Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Bí mật 300.000 người tị nạn mất dấu tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc (Huỳnh Tâm)

-Nguồn:--Làng tị nạn Việt Nam tại biên giới Việt – Trung  
-“..Đôi lúc tôi nhận được tiếng thở dài của La Minh và nói: ‘Khi chưa có chiến tranh ai cũng biết Tổ quốc mình ở đâu, còn hôm nay chúng tôi không biết mình là ai’. Vinh nói theo:‘Giấc mơ lớn nhất của tôi, chỉ cần có được danh tính thân phận mình là ai’...”

Sau tám năm (19/2/1979 ─ 21/8/1987 ). Chiến tranh Việt Nam‒Trung Quốc khởi sự từ đó cho đến thời điểm này vẫn còn tiếp diễn trên những cao điểm, tiếng súng qua lại giữa Việt Nam và Trung Quốc không hề hứa hẹn thời gian đình chiến, bởi nhà nước Trung Quốc lấy quyết định dùng giải pháp súng đạn làm tiêu chuẩn cho ân oán nợ chiến tranh.



Trung Quốc ở thời nào cũng thế, mỗi khi có chiến tranh thường đem dân làm mộc-nhân và dùng lính làm biển người, do đó đã có những làng tị nạn Việt Nam mọc lên tại biên giới phiá Nam thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Tuy chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc chưa yên, thế mà chúng tôi mạo hiểm, lần đầu tiên đến địa điểm đã ước hẹn trước, sáng hôm ấy ngoài trời lành lạnh sương mù, đứng tại đầu lãnh thổ Việt Nam, năm xưa thuộc tỉnh Lạng Sơn của tổ quốc thân yêu. Cũng ở địa điểm quanh đây vào ngày 21/2/1979 xuýt nữa chúng tôi bỏ mạng, vùi thây dưới lòng sông Kỳ Cùng, bởi súng đạn của Trung Quốc càn quét sâu 40km vào tận lãnh thổ Việt Nam. Gây ra biết bao cảnh điêu tàn, thảm khốc, không thể nào điểm danh từng xác chết của người dân bản làng và dân quân sống tại biên giới Việt Nam, họ chết nhiều kiểu cách khác nhau, nào là trong trong rừng, khe núi, dưới suối, trôi bồng bềnh trên dòng song Các, song Bình Nhi và đầu nguồn sông Hồng. Truyền thông Quốc tế gọi đây là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 3.


Thượng lưu sông Kỳ Cùng, người dân Trung Qu
ốc gọi Sông Các
( Ảnh: GS. La Minh )
Mảnh đất này, trước đây là của Việt Nam, ngày này thuộc về lãnh thổ của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Chúng tôi đứng trên núi cao cách làng tị nạn Việt Nam 7 cây số, nhìn về xứ sở, quê hương ẩn hiện qua xưng mù, ký ức hồi tưởng nơi chào đời mà lần đầu tiên tự miệng biết gọi hai tiếng Mẹ‒Cha. Tuy đứng trên đất tổ mà lại thuộc xứ người làm sao  không khỏi bồi hồi, xót xa, lòng xao xuyến và tự hỏi: Quê hương mình đang suy nghĩ gì về phần đất đã bị mất vào tay Trung Quốc hay có ý định nào trở mình không. Một câu hỏi trong ý thức hay vô tình sỉ nhục tôi, cũng có thể sỉ nhục lớn đối với chế độ đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đương thời!

Trên núi cao đèo Rắn thuộc tỉnh Vân Nam, nhìn về
hướng đất nước tôi bên kia sông Bình Nhi (Ảnh: GS. La Minh)
Những năm trước 1987, nhà nước Trung Quốc quảng cáo đã chiếm lĩnh được của Việt Nam những phần đất biên giới có tầm cở chiến lược quốc gia, bộ máy truyền thông của Trung Quốc dồn dập lưu diễn tại Miến Điện, Kazakhstan, Nga, Mông Cổ và biên giới Trung- Bắc Hàn, họ đồng một luận giải theo ngôn ngữ đại Hán. "Chư hầu Việt Nam hiến dâng biên giới, Trung Quốc không từ chối". Nay họ phối trí lại cơ sở hạ tần cấp Huyện, Xã tại biên giới hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Trung Quốc làm một công trình hợp pháp về lãnh thổ biên giới, lúc ấy Việt Nam âm thầm không lên tiếng, mặc nhiên công nhận dâng hiến đất liền biên giới cho Trung Quốc, cho nên Quốc tế không có lý do nào để chỉ trích Trung Quốc hay can thiệp cho Việt Nam. Theo báo chí và truyền thông Quốc tế cũng loan tải "1979 Việt Nam hiến dâng phần đất liền biên giới, hàng ngàn dặm cho Trung Quốc".

Trung Quốc còn tuyên bố ngoại giao: "Đất liền biến giới phía Nam rộng thênh thang, có được hàng ngàn dặm nhờ Việt Nam mở rộng phong cách mới".

Trước năm 1987 Trung Quốc có những hành vi bất lương, như báo chí Trung Quốc tung ra nhiều loạt các báo cáo chủ quyền về đường biên giới, lập danh sách đặt lại tên cho những dãy núi lớn, nhỏ không bỏ sót một quả đồi nào, lập danh sách địa danh mới và còn ghi rõ khí hậu biên giới. Họ tổ chức nhiều đơn vị biên phòng đi tuyên truyền cái nhân đạo của nhà nước Trung Quốc, đôi khi còn đột nhập vào thành phố ở biên giới Việt Nam và những ngôi làng nhỏ khuyến dụ dân làng làm tình báo cho họ.

Chúng tôi đang ở "Dòng nhà làng" tại nhà Họa sĩ La Minh, đến ngày thứ tư La Minh rủ chúng tôi đi thăm Lê Văn Vinh một người bạn cùng thời thơ ấu, Lê Văn Vinh hiện ở tại ngôi làng tị nạn Việt Nam có tên "Âu nhà làng", lộ trình đường bộ khoảng 6km.

Lê Minh tay chỉ, miệng nói:

─ Âu nhà làng, lờ mờ bên núi xa xa, đó là làng của Vinh.

Thế mà chúng tôi phải trèo núi vượt suối gian nan mất hai giờ liền mới đến nơi, La Minh cho biết đi đường chim bay. Nếu đi đường Quan Công thì mất 4 giờ. "Âu nhà làng" nằm trong thung lũng của khe núi Âu, tôi đã đi qua hai làng tị nạn Việt Nam quan sát thấy có một đặt điểm chung, họ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau như Việt, Hoa và các sắc tộc biên giới, tuy nhiên tiếng Việt là ngôn ngữ giao thiệp chính, tại làng này có 1476 người tị nạn, còn "Dòng nhà làng" dân số đến 2574 người. Chúng tôi gặp nhau trong hoàng cảnh xúc động, có ai biết trước sự hy hữu của con nguời. Trái đất này không phụ tình người, nếu có quyết định thì nơi nào cũng đến và đi đều được cả.

Sau buổi cơm trưa, chúng tôi hàn huyên trăm ngàn chuyện cũ từ Sài Gòn đến Chợ Lớn, điểm qua bạn bè, thân thuộc, gia đình và kẻ sống ở đâu, người chết nơi nào, có những lúc Minh và Vinh xúc động khóc như trẻ thơ, vì Minh, Vinh đồng nạn nhân của năm 1975, như mọi người dân miền Nam Việt Nam, nhưng không ai hiểu thấu Minh, Vinh trải qua trắng sạch sự nghiệp và biến đổi cuộc đời bần cùng vào ngày 19/2/1979 giữa chiến tranh Việt-Hoa tại biên giới.

Trước đây Lê Văn Vinh nguyên là Cử nhân Hóa, phụ giảng Đại học Khoa Học Sài Gòn, nay là bác nông phu tại "Âu nhà làng" cư ngụ hay tạm trú trong núi rừng heo quạnh, không còn dịp trở mình, tuy nhiên chỉ còn hy vọng, ngày mai con cháu sẽ hơn cha mẹ.

Còn về La Minh, trước 1975 nguyên Giáo Sư trường Mỹ Thuật Gia Định và Bác Ái, chủ của một nhà in rất lớn tại đường Hồng Bàng Chợ Lớn, tranh của La Minh thường triển lãm tại Chợ Lớn, Hồng Kông và Đài Loan. Gia phả của La Minh đã 7 đời không còn gốc ngọn người Hoa, tổ tiên của anh từ chối cháo với chao và một chữ Triều châu cũng không ngưởi ra mùi Hoa. La Minh có mặt tại "Dòng nhà làng" do tính nghệ sĩgiang hồ xúi giục, sau 1975 anh lấy quyết định bỏ quê hương đi tìm đất hội họaĐài Loan, mượn lục địa Trung Quốc làm thuyền chở cả gia đình 7 miệng ăn và mang theo hết tài sản trên ba-lô.
Cuối cùng cả gia đình của Minh gặp phải nhiều bi kích, vợ, hai đứa con trai và một đứa con gái yêu quí nhất của Minh đều nằm xuống tại nghĩa trang. Minh xếp đặt cho con trai Cả bỏ làng đi Hồng Kông hơn một năm, còn lại hai đứa con trai nhỏ. Tôi cùng Minh ra nghĩa trang thắp hương cho chị  Minh và  các cháu. ( Chương sau chúng tôi nói đến Nghĩa trang và Bỏ làng )

Lúc này tinh thần Vinh đã bình tỉnh lại và cho biết:

─ Hai năm trước giới quân sự cho xây dựng một đường chiến lược tuần tra biên giới thông qua các làng bằng những đoạn giao thông hào rất kiên cố. Cũng như các quan chức tỉnh Vân Nam, thường đưa phóng viên vào làng này để săn tin, họ nói: "Cuối năm 1970 đã có người Việt Nam trốn thoát vào Trung Quốc xin tị nạn, có vài người đã sống ở đây hơn 20 năm". Lê Văn Vinh nói tiếp: "Những người sống ở đây hơn 20 năm, thuộc vào diện "hỗ trợ" chính là viên chức Tình báo chiến lược của quân đội Trung Quốc".

Họ trà trộn vào đời sống ở đây, sinh hoạt như người tị nạn Việt-Hoa, Hoa-Việt và người dân tộc biên giới, vốn đã phức tạp về ngôn ngữ và sinh hoạt theo tập tục văn hóa từng bộ tộc để phân biệt và tìm hiểu về họ, mình phải có ít nhiều lý thú đi sâu vào sinh hoạt trong môi trường làng tị nạn Việt Nam, có thế mới khám phá được những ý đồ của nhà chức trách Trung Hoa.

Trước 1975 ở biên giới Việt-Hoa chưa hình thành làng tị nạn Việt Nam, thế nhưng cũng đã có vài trăm người tị nạn mang nhãn hiệu"hỗ trợ". Họ xuất hiện bởi những tên gián điệp người Hoa, trước khia họ hoạt động tại miềm Bắc Việt Nam, sau khi nhà nước Hà Nội phát hiện họ bị trục xuất khỏi Việt Nam, kéo theo một hệ lụy từ chối công nhận người Hoa vào quốc tịch Việt Nam.

Người Hoa ở miền Bắc về lại Trung Quốc hóa thành nghịch cảnh, dù có công hay không đối với nước Trung Quốc hiện đại vẫn bị từ chối quyền công dân, nhà nước Trung Quốc không công nhận những đứa con của Tổ quốc trở về, người Trung Quốc chỉ thừa nhận họ là người tị nam Việt Nam dù đã sống ở Trung Quốc 20 năm.

Một nghịch lý khác sau 1975, có hơn một triệu người Hoa sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam, đã 9 kiếp tổ tiên là người Việt vẫn gọi ôm mớ là người Hoa. Thời chiến tranh Trung Quốc dùng địch vận gọi mỹ danh "Hoa Kiều Việt Nam" khi Hoa Kiều Việt Nam trở về Trung Quốc lập tức được công nhận "Người tị nhận Việt Nam" hai chữ "Hoa Kiều" hết giá trị, hiện nay trong làng nói tiếng Việt hơn 75%.

Đôi lúc tôi nhận được tiếng thở dài của La Minh và nói: " Khi chưa có chiến tranh ai cũng biết Tổ quốc mình ở đâu, còn hôm nay chúng tôi không biết mình là ai..".

Vinh nói theo:"Giấc mơ lớn nhất của tôi, chỉ cần có được danh tính thân phận mình là ai".

Chúng tôi hỏi Vinh:

─ Hiện nay bạn đang làm việc gì để sống và có những dự tính nào cho tương lai không?

─ Tôi vẫn lẩn quẩn công việc trang trại trong làng và lao động phụ cho công trường trồng cây Bồ Đề và Bạch Đàn, chỉ đủ nuôi cái miệng, còn đâu suy nghĩ tương lai, nếu có tiền tôi đã bỏ làng ra đi rồi, dù biết rằng không có chứng minh nhân dân cũng phải liều.

Lê Minh mặt trầm, đôi mắt hướng ra sân làng như đang thất vọng nói:

─ Tao và mày cũng như tất cả mọi người ở trong làng, không ai muốn ở đây, đi ra ngoài mới thấy không gian sống, nhưng không có chứng minh nhân dân ở đây như lao tù.


Qua một cơn mưa "Dòng nhà làng" ngập nước
Vinh cho biết:

─ Chính phủ Trung Quốc chỉ công nhận họ là "người tị nạn Việt Nam", không công nhận họ là công dân Trung Quốc. Do đó 214 làng dọc theo biên giới, vì không có quốc tịch Trung Quốc, không có bản sắc, chúng tôi sống trong vòng tròn nhỏ của làng, sống trong sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đối với những người tị nạn, muốn đi xa để làm việc, trước nhất mua một ID giả hoặc thẻ ID với giấy phép cư trú tạm thời của người khác nhằm đáp ứng việc kiểm tra an ninh. Nếu không phải người dân Trung Quốc, chẳng có chứng minh thư, nhỡ đụng đến công an Trung Quốc là xanh mặt.

Đề cập đến đời thường của người tị nạn, có vẻ Minh và Vinh xúc động và nhạy cảm, sau một lúc im lặng ngắn ngủi, mới bắt đầu nói chuyện, các bạn tôi thường hỏi tình hình thế giới bên ngoài, nhất là những câu hỏi về hôn nhân và đất nước Việt Nam hôm nay.

Con trai của Vinh cho biết:

─ Người ta nói rằng sẽ vào làng tuyển một số nữ trẻ đi làm việc xa nhà, nhưng không đi lâu dài. Tại sao không tuyển Nam mà lại Nữ, phải chăng người Trung Quốc muốn Nữ giới ra khỏi làng bằng cách hôn nhân, nhưng người ta không biết luật pháp về quốc tịch, nó chỉ có giá trị cho thế hệ sau ( Mẹ vẫn tị nạn Việt Nam, đứa con mới là công dân của Trung Quốc ) nói chung thế hệ này vẫn tị nạn muôn năm.

Chưa hết có một quân nhân biên phòng tại Huyện cho biết: "Quốc tịch con cái của họ còn tùy thuộc vào sở hữu của những người tị nạn. Kết quả cho thấy chính sách này ưu đãi một cô gái tị nạn kết hôn với người đàn ông Trung Quốc và nếu các cô gái Trung Quốc kết hôn với một người tị nạn, trẻ em của họ vẫn theo cha làm "người tị nạn". Đây mới chính là kịch trường làm người tị nạn, cô gái kết hôn với người bản xứ được đi ra ngoài làng và tất nhiên người trai như con không thể tìm thấy đối tượng.

Chúng tôi tự động bảo nhau, lùi sâu vào trong nhà và nói chuyện bằng tiếng Hoa, bởi từ xa có những cái đầu lú nhú ở dưới núi đi lên, đó là những bộ đội biên phòng địa phương, họ đi tuần tra biên giới, tôi và Minh hiểu ý của Vinh.

Vừa thấy những tên biên phòng đi qua nhà, họ ăn to nói lớn, đó là cá tính của người Hoa miền núi, tiếng Quan thoại ồn ào: "1979 nhà nước ta qui động trên 370.850 người tại các làng tị nạn Việt Nam, tham gia lập giao thông hào và bảo vệ chiến lũ, người tị nạn có động lực cao vì họ muốn hội nhập nhiều hơn vào thế giới bên ngoài làng, thậm chí họ còn ghi danh gia nhập bộ đội biên phòng, đó cũng là một lý lẽ phù hợp với "Luật Quốc tịch Trung Quốc" thực ra các quy định này chưa trao cho người tị nạn Việt Nam".

Thời gian qua mau, nói chuyện ngày xưa chưa hết lời, đã 5 giờ chiều, tôi và La Minh xin chào tạm biệt Vinh, hẹn hôm nào gặp lại, Vinh nói:

─ Tao đề nghị 5 ngày nữa tập hợp bạn cũ tại nhà Minh, lấy cớ làm giỗ chị Minh, có thế thằng Tâm mới hội ngộ được thằng Đào, thằng Tùng, con Châu, con Ái, con Liên và chị Trang.

La Minh khẻ nói:

─ Vinh đề nghị quá hay, nhưng ai tiến hành đi loan tin.

Vinh không suy nghĩ liền nói:

─ Khi tao đề nghị thì phải thực hiện công tác này.

La Minh hỏi lại:

─ Năm ngày mà mày làm cách nào mời hết được bạn bè, hai nữa chúng nó ở rất xa.

Vinh khẳng định như đinh đóng cột :

─ Thì tao mời theo thuật bắng tên, hiện nay những làng tị nạn Việt Nam, tạm thời rải rác theo chiều dài và rộng 1350km đường biên giới do Trung Quốc chiếm được của Việt Nam vào năm 1979. Từ biên giới của Vân Nam đến Quảng Tây giáp đối diện năm tỉnh Việt Nam gồm Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, không có khó đâu, hãy an tâm, tin tao.

Tôi cùng Minh chào Vinh, hẹn năm ngày sau tái ngộ. Chúng tôi đi theo triền núi về làng "Dòng nhà làng", trên đường đi Minh cho biết nhiều vấn đề của người Việt tị nạn tại Trung Quốc, tôi chú ý nhất là chuyện Trung Quốc tham nhũng tiền bảo trợ của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc phụ trách tị nạn (UNHCR) cho làng tị nạn Việt Nam:

─ Nhà chức trách Trung Quốc dã tâm và lưu manh lấy hết tiền bảo trợ. Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn thành lập một nhóm dữ liệu báo cáo giả trước (UNHCR) đại khái nội dung: "Từ năm 1978, chính phủ Trung Quốc trong tinh thần nhân đạo đã tiếp nhận 30 triệu người tị nạn Đông Dương vào Trung Quốc. Con số lớn như vậy mà không thấy người. Riêng 214 làng tị nạn Việt Nam, dù cho đào mồ cuốc mả tính luôn cả người sống lẫn ngưới chết trên đầu núi, dưới lòng suối cũng chỉ có 1,6 triệu người.

Tôi tiếp tục lắng nghe, Minh nói một sự kiện khác:

─ Nhóm dữ liệu Trung Quốc còn báo cáo hồ sơ giả tạo khác: "Hiện nay Trung Quốc đang quan tâm đến làng sóng tị nạn, chủ yếu là năm 1978-1979, Trung Quốc đang thúc đẩy Việt Nam chặn đứng người tị nạn từ Việt Nam tràn qua Trung Quốc". Thực tế người Việt tràn ra biển Đông, chứ không bao giờ tràn qua Trung Quốc, thà chết dưới chế độ tự do dân chủ đa nguyện còn hơn sống dưới chế độ cộng sản Trung Quốc, chỉ có những hệ lụy và vâng lời Trung Quốc đỏ mới ra thân danh vô Tổ Quốc. Trung Quốc còn bịp bợm hơn, tuyên bố cho hồi hương người tị nạn Việt Nam về cố quốc. Mặt trái khác cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Quốc cư xử với Hoa kiều hay Việt kiều không công bằng, khi còn chiến tranh Hoa kiều là cái kho kinh tế, một ngân hàng lưu trữ tài chánh cho hai đảng cộng sản Việt-Hoa. Hết chiến tranh Hoa kiều hay Việt kiều trở thành thứ phế thải bỏ vào thùng rác không tái sinh!

Trung Quốc và Việt Nam đang chơi một ván cờ, dùng người tị nạn Việt Nam trả giá quân cờ Hồi-hương theo chương trình của UNHCR, đây cũng là một cách chơi khăm của Trung Quốc đối với Việt Nam, mà không mang tiếng với Quốc tế, nhân dịp biến lực lượng quân đội Trung Quốc thành người tị nạn hồi hương, chủ yếu xâm nhập hợp pháp vào Việt Nam. Trung Quốc đã chuẩn bị từ trước có cả danh sách địa chỉ định cư và họ khạc tên người tị nạn Việt Nam ra một bên, vĩnh viễn sống tại biên giới. Theo chiến lược của Trung Quốc, họ đã bắt đầu cho bộ đội trẻ thay áo mới dân sự, mang nhãn hiệu người tị nạn Việt Nam, họ sẽ là người Việt Nam giấy nằm vùng trong lòng Việt Nam chờ thời cơ biến thành vũ khí của Trung Quốc.

Tôi nghe tin này khá lý thú liền hỏi:

─ Tin này có thực chứ và Minh lấy nguồn tin này ở đâu?

─ Trung Quốc rất nhiều ma giáo, nhất là chính trị, trước khi tạm cư trong làng, người tị nạn Việt Nam phải viết một bản tự khai, không từ bỏ một ai, và Minh có dịp hiện diện tại chiến trường với nhiệm vụ vẽ những bản đồ tiến quân của Trung Quốc, mỗi ngày tiếp cận với giới chức quân đội và dân sự. Đôi khi còn nghe tướng Lữ Chính Thao (Lu Zhengcao)tự hào về cuộc chiến tranh này.


吕正操( Lu Zhengcao ) Lữ Chính Thao
Tôi và Minh về đến "Dòng nhà làng". Tiếp tục thấy cảnh chịu đựng khốn cùng của dân làng, tôi thấy những túp lều đã cũ, bao quanh bằng phên nứa, nay đã rò rỉ tồi tàn và ẩm ướt, bếp lửa lạnh khói, chỉ cần một cơn mưa là ngập "Dòng nhà làng". Trong nhà La Minh trên rách có treo vài tranh ảnh Sài Gòn và Chợ Lớn.

Như mội ngày, đến bửa cơm, tôi dùng từng bát cơm trộn với ngô luộc, hỏi ra mới biết cả làng ba bữa một ngày hầu hết mọi người như thế cả!

Làng tị nạn Việt Nam không có bệnh xá, khi dân làng đau nặng chỉ chờ chết, bệnh nhẹ lấy cây cỏ ngoài đồng ruộng hay rừng làm thuốc trị liệu. Ngoài nghĩa trang số cột bia mộ, tương đương với số dân trong làng.

Huỳnh Tâm
*Bài viết ghi lại những sự kiện trong chuyến đi đầu tiên đến Vân Nam Trung Quốc, ngày 21/8/1987, nhưng đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị thời sự của nó.

Biệt ly ải đầu tổ quốc thân yêu-
“...Súng cối xạ như mưa vào Bản làng, Xã thôn, thị trấn Việt Nam, dân quân Việt Nam chết không kịp đem đi chôn, đến ba ngày sau quân đội CSVN mới phản pháo, thì toàn diện biên giới đã định chiến thắng nghiêng về Trung Quốc...”
 

Mấy ngày qua tôi đã viết khá nhiều điều tại biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Nếu tôi không nói,e rằng tôi mắc kẹt cổ họng, tuy nhiên còn những chuyện liên quan khác chưa thấu cùng. Tôi tranh thủ, trong khi chờ đợi bạn bè từ khắp nơi tụ hội về Dòng nhà làng.

Tôi và anh Minh đi lên biên giới hướng Tây Vân Nam, đối diện Lai Châu. Cuộc hành trình gian nan, cả thân người khắc khoải cũng phải đi đến "Tây Hành làng", nơi ở của gia đình anh chị Cao Dũng - Chỉ Hồng.

Chúng tôi không ngờ đường xa vời vợi di chuyển bằng nhiều phương tiện nào là xe ngựa thồ, chuyển qua xe vận tải, đến tàu hoả cuối cùng là xe đạp. Tôi đã mất một ngày một đêm ăn ngủ không yên. Hôm nay ngày thứ hai mới dừng chân trên đỉnh đầu núi, chiêm ngưỡng ải đầu Tổ-quốc, thấy một ranh giới trên 10km chiều ngang, còn chiều dài thì vô tận. Nếu tính tại biên giớiải đầu Lai Châu Việt Nam đối diện với biên giới phía Tây Vân Nam Trung Quốc, mới thấy Việt Nam bị mất 30.670 Km2, một giải đất chiến lược rộng lớn mà Trung Quốc chiếm lấy của Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 năm 1979. Đến ngày 19/2/1979 toàn quân binh Trung Quốc đồng tiến quân vàocác tỉnh biên giớiLai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Như giới truyền thông Phương Tây loan tải: – "Chiến tranh Đông Duơng lần thứ 3, Việt Nam rộng rãi tặng không cho Trung Quốc một biên giới bốn bề bát ngát, hứa hẹn tương lai kinh tế Đông Dương".


Đỉnh dãy 
núi Pu Si Lung biên giới Việt Nam-Trung Quốc
Ảnh: La Minh
Có năm người dân thiểu số đi ngược chiều, anh Minh hỏi bằng tiếng Hoa:

─ Quý anh chị có thể cho chúng tôi biết, nơi này là đâu?

Họ trả lời bằng tiếng Việt:

─ Các ông nói cái gì.

Anh Minh mừng quá đáp:

─ Quý anh chị có thể cho chúng tôi biết nơi này là đâu và còn bao nhiêu km nữa đến Tây Hành làng?

─ Đây là đỉnh núi Pu Si Lung, còn 3km nữa đến làng.

─ Cảm ơn quý anh chị nhiều, quý anh chị có phải là người làng không?

Họ chỉ gật đầu thay cho lời nói (đúng rồi) chúng tôi cảm ơn một lần nữa và chào nhau chia tay.

Chúng tôi đứng trên đỉnh dãy núi Pu Si Lung độ cao 3.770m, nhìn về quê hương đất nước thân yêu, từ hàng rào bãi mìn bình địacho đến tận xa mờ là huyện Mường Tè nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Lai Châu, nằm trên biên giới giữa Việt Nam-Trung Quốc, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam Trung Quốc, phía Tây và phía Nam huyện Mường Tè giáp huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên VN, phía Đông Mường Tè là huyện Sìn Hồ cách thị xã Lai Châu 60km về hướng Tây... nhìn xuống thung lũng thấy các sông Đà, sông Nậm Ma, sông Nậm Cúm, sông Nậm Nhé, thuộc hai hệ thống sông Hồng và sông Mê Kông như những tấm vải lụa trắng vĩ đại chưa bao giờ thấy trong đời. Vung trời ở đây nhiều sương mù và lành lạnh càng thôi thúc lòng ray rức không yên cho Tổ-quốc, có đi xa mới biết quê hưng xứ sở mình đẹp. Thật vậy, dù thế giới mênh mông giàu và đẹp nhưng không nơi đâu đẹp bằng quê hương của mình có lũy tre, những giòng sông, ruộng nương hương thơm của lúa và đất chung một đặt thù riêng của nó. Ngặt bí lối sống, quá khắc nghiệt độc trị của chế độ đảng Cộng Sản Việt Nam, người dân không ở được phải đi tìm tự do, bỏ sinh xứ để tìm sinh cư quê người. Mai này con của chúng tôi nếu có suy tư về quê hương cũng không khác nào một nhạc phẩm "Viễn Khúc Việt Nam" của Nhạc sĩ Hàn Lệ Nhân:

Tuy đi cùng anh Minh nhưng cảm tưởng của tôi không khác kẻ bị lạc đường, đứng nơi này đơn độc, lòng bâng quơ tự hỏi mai sau lịch sử Việt Nam có nhớ địa giới lãnh thổ đã diễn biến chiến tranh cái ngày 17 tháng 2 năm 1979 này không? Hy vọng thế hệ mai sau sẽ phán xét phân minh đối với thời đảng Cộng Sản Việt Nam, về tội thông đồng bán ải đầu Tổ-quốc bằng cách lập ra thương lượng chiến tranh, qua giá cả đã đồng thuận trước của hai đảng Cộng Sản Việt Nam-Trung Quốc.
     
Một cuộc chiến long trời chuyển đất, thế mà toàn dân Việt Nam nào hay biết, càng không có một thông tin nào từ đảng CSVN đích thân loan truyền, chỉ thoáng qua lờ mờ tin đồn của người dân: "Có cuộc chiến tranh giữa Việt Nam-Trung Quốc vào năm 1979", chỉ thế thôi ngoài ra không có tin gì khác ! Càng không hình dung được biên giới đã mất còn là bao nhiêu hay Bắc tiến đánh Trung Quốc chạy dài bỏ thành Vân Nam và thành Quảng Tây. Mãi cho đến nay, toàn dân chưa hề nghe nhà nước CSVN chính thức công bố lãnh thổ biên giới! Cũng có thể đảng CSVN hoàn toàn thờ ơ sự ra đi vĩnh viễn một phần ải đầu Tổ quốc Việt Nam, hay lý do khác vì sự sống còn của đảng CSVN.

Tuy nhiên, hồn thiên sông núi của Tổ quốc Việt Nam không bỏ qua sự kiện nào có liên quan đến lãnh thổ biên giới như năm 1979. Dân tộc nào cũng có linh hồn sống luôn khằng sâu vào ký ức lịch sử, như nhà Mạc, nhà Hồ đã trải qua vạn đại, thiên thu thế mà vẫn lưu truyền nhiều thế hệ luôn phê phán chế độ ấy từng ngày.

Tôi đứng trên núi Pu Si Lung mà hồn phi lạc phách, đến khi anh Minh đưa tay vịn vào vai tôi, lay mạnh nói:

─ Chúng ta đi sớm về sớm, Tâm đứng ở đây đã hơn giờ rồi.

Tôi trở lại với con người thực, âm thầm ngồi lên yên sau xe đạp, một tay ôm hông của anh Mình, xe đổ xuống đèo, rồi rẽ theo hướng "Tây Hành làng".


Người dân trên đường về "Tây Hành làng"
Ảnh: La Minh
Chúng tôi tìm được nhà anh Cao Dũng, lúc này anh Dũng đang bị rét rừng, còn chị Nguyễn Chỉ Hồng cùng mấy cháu đi lao động chiều mới về, anh Dũng không chần chờ bảo :
─ Các bạn hãy theo tôi đi trình giấy tờ, vì ở nơi này mất an ninh, dân quân biên phòng cứ vài ngày đến làng kiểm tra hộ khẩu một lần, đôi khi kiểm tra đột xuất.

Chúng tôi chào ông chủ làng, rồi tự động trình giấy tờ, anh Minh trình giấy trước, do sở di trú Vân Nam cấp, chứng nhận người Việt tị nạn tại "Dòng nhà làng", đặc biệt ông ta nhìn thẻ ID của tôi, tay bóp cong vòng thẻ rồi thả ra kêu một tiếng tạch, mắt nhìn châm chú một hồi lâu và nhìn mặt nhận diện tôi, có ý vạch lông tìm vết trong thẻ ID, ông ta đã ngờ vực nhưng không thể quả quyết ID giả, tôi điềm tỉnh thưa:

─ Thưa ông chủ làng, thẻ ID của tôi rất mới vì ra làng ba tháng truớc, cách đây vài ngày sở di trú mới cấp thẻ, trên tay cằm thẻ ID tôi liền đi thăm anh Minh, rồi nhờ anh Minh hướng dẫn đi thăm anh Dũng chị Hồng.À thưa ông, hình như tôi còn một photocopy giấy tị nạn cũ, tôi đưa ông để tiện kiểm minh.

Ông chủ làng cười nói:

─ Thôi được.

Ông ta cằm viết ghi tên anh Minh và tên tôi vào sổ tạm trú, ông hỏi tiếp:

─  Thế thì hai anh ở đây bao lâu để tôi báo cho an ninh biết.

─  Thưa, chỉ một đêmnay thôi.

Ông ta đưa lại giấy tờ và thẻ ID nói tiếp:

─ Chúng ta là người Việt Nam cả, tôi không phải làm khó quý anh, ngặt dân quân biên phòng, bọn chúng người Trung Quốc hay chú ý an ninh làng này, xin hai anh cảm thông.
Tôi lấy lại bình tĩnh thưa:

─ Dạ thưa ông, chúng tôi chỉ ở một đêm thôi ạ, sáng mai phải trở về, không ở lâu được vì bận chuyện nhà, tôi nhớ anh chị Dũng đã tám năm không gặp, nay có dịp đi thăm. Thưa ông chủ làng, nhân tiện mời ông một đêm chung vui với anh em chúng tôi. Hy vọng ông chấp nhận đề nghị chân thành này, chúng ta là người Việt Nam không nên từ chối.

Ông chủ làng dù có khó tính đến mấy, khi nghe hai tiếng Việt Nam cũng mềm lòng cảm động, ông còn chần chờ, tôi hỏi tiếp:

─ Thưa ông chủ làng chấp nhân nhé, chúng ta là người Việt Nam sống ở xứ người xem tình lớn hơn mọi thứ, dù mới sơ giao xem như thân, chúng ta nhận nhau tình người vì nó là một thứ tình thiêng liêng nó biết gắn bó và hy sinh cho nhau.

Ông chủ làng gật đầu liên hồi nói:

─ Tôi đồng ý, nhưng mấy giờ tôi đến?

Anh Dũng đáp:

─ Anh Tùng đến lúc nào cũng được.

Ông chủ làng tên Tùng, thấy thân thể của ông ta quá cằn cõi, có thể hơn tôi một con giáp, liền nói:

─ Xin lỗi cho tôi gọi bằng chú Tùng, thưa chú, chúng ta cùng nhau về nhà anh Dũng ngay bây giờ không thể để mất thời gian vì sáng mai tám giờ tôi phải đi về, tôi thấy anh chị Dũng và các cháu bình yên là toại nguyện lắm rồi.

Ông Tùng đồng ý đi theo chúng tôi về nhà anh Dũng, cũng may chị Hồng và mấy cháu đã về nhà, sớm hơn mọi khi, chị Hồng vừa thấy tôi là oà ra khóc và hối cháu lớn đi mua năm lít rượu về đãi khách, còn chị Hồng vội vã làm một lúc hai con gà. Tôi để ý thấy chị Hồng làm thịt hai con gà, tiếng khóc thút thít của chị từ bếp vọng lên, âm thanh như oán trách cuộc đời.

Tôi giới thiệu anh Minh để anh Dũng quen biết và ngược lại:

─ Thưa, anh Dũng nguyên là Giáo sư trường Trí Đức tọa lạc đường Cao Thắng trước chùa Tam Tông Miếu, quận hai Sài Gòn còn chị Hồng là một trong những hoa khôi của trường Gia Long, sau hè năm ấy chị chuẩn thi vào trường Y thì bị ông Dũng đáp đến gắp chị Hồng ra khỏi gia đình, tình duyên của anh chị Dũng-Hồng do chị Phương của tôi làm bà mai, trong đó tôi cũng có một ít phần mai mối, vì tôi làm nhân viên Bưu điện cho mấy người lớn, hồi đó tôi ngu lắm, phải chi mình xem thư của họ để biết họ nói những gì, lúc đầu gia đình chị Hồng không chấp nhận, anh Dũng đòi chết trước nhà, bố mẹ chị Hồng sợ quá gả cho, thế là ngày tân hôn hai họ linh đình, bởi thế chị Hồng xem tôi như em ruột.

Đương nhiên trong thâm tâm anh Dũng chị Hồng và anh Minh thừa biết hiện nay tôi không thuộc diện thê thảm, ông Tùng thấy chúng tôi tình trước sau chân thực, ông cũng thổ lộ riêng tư đời mình:

─ Thì ra các bạn đều là người Sài Thành cùng quê tôi, nhà tôi ở đường Nguyễn Công Trứ, học trường Bồ Đề hết trung học vào Văn Khoa, đến năm thứ hai theo tiếng gọi ra bưng tham gia MTGPMN, sau khi kết nạp vào đảng, tôi nhận công tác Ban Hoa Kiều, quân hàm cuối cùng của tôi là Thiếu tá, người Hoa Chợ Lớn thường gọi tôi là Thiếu tá Tùng, tên thực Trương Hoán Tùng, cuối năm 1977 đảng điều tôi phụ trách chuyển một cánh Hoa Kiều Chợ Lớn đi Trung Quốc theo hướng Lai Châu. Hài hước nhất khi qua biên giới Trung Quốc họ xem tôi là người Việt Nam không có liên hệ gì với đất nước Trung Quốc, từ đó tôi trở thành người Việt tị nạn trên đất Trung Quốc như mọi người khác, tôi tự hiểu đảng CSVN đã có quyết định từ chối thành tích của tôi và cho tôi là người Hoa không trọng dụng nữa, họ chọn phương thức bí mật sa thải, giao công tác đi Trung Quốc.

Đại thể người Việt gốc Hoa có những nổi khổ riêng biệt, nhưng nào ai biết thân phận của tôi còn khổ hơn họ ngàn lần về gốc tịch, đến nay cũng chưa có ID chứ đừng nói đến giấy cư trú tạm thời, còn thẻ chứng minh thư nhân dân thì xa vời, đời người của tôi phải trả một giá quá đắt đỏ.

Xưa nay chữ Kiều dưới mắt thiên hạ xem thường, khi ấy Kiều rất trong sạch nào ai biết. Hoa Kiều, Việt Kiều, Cầu (Kiều) kể cả Kiều cụ Nguyễn Du lắm gian truân, từ đó tôi thề không đội trời chung với hai đảng CSVN và TQ. Đến nay cũng chưa dung tha tôi, họ tiếp tục ép làm chủ làng và làm nhân viên "hỗ trợ". Tuy tôi có làm việc cho họ nhưng chưa bao giờ hại ai, cũng chưa tống tiền của ai ở trong làng này. Thực tế hơn, nếu tôi muốn có nhiều tiền chỉ cần đếm từng cột mộ bia trong nghĩa trang của làng, tôi độc thân thì không cần tiền, có nó để làm gì chứ, hồi chiều chỉ cần nói lên một tiếng thẻ ID của chú em là giả, thế là kiếm được một bao thư nhẹ rồi, nhưng nếu biết là giả tôi vẫn bỏ qua, tôi chỉ muốn hú tim để chú em tứa trong quần thôi, thực ra một chuyên viên thẩm định chuyên môn như tôi muốn nói giả hay thực cũng không khó lắm đâu.

Câu chuyện của ông Tùng đang ngon trớn, thì dĩa lòng gà bưng lên, rất nóng hổi, hương vị thơm, thế là cắt đứt đoạn film hay, mà tôi muốn gôm hết bỏ vào lòng. Chúng tôi mời nhau, nâng cao ly rượu, chúc sức khỏe, gặp nhau là duyên hay nợ, cũng hết lòng nhớ nhau.


"Tây Hành làng" trên dãy núi Pu Si Lung
Ảnh: La Minh
Rượu vào lời ra, ông Tùng nói tiếp:

─ Trương Hoán Tùng tôi, muốn kết nghĩa với mấy chú, từ nay xem nhau là Huynh-đệ, xin hỏi mấy chú có tiếp nhận đề nghị đại ca này không?

Anh Dũng thay mặt chúng tôi đồng ý so tuổi tác và xưng hô vai vế, có thế mới biết anh Tùng lớn hơn anh Dũng ba tuổi, hơn anh Minh và tôi tám tuổi.

Tôi nói đùa:

─ Thưa, Tùng đại huynh, huynh đệ chúng ta có cần hương khói như kết nghĩa của huynh đệ Vườn Đào không?

Anh Tùng cao hứng nói:

─ Ở đây là núi rừng, còn linh thiên hơn Vườn Đào, nhớ rằng núi rừng của Tổ quốc Việt Nam, chứ không phải núi rừng của bọn bành trướng Bắc Kinh.

Anh Minh hỏi:

─ Thưa huynh, dân số trong làng có bao nhiêu người và có người thiểu số không?

─ Dân số trong làng hiện nay 2.378 người, gồm cả dân tộc thiểu số như nhóm Tạng, nhóm Tày Thái, nhóm Mông Đảo, nhóm Kađai, nhóm Hán... cách đây 3 năm có trên 10.500 người thiểu số trong làng.

Rượu châm ly đầy, tiếng nói mỗi lúc cao hứng, lòng chân thực hiện ra và oan cừu tận cõi lòng trào theo men rượu. Anh Tùng thở ra một hơi dài rồi nói:

─ Quý đệ có biết không, đảng Cộng Sản Trung Quốc ồn ào lắm ra báo cáo tường rằng: "Việt Nam chư hầu tốt, đảng CSVN phải biết thế nào là phân chia biên giới đất liền, kể từ núi cũ "Tashan" trong hiệp ước Thiên Tân không còn giá trị, nên trả lại cho Trung Quốc, hôm nay nhà nước ta sử lý biên giới đất liền trên bộ và ngày mai biển Đông, nhất địch VN chưa hầu phải trao cho ta, chiếu theo khâm định của Hồ Chí Minh trao đổi với Mao chủ tịch tại Vân Nam".

Anh Tùng hớp liền hai ngụm rượu nói tiếp:

─ Quý đệ có biết không, ngu huynh có gặp một quân nhân biên phòng bành trướng, nó cho biết "Đỉnh núi Cũ đã bị quân Trung Quốc chiếm lĩnh, nay đã nằm sâu trong nội địa Trung Quốc", huynh rất là hận, bởi huynh đã đi qua nơi này, thấy cảnh thực vật nguyên vẹn vẫn còn rợp âm, hoa rừng tỏa hương ngát khắp nơi, ánh sáng mặt trời rót nghiêng đếm được từng gốc cây cổ thụ, thế mà núi này vô cớ đạn pháo cạo trọc đầu, nay thuộc vào tay Trung Quốc, nói một cách khác đảng CSVN táng tận lương tâm bỏ rơi núi cao một chiến lược quan trọng của biên giới Bắc cao nguyên.

Tin tức ở biên giới ngu huynh biết khá nhiều và chính xác. Có một cựu dân quân ở gần núi Cũ, trước kia sống trong làng, cho biết: "Núi Cũ bị mất thì đảng CSVN phải chịu trách nhiệm, người dân ở địa phương núi Cũ có ý chí bảo vệ lãnh thổ cho đất nước, nhưng dân quân rơi vào trường hợp thế cô, có tinh thần chống giặc mà không có sức thì làm thế nào để cố thủ núi Cũ, trong khi ấy tin đồn dãi núi Cũ này đã ký bán cho Trung Quốc hơn hai mươi năm trước. Bởi thế núi Cũ có nhiều hiện tượng lạ, người dân ở đây tự nhiên có kẻ đến thăm và tiện cấp quốc tịch Trung Quốc, thực sự tôi khó hiểu đảng CSVN".

Chị Hồng bưng lên một mâm lớn, nào là cơm gà, thịt gà luộc, cháo gà và bổ túc thêm lòng gà, thơm phức cả nhà, lúc này chị Hồng và các cháu cùng ngồi trệt dưới phên tre với chúng tôi, tạm gọi là bàn cơm, cả nhà hạnh phúc. Riêng tôi và anh Minh cả ngày chưa bỏ vào bụng một thứ gì cả, chỉ uống nước trừ với khoai củ, thế mà vẫn thích nghe anh Tùng nói chuyện hơn là ăn.

Chị Hồng tuy ở núi vẫn cho ra ngón nghề chị táo Sài Gòn năm xưa, trong thực đơn gà tuyệt vời này, gồm mùi vị gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau, chị lấy muối pha với đường màu làm ra nước mắm rất hợp khẩu vị, đúng là người phụ nữ Việt Nam đem theo hượng vị quê hương, tôi ăn ngon miệng gợi chuyện:

─ Thưa chị Hồng, hồi nãy em thấy chị làm thịt hai con gà, và nghe tiếng khóc của chị, có phải chị làm lễ phóng sinh cho hai con gà, phải không?

Chị cười và nói:

─ Cậu mầy lúc nào cũng đùa được, khóc vì thấy cậu nhớ nhà chứ ai nào khóc tiếc hai con gà đâu, thân chị theo anh chẳng tiếc, gặp em chỉ làm thịt hai con gà có xá chi nào.

Tôi nói khuyên chị Hồng:

─ Thưa chị, chị đã đem theo cái nhà Dũng và mấy cháu, hạnh phúc hơn cái nhà trên mãnh đất chào đời, mãnh đất sinh cư chị tìm tương lai cho mấy cháu. Chị tạm lờ nó đi, sẽ có ngày đất nước trở mình toàn dân có quyền sống làm người vì dân chủ, đa nguyên lúc ấy tha hồ chị nhớ.

Anh Dũng xoay mặt qua hướng anh Tùng hỏi:

─ Thưa, anh Tùng hồi chiều anh nói, anh ở đường Nguyễn Công Trứ quận 2 Sài Gòn, thế thì em xin mô tả để anh nghe cho vui.

Anh Tùng hỏi lại:

 ─ Huynh đã sống và lớn lên trên đường Nguyễn Công Trứ đương nhiên đệ không biết bằng huynh.

Anh Dũng liền kể:

─ Đường NCTrứ không dài, đầu đường đối diện với đường Hàm Nghi,cuối đường đối diện chợ Nguyễn Thái Học và đường nối dài Cô Giang. Trên đường Nguyễn Công Trứ có những đường khác vắt ngang qua như đường Tôn Thất Đạm, Pasteur, Công Lý, Phó Đức Chính, Calmette, Ký Con và Yersin. Người ta nói đường Nguyễn Công Trứ là Chợ Lớn nhỏ, người dân sinh hoạt tấp nập đêm cũng như ngày, nhờ hai chợ cung cấp sỉ cho tất cả chợ khác ở Sài Gòn và chợ lân cận, như chợ Nguyễn Thái Học cung cấp thực phẩm, chợ Cầu Muối cung cấp thủy sản nước mặn, nuớc ngọt.

Trên đường Nguyễn Công Trứ có hai chợ khác như khu Dân Sinh mua bán vải và khu phố cầm đồ của Công ty Hui Bon Hoa (Chú Hoả), ngoài ra còn có khu nhà kho Chú Hỏa, đặc biệt trên đường này có 1.752 căn nhà phố của Công ty Hui Bon Hoa. Vậy nếu anh Tùng là người hoa thì ở trong khu phố cầm đồ, còn nạc mỡ thì ở hẻm gần nhà Họa sĩ Tú Duyên, còn người Việt thì ở nhà hẻm sau lưng các khu phố và nhà sàn mé sông đường Bến Chương Dương. Một đặc biệt khác người dân ở đây khoái ăn khuya, những cửa hàng bán khuya không thiếu một thực đơn nào, còn một đặc thù khác, mỗi năm sau lưng khu Dân Sinh tổ chức hát Hồ Quản ba lần vào dịp Tết Nguyên đán, ngày lễ hội chùa Ông, chùa Bà và ngày lễ Thanh Minh.

Trường Bồ Đề bên hông đường Nguyễn Công Trứ, em có dạy học ở trường này hai năm, bởi thế em rất thú vị khi nói đến đường NCTrứ.

Quả nhiên anh Dũng kéo anh Tùng vào tình cảm, anh Tùng có vẻ thán phục trí nhớ và vốn sống trên đường NCTrứ v.v...

Tôi đi đường xa quá thân người khắc khoải, gặp anh chị Dũng thân thương, cơm bưng rượu rót no đầy, cũng đến lúc đôi màng mắt khép lại, dù muốn mở ra cũng không còn sức, đành bỏ mặt mọi người nói chuyên đời xưa nay, anh Dũng dìu tôi đến vạt giường tre nằm xuống đi luôn đến bảy giờ sáng.

Vừa mở mắt ra thấy cả nhà và anh Minh đang chuẩn bị ăn sáng, một lúc sau anh Tùng cũng có mặt, đúng tám giờ chúng tôi hồi loan, trước khi tạm biệt tôi trao cho cháu lớn một bao thư bảo:

─ Đây là mảnh bằng cậu trao cho cháu, cậu hy vọng tương lai ở nơi cháu.

─ Chúng cháu nhớ ơn cậu.

Chị Hồng vui mừng nói:

─ Nhờ cậu mà anh Dũng hết bệnh cảm ơn ông thầy lang bâm.

─ Khi nào anh Dũng bệnh thì chị cho ăn gà là hết liền, chính chị mới là bà thầy của anh đó ạ.

Cả nhà và khách đồng cười, chúng tôi chào nhau tạm biệt, chị Hồng lại khóc, đôi mắt đỏ hoe nói:

─ Cậu phải hứa một hay hai năm trở lại đây thì chị hết khóc.

─ Dạ em hứa, chào hẹn gặp lại...

Anh Dũng và anh Tùng đưa chúng tôi đi một khoản đường dài, đến lưng dãy núi Pu Si Lung chúng tôi dừng xe đạp lại để nghỉ chân,anh Tùng đưa tay lên chỉ về phía trước nói:

─ Quý đệ có biết không, bên kia là mồ lạng tập thể trên 730 người dân Việt mình đó, còn nữa phía trái là mồ lạng trên 823 quân nhân Việt Nam, chính chúng anh an táng cho họ, những ngày chiến tranh ở đây bi thương vô cùng. Anh còn nhớ tối hôm đó chưa có đạn pháo, cả đoàn người của anh còn danh nghĩa Hoa Kiều, sáng hôm sau chúng anh được danh nghĩa Việt kiều tị nạn trên đất Trung Quốc, đó là giờ phút huynh chán chường nhất, vì đảng CSVN bán đứng chúng anh cho Trung Quốc!

Quân đội Trung Quốc dẫn cả đoàn người chúng anh đến một con sông nhỏ, thông qua núi Cũ. Họ lập danh sách và truyên bố: "Kể từ lúc này các người tạm trú trên phần đất biên giới của Trung Quốc, sẽ được chăm sóc tử tế và cấp giấy tị nạn".

Tiếp theo mọi diễn biến hung trong cuộc chiến tranh tại biên giới rất khủng khiếp, đảng CS Trung Quốc chiếm một phần biên giới lãnh thổ rộng lớn của Việt Nam và báo chí Trung Quốc loan tin đổi trắng thay đen, khoáy động hận thù dân tộc Trung Quốc, cho rằng Việt Nam khởi động chiến tranh trước, sau đó Trung Quốc mới tự vệ, cùng lúc đảng CS Trung Quốc sung công trên bốn trăm ngàn người Việt ti nạn (Hoa Kiều) đào giao thông hào, buộc phải hoàn thành trước hai tháng.

Quân đội Vân Nam Trung Quốc sử dụng giao thông hào nối liền từ Tây qua Đông của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đối diện với 6 tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và thị trấn Lộc Bình Quảng Ninh, thành giao thông hào vòng một, để họ chuyển quân sâu vào lãnh thổ Việt Nam.


Giao thông hào vòng một.
Phụ bản: Trương Hoán Tùng cung cấp
Giao thông hào vòng hai và vòng ba tiến sau không giới hạn từ Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.

Bản đồ toàn diện chiến tranh Đông Dương lần thứ 3
(Phụ bản. Trương Hoán Tùng cung cấp)
Đạn pháo đầu tiên tại giao thông hào vòng một mà người dân biên giới nghe được vào ngày 19 tháng 2 Năm 1979. Súng cối xạ như mưa vào Bản làng, Xã thôn, thị trấn Việt Nam, dân quân Việt Nam chết không kịp đem đi chôn, đến ba ngày sau quân đội CSVN mới phản pháo, thì toàn diện biên giới đã định chiến thắng nghiêng về Trung Quốc. Tuy nhiên quân đội Trung Quốc tử trận không phải là ít vì lối chiến trang cổ điển dùng biển người cướp đất, một sự kiện khác Trung Quốc quá đông dân, chết như thế có thấm vào đâu còn được lợi là khác, giảm miệng ăn vì Trung Quốc đang thiếu lương thực.

Mặt trời lên cao, xương mù vẫn theo dưới chân chúng tôi, đành phải tạm biệt anh Tùng, anh Dũng và biệt ly ải đầu tổ quốc thân yêu.

Huỳnh Tâm
Paris 02/01/2012
* Tiếp theo bài viết trước (Làng tị nạn Việt Nam tại biên giới Việt-Trung). Chúng tôi sẽ loan tải toàn bộ phóng sự biên giới Vân Nam, Quảng Tây và người Việt tị nạn tại Quảng Châu.-


-Bốn ngày đêm biên giới Trung Quốc-Việt Nam (Huỳnh Tâm)---


“...chúng em là người "Tây hành làng" đây, tưởng mấy anh là viên chức nhà Hán, ở huyện lên làng, tìm ăn hối lộ, cho nên chúng em làm một công hai việc, lấy lại tiền và giết chúng nó...”

Trên đầu núi gió thổi quá mạnh, áo đi mưa đập vào áo len phát âm thanh lạch phạch, tôi nhìn theo anh Tùng và anh Dũng một kẻ vừa sơ giao, một người thân thiết. Họ đi xuống đèo cách năm mươi mét không còn thấy bóng, mây đã che khuất họ, hình như chúng tôi cũng đang đi trên mây. Chuyến trở về này, đích thân tôi cằm tay lái xe đạp, vẫn đi trên đường cũ để về làng anh Minh. Chân đạp đều bánh xe lăn vô tư, trên con đường đèo cao khúc khuỷu lại chật hẹp, bề ngang chỉ bốn hay năm gang tay, lồi lên, lõm xuống, nước đọng thành nhiều vũng xình lầy, đi qua những con suối và rạch nước, không có đoạn đường nào phẳng phiu. Mỗi khi lên dốc hay đèo núi, lưng của tôi phải gù lại như con bò tót chuẩn bị húc địch thủ, chỉ có cách này mới đạp xe lên được dốc núi. Gặp đèo cao chúng tôi xuống xe đi bộ. Khi xe đạp xuống đèo núi, chân của anh Minh làm đôi phanh cho xe chạy từ từ. Xe đạp của anh Minh đi núi rất tiện dụng, nó không khác nào con bạch mã phi qua rào cản và những ụ đất cao trong trường đua ngựa. Xe đạp cứ thế âm thầm lao về phía trước, bỏ mặc hai bên đường lạnh ngắt, tiếng cầm thú lưa thưa. Đôi lúc rừng im phăng phắc trong âm u như đã chết, vắng bóng người đi ngược chiều, chỉ một lần gặp vài người dân tộc thiểu số về bản làng.

Tôi cảm nhận trong người lúc nào cũng lạnh rét, lẽ ra ngoài trời lạnh trong người phải nóng. Có lẽ vì sợ thanh vắng và hoang vu của rừng cho nên thân thể của tôi như thế.

Đi qua con suối trên đỉnh núi Pu Si Lung. Ảnh: La Minh
Chúng tôi dừng xe đạp lại để lấy sức, chuẩn bị lên đèo, lúc này tay tôi cầm lái đến lúc đã thấm mỏi không còn vững chắc, chân đạp liên hồi đã rã rượi, thế mà chỉ mới được 10 cây số trong hai giờ liền. Ngó lại sau lưng mới biết chưa ra khỏi đỉnh núi Pu Si Lung, xương mù ở đây cũng quái đản bám vào áo mưa thành những sợi nước lạnh không khác nào đang đi dưới mưa, đôi tay nhớt với sương mù trộn lẫn mồ hôi.

Mười phút sau, chúng tôi lên đường, hì hục đạp xe. Mới lên được lưng núi, bỗng chiếc xe đạp bị giật ngược, chúng tôi văng xa 3 mét, mỗi người mỗi hướng, hai ba-lô văng ra khỏi người anh Minh. Tôi chưa kịp lom khom đứng dậy, tức thì có bốn người trong những gốc cây cổ thụ bước ra như ma xuất hiện, từ đầu phủ xuống đến cằm bằng vải đen. Đặc biệt anh Minh đã đứng tấn thủ từ khi nào tôi không hề hay biết, anh gọi:

─ Tâm hãy cố đứng lên, đem theo xe đạp chạy trước, còn lại hai cái ba-lô để cho Minh lo liệu.

Tôi không chần chờ liền nói:

─ Té xuống như thế này đứng lên hết được rồi! Đau quá anh Minh ơi! Thôi thì bỏ mặc cho họ muốn làm thịt cũng được, vì nơi đây là sào huyệt của họ, xuôi tay thôi!

Anh Minh nói :

─ Đâu được, phải thanh toán bọn chúng, bỏ cuộc là mất tất cả.

Đột nhiên bốn gã đứng cười lớn tiếng, bỏ mặt nạ ra nói tiếng Việt:

─ Không có gì đâu, gặp nhau cùng người Việt cả không phải là thù, chúng em là người "Tây hành làng" đây, tưởng mấy anh là viên chức nhà Hán, ở huyện lên làng, tìm ăn hối lộ, cho nên chúng em làm một công hai việc, lấy lại tiền và giết chúng nó.

Tôi thoáng hiểu ý của họ và suy nghĩ:

 ‒ Bốn gã thanh niên này độ tuổi hai mươi, làm khấu tặc bất đắc dĩ, cũng không phải kẻ tệ, bởi họ mất một thứ gì đó rất cao quí, và ở núi lâu năm sinh tinh thần nghĩa khí, trong hận thù thấu xương không đội trời chung với người Hán, đó là một cách giải quyết khi con người không còn chọn lựa nào khác. Nếu như dân Việt mình ở quê nhà có một chọn lựa đúng mực và tinh thần cương quyết, ít nhất tinh thần như thế này, thì không đến nỗi phải mất phần đất biên giới rộng bao la.

Cũng một cách khác người dân phải tự mình đứng lên, bằng bất bạo động, làm áp lực với nhà nước, thứ đến nhà nước phải lắng nghe tiếng dân kêu và lấy quyết định không nhường cho Trung Quốc một bất cứ phân ly, tấc đất nào! Biết lắng nghe ý dân là nhà nước mạnh, làm gì mà sợ Trung Quốc đến nỗi phải cúi luồn dâng đất, bán dân mình làm nô lệ cho Trung Quốc. Dù gọi là chiến thuật mềm đi nữa cũng không thể để mất đất, phải nói đúng hơn đảng CSVN đã đến thời kỳ nhu nhược, đưa đất nước đến suy vong bằng nhiều hình thức. Đôi khi có vài người dân còn lương tâm cảnh báo nhà nước đảng CSVN, nhưng chế độ này làm ngơ vẫn miệt thị dân và “Phụ lòng dân Việt, tôn sùng người Hán, còn hơn thần thánh độc quyền duy đảng”!

Người dân sắc tộc
tại biên giới VN-TQ.
Ảnh: La Minh
Lúc này anh Minh đứng gần tôi, đôi mắt của anh không rời bốn gã thanh niên trẻ, còn bốn gã đi nhặt hai cái ba-lô, trên tay cằm một chai rượu và một gói lá tròn màu xanh, đưa tất cả cho anh Minh, anh chỉ nhận lại ba-lô nói:

─ Chúng tôi nhận lại hai ba-lô còn hai thứ ấy không phải của chúng tôi.

Một gã thanh niên nói:

─ Chẳng nhẻ hai thứ này là của ma à? Rõ ràng bốn chúng tôi thấy những thứ này từ trong ba-lô rơi ra mà.

Anh Minh cằm hai ba-lô trên tay thấy ba-lô của Tâm nhẹ hơn trước, để lòng ngạc nhiên suy nghĩ và hỏi:
─ Tâm có hai thứ này không?

─ Không biết hai thứ ấy có từ lúc nào, nhưng chai rượu đó đúng là đêm hôm trước uống còn dở dang.

Tôi hiếu kỳ, loạng choạng đướng lên xem thứ gì trong gói lá tròn màu xanh, liền nói:

─ Anh Minh ơi, đúng là của chúng ta, thì ra là một con gà luộc, trong ruột gà còn độn cả cơm gà, mùi vị như hôm qua, anh xem nào?

Anh Minh lấy xem cũng xác nhận đúng là hương vị hôm qua nói:

─ Minh hiểu ý, chính chị Hồng bỏ vào ba-lô để chúng ta hưởng dụng trên đường đi, chị ấy rất là tỉ mỉ, thôi thì mời bốn bạn cùng dùng ngay bây giờ, vì trời đã qua trưa lắm rồi.

Thế là cả sáu người cùng ngồi bệt xuống bãi cỏ uá vàng bên lề, dưới gốc cây đại thụ, dùng đôi tay như dao với mác cứ thế mà xé từng miến thịt gà, ăn với cơm gà, cả sáu người rất tự nhiên không phân biệt bạn hay thù, cùng nhau tu một chai rượu không nề hà vệ sinh.

Một trong bọn bốn người nói:

‒ Đã quá...

Người đối diện nói:

 ‒ Quá đã.

Chúng tôi vô tình gặp bốn đồng hương trong rừng sâu ở xứ người, vui buồn này không thể nói hết lời, quả là có một cái gì đó sống thực hơn người.

Một gã thanh niên lớn tuổi nói:

─ Em là đệ tử của Kim Dung, đã từng đọc hết kinh sử của ông ta, nhưng chưa có trang nào nói về cuộc giao ngộ kỳ duyên như thế này, chúng ta mới đúng là kiếm khách đứng ngoài kiến thức của Kim Dung.

Anh Minh cười nói:

─ Các bạn nói rất đúng, bình về Kim Dung phải như thế, cái trang này viết từ trong rừng sâu của xứ người, chỉ có sáu chúng ta đọc được mà thôi, chính nó đã miêu tả hết tình người Việt Nam, cảm tạ rường đất Việt.

Gã thanh niên lớn tuổi nói tiếp:

─ Chúng em hành động như thế các anh có buồn lòng không, nếu có thì chúng em xin lỗi nhé?

Dù sao trong lúc này, có ít nhiều cảm tình với họ, tôi đáp:

─ Người của "Tây hành làng" chơi kiểu này thì chết mẹ tôi rồi.

Mọi người cùng cười, chúng tôi nhìn vào gốc cây cổ thụ, thấy một sợi dây lòi tói dài, bện chặt lại với nhau bằng dây leo trong rừng, đang vắt ngang qua đường làm bẫy người. Họ có nhiều kinh nghiệm bẫy người, hỏi ra mới biết chỉ bẫy người Hán.

Từ lúc gặp nhau, chuyện trò, ăn uống đã hơn nửa giờ, anh Minh nói:
─ Chúng tôi phải lên đường ra khỏi rừng càng sớm càng tốt vì sợ gặp nhiều trắc trở khác. Hẹn có dịp gặp lại và sẽ tâm sự nhiều hơn.

Mọi người giới thiệu tên tuổi. Tôi liền viết địa chỉ Kun-minh đưa cho bốn tướng cướp mới quen và chào tạm biệt.

Lần này anh Minh cằm lái xe đạp, sau hai giờ chúng tôi đến biên giới núi "Lu Châu" vắt ngang qua dãy núi "Damajianshan" hy vọng 6 giờ chiều đến huyện Lu châu.

Đoạn đường này còn gian nan hơn dãy núi Pu Si Lung, mỗi lần lên dốc cao tiếng dây xích xe đạp chạm rít vào nhau kèn kẹt, chịu đựng sức nặng 120kl.

Nghe tiếng xích kèn kẹt, tôi sợ đứt giữa đường vội hỏi:

─ Anh Minh có khi nào dây xích đức không?

Anh Minh hiểu ý đáp:

─ An tâm, con ngựa này thuộc loại tốt có khả năng kéo 1,5 tấn hàng một lúc, hai chúng ta có ăn thua vào đâu.

Tôi muốn tìm hiểu về ngày loạn lạc tại Lào Cai và quá trình cuộc sống trong tám năm qua của gia đình anh Minh nên hỏi:

─ Anh Minh còn nhớ cuộc loạn lạc tại Lào Cai không, sau đó anh di chuyển bao nhiêu lần trại, rồi bao lâu mới đến "Dòng nhà làng", buổi đầu tị nạn, anh chị làm việc gì để sống và chuẩn bị thế nào cho tương lai mấy cháu?

Minh chần chừ một hồi lâu, thở ra một luồn hơi nóng, tức khắc hóa thành sương bay trước mặt, hình như anh đang xúc kích hồi tưởng lại tám năm đã trôi qua, trả lời:

─ Ngày 15/02/1979 chúng ta vừa qua khỏi biên biới Lào Cai, chỉ cần can đảm lấy quyết định vượt qua sông sâu, tránh được đạn pháo chiến tranh, cũng là nơi an toàn nhất trong phần lãnh thổ Trung Quốc. Chần chừ cho đến ngày 17/02/1979 thì có tin đồn Trung Quốc hạ lệnh cho phép quân đội tự do cướp không tha một ai. Thế là tin loan truyền nhanh. Người tị nạn Việt gốc Hoa mạnh ai nấy vượt sông Hồng để vào sâu lãnh thổ Trung Quốc. Hơn 120.500 người thi nhau dầm người xuống sông để chạy ra khỏi tầm ảnh hưởng lệnh cướp. Mỗi cá nhân còn phải bảo vệ gia tài trên lưng, sống chết không thể rời ba-lô, thế là chen chân, đạp lên nhau tìm sự sống. May cho mình có một ít võ nghệ và biết bơi cho nên cả nhà an toàn và tài sản còn nguyên vẹn, rất nhiều người chết lềnh bềnh trên sông, cũng có gia đình mất sạch tài sản vì cần sống trên hết, thê thảm nhất là nhiều gia đình chết ba còn một, chết bốn còn hai, con cái chết hết chỉ còn lại hai vợ chồng, nhiều quả phụ chồng con chết cả, v.v...

Nhất là gia đình của Châu Thành, tôi thấy họ mà cứu không được, như gia đình chị Trang cũng không tránh khỏi cảnh tan vỡ gia đình lớn đó. Đặc biệt không ai biết Tâm chạy về hướng nào, tất cả bạn bè không ai biết sống hay đã chết, ai cũng suy nghĩ và hỏi:– Tại sao Tâm đi một mình và biết bơi nhưng lại mất tích, tuy nhiên còn hy vọng gặp lại tại các trại tập trung.

Ngày tháng trôi qua không ai còn hy vọng, bỗng 5 năm sau (1979-1983) được tin Tâm đang ở trại tị nạn Galang I, Indonesia. Các bạn rất vui mừng, từ đó ai cũng an tâm và mọi người đều hy vọng sẽ gặp lại Tâm một ngày nào đó trên miền đất tự do. Không ngờ lại gặp Tâm nơi nguy hiểm nhất, chưa hề dám suy nghĩ một lần hẹn tái ngộ trên vùng đất của cha ông mình đã bị mất, nay thuộc đất của bành trướng xứ người, sự hiện diện của chúng ta là nhân chứng và nước mắt!

Tiếp theo nguyên nhân ra cảnh khốn khổ này, quả là bi kịch không ai đo lường trước được. Sau khi vào lãnh thổ Trung Quốc, đến ngày 22/02/1979. Họ chia ra làm hai nhóm.
Nhóm một, người Việt và sắc tộc biên giới không đem theo tài sản, có hơn 72.000 người, quân đội Trung Quốc đưa đi trước cho đến nay chưa biết dân mình đi đâu và ở đâu!
Nhóm hai, gồm Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo Hoa, gọi chung người Việt tị nạn, tất cả đều bị quân đội Trung Quốc trấn lột hết tài sản không tha một ai, được biết đó là chiến dịch làm sạch, lúc ấy trên lưng của Minh có trên 3 triệu đô-la, riêng người Hoa Đỏ đau đớn nhất, họ mang theo tài sản khổng lồ, có người trên 2 tỷ đô-la, mục đích về Trung Quốc để lập nghiệp và hưởng tuổi già. Đặc biệt Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo Hoa không đem theo vàng hay đá quí mà chỉ đem đô-la, bởi nó gọn và nhẹ, tiện và lợi tiêu dùng bất cứ nơi nào cũng được.

Quân đội Trung Quốc trấn lột hết tài sản của người Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo Hoa, rồi dùng phương tiện ngựa thồ chuyển chở đến 4 ngày vẫn chưa hết tải sản ấy. Nói chung số phận Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo Hoa đến lúc này đều đồng cảnh ngộ, không còn ai phân biệt các loài Hoa, tuy nhiên người Hoa Đỏ ôm hận thù hai đảng CSVN-TQ rất là sâu sắc, chỉ có kết không có giải, thù này đời họ ghi sâu vào ký ức.

Khi chưa vào biên giới người Hoa Vàng, Việt ăn theo Hoa rất kính nể Hoa Đỏ, người ta không dám xem thường Hoa Đỏ, bởi họ là thành viên của hai đảng CSVN-TQ. Thế nhưng qua một trận trấn lột, Hoa Đỏ đổi màu rất nhanh, từ trái dưa hấu vỏ xanh ruột đỏ, đổi thành ruột vàng. Trước đây kính nể Hoa Đỏ vì sợ, nay kính nể Hoa Đỏ vì họ biết tiếp nhận hòa giải trong cộng đồng, và họ hòa hợp để chung sống cùng đồng hương, trên thực tế mọi cõi lòng chỉ còn hai chữ Việt Nam, làm thân phận tị nạn trên đất Trung Quốc.

Về chuyển trại tị nạn thì đếm không hết, địa điểm trại luôn thay đổi, xem ra Minh đã đi hết biên giới tỉnh Vân Nam qua tỉnh Quảng Tây, người Việt tị nan tùy theo nhu cầu lao động tại biên giới, và hoán chuyển người Việt tị nạn đi khắp mọi nơi, người cũ không liên lạc được với nhau.

Khổ nhất là bị những tên "hỗ trợ" chiếu cố dân làng quá gắt gao, họ thay mặt quân lính biên phòng làm an ninh chìm, còn chủ làng chỉ là người phụ trách hành chính. Chính quyền Trung Quốc tin cậy những Hoa Đỏ trước 1975 đã từng hoạt động ở miền Bắc Việt Nam, sau đó mới đến Hoa Đỏ miền Nam Việt Nam. Ở nơi nào có Hoa Đỏ miền Nam Việt Nam thì nơi đó sống thoải mái hơn. Cho đến nay số Hoa Đỏ miền Bắc xem như về hưu hết. Đến năm 1984 chính quyền Trung Quốc cho một danh nghĩa chính thức (Người Việt tị nạn) gồm ba thứ Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo Hoa và một Việt sắc tộc cắm chung một bình.

Chúng tôi đã ra khỏi dãy núi Lu Châu và
đang xuống cánh đồng lúa làng Chung.
Ảnh: La Minh
Những ngày đầu tự nuôi sống mình. Già trẻ, nam nữ, phụ lão ấu, cùng đi lao động tại những đồn điền cao-su hay đi trồng cây Bạch Đàn và cây Bồ Đề, từ 8 giờ sáng đến 16 giờ chiều, sau một ngày lao động, nhận phần gạo đủ ăn cho một người, đôi khi nhận khoai củ hay bột khoai lang, chỉ thế thôi, ai ăn khỏe thì không đủ. Mọi người phải tự mưu sinh, như đi tìm cỏ rừng ăn đuợc gọi là rau. Nếu bị bệnh nhẹ được cấp củ gấu, hành, gừng, cam thảo đất, vỏ quýt (sao) uống 2 lần mỗi ngày. Bệnh nặng người ta cho uống bạc hà, kinh giới, cam thảo đất, lá dâu, lá tre, kim ngân, lá củ sắn dày. Hôm sau phải đi lao động, nếu vắng mặt bị cắt phần lương thực, cho nên dù có đau ốm cách mấy cũng phải ráng đi lao động!

Có người đi lao động quanh năm trong rừng chỉ tìm "Mật nhân". Minh sống tại "Dòng nhà làng" đến nay đã hơn ba năm, bây giờ người Việt tị nạn ở biên giới hơi rảnh tay, chỉ đi lao động cạo mủ cao-su vào lúc thu hoạch... cho nên ai cũng tranh thủ tạo cho mình một mảnh vườn nhỏ ở ngoài làng nhằm cải thiện gia đình, hai năm trở lại đây rộ lên phong trào vượt làng, và mọi người tập trung vào tương lai.

Chúng tôi ra khỏi dãy núi Lau Châu, vui mừng quá quên hết chuyện dài của anh Minh, lúc này chuẩn bị vào làng bên rừng và đi tiếp hai giờ nữa mới đến thị trấn Lu Châu.

Thị trấn Lu Châu. Ảnh: La Minh
Chiều nay, ngày thứ ba trên đường về Dòng nhà làng, đi ngang qua thị trấn Lu Châu, nhân tiện thăm một vòng trong thị trấn và mua những thứ cần thiết cho ngày 29/8/1987. Anh em chúng tôi ăn tạm những tô mì với đậu hủ, uống nước trà xanh, mua nào là thịt heo, bò mặn, thịt vịt, gà, cá khô và gia vị, tất cả bỏ chung vào một ba-lô, còn lại ba-lô thứ hai bỏ hai cái mền.

Đêm nay, nghỉ ngơi tại nhà nga, đến 5 giờ 30 phút sáng phải tranh thủ lên xe hỏa, chúng tôi chia hai ca ngủ, anh Minh ngủ trước từ 10 giờ đến 2 giờ sáng, tôi ngủ từ 2 giờ đến 5 giờ, khi ngủ phải ngược chiều đầu để dễ kiểm soát, một khi có kẻ lạ xâm nhập vào bên trong thì phải phản ứng tức thì.

Chia hai ca ngủ như vậy mới an tâm, xe đạp, ba-lô lương thực không bị mất, xe đạp để phía trong vách tường, chúng tôi nằm ở bên ngoài và khóa xe vào dây thắt lưng của anh Minh, anh Minh vừa nằm xuống ngáy ngủ phì phò. Phần tôi nằm ở ngoài, cả thân người trùm mền che sương gió, ba-lô kê cao đầu, đôi mắt lúc nào cũng cảnh giác người đi qua, kẻ đi lại. Đến 12 giờ đêm, chung quang chúng tôi có trên 150 người đồng ngủ khách sạn (5 sao) ngoài trời miễn phí, thấy họ ngủ trong tư thế bình an, đôi khi có người la lớn tiếng "盗窃 (đạo thiết) ăn trộm, 盗窃 ăn trộm...". Trong lúc này tôi suy nghĩ về chuyến xe hỏa cách đây sáu ngày, đi với người em họ từ Kun-Minh đến Bí-Sa, nhưng ấn tượng nhất là xe hỏa đi từ Bí-Sa đến Lu Châu.

Xe hỏa đang chạy
Ảnh: La Minh
Trên toa xe hỏa hôm ấy lưu lượng hành khách quá đông, trên tuyến đường này đi từ miền Đông xuống miền Tây và đến biên giới Miến Điện, anh Minh phải dùng đến hai cái khóa số tám, móc dựng đứng xe đạp vào thành ngoài xe hỏa và buộc vào dây thắt lưng, lúc đầu tôi có ý tưởng, chê cười thầm:‒ Anh Minh không như ngày nào, bây giờ anh xem vật chất trên hết, bởi vậy anh phải buộc xe đạp lại bằng dây thắt lưng và khóa số tám.

Tôi cho rằng một khóa số tám là đủ lắm rồi, thằng ăn trộm nào mà lấy được chứ ?
Tôi không để ý về tư chất của anh Minh nữa, chỉ mong sao đến nơi thăm anh chị Dũng là đã mãn nguyện, đường còn dài 175 cây số xe hoả chạy bằng than đá, xe quá cũ lại chậm rì, tuy vậy còn nhanh hơn xe điện Hà Nội hơn ngàn lần (1983). Hai giờ sau, bỗng anh Minh la lớn tiếng: "‒ 海盗劫持,可能无法运行我离开我的手 (Hải đạo kiếp trì, khả năng vô pháp vận hành ngã ly khai ngã đích thủ) Cướp cướp, mày không chạy khỏi tay tao".

Nhờ dây thắt lưng, anh Minh quật lại được xe đạp, chân anh đá kẻ trộm rơi xuống đất, tôi thấy kẻ trộm từ xa lọm khọm đứng lên và chạy theo đu lên xe hỏa. Lúc này tôi thấy chỗ tôi ngồi trống trải một các lạ kỳ, anh Minh vội móc xe đạp vào thành trong xe hỏa nói:
─ Tâm có biết không, chúng nó đi ăn cướp cả bầy, khi phát hiện chúng tự tản mác cho nên chỗ này hóa ra trống trải một tí. Tâm thấy không hai khóa số tám mà chúng vẫn mở ra được một cách nhẹ nhàng, quả thực không ngờ được. Đúng là tay cướp chuyên nghiệp trên xe hỏa, cũng may có đề phòng dây thắt lưng, mình thờ ơ là mất xe đạp tức khắc. Rất tiếc cho xã hội, đất nước Trung Hoa đào tạo quá nhiều ăn cướp mà không có anh hùng!

Trong thâm tâm, tôi hối hận vì trước đó vài giờ chê anh Minh quá đáng, bây giờ mới hiểu, anh không phải vì yêu vật chất, mà lòng anh chủ yếu muốn bảo vệ tôi, xe đạp là phương tiện di chuyển đưa tôi đi đến nơi, về đến chốn. Sau đó tôi nói với anh Minh:

 ‒ Cảm ơn anh nhiều, nếu không phải là anh thì tôi không bao giờ đi thăm được anh chị Dũng.

Tôi xem gã trung niên nằm bên là bạn đồng hành không để ý. Đến một giờ sáng, thấy gã đứng lên tưởng đi tiểu tiện, nào ngờ gã giật cái ba-lô của tôi đang gối đầu, rồi chạy biến vào bóng đêm mất hút, đầu của tôi bị va xuống đất, đau quá mà không la lên được vì sợ anh Minh thức giấc!

Cái ba-lô bị mất, tôi suy nghĩ thầm:

‒ Có đi sâu vào xã hội Trung Quốc mới thấy mặt trái của nó, chỉ vài giờ trôi qua mà đã có nhiều tiếng la cầu cứu bắt 盗窃 (ăn trộm), bắt 盗窃 ăn trộm... Nếu có những nhà thống kê đi làm việc, thu thập tiếng la cầu cứu trong xã hội Trung Quốc, tôi tin rằng những tiếng là cầu cứu này sẽ tương đương với dân số Trung Quốc.

Thời gian qua mau, anh Minh thức dậy thay ca và đổi chỗ nằm, tôi vào trong, anh Minh ra nằm ngoài, anh Minh hỏi:

─ Cái ba-lô đâu?

─ Bị chúng cướp rồi.

Anh Minh, lắc đầu rồi nằm xuống nói:

─ Tâm ngủ đi.

Thế là tôi trải qua một cơn mơ thấy tiên, thấy tiền đến 5 giờ sáng anh Minh thức tôi:

─ Tâm, thức dậy mau lên, còn vài phút nữa là xe vào ga.

Thế là tiên, tiền biến mất, tôi vẫn còn tiếc, phải chi ngủ mơ như thực thì hay biết mấy.

Tiếng còi tàu hỏa kéo inh tai, bánh xe lăn từ từ tiến vào sân ga, anh Minh tranh thủ đưa xe đạp lên tàu hoả, tay anh nhịp nhàng khóa xe đạp như mấy ngày trước, còn tôi tay nải ba-lô lương thực, tay nải hai cái mền, lên xe có chỗ ngồi ổn định. Chúng tôi thở phào nhẹ người, lấy lại bình tĩnh, trước khi xe chạy tôi cảm thấy cái ba-lô bị méo, rờ xuống đáy ba-lô mới biết gói thịt bò bị lòi ra ngoài hơn nửa, xem kĩ thấy đường rạch thẳng của lưỡi dao cạo.

Tôi liền nói:

─ Anh Minh, tôi không còn kiên nhẫn để thấy bọn Trung Quốc cướp chợ này.

Anh Minh cười nói:

─ Tâm cứ chịu đựng sẽ qua thôi, người lương thiện không bao giờ sống dưới xã hội trộm cướp này được, nếu sống thì từ chối sinh hoạt của họ, bởi vậy chúng ta lấy khả năng để thủ trong mọi tình huống. Bây giờ Tâm lấy hai cái mền bao phủ ba-lô lại, có như vậy thì chúng tự biết khó mà rạch được, đôi mắt của chúng cũng không còn dán mắt vào ba-lô nữa thế là an toàn.

Tôi hỏi:

─ Thế thì anh Minh đã bị bao nhiêu lần trắng túi.

─ Đã bị hai lần, lần đầu bị quân đội Trung Quốc trấn lột vào ngày 22/2/1979. Lần thứ hai bị bọn cướp chợ rạch túi, kinh nghiệm lấy từ đó ra để tồn tại trong xã hội này.

Hôm nay là ngày thứ bốn, chúng tôi ăn ngủ bất thường, tiếp tục chia ca để ngủ ngồi, và canh chừng xe đạp lẫn ba-lô lương thực, tuy đã quá mỏi mệt nhưng phải cố gắng nhắm mắt để lấy lại sức khỏe. Trong xe người đông như nêm, trăm ngàn mồ hôi bốc khói, trộn lẩn với mùi nhà xí cách hai mét, thế mà cũng có năm người đứng trong nhà xí, vì lên sau không có chỗ ngồi, riêng tôi không thể nào ngủ được cứ ngồi lấy mắt nhìn người.

Xe hỏa vào sân ga Bì Sa. Ảnh: La Minh
Đến 18 giờ chiều tàu hỏa vào sân ga Bí Sa, chúng tôi vội vã lấy xe đạp và ba-lô lương thực. Lúc xuống xe, xem lại ba-lô lần cuối thấy nguyên vẹn thế là an tâm, còn một đoạn đường dài khoản 16 cây số mới về đến làng. Vào làng đã 21 giờ 25 phút đêm, vài con chó chạy ra dàn chào hàng ngang sủa inh ỏi.

Anh Minh nói nhỏ bằng giọng cuống họng:

─ Những lúc chó sủa như thế này, cả làng tự hiểu có quân đội biên phòng Trung Quốc đi qua làng.

Chúng tôi rội đi thẳng vào nhà, mỗi người tự động lăn ra ngủ mang theo vất vả của bốn ngày đêm biên giới Trung Quốc-Việt Nam.
Huỳnh Tâm
Paris 09/01/2012

* Tiếp theo bài viết trước (Biệt ly ải đầu tổ quốc thân yêu)
* Sau 33 năm (1979 ‒ 2012), người Việt tị nạn vẫn còn sống tại rừng sâu biên giới Trung Quốc-Việt Nam.-



-
Bí mật 300.000 người tị nạn mất dấu tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc (Huỳnh Tâm)
“..người Việt tị nạn chưa bao giờ được hưởng quyền tị nạn, chưa nói đến quyền của một công dân Trung Quốc. Cuộc đời của chúng ta bị đảng CSVN bài Hoa, rồi đến đảng CSTQ từ chối gốc tịch Hoa!…”

Đồng hồ đã hơn 8 giờ 12 phút sáng. Trong nhà nhiều tiếng nói ồn ào, tôi thức dậy, chân bước nhẹ đến khe cánh cửa ngó thấy nào là Đào xích lô, Tùng Trung sĩ, Mỹ Châu hộ sản, Linh Ái Cầu Muối, Thảo Liên Dược, chị Trần Thị Trang Y Khoa và Vinh cút kít. Tôi vội ra sau nhà rửa mặt, đúng lúc anh Minh bước vào nói:

─ Tất cả bạn bè không thiếu một ai, đã tụ về đây ngày hôm qua, chỉ chờ Tâm là đình đám như xưa.

Tôi vội vã rửa mặt, thay quần áo, trong người vẫn còn lừ đừ vì ngủ chưa lấy lại sức, thế mà trong lòng vẫn reo lên niềm vui, đầy ắp háo hức, chân bước rội ra chào bạn bè, đụng phải ngạch cửa, đầu chúi nhủi về phía trước, may có Tùng Trung sĩ đưa tay chặn lại, lấy được thăng bằng, cúi đầu chào:

─ Tâm, xin chào quý anh, chị thân thương, mọi người trên đường đi có suôn sẻ không?

Linh Ái Cầu Muối nói:

─ Đương nhiên thuận dòng, xuôi gió mới đến đây, kẻ gửi chồng con cho làng, người gửi vợ cho đàn xóm, chỉ vì tin Tâm có mặt tại "Dòng nhà làng" thế là mọi nguời bỏ hết việc, không cần trang điểm, lập tức đi như bay.


Đồn bót biên phòng của Trung Quốc
trên khu vực sông Nậm Ma
Vinh Cút kít liền nói:

─ Các bạn nói thế để thằng Tâm nó an lòng, thực ra Tâm đã hiểu hết, vì bốn ngày Tâm với anh Minh trôi giạt tận mãi hướng Tây biên giới để viếng thăm người nhà. Quý ông, bà nếu tiện miệng cho Tâm biết về thiên đường cực lạc biên giới là cái gì nhá?

Đào xích lô nói:

─ Tâm cứ hình dung Điện-các của anh Minh là biết thiên đường xa, địa ngục biên giới gần, tại hạ đã chọn đường địa ngục cho an phận!

Mỹ  Châu hộ sản nói:

─ Ai kia, thân nam nhi mà ý chí hạ nữ, biên giới này không thể là nơi an nhàn thủ phận, dù Thượng đế có cho tôi cai quản cõi này, tôi liền xin từ chối, bởi cảnh tiên này muôn ngàn não ruột, chỉ có hôm nay mới thấy niềm vui đến với mình. Cảm ơn Tâm! Quả thực thèm cái vui này từ lâu, một thời chúng ta tung hoành trên quê hương, và tôi đã nói quá nhiều lần, khuyên mọi người hãy hạ giới càng sớm càng tốt, đừng ôm thân phận bi quan, hỡi quý ông thần hãy lạc quan lên đi chứ?

Tùng Trung sĩ nheo mặt nói:

─ Thấy không, Châu hộ sản, lúc nào cũng thôi thúc người khác, còn mình lì lợm, lúc mới vượt biên giới thì ôm chồng, đến nay ôm bốn đứa con, nến thời bình thì họ ôm một lúc tám đứa con là ít.

Chị Trang nghiêm nghị nói:

─ Riêng tôi, đã bí lối rồi không còn sức để hạ giới (bỏ làng) vì quá thất vọng.

Chị Trang oà lên khóc, tiếp theo Mỹ Châu hộ sản, Linh Ái Cầu Muối, Thảo Liên Dược đồng khóc.

La Minh từ dưới bếp đi lên thấy bốn cọp cái khóc, liền la:

─ Này nữ tứ-quái, ở đây không phải là hý viện, từ bé đến giờ mỗi khi nói đến địa ngục là tứ quái khóc. Thôi được rồi! Hãy buông màn khóc xuống, đi vào bếp lo nấu nướng cho hợp khẩu vị thì Tâm sẽ cho biết nhiều tin vui.

Đúng 10 giờ, tiếng nói của chị Trang từ dưới bếp vọng lên:

─ Cậu Minh, tất cả đã chuẩn bị đủ lễ vật, nào là "Tam sinh" hương, hoa, trà, quả vậy khởi hành thăm mộ chị Tú Hà và các cháu chưa?

─ Thưa chị, đúng 10 giờ 30 phút khởi hành, các bạn nhớ tuy là hình thức nhưng phải có bài bản như thực, đừng để người ngoài biết bên trong chúng mình lấy cớ hợp mặt nhé ?

Đúng 10 giờ 30 phút, ông chủ "Dòng nhà làng" họ Hứa tên Bông Linh nguyên Đại úy, và ông chủ "Âu nhà làng" họ Phó tên Như Bá, nguyên Trung úy MTGPMN, đến tham dự ngày giỗ chị Tú Hà, họ đến bằng tấm lòng thân thiết do anh Minh mời. Họ đem theo hoa, một chai rượu trắng và hai con gà luộc, họ xem bạn của anh Minh như anh em với họ. Họ ngưỡng mộ tính năng động và những hoạt động vì người, sống vô tư dù có lúc bên ngoài đe dọa đến bản thân. Chính vì thế họ đến với nhau không ngại mọi điều, khi có dịp ngồi lại họ trải bày tâm sự không tiếc lời. Ngược lại anh em chúng tôi cũng xem Đại úy đỏ Hứa Bông Linh vá Trung úy đỏ Phó Như Bá cùng đồng người Việt, chia sẻ chân thực thể hiện bằng tình người nặng nghĩa.

Sau khi làm giỗ cho ba mẹ con chị Tú Hà, tất cả về nhà anh Minh dùng cơm trưa, trong lúc dùng cơm, mọi người nói rất nhiều vấn đề nào là sinh hoạt làng này làng kia, phiền nhất là không liên lạc được bên ngoài làng, tất cả đời sống ở làng tự túc. Đặc biệt nói về người tị nạn mất tích, bị trấn lột, nói nhiều về chiến tranh biên giới Việt Nam –Trung Quốc, bởi mọi người nguyên là chứng nhân bất đắc dĩ.

Tôi chú ý nhất, lúc họ viện dẫn Trung Quốc chủ động chiến tranh, đưa đến trói buộc người Việt tị nạn làm thân trâu bò phải thồ, tải đạn vào chiến trường, khoán chỉ tiêu đào giao thông hào, làm vòng đai đại pháo, lập bẫy mìn dọc theo biên giới, rất nhiều người bỏ mạng vì đói rét, bệnh tật.

Ngày nay trong ký ức người Việt tị nạn còn đó những vết hằng sâu, diễn biến từng giờ rùng mình, khổ đau mãi mãi thấu xương, trong lòng bàn tay vẫn từng ấy dấu vết lao động chiến truờng chưa phai.

Anh, chị, em còn cho biết: Lúc trước những làng tị nạn ở vị trí cao nhìn về hướng Nam thấy chiến tranh như mồn một. Những ai là cựu quân nhân, từng kinh nghiệm chiến trường như anh Hứa Bông Linh, Phó Như Bá, Vinh cút kít, Tùng Trung sĩ đều định vị được chiến lược và vẽ được bản đồ tiến quân của liên quân Trung Quốc tiến vào lãnh thỏ Việt Nam. Họ chiếm một phần lãnh thổ biên giới Việt Nam, cuối cùng họ chỉ trích cả hai đảng CSVN và TQ về mặt chiến tranh, thi nhau tàn sát người dân Việt Nam.

Vốn tôi có ít nhiều hệ lụy với người Việt tị nạn tại biên giới Trung Quốc, trước đây khi chưa đến đây đã nghe người ta nói nhiều về mảnh đời biên giới lắm lao đao, tôi khó tin lời nói của họ đôi khi còn hồ nghi vì tôi cũng là một tị nạn tại Galang Indonesia. Mãi đến nay có dịp đứng tại biên giới Việt-Trung mới nghe được chuyện người thực, việc thực của nhiều chứng nhân. Đích thực lời nói của những chứng nhân này làm tôi choáng váng, họ nói bằng lương tâm hoàn toàn giá trị, không phiến diện và không tùy theo cảm tính. Từ những cựu quân nhân mà một thời đi theo MTGPMN, và cả cộng đồng người Việt tị nạn đồng xác nhận những đoạn đời tị nạn ở biên giới chín chết, một sống chỉ cách đầu, cách đất một ly.

Tôi không thể nào chở hết những lời chứng nhân cùng một lúc vào lòng, tự tôi trở thành kẻ xay xẩm mặt mày trước cảnh bi thương của họ, chỉ ghi nhận những sự kiện đau đớn nhất trên phần đất của tổ quốc Việt Nam bị Trung Quốc chiếm lấy mà không nghe một tiếng la làng nào từ phía nhà nước Việt Nam. Đầu óc hồ nghi nhà nước Việt Nam âm thầm ký kết trao tặng biên giới Việt Nam cho Trung Quốc, đến nay (1978) nhân dân Việt Nam và thế giới không hay biết gì về vị trí biên giới của Việt Nam - Trung Quốc ở tọa độ, vĩ tuyến nào!

Lòng ngậm ngùi, buồn cho thế sự quê hương, đến độ tôi không còn chịu đựng được phải đè ép, nén lòng xuống thật sâu không cho cảm xúc lệ tràn, hầu lắng động lại tâm hồn để còn đi tiếp trên đường dài biên giới, và thu thập đời sống thực một cộng đồng tại biên giới không giống đời thường hay ở cõi hành tinh nào đó chưa ai khám phá. Một đặc thù khác, tôi rất thán phục ở công đồng này, họ lấy quyết định đồng thuận, hòa giải giữa người Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo máu Hoa, người Việt biên giới và người Việt sắc tộc, đồng chung sống với nhau. Họ còn đồng thuận hòa hợp trên nhiều mặt, sinh hoạt đời sống cộng đồng theo văn hóa Việt, điểm chung đời tị nạn không xa rời văn hóa chào đời và tiếp tục lưu truyền nơi sinh cư.

Họ đã hòa hợp được và thành công, trách nhiệm của cộng đồng họ chia nhau trong cuộc sống, nhất là bảo vệ an ninh, đương nhiên Hoa Đỏ có nhiều kinh nghiệm. Trước 1975, đảng CSVN lừa đảo chính trị và chưa bao giờ lương thiện đối với mục tiêu họ muốn đạt được, buộc họ thực hiện theo mệnh lệnh để vươn lên bằng những thứ trao đổi quân hàm Đại úy, Trung úy v.v... Sau khi ảo vọng bị té ngã, mới thấy mình đu trên dây cuộc đời để chúng lừa gạt, nhất là ở tuổi thanh xuân bị chúng lấy hết nhiệt huyết. Hôm nay Hứa Bông Linh, Phó Như Bá lấy kinh nghiệm có được, đối phó với đời thường trước đảng CSTQ, hầu đem lại sinh tồn cho cộng đồng. Còn về tổ chức cộng đồng các bạn của tôi trội hơn, bởi tất cả trước đây là Hướng Đao sinh biết tổ chức, biết ứng biến trong mọi tình huấn và cũng là thành viên Du-Ca có biệt tài tác động xã hội, sống vui khoẻ. Những anh, chị, em ấy đều có vốn chuyên môn trong xã hội miền Nam Việt Nam trước 1975. Ngoài ra cũng có vài cựu quân nhân VNCH như Vinh cút-kít, kỷ sư Phú Thọ, nguyên là Trung úy Biệt kích và Tùng Thiếu úy Biệt Động Quân "sau 1975 chúng tôi đùa, giáng chức của Tùng thành binh nhì, đến năm 1976 chúng tôi đề nghị truy tặng chức Trung sĩ". Đặc biệt Vinh từ khi di chuyển về "Âu nhà làng" mới có biệt hiệu Cút-kít, nguyên là tác giả các loại xe "Cút kít biên giới", như xe chở đất làm nhà, xe chở cây Bạch Đàn, Bồ Đề, Cao su và tải bệnh nhân, trước kia không có xe Cút kít dân làng đem thân đổi sức nặng để lấy từng hạt gạo nuôi mạng sống. Cho nên người làng gọi anh Minh và Vinh với cái tên thân thiết "huynh đệ làng".

Xe cút-kít rất hữu dụng,
khi các em bé dùng làm phương tiện rong chơi
Dòng nhà làng và Âu nhà làng tự tạo ra nhiều tiện nghi cho cuộc sống cộng đồng, xe Cút-kít là một ví dụ. Về giáo dục có anh Minh và chị Tú Hà đôi họa sĩ qua màu sắc pha đậm trữ tình, nhưng khi đến đây anh có thêm biệt tài chuyên hành chính, như làm các loại đơn cho đồng bào, giúp "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng" tổ chức các lớp học tiếng Việt cho trẻ em và ngưới Việt sắc tộc, còn chị Tú Hà phụ trách lớp toán cho trẻ em và người Sắc tộc, từ đó hai làng có một bản sắc tị nạn riêng của nó.

Hôm trước anh Minh kể về chuyện lớp toán của chị Tú Hà: " ‒ Một hôm Hà về nhà tủm tỉm cười có vẻ đắc ý, Hà nói: Minh thử nghĩ xem, khi chúng mình tiếp cận đồng hương Việt sắc tộc, họ không biết đọc và viết, thế mà hôm nay đồng hương đã biết đọc-viết như chúng mình, ngoài ra họ còn biết làm bốn toán pháp cộng, trừ, nhơn, chia, toàn thể đồng hương đã đếm được con số triệu. Hà nói đùa tương lại quý bạn sẽ có ngần ấy tiền, mọi người đồng vỗ tay cười và đồng nói lớn tiếng "hy vọng".

Rất tiếc chị Tú Hà qua đời sớm, chị mới ba mươi bốn tuổi, vướng bệnh dịch tả trong làng, chị bị mắc bệnh do lòng nhân ái, hy sinh vì mọi người, mỗi ngày chị làm vệ sinh cho bệnh nhân và tẩy uế thi thể trước khi đưa ra nghĩa trang, đến ngày thứ mười bốn chị và hai cháu vướng vào dịch tả, lên cơn sốt hai ngày cả ba mẹ con tiếp nối qua đời, ngày trước ngày sau, thế là gia đình anh Minh có trong danh sách 1.526 người chết vì dịch tả.
Cùng lúc anh Minh đề nghị tiêu hủy làng. Vận động cách ly người chưa bệnh ra khỏi làng ở tạm những chòi tranh mới dựng lên, những vật dụng đun lại bằng nước sôi v.v... Dòng nhà làng, trải qua một thiệt hại khủng khiếp. Hơn hai năm trước, khi dịch tả xuất hiện ở làng này, chính quyền địa phương không hề đoái hoài đến người Việt tị nạn tại biên giới, từ đó dân làng oán thù những chế độ CS còn hơn hận địch tả.

Có đến nơi mới nhận diện được đời sống thực của dân mình quá gian truân, và hiểu được thế nào là cộng đồng người Việt tị nạn tại biên giới VN-TQ. Tôi cảm kích họ về mọi mặt sống. Ngày nay sinh họat của cộng đồng "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng" đã thay đổi nhiều, họ dự trù vào tháng 10/1987 mở một chợ phiên tại giao lộ gần thị trấn để giao lưu thế giới bên ngoài và cải thiện đời sống bên trong làng. Họ dùng trí tuệ sáng tạo và bảo vệ đời sống cho nhau. Rất tiếc tôi chưa viếng thăm những làng biên giới khác. Tuy nhiên cũng biết đại khái tình trạng những làng như nơi định cư của Đào xích lô, Tùng Trung sĩ, Mỹ Châu hộ sản, Linh Ái Cầu Muối, Thảo Liên Dược, chị Trang Đao Khoa.

Được biết những làng của quý bạn của tôi vướng ít nhiều vấn đề an ninh, cho nên việc tổ chức cộng đồng chưa theo kịp mẫu "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng".

Tôi ngồi gần ông chủ làng "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng", lúc này mạnh miệng gọi bằng anh cho thân mật hơn và chủ ý tạo tình cảm càng nhiều càng tốt, tôi hỏi:

─ Thưa quý anh, tôi mới đi qua một vòng hẹp biên giới Vân Nam Trung Quốc, đã hình dung được một số dữ kiện về cộng đồng người Việt tị nạn sống tại biên giới từ 12 năm qua (1975-1987). Sau 1975 đảng CSVN bài Hoa gọi họ là người Việt có máu Hoa. Việt Nam từ chối không cho họ đất sống. Họ phải ra đi đúng lúc hai đảng CSVN và TQ chiến tranh ngày 17/2/1979 tại biên giới, biến họ thành người Việt tị nạn, một cụm từ chua chát và Trung Quốc chính thức từ chối họ lần thứ hai. Từ đó họ thường hỏi: "Tại sao không phải là người Việt hay người Hoa".

Lương tâm nào phán xét lành dữ cho công minh, đảng CSVN có phần trách nhiệm. Bởi sự hồ đồ nhất thời bài Hoa, sau khi cộng đồng này vào Trung Quốc, họ càng bị phân biệt đối xử. Chính quyền Việt Nam chỉ cần nhận họ một tiếng người Việt để quyết định số phận của họ. Hai đảng CSVN-TQ chưa hề có luơng tâm đối xử đẹp với cộng đồng này. Tôi nói như thế có phiến diện không?

Anh Hứa Bông Linh liền đáp:

─ Bạn nói như thế còn nhẹ như bấc cho hai đảng CSVN-TQ, đối với chúng tôi thường khi nói đến vấn đề này là nổi lên gay gắt và phải mạt sát hai đảng CSVN-TQ, không nương tay, bởi chế độ CS nó không xót xa cho ai cả, khi cần thì nó tìm đủ mọi cách thuyết phục, khi hết cần nó thải ra như nước ống cống! Tôi muốn bạn nhận diện một cách trung thực hơn về cộng đồng người Việt tị nạn tại biên giới này, đó là nguyên nhân tôi xin phân tích một cách khái quát trong cộng đồng hòa hợp từ năm nhóm người nay là một như:

• Nhóm thứ nhất, Hoa Đỏ thân Lục Địa (Mao), trước đây họ đã sống miền Bắc Việt Nam trên 12.500 người.

• Nhóm thứ hai, xuất hiện trên 123.000 người Hoa, trước năm 1940-1950 tại miền Nam Việt Nam, như "Hoa Vàng thân Đài Loan" và "Hoa Đỏ thân Mao" chung sống với người Hoa thuần Việt Nam tại Chợ Lớn, Sài Gòn và các tỉnh miền Nam Việt Nam, trải qua năm thập niên, số người Hoa này tăng nhanh lên đến hơn 450.000 người.

• Nhóm thứ ba, người Hoa vào thời Chúa Nguyễn đã hòa nhập vào xã hội Việt Nam, cách nay hơn ba bốn thế kỷ, họ không còn bận tâm đến gốc Hoa. Sau 1975 dưới mắt đảng CSVN vẫn cho rằng họ có máu Hoa, từ đó quả nhiên một hệ lụy nghịch cảnh đến với họ, thế là bị bài Hoa, bị tống khứ về Trung Quốc. Tuy nhiên thành phần này đi không đáng kể, vì họ không còn thân nhân ở Trung Quốc, cho nên nhiều người chọn vượt biên biển Đông.

• Nhóm thứ tư, người Việt Nam ăn theo máu Hoa, số người này rất ít, họ có ý định mượn đường Trung Quốc đi nước thứ ba, cũng như người Hoa Vàng tìm đường về Đài Loan vì ở đó có người thân.

• Nhóm thứ năm, người Việt sống biên giới và người Việt sắc tộc cao nguyên Bắc Việt Nam, đối diện Bắc phần tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.

Hoa Vàng, Hoa Đỏ, Hoa thuần Việt, Việt ăn theo máu Hoa, Việt biên giới và Việt sắc tộc biên giới, 5 nhóm hiện diện ngẫu nhiên trở thành cộng đồng tị nạn tai biên giới Việt Nam –Trung Quốc, được nhà nước Trung Quốc công nhận một tên chung (người Việt tị nạn) tổng số hơn một triệu người.

Anh Hứa Bông Linh cho tôi những con số và cách sống riêng của cộng đồng tị nạn, cho thấy những điểm này sẽ có sự tác hại của nó trong tương lai, nếu hai đảng CSVN-TQ cố tình tạo ra một áp lực chính trị hay quân sự nào đó.

Lần đầu tiên chúng tôi tiếp cận được cộng đồng tị nạn biên giới phía Nam, Vân Nam Trung Quốc, hiểu được người Việt tị nạn đã chịu đựng những năm tháng dài thống khổ và cùng cực nhất thế gian, đời họ bị biệt lập, sống và chết không liên hệ với thế giới bên ngoài.

Tất cả người Việt gốc Hoa về lại cố quốc, hay người không Hoa nói chung, đều phải chịu nghịch cảnh trên danh nghĩa (người Việt tị nạn). Từ lúc đảng CSVN bài Hoa và tống khứ dồn dập người Việt gốc Hoa về bên kia biên giới Trung Quốc.

Nhà nước Trung Quốc liền tập trung họ vào những trại gọi là tiếp cư, hứa: "Sẽ chuyển người tị nạn đến nơi định cư nhanh và an toàn".

Tin vui đến, nhất là người Hoa vàng v.v... suy nghĩ đơn thuần, đây là chặng đường quá cảnh để ngày mai về đất lành Đài Loan hay Hong Kong, còn người Hoa đỏ giản dị hơn, mai này sống an nhàn trên quê hương, xứ sở.

Trong lúc tranh tối tranh sáng, người tị nạn nào ai có hiểu thấu những tuyên bố trên chỉ là nghệ thuật tiếp tục trấn lột tài sản trên lưng của người tị nạn đang lao tới. Người tị nạn bao giờ cũng có một viễn tượng hạnh phúc phía trước nhưng không bao giờ đi tới bởi  vì CS cản trở ước vọng của loài người.

Một hứa hẹn của nhà nước Trung Quốc, tạo cho cộng đồng người Việt gốc Hoa một lòng tin, thế là tiếng đồn bay xa dòng chảy tị nạn đường bộ, ngày càng mạnh mẽ hơn, cuối năm 1978 và đầu năm 1979 tại biên giới tăng thêm con số 300.000 người, chưa kể người tị nạn đi bằng ghe thuyền tại vịnh Bắc bộ thuộc tỉnh Quảng Ninh Việt Nam, họ đến thẳng Quảng Châu và đảo Hải Nam Trung Quốc.

Anh Hứa Bông Linh cho biết thêm:

─ Ngày 19/2/1979 chiến tranh thực sự bùng nổ, đạn pháo ào ào, trải thảm đỏ cháy hừng hực khắc biên giới, biển người bộ đội Trung Quốc cứ thế mà dâng lên từng đợt sóng, còn dân quân tại biên giới Việt Nam, họ kiên trì chống địch, đến nỗi không còn sức đễ giữ xóm làng, cuối cùng đa số bị tử thương và một số ít bắt làm tù binh. Người dân chạy bỏ của lấy người, chạy không định hướng, kẻ về hướng Bắc, người chạy hướng Nam, khi nghe tiếng đạn pháo đâm đầu chạy ngược lại, đưa đến tình trạng dân quân ta và thù cùng chết trên một dòng sông Hồng.

Người tị nạn Việt gốc Hoa chết bên bề sông Hồng,
cũng ở trên dòng sông Hồng này.
Dân quân VN và kẻ thù TQ cùng một cách chết.
Nguồn: Trương Hoán Tùng.
Đến ngày 22 tháng 2 năm 1979. Bộ quốc phòng Trung Quốc truyền lệnh cho Lữ đoàn 119 bộ binh, tung ra trung đoàn 6 tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, chiến thuật 6 lớp quân, chiếm từng làng và huyện lỵ. Tiếp theo lực lượng quân nhu Trung Quốc thực hiện chiến lịch làm sạch 300.000 người Việt gốc Hoa mới qua biên giới trước đó vài hôm, biến thành một xung đột dã man về tâm lý, từ đây biến người Việt gốc Hoa thành kiếp "người Việt tị nạn" dù Hoa Đỏ hay Hoa Vàng cũng không còn giấc mơ trở về cố thổ để làm công dân Lục địa hay Đài loan. Cùng lúc Đặng Tiểu Bình trên cương vị Tướng-Soái lên đài truyền hình 3 lần nguyền rủa, công kích gắt gao, kèm theo nhiều lời đe dọa Việt Nam, Đặng Tiểu Bình còn khuyết khích: "người Việt tị nạn có quyền tham gia chống đảng CSVN". Người dân Trung Quốc xem họ Đặng là kẻ háo hức tạo ra chiến tranh biên giới, chính họ Đặng không trung thực lời nói "Tự Vệ".

Cùng ngày Lữ đoàn 119 bộ binh của Trung Quốc, cho bọc lên hướng Tây nơi tập trung người Việt tị nạn đông nhất, nhiệm vụ tiến hành làm sạch "trấn lột" 300.000 người Việt tị nạn tại sáu đoạn sông Nậm Ma.

Tiến hành trấn lột sạch, chiến lợi phảm trên lưng
người Việt gốc Hoa, tại 6 đoạn sông Nậm Ma,
nơi tập trung người Việt tị nạn đông nhất.
Bản đồ: Hứa Bông Linh.
Những chứng nhân Hoa đỏ, như Trương Hoán Tùng, Hứa Bông Linh, Phó Như Bá, Kưu Thiên Tài, Mã Anh Thu, Quách Tình, Hứa Hữu Nhật.

Tám người Hoa vàng, như La Minh, Liu Linh Ái, Mạc Đình Độ, Liu Ngô, Khương Thân Gia, Gang Khang Lộc, Lã Mạnh Cát.

Sáu người Việt ăn theo máu Hoa, như Cao Dũng, Lê Văn Đào, Nguyễn Thanh Tùng, Trần Thị Mỹ Châu, Nguyễn Thảo Liên, Trần Thị Trang đồng cho biết:

"Họ lùa 300.000 người tị nạn vào thung lũng khu vực vùng núi cao 91, ở đây không một ai chạy trốn khoải, họ kiểm soát các điểm ra vào, chặn đường nếu có cuộc tấn công từ phía Việt Nam. Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 7 của Trung Quốc được lệnh tiêu diệt người Việt tị nạn, và mở đường xuống Nam, theo tiến quân chiều dài như đã ấn định cho cánh B. 6 cánh quân khác tiến sâu vào đường 75 Tây Nguyên, điểm hẹn lạch Đông Bắc, chiếm lấy đồng bằng núi cao 91 làm hành lang chiến lược phòng ngự. Một làng Tây Nguyên nằm ở phía Tây núi 91 của Quốc Lộ 7 gần sông, có sáu (6) nhóm người Việt tị nạn làm trở ngại cánh tiến quân, thế là bị tiêu diệt trước để bảo vệ cánh quân thông suốt không bị lộ, thậm chí làm cho hai đường dẫn dài 8 lớp bọc vào điểm A. Sau đó không ai biết 300.000 người tị nạn âm thầm, bí mật mất dấu, và sáu nhóm người tị nạn đang ở đâu? Không ai biết số phận của họ và tài sản trên lương người tị nạn đi về đâu? Ai là người chủ mưu ăn cướp trong lúc chiến trường tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc đang sôi bung, cho đến hôm nay (1987) chưa có hồi đáp".

Người dân vượt qua sông Hồng tại biên giới Việt-Trung.
Nguồn: Trương Hoán Tùng
Theo lời của một phế binh Gu Kemei, nguyên cựu chiến binh sĩ quan tham chiến ngày 23/02/1979 hiện cư ngụ tại thủ phủ Côn Minh cho biết: "Lúc 12:20 giờ, tôi dẫn đầu một đại đội tăng viện cho Sư đoàn trưởng Yin-Pei, sau đó tất cả trải rộng 6 lớp tăng cường thêm hai khẩu đại pháo, từ vùng cao nguyên phía Đông Bắc gần với sông 75. Một lớp quân khác được chia thành ba nhóm thay nhau qua sông. Tới trung tâm của sông, đột nhiên tìm thấy kẻ thù (VN) phía trước bên phải, giết chết sạch kẻ thù, không chần chờ, nhanh nắm bắt các sườn núi bên kia sông, đã có 2 nhóm làm phòng ngự trên sông để nối lại tiến quân.

Một đại đội khác vào làng phía Nam tìm được liên lạc lãnh đạo trung đội trinh sát và lãnh đạo đội hình, biết mọi chi tiết địa hình chung quanh làng. Lãnh đạo quyết định để lại một nhóm phòng bị nếu có đột biến bên phải. Cho đại pháo chụp xuống đầu quân đội Việt Nam, súng máy liên thanh từ trái tiến lên, tôi dẫn 3 nhóm đi đầu cùng với trung đội trưởng, thay thế vào chỗ phòng ngự bằng ba đại đội (13, 10 và 3) để vượt sông. Tìm kiếm các vị trí pháo binh của đối phương, liền chạm mặt chiến trường, cách bản làng 50 mét, do sư đoàn trưởng Yin-Pei chỉ đạo, cho một nhóm binh sĩ chiếm địa hình thuận lợi nhất, có bóng mát che khuất để tiến gần kẻ thù, 16 súng trường của nhóm Mengsao tấn công, lấy được tám mạng sống kẻ thù, thu giữ 7 khẩu súng trường bán tự động và súng lục. Đột nhiên phát hiện, có một kẻ thù từ bụi cây rậm gần chúng tôi, chạy vào hầm trú ẩn trong một gốc cổ thụ, thế là chúng tôi giết sạch, khi kéo xác ra ngoài hơn 100 người, mới biết thường dân, trên lương vẫn còn ba-lô đầy ấp đô-la, không sai chính họ là người Việt tị nạn".

Trước và sau chiến tranh ông Đặng Tiểu Bình thường chửi bới Việt Nam sợ ngớ ngẩn, toàn là những thằng khờ, một chư hầu mất dạy v.v... Thế nhưng khi tôi được báo cáo, số liệu sơ khởi tại chiến tranh Việt Nam bị tổn thất:

Tử trận: 26.000 người
Bị thương: 37.000 người
Quân dụng: 260
Xe tăng đã bị phá hủy: 282 chiếc
Các xe bị phá hủy: 490 chiếc
Mất các loại pháo: 670
Súng máy liên thanh mất: 3100.

Cho đến nay tôi không biết thêm chi tiết nào về cuộc chiến này!

 

Ngựa thồ 4 ngày chưa tải hết tài sản
của người Việt gốc Hoa.
Nguồn: Trương Hoán Tùng

Anh Hứa Bông Linh cho biết tiếp:

─ Trong khi ấy có một bí ẩn khác, họ loan tin chuyển 300.000 người Việt tị nạn đến làng Maguan Vân Nam Trung Quốc, tôi khả nghi một chút khác thường đối với thế giới tị nạn, tuy rằng biết mà cố im lặng, bởi số người trên không phải đến từ thung lũng khu vực vùng núi cao 91, chẳng qua đây là tráo trở trừ hậu chiến tranh.

Một tráo trở khác, Trung Quốc khởi động chiến tranh, tạo Đông Dương nóng, lấy Việt Nam làm thí điểm, trước đó một năm Trung Quốc tổ chức kiên cố xây "thành lũy thép" biên giới, ngoài ra Trung Quốc còn thành lập thêm các binh đoàn Pắc Bó. Cùng với các lực lượng chủ lực dân-quân gồm người thiểu số địa phương, tổng số lực lượng phòng thủ biên giới Việt-Hoa lên tới 600.000 người. Ðồng thời, họ cũng duyệt xét lại chiến lược và chiến thuật phòng thủ, chia Ðông Dương thành những mặt trận, như mặt trận A dọc theo biên giới Việt-Hoa, mặt trận B dọc duyên hải Bắc-Việt, mặt trận L ở Lào, và mặt trận K từ Căm Pu Chia tiến qua hướng Cao nguyên Việt Nam.

Theo báo cáo Trung Quốc, ấn định chiến tranh từ tháng 4/1978 đến tháng 6/1979, tại miệng tỉnh Vân Nam, khu tự trị Choang Quảng Tây, Bằng Tường và dòng người tị nạn Đông Hưng cảng Việt Nam sẽ là nội lực ứng chiến. Nhưng không biết lý do nào ngày 17/02/1979 cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba đến sơm hơn dự định kế hoạch chiến tranh.

Phó Như Bá nói thêm :

─ Các bạn biết không, có một báo cáo khác của chính phủ Trung Quốc về người tị nạn:
Năm 1977-1987 tất cả người tị nạn Châu Á cư trú tại Trung Quốc, tổng số 26.500.000 người, phân bố ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến, Giang Tây, sáu tỉnh (khu vực) và 196 đơn vị giải quyết, người tị nạn gồm co sắc tộc Karen, Shan đến từ Miến Điện, Hồi, Ân, Bắc Hàn v.v... Đông Dương có Căm Pu Chia, Lào và riêng người Việt chiếm 70% tị nạn.

Theo thông lệ UNHCR, người tị nạn nói chung được đặt trong trại tị nạn chuyên dụng và theo quy ước UNHCR, những người tị nạn được phép xin tị nạn ở các quốc gia thứ ba, mà họ có ước định đến. Thế nhưng chính phủ Trung Quốc áp dụng chính sách riêng ngược lại quy ước UNHCR, không cho người tị nạn định cư theo quy ước quốc gia thứ ba, và không đưa người tị nạn hội nhập xã hội.

Trung Quốc viện dẫn, "Người Đông Dương gốc Hoa hồi tịch, với tư cách tị nạn tạm cư trú tại biên giới của đất nước họ, hợp với điều kiện khí hậu, địa lý, ngôn ngữ, phong tục và tính nguyên gốc của công việc có liên quan". Thực chất Trung Quốc áp đặt người tị nạn phải sống theo sắp xếp của chế độ CSTQ.

Nói khác hơn, hầu hết người Việt tị nạn sống tại các làng của nhà nước CS Trung Quốc đã ấn định, đem thân làm cày trên bưng ruộng bậc thang. Lâm nghiệp cạo mủ Cao su, trồng cây Bạch đàn, Bồ đế v.v... Ngư nghiệp nuôi trồng thủy sản tại các hồ nước cao nguyên. Tất cả mọi người ở đây sống theo biên chế hội nhập nô lệ .

Hứa Bông Linh nói tiếp:

─ Nói và hành động của CS Trung Quốc hoàn toàn trái ngược với người có lương tâm, chính quyền Trung Quốc đứng trước UNHCR tuyên bố: "người Việt gốc Hoa trở về nguồn dân tộc, văn hoá, gia tộc và Trung Quốc đã ít nhiều liên kết". Thế nhưng, người Việt tị nạn chưa bao giờ được hưởng quyền tị nạn, chưa nói đến quyền của một công dân Trung Quốc. Cuộc đời của chúng ta bị đảng CSVN bài Hoa, rồi đến đảng CSTQ từ chối gốc tịch Hoa!

Do đó đại đa số người Việt tị nạn hay có máu Hoa không có ý định chọn lựa đời sống mãi trên đất Trung Quốc, tất cả là nạn nhân của hai đảng CS, đang sống biệt lập về ý thức dân tộc từ lúc làm thân tị nạn (1979-1987). Cộng đồng người Việt tị nạn không thừa nhận "mô hình nhân đạo" theo kiểu Trung Quốc, nói đứng hơn là chúng ta đang sống dưới một chế đệ phong kiến theo kiểu Khổng Tử Trung Quốc, không riêng gì chúng ta, ngay cả người dân Trung Quốc cũng làm nô lệ đời đời cho đảng CSTQ.

Nhìn chung, năm 1979 làn sóng nguời Việt gốc Hoa đến Trung Quốc, được chính phủ Trung Quốc công nhận "tị nạn", hầu hết người Việt tị nạn sống ở Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Châu, trong các ngôi làng biên giới và các trang trại. Cho đến nay danh tính của người Việt tị nạn chưa được giải quyết, người Việt tị nạn sống theo hai hình thức tập trung và phân cấp theo địa lý đặc biệt. Nào ai biết khi làn sóng lớn bài Hoa, buộc phải rời khỏi Việt Nam đến tỉnh Vân Nam vào năm 1977 ... Tính cho đến nay (1987) tỉnh Vân Nam nhận tổng cộng 6.410.000 người tị nạn Châu Á, và người tị nạn Đông Dương đến Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Châu hơn 4,5 triệu người, họ sống theo 9 khu vực biên giới của 15 quận và 24 nông trường.

Tôi không ngờ những người Hoa đỏ, thẳng thắn luận về chế độ Trung Quốc, dù ngồi nghe mãi vẫn có cảm giác thú vị, không chán. Để ý thấy hai anh Hứa Bông Linh và Phó Như Bá hút thuốc rê cuốn bằng tay, hút liên miên vừa bỏ xuống điếu thuốc này, tức thì tay se điếu khác, anh Hứa Bông Linh vỗ vai anh Phó Như Bá nói:

─ Thời gian qua mau đã xế chiều, chúng mình về để anh, chị, em họ nói chuyện riêng, nào Bá về nhà tao?

Tôi vội đứng lên và nói:

─ Quý anh chờ em một chặp rồi hãy về.

Tôi chạy vào nhà trong lấy hai cây thuốc lá 555, tặng quà cho hai anh Hứa Bông Linh và Phó Như Bá, anh Linh cũng không ngờ trước chuyện tặng quà đột ngột nói:

─ Đa tạ chú em, ở rừng mà hút được ba con số 5 quả nhiên là tiên hạ giới.

Anh Phó Như Bá cười nói:

─ Anh Linh, "hạ giới" là tiếng "lóng" bỏ làng đi sống nơi khác, chẳng nhẻ anh cũng có ý này à? Trước khi bỏ làng phải có thẻ nhận diện ID, sau đó có tiền và phương tiện sống, nếu hạ giới khơi khơi, trước sau gì cũng phải về lại làng và tiếp tục sống ở cõi thiên đường này thôi! chuyện này không nói anh cũng phải biết, xin anh đừng giỡn bóng "hạ giới".

─ Thế thì, mày nghĩ sao cũng được, tao đếch cần cái làng này, sao mày có muốn hạ giới với tao không? Tất cả anh, chị, em hãy chuẩn bị hạ giới nhé?

Tất cả mọi người đồng ồ lên cười, anh La Minh đáp:

─ Thưa quý anh, chúng em cũng muốn hạ giới lắm, nhưng mà không có phương tiện, nếu hạ giới ẩu, hóa ra mình tự vào tù sẽ bị cô lập trong rừng sâu hoang vắng, nếu anh Linh thấy nơi nào hạ giới tốt thì đừng quên chúng em nhé?

─ Đương nhiên, được rồi đến đó sẽ hay, thôi chúng tôi về, một lần nữa cảm ơn chú em tặng quà phì phà rất có ý nghĩa. Chú em nhớ lần sau gặp lại hai cây thuốc đó nhé? Nếu không có thì chúng tôi đuổi chú em ra khỏi làng.

─ Dạ, em vâng lời quý anh ạ.

Cả hai anh Hứa Bông Linh và Phó Như Bá đã kiếu từ, còn lại không gian của anh, chị, em chúng tôi, lúc này tôi mở ra một ba-lô và nói:

─ Thưa quý anh, chị mỗi người đều có một phần quà, quà này không phải của Tâm mà chính của gia đình quý anh, chị gửi đến, trước đây ròng rã hai năm, Tâm phải bắt lại liên lạc với gia đình của quý anh chi ở bên nhà mới có kết quả hôm nay, xin quý anh chị tự nhiên tiếp nhận phần của mình theo tên họ trên bao quà.

Mỗi người nhận quà rất vui và nô nức mở ra từng bao quà một, trên khuôn mặt của anh, chị, em bỗng hồng hào hẳn ra, giống như một thời, chúng tôi đã từng đi tặng quà cho các em tại những Cô Nhi Viện Sài Gòn vào dịp Tết. Còn bây giờ quý anh, chị, em chỉ biết khóc không biết cười, tôi cũng khóc theo vì trong những thư ấy có ít nhiều nói về những kỹ niệm thời thơ ấu của chúng tôi.

Sau tám năm bạn tôi sống chết trong rừng sâu, giá lạnh và khổ hơn người bị lưu đày, nay gặp lại bạn, nhận được thư nhà, đem lại cho anh, chị, em hồi sinh mới, mỗi người nhận được trên hai mươi lá thư và một bao thư tiền, có chị bảo:

─ Số tiền này "hạ giới" đi tìm thế giới tự do được rồi.

Có anh nói:

─ Độc thân thì được, nếu gia đình đông người không được.

Linh Ái đề nghị:

─ Số tiền này, tập trung vào một người, nhờ anh Vinh Cút kít quản lý, và cử ai có khả năng sinh lợi "hạ giới" trước, một người đi để cứu nhiều người, tôi đề nghị chị Trang đi trước vì chị là Bác sĩ có khả năng sinh lợi, người thứ hai là anh Minh vì anh là họa sĩ thành danh tại Hong Kong, ai có ý kiến gì không?

Vinh đáp:

─ Ý kiến của Ái rất hay chúng ta quyết định như vậy đi.

Tất cả đồng ý và chị Trang hỏi tôi:

─ Tâm là người ngoài làng, biết cách chạy có thẻ ID, như vậy trước hết mọi người phải có thẻ ID và chọn nơi nào để sinh lợi, cũng là nơi liên lạc trong và ngoài làng, xin Tâm có ý kiến trước khi tập thể lấy quyết định.

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói liều mình:

─ Thưa chị Trang, em sẽ vận động cho mọi người có thẻ ID, nhưng có điều kiện không được cho bất cứ ai biết, kể cả thân nhân của mình và đây là địa chỉ liên lạc trực tiếp Côn Minh với Paris, chị Trang đến Côn Minh trước, tiếp theo anh La Minh đi Hong Kong, kế đó là Mỹ Châu nguyên là Y tá có khả năng làm việc với chị Trang, theo Tâm biết trên đất Trung Quốc đang thiếu Bác sĩ và Y tá. Quý anh chị suy nghĩ thế nào?

Tất cả đưa tay lên đồng ý đề nghị của tôi, riêng về tâm trạng của tôi, miệng đã thành lời hứa, khó từ chối, tuy biết khó làm mà vẫn phải liều mạng. Hiện thời anh, chị, em cũng không hiểu lý do nào tôi có thẻ nhận diện ID và đến được làng với trên lưng trách nhiệm, nào là thư và tiền không bị mất cắp.

Tất cả trở lại cười vui sau cơn khóc lóc, mọi người đồng lạc quan khi nghe sẽ có thẻ ID, người Việt tị nạn có thẻ nhân diện ID xem như cơ may đã đến và hy vọng "hạ giới" an toàn cho sự sống trở lại, đi ra từ cửa chết.

Đến đây ai cũng hy vọng và lạc quang tiếp tục sống, anh Vinh nói:

─ Thôi, đêm đã khuya chúng ta đi ngủ, chúc cho nhau người người nằm mơ thấy thẻ nhân diện ID trên tay.

Mỗi người một cái mền "biên giới", trùm kín mít, nằm trên những tấm phên tre thưa, tôi thấy anh, chị, em ấy ngủ bình an.
Huỳnh Tâm

* Tiếp theo bài viết trước (Bốn ngày đêm biên giới Trung Quốc-Việt Nam)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét