Nguyễn Đắc Kiên - Một con đường cải tổ
Lời dẫn
Ba tháng qua tôi đã có thời gian để suy xét lại về những điều tôi đã cho
là đúng và cả những điều tôi đã cho là sai trước đó. Cũng trong ba
tháng qua tôi có điều kiện quan sát gần hơn, tiếp cận gần hơn, có điều
kiện để biết nhiều hơn, hiểu rõ hơn về các xu hướng vận động của nền
kinh tế – chính trị nước nhà. Đó là khoảng thời gian quý báu với riêng
tôi. Có thể coi đề xuất, chương trình, ý kiến… gọi là gì cũng được mang
tên “MỘT CON ĐƯỜNG CẢI TỔ” ở dưới là kết quả của 3 tháng vừa rồi. Bài
viết này xuất phát từ ý thức dân tộc, ý thức về trách nhiệm của một cá
nhân, một công dân với vận mệnh dân tộc.
Tôi đã cố gắng giữ cho mình nguyên tắc, đứng ngoài mọi phe nhóm, mọi tổ
chức chính trị, trong hay ngoài nước, trong hay ngoài Đảng Cộng sản để
giữ cho mình một sự độc lập nhất định về tư tưởng. Hay nói cách khác,
tôi chọn cho mình một con đường tri thức độc lập. Đó là tôn chỉ tôi đã
theo và sẽ theo. Bài viết này, vì thế tôi mong mọi người được đọc với
một tinh thần khách quan như vậy.
Về riêng bản thân tôi, tôi đã hoạch định cho mình một kế hoạch cá nhân
và đã bắt đầu thực hiện kế hoạch này. Tôi đang theo học tiếng Đức với hy
vọng có thể theo học và nghiên cứu triết học một cách bài bản tại Đức.
Triết học là đam mê của cá nhân tôi, mặt khác, cá nhân tôi cho rằng,
không một quốc gia nào có thể phát triển bền vững nếu không có nền Triết
học, Toán học vững chắc. Tôi hy vọng rằng, mình có thể đóng góp một
phần nhỏ bé vào việc phục dựng lại, đặt lại những nền móng Triết học cho
nước nhà, công việc mà theo tôi biết, đã có nhiều con người đáng kính
đã làm và đang làm.
Trong quá khứ không xa, miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đã có một thế
hệ những người nghiên cứu và làm Triết học một cách bài bản, tạo ra một
trào lưu mà bất cứ ai đọc lại những tác phẩm của họ tôi vẫn thấy một
niềm kỳ vọng, một sự khích lệ lớn lao, đó là những tên tuổi như: Lê Tôn
Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung… và miền Bắc là Trần Đức Thảo,
Trường Chinh, Hồ Chí Minh… Thời qian qua, tôi cũng có tìm đọc lại các
tác phẩm của Trường Chính, nếu bỏ qua các định kiến ý thức hệ, thì ta có
thể tìm thấy ở Trường Chinh, Hồ Chí Minh nhiều nhân tố triết học thực
hành có giá trị. Tôi cũng có điều kiện tiếp cận với ý tưởng triết học
rất thú vị của Lê Quý Đôn. Riêng Lê Quý Đôn tôi nghĩ mình cần thêm nhiều
thời gian để nghiên cứu ông và có thể từ ông sẽ khơi gợi, phục dựng
được nhiều giá trị văn hóa, triết lý mang bản sắc Việt.
Người ta vẫn thường hô hào “Giữ gìn bản sắc dân tộc”, lĩnh hội “Tinh hoa
văn hóa nhân loại”… nhưng tôi chưa thấy họ thực sự đã làm gì để đạt
được những mục tiêu này. Cá nhân tôi cho rằng, việc học tập những phương
pháp nghiên cứu, tinh thần dân chủ, khoa học phương tây, đặc biệt với
giới trẻ là điều kiện tiên quyết. Chúng ta không thể cứ ngồi một chỗ,
giữ khư khư những thứ mà ta cho là hay, là tốt mà lại không biết nó thực
sự có vị trí như thế nào trong thế giới tư tưởng nhân loại. Tôi thấy
rằng, mỗi khi chúng ta quên mình đi nhiều nhất, mở rộng lòng mình ra
nhiều nhất, gỡ bỏ những định kiến, những thói quen xưa cũ nhiều nhất, là
mỗi khi mình nhìn thấy mình rõ nhất, ta mình tự nâng mình lên nhiều
nhất.
Tôi cũng sáng lập ra một nhóm gọi là Nhóm Thứ-Ba. Đây không phải là một
nhóm chính trị. Mọi người có thể thấy rõ điều đó khi đọc nguyên tắc
nhóm. Mục tiêu của tôi khi lập ra nhóm này là muốn khơi gợi tinh thần
trung thực, ý chí tự cường, tinh thần dám phiêu lưu khám phá những chân
trời mới, dù là trong cuộc sống hay trên con đường truy tầm chân lý. Tôi
cho rằng, đó sẽ là những tinh thần mà người Việt chúng ta cần trên con
đường chấn hưng đất nước.
Những giá trị này tôi đã tìm thấy khi tiếp cận triết học F.Nietzsche.
Tôi đã từng đặt những câu hỏi, tại sao phương Tây phát triển như ngày
nay, tại sao họ có được nền khoa học, tinh thần dân chủ, khoa học như
ngày nay? Tại sao phương Đông lại đứng lại lâu thế? Những động lực nào
thúc đẩy xã hội con người tiến lên? Tôi nghĩ rằng, mình có thể tìm được
những câu trả lời căn bản khi đọc F.Nietzsche.
Thời gian qua, được tiếp cận nhiều hơn với những con người dân chủ, tiến
bộ (quan facebook, blog…), tôi cũng có dịp tiếp cận nhiều hơn với các
luồng thông tin, tri thức mới, nhận thấy rõ hơn những con người tri thức
cao quý, tiến bộ… những con người này mang lại cho tôi kỳ vọng lớn lao
nếu có thể tập hợp lại được dưới ngọn cờ dân tộc thống nhất.
Do công việc học tập và nghiên cứu của mình, tôi cũng hy vọng mọi người
có thể ưu ái cho tôi một thời gian yên tĩnh cần thiết không phỏng vấn,
không mời gọi ra nhập nhóm này, nhóm kia. Tôi xin nhắc lại tôi chọn con
đường tri thức độc lập.
Trân trọng
Nguyễn Đắc Kiên
MỘT CON ĐƯỜNG CẢI TỔ
Chương 1
Tình thế hiện nay
1. Nhận diện nhóm cấp tiến
Hội nghị Trung ương 6 và 7 của Đảng cho thấy phe bảo thủ, muốn kiên trì
định hướng XHCN theo học thuyết Marx-Lenin đang ở thế yếu.
Cuộc vận động tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong quần chúng
cho thấy, một bộ phận không nhỏ người dân đã ý thức mạnh mẽ về quyền
lực chính trị của mình. Họ sẵn sàng là lực lượng đi đầu thúc đẩy tiến
trình dân chủ, tự do cho đất nước.
Nhưng sẽ là quá lạc quan nếu ai đó, đưa ra một dự đoán nhất quyết về một cuộc cải tổ trong tương lai ngắn hạn ở VN.
Tình thế hiện nay, trong nội bộ ĐCS, nhóm lợi ích đang tỏ ra chiếm ưu
thế hơn nhóm bảo thủ. Nhưng cả hai nhóm này đều sẽ là trở lực cho tiến
trình dân chủ. Nhóm lợi ích đôi khi tỏ ra cấp tiến, tuy nhiên những
người theo dõi chính trường VN đã quá quen với những thủ đoạn, những trò
lật lọng của nhóm này. Sẽ chẳng ai ngạc nhiên nếu khi nhóm này đã đạt
được mục đích thâu tóm quyền lực sẽ quay mũi giáo, chống lại nhân dân,
đàn áp lực lượng dân chủ.
Lực lượng bảo thủ trong đảng, nhóm lợi ích cùng với thế lực bành trướng
Bắc Kinh rõ ràng sẽ là những trở lực lớn nhất cho dân chủ, cũng là hiểm
hoạ lớn nhất đẩy VN vào đêm dài lạc hậu, suy thoái, thậm chí hỗn loạn.
Sự đối đầu giữa phe bảo thủ và phe nhóm lợi ích, đặc biệt trong hai Hội
nghị Trung ương vừa qua làm người ta nhầm tưởng rằng trong chóp bu ĐCS
hiện chỉ có hai lực lượng này. Tuy nhiên, ngày càng có những chỉ dấu rõ
ràng cho thấy, trong thượng tầng nội bộ đảng còn có nhóm thứ ba – nhóm
cấp tiến. Việc Hội nghị Trung ương 6 không kỷ luật “đồng chí X”, Hội
nghị Trung ương 7 không bầu hai ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ,
hai ứng cử viên do Bộ Chính Trị giới thiệu có thể coi là một chỉ dấu cho
thấy sự tiến bộ về ý thức dân chủ của các uỷ viên trung ương. Việc hai
ông Thanh và Huệ không trúng ghế ủy viên BCT chưa chắc đã là do nhóm lợi
ích mạnh. Nhóm lũng đoạn có thể chỉ làm một động tác phá quấy là đưa
thật nhiều ứng viên ra tranh cử, sau đó các Ủy viên Trung ương, với ý
thức đã tiến bộ về quyền lực của mình làm nốt phần việc còn lại là loại
ông Thanh và ông Huệ. Việc các Ủy viên TƯ không bỏ phiếu cho hai ông
này, cũng không thể quy kết ngay cho họ là ủng hộ nhóm lợi ích. Họ chọn
ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân có thể đơn giản chỉ là
do họ thấy những vị này thích đáng hơn.
Những đảng viên cấp tiến, có thể ngay ở trong Bộ Chính Trị, ngay trong
các vị Ủy viên TƯ có thể tạo ra những diễn tiến bất ngờ khi họ bỏ tấm
mạng che bước ra ánh sáng chính trường.
2. Phe dân chủ ngoài Đảng thiếu một lực lượng vật chất
Việc nhận diện ra lực lượng thứ ba, lực lượng tiến bộ trong nội bộ nhóm
lãnh đạo của ĐCS hiện nay là rất quan trọng. Nếu có thể vận động được
lực lượng này gắn kết lại với nhau, cùng với lực lượng tiến bộ ngoài
đảng tiến hành cải tổ đất nước thì đây có lẽ sẽ là phương án ít mạo hiểm
có thể thu được các bước tiến vững chắc nhất.
Không khó để nhận thấy lực lượng dân chủ ngoài đảng cả trong và ngoài
nước hiện nay phân tán. Nếu có thể quy tụ lại cũng dễ tan vỡ. Lực lượng
trong nước thì gặp cản trở từ phía chính quyền, định kiến xã hội. Lực
lượng ngoài nước có môi trường thuận lợi hơn nhưng lại dễ bị chia rẽ,
thậm chí xung đột.
Sự phân tán này sẽ hiển hiện khi ta đặt câu hỏi: Lực lượng vật chất nào?
Khối quần chúng nào có đủ sức mạnh đối kháng thách thức quyền lãnh đạo
ĐCS hiện nay?
Tìm kiếm sự hỗ trợ vật chất từ các nước phương Tây cũng là một sự lựa
chọn mạo hiểm và khó khả thi trong các mối quan hệ quốc tế hiện nay. Hơn
nữa, một mang một lực lượng đối kháng đủ mạnh để đương đầu với chính
quyền hiện hành luôn mang theo nguy cơ bạo loạn, tốn xương máu mà chính
quyền mới được dựng lên nếu có thể cũng không có gì đảm bảo là sẽ ít độc
tài hơn chính quyền cộng sản hiện nay.
Vận động để nhóm cấp tiến trong nội bộ ĐCS lên nằm quyền và tiến hành
cải tổ có thể là lựa chọn sáng suốt nhất trong tình hình hiện nay. Nhận
định này nhiều khả năng sẽ ngay lập tức bị phản đối với những người có
nhiều ân oán với cộng sản cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nếu điềm
tĩnh lại để suy nghĩ thì họ sẽ thấy lựa chọn này thật sự không tồi. Và
bản thân những định kiến của họ cũng không phải là không thể vượt qua.
Rào cản lớn nhất, lâu dài nhất, ám ảnh dai dẳng nhất có lẽ là rào cản ý
thức hệ. Rào cản do cả hai phe Quốc gia và Cộng sản đã cố công dựng lên
đến giờ vẫn như bóng đen bao trùm, cản trở mọi nỗ lực cải tổ, hoà hợp.
3. Ngọn cờ dân tộc thống nhất
Có thể còn một số ít người trong phe bảo thủ vẫn thực lòng muốn bảo vệ
học thuyết cũ. Với phe nhóm lợi ích học thuyết cũ cũng có giá trị khi nó
còn giúp họ núp bóng, trục lợi, vì thế họ cũng có lí do để lớn tiếng
bảo vệ ĐCS khi cần phải chống lại nhóm cấp tiến.
Nhóm cấp tiến, cách gọi có thể khiến nhiều người cảm thấy băn khoăn
trong thời điểm hiện nay khi hình thù của nó vẫn mờ mịt, những đại diện
của nó vẫn lặng câm trong bóng tối. Điều này cũng dễ hiểu. Ngoài uy thế
lấn lướt của nhóm bảo thủ và nhóm lợi ích, những người cấp tiến trong
ĐCS hiện nay, tự bản thân họ cũng phải vượt qua rào cản ý thức hệ. Cũng
như những người Quốc gia không dễ gì xoá bỏ định kiến ý thức hệ Cộng
sản, những người cấp tiến trong đảng hiện nay cũng không dễ gì tuyên bố
thẳng thừng việc rời bỏ con đường Marx – Lenin, dù họ có biết chắc chắn
con đường đó chỉ dẫn dân tộc đến lạc hậu, tăm tối, bại vong. Cũng như
những người chống cộng cực đoan, họ cần sự trợ giúp.
Đây có thể chính là thời điểm để khối quần chúng tiến bộ trong và ngoài
đảng thể hiện vai trò vận động của mình. Đây có thể là thời điểm thích
hợp nhất để ngọn cờ dân tộc thống nhất một lần nữa lại cần phất lên. Lực
lượng tiến bộ trong hay ngoài đảng, quần chúng hay lãnh đạo, đương chức
hay đã nghỉ hưu, trong hay ngoài nước… cần đứng lại với nhau, cùng một
chiến tuyến, không phân biệt người Quốc gia, người Cộng sản, bỏ hết mọi
định kiến ý thức hệ, chỉ hướng đến một ngọn cờ duy nhất, ngọn cờ dân tộc
thống nhất, vì một nước Việt Nam thống nhất phát triển.
Sự vững vàng về mặt an ninh quốc gia hiện nay cần được xem như một lợi
thế để tiến hành cải tổ. Tình hình có thể sẽ xấu đi khi nhóm lợi ích ra
tay hành động, gây hỗn loạn để thừa nước đục thả câu, sẽ đặc biệt nguy
hiểm nếu có thêm bàn tay can thiệp của nước ngoài, đặc biệt là Trung
Quốc.
Chương 2
Cải cách kinh tế
1. Loại bỏ sự thao túng của nhóm lợi ích
Tình trạng nền kinh tế VN hiện nay khá giống với Đài Loan những năm
1940-1950 (khi đó Đài Loan là một tỉnh của Trung Hoa Dân Quốc). Nền kinh
tế Đài Loan khi đó nằm trong tay nhóm lợi ích của Khổng Tường Hy và
Tống Tử Văn. Cũng giống như Việt Nam hiện nay, nhóm lợi ích của Khổng,
Tống lộng quyền, tham ô, hết thao túng các công ty quốc doanh, tài
nguyên quốc gia vơ vét vào túi riêng đến nắm các ngân hàng, “chuyển
trọng tâm tư bản nhà nước sang kinh doanh tiền tệ vàng bạc và đầu cơ”.
Nhóm Khổng, Tống khi đó cũng áp dụng các chính sách vơ tận, vét sạch,
phát hành trái phiếu, “vay nợ nước ngoài một số tiền lớn để ăn chiết
khấu và trưng thu đủ các loại thuế, cưỡng bức vơ vét tài sản của dân”.
Nền kinh tế Đài Loan khi đó cũng bị khủng hoảng trầm trọng. Chỉ sau khi
Khổng Tường Hy và phe nhóm của ông ta tháo chạy sang Mỹ, Trần Thành và
Tưởng Kinh Quốc lên nắm quyền mới tiến hành những cải cách căn bản, đặt
nền móng cho một Đài Loan cất cánh sau này (Tham khảo: Phùng Gia Thụ –
Đài Loan tiến trình hóa rồng).
Cải cách của Trần Thành, Tưởng Kinh Quốc khi đó đặt trọng tâm vào hai
chính sách lớn: Thứ nhất cải cách ruộng đất; thứ hai nâng đỡ khối dân
doanh.
Ruộng đất ở Đài Loan trước cải cách đa phần nằm trong tay địa chủ, chính
quyền Đài Loan đã đặt ra cơ chế hạn điền, buộc những điạ chủ chiếm
nhiều đất hơn hạn mức phải bán lại cho những nông dân không có ruộng.
Tiền bán ruộng do người mua trả dần, chính phủ cũng đứng ra hỗ trợ thu
mua hỗ trợ nhưng không trả bằng tiền mặt mà bằng cổ phiếu trong các
doanh nghiệp quốc doanh. Cũng nằm trong chiến lược nâng đỡ khối dân
doanh ở Đài Loan khi đó, song song với cải cách ruộng đất Đảng Quốc dân
tiến hành “chuyển công doanh sang tư doanh”, đem bán cổ phiếu của 4
ngành xi măng giấy, mỏ và nông lâm để trả thay tiền trưng mua ruộng đất.
Kết quả biến một số điạ chủ trước cải cách thành các nhà công nghiệp
lớn, mà nổi tiếng nhất là “tứ đại hào chủ”: Cố Chấn Phố, Lâm Do Long,
Lâm Bá Thọ, Trần Khởi Thanh.
Sau năm 1950 nguyên tắc chỉ đạo của chính quyền Đài Loan là “hết sức thu
hẹp phạm vi quốc doanh trong công nghiệp dân sinh”, “phân rõ phương
hướng kinh doanh khác nhau giữa nhà nước và nhân dân”. Theo đó doanh
nghiệp nhà nước chủ yếu kinh doanh ngành năng lượng, giao thông, công
nghiệp quốc phòng, công nghiệp chế tạo quy mô lớn, tiền tệ… Có quan hệ
nhiều đến vận mệnh nền kinh tế và đầu tư lớn, những ngành tư nhân không
tiện kinh doanh. Còn những mặt hàng dân dụng, trực tiếp quan hệ đến đời
sống như: dệt, giấy, xi măng, đồ sinh hoạt hàng ngày… Giao hết cho tư
bản tư nhân kinh doanh.
Kết quả, đến năm 1985, tỷ trọng giá trị sản lượng các doanh nghiệp dân
doanh đạt 86% giá trị tổng sản lượng ngành công thương nghiệp, quốc
doanh chỉ chiếm 14%. Hoàng Gia Thụ trong cuốn Đài Loan tiến trình hóa
rồng đánh giá: “Sự phồn vinh của tư bản tư doanh đã cung cấp sức sống
mạnh mẽ cho việc chấn hưng kinh tế Đài Loan”.
Tuy nhiên, việc thu hẹp quốc doanh và nâng đỡ dân doanh sẽ không thể nào
đạt kết quả nếu song song với quá trình đó không có một chiến dịch “bàn
tay sạch” của Đảng Quốc dân.
Đảng Quốc dân trước hết cách chức các giám đốc hữu danh vô thực, thay
thế bằng những người “thích thú với sự nghiệp, có tinh thần trách nhiệm
và khả năng thực tế phụ trách”. Sau khi áp dụng biện pháp này, những
người chỉ đứng tên ăn lương nhờ quan hệ cá nhân làm giám đốc, chánh văn
phòng… nhất là những người núp sau Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy, Trần Quả
Phu lần lượt bị đào thải.
Liên hệ với tình hình VN hiện nay, rõ ràng cần một người đủ sức mạnh,
trí tuệ, sự đảm lược và tinh thần vì dân tộc tiến hành thanh lọc, cải
cách, loại bỏ những kẻ ngồi không ăn bám trong các doanh nghiệp nhà
nước.
Bên cạnh đó, cần khôi phục Ban cố vấn của Thủ tướng trước đây, tập hợp
các chuyên gia trong và ngoài đảng, trong và ngoài nước, tham gia nghiên
cứu, tư vấn và khuyến nghị chính sách.
Để tránh sự thao túng thị trường tiền tệ, tránh hiện tượng biến tài sản
nhà nước thành tài sản tư nhân của nhóm tư bản thân hữu, cần tham khảo
một phương pháp mà Đài Loan đã áp dụng là thành lập chế độ Hội đồng tài
chính một cách nghiêm khắc, tách rời quyền quản lý và quyền sở hữu ra.
Ngân hàng nhà nước hiện nay cũng cần được cải tổ để trở thành ngân hàng
trung ương đích thực, độc lập với chính phủ, có thể thuộc quyền giám sát
trực tiếp của quốc hội, không tồn tại như một cơ quan của chính phủ như
hiện nay.
2. Nâng đỡ khối dân doanh phát triển
Không giống như Đài Loan những năm 1950, VN hiện nay, không có nhu cầu
cải cách ruộng đất bức thiết, tuy nhiên, mô hình cánh đồng mẫu lớn của
Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang cần được nhà nước hỗ trợ nhân rộng.
Quy định sở hữu toàn dân về đất đai hiện nay cũng cần phải thay đổi,
theo đó cần quy định đa sở hữu về đất đai với các chủ thể: Nhà nước, tư
nhân, tổ chức, tập thể… làm thế vừa tránh chuyện lạm dụng, tham ô đất
công, vừa giúp người dân bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu tư nhân về đất đai
của mình.
Một khía cạnh nữa trong nông nghiệp, có thể cũng cần bàn tay nhà nước đó
là “Lựa chọn nhóm hàng nông nghiệp mục tiêu – đẩy mạnh công nghiệp chế
biến”. Bởi vì việc lựa chọn nhóm hàng mục tiêu, đi liền với đầu tư về
nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, đòi hỏi vốn lớn, thời
gian lâu dài, các doanh nghiệp tư nhân khó mà đảm đương trong một sớm
một chiều.
Không chỉ trong nông nghiệp, đảm đương việc nghiên cứu, phát triển,
chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật, chuyên gia cho khối dân doanh
cũng cần được áp dụng cho các khu vực sản xuất khác.
Hãy tham khảo một đoạn mô tả rất có ý nghĩa sau đây của Hoàng Gia Thụ về
các chính sách Đài Loan đã thực thi: “Đến những năm 70, Chính quyền Đài
Loan lại xúc tiến quá trình liên hợp của các xưởng cùng sản xuất một
mặt hàng, tổ chức các công ty mậu dịch lớn có một mạng lưới cơ sở sản
xuất và bán sản phẩm. Như vậy, vừa thống nhất được qui cách, chất lượng
của các sản phẩm cùng loại, vừa mở rộng được quy mô sản xuất, lại tránh
được trong tỉnh tàn sát nhau để người nước ngoài hưởng lợi.
Để khuyến khích sự hợp tác kỹ thuật giữa các hãng tư doanh với ngoại
thương, chính quyền Đài Loan có đãi ngộ thích đáng đối với ngoại thương,
cung cấp kỹ thuật tiên tiến và license cho Đài Loan, đồng thời cấp
những khoản tiền lớn cho các hãng học tập và mua kỹ thuật mới. Thí dụ,
để dẫn dắt cho sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, chính quyền trước hết đầu
tư cho cơ cấu nông nghiệp trồng thử ngô đường, thử nuôi cá quả Mỹ , thử
chế biến bột tảo Chlorena và tinh tảo Chlorena… có hiệu quả rồi mới mở
rộng. Để phát triển hàng cơ khí và đồ điện, chính quyền Đài Loan đã bỏ
ra 20 triệu đài tệ mới để khuyến khích làm thử sản phẩm mới. Để thâm
nhập vào thị trường đồ chơi quốc tế, chính quyền Đài Loan bỏ ra 200.000
đài tệ mới để thu thập mẫu đồ chơi ở các nơi trên thế giới, cung cấp cho
các nhà sản xuất quan sát và bắt chước.
Về mặt xuất khẩu, chính quyền Đài Loan đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở
hơn 80 nước và các khu vực, tham gia các triển lãm, hội chợ quốc tế,
thường xuyên mời khách nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan
tham quan, và cũng thường xuyên cử người đi chào hàng ở nước ngoài. Để
mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã xây dựng các “Trạm phục
vụ mậu dịch quốc tế” cung cấp cho ngoại thương các đường dây điện thoại
và khuyến khích ngoại thương đặt các đại lý ở nước ngoài. Chính quyền
còn treo các “phần thưởng ngoại thương” trao cho hãng nào xuất khẩu được
nhiều”.
Tất nhiên, khối doanh nghiệp dân doanh của VN hiện nay đã trưởng thành
hơn nhiều so với các nhà tư bản tư nhân của Đài Loan khi đó, tuy nhiên
sự việc tính đến các biện pháp hỗ trợ vẫn cấn thiết.
Nhưng điều cốt yếu hơn là nhà nước trước tiên đừng cản trở. Mở rộng tràn
lan các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua là một cản trở, vì nguồn
lực một nền kinh tế có giới hạn, khi các doanh nghiệp nhà nước chiếm
dụng vốn, tài nguyên lại có lợi thế độc quyền, lợi thế thao túng chính
sách thì khố doanh nghiệp tư nhân đương nhiên sẽ không còn đất để thở.
Sẽ có các nhà doanh nghiệp khôn ngoan, bám vào sân sau các tập đoàn, các
ông ty nhà nước để hưởng lợi, nhưng một nền kinh tế như thế chỉ dẫn đến
lụn bại, vì nó không thể khuyến khích sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, đổi
mới phương thức phục vụ để cạnh tranh sòng phẳng.
Cản trở thứ hai với khối dân doanh ở VN hiện nay là thủ tục hành chính,
thuế khoá, hải quan, nhưng đây là những cản trở doanh nghiệp có thể
thích ứng. Cản trở thứ ba, quan trọng hơn, đã đánh gục các doanh nghiệp
mấy năm qua đó là chính sách tiền tệ. Khi ngân hàng nhà nước bị thao
túng, chính sách tiền tệ chỉ phục vụ nhóm lợi ích hoặc sai lầm mà không
được sửa chữa kịp thời thì các doanh nghiệp dan doanh phải gánh hết hậu
quả. Lãi suất vốn vay có thời điểm lên đến 20-30% là bản án tử hình với
các doanh gnhiệp dân doanh, với mức lãi suất này, họ không thể nào cạnh
tranh với các doanh nghiệp khác như doanh nghiệp FDI được vay vốn giá rẻ
ở nước ngoài. Rào cản về tiền tệ này, chẳng khác nào chính sách ngăn
sông cấm chợ cuối thời nhà Nguyễn mà hậu quả khi đó là nền kinh tế,
thương mại rơi hết vào tay người Hoa, các thương gia VN bị bóp nghẹt
đồng thời mở ra cơ hội cho người Hoa thâu tóm, trục lợi. Những thành quả
gần 20 năm Đổi mới vừa qua, có bị cuốn trôi hết chỉ với một cơn khủng
hoảng hiện nay nếu chúng ta không kịp thời cải tổ.
Chương 3
Cải tổ chính trị
1. Đổi tên Đảng
Lịch sử cho thấy ĐCS còn tồn tại được đến ngày nay là nhờ biết thay đổi,
thích ứng, cải tổ trong những thời điểm quyết định. Khả năng đó mang
lại kỳ vọng cho một cuộc cải tổ ở thời điểm hiện tại. Ở trên tôi đã nói
về ám ảnh ý thức hệ của người Quốc gia, ở đây tôi sẽ nhấn mạnh đến ám
ảnh này với người Cộng sản. Bản thân những người Cộng sản cũng đang bị
nỗi ám ảnh ý thức hệ chưa buông tha. Muốn gỡ bỏ nó thật không dễ. Nhưng
cứ thử xem.
Hãy nghe lại lời cố TBT Trường Chinh khi nói về việc đổi tên đảng thành
Đảng Lao động VN: “Một số đồng chí ta chưa thông về việc đặt tên Đảng ta
là Đảng Lao động VN. Có đồng chí băn khoăn vì tình cảm, cho rằng biết
bao đồng chí ta đã hy sinh cho Đảng cộng sản Đông Dương, nay bỗng chốc
phải từ biệt cái tên thân mến ấy thì đau đớn biết bao! Hoặc cho rằng tên
“đảng lao động” đã bị quần chúng không ưu thích ở Anh rồi, ta giây vào
cái tên ấy làm gì cho mệt!
Cố nhiên, bỏ tên Đảng cộng sản Đông Dương là một sự hy sinh. Hy sinh nào
cũng đau đớn. Nhưng hy sinh vì lời ích cách mạng là hy sinh cần thiết.
Ta không nên đứng về mặt tình cảm nhỏ hẹp mà nhận xét vấn đề đặt tên
Đản, nên đứng về lợi ích cách mạng mà nhận xét thì đúng hơn”.
Chính cố TBT Trường Chinh là một tấm gương đáng nhắc lại để học tập về
tinh thần tự đổi mới tư duy, tinh thần hy sinh vì lợi ích chung. Hiện
nay kêu gọi hy sinh vì lợi ích cách mạng là không hợp lý. Hai chữ “cách
mạng” thậm chí còn gây phản cảm. Nhưng lợi ích dân tộc thì sao? Tại sao
các đảng viên cộng sản hiện nay không hy sinh vì lợi ích dân tộc. Tại
sao không một lần nữa mạnh dạn đổi tên đảng, thành “Đảng Lao động mới”
chẳng hạn. Làm như thế có dễ hoà giải, dễ đoàn kết dân tộc hơn không?
Cương lĩnh chính trị cũng vậy, sao không thay kiên trì học thuyết
Marx-Lenin đã lỗi thời bằng con đường “dựa trên nền tảng học thuyết
Marx-Lenin, tiếp thu tinh thần những học thuyết kinh tế chính trị khác”.
Học thuyết Marx-Lenin không phải sai hết, thành tích xoá đói giảm
nghèo, phổ cập giáo dục, phát triển y tế cộng đồng… của VN hiện nay và
nhiều nước phát triển không thể không ghi nhận phần đóng góp của học
thuyết này. Như thế, sau này ai thấy học thuyết Marx-Lenin có điểm gì
hay, tiến bộ thì cứ nghiên cứu, phổ biến. Ai thấy các học thuyết khác có
điểm gì hay, tiến bộ thì cũng ra công học hỏi, mang ra áp dụng. Làm như
vậy chúng ta sẽ dễ dàng hơn để cởi trói tư tưởng, chữa bệnh quan liêu,
duy ý chí. Thực tế cuộc sống hiện nay, khối quần chúng nhân dân đã quen
với đa nguyên tư tưởng, quen với các luồng ý kiến khác biệt, ĐCS cũng
cần thay đổi để thích ứng.
2. Địa phương tự trị
Những thay đổi như đổi tên đảng, điều chỉnh cương lĩnh đòi hỏi nhiều hy
sinh của các đảng viên cộng sản vì lợi ích dân tộc, nhưng những người
Quốc gia, những tri thức cấp tiến, để đứng cùng đảng mới dưới lá cờ dân
tộc thống nhất, họ còn phải hy sinh nhiều hơn. Có những rào cản vô hình
nhưng vì vô hình nên cũng vô cùng khó vượt qua. Chỉ có sự thành thật mới
có thể trợ giúp cho các bên trong những hoàn cảnh như thế. ĐCS phải
thành thật muốn cải tổ, những người đối lập phải thực muốn thành tâm hợp
sức.
Những lời cam kết đôi khi không quan trọng, những thay đổi lớn ngay tức
khắc dễ dụ ngọt nhưng lại thường không bền vững. Với hiện trạng VN bây
giờ, những thay đổi nhỏ, nhưng căn bản có thể sẽ có ích hơn cho sự thành
thực của các bên. Tôi muốn nói đến việc nâng cao tính tự trị của địa
phương. Mô hình chính quyền đô thị đã được thử nghiệm cần được mang ra
mổ xẻ, rút kinh nghiệm để áp dụng cho toàn quốc. Những thành công trong
việc xây dựng chính quyền ở Đà Nẵng cần được tham khảo. Những thay đổi,
dù nhỏ nhất, nhưng sẽ rất khó đảo ngược nếu được người dân tiếp nhận
trực tiếp. Đó là cơ sở cho đề xuất cải tổ tính tự trị của địa phương.
Người dân mỗi tỉnh, huyện cần được bầu trực tiếp chủ tịch tỉnh, chủ tịch
huyện, nghị viên hội đồng nhân dân tỉnh, nghị viên hội đồng nhân dân
huyện.
Các tỉnh, huyện tự xây dựng và thực hiện cho mình các chính sách giáo
dục, y tế, công thương nghiệp, giao thông, nông lâm, tài chính… miễn sao
các chính sách này không trái với Hiến pháp, pháp luật trung ương.
3. Cải tổ Quốc hội – chế độ bầu cử
Một Quốc hội mạnh, thực sự đại diện cho ý chí nhân dân là điều kiện tiên quyết cho tính bền vững của những cải tổ dân chủ.
Đại biểu Quốc hội cần là những đại biểu chuyên trách. Không một đại biểu
Quốc hội nào được kiêm nhiệm các chức vụ trong bộ máy hành pháp trung
ương hay địa phương.
Đại biểu Quốc hội nên phân theo địa phương. Số đại biểu mỗi địa phương
căn cứ theo dân số, một số địa phương đặc thù có thể được xem xét tăng
thêm về số lượng, việc này phải do Quốc hội quy định. Nên quy định đại
biểu địa phương nào, nhất thiết phải cư trú tại địa phương đó, quy định
này vừa có ý nghĩa với việc tăng quyền lực tự trị địa phương, vừa có ý
nghĩa giúp cử tri giám sát đại biểu của mình tốt hơn, bản thân đại biểu
vì cư trú tại địa phương cũng sẽ có nhiều áp lực hơn, có trách nhiệm hơn
với tiếng nói, lá phiếu của mình tại Quốc hội. Tuy đại diện cho địa
phương, nhưng đại biểu phải phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia,
không phải cho lợi ích cục bộ địa phương.
Ứng cử viên đại biểu Quốc hội có thể do Đảng mới đề cử, do Mặt trận tổ
quốc đề cử hoặc tự ứng cử với điều kiện thu thập được một số lượng chữ
ký ủng hộ nhất định. Nhất thiết phải bỏ quy định hiệp thương phi dân chủ
hiện nay.
Cần quy định rõ chế độ nguyên thủ quốc gia. Với cơ cấu hiện hành, điều
chỉnh cho phép nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch nước là có khả năng thực
thi cao nhất. Chủ tịch nước sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân
dân, khi nhận chức cần tuyên thệ trung thành tuyệt đối với tổ quốc, hơn
mọi đảng phái, ý thức hệ. Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang,
chịu trách nhiệm đối ngoại, đề xuất thành viên nội các.
Nội các có một Thủ tướng đứng đầu, chủ yếu lo công tác đối nội, điều
hành nền kinh tế. Thủ tướng và các Bộ trưởng do Chủ tịch nước đề cử,
phải được Quốc hội thông qua, sẽ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và có
thể bị bãi miễn bởi Chủ tịch nước.
Ứng cử viên Chủ tịch nước do Đảng mới, hoặc Mặt trận tổ quốc đề cử, hoặc
ứng viên có thể tự ứng cử với điều kiện thu thập được một số chữ ký
nhất định. Dù trong trường hợp nào cũng phải có ít nhất hai ứng viên cho
một cuộc bầu cử.
Nguyên tắc tương tự được áp dụng cho các cuộc bầu cử tỉnh trưởng, huyện trưởng ở địa phương.
Việc vận động tranh cử là bắt buộc. Người dân cũng được tự do tham gia
quá trình đề cử, vận động, tham gia vào công việc chính trị như mọi việc
khác. Đó là quyền cơ bản của mọi người dân. Việc người dân bày tỏ thái
độ ủng hộ người này, phê phán người kia là chuyện bình thường ở một quốc
gia có dân chủ. Không thể quy kết họ phe phái, gây rối để bắt bớ khi họ
bày tỏ thái độ chính trị. Cần chấm dứt ngay tình trạng độc quyền hoạt
động chính trị của ĐCS hiện nay.
4. Chấm dứt tình trạng một quốc gia – hai nhà nước
Hiện nay, cơ cấu đảng và các hội đoàn của nó tồn tại như một nhà nước
thứ hai ở VN, song song, thậm chí bên trên nhà nước pháp định. Mỗi người
dân VN nghiễm nhiên phải gánh trên vai một lúc hai nhà nước. Tình trạng
này cần chấm dứt.
Các hội đoàn quốc gia, tiêu tốn ngân sách như: Đoàn thanh niên, Hội phụ
nữ… cần giải thể, nếu không giải thể thì phải tự túc kinh phí hoạt động
của mình. Ngân sách nhà nước cần dùng cho các việc khác cần thiết hơn là
chi vào những hội đoàn quốc gia mà sự tồn tại của nó chỉ tạo ra sự bất
bình đẳng giữa những người trong và ngoài hội, gây ra sự mất đoàn kết
sâu rộng, trong các khối quần chúng nhân dân.
Có thể trong giai đoạn đầu, sẽ chỉ có hai tổ chức được cấp ngân sách
hoạt động là Đảng mới và Mặt trận tổ quốc. Nhưng ngân sách cấp cho các
tổ chức này phải được công khai và do Quốc hội quyết định, giám sát. Mặt
khác, Quốc hội có thể đề ra hạn định để hai tổ chức này cũng phải có lộ
trình để tự túc kinh phí hoạt động, chấm dứt việc sử dụng ngân sách
quốc gia.
Vấn đề quân đội phải trung thành với Đảng bây giờ mới được đề nghị đưa
vào Hiến pháp, nhưng thực tế bộ máy chính trị trong quân đội hiện nay đã
mang bản chất Đảng trị quân đội từ lâu. Không một quốc gia dân chủ thực
sự nào có một thể chế Đảng trị quân đội như thế. Tuy nhiên, việc ngay
lập tức loại bỏ hệ thống này trong quân đội là rất khó. Có thể bắt buộc
điều chỉnh cương lĩnh tuyên truyền của hệ thống chính trị theo hướng,
loại bỏ các tôn chỉ ý thức hệ, quy định: “Quân đội phải tuyệt đối trung
thành với tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc, sự bình an của nhân dân”.
Hội đoàn quốc gia, cũng như chế độ công chức – biên chế thực chất là
những “hầm trú ẩn” nó giúp chính quyền củng cố quyền lực của mình nhưng
với các công chức trong đó, nó làm nhụt ý chí tự do, động lực lao động
sáng tạo. Một công chức đã yên vị trong biên chế, anh ta có thể không
cần một chút cố gắng nào cũng sẽ có một cuộc sống bình an và với anh ta
bất cứ thay đổi nào cũng sẽ là một lựa chọn không khôn ngoan. Anh ta sẽ
bám vào biên chế bằng bất cứ giá nào. Trên một bình diện rộng, cơ chế
công chức, biên chế hiện nay là thứ thuộc độc hại làm suy đồi sức sống
của quốc gia. Chưa kể, cơ chế này còn tạo ra một sự bất bình đẳng, những
lợi thế phi lý và những mâu thuẫn ngấm ngầm trong tổ chức, cộng đồng xã
hội. Vì thế, cùng với việc giải thể các hội đoàn quốc gia, cần xóa bỏ
cơ cấu biên chế hiện nay. Một biện pháp mà chính quyền Đài Loan đã áp
dụng khá thành công theo Hoàng Gia Thụ là chế độ luân chuyển công chức.
Chẳng hạn, công chức phòng công chứng quận A, có thể sẽ được luân chuyển
sang quận B sau hạn kỳ 2 năm, để tránh nguy cơ công chức hành chính
ngồi lâu một chỗ cấu kết, lũng đoạn. Một kinh nghiệm khác của Đài Loan
là luân chuyển kế toán trong các doanh nghiệp nhà nước. Do tính chất
tương đồng của công việc kế toán, tránh sự cấu kết giữa kế toán và giám
đốc doanh nghiệp, khi cải cách doanh nghiệp nhà nước, Đài Loan đã đặt ra
chế độ luân chuyển kế toán giữa các doanh nghiệp theo hạn kỳ 2 hoặc 3
năm. Đó cũng có thể là một cơ chế chúng ta có thể tham khảo để áp dụng.
5. Cải cách hệ thống tư pháp – thực thi tự do ngôn luận, báo chí, xuất bản
Nhất thiết phải có một tòa án Hiến pháp độc lập, để mọi người dân có thể
bảo về quyền hợp hiến của mình. Tổ chức lại hệ thống tư pháp, đảm bảo
tính độc lập, khả năng phán xét theo công lý của tòa án, đó là cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng tinh thần thượng tôn pháp luật.
Nhất thiết phải bỏ ngay các điều luật phản dân chủ, bóp nghẹt tự do ngôn
luận như Điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố thả ngay những
người bị án vì lí do chính trị.
Cải cách tư pháp có thể sẽ cần thời gian dài và gặp nhiều vấp váp, nhưng
việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản có thể
thực hiện ngay. Trước hết, là mở cửa cho báo chí tư nhân, thực tế đã tồn
tại dưới nhiều hình thức ở nước ta. Cổ phần hóa các đơn vị báo chí trực
thuộc nhà nước hiện hành. Chuyển các cơ quan tuyên truyền, tuyên giáo
thành cơ quan nghiên cứu thuần túy. Chấm dứt các tiêu chuẩn ý thức hệ
trong kiểm duyệt xuất bản.
6. Tổ chức cơ quan thống kê độc lập
Thiết kế Tổng cục thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch – Đầu tư hiện nay có
nguy cơ bị lũng đoạn cao, ở khía cạnh các con số có thể bị làm sai lệch
một cách có chủ đích để bảo vệ lợi ích của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa
phương liên quan. Trong một nền kinh tế hội nhập, những con số thống kê
hết sức phức tạp và quan trọng. Nó đặc biệt quan trọng với những quốc
gia như VN, khi trong trường hợp có cải tổ thì khu vực kinh tế nhà nước,
bàn tay nhà nước trong nền kinh tế vẫn sẽ giữ vị trí quan trọng. Các
con số thống kê khách quan, chính xác sẽ là cơ sở để các quyết sách đúng
đắn được đưa ra, cơ sở để các chuyên gia độc lập đưa ra các khuyến nghị
chính xác.
Vì thế nhất thiết cơ quan thống kê cần được độc lập với chính phủ, có
thể hoạt động như một cơ quan độc lập của Quốc hội, chịu sự giám sát của
Quốc hội.
Chương 4
Cải cách giáo dục – chấn hưng văn hoá
1. Thiết kế hệ thống giáo dục theo nguyên tắc “Tự trị – Thực hành”
Tôi thấy những thảo luận về triết lý giáo dục là chủ đề vô cùng theo
nghĩa có nhiều trường phái, luôn xuất hiện các trường phái mới và kết
quả có thể là đi đến những lý luận vòng quanh mà những sửa đổi quan
trọng thì lại không thể đưa ra. Vì thế ở đây tôi sẽ chú trọng đến việc
“Thiết kế Hệ thống giáo dục”. Hệ thống giáo dục của Pháp đã áp dụng ở
Việt Nam trước năm 1945 cần được coi là có giá trị tham khảo tốt. Hệ
thống giáo dục của này đã được hình thành và áp dụng trong một quá trình
dài lâu cùng với quá trình khai thác thuộc địa ở VN, nên sẽ có những cơ
sở cho niềm tin vào sự thích ứng tương đối với thực trạng VN hiện nay.
Mặt khác, nếu bỏ qua những yếu tố khai thác thuộc địa thì hệ thống giáo
dục này vẫn giữ những tinh thần tự do cơ bản của nước Pháp trong giáo
dục và đặc biệt, vì mục tiêu khai thác của nó, trong nhiều thiết kế của
hệ thống này có giá trị thực tiễn, tính thực thi cao với chi phí thấp
cho chủ thể nhà nước, đặc biệt trong khu vực đào tạo nghề chuyên nghiệp,
cao đẳng, đại học.
Cơ sở của hệ thống này là nguyên tắc tự trị. Khi đề cập đến nguyên tắc
tự trị, tức là đồng thời chúng ta phải gỡ bỏ những rào cản hiện nay của
giáo dục nước ta.
Rào cản đầu tiên là rào cản ý thức hệ.
Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam hay là của ông Marx-Lenin?
Là của người Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam là của người Việt Nam hay của ông Marx-Lenin?
Là của người Việt Nam.
Vậy tại sao chương trình giáo dục từ phổ thông đến đại học, cao học… học
thuyết Marx-Lenin phải chiếm vị trí độc tôn như hệ thống triết học, đạo
đức, tư tưởng duy nhất?
Cần loại bỏ tình trạng này trong thiết kế chương trình giáo dục mới. Cần
đặt học thuyết Marx-Lenin đúng vị trí của nó, chỉ là một phần nhỏ trong
thế giới tư tưởng nhân loại, trong hệ thống tư tưởng, học thuyết cần
cho sự giáo dục đào tạo người Việt Nam.
Rào cản thứ hai là rào cản biên chế. Việc loại bỏ biên chế đã nói ở trên
đương nhiên cũng cần áp dụng cho ngành giáo dục. Tôi thấy cơ chế biên
chế hiện đang tạo ra một sự bất bình đẳng và tiêu cực lớn trong ngàng
giáo dục. Nó là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng, suy đồi
đạo đức giáo viên và qua đó là chất lượng giáo dục. Rất khó đòi hỏi một
giáo viên phải mất hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng để chạy vào
biên chế một sự lành mạnh, nguyên vẹn trong tâm hồn mình.
Rào cản thứ ba là rào cản ngân sách và sự phụ thuộc của địa phương, các
trường đại học, cao đẳng vào ngân sách nhà nước. Đây thực chất là mô
hình quản lý nhà nước tập trung, xuyên suốt từ trung ương đến địa
phương. Trong một trình độ phát triển thấp, số lượng trường lớp, học
sinh, sinh viên có giới hạn mô hình này có thể phát huy hiệu quả. Nhưng
trong một trình độ giáo dục phát triển cao, nhu cầu đào tạo đa dạng, số
lượng trường lớp, học sinh sinh viên lớn mô hình này sẽ trở thành một
rào cản, ngáng trở sự phát triển.
Với hệ thống giáo dục phổ thông
Loại bỏ được sự độc quyền ý thức hệ là cơ sở để gỡ bỏ sự độc quyền viết,
xuất bản phổ biến sách giáo khoa, sách tham khảo ở các cấp học.
Trong nền giáo dục Pháp thuộc cũ, chương trình học do nhà nước quy định
có tính cách bắt buộc trong việc giảng dạy nhưng sách giáo khoa lại hoàn
toàn do các nhà xuất bản mời người biên soạn. Chúng ta có thể tìm thấy
nhiều giáo trình do các học giả VN, Pháp soạn thảo theo nguyên tắc này
như: Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam Sử lược của Trần Trọng
Kim… Thiết kế này vừa tạo ra tính tự chủ cho các soạn giả, nhà giáo
trong việc lựa chọn và thiết kế bài giảng, khuyến khích các học giả, nhà
giáo nghiên cứu phát triển học thuật, sáng tạo tự do trong bài giảng.
Mở cửa việc soạn thảo sách giáo khoa cho các cá nhân, tổ chức đồng thời
tạo ra một khả năng lựa chọn đa dạng, cơ sở để có những sản phẩm sách
tốt.
Thiết kế này đi liền với tính tự chủ của trường học, địa phương. Chẳng
hạn cùng một chương trình toán cấp 3, sẽ có 5 bộ sách tham khảo của 5
nhóm tác giả khác nhau. Khi đó, việc chọn sách nào để dạy cho học sinh
trong một trường A sẽ do Hội phụ huynh học sinh trường đó biểu quyết,
quyết định. Nếu Hội phụ huynh không tự biểu quyết có thể trao quyền cho
Hội đồng nhà trường. Việc lựa chọn sách có thể phân chia theo các nhóm
học khác nhau nếu theo chương trình phân ban. Điểm cốt yếu trong thiết
kế này là sự tự chủ của nhà trường, phụ huynh học sinh (đại diện cho học
sinh), trong việc lựa chọn sản phẩm giáo dục cho con em mình.
Địa phương tự chủ về giáo dục, nghĩa là các địa phương hoàn toàn tự chủ
trong việc chi ngân sách, chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng, thu hút
đào tạo nhân lực… dưới sự giám sát của hội đồng nhân dân địa phương. Địa
phương tự chủ về giáo dục đồng nghĩa với việc để địa phương chủ động
trong việc chi trả lương cho giáo viên cấp học phổ thông. Mức lương có
thể cần được quy định để đảm bảo một cuộc sống ổn định cho giáo viên
trong mọi hoàn cảnh. Với những địa phương có khó khăn về ngân sách,
trung ương có thể có những cơ chế hỗ trợ đặc thù.
Với hệ thống đào tạo nghề chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
Thứ nhất, chúng ta có thể cân nhắc tiếp tục phát triển các trường vừa
học vừa làm theo mô hình hiện nay. Theo mô hình này, những học sinh chỉ
cần tốt nghiệp phổ thông cơ sở (lớp 9) có thể vào học các trường này,
vừa tiếp tục học văn hóa tương đương cấp phổ thông trung học, vừa học
nghề.
Thứ hai, hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng. Từ Cao đẳng ở đây tôi
dùng theo nghĩa Cao đẳng École Supérieure – khác với trường gọi là cao
đẳng hiện nay ở VN.
Tôi thấy xu thế bỏ các trường cao đẳng (cao đẳng của Việt Nam hiện nay),
trung cấp nghề hiện nay của Việt Nam là phù hợp. Các trường này có thể
gộp trung vào các trường đào tạo nghề vừa học vừa làm đã nói ở trên.
Trong hệ thống đào tạo cao nhất, chỉ nên gồm các trường Đại học (Université) và Cao đẳng (École Supérieure).
Chúng ta hãy tham khảo học chế đã được người Pháp áp dụng tại Việt Nam
cho bậc học Cao đẳng và Đại học. Trường Cao đẳng (École Supérieure) là
loại trường chuyên nghiệp, nhập học phải hội đủ điều kiện văn bằng đòi
hỏi (tốt nghiệp phổ thông trung học) và qua một kỳ thi tuyển (concours).
Trúng tuyển được cấp học bổng ăn học suốt học trình. Tốt nghiệp phải
làm việc cho chính quyền một thời gian ấn định, nếu không, theo nguyên
tắc, phải bồi thường tiền học bổng. Các trường cao đẳng, đào tạo các
chuyên viên có nghề nghiệp nhất định như bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo
sư… Đây là những nghề nghiệp đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, cần những
tiêu chuẩn khắt khe về nghề nghiệp, người ra trường thường chỉ có thể
làm được đúng nghề mình được đào tạo (khó có thể làm trái ngành). Các
trường này có thể coi là thuộc hệ thống trường công do nhà nước bỏ chi
phí đào tạo (một phần) và phục vụ các mục tiêu chiến lược của nhà nước.
Chúng ta, hiện nay có thể áp dụng mô hình này trong việc quản lý chất
lượng giáo dục, về chi phí đào tạo, có thể nhà nước chỉ chi trả (dưới
dạng cấp học bổng) cho những ngành đào tạo này gắn với nguồn nhân lực
nhà nước cần, mà thị trường đào tạo không hoặc khó có khả năng cung cấp
như: Kỹ sư nông nghiệp, bác sỹ cộng đồng, công chức hành chính, giáo
viên phổ thông… Ngoài ra các ngành nghề khác mà thị trường có nhu cầu
cao, có khả năng kiếm việc dễ và thu nhập cao, sinh viên phải tự túc học
phí, nhà nước chỉ hỗ trợ thông qua các chương trình cho vay vốn. Đương
nhiên khi đó, ra trường sinh viên tự túc tìm việc làm.
Hệ thống trường Đại Học (Université) có thể xếp vào hệ thống trường tư
muốn nhập học các trường đại học chỉ cần đủ điều kiện về văn bằng đòi
hỏi mà không phải qua một kỳ thi tuyển. Việc thu nhận sinh viên không
hạn định tuổi tác và số lượng. Sinh viên phải tự túc về học phí (ngoại
trừ những sinh viên xuất sắc được học bổng). Khi tốt nghiệp chính quyền
không có nhiệm vụ cung cấp việc làm, cá nhân phải tự tìm kiếm. (Tham
khảo: Trần Bích San – Thi cử giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp).
Đất nước ta không thể đứng một mình một cõi. Dân số nước ta cũng không
thể đông như người Trung Quốc để có thể lấy số đông mà áp chế người. Ai
cũng biết chúng ta cần hội nhập, cần phát triển. Hội nhập, phát triển
thì không thể đóng khung tư tưởng con em mình, đóng khung nền giáo dục
nước nhà như những “Con ngựa già của chú Trịnh” chỉ thấy một bầu trời
nhỏ hẹp qua khe mắt.
2. Chấn hưng văn hóa
Cải cách giáo dục, gỡ bỏ áp chế về tư tưởng cần đi đôi với việc chấn
hưng văn hóa. Học giả Nguyễn Khắc Viện trong cuốn Đạo và Đời có kể một
câu chuyện rất đáng suy nghĩ như sau: Ông kể rằng thời trẻ, ông một anh
học trò Tây học, dù biết rằng mình hơn hẳn những anh nhà nho quần chùng
áo dài khi đó về kiến thức khoa học, thậm chí địa vị trong xã hội, nhưng
vẫn có một cái gì đó mặc cảm. Vẫn thấy ở anh nhà nho kia cái gì đó nể
vì, dù biết rằng anh ta hủ lậu. Sau đó, Nguyễn Khắc Viện đã giải thích
sự nể vì đó là hồn cốt, là cái cao quý của nhà nho, là cái văn hóa của
dân tộc. Với chương trình Tây học Nguyễn Khắc Viện học được thật nhiều
kiến thức, nhưng lại thật ít đạo, đạo làm người, đạo trời đất, đạo ở
đời, những thứ mà bất kỳ anh khóa nào cũng vượt trội hơn hẳn mình. Điều
đó không khó giải thích vì những bài học chữ nghĩa đầu tiên của các nhà
nho đã đều là các bài học đạo lý thâm sâu về trời đất con người “nhân
tri sơ, tính bản thiện”. Không chỉ học, các nhà nho, các anh khóa còn áp
dụng và có ý thức áp dụng ngay những đạo lý mình đã học thành châm ngôn
hành động của mình.
Ngày nay, ta có thể gặp không ít người nhiều năm sống ở trời Tây, theo
học có bằng cao học, tiến sỹ ở châu Âu mà vẫn mang một đầu óc đầy định
kiến và ấu trĩ. Tinh thần, văn hóa phương Tây không dễ gì tiếp nhận được
ngày một ngày hai. Phương pháp khoa học, phương pháp nghiên cứu chỉ cần
cố gắng trong vài tháng vài năm là có thể lĩnh hội được, nhưng cái tinh
thần, hồn cốt căn bản thì đòi hỏi rất nhiều.
Để có được tinh thần khoa học, tinh thần dân chủ tự do bây giờ người
phương Tây đã có một lịch sử phát triển dài lâu, hồn cốt của tinh thần
này họ truyền qua thế hệ con cháu từ thói quen, tập tục đến những tác
phẩm nghệ thuật, thơ ca, văn chương, hội họa, âm nhạc… Hiểu và lĩnh hội
những thứ đó cần một sự nỗ lực thực sự và một thời gian đủ lớn để trải
nghiệm.
Nền nho học cũ của chúng ta đã không giúp quốc gia chống chọi với đại
bác thực dân Pháp, nhưng ít ra nó, với lực lượng đông đảo các nho sinh,
ông tú, ông cử trải rộng, đi sâu khắp xã hội, cũng giúp phổ biến, gìn
giữ, những phẩm giá cao quý của con người. Nền nho học, có thể cần được
nhìn nhận theo cách khác, không phải chỉ đào tạo ra những người đi làm
quan, mà còn đạo tạo ra những người quân tử trong cộng đồng. Nhà nho
trong một cộng đồng, dù ở chức vị nào cũng là biểu trưng cho văn hóa,
cho những giá trị cao đẹp và bản thân họ cũng ý thức, gìn giữ những giá
trị này, khác hẳn với các quan chức công quyền hiện nay. Đó là điều
chúng ta cần suy nghĩ nghiêm túc.
Chúng ta cùng suy nghĩ lại thật nghiêm túc về nền giáo dục, về sự nghiệp
chấn hưng văn hóa ngày nay, khi có lẽ chúng ta ngày nay đã chỉ “hớt
váng” những thành quả khoa học phương Tây, chưa đi sâu được vào căn cốt,
lại đồng thời mai một những giá trị, những hồn cốt cao quý của dân tộc.
Cũng học giả Nguyễn Khắc Viện đã đánh giá, sau cách mạng tháng 8, đặc
biệt là sau phong trào đưa trí thức về nông thôn, văn học VN đã tiếp
nhận được một làn gió mới với các sáng tác từ đồng ruộng đi ra. Người
nông dân rũ bùn, gạt mồ hôi bước vào văn học, các sáng tác về người nông
dân, của chính những người nông dân nở rộ hơn bao giờ hết, đẩy lùi trào
lưu văn học lãng mạn tiểu tư sản những năm 1930. Bỏ qua một vài khía
cạnh tích cực của trào lưu này thì tôi cho rằng hệ quả tiêu cực của nó,
cùng với Nhân văn Giai phẩm, cùng với nạn Sùng bái cá nhân, nền văn học,
văn hóa nước nhà đã có một cuộc đảo lộn ngoạn mục và kinh khủng, văn
hóa tiểu nông lên ngôi. Những tri thức, những tinh hoa dân tộc bị đẩy
lùi, bị giam hãm vào một góc tối không thể nào cựa quậy được. Đó là bi
kịch cho bất cứ một dân tộc nào gặp phải.
Trong Việt Nam văn hóa sử cương học giả Đào Duy Anh đã nhận định trong
mỗi người Việt Nam có một ông quan và một nhà thơ. Một ông quan có vẻ gì
đó kiêu bạc và một nhà thơ có tâm hồn mơ mộng. Tôi hiểu ý của Đào Duy
Anh là phê phán, chính ông quan và nhà thơ này, vì kiêu bạc, vì mơ mộng
đã thực không phải là những con người hành động, để cải tổ, để canh tân
để đổi mới đất nước, mà gần nhất (thời Đào Duy Anh) là giúp dân tộc VN
tránh được gần 100 năm nô lệ thực dân.
Nhưng cũng với “ông quan và nhà thơ” ngày nay, nếu một mặt “ông quan
ngày nay” vẫn giữ được cốt cách của người quân tử, một mặt vẫn không
ngừng cởi mở học hỏi không ngừng, không chịu thua kém tụt hậu với bạn bè
lân bang thì lại là tốt. Còn “nhà thơ”, chẳng phải cả người châu Âu
hiện nay đang tìm lại bản năng xúc cảm, đề cao trí tưởng tượng hay sao?
Sao không biến tinh thần nhà thơ này thành tinh thần tiến thủ, tinh thần
dám phiêu lưu mạo hiểm, dám đối mặt với mọi nguy nan, dám thám hiểm,
khám phá mọi chân trời mới dù đó là chân trời địa lý hay tri thức – khoa
học?
Tôi đã thấy những xu hướng mới đáng khích lệ, các bậc cha mẹ ngày nay đã
quan tâm hơn đến sự phát triển trí tuệ, văn hóa của con mình, không chỉ
dừng ở việc học trên lớp. Nhiều bàn luận về văn hóa đọc, cách đọc,
khuyến khích con đọc sách đã được đưa lên báo chí, diễn đàn thảo luận.
Theo tôi cách tốt nhất để tạo cho con mình có thói quen đọc sách là bản
thân mình hãy có thói quen đọc sách. Khi con cái thấy mình đọc thì tự
chúng sẽ tìm đến sách mà đọc. Khi con cái thấy nhà có tủ sách đủ loại
thì tự chúng nó có hứng mà đọc, tò mò mà đọc. Đọc sách cũng đừng cầu
mong tìm ngay tri thức như tìm hòn ngọc, viên kim cương. Tôi chẳng thấy
có quyển sách nào có thể là kim chỉ nam cho cả đời người. Sách chỉ nên
coi là bạn, bạn đường, bạn tâm sự, những ý tưởng, những gợi cảm từ cuốn
sách chỉ nên coi là chất xúc tác cho ta suy tư hơn là tìm kiếm dễ dãi
một phương thức hành động, một triết lý để ta bám vào đó mà theo. Tự ta
phải suy tư là căn bản.
Tôi cũng thấy nhiều người quá chú trọng vào việc chọn sách, cách đọc
sách. Theo tôi thì mỗi người có một cách đọc khác nhau, mỗi người có một
gu đọc khác nhau, hình thành trong chính quá trình tìm, đọc sách của
họ. Hãy bắt đầu bằng những cuốn sách, những vấn đề mình quan tâm thích
thú, dần dần bạn sẽ có cách đọc, có gu đọc sách của riêng mình. Những
bài điểm sách, những bài giới thiệu sách của các học giả có uy tín có
thể giúp bạn nhanh chóng hơn trong việc tìm kiếm các chủ đề, cuốn sách
mình quan tâm, nhưng điều đó không thể thay thế cho việc đọc. Có một học
giả đánh giá cao ông Tập Cập Bình – TBT Trung Quốc vì “ông Bình là lãnh
đạo biết đọc sách. Người đọc sách có khả năng tư duy các vấn đề phức
tạp”.
Google, Vikipedia ngày nay có thể cung cấp cho ta ngay lập tức hầu như
mọi kiến thức phổ thông; báo chí, đặc biệt là báo điện tử có thể cung
cấp cho chúng ta thông tin 24/24; nhưng việc kiên nhẫn đọc hết một quyển
sách đọc, lĩnh hội được ý nghĩa toàn thể của nó chắc chắn sẽ là một
trải nghiệm tư duy khác, một sự rèn luyện trí tuệ khác.
Nói về chuyện đọc sách mở mang kiến thức là nói đến thị trường sách, môi
trường học thuật. GS Trịnh Văn Thảo trong cuốn Ba thế hệ tri thức người
Việt đã có ý nuối tiếc và cả kỳ vọng về một trào lưu học thuật, tư
tưởng của một thế hệ tri thức người Việt vừa nhen nhóm và đã vội lụi tắt
ở miền Nam trước năm 1975.
Vậy sao chúng ta ngày không cùng chung tay để khơi lại những mạch nguồn
này. Đừng chờ đợi. Chúng ta không muốn làm nô lệ thì chúng ta phải tự
thân vận động. Hãy làm những việc chúng ta coi là có ích trong phạm vi
năng lực của mình và sẵn sàng hợp tác với những người đồng chí hướng.
Khi chúng ta chờ đợi và trông cậy vào chính quyền vào nhà nước là chúng
ta đã chui một nửa người vào vòng áp chế, nô lệ của chính quyền. Người
Mỹ không làm thế.
Khi nghiên cứu về nền dân trị Mỹ A.Tocqueville đã thấy tinh thần tự chủ
của từng người dân Mỹ chứ không phải thiết kế khôn ngoan đã giúp người
Mỹ có một nền dân trị tốt đẹp. Trước khi kêu gọi sự trợ giúp của chính
quyền, dù đó là một việc làm vì lợi ích chung, người Mỹ sẽ tự làm, tự
vạch ra kế hoạch hành động và kêu gọi người khác cùng chung tay. Tinh
thần tự chủ này, đến nay ta vẫn còn thấy, qua các cơn khủng hoảng như
sau vụ khủng bố 11/9, người ta thấy những người dân Mỹ tự tập hợp nhau
thành nhóm để bảo vệ các cửa hàng, cửa hiệu của ngưởi Ả Rập trước khi
chờ đợi lực lượng cảnh sát của chính quyền tìm đến.
Ngày nay, Việt Nam chúng ta cũng có thể tìm thấy những tấm gương tự chủ
như thế, nhóm Cánh Buồm trong giáo dục, chương trình Tủ Sách Nông Thôn
của anh Nguyễn Quang Thạch, nhóm Cơm Có Thịt của nhà báo Trần Đăng Tuấn,
nhóm Áo ấm biên cương… cùng rất nhiều các nhóm từ thiện khác. Đó là
những ví dụ tiêu biểu cho tinh thần tự chủ. Chúng ta cần thật nhiều,
những con người, những nhóm có tinh thần tự chủ như thế ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, đặc biệt trong lĩnh vực học thuật. Việc xuất bản các tập
san, các tạp chí được tổ chức tốt, có tính học thuật cao sẽ không chỉ là
môi trường để những nhà nghiên cứu, học giả thi thô tài năng, khuyến
khích nghiên cứu, sáng tạo.. mà còn giúp xã hội nhìn nhận ra những giá
trị đích thực, những học giả đích thực. Đừng chờ đợi chính quyền, chúng
ta, mỗi người hãy thử nghĩ xem liệu có thể làm được những gì thì hãy bắt
tay ngay vào làm.
Lời kết
Đề ra một chương trình cải tổ cho cả một đất nước, trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng là một sự mạo hiểm to lớn. Nhưng vì e ngại mạo hiểm mà tất
cả bó tay, chùn gối thì đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ đi đến
đâu?
Trên tinh thần tự chủ, bắt tay ngay vào việc đã thúc đẩy chính tôi quyết
định viết ra chương trình này. Tôi cũng xin hết sức lưu ý, những ý kiến
đưa ra ở đây cần được nhìn nhận thật đúng mức, đó là ý kiến của một cá
nhân đưa ra để cùng thảo luận, chia sẻ, vì thế, nó mang mọi hạn chế của
cá nhân đề xuất ra nó và mọi tính khả nghi chân lý. Tôi cho rằng, bất cứ
ý kiến nào đưa ra sai hay đúng, nếu được thảo luận dân chủ, tự do cuối
cùng chân lý sẽ lộ diện, đó cũng chính là ưu thế của dân chủ, tự do mà
độc tài, áp chế không thể có.
Nhà thơ Gia Hiền đã ngậm ngùi viết: “Thế hệ tôi/một thế hệ cúi đầu”.
Nhưng tại sao? Tại sao? Tại sao?
Tại sao chúng ta không phải là một thế hệ ngẩng mặt? Một thế hệ dấn thân? Một thế hệ thay đổi?
Chỉ cần ngay hôm nay mỗi người, hãy thử thay đổi thái độ của mình, thử
một lần vượt lên lợi ích cá nhân, lợi ích phe nhóm. Hãy thử một lần vượt
lên oán thù, vượt lên định kiến ý thức hệ. Hãy thử một lần đặt dân tộc
lên trên hết, chúng ta, dân tộc chúng ta sẽ có một tương lai khác.
Nguyễn Đắc Kiên
(Blog Nguyễn Đắc Kiên)
Vỡ nợ công sẽ kèm theo mất chủ quyền
Chính phủ Việt Nam công bố mức nợ công ở trong ngưỡng an toàn và dự kiến
đề nghị Quốc hội nâng mức trần nợ để phát hành thêm trái phiếu. Tuy vậy
chính báo chí Việt Nam đưa tin nợ công bị che dấu và ở trong mức rất
nguy hiểm.
Vượt xa mức an toàn
Nợ công thực tế chứ không phải con số đẹp như báo cáo của chính phủ đang
là vấn đề được dư luận đặc biệt chú ý. Theo báo cáo của Bộ Tài chính
gởi Quốc hội Việt Nam, nợ công năm 2011 là 54,9% tổng sản phẩm quốc nội
(GDP). Tuy vậy Nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế Quốc hội và Chương trình
Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) vừa công bố cho thấy nợ công của Việt
Nam lên đến 95% GDP, vượt xa mức an toàn là 60% GDP.
TS Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế
(VEPR) Đại học Kinh tế-Đại học Quốc gia Hà Nội nhận xét về những số
liệu khác biệt nhau gấp hai lần:
“Có hai cách tính, một là tính theo nợ thực của ngân sách trung ương thì
là hơn 50%. Còn tính theo kiểu của quốc tế bao gồm cả những khoản chính
phủ bảo lãnh hay là nợ vay của doanh nghiệp nhà nước cũng được tính.
Bởi vì xét cho cùng cũng là thuộc về trách nhiệm của chính phủ trong
tương lai, với cách này nợ công khoảng 100% GDP hay 95% như gần đây công
bố, chính xác có thể hơn 100% một chút.”
Trước các thông tin mức trần nợ công 60% sẽ được Quốc hội xem xét để
nâng lên cao hơn hầu giúp chính phủ vay thêm nợ, phát hành thêm trái
phiếu, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành từ Hà Nội nhận định:
“Chính phủ dựa trên con số mà chính phủ đưa ra xin Quốc hội nâng trần nợ
công lên. Nhưng cái trần đó hiện ở đâu thì chính phủ cũng chưa thực sự
rõ ràng và chính xác thì Quốc hội biết dựa vào cơ sở nào mà phê duyệt.
Cho nên Quốc hội sẽ phải yêu cầu Chính phủ làm rõ con số mình đưa ra và
phải chứng minh con số đó nó gần với sự thật chứ hiện nay rất ít người
tin tưởng điều này.”
Cùng về vấn đề này, TS Lê Đăng Doanh được VnExpress trích lời cảnh báo
tình trạng dao hai lưỡi về vấn đề nâng trần nợ công. Theo lời ông, vay
thêm nợ mà tạo ra công ăn việc làm thì là điều tốt. Ngược lại, vay nợ để
các doanh nghiệp đầu tư không hiệu quả, đẩy chi phí lên cao, tăng tham
nhũng thì sẽ là gánh nặng đè lên vai người dân.
Trong cuộc phỏng vấn nhanh của chúng tôi, TS Nguyễn Đức Thành nhận định:
“Nâng mức trần nợ công thì chắc sớm muộn gì cũng phải nâng thôi bởi vì
hiện nay kinh tế hết sức khó khăn mà thâm hụt ngân sách vẫn chưa có khả
năng để cân đối lại được. Tôi nghĩ chắc chắn trong tương lai phải
nâng…Còn về chuyện tốt hay không tốt thì rõ ràng là nước mình đang phát
triển, thu nhập còn thấp trên đầu người mà tỷ lệ nợ đã cao như vậy rồi.
Thật hết sức bất lợi cho tương lai phát triển của Việt Nam.”
Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội RFA photo |
Cảnh báo hậu quả nguy hiểm
Tin ghi nhận đại biểu Quốc hội và chuyên gia cho rằng, nên thay đổi cách
tính nợ công theo thông lệ Quốc tế để có con số xác thực hơn. Chuyên
gia Bùi Kiến Thành nói rằng, một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
thì phá sản, một đất nước mất khả năng thanh toán cũng không khác gì và
có thể mất cả chủ quyền. Thí dụ tình trạng Hy Lạp mất khả năng thanh
toán, phải chấp nhận những điều kiện của một thể chế bên ngoài như Hội
đồng Châu âu. Ông Bùi Kiến Thành cảnh báo những hậu quả nguy hiểm của
tình trạng che dấu và thiếu công khai minh bạch về mức nợ của quốc gia.
“Rất nguy hiểm nếu Việt Nam đứng trước tình trạng mất khả năng thanh
toán, Việt Nam sẽ ra sao đây… nếu không giải quyết được nợ công thì sẽ
rất khó khăn trong kinh tế từ chỗ tạo công ăn việc làm cho đến phát
triển doanh nghiệp….Rất nguy hiểm, cho nên vấn đề là phải nghiêm túc
trong những con số đưa ra để thực sự đối mặt với những thực tế cần giải
quyết.”
Nhiều nước có tỷ lệ nợ công rất cao như Nhật Bản hay Singapore nhưng vẫn
chưa phải là một mối đe dọa lớn lao, trường hợp của Việt Nam có gì khác
biệt. TS Nguyễn Đức Thành nhận định:
“Có những nước có nợ công cao thí dụ Nhật hơn 200% GDP nhưng đồng thời
đó cũng là nước xuất khẩu vốn rất lớn và thâm dụng vốn rất lớn cho nên
sự cân đối khác nhau. Việt Nam không phải là nước xuất khẩu vốn cũng
không phải là nước dồi dào vốn để chính phủ cho vay ở các nơi khác. Tình
trạng Việt Nam mất cân đối rất lớn và cần cân nhắc chính sách để trả nợ
công trong tương lai.”
Cùng về vấn đề vừa nêu chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành cho rằng đẩy
mức nợ công lên quá cao không phải là lựa chọn tốt, nó vẫn chứa đựng
những tiềm ẩn không tốt cho tương lai. Ông nói:
“Nhật nợ công lên hơn 200% tổng sản lượng quốc nội nhưng tổ chức của
người ta là giải quyết làm sao cho lưu lượng tiền tệ lưu luợng tài chính
không bị nghẹt, nếu giải quyết được ngay trước mắt thì có thể còn nâng
lên được nhưng cũng rất là nguy hiểm. Thực ra nợ công bên Nhật theo kiểu
đấy sẽ để lại thế hệ mai sau phải giải quyết còn trước mắt thì chỉ giải
quyết vốn lưu động để mà nền kinh tế phát triển thôi.”
Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội mới phổ biến thì cứ 100 đồng
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) làm ra có tới 95 đồng là đi vay. Trong khi
đó Chính phủ vẫn cho rằng nợ công chưa tới mức 55% và muốn nâng trần nợ
công lên để có thể vay thêm nợ. Theo các đại biểu Quốc hội và chuyên gia
thì đã đến lúc ‘không thể mãi giấu giếm căn bệnh nợ công’ nữa, thà đối
diện sự thực để có giải pháp kịp thời hơn là che dấu và cuối cùng gánh
chịu hậu quả tồi tệ.
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-05-29
Bùi Hoàng Tám - Nhân dân cần một lời giải trình thuyết phục
Những ngày qua, việc thay đổi tên nước trở thành vấn đề sôi động trên
nghị trường. Nhiều ý kiến muốn lấy lại tên nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa song cũng không ít ý kiến giữ nguyên tên nước hiện nay. Tuy nhiên,
cả hai luồng ý kiến đều có một điểm chung, đó là cần có lời giải trình
thỏa đáng với dân.
Khi đề xuất hai phương án trình Quốc hội cách đây chưa lâu, đối với
phương án lấy lại tên Việt Nam dân chủ cộng hòa, UB Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992 lập luận tên này gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng
hòa đầu tiên, được long trọng công bố qua Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ
Chủ tịch, được thể hiện qua 2 bản Hiến pháp (1946 và 1980), phản ánh
đúng trình độ phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, có khả
năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung
trong xã hội, đồng thời thuận lợi hơn trong quan hệ hợp tác với các nước
khác trên thế giới…
Trả lời về lý do vẫn giữ nguyên tên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vừa qua, ông Phan Trung Lý - Trưởng Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp cho
biết việc thay đổi tên nước trong thời điểm này sẽ dẫn đến những hệ quả
không có lợi, thậm chí bị xuyên tạc là đang xa rời mục tiêu, con đường
lên chủ nghĩa xã hội và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn
kém, phức tạp… Phương án này cũng tránh việc phải thay đổi về quốc huy,
con dấu, quốc hiệu trên các văn bản, giấy tờ.
Lời giải trình trên đã không được nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri chấp nhận.
Trước hết, nói về việc “lợi dụng”, “xuyên tạc”, “xa rời mục tiêu”… Xin
thưa, đối với một số người cố tình xuyên tạc, bóp méo thì dù thay hay
không thay hoặc thay bằng bất cứ tên nào khác, họ cũng sẽ bóp méo và
xuyên tạc. Tuy nhiên, đây là số ít, không nhất thiết phải quan tâm.
Cũng xin không đề cập ý kiến “ngộ nghĩnh” đến khó hiểu như việc đổi tên
nước “… chỉ một số tiểu thương quan tâm" của đại biểu Phạm Trường Dân,
Phó giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam.
Xin chỉ đề cập đến một số lý do còn lại.
Về lý do phức tạp trong các thủ tục hành chính như thay đổi quốc huy,
con dấu, quốc hiệu… có lẽ không khó khăn cho lắm đối với thời đại khoa
học và công nghệ hiện nay. Vả lại, việc thay con dấu chẳng hạn, có thể
chúng ta tiến hành từng bước trên tinh thần ưu tiên những con dấu mang
tính đối ngoại còn trên các văn bản khác, chúng ta có thể hạn định một
thời gian thích hợp để thay đổi dần.
Lý do gây tốn kém cũng chưa thuyết phục bởi nếu là việc cần làm, dù tốn
kém vẫn phải làm. Vào thời điểm năm 1980, khi đó kinh tế đất nước rất
khó khăn, chúng ta cũng đã từng thực hiện việc này. Hiện nay, tuy kinh
tế có một số khó khăn nhưng so với thời điểm đó, chúng ta có tiềm lực
hơn ngàn vạn lần.
Có lẽ điều mà gây lo ngại nhất là việc thay đổi trên tiền đồng Việt Nam.
Trước hết, phải xác định đây không phải là “đổi tiền” mà thực chất chỉ
là thay tên quốc huy trên tiền đồng Việt Nam, có cùng mệnh giá không
đổi. Vì vậy, việc thay đổi này tương tự như thay tiền cũ bằng tiền mới
nên có thể thay dần trong một khoảng thời gian nào đó theo lịch trình.
Tóm lại, với những yếu tố như “gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng
hòa đầu tiên, được long trọng công bố qua Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ
Chủ tịch, có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự
đồng thuận chung trong xã hội, đồng thời thuận lợi hơn trong quan hệ hợp
tác với các nước khác trên thế giới…” của Quốc hiệu Việt Nam dân chủ
cộng hòa thì những lời giải thích của UB Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa
thuyết phục được nhiều đại biểu và cử tri là có cơ sở.
Việc thay đổi tên nước hay không là do ý nguyện của nhân dân mà Quốc hội
là người đại diện. Tuy nhiên, dù thay đổi hay không thay đổi, đại biểu
Quốc hội và cử tri đều cần một lời giải trình thuyết phục bởi “phải giải
thích thỏa đáng, thuyết phục, người dân mới chấp nhận” như ý kiến của
đại biểu Đỗ Thị Thủy (Vĩnh Phúc).
Bùi Hoàng Tám
(Dân trí)
Nguyễn Chí Đực - Đơn xin vào đảng cộng sản Việt Nam
"Nói thật với ông nhé, tôi xin vào đảng cộng sản chẳng phải vì lý
tưởng CNXH gì cả, tôi đã biết CNXH đào đâu cho có. Tôi xin vào đảng là
vì và chỉ vì miếng cơm manh áo. Đời tôi đã khổ nhiều, trải qua hai kiếp
sống nông dân và công nhân cho đến giờ đây tôi vẫn chưa sống được. Trong
khi đó giai cấp đảng của ông hiện đang sống được và sống sung sướng,
vậy nên tôi mới một mực đòi theo đảng của ông"...
Tôi tên: Nguyễn Chí Đực, họ hàng xa xôi với Nguyễn Chí Đức, cùng ngày
tháng năm sinh với hắn nhưng không cùng chí hướng với hắn. Hắn đã giã từ
đảng cộng sản, còn tôi giờ đây viết đơn xin vào đảng
Tôi quê quán Miền Trung, trước đây tôi là nông dân cày ruộng. Từ ngày có
đảng lãnh đạo nông dân tôi “sướng” vô cùng. Công việc thì vừa nhàn rỗi
vừa không nặng nhọc. Cái thời nông dân “bán mặt cho đất bán lưng cho
trời” đã không còn nữa. Nông dân tôi làm gì cũng có máy để thuê mà làm
nên không còn vất vả nữa
Thưa ông, làm nông dân sướng vậy nhưng cả ngàn nông dân trẻ quê tôi đã
lần lượt rời khỏi làng mạc quê hương để đến làm thuê cho bọn tư bản
trong các khu công nghiệp. Ông có biết tại sao không? Đó là vì lúa gặt
lên sau khi bán lấy tiền trả cho chí phí đầu vào bao gồm phân, giống,
thuốc trừ sâu, máy cày, máy gặt cuối cùng nông dân chúng tôi còn lại
là:… Là… gì…? Tôi đố ông và cả những ai không phải là nông dân trả lời
đúng được. Nói một cách bình thường thì làm lúa còn lại lời lãi là lúa,
còn nói một cách “biện chứng” như ông thì còn lại ấy là “giá trị thặng
dư”, giá trị thặng dư ấy là tiền. Nhưng những câu trả lời ấy đều sai cả.
Nông dân tôi làm ruộng đã không có lãi bằng lúa, cũng không phải bằng
tiền, mà là bằng rơm! Rơm dùng để chăn nuôi bò đấy ông ạ!
Tôi xin vào đảng là vì và chỉ vì miếng cơm manh áo.
Thưa ông, vài lời sơ qua như vậy ông đủ hiểu về lý lịch của tôi, tôi đã
là nông dân chính hiệu. Nhưng lý lịch của tôi còn dài nữa: rời đồng
ruộng tôi đến làm thuê cho bọn tư bản ở khu công nghiệp. Thời gian đầu
lương đủ sống nhưng về sau đồng lương cứ teo dần, teo dần. Rồi thì tôi
sống được là nhờ tăng ca. Tăng ca miết quen việc rồi tôi thấy cũng bình
thường chứ không khó khăn gì cho lắm. Nhưng rồi cái bình thường ấy đã
không còn bình thường. Tôi muốn tăng ca nhưng đâu còn được nữa, nhà máy
tôi làm đóng cửa rồi, bọn chủ mà tôi đến làm thuê bỏ chạy rồi, đúng là
“bọn giãy chết” thật phải không ông!
Thưa ông, Tôi đã từng là giai cấp nông dân và công nhân. Tôi nghe đảng
nói đảng là tiên phong của giai cấp công nông tôi rất ngỡ ngàng. Những
người công nông hiện nay rất là xa lạ với đảng, có khi tôi nói thế là
sai, tôi nói lại thế này nhé: đảng hiện nay rất xa lạ với những người
công nông. Còn đội ngũ tiên phong của giai cấp công nông ấy à, họ không
phải là đảng của ông mà là họ đang ở trong nhà tù của đảng ông. Họ Chính
là em Hạnh, là anh Vươn ấy. Tôi biết đảng của ông ngộ nhận điều đó,
nhưng chẳng sao, tôi vẫn một mực muốn xin vào đảng của ông
Nói thật với ông nhé, tôi xin vào đảng Cộng Sản chẳng phải vì lý tưởng
CNXH gì cả, tôi đã biết CNXH đào đâu cho có. Tôi xin vào đảng là vì và
chỉ vì miếng cơm manh áo. Đời tôi đã khổ nhiều, trải qua hai kiếp sống
nông dân và công nhân cho đến giờ đây tôi vẫn chưa sống được. Trong khi
đó giai cấp đảng của ông hiện đang sống được và sống sung sướng, vậy nên
tôi mới một mực đòi theo đảng của ông
Thưa thật với ông, tôi đã qua rồi cái buổi làm công nông cho nên cái
chất thật thà chất phát trong tôi cũng không còn nữa. Giờ đây cái chất
còn lại trong tôi rất phù hợp với con người và con đường tiến thân trong
tổ chức Cộng Sản đảng của ông. Nói vậy hơi mơ hồ, có khi ông không
hiểu, thôi thì tôi cụ thể cái tố chất hay tài năng của tôi cho ông được
rõ. Đó là:
“Luồng lách”, “len lỏi”, “lươn lẹo”, “lũng”, và “lú lẫn”,... Tôi chỉ dùng một chữ “en lờ” thôi đấy, ông thấy tôi tài chưa
Nay tôi tự nguyện viết đơn này kính gửi đến ông và các cấp đảng ủy của
ông xem xét cho tôi được kết nạp vào đảng Cộng Sản của các ông. Khi đứng
vào hàng ngũ của đảng tôi xin hứa:
Tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng của đảng (đếch cần biết đó
là mục đích lý tưởng gì). Chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị,
điều lệ đảng, tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách, tổ chức
đảng. Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không thổ hẹn là đảng Viên đảng
Cộng Sản Việt Nam thời đại mới!
Tôi cũng xin thề: Sau khi đứng vào hàng ngũ của đảng mà tổ chức đảng
không đề bạt chức vụ cho tôi để tôi kiếm miếng cơm manh áo thì tôi cũng
sẽ rời bỏ đảng để đi theo Chí Đức, người anh em và họ hàng xa xôi với
tôi
Người làm đơn
Nguyễn Chí Đực
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét