuộc vào "Nhân
dân"?
2.4.
"Mọi người có nghĩa vụ tôn
trọng quyền của người khác."
Vậy mà Khoản 4 còn viết:
"Việc thực
hiện quyền con người, quyền công dân
không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác."
Chẳng nhẽ, Quốc
hội cho rằng, mặc dù đã "tôn trọng
quyền của người khác" theo Khoản 2, nhưng vẫn có thể "xâm phạm quyền của người khác", nên phải dùng Khoản 4 để quy định "không được xâm phạm quyền của người
khác", hay sao? (Xem Phụ lục I.)
Nếu cho rằng Khoản 4 Điều 15 là cần thiết, thì tại sao không bổ sung thêm vào Điều 4 Hiến pháp 2013 Khoản 4 với nội dung tương tự? Cụ thể như sau:
"Việc thực hiện quyền lãnh
đạo Nhà nước và xã hội không được xâm phạm lợi ích Quốc gia, Dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân."
Thậm chí, nên viết thêm rằng:
"Nghiêm
cấm việc đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích Dân tộc, vì quyền lợi của đảng
mà hy sinh quyền lợi Quốc gia."
Thực tế chỉ ra rằng: Hiến định như vậy không thừa, mà còn hết sức cần
thiết.
3. Chứng "Ít
chữ"
Phải
chăng đã quen "lắm lời" thì
hiến định cái gì cũng kỹ lưỡng? Không, trái lại, khi đã tốn "lắm lời" cho những chuyện
không đâu, thì chỉ còn lại "ít
chữ" cho những điều cần thiết.
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định."
Vẻn vẹn
33 chữ cho 3 nhóm quyền tự do quan trọng: Tự
do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự
do lập hội.
Vốn dĩ, vào thuở sơ khai của trình độ lập hiến, Hiến pháp 1946 (Điều 10) chỉ dành 21 chữ cho 3 nhóm quyền này, dưới hình
thức "khoán trắng", nghĩa
là không kèm theo bất kỳ cam kết hay ràng buộc nào cả. Sau đó, Hiến pháp 1959 (Điều 25) tăng lên thành 44 chữ, chủ yếu vì bổ sung thêm
cam kết:
"Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân
được hưởng các quyền đó."
Sang đời thứ ba, Hiến pháp 1980 (Điều 67) sử dụng số chữ kỷ lục là 79, do bổ sung tiếp hai
ràng buộc
"… phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân"
và
"Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích
của Nhà nước và của nhân dân."
Đến đời
thứ tư, Hiến pháp 1992 (Điều 69) rút xuống còn 31 chữ, trong đó bỏ hẳn cam kết "Nhà nước bảo đảm bảo đảm những điều
kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó", và thay điều
kiện "phù hợp với lợi ích của chủ
nghĩa xã hội và của nhân dân" bằng ràng buộc "theo quy định của pháp luật".
Việc
hủy bỏ cam kết "Nhà nước tạo điều
kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó", vốn tồn tại
trong Điều 67 Hiến pháp 1980 và Điều 25 Hiến pháp 1959, không chỉ đơn thuần là khước từ trách nhiệm của
nhà cầm quyền, mà còn thể hiện quyết
tâm không cho "công dân sử dụng
các quyền đó". Chính vì mưu đồ vi hiến ấy, mà họ đã dựng lên trong
Điều 69 Hiến pháp 1992 rào cản "...
theo quy định của pháp luật", rồi cố tình trì hoãn, dứt khoát không chịu
ban hành văn bản pháp luật quy định việc thực hiện, để công dân không thể thực
thi các quyền tự do. Sau khi nhận ra rào cản ấy không đủ kín về mặt pháp lý, họ
đã thay thế nó trong Điều 25 Hiến pháp 2013 bằng bức tường thành kiên cố hơn: "Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định". Tiếc thay, đi lạc nước cờ lập hiến nên lâm vào ngõ
cụt, như phân tích trong bài "Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?".
Dân
gian dùng từ "xin
đểu" để chỉ kiểu "giả vờ xin,
nhưng thực chất là ngang ngược ép buộc người khác phải cho". Phải
chăng, tương tự như vậy, từ "cho
đểu" cũng phù hợp với kiểu "giả
vờ cho, nhưng thực chất là ngang ngược cản cấm người khác nhận"?
Cũng
chính vì ý đồ không cho "công dân sử
dụng các quyền đó", nên mấy quyền tự do được hiến định một cách đơn
giản, mang tính chiếu lệ, và chỉ sử dụng ít chữ. Để hiểu hơn bản chất này, ta hãy
so sánh với hiến pháp của vài nước khác.
"Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn
giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế quyền tự do ngôn luận,
hoặc quyền tự do báo chí, hoặc quyền của người dân tụ họp
(assemble) một cách hòa bình (peaceably) và kiến nghị Chính phủ sửa chữa
những điều gây bất bình."
Như
vậy, Hiến pháp Mỹ cũng chỉ dùng ít chữ để hiến định các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tụ họp. Không phải vì các nhà lập
hiến Mỹ thiếu chữ, mà vì cho rằng không cần thiết phải viết quá nhiều về những quyền được họ quan niệm là hiển nhiên,
hiển nhiên đến mức chỉ còn cần hiến định việc cấm Quốc hội ban hành các đạo luật nhằm hạn chế các quyền đó. Mặc
dù "hào phóng" như vậy,
nhưng quyền tụ họp không được "khoán trắng" như trong Hiến
pháp 1946 hay Hiến pháp 2013 của Việt Nam, mà bị Hiến pháp Mỹ hạn chế trong
khuôn khổ "tụ họp một cách hòa
bình".
Đòi hỏi "tụ
họp một cách hòa bình" cũng xuất hiện cùng với điều kiện "không mang theo vũ khí" trong
Điều 8 Hiến pháp Đức, hiến định về quyền tự do tụ họp (bao gồm cả quyền
biểu tình):
"(1) Mọi
người Đức đều có quyền tụ họp một cách
hòa bình và không mang theo vũ khí,
mà không cần phải trình báo hay được chuẩn y.
(2) Đối với các
cuộc tụ họp ngoài trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở
của một luật."
Bên
cạnh đó, Hiến pháp Đức còn dành Điều 5 để quy định về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin và Điều 9 để quy định về quyền tự do lập hội (xem Phụ lục II).
Như vậy, để thể hiện nội dung của Điều 25 Hiến pháp 2013 (với 33 chữ) về 3 loại quyền tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông
tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự do lập hội, Hiến pháp Đức phải sử dụng Điều 5, Điều 8 và Điều 9, với tổng cộng 215 chữ tiếng Đức và có thể dịch
ra 294 chữ tiếng Việt, nghĩa là nhiều gấp
gần 9 lần so với Hiến pháp hiện hành của Việt Nam. Đấy là chưa kể Điều 18 (quy định về việc tước bỏ quyền cơ bản nếu lợi dụng chúng để chống lại trật tự dân chủ tự
do) và Điều 19 (quy định về nguyên
tắc ban hành luật hạn chế quyền cơ bản nếu hiến pháp cho phép hạn chế).
Một ví
dụ khác là điều hiến định về quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở. Trong khi Hiến pháp Việt Nam 2013 (Điều 22) sử dụng 46 chữ cho mục đích này, thì Hiến pháp Đức (Điều 13) sử dụng 334 chữ tiếng Đức, tương đương khoảng 450 chữ tiếng Việt, tức là nhiều gấp hơn 9 lần so với Hiến pháp
2013.
Hai ví dụ trên cho thấy Hiến pháp 2013 dành rất ít chữ để hiến định quyền
con người, quyền công dân. Tại sao?
Phải chăng là để nhà cầm quyền dễ hạn
chế hay dễ phủ định các quyền đó?
Hay do không có ý định chấp nhận chúng trên thực tế, nên cũng chẳng cần phải phí chữ cho chúng, đến mức bỏ qua cả cái ràng buộc đã trở thành
kinh điển, là quyền tự do hội họp, biểu
tình gắn liền với điều kiện là chúng phải diễn ra "một cách hòa bình"?
4. Chứng "Tuyên
giáo"
Chứng "lắm lời" không chỉ thể hiện ở
chỗ lặp đi lặp lại một số nội dung, mà cả ở việc nhồi vào Hiến pháp những mệnh
đề thuần túy "tuyên giáo".
Cứ như thể Hiến pháp là nơi để các tác giả thể hiện tài viết văn chính trị hay khả
năng thuyết giáo.
4.1.
Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:
"Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam…"
Vậy "đội tiên phong" là gì và được
định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Thuật ngữ này chứa thuộc
tính pháp lý nào, mà lại lạc vào Hiến pháp? Ngay cả ý nghĩa đời thường của nó
cũng đã bị mất tiêu sau khi chiến tranh kết thúc, cái thuở "tiên phong" còn có nghĩa là đi đầu ra mặt trận, gương mẫu xông pha nơi lửa đạn… Còn bây giờ,
khi lý tưởng quan trường là leo thật cao và
kiếm thật nhiều tiền, với vũ khí là lợi
dụng quyền lực, bất chấp pháp luật, thì "tiên
phong" trên "mặt trận thi
đua… tham nhũng", hay sao?
4.2.
"Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân."
Mệnh đề này hay được tua lại trong các bài tuyên
giáo. Nó có thể dùng để dạy con nít, giáo dục chúng đừng chỉ nghĩ đến quyền lợi mà quên nghĩa vụ. Nhưng khi "bị lạc" vào Hiến pháp, thì mệnh
đề đó trở nên vô nghĩa. Nó hoàn toàn thừa, vì "trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ" của công dân đã được
hiến định rõ ràng và đầy đủ tại Khoản 3 của chính Điều 15:
"Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước
và xã hội."
Hơn
nữa, trong khuôn khổ một văn bản pháp lý, thì thuật ngữ "không tách rời" chỉ có thể hiểu một cách "trần trụi" theo nghĩa đen, khiến câu văn bóng bẩy ấy trở
nên sai về nội dung. Đang ăn, đang ngủ, hay đang làm tình, chẳng nhẽ cũng phải thực hiện đồng thời một "nghĩa vụ công dân" nào đó, để
thỏa mãn điều kiện "không tách
rời", hay sao? Đối với trẻ sơ sinh, người tàn tật nặng và cụ già nằm liệt
giường, cần được chăm sóc tuyệt đối, thì "quyền"
được chăm sóc của họ "không tách rời
nghĩa vụ công dân" nào đây?
4.3.
Điều 45 Hiến pháp
2013 viết:
"Bảo
vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân."
Hiện thân đích
thực của "Tổ quốc" ra sao,
khi các bên xung đột đều nhân danh "Tổ
quốc", giống như thời đất nước còn chia đôi thành hai miền Nam, Bắc?
Bao giờ thì phải hay được "bảo
vệ Tổ quốc", và "bảo vệ"
như thế nào? Khi Tổ quốc bị xâm lấn và đồng bào ngư dân bị ngoại bang bắt bớ,
cướp bóc ngay trên vùng biển quê hương, thì công dân có nghĩa vụ và có quyền "bảo vệ" hay không? Tại sao
nhà cầm quyền lại sử dụng "quyền cao
quý" để đàn áp những người biểu tình phản đối hành vi bành trướng của
ngoại bang, nhằm thực thi "nghĩa vụ
thiêng liêng"? Ôi Tổ quốc, chúng con phải bảo vệ Người thế nào đây,
khi Tổ quốc của họ khác Tổ quốc của chúng con?
Tại sao không
viết gọn, rằng "Bảo vệ Tổ quốc là
nghĩa vụ và quyền của công dân", mà cố nhồi thêm vào đó hai tính từ "thiêng liêng" và "cao quý" ? "Thiêng liêng" và "cao quý" hay không là cảm nhận
của mỗi người. Tình cảm đó bị chi phối bởi hình hài mà Tổ quốc hiện ra trong
con mắt của từng số phận. Đối với thế lực núc ních nhờ tham nhũng, thì có lẽ Tổ
quốc giống như bò cái thả rông, không mất
công nuôi vẫn ngày ngày cho sữa – Yêu yêu quá đi thôi! Còn đối với dân oan
lang thang trong vô vọng, thì có lẽ Tổ quốc giống như người mẹ mải theo người tình mà bỏ rơi con cái – Sao mẹ nỡ vô tình làm
vậy? Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái tình cảm đương nhiên cũng khác
nhau. Không thể đòi hỏi người bị đè đầu
cưỡi cổ cũng phải hưng phấn như kẻ
đang đè, đang cưỡi. Đừng đòi
những phận đời đang chới với trong biển khổ phải dày vò thêm với câu hỏi "thiêng liêng": "Ta đã làm gì cho Tổ quốc?"
Hãy để lương tâm "cao quý"
của các đức ông, đức bà thường nhân danh Tổ quốc trả lời câu hỏi: "Tổ quốc đã làm gì cho dân đen?"
Và phía lập hiến hãy trả lời câu hỏi: Quốc hội lấy đâu ra cái quyền và cái lý để hiến định cả tình cảm của công dân, buộc mọi người phải coi đòi hỏi
"bảo vệ Tổ quốc" theo kiểu nhà cầm quyền ấn định là "thiêng
liêng" và "cao quý"?
4.4.
Điều 68 Hiến pháp
2013 viết:
"Nhà
nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân."
"Phát huy tinh thần yêu nước" như thế nào? Tổ chức khiêu vũ
nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quân bành trướng Trung Quốc tấn công vào các tỉnh
biên giới phía bắc, nhằm ngăn cản buổi lễ tưởng niệm hàng vạn đồng bào và chiến
sĩ đã ngã xuống, có
phải là cách "Nhà nước phát huy tinh
thần yêu nước" hay không? "Chủ nghĩa anh hùng cách mạng" là cái gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Nó
khác với "chủ nghĩa anh hùng"
(chung chung) hay "chủ nghĩa anh hùng
không cách mạng" như thế
nào? Cái "chủ nghĩa anh hùng cách
mạng" ấy có thực sự là "của
Nhân dân" hay không?
4.5.
Những mệnh đề "tuyên giáo" trong Hiến pháp
2013, như mấy ví dụ kể trên, thường có chung đặc điểm là mơ hồ về nội dung, rỗng và vô
dụng về pháp lý, không cần thiết và cũng không nên xuất hiện trong một bản hiến
pháp đích thực. Đó là kết quả
của việc "tuyên giáo hóa" hệ
thống giáo dục và đào tạo, khiến một số người đã "tu đủ các lò" có thể "đắc
đạo" đến mức, dù đi đâu về đâu cũng không quên bản năng và trách nhiệm
thuyết giáo. Kể cả khi tham gia viết Hiến pháp (là văn bản pháp lý lẽ ra chỉ chứa
đựng những quy định cơ bản về quyền lợi và trách nhiệm của công dân, về nhiệm vụ,
quyền hạn và phương thức tổ chức của bộ máy nhà nước, và biện pháp kiểm soát nó),
thì họ cũng không quên truyền giáo, và nhầm tưởng Hiến pháp cũng là giảng đường
để triển khai công tác "tuyên giáo".
5. Chứng "Lan
man"
Một đặc
điểm phổ biến trong các bài "tuyên
giáo" là hay "lan man",
nên ôm đồm về nội dung và tùy tiện về ngôn ngữ. Đáng tiếc thay,
khi các nhà "tuyên giáo"
nhúng tay vào Hiến pháp, thì nó cũng bị lây nhiễm căn bệnh ấy. Thành thử, lẽ ra
văn bản pháp luật phải được viết một cách mạch lạc, rõ ràng và chính xác, thì Hiến
pháp 2013 lại chứa nhiều câu "lan
man" kiểu "con cà con
kê", và lắm lúc kết thúc trong vô nghĩa.
5.1.
"Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy
sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân."
Nếu "Nhân dân… đấu tranh… vì hạnh phúc của
Nhân dân", thì đó chỉ là chuyện thường tình, đấu tranh vì hạnh phúc của bản thân thì có gì đáng nói? Hơn
nữa, "Nhân dân" đã "hy sinh… vì hạnh phúc của Nhân
dân", thì còn ai để hưởng "hạnh
phúc" nữa đây? (Có lẽ các tác giả muốn gắn từ "hy sinh" với chữ "đầy",
để chỉ "cuộc đấu tranh… đầy… hy
sinh", nhưng với câu viết lan man như thế, người đọc vẫn có quyền hiểu
rằng "hy sinh" là động từ
gắn trực tiếp với chủ ngữ "Nhân
dân".)
5.2.
"Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình."
Và nếu nghỉ giữa chừng, chưa kịp
đọc hai chữ "của mình" nấp ở
tận cuối câu, thì có thể thu được thông tin ngây ngô, chẳng hạn: "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết…"
5.3.
"Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc
công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi."
Vâng, nếu
không quên mất đang viết về chủ ngữ "Người…
ăn lương", thì tại sao lại bỏ công hiến định rằng họ "được hưởng lương"? Hơn
nữa, nếu "người làm công..."
không nghiễm nhiên "được hưởng lương,
chế độ nghỉ ngơi", nên vẫn phải đem cái thứ hiển nhiên ấy ra mà hiến
định, thì hóa ra đây là chế độ chiếm hữu
nô lệ hay sao?
5.4.
"Lan man" đến mức lạc hướng, khiến không
chỉ người đọc bị nhầm, mà người viết
cũng bị lẫn, như trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013:
"Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc
lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em."
Ở đây, "trẻ em" không còn là một từ
đơn, có thể đứng riêng lẻ và được vận dụng một cách độc lập, mà đã là một bộ
phận cấu thành, không thể tách rời của từ ghép "quyền trẻ em". Thành thử, "vi phạm quyền trẻ em" thì có nghĩa, nhưng "hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng,
bóc lột sức lao động… quyền trẻ em" thì hoàn toàn vô nghĩa.
5.5.
"Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được
tham gia vào các vấn đề về trẻ em."
"Trẻ em… được tham gia vào các vấn đề về trẻ em" – Nghe mới… âm u làm sao. Với xu hướng "phát
triển dân chủ" này, liệu có ngày "thai
nhi được tham gia vào các vấn đề về thai nhi" hay không?
Hiến định như vậy thì trẻ em được
thêm cái gì? Và nếu không hiến định như vậy thì trẻ em bị mất đi cái gì? Thực
tế trả lời ngắn gọn là KHÔNG! Vậy thì hiến định để làm gì?
Cái cao kiến ấy xuất xứ từ đâu?
Có người giải thích rằng ý "trẻ em được
tham gia vào các vấn đề về trẻ em" được cóp từ "Công ước về Quyền trẻ em". Nếu quả đó là giáo án, thì e rằng đã túm nhầm phao (xem Phụ lục III).
5.6.
"Lan man" đến mức sa đà vào ngạo mạn, đem
cả những "gánh nặng không đâu"
ra để "ban phát", như trong
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 37 Hiến pháp 2013:
"2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều
kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo
đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động
sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc."
"3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn
trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc."
"Thanh niên được… đi đầu trong công
cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc." Và "Người
cao tuổi được… phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc." Phải "được" Hiến
pháp (tức là "được" nhà cầm
quyền) cho phép, thì "thanh
niên" và "người cao
tuổi" mới "được"
gánh vác cái của "trời ơi"
ấy hay sao?
5.7.
Vì sao Hiến pháp 2013 lại phạm
phải những lỗi như đã trình bày trong phần 5
này? Không thể phủ nhận được sự ôm đồm và hạn chế trình độ của những người liên
quan. Nhưng có lẽ còn một nguyên nhân khác là hiệu ứng "đẽo cày giữa đường". Mỗi người, xuất phát từ vị trí,
nhận thức và mối quan tâm của bản thân, đều cố đưa vào Hiến pháp vài ý nào đó.
Nhiều người tham gia thì phải dung nạp nhiều ý, có thể không tương thích với
nhau. Muốn người khác chấp nhận ý của mình, thì mình cũng phải tôn trọng ý của
người khác. Vả lại, khi mỗi người chỉ được phát biểu trong một thời gian ngắn,
đấu tranh để thực hiện và bảo vệ ý tưởng của mình chưa chắc đã xong, còn đâu
thời gian để bàn sang chuyện của người khác. Thêm vào đó là sự bất lực cá nhân
trước tập thể quá đông, cùng với sự lép vế trước "bề trên". Và cả tâm lý "cha chung không ai khóc", cộng hưởng với thói quen ỷ
lại: "Dưới" thì nghĩ "đã có Trên lo", còn "Trên" thì đinh ninh "đã có bọn Dưới làm". Thành thử
dễ sinh ra sản phẩm… hổ lốn.
6. Chứng "Đại
ngôn"
Một
trong những điểm đặc trưng của Hiến pháp Việt Nam là hay dùng những từ to tát,
toàn mỹ, để chỉ những điều phi thực tế, mà nhà cầm quyền chưa hay không bao giờ
thực hiện được, hoặc thậm chí cũng chẳng hề có ý định thực hiện.
Để khắc
họa chứng "đại ngôn" của
Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần khảo sát sự vận dụng của từ "bảo đảm", vốn dĩ chỉ xuất hiện khiêm tốn có 2 lần trong Hiến pháp 1946, nhưng tăng lên 17 lần trong Hiến pháp 1959, nhiều nhất là 35 lần trong Hiến pháp 1980, rồi lại giảm xuống còn 26 lần trong Hiến pháp 1992.
Theo "Từ
điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà
xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1997), từ "bảo đảm" có nghĩa là:
-
Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được,
hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.
- Nói chắc chắn và chịu trách nhiệm về lời nói của mình để cho người khác yên
lòng.
-
Nhận chịu trách nhiệm làm tốt.
Từ "bảo đảm" xuất hiện 28 lần
trong Hiến pháp 2013. Đáng nói là, nhiều thứ được hiến định là "bảo đảm" lại không hề được "bảo đảm", thậm chí còn bị chính
bộ máy chính quyền xâm phạm thô bạo.
6.1.
Điều 34 Hiến pháp 2013 viết:
"Công dân
có quyền được bảo đảm an sinh xã
hội."
Đây chính là
Điều 35 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013. Bài "Teo dần quyền con người
trong hiến pháp" đã phân tích và kết luận rằng: "Quyền
được bảo đảm an sinh xã hội"
thuộc loại "quyền hư quyền ảo",
tức là "một thứ quyền vu vơ và hoàn
toàn không khả thi".
Theo Công ước số 102 của Tổ chức Lao
động Quốc tế (International Labour Organization), thì 9 lĩnh vực chính của "an sinh xã hội" (social security) là: Chăm sóc về y tế, trợ cấp khi ốm
đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn
lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn
tật, trợ cấp tiền tuất. Chẳng cần khảo sát xem chất lượng thực hiện đã đạt
mức gọi là "được bảo đảm" hay chưa, vì có thể
khẳng định rằng: Không một thứ nào trong
số đó được triển khai ở Việt Nam trên quy mô toàn xã hội. Nếu có phần nào đó được thực hiện, thì chỉ dừng
lại ở bộ phận tương đối nhỏ, mang tính "đặc
ân", trước hết dành cho những người được coi là có công với chế độ.
Đôi khi, một
số hoạt động mang tính từ thiện cũng được tổ chức cho đối tượng dân thường,
nhưng không phải chỉ vì tình thương bao la, mà còn nhằm trang trí cho chế độ. Theo thông
tin được đăng tải trên Báo Điện tử ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Từ
năm 2011- 2013 nguồn lực dành cho hộ nghèo tăng lên khoảng 120 nghìn tỷ
đồng/năm. Chỉ riêng "nguồn lực dành cho
hộ nghèo" mà đã tương đương với 14,7% tổng số thu
cân đối ngân sách nhà nước (816 nghìn tỷ đồng cho năm 2013), thì không phải là ít. Song tiêu chí đánh giá không
thể dừng lại ở chỗ chi bao nhiêu, mà
phải là: Chi thế nào? Số tiền đó đi đâu?
Có đến tay người nghèo hay không?
Theo bài "Ai giám sát tiền hỗ trợ giảm
nghèo?" của Nguyên Khánh, đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 29/9/2013, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đã
thừa nhận rằng:
"Bộ máy quản lý các chương trình, dự án giảm nghèo quá đồ sộ. Tỷ lệ chi cho hành chính, sự nghiệp chiếm
hơn 63% tổng số tiền giảm nghèo huy động được… Thế nên mới có chuyện tiếng là các nguồn hỗ trợ người nghèo lên
tới gần 200 triệu/hộ/năm, nhưng thực tế thì mỗi hộ nghèo chỉ tiếp cận được từ
10 - 15 triệu đồng/năm."
Qua đó, có
thể hình dung ra mục tiêu và hiệu quả của một số chính sách giúp đỡ người nghèo
và phục vụ "an sinh xã hội"
(ví dụ như xây nhà ở xịn giữa đô thị đắt đỏ để bán cho người nghèo).
Rõ ràng,
những hoạt động kiểu ấy không chỉ là lấy tiền ngân sách chi cho người nghèo,
mà còn là cách lấy tiền ngân sách nhân danh người nghèo. Kết quả là: Đã tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng
"an sinh xã hội" còn cách rất…
rất xa cái mức có thể coi là "bảo đảm".
Hãy
lấy việc chăm
sóc về y tế làm ví dụ. 4-6 người bệnh phải chung nhau một giường, như được
phản ánh trong bài "Một năm viện phí mới: Giường ghép, nỗi
khổ chưa chấm dứt" của Lan Anh và Quỳnh Liên, đăng trên báo Tuổi trẻ
Online ngày 26/9/2013. Như thế có lẽ vẫn còn may mắn hơn so với những "Bệnh nhân ‘bò từ gầm giường’
ra đón Bộ trưởng Y tế", như được mô tả trên báo Người đưa
tin ngày 15/1/2013. (Xem thêm "Chùm ảnh: Bệnh nhân ‘bò’ ra
đón Bộ trưởng Y tế", với Ảnh 6 và Ảnh 7 được lấy từ đó.)
|
Nhẫn tâm thay,
"bất chấp hậu quả khôn lường cho bệnh nhân, một phiếu xét nghiệm huyết
học ở Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) được khoa Xét nghiệm “nhân bản” để
dùng luôn cho 2-5 bệnh nhân… 1.000 kết quả xét nghiệm huyết học được dùng
cho ít nhất 2.000 bệnh nhân (trung bình một kết quả phiếu xét nghiệm được sử
dụng cho 2-5 bệnh nhân)… Thí dụ, một kết quả xét nghiệm huyết học vào hồi
9h3 phút ngày 19.2.2013 được dùng cho 4 bệnh nhân: Nguyễn Thị Nguyên - 70 tuổi,
chẩn đoán lao phổi; Nguyễn Trung Nghĩa - 27 tuổi, chẩn đoán áp-xe cạnh hậu môn;
Lý Thị Vân - 61 tuổi, chẩn đoán viêm phế quản của người bệnh cao huyết áp đang
nằm ở khoa Hồi sức cấp cứu và cháu Lương Kiều Trang - 12 tuổi, chẩn đoán viêm
ruột thừa."
Bao chuyện
tiêu cực xảy ra hàng ngày, hàng giờ, ở khắp nơi, từ địa phương đến trung ương, nhiều
không kể xiết… Thêm vào đó là những vụ vô tình… làm chết người, như tiêm nhầm thuốc gây co bóp tử cung khiến 3 trẻ sơ
sinh tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa… Thử hỏi, tình hình "chăm sóc về y tế" (lĩnh vực số một của "an sinh xã hội") bi đát như
vậy, thì có thể coi là "được bảo đảm", tức là được "làm tốt"
và "có đầy đủ những gì cần
thiết", hay không?
Muốn "bảo đảm an sinh xã
hội" thì phải có đủ tiền của, để chăm sóc chu đáo
về y tế cho mọi người; để trợ cấp đáng kể cho người ốm đau, người thất nghiệp, người
già, người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; để trợ cấp cho người tàn
tật… Và điều đó phải tiến hành trên quy
mô toàn xã hội, dành cho cả những người nghèo không có khả năng đóng các loại
bảo hiểm. Mấy chục năm nữa, chưa chắc xã hội Việt Nam mon men đến được cái
đích ấy. Vậy thì tại sao bây giờ lại đại ngôn mà viết vào Hiến pháp là "bảo đảm an sinh xã
hội" cho mọi công dân?
Bạn đừng tưởng
đó là sơ hở pháp lý, để rồi tận dụng mà kiện chính quyền. Bởi Điều 34 Hiến pháp 2013 đã được viết với kỹ năng chính trị cao cường,
nên đem lại dáng dấp oai phong, mà vẫn chẳng tạo ra gánh nặng nào cho Nhà nước.
Nó chỉ hiến định "công dân có quyền được được bảo đảm…", nhưng không xác định "ai phải bảo đảm…",
nên nhà cầm quyền vẫn có thể lẩn tránh trách nhiệm. Chẳng hạn, nếu công dân nào
đó đòi được trợ cấp…, trong khuôn khổ của cái gọi là "bảo đảm an sinh xã hội", thì có thể
nhận được câu trả lời theo kiểu "Trời sinh voi thì Trời phải sinh
cỏ", rằng ai sinh ra ngươi thì phải "bảo đảm" những quyền lợi ấy cho ngươi. Như vậy, Nhà nước
vừa được ca ngợi, vừa vẫn "vô
can".
6.2.
"Đơn vị
tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia."
"Bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia" – Nghe thật tuyệt đối và to tát, nhưng vấn đề là: Nhà nước có "ổn
định" nổi không? Lấy cái gì để
đo mức "ổn định"?
Theo thông tin về tỷ giá
ngoại tệ trên website của Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), giá mua chuyển khoản ngày 10/2/2009 là 17.483 Đồng/USD, 22.372 Đồng/EUR,
và ngày 10/2/2014 là 21.080 Đồng/USD, 28.569 Đồng/EUR. Như vậy, trong
vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 83% so với USD và chỉ
còn 78% so với EUR.
Theo thông tin trên Sài Gòn Giải
phóng Online, giá mua vàng SJC ngày
10/2/2009 là 18.610.000 Đồng/lượng và ngày
10/2/2014 là 35.420.000 Đồng/lượng. Như vậy, trong
vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 53% so với vàng
SJC.
Giá trị Đồng Việt Nam giảm nhiều
như vậy, mà Quốc hội lại thông qua Hiến pháp viết rằng "Nhà nước bảo đảm ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia", thế thì có quá đại
ngôn hay không?
6.3.
"Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các
nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí…"
"Nhà nước… bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc" có nghĩa là phải tạo điều kiện để mọi người đều có khả năng hoàn thành
chương trình "giáo dục tiểu
học". "Nhà nước không thu
học phí" là góp phần thực hiện mục tiêu ấy, nhưng đó mới chỉ là một phần tương đối nhỏ. Để có thể đi học, trẻ
em phải được ăn no, mặc ấm, phải có sách vở, giấy bút… Dù
xã hội giàu đến đâu, thì vẫn có những bố mẹ không đủ khả năng thỏa mãn những
nhu cầu ấy của con cái. Trong trường hợp đó, chính Nhà nước phải trợ cấp phần thiếu hụt, để trẻ em có điều kiện sinh
sống tối thiểu mà đi học tiểu học. Liệu Quốc hội đã nghĩ đến trách nhiệm
này hay chưa? Liệu Nhà nước có định "bảo
đảm" chu cấp nuôi hàng triệu trẻ em ở độ tuổi giáo dục tiểu học hay
không? Và có khả năng kinh tế để triển khai dự định ấy hay không? Hay chỉ đại
ngôn cho sướng, cho oai?
6.4.
"3. … thi hành lệnh tổng động viên hoặc động
viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài
sản của Nhân dân;"
"6. Bảo vệ
quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;"
Theo giải nghĩa trong "Từ
điển tiếng Việt" về từ "bảo đảm" (như đã trích ở
trên), thì Điều 96 đòi hỏi Chính phủ phải
"chắc chắn giữ gìn được tính
mạng, tài sản của Nhân dân" và "chắc
chắn giữ gìn được trật tự, an toàn xã hội".
Trên thực tế, "tính
mạng, tài sản của Nhân dân" và "trật
tự, an toàn xã hội" được Chính phủ "bảo
đảm" như thế nào? Hãy nghe Phương Bích tâm sự:
"Báo chí đưa tin nạn trộm chó hoành hành khắp các miền
quê. Người dân bảo vệ chó của mình thì bị trộm đánh trả. Thậm chí chỉ vì bảo vệ
chó mà chủ thiệt mạng. Kết quả là người dân hợp lực nhau lại, đánh chết kẻ trộm
chó trong cơn cuồng nộ."
"Chuyện
nợ nần trong làm ăn, người ta không mấy khi nhờ cậy đến pháp luật giải quyết,
vì họ biết thừa không có hiệu quả. Thế mới sinh ra các nhóm đòi nợ xã hội đen đỏ
tím vàng... Và lúc đó thì pháp luật lại ra tay trị kẻ đi đòi nợ…"
"Tôi rất muốn hỏi các quý vị người nhà nước, dân chúng
tôi phải làm gì khi pháp luật không có tác dụng bảo vệ quyền lợi và tính mạng
của mình?"
Một
trong những chuyện đau lòng mới xảy ra là vụ đứt cáp cầu treo nối bản Chu Va 8
với Chu Va 6 ở xã Sơn Bình (Tam Đường, Lai Châu) vào sáng 24/2/2014, khiến hơn
40 người rơi xuống suối, 8 người chết và 33 người khác bị thương. Chẳng nhẽ đó cũng là kết quả "bảo đảm" của Chính phủ hay
sao?
Thực
ra, không một Chính phủ nào trên Thế giới
này có thể "bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân" và "bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội"! Hùng mạnh như
Chính phủ Mỹ mà cũng đành bất lực… Không "bảo đảm" nổi tính mạng của
Tổng thống, thì làm sao có thể "bảo đảm" được tính mạng của
người dân? Không "bảo đảm" nổi sự an toàn của
tòa tháp đôi World Trade Center, biểu tượng tự hào sừng sững giữa trung tâm
thành phố New York, cùng với tính mạng của hàng nghìn làm việc trong đó, thì làm sao có thể "bảo đảm
tính mạng, tài sản của Nhân dân" và
"bảo đảm trật tự, an toàn xã hội" ở những nơi hẻo lánh xa xôi?
Dù cố
gắng đến đâu, thì vẫn buộc phải chấp nhận thực tế: Luôn có những người bị thiệt mạng (vì tai nạn hoặc vì bị hãm hại). Luôn có những tài sản của Nhân dân bị hủy
hoại (vì thiên tai, hỏa hoạn… hoặc vì bị phá hoại). Và luôn tồn tại những sự cố về trật tự, an toàn xã hội.
Nếu
viết "Chính phủ có nhiệm vụ… bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân, … bảo vệ trật tự, an toàn xã
hội", thì còn hợp lý và khả thi. Đằng này, thay vì dùng từ "bảo vệ", Quốc hội lại dõng
dạc hiến định là "bảo đảm",
vậy thì có quá đại ngôn hay
không?
"Nhà nước xây dựng Công an nhân dân… làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
đấu tranh phòng, chống tội phạm."
Một trong những ví dụ chỉ ra "Công an nhân dân… bảo đảm trật tự, an toàn xã hội"
thế nào được mô tả trong bài "Vết rạn sau vụ giết bạn chấn động" của Đàm Đệ.
Còn nhiều thứ "bảo đảm" khác, sẽ được đề cập tiếp trong phần 7 và Phụ lục IV.
6.5.
Đại ngôn là tập quán phổ biến ở mọi
chính trường trên Thế giới. Nhưng đại
ngôn tràn lan cả trong hiến pháp, thì chỉ có thể là đặc sản của nhà nước mà thế lực cầm quyền
xa lạ với trách nhiệm. Nếu quan niệm rằng "nói phét không mất tiền", nghĩa là không phải chịu trách nhiệm về những điều mình nói, thì tội gì mà không
nói cho oai?
Đại ngôn bị vung vãi dễ dãi trong
Hiến pháp khi thế lực cầm quyền chỉ
muốn tô vẽ để tự ngợi ca,
mà không hề có ý định thi hành trên
thực tế. Tệ nạn ấy không chỉ bắt nguồn từ tập quán hứa bừa, mà còn bám rễ trong truyền thống mạo công. Làm một kể mười, thậm chí không làm cũng
điềm nhiên nhận công. Cái chứng bệnh ấy lây lan khắp nơi, càng lên cao thì bệnh
càng trầm trọng. Hãy xem những bia đá được chưng ra nơi nơi, từ công viên đến
đền chùa và các loại di tích, để kể công vị này ngài nọ đã trồng cây, cái cây mà
nhiều người cùng trồng cùng tưới, nhưng công lao lại chỉ được gán cho đúng một người
– cái người đóng góp ít công sức nhất. Tệ hại hơn, có lẽ để tương xứng với cái
bia đá to đoành, hay vì sợ cây non không kịp lớn trước khi vị nọ "giải nghệ hoàn dân", nên người
ta bứng cả những cây to đã tồn tại
lâu năm, để diễn trò tái trồng mầm… già.
Quyền trong tay thì cứ việc ra tay, nhưng đừng quá chủ quan cho rằng đại ngôn luôn vô hại. Về lý mà nói, một
khi đã hiến định là Nhà nước hay Chính phủ "bảo
đảm" thứ gì đó, thì người dân có quyền kiện những người đứng đầu Nhà
nước hay Chính phủ khi thứ ấy không được "bảo
đảm". Nếu bịt tai phớt lờ hay trả thù người khiếu kiện thì lại bị dư
luận lên án là chà đạp "nhà nước
pháp quyền". Đại ngôn
có sướng đến mức đáng để chuốc lấy "hậu
quả không đâu" ấy hay không?
7. Chứng "Bất
chấp"
Khi "đại ngôn" thì ít nhiều đã "bất chấp". Nhưng trong phần
này, ta chỉ đề cập đến một số điều hiến định thuộc loại rất bất chấp thực tế.
7.1.
"1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân."
"2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân
làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức."
Nhà
nước này có phải là "nhà nước pháp
quyền", "của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân" hay không? Nước này có phải là "do Nhân dân làm chủ" và "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân" hay không? Thông qua thực tế, nhà cầm quyền đã liên tục đưa
ra câu trả lời phủ định. Ở đây, chỉ cần đề cập một ví dụ: Việc cương quyết không chấp nhận để Nhân dân
phúc quyết Hiến pháp đã chứng tỏ, rằng Nhà nước này không phải "của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân"! Và cái gọi là "Nhà nước… do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" chỉ là chuyện hư cấu bất chấp thực tế mà thôi.
Không
phải hiến pháp nước nào cũng được đem ra phúc quyết toàn dân. Khi không có ai
đòi đem Hiến pháp ra phúc quyết, thì cũng chẳng nhất thiết phải phúc quyết. Khi
bộ máy cầm quyền thừa sức ngụy tạo ra kết quả bỏ phiếu theo ý muốn của họ, thì
cũng chẳng nên kỳ vọng vào giá trị khách quan của việc phúc quyết. Nhưng nếu một lực lượng công dân đòi hỏi phải đem
Hiến pháp ra phúc quyết toàn dân, thì không ai có quyền phủ quyết đòi hỏi đó.
Bởi về lý mà nói, dù có quyền cao, chức trọng đến đâu trong bộ máy cầm quyền,
thì bất cứ ai cũng chỉ là công dân
bình đẳng với mọi công dân.
Giả sử
các đại biểu Quốc hội được Nhân dân bầu ra một cách thực sự dân chủ (tiếc rằng
thực tế không phải như vậy), thì Nhân dân cũng chỉ trao cho họ quyền đại diện về
những điều mà họ đã thể hiện và tuyên bố công khai trước toàn thể cử tri, từ
trước khi họ được bầu, và cử tri đã dựa vào đó để bầu họ. Nếu trước khi đắc cử
tuyên bố sẽ ủng hộ "phương án
A", thì sau đó không thể nhân danh đại biểu của Nhân dân để phản đối "phương án A". Nếu trước khi
bỏ phiếu, cử tri không được biết gì hơn về các ứng cử viên ngoài mấy dòng lý
lịch trích ngang vô hồn, thì người đắc cử không thể nghiễm nhiên cho rằng mình
đã được cử tri ủy thác quyết định bất cứ việc gì. Không thể quan niệm rằng Nhân dân đã trao cho đại biểu Quốc hội quyền quyết
định mọi vấn đề, như thể trao cho họ tập séc khống, muốn ghi gì và ghi bao
nhiêu vào đó cũng được.
Chưa bao giờ Nhân dân ủy thác cho Quốc hội phủ định quyền phúc quyết của
Nhân dân. Vì
vậy, nếu muốn phản đối việc phúc quyết
Hiến pháp, thì đại biểu Quốc hội phải tổ chức lấy biểu quyết cử tri mà mình đại
diện, xem đa số cử tri có ủng hộ dự định đó hay không. Chẳng hề xin ý
kiến cử tri, mà Quốc hội vẫn ngang nhiên bác bỏ đòi hỏi phúc quyết Hiến pháp
của một lực lượng công dân, thì đó là bằng chứng cho thấy: Quốc hội đã bất chấp thực tế khi khẳng định trong Hiến pháp rằng Nhà nước
này là "của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân", "do Nhân dân
làm chủ" và "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".
7.2.
Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:
"1. Đảng Cộng sản Việt Nam… đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."
Như đã
phân tích trong bài "Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp", tất cả các nội dung được trích ở trên đều thuộc dạng "công
chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản". Thay vì viết rõ đó là
những đòi hỏi mà ĐCSVN phải chấp nhận và phải
thực hiện, thì họ lại cố tình bỏ đi mấy chữ "phải", biến
các đòi hỏi pháp lý thành những mệnh đề khẳng định, như thể ĐCSVN đã và đang đạt được
những điều mà trên thực tế không hề đạt.
"Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp, pháp luật…"
"Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật…"
Vậy là trách
nhiệm hiến định "phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp,
pháp luật" của "các cơ quan
Nhà nước" và "đơn vị vũ trang nhân dân" không còn nữa.
Thay vào đó, chỉ còn hiến định là "Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật", tức không
hề có từ "phải", hay tương tự, để thể hiện trách nhiệm hiến định.
Nghĩa là, học theo tấm gương xấu của Điều 4, Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 cũng trở thành dạng "công chứng bất chấp hiện trạng của
nguyên bản", như thể "Nhà
nước đang được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật", bất chấp thực tế mà người người đều
rõ.
7.3.
Điều 3
Hiến pháp 2013 viết:
"Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân…"
"Quyền làm chủ của Nhân dân" là gì? Cái này mờ ảo như trời cao, nên thôi, không bàn ở đây. Còn "quyền con người, quyền công dân"
thì cụ thể hơn, thiết thân hơn, nên buộc phải đặt ra câu hỏi: "Nhà nước… bảo
đảm quyền con người, quyền công dân" như thế nào?
Như ta đều biết,
quyền con
người, quyền công dân thường xuyên
bị bộ máy cầm quyền xâm phạm, ví dụ như trường hợp "Bốn công an dùng nhục hình, xát ớt bột vào hạ bộ một
thanh niên". Để tránh bị
lên án, khi ra tay chỉ lớp quan chức dưới cùng mới xuất đầu lộ diện. Kín kẽ
hơn, họ huy động cả đám "quần chúng
bức xúc" hay "côn đồ tự
phát" để "ném đá dấu
tay". Thậm chí, cho cả sĩ quan công an giả dạng dân thường, như trường
hợp công an giả làm thợ cưa đá dưới chân tượng Lý Thái Tổ vào sáng 19/1/2014,
để ngăn cản một số công dân dâng hương hoa, nhằm tưởng niệm các chiến sĩ đã hy
sinh, nhân kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc. Nhưng những màn kịch ấy không thể ngụy trang, che dấu được trách nhiệm
của các cấp lãnh đạo. Ai cũng hiểu rằng: Nếu lãnh đạo cấp trên không đồng tình, không
đứng sau những trò hề ấy, thì họ đã chấn chỉnh, ra lệnh cho cấp dưới chấm dứt ngay
những hành động vi hiến, phi pháp, đàn áp người dân thực thi các quyền hiến
định.
Điều khiến
lãnh đạo tầng trên cùng, từ Bộ trưởng trở lên, không thể phủ nhận trách nhiệm,
là chính họ ký tên ban hành các văn bản pháp quy vi hiến và phi pháp để phủ định
quyền con người, quyền công dân, như
đã đề cập trong bài "Lực
cản Nhà nước pháp quyền". Qua đó ta thấy rõ, Điều 3 Hiến pháp 2013 bất
chấp thực tế đến mức nào.
Thiết tưởng cũng chẳng cần bàn thêm, nhưng tiện đây, xin bổ sung thêm một ví dụ
tương đối mới.
Theo thông tin trên trang Bauxite Việt
Nam vào ngày 24/2/2014, Công an Quận
4 Thành phố Hồ Chí Minh đã phát đến từng hộ dân “Phiếu Tố giác Tội phạm” (xem Ảnh 8).
Trong đó, "Kích động, nói xấu chế
độ" là tội số một, "Vận động khiếu kiện tập thể"
là tội đứng thứ hai, trên cả tội "cướp của". Đây là một bằng
chứng hùng hồn về việc bộ máy cầm quyền vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Lạ thay cái tội "nói xấu chế độ"! Không ai có
thể phủ định thực tế, là chế độ này không
thiếu biểu hiện xấu. Xấu đến mức Chủ tịch nước Trương Tấn San phải gọi một số đồng chí là "bầy sâu". Và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thi Doan cũng thừa nhận: "Người
ta ăn của dân không từ cái gì". Nếu ai đó nói về những cái xấu ấy của chế độ, thì cũng chỉ là phản
ánh cái sự thật mà muôn người đều biết, trong khuôn khổ tự do ngôn luận, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. Tại sao lại
quy kết người "nói xấu chế độ đúng
sự thật" là "tội phạm",
rồi ra tay trừng phạt? Đó là "công
lý xã hội chủ nghĩa" hay sao?
Lẽ ra, chỉ nên coi những người "bịa đặt về chế độ" là "tội phạm". Song khi đó, phải
kết tội tất cả những ai "nói không
thành có", kể cả những vị thường bịa
đặt những chuyện tốt không có thật để
gán cho chế độ, cái hành vi thường được coi là "ca ngợi chế độ". Tội bịa đặt để "ca ngợi chế độ" rất đáng bị trừng phạt. Bởi nó làm hại
người dân, khiến họ ấm ức, phải chịu đựng lâu hơn những nỗi khổ bị thuyết minh là hạnh phúc. Mặt khác, nó làm hại
chính bản thân chế độ, vì thôi miên và đánh lừa bộ máy cầm quyền: Đang mang trong
mình những khối u ác tính, mà lại bị lừa
(và tự lừa) là vẫn khỏe mạnh, nên chủ
quan, không chịu điều trị kịp thời, đợi đến khi di căn khắp nơi, thì… vô phương
cứu chữa.
Đặc biệt, trong “Phiếu Tố giác Tội phạm”, "Vận động khiếu kiện tập thể" bị
coi là "tội" thuộc phạm trù
"An ninh chính trị". Trên
thực tế, "khiếu kiện tập thể"
thường bắt nguồn từ lý do kinh tế, không vì mục tiêu chính trị. Tước quyền sử
dụng đất của bao nông dân quanh năm "bán
mặt cho đất bán lưng cho trời", mà bồi thường không thỏa đáng, thì
đương nhiên các nạn nhân phải cùng nhau bảo vệ tài sản của mình. Và nếu tự vệ
không nổi, thì phải cùng nhau khiếu kiện,
gọi là "khiếu kiện tập thể",
để đòi lại công bằng. Hành động hợp tình, hợp lý như vậy, mà lại bị chính quyền
cản cấm và đàn áp, thì dù ngu ngơ đến đâu cũng có thể đoán ra vai trò giật dây của
thế lực tham nhũng. Cho nên, nhiều khi "vận
động khiếu kiện tập thể" cũng là "vận
động tập thể chống tham nhũng". Coi "vận động tập thể chống tham nhũng" là "tội" đe dọa "an ninh chính trị", tức là "tội chống chế độ", thì chẳng khác
nào khẳng định rằng "tham nhũng là
bản chất của chế độ này", nên "chống
tham nhũng là chống chế độ". Hay đó chỉ là hành vi xuyên tạc của thế
lực cầm quyền, "nhân
danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng"?
Như đã chỉ ra trong bài "Lực cản
Nhà nước pháp quyền", Điều 74 Hiến pháp 1992 hiến
định "quyền khiếu nại" không hạn chế; Luật khiếu nại, tố cáo số 09/1998/QH10 chấp nhận đích danh việc "nhiều người khiếu nại,
tố cáo về cùng một nội dung" và "cử đại diện để trình bày",
nghĩa là chấp nhận những vụ khiếu nại của nhiều người cùng đứng tên. Cho nên,
việc Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 04/2010/TT-TTCP, trong đó không chấp nhận "đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người", là
hành vi vi phạm thô bạo Hiến pháp và luật. Điều 30 Hiến pháp 2013 tiếp tục hiến định "quyền khiếu nại"
không hạn chế. Thêm vào đó, Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: "Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật". Vì nghị định và thông tư không phải là luật, nên tính vi hiến của Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và Thông tư số 04/2010/TT-TTCP càng trở nên rõ ràng hơn. Như vậy, không có bất kỳ văn bản
pháp lý hợp hiến nào cho phép nhà cầm quyền khước từ "khiếu kiện tập thể".
Việc "vận động khiếu kiện tập thể" thuộc quyền công dân, trong khuôn
khổ tự do hội họp, lập hội, được hiến
định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. Thế thì tại
sao công an lại coi hành động ấy là tội,
thậm chí là trọng tội?
“Phiếu Tố giác Tội phạm” có vi hiến, phi
pháp hay không? Điều đó đã quá rõ, nhưng các tác giả khoác áo công an hoàn toàn
không quan tâm. Họ chỉ viết ra những tư
duy sai trái đã ngấm sâu vào tiềm thức và hóa thành bản năng. Đó mới là điều
đáng lo ngại.
Độc tài có nghĩa là phi dân chủ. Đã phi dân chủ
thì thường vi phạm quyền con người, quyền
công dân. Cho nên, nếu nói bộ máy độc
tài "bảo
đảm quyền con người, quyền công dân", thì quả là hoang
đường, bất chấp thực tế.
7.4.
"Người làm
công ăn lương được bảo đảm các điều
kiện làm việc công bằng, an toàn…"
Để hiểu "điều
kiện làm việc công bằng" như thế nào, hãy đọc bài của Hữu Công đăng trên VnExpress
ngày 27/8/2013:
"Công
ty TNHH một thành viên Thoát nước đô thị chi lương cả năm 2012 cho Giám đốc là
2,6 tỷ đồng (hơn 200 triệu đồng mỗi tháng), Chủ tịch Hội đồng thành viên 1,6 tỷ
đồng, Kế toán trưởng 1,67 tỷ đồng, Phó giám đốc 969 triệu đồng. Trong khi đó,
lương bình quân người lao động mùa vụ tại công ty này là 5,4 triệu đồng mỗi
tháng."
Ai là người phải trả giá cho mức lương "công bằng" của các vị Giám đốc,
Chủ tịch Hội đồng thành viên, Kế toán trưởng, Phó giám đốc? Hiển nhiên, những người
lao động "thấp cổ bé họng"
thuộc vào số đó:
"Công
ty Thoát nước đô thị bị kết luận "vi phạm quy định của Bộ luật Lao động"
khi ký hợp đồng mùa vụ với thời hạn dưới 3 tháng đối với 163 người lao động thường
xuyên và ký hợp động có thời hạn 3 năm đối với 355 trường hợp đủ điều kiện ký hợp
đồng không xác định thời hạn."
Thật là "công bằng" hết chỗ nói!
Để đánh giá "điều
kiện làm việc… an toàn" đến mức nào, hãy nhớ lại vụ
sập cầu Cần Thơ vào sáng ngày 26/7/2007, khiến hơn
50 người bị chết và gần 200 người bị thương. Một năm sau tai nạn khủng khiếp đó, ngày 2/7/2008 Ủy ban Nhà nước Điều tra sự cố sập hai nhịp
cầu dẫn cầu Cần Thơ đã công bố Báo
cáo tóm tắt về kết quả điều tra, rằng
"Tình huống rủi ro, khó lường trước" có nghĩa là "lỗi
tại Trời". Không
phải do thiết kế sai. Không phải do thi công sai. Không phải do bớt xén nguyên
liệu. Vậy là hòa cả làng. Chỉ các nạn nhân là có lỗi, do xuất hiện không "đúng nơi, đúng lúc", nên đành
phải "chết… đúng quy trình".
Một công trình phức tạp như thế, mà
Sử dụng cả "nông
dân mặc áo công nhân", "chưa một ngày qua đào tạo kỹ
thuật cơ bản", để xây cầu "siêu
cấp", thì không bị sập mới là chuyện lạ.
Nếu ai
cho rằng đó chỉ là chuyện của quá khứ xa xôi, thì nên xem thêm bài tổng hợp "Những sự cố xây dựng nghiêm trọng năm 2012" của Đỗ Tuyết
trên báo Giáo dục Việt Nam (đăng ngày 24/12/2012), để ôn lại vụ sập giàn giáo tại Khu đô thị mới
Mỗ Lao ở Hà Nội vào ngày 21/2/2012 (khiến "nhiều công nhân rơi từ tầng 7 cao ốc – 6 người thương nặng, 1 người chết"); vụ sập giàn giáo tại công trường xây dựng nhà Nam Đô
Complex ở Hà Nội vào ngày 5/11/2012 (khiến "hai công nhân rơi từ tầng 18" và tử vong)… Trong bài đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (ngày
26/2/2014), Nguyễn Dân viết: "Năm
2013, toàn quốc đã xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 627 người chết, hơn
6.000 người bị thương, gây thiệt hại về vật chất lên tới hơn 70 tỉ đồng."
Hiển
nhiên, trong một nền kinh tế thị trường, được cộng hưởng bởi tham nhũng hoành hành, thì không có cái
gọi là "điều kiện làm
việc công bằng". Cũng hiển
nhiên không kém, trong mọi chế độ, tai
nạn lao động là điều khó tránh khỏi một cách tuyệt đối. Vậy thì tại sao Quốc
hội lại bất
chấp thực tế mà
hiến định rằng "Người làm công ăn lương được bảo
đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn"?
7.5.
"Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm."
Ngay cả với chế độ này, thì "tranh
tụng trong xét xử" cũng không phải khái niệm quá xa lạ. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ban hành ngày 2/1/2002, đã xác định:
"Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong
thời hạn quy định."
Nhưng nghị quyết nào cũng tỏ ra vô dụng, nguyên tắc "tranh tụng trong xét xử" hầu như không được tôn trọng
trên thực tế. Để minh họa, chỉ cần nhắc đến trường hợp của ông Nguyễn Thanh Chấn, trú tại xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang, người còn may mắn được minh oan sau 10 năm chấp hành án phạt chung thân
về tội “giết người”. Nguyên nhân dẫn đến án oan sai đã được Nguyễn Trường thuật lại trên báo Tiền
phong ngày 7/11/2013:
"Luật sư
Nguyễn Đức Biền, người được chỉ định bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10
năm trước, từng chỉ ra 5 điểm thiếu sót trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên,
các ý kiến của ông không được xem xét thỏa đáng…"
Và ông Biền đã khẳng định:
"Tôi cho rằng, đây là sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng,
nhưng đáng tiếc Hội đồng xét xử không hề
để ý gì đến các lập luận của luật sư cũng như sự phản cung của bị cáo tại phiên
tòa. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới kết luận một cách phi lý của Hội
đồng xét xử, khẳng định ông Chấn giết người một cách oan ức."
Đây không phải là trường hợp cá
biệt, mà là một ví dụ điển hình. Khi phán quyết theo "bản án bỏ túi" đã trở thành thông lệ, thì hiển nhiên
quan tòa không chấp nhận "tranh tụng
trong xét xử". Vậy nên, khẳng định trong Hiến pháp rằng "nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm" là hoàn toàn bất chấp thực tế.
7.6.
Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:
"Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái
luật."
Vốn dĩ, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ
ngày 2/1/2013, thì điều này chỉ chứa đúng 5 chữ:
"Điều 21 Mọi người có quyền sống."
Bài "Teo dần quyền con người trong Hiến pháp" đã chỉ ra rằng: Đó là một mệnh đề vừa vô nghĩa,
vừa giả tạo, nếu nhà cầm quyền vẫn có ý định duy trì án tử hình, bởi vì tử hình bất kỳ ai cũng là vi phạm
"quyền sống" của người ấy.
Phải chăng
nội dung "nghe rất kêu" ấy
được chép từ Điều 3 của The Universal Declaration of Human Rights ("Tuyên
bố chung về Quyền con người", thường được dịch ra tiếng Việt là "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền"), được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948? Có điều, "Tuyên
bố" hay "Tuyên ngôn"
không nhất thiết có giá trị pháp lý, tức là không bắt buộc mọi quốc gia đều phải
thực hiện, nên một số nước đã ký tán thành vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Còn
nếu mệnh đề "Mọi người có quyền
sống" đã được ghi vào Hiến pháp của nước nào (ví dụ như trong Khoản 2 Điều 2 của Hiến pháp Đức), thì Nhà nước đó không thể duy trì án tử hình.
Lý lẽ ủng hộ
việc bãi bỏ án tử hình không chỉ xuất phát từ lý do tín ngưỡng hay nhân đạo, mà
còn vì trên thực tế không hiếm những bản án oan sai. Nếu còn sống thì còn có cơ
hội được minh oan, nhưng nếu xử tử rồi mới phát hiện oan sai, thì sửa sai bằng
cách nào? Theo thông tin của tổ chức Amnesty International (Ân xá Quốc tế), tính đến năm 2012 có khoảng 2/3 các nước trên Thế giới đã xóa bỏ án tử
hình ra khỏi luật, hoặc xóa bỏ án tử hình trên thực tế (98 nước xóa bỏ án tử
hình trong luật đối với mọi tội, 7 nước xóa bỏ án tử hình trong luật cho các
tội thông thường, 35 nước xóa bỏ án tử hình trên thực tế).
Nếu thuộc vào số 1/3 các nước trên Thế giới vẫn duy
trì án tử hình, thì có thể coi quy định về "Quyền
sống" trong European
Convention on Human Rights (Công ước châu Âu về Nhân quyền) là một hình mẫu đáng
tham khảo:
1. Quyền sống của mọi
người được bảo vệ bằng luật. Không được cố ý tước mạng sống của bất kỳ ai, trừ
trường hợp thi hành án tử hình, do tòa tuyên án đối với tội danh mà luật có quy
định án tử hình.
2. Việc tước mạng sống
không bị coi là vi phạm điều này, nếu nó bị gây ra bởi sử dụng vũ lực không
vượt quá mức tuyệt đối cần thiết, nhằm:
(a) bảo vệ ai đó trước
bạo lực phi pháp;
(b) tiến hành bắt giữ
đúng luật, hay ngăn cản người bị giam giữ đúng luật bỏ trốn;
(c) dẹp tắt một cách đúng luật một cuộc nổi loạn
hay nổi dậy."
Quy định này
không hề khẳng định "Mọi người có
quyền sống", mà chỉ có mệnh đề "Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng
luật". Đáng lưu ý là: "Bảo vệ" chứ không phải là "bảo đảm"!
Lẽ ra, sau
khi được góp ý, thì đơn giản nhất là loại bỏ mệnh đề "Mọi người có quyền sống" ra khỏi bản Dự thảo. Song có thể vì quá sĩ diện, họ vẫn cố bảo lưu nó đến
cùng, rồi bổ sung hai mệnh đề "Tính
mạng con người được pháp luật bảo hộ" và "Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật" để "chữa cháy". Nhưng càng chữa
càng cháy, càng sửa thì càng sai…
Nội dung và ý nghĩa của mệnh đề "Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ" là gì? Khi tuyên bố như thế thì pháp luật sẽ có
thêm quy định hay thủ thuật gì khác, so với trường hợp "tính mạng con người không được pháp luật bảo hộ"? Những đặc điểm nhận dạng nào có thể giúp ta phân
biệt loại "pháp luật bảo hộ"
với loại "pháp luật không bảo hộ tính mạng con người"?
Với những điều khoản "bảo hộ"
bổ sung thì tính mạng con người có an toàn hơn hay không? Câu trả lời sẽ cho
thấy "nồng độ pháp lý" của
mệnh đề "… được pháp luật bảo hộ" chỉ xấp xỉ… 0%. Và đó cũng là đặc điểm điển hình của nhiều điều khoản "ưu việt" trong Hiến pháp
Việt Nam.
Có lẽ "sứ mạng" của mệnh đề "Không ai bị tước đoạt tính mạng
trái luật" chỉ là "đánh
tiếng", rằng tuy tuyên bố "Mọi
người có quyền sống", nhưng thực ra vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Với lối "nói lấy được", bất chấp nội dung câu chữ, Điều 19 Hiến pháp 2013 trở thành "siêu vi hiến", bởi vì nó mâu
thuẫn với chính nó.
Trớ trêu
thay, hàng ngày trên toàn quốc có bao người "bị tước đoạt tính mạng", do cố ý giết người để cướp của hay vì ân oán, do ngộ sát hay tai nạn giao thông… Nhà nước, với tất cả các thủ thuật pháp luật
và bộ máy vũ trang khổng lồ, không thể "bảo đảm" các nạn nhân tránh
được cái chết. Ngược lại, một số người dân còn bị chính công an hãm hại.
Hãy xem bài "Khởi
tố 4 công an xã đánh chết người tại trụ sở" đăng
trên Phụ nữ Online ngày 4/9/2012 và Ảnh 9 để thấy được "hiệu
quả làm việc" vào ngày 30/8/2012 của công an (ở huyện Đông Anh, Thủ đô
Hà Nội) trên thi thể của ông Nguyễn Mậu Thuận.
Hãy xem bài "Chiếc
dùi cui quật vào đâu?" trên báo Lao động ngày 28/3/2014, bình luận về "những lời khai rất khủng khiếp"
của "5 công an dùng nhục hình đánh
chết… nạn nhân Ngô Thanh Kiều" (vào ngày 13/5/2012 tại Thành phố Tuy
Hòa).
Ngày 13/2/2014, lại "Thêm
một người chết sau khi làm việc với công an", như Tuổi trẻ Online đã tường thuật (xem Ảnh 10). Đó là chưa kể những vụ bị
coi là "tự tử" ngay khi
đang "làm việc" với công
an, ví dụ như Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở Bình
Định) "treo cổ
tự tử chết trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh" vào tối
11/3/2014; Bùi Thị Hương (42 tuổi, ở Bình
Phước) "chết
trong tư thế treo cổ bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính" vào ngày 17/3/2014…
Đó chỉ là
mấy ví dụ đại diện cho bao cái chết oan uổng, được tường thuật công khai trên
báo chí chính thống. Vậy mà họ vẫn ngang nhiên khẳng định trong Điều 19 Hiến pháp 2013 rằng "Không ai bị tước đoạt tính mạng
trái luật." Quả là bất chấp thực tế đến tột cùng, tới
mức khó có thể tìm được một từ thích hợp mà vẫn còn lịch sự để đánh giá. Chẳng
nhẽ họ dự định sẽ ban hành luật để hợp pháp hóa, biến tất cả những oan hồn thành
diện "bị tước đoạt tính mạng phù hợp với luật" hay sao?
7.7.
"Bất chấp" là tính cách khá phổ biến trong giới cầm quyền. Song
không phải mọi thể hiện "bất chấp"
trong Hiến pháp đều bắt nguồn từ tính cách ấy.
Hãy xem lại
mệnh đề "Không ai bị tước đoạt
tính mạng trái luật" trong Điều 19 Hiến pháp 2013. Hai chữ "trái
luật" cho thấy câu này thực ra là một ràng buộc, đòi hỏi đối với phía Nhà nước, bởi chẳng có luật nào cho
phép dân thường "tước đoạt tính
mạng" của người khác. Như vậy, theo thông lệ lập hiến có thể viết
rằng: "Không ai bị Nhà nước tước đoạt tính mạng trái
luật" – tức là viết như một cam
kết của Nhà nước. Song trên thực tế thì Nhà nước không thực hiện được cam
kết này. Nên phải viết một cách chính xác là: "Nhà nước không được
tước đoạt tính mạng của bất cứ ai một cách trái luật" – tức là viết
như một đòi hỏi hiến định đối với Nhà nước.
Nhưng có lẽ họ cho rằng viết như vậy sẽ ảnh hưởng đến sĩ diện của Nhà nước, hoặc
đã rắp tâm sẽ lẩn tránh trách nhiệm, nên dở chiêu "mập mờ", xóa tên của chủ thể "tước đoạt tính mạng". Bị mất đối tượng đích thực là "Nhà nước", nội dung hiến định
trở nên lệch lạc, không còn là cam kết
hay đòi hỏi, mà trở thành mệnh đề khẳng định một trạng thái hoàn toàn
trái với thực tế. Chứng "mập
mờ" gây ra chứng "bất
chấp" là vậy.
Chứng "mập
mờ" là một căn bệnh cố hữu trong Hiến pháp Việt Nam. Cũng vì sĩ diện hay
lẩn tránh trách nhiệm, nên cố tình bỏ đi một số chữ "phải" (hay
tương tự), khiến các đòi hỏi, ràng buộc
hiến định trở thành những mệnh đề "công
chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản", như đã phân tích trong bài "Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp". Chỉ cần thành tâm thêm chữ "phải" vào một
số nơi cần thiết, thì khắc phục được ngay trạng thái "khẳng định bất chấp thực tế" của một số điều khoản liên
quan. Ví dụ:
"Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết với Nhân dân,
phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân về những quyết định của mình."
"Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."
"Nhà
nước phải được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…"
"Nhà
nước phải bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân; phải công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…"
"Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử phải
được bảo đảm."
Tuy
nhiên, thêm chữ "phải" vẫn
chưa đủ để chứng "bất chấp"
biến khỏi vòng Hiến pháp. Nó chỉ thay vai, đổi chỗ mà thôi: Nếu không thể hiện trong Hiến pháp một số nội
dung dưới dạng bất chấp thực tế, thì trên thực tế lại bất chấp Hiến pháp. Có lẽ, do không
thể tránh khỏi "bất chấp", và
"bất chấp" khi lập hiến an
toàn hơn "bất chấp" khi thi
hành Hiến pháp, nên "mập mờ"
trong Hiến pháp vẫn hơn. Ấy là nguyên do khiến chứng "bất
chấp" cũng có thể gây ra chứng "mập
mờ".
Nếu bất
chấp cái Hiến pháp do thế hệ tiền nhiệm để lại thì có thể thông cảm
phần nào, vì không phải mọi quy định trong cái Hiến pháp đã trở nên lỗi thời đều
phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Nhưng nếu đem Hiến pháp ra sửa đổi mà vẫn duy trì hay
bổ sung thêm những nội dung mà thế lực đương quyền đã, đang và sẽ không muốn,
hay không thể thực hiện, thì đó là hành vi hiến định bất chấp thực tế.
Chủ động hiến định bất chấp thực tế và sau đấy lại chủ động bất
chấp Hiến pháp – đó là thái độ "bất chấp" không thể chấp
nhận được!
8. Chứng "Vu
vơ"
Để mô
tả căn bệnh này, ta chỉ cần dựa vào danh từ "chủ
nghĩa xã hội" và tính từ "xã
hội chủ nghĩa" trong Hiến pháp Việt Nam. Ban đầu, chúng không hề tồn
tại trong Hiến pháp 1946. Sang Hiến pháp 1959, mỗi từ này xuất hiện đúng 6 lần. Nhiều nhất là trong
Hiến pháp 1980, với 23 lần "chủ
nghĩa xã hội" và 86 lần "xã hội chủ nghĩa". Sau khi
Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bị sụp đổ, Hiến pháp 1992 chỉ
còn chứa 3 từ "chủ nghĩa xã hội" và 43 từ "xã
hội chủ nghĩa". Sự biến thiên này cũng tương ứng với quá trình thăng
trầm của một giấc mơ…
8.1.
Hiến pháp 2013 giữ nguyên 3 danh từ "chủ
nghĩa xã hội", tại những vị
trí tương tự như ở Hiến pháp 1992, trong đó có đoạn thứ ba của Lời nói đầu:
"Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt
Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh."
Thử hỏi, "Cương lĩnh…" của ai? Của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hay của Đảng Lao động Triều Tiên? Tại sao lại dấu tên chủ nhân của "Cương lĩnh…"? Phải chăng các nhà lập hiến hiểu ra, rằng
không đảng nào có quyền lạm dụng Hiến pháp để áp đặt cả Dân tộc? Hay tránh nhắc
tên, để khỏi gây phản cảm?
Nếu "Cương lĩnh…" của ĐCSVN, thì "Cương lĩnh…" nào? Là "Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội"
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN thông qua ngày 27/6/1991? Hay là cái "Cương
lĩnh…" do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉnh sửa,
và hóa trang bằng mỹ từ "Bổ
sung, phát triển năm 2011"? Phải chăng, không thể nói rõ bản "Cương lĩnh…" nào, vì biết trước sẽ còn phải tẩy xóa, chỉnh
sửa nhiều lần nữa? Lấy đâu ra cái quyền để bắt
cả Dân tộc phải răm rắp làm những điều mà bản thân họ cũng không dám tin là
đúng?
Hiến định "Cương lĩnh…" một cách vu vơ
như vậy phỏng có ích gì?
8.2.
Hiến pháp 2013
chứa 39 tính từ "xã hội chủ
nghĩa", trong đó 33 lần thuộc về tên nước "Cộng hòa từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Gán nó cho tên
nước có hợp lý hay không? Điều này đã được đề cập trong bài "Quốc
hiệu nào hội tụ lòng dân?" nên không cần nhắc lại ở đây nữa. 6 lần xuất hiện còn lại
có thể chia thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất bao gồm:
"Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân." (Điều 2)
"Nền kinh tế
Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo." (Điều 51)
"Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" là gì? Trong "Nhà nước pháp quyền", không cá nhân và tổ chức nào có quyền đứng trên hay đứng ngoài Hiến pháp
và luật, mọi quyền lực nhà nước đều bị ràng buộc và giới hạn bởi Hiến pháp và
luật. Còn ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực của ĐCSVN
mới là cao nhất, không bị khống chế bởi bất cứ điều khoản cụ thể nào trong Hiến
pháp và luật. Hiến pháp chỉ "thể chế
hóa Cương lĩnh…" của ĐCSVN, và luật phải tuân theo Hiến pháp, nên về
thực chất lãnh đạo ĐCSVN mới đóng vai trò quyết định và còn đứng cao hơn Hiến
pháp và luật. Chẳng nhẽ đó là đặc trưng của "pháp
quyền xã hội chủ nghĩa" hay sao?
"Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là gì? "Xã hội chủ nghĩa"
mù mờ bao nhiêu, thì "định hướng xã
hội chủ nghĩa" luẩn quẩn bấy nhiêu. Càng tung hô "kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa", thì càng tỏ ra chẳng có định hướng nào
cả.
Phải chăng hai khái niệm trên cũng tương tự như phạm trù "dân chủ xã hội chủ nghĩa"? Thường
thì chế độ "phi dân chủ"
hay được khẳng định là "dân chủ xã
hội chủ nghĩa", tức là:
"Dân chủ xã hội chủ nghĩa" = "Phi dân chủ".
Nếu như vậy thì cái đuôi "xã hội chủ nghĩa" được gắn
sau từ "dân chủ" có ý nghĩa
như chữ "phi" được gắn
trước từ "dân chủ" (để phủ
định). Áp dụng quy tắc ghép từ này, ta thu được:
"Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa" = "Nhà nước phi pháp quyền",
"Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" = "Kinh tế thị trường phi định hướng".
Bạn thấy kết quả suy luận này có phù
hợp với thực tế hay không?
Nhóm thứ hai bao gồm:
"Lực lượng
vũ trang nhân dân… có nhiệm vụ… bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa…" (Điều 65)
Nếu áp dụng quy tắc ghép từ ở
trên, thì "Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa" có thể phiên dịch thành "Tổ
quốc phi Việt Nam". Nghe có vẻ bất thường, nhưng nếu liên hệ với lối
tư duy "truyền thống", coi
lý tưởng và quyền lợi của giai cấp vô sản quốc tế cao hơn lợi ích của Tổ quốc
Việt Nam, thì kết quả phiên dịch có phù hợp hay không?
Hãy bỏ qua ý phụ vừa rồi, để tập
trung vào ý chính, mà chúng ta muốn trao đổi về nhóm thứ hai. Đó là: Có hay không cái gọi là "Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" và "chế độ xã hội chủ nghĩa"?
Khi xuất hiện trong cụm từ "Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", thì từ "xã hội chủ nghĩa"
đóng vai trò tên gọi, được hiến định
trong Hiến pháp. Nó chỉ để trang trí,
không nhất thiết phải tương thích với thực trạng. Cũng tương tự như việc đặt
tên "Cao" cho người lùn, tên "Mạnh" cho người yếu,
tên "Tài" cho người thiểu năng… Dù không phù hợp với
trạng thái, tính cách, thì người ấy vẫn tồn tại với tên gọi đó, không ai có thể
phủ định.
Nhưng khi xuất hiện trong hai cụm
từ "Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"
và "chế độ xã hội chủ nghĩa" thì "xã hội chủ nghĩa" không hề đóng vai trò tên
gọi (được hiến định
hay luật định), mà chỉ đơn thuần là một tính
từ, phản ánh tính chất, đặc điểm thực
tại của "Tổ quốc" và "chế độ".
Vậy "Tổ quốc"
và "chế độ" này có phải là "xã hội
chủ nghĩa" hay không? Nếu trước năm 2013 mà trả lời phủ
định, thì có lẽ phải hứng chịu những đợt sóng thịnh nộ từ phía các "chiến
binh cầm bút" của ĐCSVN.
Nhưng may thay, trong buổi thảo luận của Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
vào sáng 23/10/2013, Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn khẳng
định cái điều mà bao người vẫn nghĩ, nhưng thường tránh nói ra:
Xin cảm ơn! Vậy là cả ngài cũng
đã thừa nhận, rằng hiện tại và nhiều chục năm nữa, không thể coi "Tổ quốc" và "chế độ" này là "xã hội chủ nghĩa". Nói cách
khác, thực tế không tồn tại cái gọi là "Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"
và "chế độ xã hội chủ nghĩa" trên đất nước Việt Nam!
Hóa ra, Hiến pháp 2013 quy định
"Bảo vệ Tổ quốc không tồn tại là sự nghiệp của
toàn dân"
và
"Lực lượng
vũ trang nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
chế độ không tồn tại."
Tại sao Quốc
hội lại hiến định loại nhiệm vụ "vu vơ" đến như vậy?
*
* *
Vẫn còn rất nhiều điều đáng bàn, song bài viết đã dài, và
bằng ấy nội dung cũng đã đủ để cùng với hai bài "Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?" và "Hiến
pháp vi hiến" khắc họa chất lượng tầm bản nháp
của cái văn bản mà 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII đã nhất trí tán thành chọn
làm Hiến pháp.
Tại sao lại bất chấp mọi khuyên can, thông qua bằng được một bản dự thảo
Hiến pháp với chất lượng như thế?
Hiến pháp ấy có xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến của Dân tộc,
với trí tuệ của hơn 90 triệu khối óc, với tầm tư duy của thời đại hay không?
Nhân dân ta có đáng phải chấp nhận một bản Hiến pháp như vậy hay không?
Câu hỏi
chất chồng câu hỏi, băn khoăn quấn rối băn khoăn… Song buồn thay, những người
đáng phải giải đáp lại cứ làm thinh.
* * * * * * * * * *
Phụ lục I
Điều 15 Hiến pháp 2013 là biến tướng của Điều 16 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ
ngày 2/1/2013),
viết rằng:
"Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích
quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác."
Như đã phân tích trong bài "Teo dần quyền con người trong Hiến pháp", đó là thủ đoạn lợi
dụng… từ "lợi dụng" để biến những hoạt động chính đáng và hợp pháp của công dân thành tội lỗi, nhằm hạn chế trên lý thuyết và phủ định trên thực tế quyền con người, quyền
công dân. Để tránh bị phê phán như vậy, họ đã bỏ bớt từ "lợi dụng" trong mệnh đề
"Không được lợi
dụng quyền con người, quyền công dân để
xâm phạm…"
và thay nó bằng
"Việc
thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm…"
Phụ lục II
(1) Mọi người
có quyền tự do phát biểu và phổ biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết
và hình ảnh, và tự do tìm hiểu thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ
thông. Tự do báo chí và tự do thông tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền
này bị hạn chế bởi các quy định trong các luật phổ quát, bởi các quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu
niên, và bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân.
(3) Nghệ thuật
và khoa học, nghiên cứu và giáo dục là tự do. Quyền tự do giáo dục không miễn
trừ trách nhiệm trung thành với Hiến pháp."
Về quyền tự do lập hội, Hiến pháp Đức quy định:
(1) Mọi người Đức có quyền lập hiệp hội và đoàn thể.
(2) Cấm các hội đoàn mà mục đích và hoạt động của chúng trái với Bộ luật
hình sự, hoặc chống lại trật tự hiến định hay sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc.
(3) Quyền thành lập hội đoàn nhằm bảo vệ
và thúc đẩy điều kiện lao động và kinh tế được bảo đảm cho mỗi người và mọi
ngành nghề. Những thỏa thuận nhằm hạn chế hay cản trở quyền này đều không có
hiệu lực, các biện pháp nhằm vào chúng đều là phi pháp. Các biện pháp theo Điều
12a, Điều
35 Khoản 2 và 3, Điều
87a Khoản 4 và Điều
91 không được
chống lại các hoạt động đình công nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện lao động và
kinh tế của các hội đoàn được đề cập tại Khoản 1."
Phụ lục III
"Convention on the
Rights of the Child", thường được
dịch ra tiếng Việt là "Công ước về Quyền trẻ
em", chỉ có điều sau đây là có vẻ
gần nhất với nội dung "trẻ em được
tham gia vào các vấn đề về trẻ em":
"Article 12
1. States Parties shall assure to the child who is capable of forming his
or her own views the right to express
those views freely in all matters
affecting the child, the views of the child being given due weight in
accordance with the age and maturity of the child.
2. For this purpose, the child shall
in particular be provided the opportunity to be heard in any judicial and
administrative proceedings affecting the child, either directly, or through a
representative or an appropriate body, in a manner consistent with the
procedural rules of national law."
Trong văn bản tiếng Việt tại website của tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc), điều này được dịch như sau:
"Điều 12
1. Các quốc gia thành viên phải đảm
bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình
thành quan điểm riêng của mình được
quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của
trẻ em phải được coi trọng một cách phù hợp với tuổi và mức độ trưởng thành của
trẻ em.
2. Vì mục đích đó, trẻ
em phải được đặc biệt tạo cơ hội
nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính
nào có ảnh hưởng đến trẻ em, trực tiếp
hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù
hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia."
Có lẽ ý "trẻ em được… phát biểu… quan điểm… về tất cả các vấn đề ảnh hưởng
đến trẻ em" trong đoạn dịch trên đã hóa thân thành cụm "trẻ em được tham gia vào các vấn đề về
trẻ em" trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013. Trước khi lý giải nguyên do hình thành, xin lưu ý ba khía cạnh mà người
đọc có thể hiểu lầm qua bản dịch
tiếng Việt của UNICEF.
Thứ nhất, từ "trẻ em" bóng bẩy có thể khiến người đọc hiểu lầm rằng nó
dành cho cả "giới trẻ em",
giống như từ "thanh niên"
dành cho cả "giới thanh niên"
và từ "người cao tuổi" dành
cho cả "cộng đồng những người cao
tuổi". Thực ra, "the
child" (số ít) chỉ là dành riêng cho cá nhân từng "đứa trẻ" cụ thể.
Thứ hai, người đọc có thể hiểu lầm, rằng Điều 12 đòi hỏi "các quốc gia thành viên phải bảo đảm
cho trẻ em" hai thứ: Một là "có
đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình"; hai là "được quyền tự do phát biểu những quan
điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em". Vì hiểu như thế, nên trong
văn bản
tiếng Việt tại website của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền con người và
Quyền công dân (thuộc Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh), người ta đã dùng thêm dấu phẩy để phân tách hai thứ đó:
"Các quốc
gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm
riêng của mình,
được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ
em…"
Nhưng không phải như vậy! Điều 12
chỉ đòi hỏi "các quốc gia thành viên
phải bảo đảm" một thứ thôi, đó là "cho
trẻ em… được quyền tự do phát biểu những quan điểm…", và "quyền tự do phát biểu" đó chỉ
cần được bảo đảm cho loại "trẻ em có
đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình" mà thôi.
Thứ ba, cụm từ "mọi vấn đề tác động đến trẻ em"
dễ khiến người đọc hiểu lầm là "mọi
vấn đề tác động đến" cả giới
"trẻ em" nói chung, trong khi "all
matters affecting the child" chỉ có nghĩa là "tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến đứa trẻ", tức là " ảnh hưởng đến" chính
bản thân cá nhân "đứa
trẻ" (đang được đề cập).
Thực ra, Điều 12 của "Công ước
về quyền trẻ em" chỉ quy định về trách nhiệm phải quan tâm đến nguyện vọng của đứa trẻ khi quyết định những chuyện
liên quan đến bản thân nó, chứ không phải là quan điểm của trẻ em về những vấn đề chung, liên quan đến cộng đồng trẻ
em. Để tránh hiểu lầm, nên dịch Điều 12 của "Convention on the
Rights of the Child" một cách "trần trụi" như sau:
"1. Các
quốc gia thành viên phải đảm bảo cho những đứa
trẻ nào có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng được quyền tự do phát
biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh
hưởng đến bản thân, và ý kiến của đứa trẻ phải được coi trọng thỏa đáng,
tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của nó.
2. Đặc biệt, vì mục đích đó, đứa trẻ phải được tạo cơ hội nói lên ý
kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh
hưởng đến nó, trực tiếp hoặc thông
qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những
quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia."
Sở dĩ ta dành thời gian để bàn kỹ
về đoạn dịch trên, là để tìm hiểu cái lô-gíc hình thành của một loại "chân lý" sai lạc lưu truyền ở
Việt Nam. Chúng vốn xuất hiện trong văn bản ngoại ngữ nào đó, khi du nhập vào
Việt Nam, được người dịch chọn những từ hoa mỹ để chuyển ngữ một cách "hào phóng", thay cho cách thể
hiện chính xác nhưng bị coi là thiếu văn vẻ. Ví dụ, có thể dịch "the child" thành "đứa trẻ", như vậy vẫn giữ
nguyên được trạng thái số ít. Nhưng có lẽ người dịch e rằng như vậy hơi thô
thiển, nên đã dịch nó một cách văn vẻ thành "trẻ
em". Hậu quả là: Người đọc dễ hiểu lầm sang số nhiều, không chỉ là một "đứa trẻ" cụ thể, mà có thể
là nhiều "đứa trẻ" chung
chung, thậm chí là cả cộng đồng các "đứa
trẻ", tức là cả giới "trẻ
em".
Tương tự như vậy, nếu dịch "all
matters" thành "mọi
chuyện" hay "mọi thứ" thì
có vẻ mộc mạc quá, nên chọn cách chuyển ngữ là "các vấn đề". Khi đã gọi là "các vấn đề", chứ không còn là "các chuyện nhỏ", nếu viết rằng "phát biểu quan điểm về" chúng thì chưa đủ phong độ chính
trị, nên chọn cụm từ "tham gia
vào". Với tập quán tư duy văn vẻ theo định hướng chính trị như vậy,
mệnh đề
"the
child… the right to express those views in all matters affecting the
child"
không được dịch thành
"đứa trẻ…
được quyền phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân."
Mà nó được dịch thành
"Trẻ em…
được tham gia vào các vấn đề về trẻ em."
Phải chăng đó là cách tư duy đã đẻ
ra cái cao kiến được hiến định tại Khoản
1 Điều 37 Hiến pháp 2013?
Phụ lục IV
Ngoài những trường hợp đã được đề
cập trong hai phần 6 và 7, các tác giả của Hiến pháp 2013 còn "lạm phát" ra nhiều thứ "bảo đảm" khác.
Có những thứ không hề được "bảo đảm" trên thực tế. Chẳng hạn:
"Thông tin
về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn." (Khoản 1 Điều 21)
"Quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm." (Khoản 7 Điều 103)
"Chính quyền địa phương… bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương…" (Khoản 1 Điều 112)
Có những thứ "bảo đảm" quá chung chung, không thể định
lượng, hay xác định trạng thái, để xem đã "bảo đảm" hay chưa. Ví dụ:
"Nhà nước…
bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ
trang nhân dân…; bảo đảm đời sống
vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức…" (Điều 68)
"Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ… hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội." (Khoản 5 Điều 74)
Có những thứ "bảo đảm" mơ hồ:
Mọi chi tiêu của quốc gia đều được tính vào ngân sách nhà nước, vậy chẳng nhẽ "ngân sách nhà nước… bảo đảm" những thứ được tính vào ngân
sách, hay sao? Còn nếu quan niệm "bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia"
là "thỏa mãn nhu cầu chi của quốc gia", thì mức độ "đại ngôn" còn tệ hại hơn nữa.
"Áp dụng thống nhất pháp luật" có nghĩa là gì? Vì tòa án áp dụng sai pháp luật là chuyện không hiếm, nên "Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật" một cách sai trái hay
sao?
Có những thứ "bảo đảm" không kèm theo trách nhiệm, như:
"Viện kiểm
sát nhân dân có nhiệm vụ… góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất." (Khoản 3 Điều 107)
Nghĩa là chỉ cần "góp phần bảo đảm" thôi, còn có "bảo đảm" được hay không thì còn phụ thuộc vào các đối
tác và các yếu tố khác. Hay:
"Quốc hội
có những nhiệm vụ… Quyết định… các biện pháp
đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và
an ninh quốc gia." (Khoản 13 Điều 70)
Có nhiệm vụ quyết định các biện pháp, chính sách nhằm "bảo đảm…" không có nghĩa là phải "bảo đảm…". Trong chế độ mà đường lối luôn được coi là đúng, mọi sai lầm đều thuộc khâu thực hiện, thì
bộ máy hoạch định chính sách chẳng phải chịu trách nhiệm nào cả.
Có những thứ "bảo đảm" vô thưởng vô phạt, chẳng kéo
theo hệ quả cụ thể nào cả:
"Nhà nước
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, … bảo
đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân." (Điều 52)
"Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ… bảo đảm tính thống nhất và thông suốt
của nền hành chính quốc gia. (Khoản 2 Điều 98)
Và có cả thứ "bảo đảm" không phải… "bảo
đảm", mà là được "bảo đảm":
"Trong trường hợp cần thiết,
chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước
cấp trên với các điều kiện bảo đảm
thực hiện nhiệm vụ đó." (Khoản 3 Điều 112)
Tức là "chính quyền địa
phương" không phải "bảo đảm" điều gì, mà ngược lại, chỉ cần "thực hiện một số nhiệm vụ… với các điều kiện bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ đó".
"Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân… được… bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật."
Nếu chỉ đọc qua, thì dễ tưởng
rằng nội dung này trùng lặp với cái được "bảo
đảm" ở Điều 3 Hiến pháp 2013. Song đây không phải là cam kết "bảo
đảm", mà là một thủ thuật để hạn
chế quyền con người, quyền công dân, như đã phân tích trong bài "Hiến pháp vi hiến". "Bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" không phải là "bảo đảm" theo nghĩa thông
thường, như mọi người vẫn hiểu, mà có nghĩa là chỉ "bảo đảm" ở
mức độ cụ thể theo quy định trong Hiến pháp và pháp luật mà thôi.
Ngày 10/9/2014
Hoàng Xuân Phú
(Blog Hoàng Xuân Phú)
Tối 01/9, chúng mình bắt xe về Hà Nội sau 2 ngày du lịch ở Sapa.
18h01, xe bắt đầu khởi hành, rời bên xe mới Sapa. Xe gồm 3 hàng giường,
mỗi hàng giường ngăn cách với nhau bằng 1 lỗi đi ở giữa rộng chừng 5, 70
phân. Có tổng cộng 6*3*2 + 4*2 = 44 giường. Tất cả đều kín người, ngoài
ra vẫn còn một vài khách nằm ở lối đi lại ở giữa, minh không rõ là bao
nhiêu nhưng mình khẳng định là có. Hôm nằm viện trên Lào Cai, mình nghe
tin 53 nạn nhận, chả hiểu sao về nhà đọc báo lại còn có 48. Mà nguyên 44
giường + 2 lơ + 1 lái đã là 47 rồi.
Mình nằm ở giường tầng 2, hàng thứ 2 từ trên xuống và cũng là hàng ở giữa. Vợ mình nằm ngang mình, cùng bên với lái xe (bên tay trái mình). Lúc ấy cũng đã là cuối ngày, mọi người sau một hồi trò chuyện ban đầu thì hầu hết đều chuẩn bị đi vào giấc ngủ, trong đó có mình và vợ mình. Nếu ai đã từng đi Sapa thì sẽ biết rằng bạn sẽ phải cuốc bộ rất nhiều, cơ thể mệt mỏi vào cuối ngày gần như là điều đương nhiên. Xe đang đổ đèo thì đột nhiên lái xe la lên: "Xe mất phanh rồi". Mình vội bật người dậy thì thấy cửa xe bật mở và 1 cậu lơ trẻ hơn nhảy vội khỏi xe. Xe va chạm vào dải phân cách 2 - 3 lần gì đó (xe đang ở lề bên phải theo chiều đi xuống, ngoài ra thì đoạn đó có 1 khoảng đồi rất ngắn còn ở bên phía tay phải nữa thì phải) và tiếp theo mình nghe thấy tiếng la thất thanh của cậu lơ xe đó. Lúc đó mình cứ nghĩ rằng cậu ấy bị xe chèn qua (mãi sau này mình mới biết là do bị cây đâm vào), mình biết là chuyện không hay rồi. Hai đứa mình mới vội quay sang, nhào nguời sang định ôm lấy nhau, nhưng vừa chạm tay vào nhau thì xe bắt đầu lật (sau này mình mới biết là do va chạm với xe Matiz). 2 đứa mình bị hất văng xuống sàn. Rồi xe cuộn tròn như máy giặt. Lăn vài vòng thì cả 2 đứa cùng bị bắn ra theo hai hướng, mình bắn ra góc cao hơn nên rơi gần hơn, còn vợ mình thấp hơn nên xa hơn, lại không may va vào đá. Còn mình bay trong không trung khoảng 30m, nhưng lại rơi vào bụi cỏ rậm, nên chỉ ngất đi một lúc, rồi mình tỉnh lại và tự bò lên đường được. Thậm chí, khi lên đến đường không thấy Lan đâu, mình còn lần ngược xuống vực để tìm, lật giở tất cả những chiếc chăn che xác các nạn nhân để tìm vợ mình nhưng cũng không thấy...
Đây là những gì mình trả lời các phóng viên và công an điều tra. Có 3 phóng viên phỏng vấn mình, 1 người của đài truyền hình Lào Cai, 1 bạn là cộng tác viên của VNExpress, 1 anh nữa thì của đài tiếng nói Việt Nam. Mình thật không thể hiểu nổi tại sao đoạn phỏng vấn mình đã được đưa lên truyền hình, với ai mình cũng đều trả lời trước sau như một, bởi vì mình chỉ nghĩ đơn giản rằng, mình là người bị nhẹ nhất trong cả đoàn, chuyện xảy ra cũng xảy ra rồi, mình phải có trách nhiệm cho xã hội biết chuyện gì thực sự đã xảy ra trong chuyến đi đó... Vậy mà...
Đủ các báo thi nhau nào là phỏng vấn trực tiếp, rồi thì thi nhau vẽ câu chuyện theo một chiều hướng mà mình không thể tưởng tượng nổi. Mình nằm viện, cũng chẳng có tâm trí nào mà báo đài gì, nhưng bạn bè người thân vào thăm, ai cũng mở đầu bằng câu hỏi: "Cháu đập cửa kính bay ra à?"... Nó thực sự khiến trái tim mình tổn thương. Nó thực sự khác xa những gì đã thực sự xảy ra. Trong cái giây phút ngắn ngủi ấy, không ai có thể kịp làm gì, mình thậm chí còn chưa kịp sợ xe đã lật rồi. Bọn mình nằm ngay cạnh nhau, đến muốn ôm lấy nhau còn không kịp. Đằng này... Rồi người ta sẽ nghĩ gì? Bạn bè Lan sẽ nghĩ gì? "Vì Lan yêu một thằng k ra gì, lúc nguy hiểm chỉ biết đến mình nên mới phải chết oan"? Các nhà báo, các người có lương tâm hay không? Viết về những tai nạn thương tâm, tại sao các người vẫn còn nghĩ đến chuyện tô vẽ để thu hút độc giả nữa hay sao?
Chuyện thứ 2 mình muốn nói, ấy là chuyện hôi của của một số người tự nhận là "cứu hộ" trong vụ tai nạn này. Sau khi tìm không thấy vợ mình đâu, mình vào viện và mượn điện thoại của người quen (điện thoại của mình, mình nhờ Lan cầm) và liên tục gọi vào số của cô ấy. Không có người trả lời. Đêm muộn hôm ấy, mình nhận được cuộc gọi ngược lại từ số của Lan, vẻn vẹn chỉ có 1 câu: "chị ấy mất rồi" và cúp máy. Mình gọi lại thì không ai nhấc máy. Sau đó, đến sáng 2/9 thì gia đình nhận được xác Lan, đến chiều thì hai gia đình về Bắc Ninh để đưa tiễn Lan. Liên tục mấy ngày 3, 4, 5 tháng 9, mình gọi điện và nhắn tin vào số Lan, bởi vì đó không chỉ là kỉ vật, mà nó còn chứa vô vàn những kỷ niệm của 2 đứa mình. Tuy nhiên, không có hồi âm. Rốt cuộc, mẹ Lan gọi cho mình báo, có đứa nó bảo gửi tiền lên cho no rồi nó gửi ĐT cho. Thì ra, chiếc điện thoại ấy được đem bán cho 1 cửa hàng điện thoại. Họ bảo rằng họ mua lại với giá 1 triệu 700k (cho 1 chiếc điện thoại Nokia Lumina 525 mà giá mua mới tại FPT cách đây mấy tháng chỉ hơn 3tr??? mình biết là họ cố tình muốn hút máu gia đình thêm một chút, toàn một ruộc lương tâm cất ở nhà khi đi làm cho khỏi mất với nhau thôi...). Dù sao, người không còn, chút kỉ niệm có tốn bao nhiêu mình cũng không tiếc. Hôm nay, mình đã lấy máy về, nhưng không còn sim. Hỏi lại cửa hàng thì họ bảo khi mua điện thoại thì sim không còn. Có lẽ vì ngay trước nghỉ lễ, 30/8, Viettel khuyến mại, mình đã nạp cho cả mình và cô ấy mỗi người 150K. Thằng khốn nạn ấy còn không bỏ xót đến từng đồng nó kiếm được từ những con người không may mắn trên chuyến xe ấy. Hôm nay, mình gọi lại cho số của Lan, phía bên ấy thậm chí còn lôi đủ những thử tục tĩu ra để chửi bới, thách thức mình, còn hỏi cả địa chỉ để đến tận nhà xử mình. Thật quá hay cho cái danh "cứu hộ". Mà mình nghĩ phần nhiều đó là người của "cứu hộ" chính thức, bởi vì vợ mình là nạn nhân cuối cùng được tìm thấy tại hiện trường, là nạn nhân thứ 12. Ấy vậy mà...
Thậm chí, ngay sáng 2/9, một chị chăm người nhà ở gần chỗ mình nằm trên Lào Cai cũng nhận được điện thoại từ số người thân của chị đòi tiền chuộc điện thoại. Chị ấy còn bảo lại người thân còn chưa biết sống chết thế nào mà chúng nó đã đòi nã tiền rồi. Lương tâm con người "cứu hộ" đấy. Tài sản trên chuyến xe ấy không nhỏ. Tiền bạc, tư trang không ít. Những con người mang cái danh "cứu hộ", thực ra, phải gọi các người như thế nào cho đúng đây?
Câu chuyện thứ 3 mình muốn nói là về các tổ chức sớm lên tiếng trong vụ việc này. Bộ trưởng Thăng nói là làm, không có gì để chê trách, tất cả những gì Bộ trưởng yêu cầu đều được thực hiện. Phía Bộ Y tế, chả biết ai, nhưng bên ấy cũng thật nhanh nhảu mà rằng: "miễn toàn bộ viện phí cho các nạn nhân". Các cụ cứ nói cho sướng cái mồm, lời nói có mất tiền mua đâu, về các bệnh viện, đâu đâu cũng tạo điều kiện cứu chữa, nhưng viện phí? Không có công văn hướng dẫn, Sở Y tế không đồng ý, bệnh viện không làm được, trên Lào Cai còn không có nữa là Ninh Bình, gia đình lại đi thanh toán. Rồi thì các bộ ban ngành cũng thi nhau, nào là hỗ trợ các nạn nhân bằng này, bằng kia... Rồi thì Bảo Việt cũng nhanh nhảu đã ứng 1 tỷ gì đó để chi cho các hành khách... Tất cả những gì mình nhận được từ các bộ, ban ngành, đoàn thể... đó là 1 triệu đồng của Hội chữ thập đỏ tỉnh Lào Cai. Các cụ tranh công thì nhanh lắm, chỉ có trách nhiệm là chưa thấy cụ nào nhận cho thôi...
Đây là một vài điều khiến mình thêm tổn thương, thêm đau khổ, thêm bức xúc, thêm buồn chán về cái xã hội này. Mình viết ra không phải để nói xấu chế độ hay tạo scandal, anh hùng bàn phím hay bất thứ cái gì ngớ ngẩn mà các bạn có thể đặt ra cho mình. Mình chỉ muốn cho xã hội biết những cái sự thật đang bị bóp méo, hay chưa ai vạch trần nó ra. Mình mong các bạn CHIA SẺ bài viết này cho tất cả mọi người, để mọi người được biết. Chỉ thế thôi.
Xin cảm ơn các bạn!
Ngoài ra, cuộc triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội cũng trở thành nơi để khách đến xem, gồm các thế hệ già và trẻ "nhắc lại chuyện đau buồn" thời Cải cách Ruộng đất khi các vụ tố oan, bắn giết nông dân bị quy là "thành phần trên" đã xảy ra.
Chẳng hạn, trang VnExpress mô tả chuyện một người xem có tuổi nghĩ gì về hiện vật:
Đối mặt thách thức lớn
Theo kết quả đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì năng suất lao động Việt thuộc nhóm thấp nhất Châu Á do lao động chưa qua đào tạo và thiếu kỹ năng mềm. Đây có phải là nguyên nhân chủ yếu hay không?
Tại diễn đàn chính sách về tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đến thị trường lao động VN, diễn ra ở Hà Nội vào hôm mùng 4 tháng 9, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho rằng VN phải đối diện với sự thách thức rất lớn khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào năm 2015.
Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chưa đến 20% lực lượng lao động của VN được đào tạo chuyên môn và không có đủ kỷ năng đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Năm 2013, năng suất lao động của VN thấp hơn Singapore đến 15 lần và tốc độ tăng năng suất lao động Việt đang giảm dần.
Tìm hiểu vì sao công nhân Việt, những người có truyền thống lao động cần cù, siêng năng lại bị giảm năng suất lao động; có phải vì các nguyên nhân theo như Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra hay không? Nhiều công nhân lao động tay chân trong các hãng, xưởng không đồng tình như vậy. Đại đa số những công nhân đài RFA tiếp xúc đồng ý trình độ chuyên môn của họ không có hoặc chỉ sơ sài khi mới bắt đầu được tuyển dụng. Tuy nhiên, sau khi nhanh chóng được huấn luyện căn bản, hầu hết công nhân đều cố gắng làm việc. Vì cuộc sống cơm áo gạo tiền, từ những bạn thanh niên cho đến những người luống tuổi đều cặm cụi, cần mẫn, học nghề, học việc với mong muốn ổn định cho bản thân và gia đình.
Hòa Ái hỏi thăm một số công nhân hiện đang làm việc trong một công ty xuất khẩu đồ gỗ ở Đồng Nai, họ cho biết đã gắn bó với công ty trong nhiều năm, rất cố gắng làm việc, làm đến mức bị bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ bị cắt tiền thưởng. Trong thời gian gần đây, công ty không cho giờ tăng ca nữa, bắt công nhân phải làm việc với cùng số lượng sản phẩm trong 8 giờ đồng hồ thay vì 12 tiếng như trước đó. Thậm chí có khi lô hàng gặp sự cố thì công nhân là người lãnh hậu quả nặng nề dù họ không phải là người gây ra lỗi. Chị Hai, một công nhân thâm niên trong công ty chia sẻ:
Trong khi đó, Vụ trưởng Kỹ năng nghề, Tổng cục Dạy nghề, ông Cao Quang Đại nhận định yếu điểm của lao động VN là thiếu kỹ năng mềm như làm việc nhóm, giao tiếp, khả năng ngoại ngữ, kỷ năng tuân thủ quy trình lao động… Khối nhân viên văn phòng trong các công ty cho rằng nhận định của ông Cao Quang Đại chỉ đúng đối với các doanh nghiệp nhà nước mà thôi.
Những người làm việc trong các cơ quan nhà nước cho đài RFA biết nhiều vị trí tuy có tên là “nhân viên văn phòng” nhưng thực chất những nhân viên đó chỉ có mặt để lãnh lương mỗi tháng mà không được phân công làm bất cứ công việc gì. Về phân bổ chức vụ thì cũng tùy theo cảm tính, không cần xét về năng lực làm việc mà chỉ tùy theo mức độ tình cảm sẽ được cất nhắc lên vị trí lãnh đạo.
“Thật ra cũng có những người ‘con ông cháu cha’ có tài thực sự nhưng vì ỷ lại, trong đầu lúc nào cũng mặc định là có làm thì cũng hưởng bao nhiêu đó mà không làm thì cũng không bị đuổi. Chính tâm lý ỷ lại đó mà khiến bị chây lười trong công việc. Em nghĩ phải thay đổi từ người sếp và không có kiểu ‘con ông cháu cha’ đưa vào làm việc theo kiểu VN ‘con quan thì được làm quan’, thì cứ theo kiểu không có năng lực mà làm sếp. Phải tuyển đúng năng lực mà nếu người ta xuề xòa không làm việc thì phải bị đuổi. Phải thẳng tay như vậy thì mới thay đổi được”.
Anh Phan cho biết thêm ở VN hiện nay, lực lượng nhân viên người Việt làm trong các công ty nước ngoài và công ty tư nhân đều làm việc năng động, sáng tạo và đạt được hiệu quả cao. Mới đây nhất, GS.TS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Vafie) nói với báo giới rằng người nước ngoài nhận xét về lao động Việt rất có thiện cảm. Ông Nguyễn Mại dẫn chứng tại tập đoàn Samsung ở Bắc Ninh có hơn 40 ngàn lao động Việt, phần lớn đều đáp ứng nhu cầu, không ai bị đuổi vì lười làm việc. Đội ngũ quản lý người Việt trong tập đoàn ngày càng gia tăng và có khả năng thay thế quản lý người Hàn Quốc.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư, ông Đặng Huy Đông nhấn mạnh trong một hội thảo rằng VN chưa thu hẹp khoảng cách về năng suất lao động so với các nước trong khu vực. Và theo các chuyên gia, để nâng cao năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực thì phải thay đổi từ gốc. Vậy, cái gốc cần thay đổi, có phải từ yếu tố chủ quan là đào tạo và quản lý, đều do Nhà nước định đoạt?
Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-09-11
Phạm Công Trình - Những mặt tối của vụ lật xe Sapa
Chào các bạn, trước khi đọc những gì mình sắp viết, mình chỉ muốn nhờ
các ban CHIA SẺ những lời gan ruột này của mình. Bởi vì có quá nhiều sự
thật đang bị bẻ cong đi và nó khiến trái tim mình đau đớn hơn nhiều
lần, có lẽ là không ít người sống sót khác trên chuyến xe Sapa - Hà Nội
đó cũng phải chịu cảm giác như mình đang chịu đựng. Vì vậy, mình xin các
bạn hãy chia sẻ, để xã hội này biết rõ được một phần câu chuyện mà
người ta chưa cho các bạn biết hết, về những thứ mà họ cố tình không
mang lên khỏi đáy con vực kia...
Trước hết, mình xin giới thiệu lại, mình là Phạm Công Trình đang sống tại thị xã Tam Điệp, Ninh Bình, vợ mình là Đỗ Thị Lan, trú tại tx Từ Sơn, Bắc Ninh. Bọn mình là nạn nhân của vụ lật xe ở Sapa tối 01/9/2014. Vợ mình không may đã qua đời trong vụ tai nạn này. Nếu bạn nào có thắc mắc thì trước tai nạn, chúng mình là bạn bè, sau tại nạn, bọn mình đã là vợ chồng, có sự chứng kiến và đồng ý của hai bên gia đình và bạn bè của hai đứa. Bây giờ, mình xin bắt đầu vào câu chuyện...
Trước hết, mình xin giới thiệu lại, mình là Phạm Công Trình đang sống tại thị xã Tam Điệp, Ninh Bình, vợ mình là Đỗ Thị Lan, trú tại tx Từ Sơn, Bắc Ninh. Bọn mình là nạn nhân của vụ lật xe ở Sapa tối 01/9/2014. Vợ mình không may đã qua đời trong vụ tai nạn này. Nếu bạn nào có thắc mắc thì trước tai nạn, chúng mình là bạn bè, sau tại nạn, bọn mình đã là vợ chồng, có sự chứng kiến và đồng ý của hai bên gia đình và bạn bè của hai đứa. Bây giờ, mình xin bắt đầu vào câu chuyện...
Mình nằm ở giường tầng 2, hàng thứ 2 từ trên xuống và cũng là hàng ở giữa. Vợ mình nằm ngang mình, cùng bên với lái xe (bên tay trái mình). Lúc ấy cũng đã là cuối ngày, mọi người sau một hồi trò chuyện ban đầu thì hầu hết đều chuẩn bị đi vào giấc ngủ, trong đó có mình và vợ mình. Nếu ai đã từng đi Sapa thì sẽ biết rằng bạn sẽ phải cuốc bộ rất nhiều, cơ thể mệt mỏi vào cuối ngày gần như là điều đương nhiên. Xe đang đổ đèo thì đột nhiên lái xe la lên: "Xe mất phanh rồi". Mình vội bật người dậy thì thấy cửa xe bật mở và 1 cậu lơ trẻ hơn nhảy vội khỏi xe. Xe va chạm vào dải phân cách 2 - 3 lần gì đó (xe đang ở lề bên phải theo chiều đi xuống, ngoài ra thì đoạn đó có 1 khoảng đồi rất ngắn còn ở bên phía tay phải nữa thì phải) và tiếp theo mình nghe thấy tiếng la thất thanh của cậu lơ xe đó. Lúc đó mình cứ nghĩ rằng cậu ấy bị xe chèn qua (mãi sau này mình mới biết là do bị cây đâm vào), mình biết là chuyện không hay rồi. Hai đứa mình mới vội quay sang, nhào nguời sang định ôm lấy nhau, nhưng vừa chạm tay vào nhau thì xe bắt đầu lật (sau này mình mới biết là do va chạm với xe Matiz). 2 đứa mình bị hất văng xuống sàn. Rồi xe cuộn tròn như máy giặt. Lăn vài vòng thì cả 2 đứa cùng bị bắn ra theo hai hướng, mình bắn ra góc cao hơn nên rơi gần hơn, còn vợ mình thấp hơn nên xa hơn, lại không may va vào đá. Còn mình bay trong không trung khoảng 30m, nhưng lại rơi vào bụi cỏ rậm, nên chỉ ngất đi một lúc, rồi mình tỉnh lại và tự bò lên đường được. Thậm chí, khi lên đến đường không thấy Lan đâu, mình còn lần ngược xuống vực để tìm, lật giở tất cả những chiếc chăn che xác các nạn nhân để tìm vợ mình nhưng cũng không thấy...
Đây là những gì mình trả lời các phóng viên và công an điều tra. Có 3 phóng viên phỏng vấn mình, 1 người của đài truyền hình Lào Cai, 1 bạn là cộng tác viên của VNExpress, 1 anh nữa thì của đài tiếng nói Việt Nam. Mình thật không thể hiểu nổi tại sao đoạn phỏng vấn mình đã được đưa lên truyền hình, với ai mình cũng đều trả lời trước sau như một, bởi vì mình chỉ nghĩ đơn giản rằng, mình là người bị nhẹ nhất trong cả đoàn, chuyện xảy ra cũng xảy ra rồi, mình phải có trách nhiệm cho xã hội biết chuyện gì thực sự đã xảy ra trong chuyến đi đó... Vậy mà...
Đủ các báo thi nhau nào là phỏng vấn trực tiếp, rồi thì thi nhau vẽ câu chuyện theo một chiều hướng mà mình không thể tưởng tượng nổi. Mình nằm viện, cũng chẳng có tâm trí nào mà báo đài gì, nhưng bạn bè người thân vào thăm, ai cũng mở đầu bằng câu hỏi: "Cháu đập cửa kính bay ra à?"... Nó thực sự khiến trái tim mình tổn thương. Nó thực sự khác xa những gì đã thực sự xảy ra. Trong cái giây phút ngắn ngủi ấy, không ai có thể kịp làm gì, mình thậm chí còn chưa kịp sợ xe đã lật rồi. Bọn mình nằm ngay cạnh nhau, đến muốn ôm lấy nhau còn không kịp. Đằng này... Rồi người ta sẽ nghĩ gì? Bạn bè Lan sẽ nghĩ gì? "Vì Lan yêu một thằng k ra gì, lúc nguy hiểm chỉ biết đến mình nên mới phải chết oan"? Các nhà báo, các người có lương tâm hay không? Viết về những tai nạn thương tâm, tại sao các người vẫn còn nghĩ đến chuyện tô vẽ để thu hút độc giả nữa hay sao?
Chuyện thứ 2 mình muốn nói, ấy là chuyện hôi của của một số người tự nhận là "cứu hộ" trong vụ tai nạn này. Sau khi tìm không thấy vợ mình đâu, mình vào viện và mượn điện thoại của người quen (điện thoại của mình, mình nhờ Lan cầm) và liên tục gọi vào số của cô ấy. Không có người trả lời. Đêm muộn hôm ấy, mình nhận được cuộc gọi ngược lại từ số của Lan, vẻn vẹn chỉ có 1 câu: "chị ấy mất rồi" và cúp máy. Mình gọi lại thì không ai nhấc máy. Sau đó, đến sáng 2/9 thì gia đình nhận được xác Lan, đến chiều thì hai gia đình về Bắc Ninh để đưa tiễn Lan. Liên tục mấy ngày 3, 4, 5 tháng 9, mình gọi điện và nhắn tin vào số Lan, bởi vì đó không chỉ là kỉ vật, mà nó còn chứa vô vàn những kỷ niệm của 2 đứa mình. Tuy nhiên, không có hồi âm. Rốt cuộc, mẹ Lan gọi cho mình báo, có đứa nó bảo gửi tiền lên cho no rồi nó gửi ĐT cho. Thì ra, chiếc điện thoại ấy được đem bán cho 1 cửa hàng điện thoại. Họ bảo rằng họ mua lại với giá 1 triệu 700k (cho 1 chiếc điện thoại Nokia Lumina 525 mà giá mua mới tại FPT cách đây mấy tháng chỉ hơn 3tr??? mình biết là họ cố tình muốn hút máu gia đình thêm một chút, toàn một ruộc lương tâm cất ở nhà khi đi làm cho khỏi mất với nhau thôi...). Dù sao, người không còn, chút kỉ niệm có tốn bao nhiêu mình cũng không tiếc. Hôm nay, mình đã lấy máy về, nhưng không còn sim. Hỏi lại cửa hàng thì họ bảo khi mua điện thoại thì sim không còn. Có lẽ vì ngay trước nghỉ lễ, 30/8, Viettel khuyến mại, mình đã nạp cho cả mình và cô ấy mỗi người 150K. Thằng khốn nạn ấy còn không bỏ xót đến từng đồng nó kiếm được từ những con người không may mắn trên chuyến xe ấy. Hôm nay, mình gọi lại cho số của Lan, phía bên ấy thậm chí còn lôi đủ những thử tục tĩu ra để chửi bới, thách thức mình, còn hỏi cả địa chỉ để đến tận nhà xử mình. Thật quá hay cho cái danh "cứu hộ". Mà mình nghĩ phần nhiều đó là người của "cứu hộ" chính thức, bởi vì vợ mình là nạn nhân cuối cùng được tìm thấy tại hiện trường, là nạn nhân thứ 12. Ấy vậy mà...
Thậm chí, ngay sáng 2/9, một chị chăm người nhà ở gần chỗ mình nằm trên Lào Cai cũng nhận được điện thoại từ số người thân của chị đòi tiền chuộc điện thoại. Chị ấy còn bảo lại người thân còn chưa biết sống chết thế nào mà chúng nó đã đòi nã tiền rồi. Lương tâm con người "cứu hộ" đấy. Tài sản trên chuyến xe ấy không nhỏ. Tiền bạc, tư trang không ít. Những con người mang cái danh "cứu hộ", thực ra, phải gọi các người như thế nào cho đúng đây?
Câu chuyện thứ 3 mình muốn nói là về các tổ chức sớm lên tiếng trong vụ việc này. Bộ trưởng Thăng nói là làm, không có gì để chê trách, tất cả những gì Bộ trưởng yêu cầu đều được thực hiện. Phía Bộ Y tế, chả biết ai, nhưng bên ấy cũng thật nhanh nhảu mà rằng: "miễn toàn bộ viện phí cho các nạn nhân". Các cụ cứ nói cho sướng cái mồm, lời nói có mất tiền mua đâu, về các bệnh viện, đâu đâu cũng tạo điều kiện cứu chữa, nhưng viện phí? Không có công văn hướng dẫn, Sở Y tế không đồng ý, bệnh viện không làm được, trên Lào Cai còn không có nữa là Ninh Bình, gia đình lại đi thanh toán. Rồi thì các bộ ban ngành cũng thi nhau, nào là hỗ trợ các nạn nhân bằng này, bằng kia... Rồi thì Bảo Việt cũng nhanh nhảu đã ứng 1 tỷ gì đó để chi cho các hành khách... Tất cả những gì mình nhận được từ các bộ, ban ngành, đoàn thể... đó là 1 triệu đồng của Hội chữ thập đỏ tỉnh Lào Cai. Các cụ tranh công thì nhanh lắm, chỉ có trách nhiệm là chưa thấy cụ nào nhận cho thôi...
Đây là một vài điều khiến mình thêm tổn thương, thêm đau khổ, thêm bức xúc, thêm buồn chán về cái xã hội này. Mình viết ra không phải để nói xấu chế độ hay tạo scandal, anh hùng bàn phím hay bất thứ cái gì ngớ ngẩn mà các bạn có thể đặt ra cho mình. Mình chỉ muốn cho xã hội biết những cái sự thật đang bị bóp méo, hay chưa ai vạch trần nó ra. Mình mong các bạn CHIA SẺ bài viết này cho tất cả mọi người, để mọi người được biết. Chỉ thế thôi.
Xin cảm ơn các bạn!
Phạm Công Trình
(FB Sói Già)
Đóng triển lãm 'Cải cách Ruộng đất'?
Tin từ Hà Nội cho hay
cuộc triển lãm Cải cách Ruộng đất 1946 -1957 "bị đóng cửa vì
lý do ánh sáng" trong chiều thứ Năm.
Cuộc triển lãm đã gây ra nhiều tranh cãi ngay từ hôm khai mạc.
Cuộc triển lãm đã gây ra nhiều tranh cãi ngay từ hôm khai mạc.
Báo chí tiếng Việt trong và ngoài nước đã nói nhiều về cách trình bày hiện vật ở bảo tàng này.
Có những ý kiến từ giới sử gia trong nước cho rằng cuộc triển lãm chưa đầy đủ.
Một nguồn tin trong giới nghiên cứu cho BBC hay chiều tối 11/9 giờ Hà Nội rằng có tin nói Bảo tàng "đang tạm không tiếp đón người xem chiều nay để điều chỉnh lại".
Cũng chưa rõ liệu cuộc triển lãm sẽ được điều chỉnh về kỹ thuật, ánh sáng hay nội dung thế nào và có mở trở lại không.
BBC chưa liên lạc được với ban giám đốc bảo tàng qua điện thoại chiều tối hôm thứ Năm để tìm hiểu thêm sự việc.
Khai mạc hôm 8/9, Bảo tàng đã trưng bày chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946 - 1957”.
Gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, ảnh tư liệu về Cải cách ruộng đất đã được lựa chọn, cho người xem thêm nhiều thông tin về Cải cách ruộng đất, theo đánh giá của giới quan sát.
Nhưng cuộc triển lãm cũng bị phê phán đã không nhắc đến cụ thể "những sai lầm tả khuynh” nghiêm trọng để lại những tổn thất lớn cả về con người và tổ chức, gây đảo lộn đời sống xã hội ở nông thôn miền Bắc Việt Nam".
Trận lũ đau buồn
Có những ý kiến từ giới sử gia trong nước cho rằng cuộc triển lãm chưa đầy đủ.
Một nguồn tin trong giới nghiên cứu cho BBC hay chiều tối 11/9 giờ Hà Nội rằng có tin nói Bảo tàng "đang tạm không tiếp đón người xem chiều nay để điều chỉnh lại".
Cũng chưa rõ liệu cuộc triển lãm sẽ được điều chỉnh về kỹ thuật, ánh sáng hay nội dung thế nào và có mở trở lại không.
BBC chưa liên lạc được với ban giám đốc bảo tàng qua điện thoại chiều tối hôm thứ Năm để tìm hiểu thêm sự việc.
Khai mạc hôm 8/9, Bảo tàng đã trưng bày chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946 - 1957”.
Gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, ảnh tư liệu về Cải cách ruộng đất đã được lựa chọn, cho người xem thêm nhiều thông tin về Cải cách ruộng đất, theo đánh giá của giới quan sát.
Nhưng cuộc triển lãm cũng bị phê phán đã không nhắc đến cụ thể "những sai lầm tả khuynh” nghiêm trọng để lại những tổn thất lớn cả về con người và tổ chức, gây đảo lộn đời sống xã hội ở nông thôn miền Bắc Việt Nam".
Ngoài ra, cuộc triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội cũng trở thành nơi để khách đến xem, gồm các thế hệ già và trẻ "nhắc lại chuyện đau buồn" thời Cải cách Ruộng đất khi các vụ tố oan, bắn giết nông dân bị quy là "thành phần trên" đã xảy ra.
Chẳng hạn, trang VnExpress mô tả chuyện một người xem có tuổi nghĩ gì về hiện vật:
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố"
Một người xem cao tuổi
"Chỉ lên bức ảnh nông dân được chia lại ruộng đất, đằng sau là khẩu hiệu "Địa chủ hết đời, nông dân vạn đại", người đàn ông 74 tuổi quê Diễn Châu (Nghệ An) chia sẻ, giá như nó được sửa lại là "Địa chủ hết thời, nông dân vạn đại" với ý nghĩa khẳng định sự chấm dứt một thời kỳ áp bức của địa chủ nông thôn với nông dân thì sẽ hay hơn,"
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố, ông ví "thời kỳ 1953-1956 như trận lũ quét qua nông thôn Việt Nam".
Theo blog Xuân Diện, sáng nay 11.9.2014, bà con dân oan Dương Nội mặc áo thun với các dòng chữ đòi nhân quyền đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.
"Đoàn người đi bộ đến bảo tàng, đứng trước cổng để xem các thông tin về cuộc triển lãm trưng bày về Cải cách ruộng đất. Lúc đó đã 11h trưa, bảo vệ nói đã hết giờ xem, hẹn bà con đến vào lúc 2h chiều. Bà con Dương Nội tản ra vườn hoa Cổ Tân gần đó để ăn và nghỉ trưa đợi đến giờ vào xem."
"Đến hai giờ chiều, bà con vào thăm triển lãm thì lực lượng bảo vệ triển lãm bắt dân cởi áo mới cho vào bảo tàng. Khi bà con cởi áo xong để vào thì họ nói với bà con: Triển lãm Cải cách gặp sự cố về ánh sáng nên tạm đóng cửa", theo trang blog Xuân Diện.
"Chỉ lên bức ảnh nông dân được chia lại ruộng đất, đằng sau là khẩu hiệu "Địa chủ hết đời, nông dân vạn đại", người đàn ông 74 tuổi quê Diễn Châu (Nghệ An) chia sẻ, giá như nó được sửa lại là "Địa chủ hết thời, nông dân vạn đại" với ý nghĩa khẳng định sự chấm dứt một thời kỳ áp bức của địa chủ nông thôn với nông dân thì sẽ hay hơn,"
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố, ông ví "thời kỳ 1953-1956 như trận lũ quét qua nông thôn Việt Nam".
Theo blog Xuân Diện, sáng nay 11.9.2014, bà con dân oan Dương Nội mặc áo thun với các dòng chữ đòi nhân quyền đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.
"Đoàn người đi bộ đến bảo tàng, đứng trước cổng để xem các thông tin về cuộc triển lãm trưng bày về Cải cách ruộng đất. Lúc đó đã 11h trưa, bảo vệ nói đã hết giờ xem, hẹn bà con đến vào lúc 2h chiều. Bà con Dương Nội tản ra vườn hoa Cổ Tân gần đó để ăn và nghỉ trưa đợi đến giờ vào xem."
"Đến hai giờ chiều, bà con vào thăm triển lãm thì lực lượng bảo vệ triển lãm bắt dân cởi áo mới cho vào bảo tàng. Khi bà con cởi áo xong để vào thì họ nói với bà con: Triển lãm Cải cách gặp sự cố về ánh sáng nên tạm đóng cửa", theo trang blog Xuân Diện.
(BBC)
Vì sao năng suất lao động Việt thấp nhất khu vực?
Theo kết quả đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì năng suất lao động Việt thuộc nhóm thấp nhất Châu Á do lao động chưa qua đào tạo và thiếu kỹ năng mềm. Đây có phải là nguyên nhân chủ yếu hay không?
Tại diễn đàn chính sách về tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đến thị trường lao động VN, diễn ra ở Hà Nội vào hôm mùng 4 tháng 9, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho rằng VN phải đối diện với sự thách thức rất lớn khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào năm 2015.
Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chưa đến 20% lực lượng lao động của VN được đào tạo chuyên môn và không có đủ kỷ năng đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Năm 2013, năng suất lao động của VN thấp hơn Singapore đến 15 lần và tốc độ tăng năng suất lao động Việt đang giảm dần.
Tìm hiểu vì sao công nhân Việt, những người có truyền thống lao động cần cù, siêng năng lại bị giảm năng suất lao động; có phải vì các nguyên nhân theo như Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra hay không? Nhiều công nhân lao động tay chân trong các hãng, xưởng không đồng tình như vậy. Đại đa số những công nhân đài RFA tiếp xúc đồng ý trình độ chuyên môn của họ không có hoặc chỉ sơ sài khi mới bắt đầu được tuyển dụng. Tuy nhiên, sau khi nhanh chóng được huấn luyện căn bản, hầu hết công nhân đều cố gắng làm việc. Vì cuộc sống cơm áo gạo tiền, từ những bạn thanh niên cho đến những người luống tuổi đều cặm cụi, cần mẫn, học nghề, học việc với mong muốn ổn định cho bản thân và gia đình.
Hòa Ái hỏi thăm một số công nhân hiện đang làm việc trong một công ty xuất khẩu đồ gỗ ở Đồng Nai, họ cho biết đã gắn bó với công ty trong nhiều năm, rất cố gắng làm việc, làm đến mức bị bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ bị cắt tiền thưởng. Trong thời gian gần đây, công ty không cho giờ tăng ca nữa, bắt công nhân phải làm việc với cùng số lượng sản phẩm trong 8 giờ đồng hồ thay vì 12 tiếng như trước đó. Thậm chí có khi lô hàng gặp sự cố thì công nhân là người lãnh hậu quả nặng nề dù họ không phải là người gây ra lỗi. Chị Hai, một công nhân thâm niên trong công ty chia sẻ:
“Do mấy người Trung Quốc gò ép quá thì dĩ nhiên công nhân bất mãn.
Ví dụ mấy chuyên gia Trung Quốc ở trên la mắng mấy người chủ quản, giám
đốc xưởng người VN thì mấy người này chửi xuống. Nhiều khi hàng do trời
mưa ẩm bị lên sơn, xớ lông còn thì không làm sao chà sạch được. Mà chà
không sạch thì bị chửi. Nhiều lúc công nhân bị oan ức cho nên công nhân
chán nản. Với lại tiêu chuẩn ăn của họ không đúng nữa. Một suất ăn cơm
trưa, 13 ngàn, mà chỉ có sơ sài vài lát thịt. Có bữa đồ ăn bị giòi, có
bữa đồ ăn bị hư, có bữa canh rau sâu, cơm thì chèm nhẹp. Ăn cũng không
được bình tĩnh, đàng hoàng. Đi ăn hấp tấp này kia nên công nhân bất mãn.
Nhiều người không ăn cơm, phải mua ở ngoài ăn. Đồng lương ít nên mua ở
ngoài ăn thì lương không còn bao nhiêu. Làm thì bị ép phải làm cho nhiều
hơn, làm cho nhanh hơn trong khi trưa ra ăn cơm không được thì lấy sức
đâu mà làm nỗi”.
Chia sẻ vừa rồi của chị Hai cũng là những tiếng nói của nhiều công nhân mong mỏi được cấp lãnh đạo của nhà máy, của công ty và của cả chính phủ lắng nghe.
Thiếu kỹ năng mềm?
Chia sẻ vừa rồi của chị Hai cũng là những tiếng nói của nhiều công nhân mong mỏi được cấp lãnh đạo của nhà máy, của công ty và của cả chính phủ lắng nghe.
Trong khi đó, Vụ trưởng Kỹ năng nghề, Tổng cục Dạy nghề, ông Cao Quang Đại nhận định yếu điểm của lao động VN là thiếu kỹ năng mềm như làm việc nhóm, giao tiếp, khả năng ngoại ngữ, kỷ năng tuân thủ quy trình lao động… Khối nhân viên văn phòng trong các công ty cho rằng nhận định của ông Cao Quang Đại chỉ đúng đối với các doanh nghiệp nhà nước mà thôi.
Những người làm việc trong các cơ quan nhà nước cho đài RFA biết nhiều vị trí tuy có tên là “nhân viên văn phòng” nhưng thực chất những nhân viên đó chỉ có mặt để lãnh lương mỗi tháng mà không được phân công làm bất cứ công việc gì. Về phân bổ chức vụ thì cũng tùy theo cảm tính, không cần xét về năng lực làm việc mà chỉ tùy theo mức độ tình cảm sẽ được cất nhắc lên vị trí lãnh đạo.
Phải tuyển đúng năng lực mà nếu người ta xuề xòa không làm việc thì phải bị đuổi. Phải thẳng tay như vậy thì mới thay đổi được. - Anh PhanMặc dù vậy, có thể làm sếp ngày hôm nay nhưng ngày mai bị gián xuống làm nhân viên bình thường mà trước đó được đưa lên những vị trí cao với những lý do không ai biết. Thêm nữa là lương của nhân viên đó không hề thay đổi khi bị xuống chức. Thường thì bộ phận nhân viên được cho là thuộc diện ‘con ông cháu cha’ hay quen biết với lãnh đạo thực sự là lực lượng góp phần tạo nên tình trạng năng suất lao động thấp ở VN. Anh Phan, tốt nghiệp cao học ở Hoa Kỳ, trở về VN làm việc trong một bệnh viện, lên tiếng:
“Thật ra cũng có những người ‘con ông cháu cha’ có tài thực sự nhưng vì ỷ lại, trong đầu lúc nào cũng mặc định là có làm thì cũng hưởng bao nhiêu đó mà không làm thì cũng không bị đuổi. Chính tâm lý ỷ lại đó mà khiến bị chây lười trong công việc. Em nghĩ phải thay đổi từ người sếp và không có kiểu ‘con ông cháu cha’ đưa vào làm việc theo kiểu VN ‘con quan thì được làm quan’, thì cứ theo kiểu không có năng lực mà làm sếp. Phải tuyển đúng năng lực mà nếu người ta xuề xòa không làm việc thì phải bị đuổi. Phải thẳng tay như vậy thì mới thay đổi được”.
Anh Phan cho biết thêm ở VN hiện nay, lực lượng nhân viên người Việt làm trong các công ty nước ngoài và công ty tư nhân đều làm việc năng động, sáng tạo và đạt được hiệu quả cao. Mới đây nhất, GS.TS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Vafie) nói với báo giới rằng người nước ngoài nhận xét về lao động Việt rất có thiện cảm. Ông Nguyễn Mại dẫn chứng tại tập đoàn Samsung ở Bắc Ninh có hơn 40 ngàn lao động Việt, phần lớn đều đáp ứng nhu cầu, không ai bị đuổi vì lười làm việc. Đội ngũ quản lý người Việt trong tập đoàn ngày càng gia tăng và có khả năng thay thế quản lý người Hàn Quốc.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư, ông Đặng Huy Đông nhấn mạnh trong một hội thảo rằng VN chưa thu hẹp khoảng cách về năng suất lao động so với các nước trong khu vực. Và theo các chuyên gia, để nâng cao năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực thì phải thay đổi từ gốc. Vậy, cái gốc cần thay đổi, có phải từ yếu tố chủ quan là đào tạo và quản lý, đều do Nhà nước định đoạt?
2014-09-11
Đàm phán TPP tiến bộ nhưng nhân quyền vẫn là trở ngại lớn với Việt Nam
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh |
Trưởng đàm phán của Hoa Kỳ về Hiệp định Tự do thương mại Xuyên Thái
Bình Dương (TPP), bà Barbara Weisel, loan báo có tiến bộ sau vòng đàm
phán mới đây ở Hà Nội, nhưng giới quan sát trong nước cho biết nhân
quyền vẫn là một rào cản lớn đối với ngưỡng cửa TPP của Việt Nam.
Sau 10 ngày thương thảo (1-10/9), đại diện 12 nước tham gia cho biết đã tháo gỡ được nhiều vấn đề gúc mắt và đang tiếp tục thu hẹp những khoảng cách còn lại.
Một chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam nhận xét trở ngại gay go nhất với Hà Nội là các yêu cầu về công đoàn độc lập, cải cách nhân quyền và quyền của người lao động chưa có dấu hiệu được giải tỏa.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương từng làm cố vấn cho nhiều đời lãnh đạo Việt Nam, đã dành cho VOA Việt ngữ cuộc trao đổi về con đường TPP của Việt Nam sau vòng đàm phán vừa kết thúc tại Hà Nội.
Sau 10 ngày thương thảo (1-10/9), đại diện 12 nước tham gia cho biết đã tháo gỡ được nhiều vấn đề gúc mắt và đang tiếp tục thu hẹp những khoảng cách còn lại.
Một chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam nhận xét trở ngại gay go nhất với Hà Nội là các yêu cầu về công đoàn độc lập, cải cách nhân quyền và quyền của người lao động chưa có dấu hiệu được giải tỏa.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương từng làm cố vấn cho nhiều đời lãnh đạo Việt Nam, đã dành cho VOA Việt ngữ cuộc trao đổi về con đường TPP của Việt Nam sau vòng đàm phán vừa kết thúc tại Hà Nội.
TS Lê Đăng Doanh: Ký kết TPP sẽ mở rộng các thị
trường rất lớn cho hàng Việt Nam như da giày, thủy sản, dệt may, lâm
sản. Thứ hai, TPP sẽ tạo động lực mạnh mẽ để thúc đẩy cải cách; nâng cao
năng lực cạnh tranh; thống nhất các quy trình về hải quan, mua sắm và
tăng cường sự công khai minh bạch để hạn chế tham nhũng. Thứ ba, với
việc mở rộng thị trường xuất khẩu và tận dụng nguồn lao động giá đang
còn rẻ, Việt Nam có cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, công nghệ hiện đại
và học tập thêm phương pháp quản trị kinh doanh hiện đại. Các yếu tố đó
sẽ thúc đẩy kinh tế Việt tăng trưởng cao hơn.
VOA: Với các triển vọng đầy hứa hẹn như vậy, ông dự đoán TPP của Việt Nam liệu sẽ hoàn tất trước cuối năm nay hay chăng?
TS Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức nhưng hiện nay việc ký kết TPP vẫn còn có một số trở ngại. Một là Hạ viện Hoa Kỳ tới nay chưa trao cho chính quyền của Tổng thống Obama quyền ‘fast track’ tức là đàm phán nhanh. Không có việc chấp thuận ‘fast track’, Hiệp định TPP mà chính phủ Hoa Kỳ ký kết rất có thể sẽ bị Hạ viện xem xét và bắt tu bổ điểm này, điểm kia, hoặc bắt đàm phán lại. Lúc bấy giờ sẽ có nguy cơ các bên đối tác sẽ lại phải đàm phán một quá trình rất khó khăn. Vì vậy, các bên đàm phán hiện nay vẫn giữ một dư địa để phòng ngừa, nếu như có phải đàm phán lại thì mình vẫn có thể có cái dư địa để đàm phán tiếp. Thứ hai, Hiệp định TPP có các điều kiện rất mới và rất khó khăn như mở cửa thị trường, các nội dung về sở hữu trí tuệ, vấn đề doanh nghiệp nhà nước, hay như đối với Việt Nam là quyền tự do thành lập công đoàn. Tổng thống Obama mong muốn ký kết TPP vào cuối năm nay, nhưng tôi không biết thời gian còn lại có thể tiếp tục đàm phán để đi đến ký kết được không. Nếu để sang 2015 khi Hoa Kỳ bắt đầu bước vào giai đoạn bầu cử, tôi e rằng không khí chính trị lúc đó sẽ ưu tiên cho bầu cử nhiều hơn là thúc đẩy TPP.
VOA: Nói về rào cản với Việt Nam trong vấn đề TPP, một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay mà giới lập pháp Mỹ rất quan tâm là vấn đề nhân quyền gắn liền với quyền của người động và quyền lập công đoàn. Với các rào cản mà phía Mỹ muốn Việt Nam dỡ bỏ đó để rộng đường Việt Nam tiến vào TPP, theo ông, liệu có khả năng Việt Nam sẽ nhượng bộ các đòi hỏi đó hay không?
TS Lê Đăng Doanh: Tới nay, tôi chưa thấy dấu hiệu gì Việt Nam nhượng bộ về việc này. Từ trước tới nay, Việt Nam không muốn thay đổi về nội dung này và đã có viện dẫn một số trường hợp có ngoại lệ, như trường hợp Australia ký Hiệp định Thương mại Tự do với Hoa Kỳ với một số ngoại lệ. Không rõ trong trường hợp TPP của Việt Nam có được áp dụng những ngoại lệ hay không.
VOA: Là một nhà cố vấn kinh tế, ông thấy Việt Nam nên hay không nên có sự nhượng bộ này, và lý do vì sao?
TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi là rất nên tiến tới có một lộ trình hợp lý để đi đến có quyền thành lập các công đoàn và có các tổ chức công đoàn cạnh tranh với nhau. Có như vậy sẽ giúp bảo vệ các lợi ích hợp pháp cần thiết của người lao động. Nhưng đối với Việt Nam, nên có một lộ trình nhất định để Việt Nam có thời gian thích nghi với các chuyển biến như vậy.
VOA: Với các lợi ích kinh tế từ sự nhượng bộ này, vì sao Việt Nam vẫn còn lưỡng lự, thưa ông?
TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi, sự cân nhắc đó là vi e ngại có thể sẽ có những bất ổn chính trị và rất muốn duy trì sự lãnh đạo toàn diện-tuyệt đối của đảng cộng sản Việt Nam đối với một tổ chức công đoàn mà thôi, đó là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nếu chấp nhận nhiều tổ chức công đoàn thì sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam đấy sẽ được thực hiện như thế nào_đó có lẽ là các điều cân nhắc. Theo tôi, nên chấp nhận một lộ trình để có thể thích nghi với các điều kiện như vậy.
VOA: Khi thương lượng được cái này thì có thể phải mất cái kia. Vào được TPP, Việt Nam được rất nhiều quyền lợi như ông vừa phân tích, nhưng những cái có thể mất đối với Việt Nam trong tiến trình này là gì, thưa Tiến sĩ?
TS Lê Đăng Doanh: TPP là một bông hồng có rất nhiều gai và hoàn toàn không dễ dàng. Việt Nam muốn tiếp cận thị trường các nước thì cũng phải mở cửa thị trường của mình trong một loạt các lĩnh vực như chăn nuôi bò sữa, gà, heo..v..v...Việt Nam sẽ gặp sự cạnh tranh rất gay gắt. Hiện nay, thịt bò của Australia đang lấn át thịt bò các nước. Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải cải cách nâng cao chất lượng chăn nuôi bò, heo, gà, vịt. Đó là những việc Việt Nam hiện cần phải làm. Những khó khăn, thách thức đó sẽ giúp thúc đẩy cải cách, khiến Việt Nam phải tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả nền kinh tế lên. Nó như một đòn kích thích, một xung điện để thúc đẩy kinh tế năng động hơn, mọi người phải nỗ lực cao hơn để cải cách cho phù hợp với các yêu cầu của quốc tế. Qua đó, nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, ổn định hơn và năng lực cạnh tranh sẽ cao hơn.
VOA: Nếu có 3 điểm ưu tiên nhất cần nêu lên, ông sẽ kiến nghị điều gì cho lộ trình TPP của Việt Nam?
TS Lê Đăng Doanh: Trước hết là các yêu cầu về hàm lượng xuất xứ của hàng hóa để đảm bảo cho hàng Việt Nam có thể tiếp cận được với các thị trường bên ngoài. Thứ hai, lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng cần phải được làm rõ để không ảnh hưởng tới các ngành công nghiệp của Việt Nam như ngành công nghiệp dược hay các ngành công nghiệp thuốc thú y. Thứ ba, vấn đề về quyền tự do lập công đoàn của công nhân. Đó là những điểm, theo tôi, đối với Việt Nam là rất đáng lưu ý. Cho tới nay, tự do lập công đoàn là điều Việt Nam khó chấp nhận.
VOA: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ-chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.
VOA: Với các triển vọng đầy hứa hẹn như vậy, ông dự đoán TPP của Việt Nam liệu sẽ hoàn tất trước cuối năm nay hay chăng?
TS Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức nhưng hiện nay việc ký kết TPP vẫn còn có một số trở ngại. Một là Hạ viện Hoa Kỳ tới nay chưa trao cho chính quyền của Tổng thống Obama quyền ‘fast track’ tức là đàm phán nhanh. Không có việc chấp thuận ‘fast track’, Hiệp định TPP mà chính phủ Hoa Kỳ ký kết rất có thể sẽ bị Hạ viện xem xét và bắt tu bổ điểm này, điểm kia, hoặc bắt đàm phán lại. Lúc bấy giờ sẽ có nguy cơ các bên đối tác sẽ lại phải đàm phán một quá trình rất khó khăn. Vì vậy, các bên đàm phán hiện nay vẫn giữ một dư địa để phòng ngừa, nếu như có phải đàm phán lại thì mình vẫn có thể có cái dư địa để đàm phán tiếp. Thứ hai, Hiệp định TPP có các điều kiện rất mới và rất khó khăn như mở cửa thị trường, các nội dung về sở hữu trí tuệ, vấn đề doanh nghiệp nhà nước, hay như đối với Việt Nam là quyền tự do thành lập công đoàn. Tổng thống Obama mong muốn ký kết TPP vào cuối năm nay, nhưng tôi không biết thời gian còn lại có thể tiếp tục đàm phán để đi đến ký kết được không. Nếu để sang 2015 khi Hoa Kỳ bắt đầu bước vào giai đoạn bầu cử, tôi e rằng không khí chính trị lúc đó sẽ ưu tiên cho bầu cử nhiều hơn là thúc đẩy TPP.
VOA: Nói về rào cản với Việt Nam trong vấn đề TPP, một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay mà giới lập pháp Mỹ rất quan tâm là vấn đề nhân quyền gắn liền với quyền của người động và quyền lập công đoàn. Với các rào cản mà phía Mỹ muốn Việt Nam dỡ bỏ đó để rộng đường Việt Nam tiến vào TPP, theo ông, liệu có khả năng Việt Nam sẽ nhượng bộ các đòi hỏi đó hay không?
TS Lê Đăng Doanh: Tới nay, tôi chưa thấy dấu hiệu gì Việt Nam nhượng bộ về việc này. Từ trước tới nay, Việt Nam không muốn thay đổi về nội dung này và đã có viện dẫn một số trường hợp có ngoại lệ, như trường hợp Australia ký Hiệp định Thương mại Tự do với Hoa Kỳ với một số ngoại lệ. Không rõ trong trường hợp TPP của Việt Nam có được áp dụng những ngoại lệ hay không.
VOA: Là một nhà cố vấn kinh tế, ông thấy Việt Nam nên hay không nên có sự nhượng bộ này, và lý do vì sao?
TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi là rất nên tiến tới có một lộ trình hợp lý để đi đến có quyền thành lập các công đoàn và có các tổ chức công đoàn cạnh tranh với nhau. Có như vậy sẽ giúp bảo vệ các lợi ích hợp pháp cần thiết của người lao động. Nhưng đối với Việt Nam, nên có một lộ trình nhất định để Việt Nam có thời gian thích nghi với các chuyển biến như vậy.
VOA: Với các lợi ích kinh tế từ sự nhượng bộ này, vì sao Việt Nam vẫn còn lưỡng lự, thưa ông?
TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi, sự cân nhắc đó là vi e ngại có thể sẽ có những bất ổn chính trị và rất muốn duy trì sự lãnh đạo toàn diện-tuyệt đối của đảng cộng sản Việt Nam đối với một tổ chức công đoàn mà thôi, đó là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nếu chấp nhận nhiều tổ chức công đoàn thì sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam đấy sẽ được thực hiện như thế nào_đó có lẽ là các điều cân nhắc. Theo tôi, nên chấp nhận một lộ trình để có thể thích nghi với các điều kiện như vậy.
VOA: Khi thương lượng được cái này thì có thể phải mất cái kia. Vào được TPP, Việt Nam được rất nhiều quyền lợi như ông vừa phân tích, nhưng những cái có thể mất đối với Việt Nam trong tiến trình này là gì, thưa Tiến sĩ?
TS Lê Đăng Doanh: TPP là một bông hồng có rất nhiều gai và hoàn toàn không dễ dàng. Việt Nam muốn tiếp cận thị trường các nước thì cũng phải mở cửa thị trường của mình trong một loạt các lĩnh vực như chăn nuôi bò sữa, gà, heo..v..v...Việt Nam sẽ gặp sự cạnh tranh rất gay gắt. Hiện nay, thịt bò của Australia đang lấn át thịt bò các nước. Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải cải cách nâng cao chất lượng chăn nuôi bò, heo, gà, vịt. Đó là những việc Việt Nam hiện cần phải làm. Những khó khăn, thách thức đó sẽ giúp thúc đẩy cải cách, khiến Việt Nam phải tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả nền kinh tế lên. Nó như một đòn kích thích, một xung điện để thúc đẩy kinh tế năng động hơn, mọi người phải nỗ lực cao hơn để cải cách cho phù hợp với các yêu cầu của quốc tế. Qua đó, nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, ổn định hơn và năng lực cạnh tranh sẽ cao hơn.
VOA: Nếu có 3 điểm ưu tiên nhất cần nêu lên, ông sẽ kiến nghị điều gì cho lộ trình TPP của Việt Nam?
TS Lê Đăng Doanh: Trước hết là các yêu cầu về hàm lượng xuất xứ của hàng hóa để đảm bảo cho hàng Việt Nam có thể tiếp cận được với các thị trường bên ngoài. Thứ hai, lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng cần phải được làm rõ để không ảnh hưởng tới các ngành công nghiệp của Việt Nam như ngành công nghiệp dược hay các ngành công nghiệp thuốc thú y. Thứ ba, vấn đề về quyền tự do lập công đoàn của công nhân. Đó là những điểm, theo tôi, đối với Việt Nam là rất đáng lưu ý. Cho tới nay, tự do lập công đoàn là điều Việt Nam khó chấp nhận.
VOA: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ-chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.
Trà Mi
(VOA)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét